Pages

Saturday, November 26, 2016

CẦU MÁI LÁ - XUÂN VŨ - CHUYỆN BỘ ĐỘI - TRUYỆN VÕ KỲ ĐIỀN


CẦU MÁI LÁ


Cầu lợp mái lá độc nhất vô nhị ở Việt Nam
ĐỜI SỐNG | 07:44 Thứ Tư ngày 13/04/2016


Được xây dựng từ thời Lý, cầu Thượng ở làng Kênh (huyện Trực Ninh, Nam Định) là cầu mái lợp lá duy nhất còn lại tại Việt Nam.



Cầu Thượng ở làng Kênh, thị trấn Cổ Lễ (Trực Ninh, Nam Định) được xây vào đời Lý sau khi triều đình cho đào một con kênh dẫn nước từ sông Hồng vào để tưới tiêu cho cả một vùng thuộc trấn Sơn Nam hạ.





Con đường độc đạo dẫn tới chùa Cổ Lễ, ngôi chùa lớn nhất khu vực được xây vào thời vua Lý Thần Tông (trị vì từ năm 1127 đến 1138) cách làng 4 cây số đã bị cắt ngang bởi con kênh đào, khiến việc đi lại trở nên khó khăn cho các Phật tử. Theo các bậc cao niên, khi đó một phụ nữ giàu có nhưng không có con đã bỏ tiền xây dựng cầu cho bà con đi lại.





Cụ Lương Thế Hoạt, 85 tuổi, cho biết theo tiền nhân kể lại thì toàn bộ hệ thống mố cầu xưa kia được làm bằng đá xanh nguyên khối, nặng hàng tấn, vận chuyển bằng bè theo đường sông Hồng. Những thợ mộc có tay nghề cao khắp trấn Sơn Nam xưa được thuê về dựng cầu.




Cầu có 5 gian, dài hơn 10 m, rộng 4 m, cao 3 m tính từ mặt sàn lên, hai bên đều có bục để ngồi. Từ sơ khai, mái cầu được lợp bằng cây bổi (cây cói) chứ không lợp ngói, do bổi nhẹ hơn, xốp hơn, chịu được gió bão. Chỉ khi nào lớp bổi đã mục thì người dân lợp lớp mới. Ngày nay, cầu được lợp bằng lá cọ.




Cầu đã được tu bổ nhiều lần với quy mô lớn vào các năm 1883, 1904 và 2014. Trong khi tu bổ, đặt thượng lương, thợ đều khắc ghi trên hệ thống vỉ cột bằng chữ Hán.




Hệ thống cột cũ đan xen với cột mới cùng những dây níu mái bằng mây đan hình đồng tiền rất đẹp mắt.




Mặt sàn, khung cầu, vì kèo mái đều được làm bằng gỗ lim, trải qua hàng trăm năm vẫn không mối mọt.




"Trước đây mỗi buổi trưa hè, người dân thường ra cầu nghỉ ngơi, hóng mát, buổi tối trai tráng trong làng luyện tập võ nghệ ngay phần sân trước cầu", ông Lương Minh Lại, người sống gần cầu cho biết. Trên bục cầu hiện vẫn còn khắc một bàn cờ cổ do người xưa lên cầu chơi cờ để lại.





Căn cứ hệ thống chữ Hán khắc trên vỉ kèo, cột, Phòng Quản lý di tích, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cho biết, cầu Thượng làng Kênh là cây cầu gỗ mái lợp bổi duy nhất ở Việt Nam.

VIẾT TỪSAIGON * CAO SU

Từ bao cao su qua sử dụng đến đập cao su quá hạn


Chúng ta đang sống trong thời đại cao su, thời gian cao su, lời hứa cao su, gạo cao su, thạch lựu cao su, trà trân châu cao su… và chính trị cao su. Chính trị Việt Nam là một loại chính trị với đầy đủ tính chất cao su của nó, từ cái bao cao su đã qua sử dụng của luật sư Cù Huy Hà Vũ cho đến những lời thề cao su kéo từ quốc hội 13 qua quốc hội 14 và cái đập cao su đang treo lơ lửng hàng triệu khối nước trên đầu nhân dân.
Điều đó cũng cho thấy não trạng của chúng ta đang bị kéo giãn như cao su và nhân cách hay phẩm hạnh của con người cũng bị kéo giãn như cao su. Cái lực đàn hồi cao su trong đời sống chính trị Việt Nam đã kéo giãn mọi thứ và hệ quả của nó là cả một đất nước uốn éo, co giãn, óc ách theo vũ điệu cao su. Ngay cả trong lời nói của giới lãnh đạo chóp bu cũng bôi đầy dầu mỡ và đàn hồi theo kiểu cao su siêu bền.
Sở dĩ phải nói những lời phát biểu của lãnh đạo Cộng sản Việt Nam bôi đầy dầu mỡ và chuyển động theo vũ điệu cao su là vì mọi thứ của họ nói ra không tuân theo nguyên tắc của lương tri và uy tín hay sự thật mà dựa trên qui luật nóng lạnh trong bầu không khí chính trị nội bộ. Hay nói cách khác là nó tuân thủ qui luật đấu đá, kèn cựa và phủ phục, cương nhu cao su.
Vì sao nói rằng nó tuân thủ theo luật đấu đá, kèn cựa và phủ phục? Có mấy dấu hiệu và mấy ví dụ để thấy điều này (đương nhiên đây là ví dụ điển hình có tính chất lặp đi lặp lại, thường xuyên). Ví dụ như lời phản đối của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam về tình hình biển Đông. Các ông/bà này từng nhiều lần lên truyền hình bắn tiếng phản đối Trung Quốc khai thác, xây dựng và tranh chấp bất hợp pháp trên Biển Đông.
Lời phản đối của họ lặp đi lặp lại nhiều lần và tạo ra cảm giác có một tấm màn cao su đang phủ lên ngôn ngữ của họ, nó uốn éo, nhảy múa theo nắng mưa, thời tiết nhưng nó chẳng có giá trị gì về mặt chính trị hay ngoại giao mặc dù đó là một thông điệp chính trị và ngoại giao của một quốc gia! Và sâu xa hơn thì nó uốn éo theo sự nóng lạnh của bề trên từ Trung Quốc.
Thêm, chuyện các bản tin truyền hình của nhà nước luôn đưa tin về các loại thực phẩm bẩn, nguy hại có nguồn gốc Trung Quốc và kêu gọi các cơ quan chức năng vào cuộc. Nhiều quan chức có thẩm quyền trong lĩnh vực lương thực cũng từng lên tiếng hứa sẽ không để thực phẩm độc hại lọt vào Việt Nam. Họ hứa đã gần mười năm và càng về sau thì mức độ thâm nhập của thực phẩm độc hại vào cơ thể người Việt càng cao. Hệ quả là Việt Nam có tỉ lệ ung thư cao nhất thế giới!
Rồi lời hứa chống tham nhũng, lời tuyên thệ chống tham nhũng, làm sạch bộ máy nhà nước của không biết bao nhiêu đời Thủ tướng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư… Tất cả những lời hứa, lời thề của họ co giãn và trơn tru như cao su đã bôi trơn. Nó không những không có tác dụng thực tiễn mà nó còn phản thực tế. Họ càng hứa, càng nói quyết tâm chống tham nhũng bao nhiêu thì tham nhũng phát triển càng tàn bạo bấy nhiêu, đất nước càng mau suy sụp bởi trò chống tham nhũng của các ông các bà này.
Chưa dừng ở đó, tính chất và lề lối cao su đã nhiễm vào não trạng của các ông cá bà, thay vì nghĩ đến một chiêu thức hay một đòn hiểm nào đó để hạ đối thủ, hạ các nhà dân chủ, các ông cà bà hay nghĩ đến cao su. Và cao su đã mang lại cho ngành an ninh Việt Nam một vó đáng nể qua việc dùng chiếc bao cao su đã qua sử dụng để làm bằng cớ, làm sức mạnh thực thi pháp luật mà bắt Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ.
Vấn đề chiếc bao cao su đã qua sử dụng ở đây không còn là vấn đề bẩn hay sạch trong trò chơi chính trị hay thủ đoạn gài bẫy đối phương mà nó cho thấy một hệ thống y thức hệ cù nhầy, nhẽo nhợt giống như cao su. Người ta không từ bỏ bất kỳ hình thức hay nội dung dơ bẩn nào, miễn sao là đạt được mục đích mặc dù cái mục đích ấy khiến cho họ phải mang một cái bao cao su khác lên danh dự và uy tín. Điều này chỉ có người Cộng sản mới đủ táo bạo mà nghĩ và làm!
Cái nếp nghĩ cù nhầy, lì lợm, trân tráo và lần khân kiểu cao su ngày càng phát triển mạnh trong hệ thống lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam cũng như bộmáy nhà nước trực thuộc đảng. Bằng chứng của vấn đề này là cái thời hạn lãnh đạo, thời hạn ngồi ghế quyền lực của các ông bao giờ cũng kéo dài theo lối cao su, kéo mãi bao giờ hết khả năng bám víu và đứt dây thì mới chịu về vườn.
Từ nhiệm kì quyền lực cho đến hạn sử dụng cam kết trong hệ thống nhà nước Cộng sản đều là cao su. Và đáng sợ nhất là vụ gần đây, đập cao su Nam Thạch Hãn, Quảng Trị chỉ có hạn sử dụng mười năm, được lắp đặt năm 2000. Cho đến năm 2010 đã hết hạn sử dụng và yêu cầu kĩ thuật của cái đập này là phải thay thế một cái đập khác nhằm đảm bảo tính mạng hàng chục ngàn người ở phía hạ lưu. Bởi trường hợp cái đập này vỡ, hàng chục triệu mét khối nước sẽ đổ ập xuống và cuốn phăng mọi thứ bên dưới.
Thay vì thay nó đi, người ta đã kéo dài sự tồn tại của nó ngót nghét sáu năm nay và không biết sẽ kéo dài bao lâu nữa bằng cách dùng nêm gỗ quấn vải mùng tuyn đóng vào những lổ thủng để tránh chảy thành vòi. Kiểu làm này nhằm che đậy tai mắt nhân dân chứ chẳng có ý nghĩa gì trong việc bảo vệ hay phục hồi đập. Bởi sự không đồng chất giữa gỗ và cao su sẽ nhanh chóng làm cho cao su bị hỏng, bị toạc và hậu quả khó mà lường được mức độ nguy hiểm khi thân đập cao su đang bị phân rã do quá hạn sử dụng.
Nhưng vì sao những kẻ có trách nhiệm lại làm việc hết sức ngu ngốc và ầu ơ như vậy? Bởi vì tâm lý của họ cũng là loại tâm lý cao su. Nó co giãn tùy vào nhiệt độ của cấp trên. Người ta làm việc không dựa trên cơ sở khoa học mà căn cứ trên thái độ của bề trên. Nếu bề trên không nhắc nhở, không rót về một cục tiền thì cứ làm thinh mà lượm rỉ rả, ai sống ai chết cứ mặc kệ!
Cái nếp nghĩ, thói quen và não trạng nặng mùi cao su của hệ thống cầm quyền từ trung ương xuống địa phương đã không còn cảm giác sợ hay nhân tính. Người ta quên mất tính mạng hàng triệu sinh linh bên cạnh người ta, thậm chí có cả người thân của họ. Dường như chung quanh suy nghĩ của hệ thống cầm quyền đã bị bọc bở một lớp màng cao su có pha nhầy khiến cho linh giác, tư duy và tình cảm của họ lệnh lạc, mù mờ, thậm chí câm điếc.
Và nói cho cùng, từ chiếc bao cao su đã qua sử dụng cho đến chiếc đập cao su chịu đựng hàng triệu khối nước đã quá hạn sáu năm trời và được gia cố bằng cách đóng đầy nêm gỗ quấn vải mùng tuyn là một thành tựu về nếp nghĩ, tư duy và tính cách cao su của chế độ. Một chế độ mà từ lãnh tụ, nhân sự cho đến kế hoạch, chủ trương, đường lối, chính sách đều mang bóng dáng cao su, đều thể hiện đầy đủ tính chất cao su của nó!

Thursday, April 14, 2016

NGUYỄN THANH LIỆM * VĂN CHƯƠNG XUÂN VŨ

Ý THỨC NHÂN BẢN TRONG VĂN CHƯƠNG XUÂN VŨ


       Nguyễn Thanh Liêm



 [Xuân Vũ tên thật là Bùi Minh Triết sinh ngày 19-3-1930 tại làng Hương Mỹ, quận Mỏ Cày, tĩnh Bến Tre. Thân phụ là cụ Bùi Văn Hai, giáo chức, có sáng tác cả ngàn bài thơ Đường luật nhưng không có phổ biến. Lúc nhỏ học trường Tiểu học Mỏ Cày, rồi vào Collège Le Myre De Vilers. Năm 1945 ông bỏ học đi theo Kháng Chiến, vào chiến khu U-Minh làm phóng viên cho tờ “Tiếng Súng Kháng Địch”của Khu 9. Năm 1955 ông tập kết ra Bắc làm biên tập viên cho báo “Văn Nghệ.” Sau một thời gian sống ở Hà Nội, ông rất thất vọng với chế độ Cộng Sản do Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông lãnh đạo. Xuân Vũ nhiều lần tìm cách trốn về Nam nhưng lần nào cũng thất bại. Mãi đến năm 1965 ông mới có cơ hội chánh thức xin về Nam để nghiên cứu phong trào Đồng Khởi tại tĩnh nhà (Bến Tre). Oâng được chính quyền Hà Nội chấp thuận cho đi B (tức là vượt Trường Sơn đi vô Nam). Oâng phải mất hai năm gian nan nguy hiểm trên đường Trường Sơn mới vào được tới chiến khu D ở Tây Ninh vào năm 1967. Năm sau ông quyết định trở về với chế độ tự do. Oâng ra trình diện với chính quyền tĩnh Bến Tre, được đưa về Sài Gòn phục vụ trong Bộ Chiêu Hồi, với chức vụ Phó Giám Đốc Nha Chiêu Hồi. Quyển hồi ký nổi tiếng của ông, quyền “Đường Đi Không Đến,” được ra đời trong năm 1971 và được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Quốc Gia (1972-1973).

 Năm 1975 gia đình ông sang định cư ở Corpus Christi, Texas. Oâng phải làm lụng vất vả đủ nghề để nuôi sống gia đình. Năm 1987 ông dời về San Antonio (Texas). Khi việc gia đình tạm ổn định ông bắt đầu viết lại, và viết rất hăng say. Tính đến cuối năm 2003 ông đã hoàn tất 78 tác phẩm. Từ tháng 9 năm 2003 ông bắt đầu bị đau, phải đi lộc thận. Tháng 11/2003 ông phải giải phẫu tim. Bệnh biến chứng sau đó, và cuối cùng ông mất hồi 2:22 phút chiếu ngày 1-1-2004, hưởng thọ 73 tuổi, để lại một vợ 5 con.]       

Đầu năm 2004 một hung tin đã đến với các văn nghệ sĩ và một số không nhỏ đồng bào Việt Nam hải ngọai: nhà văn Xuân Vũ đã từ trần. Tin này được phổ biến nhanh chóng và rộng rải. Không biết bao nhiêu bài vở được đăng trên các báo chí nói về nhà văn nổi tiếng này. Riêng tờ “Tự Do” số 372 (từ ngày 14-02-04 đến ngày 27-02-04) đã dành hơn 100 trang (từ trang 110 đến hết trang 223) đăng bài nói về Xuân Vũ của hơn mười văn thi sĩ nổi tiếng như Xuân Tước, Hồ Trường An, Hải Bằng, Thanh Thương Hoàng, Hà Thượng Nhân ...Bài nào cũng rất có giá trị, cũng đều nói lên sự nghiệp văn chương sáng chói cũng như con người đáng thương, đáng kính, và đáng quý của nhà văn quá cố. Các tác giả ở đây là những người đã từng thân thiết và biết rõ Xuân Vũ. Bài vở của họ cho chúng ta nhiều chi tiết rất đặc biệt về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Điểm nổi bật trước nhất là sức viết và khối lượng tác phẩm khổng lồ của ông. Trước 1975 tác phẩm của ông không có gì đáng kể về phương diện số lượng. Những năm đầu tiên trên đất Mỹ, vì bận làm việc nuôi thân và gia đình, ông cũng không viết được gì nhiều. Nhưng, “sau một số năm làm việc “ra tiền” nhưng không “ra chữ” kia, Anh (Xuân Vũ) đã quay lại bàn giấy để chuyên tâm trở lại cái nghiệp của mình.” (Trương Anh Thụy, Tự Do Bi-weekly, số 372, tr. 192.). Thầy Đồ Họ Tăng đã rất ngạc nhiên về sự quay trở về nghề viết này của Xuân Vũ. Thầy Đồ đã có lần nghĩ một cách sai lầm là “anh chàng lãnh giải thưởng của “hai chế độ thù nghịch này” sẽ không chung tình với nàng văn chương nữa đâu.” Nhưng Thầy Đồ thú nhận rằng:”đồ tôi đã lầm, Xuân Vũ dọn về San Antonio, anh lại viết khỏe hơn, liên tiếp những tác phẩm đánh lớn và ăn khách xuất hiện.” (Thầy Đồ Họ Tăng: Xuân Vũ, giơ cao cây viết tới những ngày cuối, bài chưa đăng).  Ông Lê Tùng Minh trong bài “Xuân Vũ, Một Ngôi Sao Văn Học Đã Tắt,” cho biết nhà văn này “có sức sáng tác khác thường! Chỉ trong vòng 8 năm gần đây (1996-2003), mỗi năm nhà văn tuổi 70 này đã cho ra đời trung bình là 4 tác phẩm, với khoảng trên dưới1,000 trang...” (nt., tr.152). Cũng Trương Anh Thụy, nói về sức sáng tác và số lượng tác phẩm lớn lao của Xuân Vũ, viết: “ Anh đánh Đông, chinh Tây, viết ào ạt, viết đủ thứ...Anh đều đặn có mặt trên khoảng 20-30 tờ báo hải ngoại...Theo như một ước tính, có lẽ còn chưa kể các bản thảo hay những tác phẩm chưa hoàn tất, tổng tác phẩm của Anh cho đến nay đã lên tới 75 nhan sách, truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, truyện trường thiên, rồi hồi ký, biên khảo...” (nt. , tr. 192). Và theo Mặc Bích thì “Gần 100 cuốn sách (nếu kể cả sách đang in hay sắp in). Người đọc có hiểu được bao nhiêu tơ mà tầm đã rút ruột nhả ra? Làm việc suốt ngày với trí tuệ, không chỉ cần mẫn mà còn say mê.” (nt., tr.112). Nhận xét của Nguyễn Thị Thanh Bình về sức viết Xuân Vũ là “Ông lúc nào cũng thấy như mình không còn nhiều thời gian để viết. Viết, viết, và viết, như thể ông vẫn còn quá nhiều điều để nói mà vẫn chưa nói hết.” (nt., tr. 180).
Những nhận xét được trích dẫn trên đây cũng đã được chính Xuân Vũ xác nhận trong bài tựa cho quyển Tự Vị Thế Kỷ (xuất bản 1990) của ông: “Tôi hiện nay tạm đủ sống, tôi bỏ mọi việc làm để chỉ viết mà thôi, viết bằng tay phải và tay trái chứ không chỉ viết bằng tay trái như năm năm đầu tị nạn bận lo cơm áo nữa...Chưa bao giờ tôi thấy tiếc thì giờ như bây giờ. Và cũng chưa bao giờ tôi thấy tôi thích cái thằng tôi như bây giờ.” (tr. VI-VII).
Ông chưa bao giờ thích “cái thằng tôi như bây giờ” vì bây giờ ông được để hết thì giờ vào việc viết lách, và có tất cả tự do để viết ra những gì ông muốn viết. Có điều là những gì ông muốn viết ra thật quá nhiều, nhiều đến đổi ông sợ không có đủ thì giờ để viết mặc dù ông có thói quen viết thật nhanh. Ông tiếc thì giờ là vậy. Nhưng những điều ông muốn viết ra là những gì? Đó là những gì ông đã đụng chạm, đã chứng kiến, đã thu nhập vào nội tâm, đã nghiền ngẫm suy tư, đã ghi sâu vào ký ức, đó là tất cả những gì đã diễn ra trước đôi mắt nhân chứng trong cuộc sống của ông, một cuộc sống thật là rộng rải, thật là phong phú. Đây không phải là cuộc sống yên ấm, chật hẹp trong nhung lụa, suôn sẻ hưởng một nền giáo dục kinh viện, kết thúc với những bằng cấp thật cao, rồi cưới vợ giàu có đẹp đẻ, chiếm địa vị nào đó trong xã hội yên bình, sống một đời dư dảsung sướng hạnh phúc. Tình thế của đất nước từ năm 1945 đã không để yên cho ông đi học hết trung học. Ông đã phải bỏ học về quê Bến Tre, tham gia phong trào cứu quốc. Ông đã ý thức được lòng yêu nước, và ý thức về sự dấn thân vào những hoạt động hữu ích cho quốc gia. Trong thời gian đi kháng chiến ở trong Nam, cũng như những tháng ngày tập kết ngoài miền Bắc ông đã học được rất nhiều, không phải là những bài học ở học đường nhưng là những bài học quý giá hơn ở ngoài đời. Là người rất thông minh, lại đóng vai trò một nhà văn, một phóng viên của tờ “Tiếng Súng Kháng Địch”thuộc Khu IX kháng chiến, ông có cơ hội tiếp xúc với hầu hết những nhân vật quan trọng, đầu não của công cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc tập kết ra Bắc cái thông minh giúp ông tạo điều kiện để gặp gỡ giới văn nghệ sĩ miền Bắc, để hỏi han, để tìm hiểu, để suy tư. Ông đọc rất nhiều sách, nhiều tài liệu về văn chương, về tư tuỏng, của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở trong nước cũng như ở ngoại quốc. Phải nói là ông biết quá nhiều về quê hương ông, về xã hội Việt Nam, miền Nam cũng như miền Bắc, và công cuộc kháng chiến oai hùng của những người đứng lên chống Pháp lúc ban đầu. Ông cũng biết quá nhiều về những nhân vật quan trọng lãnh đạo công cuộc kháng chiến về sau. Nhưng cái biết nhiều nhất và nguy hiểm nhất của ông là những bí ẩn, những âm mưu thầm kín, những giả dối lừa bịp, những tham tàn nhơ nhuốc của những kẻ cầm đầu cuộc Cách Mạng, cũng như những giáo điều cùng chế độ cộng sản, và xã hội chủ nghĩa mà ông thường mỉa mai bằng danh từ xã nghĩa. Kho kiến thức đó là kho tài liệu vô cùng phong phú để cho ông viết ra liên miên hết quyển này đến quyển khác. Mở đầu truyện ngắn “Tự Vị Thế Kỷ” ông viết: “Từ mười năm qua tôi chỉ có một đích ngắm. Viết tất cả những gì tôi biết về Cộng Sản Hà Nội ra thành chữ để ai muốn đọc thì đọc. Tập Truyện Tự Vị Thế Kỷ này là quyển thứ sáu tôi viết về Cộng sản...Viết những truyện này tôi có ý định mô tả bản chất và mặt mũi Cộng sản, không phải chung chung mà bằng xương bằng thịt, có tên có tuổi.”(Tựa Tự Vị Thế Kỷ).
Với ông người cộng sản cũng như chủ nghĩa cộng sản không có gì đáng phục, đáng đi theo. Nó chỉ là một cái vòng lẩn quẩn. “Dùng sức dân để Phá Ngục Bastille để xây ngục Bastille khác to và kiên cố hơn để nhốt dân. Đó là Cộng sản.” (Tựa Tự Vị Thế Kỷ). Ngục Bastille của Pháp thời quân chủ tượng trưng cho quyền độc đoán của nhà vua, cho sự áp bức người dân, sự đày đọa người dân trong dốt nát, khốn khổ, bần cùng,  bắt họ phải phục vụ cho giới thượng lưu quyền thế. Ý nghĩa của sự phá ngục Bastille là lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế. Tưởng người dân sẽ được giải phóng khỏi sự áp bức của chế độ độc tài bất công và bất nhân, nhưng mà không. Cộng sản chỉ đập phá, lật đổù chế độ chuyên chế của nhà vua để thay thế bằng một chế độ chuyên chế, độc tài khác gớm ghê hơn nữa của chế độ cộng sản. Nhiều tác phẩm của Xuân Vũ được sáng tạo với chủ đích vạch trần những sự chuyên chính độc tài của Cộng sản Hà Nội, cũng như những thủ đoạn lưu manh tham tàn của những người lãnh đạo chế độ phi nhân này. Ông viết : “Nhiều nhà văn, nhà chính trị, nhà trí thức và người thường – không nhà gì cả – cho rằng cộng sản là loại người không tim, không có nhân tính. Tôi đồng ý hoàn toàn. Nhưng chúng giỏi che dấu và giỏi lừa bịp. Cho nên con quỉ khát máu mang bộ mặt người vẫn sống chung được với loài người thậm chí còn được loài người tin yêu mới lạ chứ.” (Tựa Tự Vị Thế Kỷ).
Xã hội Cộng sản Việt Nam đã được Xuân Vũ vẽ ra trong hai bức tranh thật sống động, khác nhau nhưng tiếp nối lẫn nhau. Bức tranh thứ nhất là bức tranh của xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng sản Hồ Chí Minh trước năm 1975. Quyển “Sông Nước Hậu Giang” và một số các truyện ngắn trong “Con Người Vốn Quý Nhất” và “Tự Vị Thế Kỷ” của ông đã góp phần vẽ nên bức tranh này. Đặc biệt nhất là bộ hồi ký năm quyển (Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến, và Đồng Bằng Gai Gốc) mật thiết liên hệ tới bức tranh Cộng sản Việt Nam trước 1975. (Những quyển hồi ký này, nhất là quyển Đường Đi Không Đến) có giá trị đặc biệt mà tôi sẽ đề cập đến ở phần sau.

Bức tranh thứ hai vẽ lên xã hội Việt Nam sau khi bị Cộng sản thống trị từ Bắc chí Nam sau ngày 30 tháng tư 1975. Tác phẩm “Đỏ Và Vàng”, và nhiều truyện ngắn trong “Thiên Đàøng Treo Đứt Giây” và nhiều tác phẩm khác của ông đã góp phần xây dựng bức tranh thứ hai này.
Ta hãy nhìn vào bức tranh thứ nhất trước. Ngay từ lúc công cuộc kháng chiến còn dở dang mà những tệ hại của chủ trương nhuộm đỏ phong trào tranh đấu cũng như những xấu xa đen tối của những người lãnh đạo Cộng sản cũng đã thể hiện rồi. “Sông Nước Hậu Giang” cho thấy rõ bộ mặt thật của Cộng sản và những kẻ mặt người lòng thú do Hồ Chí Minh gởi từ ngoài Bắc vào Nam đóng vai trò lãnh đạo kháng chiến ở vùng này. Đây là một quyển tiểu thuyết kể những sinh hoạt của một số cơ quan trong khu IX mà nhân vật chính là anh Quang, một thanh niên có chút trình độ học vấn trung học nhưng đã bỏ học đi theo kháng chiến. Anh phục vụ trong một cơ sở ấn loát và sau đó làm phóng viên cho tờ “Tiếng Súng Kháng Địch”, tờ báo của Khu IX Kháng Chiến. Nhân vật này mang tên tiểu thuyết là Quang nhưng có lẽ tên thật của anh ta ở ngoài đời là Xuân Vũ. Quang có cơ hội biết rõ chủ trương nhuộm đỏ kháng chiến của Hồ Chí Minh như thế nào, việc thanh toán các đảng phái khác như thế nào cũng như nhiều hạng người từ hạng thật cao đến hạng cùng đinh, từ các nhà trí thức thật lớn đến những kẻ dốt đặt không đọc được một chữ nào. Quang có cơ hội làm quen với họ, chơi thân với họ, biết rõ chuyện gì xảy ra trong đời họ. “Sông Nước Hậu Giang” cho thấy trong hàng ngũ kháng chiến có nhiều hạng người: có những người đi kháng chiến là đi theo tiếng gọi của non sông khi tổ quốc lâm nguy. Họ chỉ biết làm bổn phận công dân khi sơn hà nguy biến, không nghĩ gì đến địa vị, đảng phái. Có lẽ Quang, Tú Anh, và nhiều trí thức miền Nam khác trong truyện là những người thuộc nhóm này. Bên cạnh đó cũng có những người kháng chiến khác xem cộng sản là lý tưởng cứu nguy tổ quốc và nhân loại. Những người này, ngoài ý thức phụng sự dân tộc, còn muốn gia nhập đảng cộng sản để tranh đấu hữu hiệu hơn. Họ có thể có một số cũng thuộc thành phần trí thức, địa chủ ở miền Nam. Hạng người thứ ba là hạng kháng chiến thuộc thành phần bần cố nông hay trung nông, và đây là thành phần quyết chí vô đảng cộng sản cho bằng được. Đây là thành phần được gọi là “tiến bộ” theo nghĩa của Cộng sản. Sự phân biệt các thành phần , gần như là kỳ thị giai cấp này, đưa đến hậu quả tai hại là:

“những người làm bí thư chi bộ CS đều là thành phần cơ bản, tức là bần cố nông. Do đó những người tiến bộ thường là bần cố nông. Công tác của họ là chèo xuồng, liên lạc, sản xuất, gửi giấy tờ chớ không làm nổi các việc văn hóa như đánh máy hoặc làm trưởng, phó cơ quan. Vì vậy có sự chèo ngoe là trưởng cơ quan chuyên môn luôn luôn là trí thức, còn bí thư chi bộ thì lại là bần cố! Trưởng cơ quan là người ngoài đảng khi muốn làm việc gì thuộc nội bộ lại phải có sự đồng ý của bí thư chi bộ. Muốn thi hành kỷ luật một nhân viên đảng viên, vị trưởng cơ quan phải thỉnh ý bí thư chi bộ chớ không dám quyết định một mình... Chi bộ là một thứ tổ chức nằm trong tổ chức, một thứ cơ quan nằm trong cơ quan, đôi khi lại chỉ huy ngược lại cơ quan và thủ trưởng của mình. Đó gọi là đảng lãnh đạo.” Tình trạng đặc biệt này đưa đến sự xung đột gay go giữa những giai cấp với nhau. Sự kỳ thị, xung đột còn nguy hiểm, tệ hại hơn nữa là sự tranh chấp, thanh toán nhau giữa các đảng phái chính trị, như sự xung đột đỏ xanh và sự thanh toán nhau giữa hai đảng Đỏ là cộng sản, và đảng Xanh là dân chủ. “Đỏ và Xanh là hai đồng chí cùng kháng chiến phục vụ dân tộc, nhưng đỏ lại lộng quyền và có tham vọng thanh toán đám xanh để nắm toàn bộ quyền hành...CS kết nạp thì DC cũng kết nạp. Nhưng về sau, CS thấy DC gây được ảnh hưởng lớn nên sợ hải, bèn tìm cách thanh toán DC.”  (Sông Nước Hậu Giang, tr. 140-141).

Trong mưu đồ nhuộm đỏ và thống lãnh phong trào kháng chiến,  HCM gởi những cán bộ CS cao cấp, những người thân cận với ông ta, vào Nam tìm cách thay thế thành phần lãnh đạo phong trào tranh đấu trong Nam dù họ có bao nhiêu công lao đối với kháng chiến đi nữa. Đây là sự chứng kiến của Quang:

“Quang đã về cơ quan mới... Cơ quan mới là ban Tuyên Huấn của Phòng Chính Trị Phân Liên Khu miền Tây. Từ ngày phái đoàn trung ương vào, các cơ quan quân đội trong chiến khu IX đều thay đổi từ tổ chức đến người chỉ huy. Tất cả những cấp chỉ huy khu gốc người Nam Bộ đều được đặt vào chức vụ khác hoặc không có ghế ngồi. Vì bất tài, kém đức (!?) hay vì gì khác để người ngoài trung ương vô tha hồ chia chiếu và xôi thịt.

(Mãi về sau khi tập kết ra Bắc, nhìn thấy thành phần trong chính phủ Hà Nội, Quang mới nhỡ lẽ ra là cuộc kháng chiến này là một trò bịp vĩ đại của cụ Hồ. Khi cần đưa ra đỡ đạn cà nông và chặn xe tăng Pháp thì họ kêu dân Thành Đồng Tổ Quốc nhào ra. Khi kháng chiến thành công rồi, mâm cỗ dọn lên, cụ Hồ cùng các cháu Trung và Bắc Kỳ vuốt râu chạm cốc, dân Nam Kỳ chun dưới đít ván chực xương. Đéo có mặt nào ngồi được cái ghế kha khá. Sáng mắt chưa dân Thành Đồng Tổ Cò?)(SNHG, tr.297-298).

.

Sau đây là một số các trường hợp cụ thể: “... Tư lệnh Phân Liên Khu miền Tây là tướng hô Dương Quốc Chính, chính ủy là Lê Đức Thọ kiêm Tư lệnh kiêm luôn chính ủy Liên khu Nam Bộ (Thọ thay Lê Duẩn trong chức Bí thư Trung ương Cục sau này), với tên mắt lươn Đinh Ngọc Thủy làm Trưởng Phòng Chính Trị (Sau này ra Hà Nội, Thủy được giao cho làmTrưởng phái đoàn Việt Nam đi triển lãm thành tích nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở các nước Đông Âu XHCN và Liên Xô. Tại Bucarest, Thủy quơ ẩu cô bé đoàn viên Thanh Niên cộng sản bị cô đồng chí phản đối báo cáo lên đại sứ quán VN. Thủy xấu hổ nhảy lầu tự vận nhưng không chết). Bộ Tư Lệnh Phân Liên Khu miền Đông gồm có Tư lệnh Trần Văn Trà, chánh ủy Phan trọng Tuệ. Các nhân vật trụ cốt gốc Nam Bộ được đẩy êm về vườn xúc tép cắm câu cá tra. Trương văn Giàu (không phải Trần văn Giàu) văng luôn hai chức Tư lệnh khu 8 rồi khu 9. Nguyễn văn Trấn đi Tây không về. Trịnh Khánh Vàng đáo nhậm Sài Gòn. Huỳnh văn Nghệ Tô Ký về làm tỉnh đội trưởng Thủ Biên và Bà Chợ (Bà Rịa, Chợ Lớn). Nguyễn văn Sa chính trị viên Trung đoàn Tây Đô về làm tỉnh đội trưởng Bạc Liêu ăn hút dưỡng lão đả đời. Hoàng Thế Thiện (Bí thư Võ Đại Tướng!?) thay Sa trong chức chính ủy. Tất cả chính trị viên đều do tỉnh ủy nắm. Như vậy Trung ương đã hạ bệ Nam Bộ một cách êm ru. Đám cán ngáo Nam kỳ tha hồ chửi lên cụ Hồ chơi đểu. Thằng nào dám chửi công khai sẽ có trại giáo hóa chào đón. Cán bộ tiểu đoàn vô nghỉ mát ở đây cũng nhiều. Hoàng Thọ bị Lê Duẩn mạo thơ Nguyễn Bình rồi đem đi thủ tiêu ở Cạnh Đền vào thời điểm này. Phi Líp, Phi Hùng, hai cán bộ tiểu đoàn trật quần trước mặt chính ủy Hoàng Dư Khương bị đưa vô trại giáo hóa rồi biệt tích. Kháng chiến thật diệu kỳ cho ai và chẳng diệu kỳ cho ai?) (SNHG, tr. 304-305).

Trên đây là một số trường hợp cho thấy mưu đồ xăm chiếm độc quyền phong trào kháng chiến toàn quốc của cộng sản Bắc Việt. Nhưng bên cạnh mưu đồ lớn lao kia cái tồi tệ nhất là cảnh các ông to cộng sản Bắc Việt âm mưu độc ác chiếm đoạt cho được người phụ nữ trẻ đẹp con nhà gia giáo giàu có ở miền Nam bằng mọi cách kể cả việc chia uyên rẻ thúy, đưa người yêu/vị hôn thê hay ông chồng đi vào chỗ chết để dễ dàng thực hiện ý đồ đen tối của mình. Dùng tiền của, quyền thế dụ dỗ, bức hiếp phụ nữ tuổi đáng con cháu mình để thỏa mãn thú tính, điều này không thiếu ở những cán bộ chỉ huy Cộng sản trong “Sông Nước Hậu Giang.” Những tội ác dâm ô, thác loạn của các lãnh tụ và các cán bộ cao cấp Cộng sản được phơi bày đầy dẫy trong các tác phẩm của Xuân Vũ, ngoài quyển tiểu thuyết vừa kể. Ngoài ra còn có những chuyện hết sức ghê tởm chỉ có trong thế giới Cộng sản của Hồ Chí Minh cũng được tác giả ghi ra, như chuyện một cô gái còn trẻ bị một cán bộ lớn tuổi áp bức làm tình với ông ta trên võng làm cho chiếc võng không chịu đựng nổi sức nặng của hay người vùng vẫy đã phải đứt ngang làm cho cả hai người té từ trên cao xuống những hòn đá lõm chỏm của Trường Sơn. Vì cô gái nằm dưới cho nên lưng cô bị một hòn đá nhọn đâm lủng lưng gãy xương sống, nằm yên một chỗ, không cựa quây được. Sau 3 ngày khổ sở, không thuốc men, cô này chết trong đau thương. Chi tiết này được ghi trong “Đường Đi Không Đến” và sau này được viết lại thành truyện ngắn “Lại Vốn Quý Nhất” trong quyển “Con Người Vốn Quý Nhất.” Cũng trong “Con Người Vốn Quý Nhất” còn có câu chuyện kinh tởm hơn mà không ai có thể tưởng tượng được. Đó là chuyện “Hạnh Ngộ Bọt Bèo” do một tên tù cộng sản kể về việc anh ta đã từng phục vụ trên một chiếc tàu chuyên đi từ Bắc vào Nam chở các thương binh cộng sản, nói dối là đưa ra tàu Liên Sô chũa bệnh, nhưng khi tàu ra biễn khơi thì được lệnh quăng hết tất cả thương bệnh binh xuống biển.      
Bức tranh thứ hai của Xuân Vũ cũng cung cấp nhiều chi tiết mà tác giả cho là “ly kỳ, quá sức hấp dẫn, quá sức tưởng tượng....những chi tiết không thể thấy ở đâu ngoài Việt Nam, những chi tiết không một nhà văn nào tưởng tượng nỗi...Sau đây là những chi tiết, chỉ liếc qua đã kinh tâm tán đởm. Mười cây cho một đầu người, trẻ con nữa giá. Một năm tám ngàn người được cho vượt biên – Thu: 300 triệu đô la – 600 bgàn lạng vàng – 30,000 lạng vàng,vv...Vàng ở đâu mà nhiều đến thế? Đó là của những người “làm tất cả để được bỏ nước ra đi.” Và nhờ buôn những công dân của nước mình mà nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua tay của những cán bộ có 30-35 tuổi đảng, đã thu lợi đến mức đó...”(Tựa Đỏ Và Vàng) . Tác phẩm Đỏ Và Vàng vạch trần tất cả mánh khóe vơ vét, làm tiền của chủ nghĩa xã hội, của chính phủ cộng sản và cán bộ các cấp trong việc bán tích kết vượt biên. Kế hoạch cho vượt biên lấy tiền được nghiên cứu, chuẩn bị và thi hành như thế nào, ác độc ra sao, thu vào được bao nhiêu... những chi tiết kinh khủng này được Xuân Vũ mô tả khá đầy đủ trong tác phẩm này. Giá qui định của Trung Ương là từ bảy đến mười lạng vàng, nhưng cán bộ có thể tùy ý tăng lên, đó là chưa kể các khoản trà nước khác không có trong “kế hoạch.” Tác phẩm cho thấy cán bộ thi hành kế sách đã thu hoạch được cho cá nhân và gia đình một sự sản đồ sộ. Làm tiền công khai, trắng trợn, không bao lâu cán bộ và cấp lãnh đạo giàu to, và xài tiền như nước. Sau đây là một phút phản tĩnh của một cán bộ thi hành chính sách làm tiền này:

“Cách mạng là gì? Câu hỏi đó đã được trả lời rõ ràng nhất sau khi cách mạng thành công. Khi đang tiến hành thì cách mạng thật cao cả, nhưng khi thành công rồi thì lòi bộ mặt gian trá, đê tiện và sát nhân. Khi mới bắt đầu đi theo cách mạng thì thằng này cũng như mọi người, hăm hở tự hào biết bao nhiêu. Nhưng khi cách mạng thành công rồi lại nản chí vô cùng. Lắm lúc nghe người dân bảo: “Đừng có cách mạng phải tốt hơn không?” – Hai Khiết nghĩ lan man, lan man.

Nhiều khi Hai Khiết hối hận vì đã ăn hối lộ, đã gian dâm, đã lấy công quỹ xài như nước, đã bắt dân để tống tiền, thậm chí giết oan nhiều người, nhưng với cách mạng ngày nay đó là sự bình thường. Không ăn hối lộ tiền đâu trác táng, không nạy công quỹ lấy đâu bịt mồm em út, không bốc lột nhân dân lấy đâu đấm mỏm các anh lớn. Anh lớn không phải là thần thánh, anh lớn ham xe hơi, nhà đẹp và quơ vợ bé vợ mọn hơn cả em út.

Hai Khiết không thể làm một cây sen trong hồ mà chỉ là một mớ bùn trong cái bãi bùn dưới gốc cây sen.” (Đỏ Và Vàng, tr. 150-151).
Trong khi đó thì người dân sau khi bị bốc lột đến tận xương tủy, phải sống một đời không một chút giá trị của con người. Chuyện Bố Còi trong “Con Người Vốn Quý Nhất” có thể tiêu biểu cho cảnh khốn khổ tột cùng của con người dưới chế độ cộng sản phi nhân Hà Nội.
 Đề tựa quyển Tự Vị Thế Kỷ tác giả viết:  Kỳ Cục là cảm giác đầu tiên của tôi đối với Cộng sản.... Bây giờ lưu vong. Đứng xa Cộng sản một vạn cây số, và sống trên một nước Tự do, tôi thấy Cộng sản càng Kỳ Cục.” Và cái kỳ cục đó đã được Xuân Vũ đưa vào Tự Vị Thế Kỷ của ông. Ông bảo: “Tên sách nghe có hơi khô khan, nhưng khi vở vào trong bạn sẽ bắt gặp nào bộ mặt tổng bí bị mèo quào, nào ủy viên bộ chính trị o gái bị gái mắng, nào giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc nhảy lầu tự vận vì muốn chạy tôi dâm ô, nào chánh ủy giật vợ thuộc cấp, nào đại tướng mê nhạc tím nhạc vàng, nào chính trị viên đi bia nhộng, nào đồng chí cuỗm vợ đồng chí, nào thí sinh nham nhỡ,vv... Cả một quyển Tự Vị sống mà mỗi một trang sách như một trang tự vị để bạn đọc có thể tra cứu về Cộng sản: tàn bạo, vô luân, xảo quyệt, dâm ô, lưu manh, rởm, đểu, vv...” (Tựa Tự Vị Thế Kỷ).
Vì cái kỳ cục đó mà Xuân Vũ thấy không thể nào sống được trong chế độ cộng sản Hà Nội. Ông xin về Nam sau khi tập kết được một năm. Xin về không được thì ông tìm cách trốn đi. Nhưng trốn cũng không được thành ra ông lại phải ở lại xã hội cộng sản Bắc Việt thêm một thời gian nữa. Ông lại có nhiều cơ hội để biết rõ thêm về “xã nghĩa,” về “triều đình nhà Hồ, ” và nhất là cái “không còn nhân tính của người cộng sản.” Sau cùng ông cũng được cho “đi B” tức là về Nam để nghiên cứu viết về chiến dịch Đồng Khởi. Hành trình về phương Nam của ông được ghi lại khá chi tiết trong bộ hồi ký năm quyển của ông (Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến, và Đồng Bằng Gay Gốc). Trừ Đường Đi Không Đến được viết trong khoảng 1971-72, các tác phẩm khác chỉ được viết sau này khi tác giả đã định cư ở Mỹ.

“Đồng Bằng Gai Gốc” là quyển thứ năm trong bộ hồi ký năm quyển này. Con đường về Nam là con đường núi rừng hiểm trở, nguy nan, chết chốc, mà cảnh “Mạng Người Lá Rụng”, và “Xương Trắng Trường Sơn” là hình ảnh nổi bật nhất trong ký ức của người chiến sĩ này. “Đồng Bằng Gai Gốc” là giai đoạn cuối cùng của con đường về Nam. Về đây Xuân Vũ được nhìn thấy lại quê hương Mỏ Cày ở tĩnh Bến Tre, và bà ngoại cùng những người thân khác trong gia đình tác giả. Về được quê hương, sống bên cạnh những người thân, nhưng lòng không quên được cái hãi hùng của những ngày tập kết ra Bắc. Xuân Vũ kể:

“Câu chuyện bất ngờ đưa tôi vào cái hố đau thương của dân Nam Bộ mù quáng: “Tập Kết”. Tập kết là thắng lợi của riêng Trung Ương Đảng chớ không phải của dân Việt Nam càng không phải của dân Nam Bộ. Ngược lại, đối với dân Nam Bộ là một sự phủ phàng, một sự tàn bạo, một sự lừa gạt ngọt ngào.

Tiểu Đoàn Trưởng Lê Thanh Nhàn, tức Nhàn Râu là một anh hùng dân tộc. Anh là con trai độc nhất của một ông Hội Đồng, anh có bằng Tú Tài, biết làm thơ và vẻ tranh. Đầu kháng chiến anh đứng ra chiêu tập dân làng và tiến tới thành lập bộ đội võ trang, sau này trở thành Tiểu Đoàn Chủ Lực 308. Giặc Pháp phải nể uy danh. Tám năm xông pha trên trăm trận, Nhàn Râu ra Bắc được gì? – Tù!!...

Riêng những đơn vị Nam Bộ ra Bắc thì mất phiên hiệu, một số làm lính giữ ngựa cho triều đình nhà Hồ, số còn lại thì đi phá rừng Lam Sơn, rừng Xuân Mai. Trong số này có không ít những người bất mãn bỏ ra dân làm nghề vô danh hoặc lên rừng cạo đầu làm Mán, Mường...kể không xiết nỗi đau buồn. Đến khi cần thì Đảng Bác gọi lại, đem đút vô lò sát sinh Trường Sơn...

Đảng Cộng Sản sinh ra để làm hai việc: nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ làm là làm bậy. Xin đọc giả nhớ giùm cho như vậy. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi.” (ĐBGG, tr.334-335).
Về đây Xuân Vũ có cơ hội biết rõ hơn sự tuyên truyền láo khoét của Cộng sản Hà Nội. Những anh hùng cách mạng mà Cộng sản Hà Nội vẽ ra để tuyên truyền, để đề cao lòng ái quốc, để dụ dỗ người khác noi theo đều không đúng sự thật. Nguyễn Văn Trỗi có chết nhưng không chết anh hùng như Cộng sản vẽ ra. Nữ anh hùng Tạ Thị Kiều cũng chỉ là chuyện thổi phòng một cách lố bịch để tuyên truyền. Còn bao nhiêu chuyện khác nữa do các văn thi sĩ Cộng sản nặn ra để đề cao những đảng viên bần cố nông với lòng yêu nước và sự hy sinh thật là lố bịch chưa từng thấy trong lịch sử anh hùng của dân tộc.
Nhưng về quê hương Xuân Vũ cũng được người thân cho biết về chính sách bình định ở vùng này cũng như tư cách của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Nói về quân cán chính Quốc Gia, một người bà con của Xuân Vũ bảo:
“Tụi này hiền mà ác, ác mà hiền...

Hiền là nó không bỏ bom bắn phá, nó chỉ dựng sân khấu hát xướng và đi phát thuốc men, gạo vải cho bà con. Cho nên bà con ở yên không ai chạy đi đâu hết. Lại còn đi coi hát của tụi nó. Quán xá chợ búa còn y nguyên. Nhà ai nấy ở. Chỉ vài ngày nó đã lập được chánh quyền, biến vùng giải phóng thành vùng quốc gia, vậy không phải hiền là gì? Cán bộ không phương gì giải thích tuyên truyền về “sự  tàn ác” của chúng nó. Chúng điều tra rất kỷ những chuyện làm bậy bạ của cán bộ địa phương. Ông nào có vợ bé, ông nào mò vợ chủ nhà đóng quân, ông nào rượu chè be bét, cô nữ cán bộ nào có chửa hoang, chúng đều nói trúng ngay trân. Cuối cùng chúng nó hỏi: như vậy giải phóng để làm gì? Chưa hết chúng còn phân phát một cuốn sách nói về cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc bị đày đi phá rừng đi đập đá làm đường, rồi trên đường Trường Sơn ốm đau chết chóc như thế nào, cuối cùng chúng lại hỏi: giải phóng để làm gì? Ở cuối quyển sách có in hình mấy chục cán bộ chiến sĩ Nam Bắc hồi chánh. Trong đó có nhiều ông chức lớn lắm. Ở ngoài bìa sách chúng vẽ hình cụ Hồ ốm o, chống gậy và đề một câu: Hồ Chí Minh đã ngủm.” (ĐBGG, tr.350-351) .

   

Sự khác biệt giữa hai chế độ đã quá rõ ràng. Người thông minh như Xuân Vũ không thể không thấy để quyết định lựa chọn con đường sáng sủa tốt đẹp cho mình và thế hệ tiếp theo. Ông đã sáng suốt quyết định trở về với hàng ngũ quốc gia. Ông đã được bác sĩ Hồ Văn Châm, tổng trưởng Chiêu Hồi tiếp và mời giũ chức vụ khá quan trọng, phó giám đốc nha chiêu hồi, trong bộ này. Giám đốc nha là Phạm Thành Tài tức nhà văn Sơn Nam, vốn là chỗ quen biết. Ông Tài đã cho ông hai phòng lầu, một phòng riêng, một đống pelure, một bó viết Bic, một cần vụ để có sai gì thì sai. Ông bắt đầu viết “Đường Đi Không Đến”.
Và tác phẩm này làm cho ông nổi danh ngay. Ông đã được giải thưởng văn học nghệ thuật năm 1972. “Đường Đi Không Đến” là quyển hồi ký ghi lại kinh nghiệm “đi B” tức là đi trở về miền Nam công tác. Đây là quyển hồi ký quan trọng nhất của Xuân Vũ. Nó được ghi lại trước biến cố lịch sử năm 1975. Nó đánh dấu sự thức tỉnh và chuyển hướng quan trọng trong cuộc đời Xuân Vũ. Và theo tôi đây là tác phẩm có giá trị nhất của ông về phương diện tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Dưới ngòi bút thật linh động Xuân Vũ đã sâu xa phân tích và ghi lại tâm trạng và kinh nghiệm đi B của ông, một kinh nghiệm hết sức kinh hoàng trên con đường 559 tức đường mòn Hồ Chí minh theo giải Trường Sơn. Nếu không khí chính trị ở Hà Nội lúc ông tập kết ra miền Bắc đã gây cho ông cảm giác đầu tiên là Cộng sản  “Kỳ Cục” để ông phải xin trở về Nam liền sau đó, thì con đường đi B với cảnh “Xương Trắng Trường Sơn” và “Mạng Người Lá Rụng” đã gây cho ông một sự thức tỉnh vô cùng quan trọng. Vấn đề “giá trị của con người,” vấn đề “nhân phẩm” và “nhân quyền,” vấn đề “cúu cánh biện minh cho phương tiện, ” cùng với sự “hy sinh mạng người một cách phi lý,” được đặt ra ở đây trong lúc này. Và tinh thần “nhân bản” được khơi dậy mạnh mẽ khi người ta bắt đầu ý thức về điều kiện giá trị của con người bị chà đạp, ý thức về nhân phẩm/nhân quyền bị tước đoạt, ý thức về sự sống cũng như cái chết đều trở thành phi lý, và ý thức vềsự lừa dối trở thành tư tưởng chỉ đạo.
“Khi ra đi, tác giả viết, ông chủ nhiệm ủy ban thống nhất – trung tướng Nguyễn Văn Vịnh có đến gặp chúng tôi và bảo rằng đoàn chúng tôi về đến nơi sẽ có Chính Phủ Liên Hiệp! Tình hình sáng sủa hơn bây giờ nhiều. Như vậy ai mà nằm lại cho được. Còn một giò cũng phải nhắc cò cò đi tới chớ.” (Đường Đi Không Đến, tr. 18). Lời hứa của chính quyền cộng sản không khác gì hình ảnh của mớ cỏ non và con ngựa già nua của ông lão đánh xe rất quen thuộc với tác giã từ lúc nhỏ :       
“Để lợi dụng cái sức lực còn lại trong con vật, lão già đã nghĩ ra một cách có vẽ nhân đạo hơn. Lão ta buộc một mớ cỏ non trên đầu cần câu và buộc chiếc cần câu dọc theo gọng xe.

Mỗi lần con ngựa bị mắc vào xe, nó cứ nhìn thấy cái mớ cỏ non đó nhảy múa trước mặt nó, tưởng chừng nó có thể ngoạm được và nhai ngấu nghiến đi ngay.

Nhưng tội nghiệp, con vật ngây thơ, cố ngay xương sống ra kéo chiếc xe đầy khách, mong rút ngắn cái khoảng cách giữa cái mồm nó và mớ cỏ. Cái mớ cỏ vẫn nhảy múa trước mặt nó, quyến rũ vô cùng, giuc nó chạy tới, chạy nhanh tới.

Con vật ngây thơ vẫn cố sức phi tới với chút sức tàn, mong đớp được mớ cỏ. Có bao giờ lão chủ xe lại giải thích cho con vật thân yêu của lão vì sao nó chạy hoài mà không ngoạm được mớ cỏ?” (Thay Lời Tựa Đường Đi Không Đến).
Con đường vào Nam dọc theo Trường Sơn vô cùng nguy hiểm, vất vả. Tác giả đã chứng kiến bao nhiêu cảnh chết chóc đau thương, bao nhiêu cảnh bệnh hoạn, đói khát, bao nhiêu người sống lê lết không còn mang tính con người nữa. Họ như con ngựa kiệt sức của ông lão xe ngựa, cứ cố sức vươn lên, cố sức với tới mớ cỏ treo trước mắt như một hứa hẹn không bao giờ đạt được. Đói, khát, ốm đau, bom đạn, thiên tai, xảy ra thường xuyên trên con đường này. Người ta trở nên ích kỷ, bần tiện, không chia nhau một chút muối, dấu kỷ một chút đường, tiện tặn từng hạt gạo. Con người không còn là con người nửa. Trong một cơn đau tác giả đã phải trải qua một tâm trạng vô cùng bi đát. Hãy nghe tác giả kể :
“Tôi nhìn ra trời. Thấy gì đâu, một màu đen dày đặc... Tôi thấy tôi bé lại như một hạt mưa rơi xuống từ vô tận, vỡ tan ra và trôi theo cái dòng nước sôi ấy. Và đời tôi đâu còn biết bám tựa vào dâu nữa...Hai tiếng Văn Điển đến với tôi trong lúc này thật là điều không hay ho chút nào. Bởi nó gợi lên cho tôi cái tên của một bãi tha ma: nghĩa trang Văn Điển. Cái khí lạnh của Trường Sơn cùng với cái khí âm của nghĩa trang Văn Điển đè nặng, vây riết lấy tôi. Hiện lên trước mặt tôi hằng ngàn ngôi mộ với những tấm mộ bia cái thấp cái cao, cái mới cái củ, cái xanh cái vàng. Đó là nơi gửi xương gửi thịt của một số cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc. Ngoài đó những người bịnh tật hoặc có tuổi hết mong ngày về xứ thường than thở với bạn bè : “Chắc tao phải ở lại Văn Điển rồi!” Tôi thì tôi không phải ở lại Văn Điển nhưng tránh khỏi cái Văn Điển của Hà Nội, tôi lại phải nhìn thấy cái Văn Điển của Trường Sơn, cái thứ Văn Điển không có mộ bia và không có khói hương trống kèn, hay nói đúng ra Trường Sơn giờ đây đã trở thành một Văn Điển kéo lê thê hằng nghìn cây số.” (ĐĐKĐ, tr. 86-88).
Người ta, hay đúng ra người cộng sản nhân danh cái gì để xô đẩy hằng muôn vạn người đi vào tử đạo này? Marx bảo “con người là quý nhất,” vậy mà chủ nghĩa cộng sản Mác-Lê ở đây có xem con người ra gì đâu. Năm Cà Dom trong ĐĐKĐ nói một cách mỉa mai: “Tựu trung con người cũng chỉ là một con vật đi hai chân thôi, nhất là trên con đường này.” (nt., tr. 456). Chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện” mà cộng sản đã triệt để lạm dụng là một chủ trương hết sức phi nhân. Nó chà đạp lên nhân phẩm của con người, nó tước đoạt hết nhân quyền, nó đày đọa con người vào cái chết vô cùng phi lý. Gần đến cuối đoạn đường chết chốc, tác giả chán nản ghi :
“Tôi tự thú nhận với tôi rằng tôi đã nản chí, tôi không còn muốn phấn đấu nữa...Tôi nhớ lại lời của Lâm một chiều mưa. Câu nói ấy cứ thỉnh thoảng lại vang lên trong tâm trí tôi. Bây giờ, cùng với cái tình huống nguy ngập này, nó lại trở lại với tôi như một người bạn, như một kẻ thù, như một sự vuốt ve như một lời hăm dọa: “Lần đầu tiên tao cảm thấy tao đi không đến nơi.” Đối với tôi hôm nay, đây không phải là lần đầu tiên tôi cảm thấy điều đó. Mà điều đó là cái điều tôi thấy thường xuyên khi tôi ăn cơm, mỗi khi tôi lên cơn sốt...

“Nhưng đến đây, bên bờ con suối đầy dẫy những đau thương vô lý, tôi lại cảm thấy tôi góp vào đó một sự đau thương và vô lý bằng cả cái con người tôi.” (nt., tr. 457-458).

Thân phận phi lý của con người cũng như sự sử dụng con người như những phương tiện được thấy lại trong “Đến Mà Không Đến” của tác giả:

“Thân phận con người trở thành nhỏ bé, vô nghĩa. (Bây giờ ngồi viết những dòng này, nhìn lại cái đoạn đường Chó Ngáp, tôi chợt nghĩ: Đảng Việt Cộng đã dắt nhân dân ta đi qua nhiều đồng chó ngáp mà rồi không đến đâu cả.)” (ĐMKĐ, tr.279-280).

Thật là một hy sinh phi lý! Thật là một chủ trương phi nhân! Con người không phải là con vật, con người không thể được dùng làm phương tiện để biện minh cho bất cứ một cứu cánh nào. Con người là một thực thể có tri thức, có tình cảm, có hoạt động, có nhu cầu, có ước vọng, có giá trị của con người. Hãy cho con người có quyền tự do, có quyền làm người. Đừng chà đạp lên nhân phẩm, đừng tước đoạt nhân quyền, hãy trả lại cho con người giá trị thật sự của con người. Đó là thông điệp của Xuân Vũ qua bộ hồi ký của ông. Và qua thông điệp này ông thật là một nhà văn lớn không những cho người dân Nam Bộ mà cho cả người dân Việt, hay đúng ra không phải cho riêng người Việt Nam mà cho con NGƯỜI nói chung viết bằng một chữ N hoa.
Đối với nhà văn lớn này, nhà văn Lão Thành Xuân Tước có đề nghị là chúng ta, những người thương kính Xuân Vũ, hãy thiết lập một cái quỷ mang tên “TÌNH THƯƠNG XUÂN VŨ,” (hay XUAN VU FOUNDATION) để vinh danh nhà văn và để giúp cho các công trình văn hóa có giá trị nhân bản sau này. Tôi hết sức đồng ý với nhà văn Xuân Tước và xin kêu gọi những ai có lòng thương mến Xuân Vũ và có nhiệt tâm đối với văn hóa nhân bản hãy cùng tôi góp sức làm nên quỷ này.

         

HIỂN DU * BỘ ĐỘI

Bài thi viết 'Cộng sản và Tôi': Chuyện dài Bộ Đội

Hiển Du (Danlambao) - Không biết phải bắt đầu từ đâu để mà nói về bộ đội cho có đầu có đuôi, có xuôi có ngược, có nhược có ương, có ghét có thù, có cái thằng lù đù vác lu mà chạy, có cái ngày bộ đội lên thành và có những câu chuyện dài về bộ đội kể hoài không hết…
Thôi thì bắt đầu từ cái ngày gan lộn lên đầu, nhà lầu xuống đất, để cho bọn “đi bộ, đội nón cối” (bộ đội) leo lên tầng hai, tầng ba còn chủ gia thì xuống tầng trệt bởi “Nhờ lòng thương xót của Cách Mạng khoan hồng nếu không thì bọn chúng mày ra sân che chòi mà ở.”
Năm ấy tôi đang ở nhờ nhà bác đi học vì dưới quê không có trường đại học, vả lại vừa đi học vừa được bác trả tiền thư ký riêng để giúp đàn em nheo nhóc ở nhà.
Nhà Bác là hãng nước mắm có tiếng ở quận sáu. Mỗi đêm sau khi học bài tôi hoàn tất sổ sách trong ngày về việc thu chi của hãng, cộng trừ nhân chia đối với sinh viên ban toán như tôi thì luôn luôn xuất sắc không mất một xu. 
Kể từ ngày bọn đi bộ, đội nón cối chiếm cứ ở trên lầu chúng tôi đối diện với bao chuyện cười ra nước mắt, cười thắt trong ruột, cười tuột cả quần (vì lưng quần càng ngày càng lỏng do thiếu ăn) 
Chiều hôm trước bọn chúng đến ở, khoảng mười giờ sáng, tôi đang rửa rau trong bếp chợt giật thót mình vì một tên bộ đội xộc vào:
“Này này, cô có trông thấy con cá của tớ chui xuống đây không? Con cá hơn nửa ký lô đấy nhé”
Tôi bực bội trừng mắt một giây với hắn, gắt giọng:
“Cá anh để đâu mà xuống đây hỏi? Tôi ở đây từ sáng đến giờ có thấy gì đâu!”
Hắn nhìn dáo dác rồi xộc ngay vào nhà vệ sinh, tôi bước vội theo thấy hắn dùng cây thụt cầu quậy quậy trong cái bồn cầu. Tôi lớn giọng:
“Anh làm gì vậy, tìm gì trong ấy?”
“Tìm xem con cá tôi có chui xuống đây không?”
“Cá anh để đâu? Hứ.”
“Tôi đi chợ về thả nó vào cái bồn như thế này trên ấy. Bắt nồi cơm xong quay lại thì nó biến mất, chắc là nó chui xuống đây, cô có cách nào nâng cái bồn này lên không?” 
Hắn vừa nói vừa cố sức nhấc bồn cầu lên. Tôi trợn mắt định mắng ‘Đồ ngu” nhưng kịp dằn được nên quay lung lắc đầu để mặc hắn. Thầm nghĩ “Sao mà ngu thế”. Giờ cơm trưa tôi kể cho gia đình nghe, các anh chị cười lăn, cười bò. Bác trai nhìn xa xăm:
“Mấy đứa này chắc ở nhà quê chưa từng thấy cái cầu tiêu máy nên nó tưởng đó là cái bồn nuôi cá đó con.”
Tối đến, cả nhà đang yên giấc bỗng nghe tiếng réo ơi ới, hốt hoảng:
“Các đồng chí ơi dậy mau, bọn chúng còn gài bẫy chúng mình. Trần nhà có gắn máy chém, bọn Việt gian này ghê thật đấy”
Chúng tôi yên lặng cố lắng nghe xem chuyện gì đã xảy ra. Tiếng ồn ào, rồi tiếng chân chạy rầm rập xuống cầu thang, tiếng đập cửa rầm rầm:
“Mở cửa, mở cửa, chúng bây định giết chúng tớ hở, mau lên mà dừng cái máy chém ấy ngay nếu không thì chúng mày không yên đấy.” 
Bác trai và anh trai chạy vội lên lầu vì chẳng hiểu bọn chúng nói gì và chuyện gì đã xảy ra mà chúng vu khống như thế. Đèn phòng khách sáng choang, quạt trần đang quay vù vù ở số mạnh nhất. Bác nhìn quanh quất chẳng thấy gì quay lại định hỏi thì một tên chỉ lên trần:
“Đấy, tắt ngay cái máy chém ấy, bọn bây định giết chúng tớ hử?”
Anh trai bước tới tắt quạt, bác hiểu ra nhẫn nhịn giải thích:
“Đấy không phải máy chém mà là cái quạt gió treo trên trần nhà còn gọi là quạt trần. Nếu mấy anh không thích thì mai tôi sẽ gỡ xuống.”
Mấy chị em chúng tôi nghe kể vậy trố mắt nhìn nhau dở khóc dở cười chẳng biết họ đáng thương hay đáng trách vì giống như “người rừng.”
Bốn tháng sau tôi ghi danh học khóa “Sư phạm cấp tốc” vì thấy thời cuộc rối ren quá, không biết ngày mai ra sao?
Một hôm đi học về tôi dắt xe đạp vào cổng, mấy tên bộ đội đang ngồi chơi trong sân, một tên ngồi ngay gần lối đi đang cầm tờ báo cũ rích, vàng khè đọc. Thấy tôi hắn ngưng đọc đảo đôi mắt ti hí khắp người tôi, nhìn chằm chằm từ trên xuống dưới khiến chân tôi lúng túng. Tôi rủa thầm trong lòng “Đồ mắc dịch”, vừa qua khỏi hắn đưa tờ báo đập vô mông tôi cái “bộp”:
“Mông to và lẳng thế em… ha ha.” 
Cả bọn ré lên cười ha hả. Tôi nổi điên, vừa tức, vừa ngỡ ngàng, đỏ mặt tía tai quay lại thét “Đồ cà chớn” rồi đi một mạch vô nhà đứng khóc rưng rức. Không có sự sỉ nhục nào hơn thế!
Bác trai tôi nghe kể giận quá ra định mắng chúng một trận, vừa gặp mặt bác chúng tranh nhau ào ào: 
“Này bác, cô cháu bác bảo bạn tớ “đồ cà chớn” nghĩa là thế nào?”
Bác suy nghĩ một giây rồi vừa cười vừa che miệng lớn tiếng cốt cho chúng tôi nghe:
“Đồ cà chớn là nó khen chú ấy lịch sự đấy.” 
Cả bọn nhao nhao:
“Thế à, cho bác biết này, bộ đội chúng tớ toàn là cà chớn cả đấy nhé.”
Bác tôi đưa hai tay lên chào thua, chúng lại tưởng bác tôi thán phục nên vỗ tay rầm rầm.
Học sư phạm ba tháng chúng tôi được cấp bằng chứng nhận giáo viên, được tập hát nhạc phẩm “Bài ca sư phạm” và “Cô giáo trẻ trên bản làng xa” để đi làm cô giáo trẻ trên buôn làng gần biên giới. 
Chúng tôi được gọi là “Đoàn giáo viên xung phong” được Đảng và chính quyền cách mạng tin tưởng giao cho trọng trách khai trí nhân dân qua việc xây trường, mở lớp đưa văn hóa cách mạng về tận buôn làng. Diệt tận gốc cái ngu cái dốt cho nhân dân tiến lên Xã Hội Chủ Nghiã mau lẹ.
Đó là vùng quê nghèo nàn hèo lánh, mấy cô giáo trẻ chúng tôi được gởi gắm ở nhờ nhà bác tư gần trường. Xung quanh nhà bác đất rộng nên bộ đội đóng quân tùm lum. Tôi nghĩ “Sao cứ gặp mãi bọn này?”
Phía trước nhà dưới gốc cây xoài to, bác gái che một mái tranh bán nước giải khát và cà phê. Ngoài sân gần lề đường bác trai che tấm ny lon để sửa xe, trên bờ rào có treo tấm biển “Sửa Honda” viết nguệch ngoạc bằng than đen. 
Chúa nhật không đi dạy tôi ra quán nước phụ bác gái.
Đang rửa ly nghe bác lớn tiếng hỏi tên bộ đội vừa kéo ghế ngồi: 
“Chú bộ đội ơi, uống gì vậy chú?”
“Này, cho một ly sữa hon đa nhé, ly lớn đấy,” vừa cao giọng gọi hắn vừa lột cái nón cối quạt lấy quạt để.
Bác gái tưởng mình nghe không rõ bước ra tận bàn:
“Chú gọi sữa gì hả chú?”
Hắn chỉ tay ra bảng “Sửa Honda” treo trên hàng rào:
“Đấy, thì sữa Honda chứ sữa gì!” 
Bác gái mím môi cố nén cười ôn tồn giải thích, hắn hiểu ra cái chữ dốt của mình, lúng túng nhìn sang bàn bên cạnh. Thấy khách bàn bên đang uống cà phê phin hắn chỉ:
“Thế thì cho tớ ly cà phê có cái nồi ngồi trên cái cốc giống bên kia nhé. Cho cả ly đá to vào, nóng thế này thì đâu kém gì miền Bắc nhỉ” 
Hắn cố nói huyên thuyên để che cái dốt trước nhưng không ngờ lòi tiếp cái dốt sau.
Lần đầu tiên trong đời tôi nghe loại cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”.
Mọi người lén nhìn nhau cười chứ không ai dám nói gì.
Tôi chua xót trong lòng thầm nghĩ: “Sao họ lại ngu dốt đến vậy?” 
Ôi, quả là chuyện dài bộ đội, kể mãi vẫn chưa hết chuyện, thôi thì hẹn lại khi nào có dịp tôi sẽ kể tiếp đất nước nghe. Đất nước ơi, xin đừng quên “Bộ đội chúng tớ toàn là cà chớn cả đấy!”
Cali, Ngày 15/4/2015

VÕ KỲ ĐIÈN * ĐÔI MẮT SÓC TRĂNG

Đôi mắt Sóc Trăng
Võ Kỳ Điền

  Sáng nay tình cờ đọc một tin đăng trong điện thư của Hội Ái Hữu Học Sinh trường cũ, khiến tôi tỉnh ngủ dù chỉ qua một hàng chữ đơn giản gọn gàng.  Đó là tin ca sĩ Diệu Thanh vẫn còn khỏe mạnh và hiện sinh sống ở Cam Pu Chia.  Đúng là một tin vui. Thiệt tình tôi rất vui.
   Tôi năm nay hình như đã già, mà hình như gì nữa, nếu tính với tuổi nầy thì già lắm rồi, già ngắt già ngơ, già khú đế. Tưởng đời sống qua đã tan như một giấc mộng lớn, nhưng có vài chuyện nhỏ xíu nhưng làm sao mà quên cho được, như chuyện cặp mắt mơ hồ huyền hoặc của cô bé học trò nầy. Chuyện đã trên năm mươi năm rồi nhưng vẫn còn nhớ như in. Năm đó tôi mới vừa ra trường còn trẻ lắm. Mỗi khi vô lớp học mới, tôi thường có thói quen lướt qua danh sách lớp để coi tên từng học sinh, hầu đoán coi cha mẹ các cháu có ước vọng gì khi đặt tên cho con. Mỗi địa phương đều có khuynh hướng đặt tên. Cô học trò lớp Đệ Tứ tôi mới đến năm đó (1964) có cái tên lạ thiệt là lạ, viết thì như tiếng Pháp nhưng không phải, đó là tiếng Miên. Tôi người Bình Dương nên quen thuộc các tên tuổi bạn bè trên dó, phần lớn là tên người Việt, một số ít là tên người Tàu, tôi còn đoán được chút ít, lần nầy thì chịu thua vì cái tên lạ. Cô bé có tên là Lý Thị Soriane. Vì tên nầy đặc biệt lạ nên dễ nhớ khó quên. 
  Quả tình như vậy, tôi không làm sao quên được cô học trò bé bỏng hiền lành của trung học Hoàng Diệu Sóc Trăng ngày xưa. Soriane ngồi thu mình im lăng, khép nép, chìm lĩm ở giữa lớp, tánh tình ngoan ngoãn, cũng giống như các bài làm trung bình, nhan sắc cũng trung bình, nghĩa là không có gì nỗi bật. Thiệt là không có gì nỗi bật không? Không phải vậy, điều nhận xét nầy của tôi sai rồi. Phải rồi, cặp mắt của Lý Thị Soriane không hề giống bất kỳ cặp mắt nào mà tôi đã từng gặp qua. Cô bé có cặp mắt đen tuyền lạ lùng, vừa ngây thơ, vừa trong sáng, ánh mắt vừa mông lung, huyền ảo.  Mỗi lần trên bục giảng tôi nhìn xuống, bắt gặp ánh mắt nầy, tôi như bị lạc vào một khu rừng hoang ma quái hoặc biển cả sóng nước mênh mang chập chùng, không biết đâu là bến là bờ, đâm luống cuống tìm một lối ra, phải vội nhìn sang nơi khác.
   Trường Hoàng Diệu thường tổ chức các buổi sinh hoạt văn nghệ học trò và mỗi buổi hát hò như vậy thì Lý Thị Soriane đều góp mặt.  Giọng hát của em cũng giống như căp mắt, êm ái, dịu dàng và huyền hoặc. Học lực thì trung bình nhưng hát hò thì không thua bạn bè nào trong trường. Thực ra thì tôi không rành về âm nhạc nên không dám phán đoán và nhận xét hay dở, hơn kém như thế nào. Cho đến một ngày thì Lý Thị Soriane đến gặp riêng tôi và cho biết là nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tình cờ khám phá ra giọng hát của em và muốn đưa em về Sài Gòn để đào tạo thành ca sĩ chủ lực cho công ty dĩa nhạc Continental của ông như ca sĩ Thanh Tuyền cũng vừa được đưa về từ Đà Lạt. Em có trình bày cho tôi biết, gia cảnh khó khăn nếu về Sài Gòn và bở ngở với cuộc sống mới nầy. Nghe xong không kịp suy nghĩ gì hết, tôi mừng quá và khuyến khích em nên tận dụng cơ hội hiếm có nầy. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông rất nỗi tiếng, có thế lực lớn trong nghành văn nghệ, có thể giúp em thành danh, thay đổi hoàn cảnh sống tốt hơn...
   Từ đó, trường Hoàng Diệu không còn cô học sinh bé bỏng ngây thơ Lý Thị Soriane ngày ngày ôm cặp sach đi học qua những con đường đầy hoa phượng đỏ mà trên đài Truyền Thanh Sài gòn, xuất hiện một ca sĩ mới có tên là Diệu Thanh, hát xen lẫn với các ca si Thanh Tuyền, Lệ Thanh... Tôi sung sướng và rất hãnh diện khi thấy tên tuổi Diệu Thanh xuất hiện trên các báo, các đài.  Cho đến một ngày, bổng dưng không thấy Diệu Thanh xuất hiện như thường lệ mà được thay thế tên mới là Trúc Thanh. Nhưng chuyện thay đổi danh hiệu để ca hát nầy cho thuận lợi cũng không được lâu bền.  Một buổi sáng nào đó năm 1967 Diệu Thanh trở về Hoàng Diệu găp tôi tại lớp với bộ đồ bà ba đen quen thuộc, vẫn với cặp mắt đen ngơ ngác, dịu dàng thăm hỏi người thầy giáo cũ năm xưa và cho biết em quyết định rời xa ánh đèn sân khấu, rời xa Sài Gòn muôn màu, trở về tiếp tục cuộc sống yên bình ở Sóc Trăng. Tôi hấp tấp hỏi lý do tại sao và em không trả lời, nói sang chuyện khác.  Có lẽ đó câu hỏi khó tôi dặt ra cho em, chuyện phải quyết định cho cả đời, làm sao mà nói ra cho được . Tôi lờ mờ hiểu và thông cảm. Lý Thị Soriane, vẫn là cô bé học trò Hoàng Diệu Sóc Trăng trong sáng ngây thơ. Đúng hay sai, khôn hay dại, tôi làm sao biết được. Nhưng có điều tôi chắc chắn là cả đời, khi nhắc tới em là tôi không bao giờ quên được và luôn luôn quí trọng thương mến.  Tôi cũng biết rõ, tánh tình Soriane hiền lành, thụ động, an phận, làm sao chen lấn nổi trong cái không khí sôi động văn nghệ ồn ào, trong cuộc sống bon chen đất Sài Gòn đầy cát bụi. Cô học trò bé bỏng ngây thơ,  trong sáng yếu ớt đáng thương của tôi.
   Lý Thị Soriane ơi, không phải chỉ có em thất bại trong cuộc sống đâu, mà ở tận phương trời xa lạnh lẽo nầy, thầy cũng đâu có hơn gì em. Ước gì có cuộn chỉ thần, thầy trò mình quay lại chuyện ngày xưa năm mươi năm trước Hoàng Diệu của mình với lớp học, với những gốc cồng xanh mướt, với thầy với bạn, thì sung sướng, biết bao nhiêu. Hình như cuộc sống dưới mái trường hạnh phúc vui tươi ấm áp hơn là cuộc sống tranh giành hơn thua đầy bão táp nắng gió ngoai đời, phải không vậy Soriane?
   Phải lâu thiệt là lâu, thầy mới thấy được đìều đó.  Nhưng khi thấy được thì đã trễ muộn lắm rồi.  Trễ lắm rồi. Trễ thiệt rồi... Đời sống có những bước đi với biến động của nó và thời gian quả thật vô tình!
                                                                               Võ Kỳ Điền  (gs Võ Tấn Phước, 13 avril 2016)

THANH NGA - XE XICH LÔ - NẰM BỆNH VIỆN

THANH NGA

Lương bổng của Thanh Nga ra sao?

Ngành Mai, thông tín viên RFA
2016-04-16

thanh-nga-622.jpg
Nghệ sĩ Thanh Nga trong "Nửa Đời Hương Phấn"
File photo

Vương Hậu Thanh Nga

Xưa giờ báo chí kịch trường thường hay đề cập đến lương bổng của các đào kép chánh như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết, Lệ Thủy v.v... nhưng không hề nói đến lương bổng của Vương Hậu Thanh Nga, thành thử ra trong suốt thập niên 1960 khán thính giả, độc giả các báo có trang kịch trường đã không thể biết được lương bổng thần tượng của họ ra sao, có xứng đáng với vai trò của người được mệnh danh nữ hoàng nghệ thuật?
Đây cũng là vấn đề mà thiên hạ muốn tìm hiểu thêm về Thanh Nga, và hôm nay trong buổi nói chuyện này chúng tôi hy vọng giải đáp được nỗi thắc mắc của những ai hằng theo dõi cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của nữ nghệ sĩ Thanh Nga.
Trong hoạt động cải lương, thông thường đào kép chánh cộng tác với đoàn hát nào cũng đều được ký giao kèo (2 năm) lấy trên cả triệu, và lương mỗi đêm từ một ngàn trở lên (tùy theo đoàn và tùy theo người). Nếu như hát hết thời gian 2 năm thì số tiền giao kèo được cho luôn, có quyền đi hát cho đoàn khác. Còn nếu như ở lại đoàn tiếp tục cộng tác thì ký công tra lấy tiền lần nữa, mà đôi khi tiền còn nhiều hơn lần trước (trường hợp đào kép đang ăn khách).
Người ta từng biết thời thập niên 1950 Út Trà Ôn ký giao kèo với bầu Năm Nghĩa gánh Thanh Minh lấy khơi khơi 2 triệu, và tiền lương đêm 2 ngàn cũng được tăng dần từng năm, cứ mỗi lần mãn giao kèo thì ký trở lại.
Do cái tánh ưa làm khó nên Cậu Mười Út bị bà Bầu Thơ hạ tầng công tác cho xuống đóng kép lão. Thấy mình không còn được nể nang trọng dụng nên Út Trà Ôn cầu cứu với ông Ba Bản, và nhà tư bản này nghĩ tình Út Trà Ôn từng cộng tác ca thu thanh dĩa hát Hoành Sơn nổi tiếng một thời. Do vậy nên ông thành lập đoàn Thủ Đô cho Út Trà Ôn ký giao kèo 3 triệu và lương đêm thì 5 ngàn, coi như 2 thứ tiền đều cao hơn lúc còn ở gánh Thanh Minh.
Còn kép Thành Được và Út Bạch Lan sau ngày rã gánh, Thành Được về đầu quân cho đoàn Thanh Minh Thanh Nga ký giao kèo 2 triệu và lương đêm 3 ngàn. Út Bạch Lan về đầu quân cho Kim Chung ký giao kèo một triệu (do ký có 1 năm thay vì 2 năm), và lương đêm cũng lối 2 ngàn.
Các cô đào tên tuổi như Lệ Thủy, Ngọc Hương, Mộng Tuyền, Bạch Tuyết thì quyền lợi cũng tương tự như kép chánh. Còn kép Hùng Cường ký công tra với đoàn Dạ Lý Hương 3 triệu, khi mãn hạn Hùng Cường đòi 5 triệu để ký trở lại, nhưng ông Bầu Xuân không chấp nhận và Hùng Cường rời khỏi đoàn, khiến cho Bạch Tuyết không có kép đóng cặp vừa ý nên nghệ thuật đi xuống, và Hùng Cường cũng không đoàn nào trả cho với giá cao quá đó.

Không ký giao kèo?

thanh-nga-dong-lan-305.jpg
Nữ nghệ sĩ Thanh Nga và người chồng Phạm Duy Lân.
Chỉ riêng Vương Hậu Thanh Nga thì khó có ai rõ được, do bởi cô chẳng nói với ai tiền lương của mình, và Bà Bầu Thơ có ai hỏi vấn đề thì cũng cười trừ, hoặc nói gì đó có tính cách vui đùa thành ra chẳng ai biết. Từ năm 1956 Thanh Nga đã có vai trò người lớn trong tuồng “Đứa Con Hai Dòng Máu” của soạn giả Lê Khanh. Nếu tính từ thời điểm đó cho đến hết thập niên 1960 thì Thanh Nga luôn là đào chánh và chỉ đứng trên sân khấu nhà, do mẹ cô là bà Bầu Thơ làm bầu gánh. Tuy vậy không có nghĩa Thanh Nga không có lương, cả chục năm hát “chùa” hay sao?
Thật ra thì Thanh Nga vẫn lãnh lương hằngđêm như bao nhiêu đào kép chánh khác, có điều là vãn hát cô không phải đến chiếc bàn quản lý để nhận tiền như hầu hết đào kép công nhân trong đoàn, mà mỗi ngày quản lý của đoàn đều gởi vô trương mục ngân hàng của cô, chỉ có cái là không có ký giao kèo. Thanh Nga không xài phí như nhiều nam nữ nghệ sĩ khác, thành ra tiền trong ngân hàng cứ tăng lên mãi.
Trong hồi ký của nghệ sĩ Thành Được viết vào năm 1967 có đoạn như sau:
“...Nếu nghe ai khen xe hơi nghệ sĩ nào coi sáng đẹp hơn xe tôi, tuy không nói ra ngoài miệng, chứ lòng tôi nghe thắc mắc lắm. Trong trường hợp ấy, hễ nghe ai điềm chỉ chiếc xe nào đẹp hơn, mắc hơn xe tôi đang đi, nhứt là “ngon” hơn chiếc xe được thiên hạ đem so sánh với xe cũ của tôi, tôi bèn tính tới việc đổi ngay xe tức khắc. Nhưng lần nào đổi xe tôi cũng lỗ chớ không lời, lời chăng chỉ có lời về phương diện tự ái nhứt thời. Tật thứ nhì của tôi là tật mê đá banh. Bạn bè đá banh của tôi nếu phải thống kê thì khó mà nhớ sao cho hết. Tật tốn bạc của tôi, kế đó là
tật... “quánh” bi da. Nhưng tôi không nổi tiếng hơn anh Mười Út (Út Trà Ôn) về phương diện nầy, tựu trung bạn bè tôi quá đông. Tôi làm thiệt nhiều tiền, nhưng khó mà giữ cho trọn tình bè bạn, nếu không “chịu chơi” với anh em.
Vì vậy, tiền bạc của tôi không còn nổi... Bây giờ lương tôi tại Thanh Minh Thanh Nga cũng to lắm! Nhưng trong thực tế, mỗi đêm tôi không còn bao nhiêu. Tôi phải góp tiền góp ngàn ngoài, đó là tiền nợ mà gánh cũ còn để lại cho tôi gánh.
Số lương còn lại đâu có đủ, nếu so với sức xài “quá xá mấu” của tôi. Nghệ sĩ mà dư tiền như cô Thanh Nga... là số dách. Ăn, ở, xài phí lặt vặt đã có gia đình. Còn lương mỗi đêm của cô là hai ghim. Dù mưa gió, dù giới nghiêm, dù thời cuộc thế nào, cô Thanh Nga cũng “lãnh đủ”, nói theo nghĩa đen của nó.
Ông quản lý phải gởi vô băng cho cô đủ số. Tính tới ngày nay cô dư cả chục triệu trong “công”. Ngon lành chưa? Kiến tha lâu đầy tổ là thế. Cô Thanh Nga chưa lần nào ký công tra với đoàn hát nào, chưa lãnh một phát bạc triệu, nhưng chính cô mới là người dư bạc triệu...”
Mời quí vị tiếp tục theo dõi trong phần âm thanh tiếng hát Thanh Nga với bài tân cổ giao duyên “Vĩnh Biệt Đồi Thông”. Tân nhạc của Hồng Vân. Vọng cổ của Yên Sơn.

NGUYỄN VŨ BÌNH * MA TÚY

Về một vấn nạn còn ít được nhắc tới: sử dụng ma túy cho công việc


     Xã hội Việt Nam ngày nay đang tồn tại rất nhiều vấn nạn. Một trong số các vấn nạn nghiêm trọng, nhưng ít được biết và nhắc tới, đó là vấn nạn các lái xe sử dụng ma túy. Nhiều nhất trong số này là các lái xe công-ten-nơ, lái xe đường trường (cả xe tải và xe khách). Hầu như tỉnh, địa phương nào cũng phát hiện được những trường hợp sử dụng ma túy của giới tài xế.
     Nếu như việc sử dụng ma túy của các lái xe chỉ do nguyên nhân cá nhân, tức là đua đòi, chơi bời dẫn tới nghiện hút thì không có gì đáng nói. Vấn đề ở đây, những lái xe sử dụng ma túy không phải với mục đích thử nghiệm, hoặc chơi bời mà sử dụng ma túy cho công việc, công việc lái xe của họ. Đây là một vấn nạn không mới, nhưng chỉ mới được nhắc tới ở Việt Nam, và điều đặc biệt nghiêm trọng là vấn nạn này góp phần không nhỏ vào việc gia tăng tai nạn giao thông.
     Đi vào tìm hiểu nguyên nhân lái xe sử dụng ma túy cho công việc, chúng ta mới biết rằng, những người này cũng chỉ là nạn nhân của xã hội, của thời cuộc và của cách làm ăn chụp giật và bất chấp hậu quả ở Việt Nam hiện nay. Mọi người đều biết, lái xe là công việc nhìn qua thì rất nhàn hạ, không tốn sức những lại là công việc cần sự tập trung cao độ nếu muốn bảo đảm an toàn trên các tuyến đường, nhất là ở Việt Nam tình trạng giao thông hỗn loạn như hiện nay. Thông thường, một lái xe trong một ngày, chỉ bảo đảm an toàn trong thời gian 8 giờ, với điều kiện sau 4 giờ lái xe liên tục cần được nghỉ ngơi một thời gian ngắn. Về lý thuyết và về tiêu chuẩn lái xe an toàn thường là như vậy, nhưng ở Việt Nam, các doanh nghiệp vận tải không bao giờ áp dụng những tiêu chuẩn và điều kiện như vậy. Ở Việt Nam, tình trạng doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vận tải nói riêng đã phải chi tiêu rất nhiều tiền, chi phí bôi trơn, đút lót, hối lộ để doanh nghiệp được hoạt động bình thường.
 Phí đường bộ hiện nay đã tăng nhanh và lạm thu  rất nhiều trên các cung đường. Đặc biệt, các doanh nghiệp vận tải, phải đáp ứng thảm họa “mãi lộ” trên các cung đường cho cảnh sát giao thông. Chính vì những chi phí này đội lên, nếu doanh nghiệp làm đúng luật, đúng các yêu cầu, điều kiện kinh doanh, sử dụng nhân lực thông thường thì doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại được, tức là phá sản. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp vận tải đã tăng lượng hàng hóa, tăng chuyến các xe dẫn tới tình trạng xe chở quá khổ, quá tải mà các báo, đài liên tục nhắc tới. Nhưng nguy hại hơn, các doanh nghiệp đã ép lái xe tăng giờ làm, giảm lương của họ, nếu ai không đáp ứng, không đồng ý, họ sẽ sa thải ngay. Chính từ lý do này mà các lái xe đã phải nghĩ cách để tồn tại, và cách sau cùng của họ là sử dụng ma túy cho công việc của mình.
     Có hai lý do trực tiếp mà lái xe phải sử dụng ma túy cho công việc của họ. Trước hết, việc kéo dài thời gian lái xe trong một ngày (bình thường 8h là an toàn), tăng từ 8 giờ lên 12-16 giờ, họ cần một sự tập trung tối đa để bảo đảm thực hiện công việc với thời gian kéo dài như vậy. Tất cả những thử nghiệm như uống nước trà đặc, hút thuốc lá, cafe, rửa mặt liên tục cũng không giúp họ tỉnh táo, tập trung được trong khoảng thời gian dài như vậy. Cuối cùng, chỉ có ma túy là giúp họ làm được việc đó. Lý do thứ hai, công việc kéo dài, đòi hỏi sự tập trung liên tục nên các lái xe thường mất ngủ triền miên, liên tục. Để chống lại các cơn buồn ngủ ngay trong lúc lái xe, họ không còn cách nào khác là sử dụng ma túy. Chỉ có ma túy mới cho họ sức khỏe và sự tập trung mà họ cần cho công việc, mặc dù biết rằng sử dụng ma túy có hại tới sức khỏe (về lâu dài) và nếu bị phát hiện, họ có thể phải trả cái giá tối thiểu là mất việc làm. Nhưng những lái xe này ít còn lựa chọn nào khác bởi xã hội dư thừa lao động, người khôn của khó và quan trọng hơn, các doanh nghiệp vận tải khác cũng đối xử với họ như vậy. Chính vì để giữ công việc, với mức lương bèo bọt và lao động cật lực họ đã phải sử dụng ma túy cho công việc của mình. Đây là vấn nạn vô cùng thương tâm đối với các lái xe ở Việt Nam.
     Chính từ vấn nạn sử dụng ma túy, dẫn tới tình trạng lái xe không an toàn (do sử dụng quá liều, tới cữ không có ma túy sử dụng…) gây nhiều tai nạn giao thông trên các tuyến đường. Nếu đi sâu tìm hiểu, chúng ta có thể khẳng định, không chỉ có nghề lái xe, mà một số nghề nghiệp khác ở Việt Nam cũng rơi vào tình trạng tương tự, người dân phải sử dụng ma túy cho công việc của mình. Một vấn nạn mà xuất phát điểm lại là do thể chế, thể chế độc tài dẫn tới vấn nạn hối lộ, tham nhũng, mãi lộ. Từ vấn nạn tham nhũng hối lộ dẫn tới doanh nghiệp phải chèn ép người lao động, lái xe…chính vì vậy, cũng như tất cả các vấn nạn khác, để giải quyết tận gốc rễ vấn nạn lái xe sử dụng ma túy cho công việc của họ, chỉ có thể giải quyết từ gốc rễ, đó là thay đổi thể chế, không còn tình trạng tham nhũng, hối lộ tràn lan như hiện nay nữa. Một xã hội dân chủ đa nguyên sẽ giải quyết tận gốc rễ các vấn nạn này./.
Hà Nội, ngày 16/4/2016
N.V.B

THANH THƯƠNG HOÀNG * XE XICH LÔ




Chiếc Xích Lô Chở Mùa Xuân 
benguyen


Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nhìn những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa.
Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi ố Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, vì phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục (Continental), nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Sài Gòn Chợ Lớn.
Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân - những ngày tháng cũ trước 1975 - anh đã gặp “người yêu lý tưởng” của mình và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30/04 đen tối sầu thảm. Tân móc túi lấy gói thuốc Rê vấn một điếu.
Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc, thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường.

Tân vội quay nhìn. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của khách sạn nên nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).
- “Cô muốn đi đâu ?”.
Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả nói :
- ”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé !”.
Tân hỏi lại :
- “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố ?”.
- “Đúng !”.
Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nòi :
- “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu”.
Cô khách đáp :
- ”Tôi sẽ trả anh như đã trả cho những người trước anh”.
- “Nghĩa là ... ?”.
- “Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh 2 đô la”.
- “Cô trả vậy hơi nhiều đấy !”.
Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi nãy :
- “Nghĩa là ... ?”.
- “Tôi tính cô một đô la một giờ thôi”.
Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì. Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn nì xin thêm. Còn anh xích lô này thì lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật. Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách :
- ”Cô đã biết chợ Bến Thành này chưa ?”.
Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp :
- “Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Sài Gòn và có một bề dầy lịch sử”.
Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười :
- “Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đã dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm ! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.
- “Cô ăn được cả nước mắm ?”.
- “Cũng hơi ... khó chịu một chút lúc đầu”.
Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi :
- “Tôi hơi tò mò, xin lỗi trước. Cô tới Sài Gòn du lịch hay làm việc ?”.
- “Tôi tới Sài Gòn có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn”.
- “Cô tới đây lần đầu ?”.
Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới 30 tuổi, thân hình thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc áo pull trắng và chiếc quần gin mầu xanh đậm. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xoã xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của Tân thì nhan sắc cô nàng ở mức trung bình nhưng khá quyến rũ, hình như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.
  - “Cô mới từ Mỹ tới ?” Tân hỏi. Khách khẽ gật.
- “Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC, thì cũng tiểu bang nào vùng đó”.
Lần này cô nàng ngoái hẳn mình về phía sau nhìn Tân :
 “Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông ?”.
Tân hóm hỉnh cười :
- “Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô”. Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lý tưởng các cô gái mơ ước”.
Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động bình dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi còn biết cả nịnh đầm, món “võ” của bọn đàn ông có học.
Cô cười nhẹ trả lời Tân :
- “Anh đoán giỏi đấy ! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina. Lớn lên đi học đi học và sống ở Washington DC”.
Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món gì đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.
- “Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu ?”.
- “Tuỳ anh”.
Tân suy nghĩ một chút :
- “Cô đã vào Chợ Lớn chưa ?”.
- “Hay đấy ! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết”.
- “Cô đã đến Hồng Kông ?”.
- “Tôi đến đó hồi còn là con nhóc đi với bố mẹ”.
Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói :
- “Xin lỗi, cô đã lập gia đình ?”.
- “Phải, tôi đã lập gia đình gần 10 năm. Vợ chồng tôi có một con gái”.
Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nhìn vào cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hãi kêu lên vì tưởng nó đâm nhào vào mình. Từ đường Đồng Khánh, cô bảo Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hoá. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ :
- ”Anh thấy đẹp đấy chứ ?”.
Tân thốt lên :
- “Tưởng gì, cái này bên Mỹ đâu thiếu”.
- “Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi”.
Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân :
- “À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều ?”.
- “Vì tôi đã ở bên đó và có mua nước tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ”.
- “Ồ, anh đã ở bên Mỹ ?”.
- “Đi du lịch hay du học ?”.
- “Tôi đi học”.
Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại :
- “Đi học ? Thì ra anh sang Mỹ du học !”.
- “Không phải ! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sĩ quan Không Quân !”.
Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đã từng là sĩ quan Không Quân và đã sang Mỹ học ? Cô nửa tin nửa ngờ, dò đường :
- “Anh sống ở Mỹ lâu không ? Tiểu bang nào nhỉ ?”.
Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu :
- “Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn 8 tháng”.
- “Anh còn nhớ tên khoá huấn luyện ?”.
- “Khoá 67A. Khoá này tôi được huấn luyện cùng với bọn Pilot Hải Quân Mỹ”.
Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu. Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ý một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hoá của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt.
Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân :
- “Họ chắc không phải là người Việt ?”.
- “Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Hoà hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ !”.
- “Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới”.
Ngưng chút cô nói tiếp :
- “Cả về chính trị và kinh tế. Vì thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu !”.
Tân cãi :
- “Tôi không đồng ý với cô. Người ta đã dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế”.
- “Tôi nghĩ với Cộng sản thì chỉ có thể dùng vũ lực”.
- “Dùng vũ lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự huỷ hoại từ bên trong”.
Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh, hoà bình, cộng sản, tư bản ... quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa bãi. Năm đó là năm 1985, thành phố Sài Gòn còn nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đã lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề huý kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi :
- “Nãy giờ tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sĩ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại ... lại đi đạp xích lô ?”.
Tân phì cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết gì về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá huỷ hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời :
- “Vì tôi bị Cộng sản bắt đi tù”.
- “À, ra thế !”.
- “Anh bị tù có lâu không ?”.
- “Gần mười năm”.
- “Trời ! Anh được tha lâu chưa ?”.
- “Mới sáu tháng”.
- “Ô là ! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm ?”.
- “Tất nhiên. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ”.
- “Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối ? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ý chí quật cường, về truyền thống tranh đấu ...”.
Tân cười nửa miệng :
- “Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ”.
Cô khách người Mỹ mở bóp lấy 2 tờ giấy 5 đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm 2 tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ thì cô khách Mỹ đã bước vào trong khách sạn.
Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi ố Tự Do đã nhìn thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe. - “Hôm nay cô muốn đi đâu ?”.
- “Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều thì giờ để trò chuyện với anh”.
- “Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi ! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua”.
Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ý kiến gì, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi : sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ ? Đã nghèo khổ mà lại còn chê tiền ? Còn Tân bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm : hiền hoà, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ mình xưa nhận xét thật tài tình tinh vi.
Xe chạy ra bờ sông Sài Gòn trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa :
- “Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy !”.
- “Tốt thôi, không có gì đáng phải bàn cãi !”.
Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khoá bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ :
- “Cho chắc ăn !”.
Cô khách cười :
- “Xe để sát bên cạnh anh, còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp !”.
- “Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ thì cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đã tới mức ăn cướp thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi !”.
Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Sài Gòn lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi thì bị mắng trả tục tĩu. Còn cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho mình, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca-cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca-cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đã bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán.
Cô khách nói :
- “Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy !”.
Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nhìn trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi :
- “Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không ?”.
- “Có chứ ! Bạn cùng khoá thì nhiều lắm, nhưng thân thiết thì chỉ một hai người”.
- “Anh còn nhớ tên ?”.
- “Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng gì với lão Tổng Thống Jimmy Carter không !”.
Cô khách Mỹ nói nhanh :
- “Edward Carter ! Anh có nhớ sai tên không ? Anh ta người ra sao ?”.
Tân vỗ vỗ trán như gọi những hình bóng cũ trở về :
- “Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được 36 tuổi. Anh em cùng khoá thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng thì đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter”.
Cô khách Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt Tân như quan sát, như dò xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài.
Tân ngạc nhiên hỏi :
- “Sao, nếu tôi đoán không lầm thì có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này”.
Cô khách không trả lời. Cô lơ đãng nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng gì đó, Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy gói thuốc Rê vấn hút.
- “Anh hút thuốc gì mà có mùi khét thế ?” Cô khách Mỹ hỏi.
- “Đây là thuốc Rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quý đấy cô ạ ! Chúng tôi còn hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa kìa !”.
- “Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để còn giữ được mạng sống trở về đời, tài thật !”.
- “Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ của cô thì ít ra cũng chết nửa nước”.
- “Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đã làm ?”. - “Tôi còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh”.
- “Bây giờ chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ anh ? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về ? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con”.
Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất :
- “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác”.
- “Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi tò mò, thế anh có oán hận người vợ không ?”.
- “Cô ấy còn trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có gì mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi”.
Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.
- “Còn cha mẹ anh ?”.
Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy lòng : - “Cha mẹ tôi đều mất khi tôi còn ở trong tù !”.
Cô khách Mỹ kêu lên :
- “Thế còn đứa nhỏ ?”.
- “May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra thì cũng còn có những đốm lửa trong đêm tối phải không ? “.
Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nhìn Tân nói :
- “Tôi tên Jacqueline Hunter. Còn anh ?”.
- “Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu Đại Uý phi công Việt Nam Cộng Hoà. Rất hân hạnh được quen biết cô”.
Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói :
- “Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra tìm được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh”.
- “Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà ... . Hẻm ... Đường ... . Thành phố Sài Gòn”.
Họ còn ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline co ý mới Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói :
- “Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn”.
Tân từ chối ngay :
- “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí”.
- ”Không, đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận lấy ở đây một tấm lòng”.
Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân :
- “Tạm biệt Tân, người bạn mời quý mến của tôi”.
Tân nhìn tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng mình bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn :
- “Jacqueline ! Jacqueline ! Tôi không thể ! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô !”.
Nhưng Jacqueline đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gã xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch :
- “Anh kia ! Ra khỏi đây lập tức !”.
Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói :
- “Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ !”.
- “Cái gì ?ạ Cô ta đánh rơi tiền à ?”.
- “Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô”.
Anh bảo vệ ngẩn người ra nói :
- “Lạ nhỉ ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô ? Có khi là đô giả đấy ! Đưa đây tôi coi nào !”.
Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận :
- “Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à ? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không ? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau đi, không nó đổi ý ra đòi lại, thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ !”.
Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm rãi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” mãi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ ? Đi cuốc xe đáng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói ? Không ! Nhất định không phải rồi ! Cần gì cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho mình cả một trăm đô ? Thương hại ? Bố thí ? Một tấm lòng ? Dù có là gì đi chăng nữa thì sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy. Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác gì tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quý hoá : Tôi rất trân trọng tấm lòng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đã có ân tình nghĩa trọng gì. Cám ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung nòi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.
Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn còn nằm trong đó. Chín giờ đã tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô ? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch : - “Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ ?”.
Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy :
- ”Này cầm lấy ! Thư của cô ta đấy !”.
Dứt lời anh ta bước về khách sạn. Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh : “Tân mến ! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khoẻ. Hẹn gặp lại”. Cô ký tên một chữ tắt “J”.
2
Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi và Tự Do có ý chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù : “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng”. Đời mình chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này thì đúng là “thảm vô cùng” rồi, còn chờ còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên”, tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà.
Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được 3 “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng 05 đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi mình về để đòi đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày thì chị chủ nhà đã tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói :
- “Chú Tân có tin vui nè !”.
Tân cười nhạt : “Tin vui ? Tôi làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư ?”. Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe !”.
Chị chủ nhà vẫn cười cười nói :
- “Tôi nói thiệt mà ! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lãnh quà từ Mỹ gửi”.
Tân sửng sốt :
- “Quà ở Mỹ gửi ? Lạ nhỉ ?”.
Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà ! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt.
Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi :
- “Sao ? Quà của ai gửi vậy ?”.
Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm :
- “Trời đâu có phụ kẻ hiền lành”.
3
Washington DC. ngày ... tháng ... năm ... .
Tân thân mến,
Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đã nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm ? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của mình tôi đâu mà còn là của một số bạn bè phi công cùng khoá với Tân gửi đấy ! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khoá với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất.

Tôi mong anh sẽ hài lòng về số quà tặng “đó là những tấm lòng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn lòng nghe ? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Uý Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khoá và là bạn thân của anh”. Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá ! Anh cố hình dung lại người bạn phi công cùng khoá Edward Carter. Sau khi mãn khoá về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc.
Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đã mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư : “Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hoá, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích”.
Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết ? Nếu bị bắt sống thì nhất định Jacqueline đã biết tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp : “Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích còn quá dài. Tôi phải tự đi tìm chồng tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đình có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được 2 tuổi. Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hoá. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức gì. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Sài Gòn có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng thì anh đúng là bản sao của chồng tôi.


Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự tình cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt. Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khoá đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không ? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những gì có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khoá với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có gì trở ngại về phía anh.
Chúc anh vui khoẻ.
J.
Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay cay ... Anh đã không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng còn phảng phất đâu đây.
4
Tân đi tù khoảng hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đã dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy, anh không còn gì để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới 3 tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con mình được ông bà Ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng Cao Nguyên trở về Sài Gòn, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đã hơn 10 tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những 5 người : ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không còn chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đãi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”.
Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, xì ke ma tuý. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm : rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lãnh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa. Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về : đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đình bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở bình dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi thì tất cả mọi sự trên cõi đời này đều ... nhẹ như lông hồng !
Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ lòng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hoá, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi - Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lý nào cô nàng yêu mình ? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với câu hỏi này.


Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại mình thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng gió viết về tình cảm của mình đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy bay, có lúc thì đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xoá miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài mãi.
Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại mãi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lý do. Có ông Dân Biểu Mỹ muốn gặp.
Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh ? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nhìn Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Thì ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khoá với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn 5 năm thì được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử Dân Biểu. Jacqueline đã gặp ông trình bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương trình viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khoá năm xưa.
5
Anh Hoàng thân quý,
Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đã hơn 3 tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xã hội chủ nghĩa” (còn bám chút đỉnh nơi thân thể), Jacqueline và tôi lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới Bức Tường Đá Đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam. Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai tiểu bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khoá. Ông bạn cựu phi công đương kim Dân Biểu đã giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng : lái máy bay cho một đồn điền. Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện.

Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quý mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ Chủ Nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và 2 đứa nhỏ chạy lòng vòng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suýt nữa thì làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quý và trân trọng giữ gìn nó. Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa Xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường. Xin chúc anh và gia đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.


Quý mến,

Đỗ Tân.



Thanh Thương Hoàng, C/N 2011/01

BS. ĐẶNG NGỌC THUẬN -TÔI NẰM BỆNH VIỆN



Tôi Nằm Bệnh Viện


BS Đặng Ngọc Thuận


Uống bậy 2 viên thuốc, phải nhập viện. Uống đúng 2 viên thuốc, được xuất viện. Bệnh nhẹ hóa ra bệnh nặng, nguy hiểm chết người. Nguyên do chỉ vì ỷ mình cũng biết thuốc men nên chủ quan tự chữa trị. Câu chuyện của tôi thật ra chỉ giản dị có thế, song muốn nhân dịp này kể lại quý vị nghe những gì tôi đã trải nghiệm khi nằm trong bệnh viện như một bệnh nhân, chứ không phải trên cương vị một bác sĩ chữa trị cho bệnh nhân nằm tại viện.


Kể ra cũng là một điều lạ vì đã 82 tuổi đầu tôi chưa phải nằm bệnh viện bao giờ. Rồi mãi sau gần 10 năm hưu trí tôi phải nhập viện cấp cứu. Một lần cách đây gần 25 năm tôi có bị một cơn bệnh“gút” (do tiếng Pháp goutte và tiếng Anh gout) khá đau ở ngón chân cái song uống thuốc giảm đau, đi khập khiễng mấy ngày thì khỏi ngay và không bao giờ bị lại nữa, mặc dầu tôi không uống thuốc ngừa Allopurinol vì thuốc này rất hại thận mà tôi vốn bị suy thận kinh niên không biết lý do (idiopathique) từ rất lâu, nhiều năm rồi.


Xin lưu ý suy thận (insuffisance rénale) chứ không phải yếu thận vì theo y học cổ truyền âm dương hụ hợ thì có nghĩa là bất lực (impuissance)


Đầu tháng 03/2016, tôi thấy đau ở đầu gối bên trái và thầm nghĩ là tuổi già cũng bị mòn khớp như ai, cứ năng đi bơi mỗi sáng ở YMCA chắc rồi cũng bớt thôi. Nhưng khác với dự đoán, đầu gối ngày một đau thêm, đau như cắt da cắt thịt (hèn chi tiếng Việt gọi bệnh này là thống phong) và nhất là cứ sưng vù lên, cho dù uống bao nhiêu Tylenol cũng vậy. Đến ngày chủ nhật 13 tháng 03 thì quá đau phát khóc, tôi lục lạo trong tủ thuốc thấy 2 viên Codéine, bèn lấy ra nuốt chửng luôn 2 viên một lúc. Nào ngờ tuổi đã cao, thận lại yếu đâu còn sức chịu đựng loại thuốc ma túy giảm thống khá mạnh này. Tôi hết đau song lăn ra ngủ ly bì suốt hai đêm một ngày, không ăn không uống.


Nhà tôi mới đầu cũng mừng vì thấy tôi hết đau lại ngủ ngon hơn bao giờ hết, nhưng sang ngày thứ ba 15 tháng 03 thì bà ấy phát hoảng phải nhấc điện thoại cầu cứu cháu lớn làm nghề bác sĩ chuyên ngành cấp cứu. Cháu ở xa chúng tôi đến hơn một giờ lái xe nhưng vội chạy lại ngay vì như cháu nói trong điện thoại :


- Bố vốn yếu thận mà 2 ngày không ăn còn được chứ không uống thì nguy hiểm lắm đấy ! Con sẽ đến ngay xem tình trạng bố ra sao.


Khi thấy tôi nằm ngay đơ say sưa ngủ, gọi cũng chỉ trả lời nhát gừng thì cháu nói ngay, chẳng cần khám xét hỏi han gì thêm :


- Không xong rồi, bố bị khô nước phải đưa đi bệnh viện tiếp nước biển ngay mới được. Để lâu bố sẽ bị hôn mê, không phải vì bệnh “gút” mà vì tắc thận (renal failure). Mẹ chỉ cần xem môi bố khô như muốn tróc ra thì biết bố thiếu nước đến độ nào!


Cháu bàn với nhà tôi :


- Đưa bố vào bệnh viện ở Montreal, con e sẽ phải chờ đợi lâu lắc lắm. Chi bằng mẹ để con chở bố vô bệnh viện con làm, tuy xa song con nói các bạn đồng nghiệp của con và nhân viên điều dưỡng của bệnh viện sẽ lo ngay cho bố tức thời và kỹ lưỡng. Mẹ sẽ thấy ở tỉnh nhỏ dân tình rất hiền hòa tử tế, chứ không hỗn tạp lôi thôi như ở thành phố đâu !


Quả thật đến bệnh viện, tôi được đưa ngay vào phòng hồi sinh và chuyền nước biển vô tĩnh mạch, sau khi cô điều dưỡng viên đã rút đến 5-6 ống máu để mang đi thử nghiệm tức khắc. Bà Anne M. bác sĩ phụ trách hồi sinh vừa khám bệnh tôi vừa gắng hỏi chuyện, tôi thều thào nói câu được câu không, song khi tôi tiết lộ tiền căn có bệnh “gút” thì bà ấy quả quyết là tôi bị cơn “gút” tái hành, rất phù hợp với thử nghiệm lượng acide urique trong máu quá cao. Thế nhưng cơ nguy là vấn đề thiếu nuớc làm “khô thận” và đó là hậu quả của 2 viên Codéine tôi đã uống tẩm bậy tầm bạ trong cơn bĩ cực lại không muốn phiền đến con cái !


Bà Anne M. đon đả trấn an tôi :


- Tôi sẽ cho ông nhập viện lên phòng nằm vì phải tiếp nước cho đủ mới cho ông uống Colchicine bài trừ acide urique được. Tạm thời ông chỉ được uống Tylenol liều cực mạnh giảm đau mà không hại thận. Lên trại sẽ có bác sĩ Bernard B. là bác sĩ điều trị trực tiếp của ông. Tôi cũng sẽ hội ý với bác sĩ Sylvie F. chuyên môn về thận góp ý về trường hợp của ông. Sylvie biết ông nhiều vì từng theo dõi chứng suy thận của ông.


Sở dĩ bà ta biết được hồ sơ bệnh lý của tôi là nhờ hệ thống điện tử DSQ (Dossier-Santé, Québec) nối liền các cơ sở y tế toàn tỉnh bang để các nhân viên có phận sự có thể tham khảo bất cứ ngày giờ nào. Tôi lại thều thào :


- Sao bà không cho chụp hình cái đầu gối khốn khổ này của tôi ?


Bà Anne thẳng thắn trả lời :


- Vì tôi không thấy có chỉ định y học (indication médicale). Bệnh ông đã được chẩn đoán chính xác, không cần chụp tia phóng xạ, song ông đã muốn thì tôi chiều ý. Chụp hình rồi có khả năng ông bị chọc kim vô khớp xưong lấy nước (ponction articulaire) và bị nhiễm trùng thì phiển phức lắm .Tuy nhiên lên trại các bác sĩ sẽ họp bàn lại. Có thể bác sĩ Isabelle D. chuyên môn về phong thấp sẽ được tham khảo.


Do đó tôi được đưa đi chụp hình trước khi chuyển lên trại gặp bác sĩ Bernard B. một con người rất điềm đạm song cởi mở và thân thiện. Tôi lại nhắc đến nỗi thắc mắc đầu gối sưng to và đau quá, uống Tylenol chẳng ăn nhằm gì. Ông ta ôn tồn trấn an :


- Vấn đề này, tôi sẽ mời bà bác sĩ Isabelle D. chuyên khoa phong thấp lên tham vấn giải quyết cho ông. Duy có điều theo lời dặn của bạn tôi là François con trai ông, tôi khuyên ông hãy tạm quên “cái y học của ông” đi và để chúng tôi làm “cái job” của chúng tôi là săn sóc ông thật kỹ càng, có lý luận phân tích, theo đúng sách vở.


Ôi nghĩ mà buồn một phút cho thân phận người y sĩ già nua đã về vườn mà còn cố bám lấy cái nghiệp vào thân. Song thật tình tôi không giận họ vì thấy rõ họ tay nghề thật giỏi, ngay thẳng và có thiện tâm giúp đỡ mình. Kể cả khi bà Sylvie F. là bác sĩ chuyên khoa thận từng theo dõi và biết rõ chứng suy thận của tôi, đến thăm tôi bên giường bệnh, thẳng thừng chỉnh tôi:


- Tôi nghe François nói ông ăn uống bê bối lắm (grand amateur de la malbouffe) nhất là mỗi ngày uống cả lít Coca-Cola. Đã thế tôi gửi ông đi tham vấn dinh dưỡng viên, ông cũng chẳng thèm nghe lời. Để tôi nói cô dinh dưỡng viên đến gặp ông ngay đây, cấm chỉ mọi thức ăn bậy (junk foods). Còn cái đầu gối sưng thì để Isabelle toàn quyền vì bề nào hiện nay chuyện thiếu nước của ông không cho phép ông uống Colchicine ngay được. Thuốc này gây tháo dạ, ỉa chẩy ghê gớm lắm, làm ông càng thiếu nước thêm.


Chiều tối hôm ấy, bác sĩ Isabelle D. đến thăm bệnh tôi hết ngắm nghía mấy tấm phim lại nắn bóp cái đầu gối của tôi. Lúc sau bà ấy mới tuyên bố, vẻ mặt đắn đo suy nghĩ :


- Ông đau là phải vì trong khớp xương của ông tràn đầy nước. Tôi nghĩ phải chọc kim rút nước ra cho ông đỡ đau và chính tôi mang nước ấy đi soi kính hiển vi xem có tinh thể urate (cristaux d’urate) không vì đó là bằng chứng cụ thể nhất của bệnh “gút”. Sau đó tôi sẽ cho cấy trong 48 tiếng đồng hồ nước ấy xem có vi trùng nào mọc không. Nếu không tôi mới dám chích Dépo-Medrol chống viêm dài hạn. Sở dĩ phải vậy vì nếu đầu gối ông đã nhiễm trùng thì Dépo-Medrol sẽ càng làm nhiễm trùng hơn, có thể đưa đến “choáng” vì nhiễm trùng máu (choc septicémique), nguy hiểm lắm. Tôi nghĩ sáng mai Sylvie và Bernard có thể bắt đầu cho ông uống Colchicine và ông sẽ được xuất viện, hoàn toàn bình phục trước cuối tuần này.


Tôi hiểu ý bà ấy là không muốn nối dáo cho giặc, gà què chữa thành gà toi.


Thật đáng cảm phục thiện chí của người thầy thuốc, tận tâm giải thích cho bệnh nhân nghe, hành động dám lãnh trách nhiệm, với tinh thần hợp tác cùng équipe trị bệnh. Bà ấy còn trấn an tôi :


- Tôi sẽ chích thuốc tê rồi mới dùng kim lớn chọc vô đầu gối để lấy nước ra. Ông sẽ không cảm thấy gì cả, mà ông có sợ đau không ?


Tôi ra mặt dũng cảm :


- Kim chích của bà thì nhằm nhò gì với cái đau của bệnh “gút”. Người Việt chúng tôi gọi bệnh đó là “thống phong” mà ! Hơn nữa bà phải biết là tôi ở tù CS 4 năm, vượt biên lênh đênh trên biển đói khát cả mấy tuần lễ mới được cứu sống. Đời tôi đau khổ đã nhiều, bà ạ !


Bà ta mỉm cười khẽ nói :


- Ôi mà thời bĩ cực đã qua rồi (le pire est fait) vì giờ này ông đang ở Canada, ông không biết hay sao ?


Rồi bà thong thả đi kiếm đồ nghề rút nước trong đầu gối tôi ra, rất nhẹ nhàng chính xác song được đến mấy chục cc đầy 2 ống xét nghiệm bằng thủy tinh. Đầu gối tôi xẹp trông rõ và tôi tức khắc thấy nhẹ hẳn người, co chân lên đến phân nửa mà không đau đớn gì. Tôi cám ơn rối rít và tôi cảm nhận bà ta cũng tự tin, khoan khoái vì thấy công việc mình làm có hiệu nghiệm cho con bệnh. Trước khi ra khỏi phòng, bà nói :


- Tôi sẽ tự tay xét nghiệm ống nước này xem có tinh thể urate không. Còn ống nước kia thì để nhân viên phòng xét nghiệm cấy lên môi trường cho vi trùng mọc, nếu có.


Nửa giờ sau bác sĩ Isabelle D. trở lại, vui vẻ báo tin mừng là chính mắt bà đã thấy cả đống tinh thể urate bao quanh bởi cả chục sư đoàn bạch cầu đang tìm cách tiêu diệt giặc urates bằng cách ‘‘ăn sống nuốt tươi chúng”. Và bà hẹn 2 ngày sau sẽ trở lại tiêm Dépo-Medrol cho tôi, nếu kết quả thử nghiệm cấy trên môi trường không phát hiện ra vi trùng.


Quả thật sáng hôm sau bác sĩ điều trị Bernard B. đến thăm bệnh tôi và báo tin cho tôi biết là sau khi hội ý với bác sĩ Sylvie F. họ đồng ý bắt đầu cho tôi uống Colchicine, song cũng vì tình trạng suy thận của tôi, chỉ cho uống 2 viên chia làm 2 buổi sáng mà thôi.


Chứng nào tật nấy, tôi lại lên tiếng hỏi:


- Xin lỗi ông cảm phiền cho tôi hỏi một câu, một câu mà thôi.


Ông ta vội trả lời :


- Không, ông cứ hỏi chứ ! Đó là quyền của ông và bổn phận chúng tôi ở đây, cái job chính là phải làm sáng tỏ mọi thắc mắc của bệnh nhân.


- Hôm qua ông khuyên tôi hãy quên cái y học của tôi đi, song thật tình tôi không biết hay đã quên Colchicine thuộc loại thuốc gì và cơ chế tác động của nó thế nào ?


Bernard nở một nụ cười thật tươi và giảng cho ông bác sĩ già‘‘gần đất xa trời’’ hay Colchicine là một loại thuốc chống viêm rất xưa, đặc biệt hữu hiệu cho viêm khớp do tinh thể urate bị bạch cầu nuốt trọn (phagocytose) và đóng tụ tại chỗ. Song tác dụng của Colchicine khá chậm, nhiều khi phải cả tuần khớp xương mới bớt sưng. Ấy là chưa kể Colchicine còn khá độc cho cả gan lẫn thận, nhất là đại trường vì thường gây ỉa chảy rất dữ dội


- Chính những lý do ấy làm chúng tôi rất ngần ngại kê toa Colchicine song ông buộc phải uống thì đầu gối mới thật sạch tinh thể urate. Nay tình trạng tổng quát của ông đã khá nhiều do dung dịch Normal Saline truyền vô tĩnh mạch và do Isabelle đã rút bớt nước trong khớp ra. Vậy hôm nay ông hãy chuẩn bị ‘‘Tào Tháo sắp đuổi ông đấy’’ ! Tạm dịch tự do : ‘‘Vous allez avoir Mr Choléra courant après vous’’


Ôi thật là khủng khiếp cái nhà ông Tào Tháo Canađiên này ! Thoạt đầu tôi mắc đi cầu lắm lắm mà sao rặn mãi không ra, sau tôi mới sực nhớ ra (nhờ cái y học vừa lỗi thời vừa cổ lỗ sĩ của tôi) là Codéine gây táo bón không thua gì Colchicine gây tháo dạ. Quả nhiên tôi phải lấy 2 ngón tay moi ra một cục phân cứng ngắc như đá sỏi, đóng chốt ngay cửa hậu môn. Cửa vừa được mở ra thì ôi thôi sâm banh tuôn ra như suối Lồ Ồ.


May thay viên Colchicine thứ 2 bớt hành tôi nhiều và chiều hôm ấy đúng như lời hứa, bác sĩ Isabelle D. trở lại tươi tỉnh loan tin kết quả cấy vi trùng âm tính và bà ta sẵn sàng tiến hành việc tiêm nhiễm (infiltration) đầu gối tôi thuốc chống viêm dài hạn Dépo-Medrol, nếu tôi đồng thuận. Dĩ nhiên tôi gật đầu lia lịa vì chịu hết nổi Colchicine rồi mà đầu gối còn đau khôn xiết.


Vẫn bằng động tác nhẹ nhàng hôm trước, bà bơm vào đầu gối tôi một lọ Dépo-Medrol rồi thản nhiên đứng bên giường chờ phản ứng của tôi. Chừng 5-10 phút sau, bà nói tôi thử co chân lại xem sao. Thật như phép lạ nhờ thuốc tiên, tôi gập hẳn đầu gối lại không chút đau đớn !


- Vậy thì sáng mai tôi nói Bernard thử máu kiểm soát rồi nếu bình thường trở lại thì ông có thể yên tâm xuất viện ngay chiều mai được.


Đuợc lời như cởi tấm lòng vì nằm bệnh viện dù được săn sóc tử tế kỹ lưỡng thế nào, tôi vẫn có cảm giác như tù giam lỏng. Đấy là còn nhờ có nhà tôi sáng lái xe đi tối lái về, luôn luôn ở bên tôi, lo lắng nâng đỡ ông chồng bị cơn ‘‘gút’’ nó hành hạ. Vậy mà con tôi kể rằng có nhiều bệnh nhân bản xứ hẳn hòi khỏi bệnh rồi mà đuổi cũng không chịu về. Quả thật nếu chẳng may mình phải ăn xã hội, thì nằm viện no cơm ấm cật, có người chăm sóc tắm rửa lại chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào thì tội gì mà không kéo dài ngày nào hay ngày đó.


Thế mà sáng hôm sau nóng ruột hết đứng lại nằm chờ mãi cũng không thấy ông thầy Bernard đến cho tin tức. Nhà tôi phải an ủi, theo cách của bà ấy :


- Anh phải hiểu là người ta còn trăm công nghìn việc khác nữa chứ bộ cả cái bệnh viện này chỉ có anh là bệnh nhân hay sao ? !


Nhưng rồi xế trưa thì chàng cũng đến, mặt không mấy vui :


- Máu của ông tốt rồi đấy. Duy có chất potassium thì còn hơi cao, những 5.8 mmol. Tôi đoán là bà Sylvie F. cho ông uống thuốc lợi tiểu ở nhà nhưng vô đây ông bị khô nước, bà ấy đã cắt bỏ nên chất điện ly K (électrolyte K) mới tăng như vậy. Tôi sẽ cho thử lại stat (tiếng nhà nghề là có kết quả ngay), nếu chất K đã giảm so với hồi sáng thì tôi mới dám cho ông về, song ông phải uống lại thuốc lợi tiểu ngay sáng mai.


Một giờ sau, Bernard trở lại mặt tươi như hoa :


- Đây này, potassium xuống còn 5.3. Dấy thật là một dấu hiệu tốt. Tôi yên tâm để ông xuất viện ngay bây giờ với toa thuốc ra viện, thuốc cũ căn cứ vào DSQ và thuốc mới cho hợp với tình trạng mới của ông. Và ông nhớ 2 tuần nữa đi thử máu lại rồi lấy hẹn với bác sĩ Sylvie F. vả bác sĩ Isabelle D. để họ theo rõi bệnh ông. À mà chút quên, boss François của tôi nhắn ông phải đi khám lại bà Marie-Chantale M. về mặt tâm thần đấy nhé !


Cái ông con trưởng nam của tôi này dường như cho tôi già rồi phát khùng, Alzheimer hay sao mà cứ có dịp là nhắn nhe hết người này đến người kia nhắc tôi phải đi khám psychologist với chẳng psychiatrist. Riêng tôi thấy điên khùng gì đâu, chỉ thấy mình có quên quên nhớ nhớ, hơi gàn một chút, hay phát ngôn bừa bãi, không giống ai nhất là về tư duy. Song việc gì tôi cũng muốn khôi hài hóa, để khỏi nằm dài trên giường thẫn thờ nhớ chuyện ngày xưa mà khóc thầm. Nói có bà xã tôi làm nhân chứng !


Nếu tôi chấm dứt bài viết của tôi ở đây thì tôi mắc lỗi rất lớn với những nhân viên bệnh viện tôi nằm. Chỉ đáng tiếc là tôi không nhớ hết tên họ mọi người vì cách sắp xếp nhân viên của bệnh viện dựa trên équipes chứ không theo trại bệnh. Thành thử nay họ làm trại này, mai lại đi trại khác. Ngoại trừ bà điều dưỡng trưởng (thường là một infirmière bachelière nghĩa là có trình độ đại học) thì phụ trách điều khiển thường trực một trại. Dẫu sao xin ghi lại đây vài kỷ niệm vui vui đáng nhớ trong 4 ngày tôi được điều dưỡng tại trại 6 Ouest. Cũng phải kể những điều rất hay và lý thú tôi đã học được nơi họ.


Ở khu Cấp Cứu tôi nằm trên băng ca và khi chuyển trại, một người y công đã đứng tuổi song vóc dáng khá lực lưỡng, đẩy tôi vô thang máy đưa lên trại ở lầu thứ 6. Đến cửa phòng ông ta hỏi tôi có vô phòng một mình được không


Tôi nghĩ mình có mang theo cây gậy nên nghĩ là chống mà đi cũng xong. Nhưng khi thấy tôi quá loạng choạng thì chẳng nói chẳng rằng ông ta bế xốc tôi lên, bồng tôi đặt lên giường và hết lời xin lỗi trước khi bỏ đi.


Bà trưởng trại đến gặp tôi mang theo một cái marchette và nói tôi khoan dùng cây gậy đồng thời hứa sẽ can thiệp để khu vật lý trị liệu cử nhân viên (physiothérapeute) lên chỉ dẫn tôi cách đi đứng. Cô trưởng toán điều dưỡng cũng đến, vui vẻ đo áp huyết, bắt mạch và lấy thủy. Tôi hỏi xin cô ấy một hộp Kleenex thì cô ấy lớn tiếng gọi :


- Yvonne, mang cho ông Đặng một họp mùi xoa (mouchoirs). Lẹ lên đấy!


Tôi khen cô ấy nói đúng tiếng Pháp thì cô ấy mỉm cười mà nói :


- Yvonne gốc Pháp nên tôi không nói tiếng Québécois (Kleenex) mà dùng chữ mouchoirs để trêu chọc nó.





Học đi đứng tôi phải thú thực có được chỉ dẫn mới biết cách xử dụng canne và marchette đúng phương pháp, khoa học. Cô sinh viên physiothérapeute nhò bé và nhỏ nhẹ, lễ phép chẳng kém gì một cô gái VN. Dưới sự trông chừng của huấn luyện viên, cô chỉ tôi cách cầm canne : Nếu đau bên mặt, phải cầm canne bên trái và nghịch lại. Lên thang phải bước từng bậc : Khi lên, chân lành bước trước, chân đau theo sau. Khi xuống, chân đau xuống trước, chân lành xuống sau. Như thế chân lành phải chịu đựng nhiều sức nặng của thân thể và người bệnh đỡ đau. Cô mách cho cách nhớ thật ngộ nghĩnh khiến tôi phải bật cười :


- Vì người tốt (chân lành) lên thiên đàng, còn kẻ xấu (chân đau) xuống địa ngục ! Nhớ thế thì ông không bao giờ lầm lẫn cả.


Các học viên phục vụ bệnh nhân bao giờ cũng có huấn luyện viên đứng cạnh chỉ dẫn và giám sát. Thí dụ như trước bữa ăn nào cũng lấy máu ở đầu ngón tay để thử lượng đường. Đây là công việc của người y tá, song nếu là một học viên thì đương nhiên có huấn luyện viên đứng cạnh trông chừng. Sau bữa ăn, lại có nhân viên khu dinh dưỡng đến quan sát khay đồ ăn, ghi nhận mình ăn được bao nhiêu. Một lần thấy khay ăn của tôi sạch trơn, anh ta ngạc nhiên hỏi tôi ăn hết khay sao. Thấy tôi gật đầu, anh ta khẽ liếc nhìn nhà tôi nhưng rồi lặng lẽ bỏ đi. Chắc là anh chàng nghi nhà tôi ‘‘ăn chạc’’mà quả có thế thật.


Câu chuyện sau cùng và cũng là điều hay nhất cho tôi là cô dinh dưỡng viên ngồi đàm luận với tôi suốt cả tiếng đồng hồ. Cô nói là bà bác sĩ Sylvie F. căn dặn cô ấy phải nói cặn kẽ cho tôi ăn uống phải đàng hoàng, đúng cách, đúng bệnh. Tóm tắt gần như tôi phải ăn chay trường !


- Lý do chính ông phải nhập viện không phải vì bệnh ‘‘gút’’ mà vì suy thận. Vậy trước hết là ông phải tránh ăn chất đạm, nhất là thịt đỏ và phải uống ít nhất 3 lít nước một ngày, nước suối tốt nhất rồi đến nước trái cây vắt chứ như Coca-Cola thì tuyệt đối cấm. Trừ phi ông mong được lọc thận hay ghép thận ! Mà tuổi ông , người ta không ghép cho đâu. Ưu tiên dành cho người trẻ, còn làm việc, còn đóng thuế cho nhà nước.


Bệnh ‘‘gút’’ nguyên do tại lượng acide urique trong máu quá cao vì thận phế thải không kịp. Thế nhưng acide urique ở đâu mà ra ? Do chất purines trong thực phẩm ta ăn vào biến hóa thành sản phẩm cuối cùng (end product) là acide urique. Purines có trong cả động vật lẫn thực vật, song điều lạ là acide urique từ purines động vật mới gây nhiều cơn ‘‘gút’’ hơn là từ thực vật. Cho nên măng tây, bắp cải rất nhiều purines nhưng ta không cần tránh nhiều. Trái lại thịt rừng, phá lấu, tôm cua, đồ biển rất là độc địa cần kiêng tối đa. Nói về đồ uống thì bia là cấm kỵ chứ rượu mạnh, rượu chát không đến nỗi nào. Đặc biệt ít ai biết là nước trà độc hơn cà phê và tốt nhất là tisane.


Cô ta chỉ nói về suy thận và thống phong song tôi còn bị biết bao nhiêu chuyện ‘‘cao’’ nữa : Nào là áp huyết, nào là cholestérol, nào là glucose … khiến tôi phải kiêng đủ mọi thứ (thịt, muối, mỡ, đuờng, đồ biển) còn gì mà sống … cho ra sống nữa ! Cho nên trước khi ngã bệnh tôi chủ trương ăn cho sướng rồi chết nhưng chết đâu phải dễ. Chỉ một cơn ‘‘gút’’ cũng đủ làm mình ngất ngư mà đâu có chết được.


Ra viện tôi đổi hẳn cách sống, kiêng cữ rất kỹ như nhà tu ăn chay trường và tuyệt đối một giọt Coca cũng không uống ! Để rồi xem sao ?


Đặng Ngọc Thuận


Đầu Xuân 2016

TÌNH YÊU KHÔNG NHẠT PHAI

  
Đêm hôm đó khi trở về nhà, trong lúc vợ tôi dọn bữa ăn tối, tôi nắm lấy tay cô ấy và nói rằng, tôi có việc cần phải nói với cô ấy. Cô ấy ngồi xuống, lặng lẽ ăn. Một lần nữa tôi nhìn thấy nỗi đau trong đôi mắt cô ấy
Đột nhiên, tôi không biết phải làm thế nào để bắt đầu câu chuyện. Nhưng tôi phải nói cho cô ấy biết những gì tôi đã suy nghĩ. Tôi muốn ly hôn. Tôi nêu vấn đề ra một cách bình tĩnh. Dường như cô ấy không bị khó chịu với những lời tôi nói, thay vào đó chỉ nhẹ nhàng hỏi, tại sao?
Tôi tránh trả lời câu hỏi của cô ấy. Điều này đã làm cô ấy giận dữ. Cô ấy ném đôi đũa đi và hét vào mặt tôi, anh không phải là một người đàn ông! Đêm đó, chúng tôi đã không nói chuyện với nhau. Cô ấy thổn thức. Tôi biết cô ấy muốn tìm hiểu những gì đã xảy ra đối với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Nhưng tôi khó có thể cho cô ấy một câu trả lời dễ chịu gì, cô ấy đã để Jane đánh cắp mất trái tim tôi. Tôi không còn yêu cô ấy nữa. Tôi chỉ thương hại cô ấy!
Thực sự cảm thấy tội lỗi, tôi thảo lá đơn ly hôn ghi rõ cô ấy sẽ sở hữu căn nhà, chiếc xe hơi và 30% cổ phần của công ty tôi. Cô ấy liếc nhìn nó và sau đó xé nó ra từng mảnh nhỏ. Người phụ nữ đã trải qua hơn chục năm cuộc đời mình với tôi đột nhiên đã trở thành một người xa lạ. Tôi cảm thấy tiếc cho cô ấy vì đã đánh mất thời gian thời gian, nguồn lực và sức lực, nhưng tôi không thể rút lại những lời đã nói – tôi đã quá yêu Jane. Cuối cùng cô ấy òa khóc trước mặt tôi, và đó là những gì tôi mong đợi xảy ra. Đối với tôi, tiếng khóc của cô ấy sẽ là cách để giải tỏa nỗi đau. Ý tưởng về việc ly hôn đã dằn vặt tôi suốt nhiều tuần qua giờ dường như chắc chắn và rõ ràng hơn.
Ngày hôm sau, tôi trở về nhà rất muộn và thấy cô ấy đang cắm cúi viết tại bàn làm việc. Tôi không ăn bữa tối mà đi ngủ luôn và ngủ thiếp đi rất nhanh bởi vì tôi đã mệt mỏi sau một ngày bận rộn với Jane. Khi tỉnh giấc, cô ấy vẫn ngồi viết ở bàn. Tôi không quan tâm vì vậy tôi trở mình và ngủ tiếp.

Buổi sáng dậy, vợ tôi bắt đầu trình bày điều kiện ly hôn: Cô ấy không muốn bất cứ thứ gì từ tôi, nhưng cần tôi thông báo một tháng trước khi ly hôn. Cô ấy yêu cầu rằng trong một tháng đó, cả hai chúng tôi phải cố gắng để sống một cuộc sống bình thường nhất có thể. Lý do cô ấy đưa ra khá đơn giản: con trai của chúng tôi sẽ có kỳ thi của mình trong một tháng tới và cô ấy không muốn làm nó phân tâm với cuộc hôn nhân tan vỡ của chúng tôi.
20140325-010723.jpg
Tôi có thể chấp nhận được điều kiện này. Nhưng cô ấy còn yêu cầu nhiều hơn thế, cô ấy yêu cầu tôi nhớ lại cách mà tôi đã đưa cô ấy vào ra phòng cô dâu trong ngày cưới của chúng tôi. Cô yêu cầu mỗi ngày trong thời gian một tháng tới tôi phải đưa cô ấy ra khỏi phòng ngủ của chúng tôi tới cửa trước vào buổi sáng. Tôi nghĩ rằng cô ấy bị điên rồi. Chỉ để giúp cho những ngày cuối cùng của chúng tôi cùng nhau là chấp nhận được tôi đành chấp thuận yêu cầu kỳ quặc của cô ấy.
Tôi đã nói với Jane về điều kiện ly hôn của vợ tôi. Cô ấy cười to và cho rằng đó là một yêu cầu ngu xuẩn. Bất kể vợ tội có mánh khóe gì, cô ấy có phải đối mặt với việc ly hôn, Jane nói một cách khinh bỉ.
Vợ tôi và tôi đã không đụng chạm gì về thể xác kể từ khi ý định ly hôn của tôi được thể hiện một cách rõ ràng. Vì vậy, khi tôi bế cô ấy vào ngày đầu tiên, cả hai chúng tôi tỏ ra khá lóng ngóng, vụng về. Con trai tôi vỗ tay và theo sau chúng tôi: Cha đang bế mẹ trên tay của mình. Lời nói đó của con trai mang lại cho tôi một cảm giác đau đớn. Từ phòng ngủ đến phòng khách, sau đó đến cửa, tôi đã bước đi trên mười mét với cô ấy trên tay. Cô ấy nhắm mắt và nói nhẹ nhàng, đừng nói với con trai của chúng ta về việc ly hôn. Tôi gật đầu và cảm thấy có chút gì đó đổ vỡ. Tôi đặt cô ấy xuống ở cửa ra vào. Cô ấy đứng đó chờ xe buýt để đi làm. Tôi lái xe một mình đến văn phòng.
Vào ngày thứ hai, cả hai chúng tôi đã hành động dễ dàng hơn. Cô ấy dựa vào ngực tôi. Tôi có thể ngửi được mùi hương từ áo khoác của cô ấy. Tôi nhận ra rằng tôi đã không nhìn người phụ nữ này một cách cẩn thận trong một thời gian dài. Tôi nhận ra cô ấy không còn trẻ nữa. Có những nếp nhăn trên khuôn mặt của cô, mái tóc cô đã ngả màu xám! Cuộc hôn nhân của chúng tôi đã lấy đi nhiều thứ của cô ấy. Trong một phút, tôi tự hỏi tôi đã làm được những gì cho cô ấy.
Vào ngày thứ tư, khi tôi nâng cô ấy lên, tôi cảm thấy một cảm giác thân mật trở về. Đây là người phụ nữ đã có mười năm chung sống với tôi. Vào ngày thứ năm và thứ sáu, tôi nhận ra rằng cảm giác của sự thân mật của chúng tôi đã tiếp tục tăng lên. Tôi đã không nói với Jane về việc này. Việc bế vợ tôi đã trở nên dễ dàng hơn khi thời gian một tháng dần trôi qua. Có lẽ mỗi ngày đều luyện tập như vậy đã làm tôi trở nên khỏe hơn.
Một buổi sáng, cô ấy đã lựa chọn kỹ càng những đồ để mặc. Cô đã thử một vài bộ nhưng không thể tìm được một bộ nào phù hợp. Cuối cùng, cô ấy thở dài, tất cả quần áo của mình đã trở nên rộng hơn. Tôi đột nhiên nhận ra rằng cô đã quá gầy, đó là lý do tại sao tôi bế cô ấy đã dễ dàng hơn.
Đột nhiên điều đó như một cú đánh vào tôi … cô ấy đã phải chôn giấu nhiều đau đớn và nỗi cay đắng trong tim. Một cách vô thức, tôi đưa tay ra và chạm vào đầu cô ấy.
Lúc này con trai chúng tôi chạy đến và nói, Cha à, đến giờ bế mẹ ra rồi. Đối với thằng bé, việc thấy cha mình bế mẹ mình trên tay đã trở thành một phần thiết yếu trong cuộc sống của nó. Vợ tôi ra hiệu cho con trai của chúng tôi lại gần và ôm nó thật chặt. Tôi quay mặt đi vì sợ rằng tôi có thể thay đổi quyết định của tôi ở phút cuối cùng này. Sau đó tôi bế cô ấy trong vòng tay, bước từ phòng ngủ, ngang qua phòng khách, và đi qua hành lang. Cô ấy vòng tay qua cổ tôi một cách nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi ôm cô ấy thật chặt, giống như vào ngày cưới của chúng tôi.


Điều làm tôi buồn là cô ấy còn nhẹ hơn nhiều so với tôi tưởng. Vào ngày cuối cùng, khi ôm cô ấy trong vòng tay của tôi, tôi lại khó có thể cất được bước chân. Con trai chúng tôi đã đi đến trường. Tôi ôm cô ấy thật chặt và nói rằng, anh đã không nhận thấy rằng cuộc sống của chúng ta ddax thiếu đi sự thân mật. Tôi lái xe đến văn phòng …. nhảy ra khỏi xe thật nhanh mà không cần khóa cả cửa xe. Tôi sợ bất cứ sự chậm trễ nào của mình sẽ khiến tôi đổi quyết định của mình… Tôi bước lên mấy bậc thang. Jane mở cửa và tôi đã nói với cô ấy, Xin lỗi Jane, anh không muốn ly dị nữa.
Cô ấy nhìn tôi, ngạc nhiên, và sau đó sờ trán tôi. Anh có bị sốt không? Cô ấy nói. Tôi gỡ tay cô ấy ra. Xin lỗi, Jane, tôi nói, anh sẽ không ly dị. Cuộc sống hôn nhân của anh có lẽ đã tẻ nhạt vì cô ấy và anh không đánh giá cao những chi tiết của cuộc sống chung, chứ không phải vì bọn anh đã không còn yêu nhau nữa. Giờ đây anh nhận ra rằng vì rằng anh đã bế cô ấy vào trong nhà vào ngày cưới, tôi sẽ bế cô ấy như vậy cho đến khi cái chết chia lìa anh và cô ấy. Jane dường như choàng tỉnh. Cô ta cho tôi một cái tát như trời giáng rồi đóng sầm cửa lại và bật khóc. Tôi xuống cầu thang và lái xe đi. Tại tiệm hoa bên đường, tôi mua một bó hoa cho vợ tôi. Cô bán hàng hỏi tôi cần ghi những gì trên thiệp. Tôi mỉm cười và viết, anh sẽ bế em ra khỏi phòng vào mỗi sáng cho đến khi cái chết chia lìa đôi ta.
Tối hôm đó, tôi về đến nhà, với hoa tay tôi, và nụ cười nở trên môi, tôi chạy lên cầu thang, chỉ để thấy vợ tôi nằm trên giường – cô ấy đã ra đi. Vợ tôi đã chiến đấu với căn bệnh UNG THƯ trong nhiều tháng qua và tôi đã quá bận rộn với Jane để có thể nhận ra điều đó. Cô ấy biết rằng mình sẽ chết và cô ấy muốn ngăn tôi khỏi bất kỳ phản ứng gì tiêu cực từ con trai của chúng tôi, trong trường hợp chúng tôi sẽ ly hôn với nhau – Ít nhất, trong con mắt của con trai của chúng tôi – Tôi là một người chồng đầy tình yêu thương … .
Các chi tiết nhỏ trong cuộc sống của bạn thực sự là quan trọng trong một mối quan hệ. Nó không phải là biệt thự, xe hơi, tài sản, hay tiền trong ngân hàng. Những thứ đó tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho hạnh phúc, nhưng bản thân chúng không thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta.
Vì vậy, hãy dành thời gian để trở thành bạn thân của người bạn đời của bạn và làm cho nhau những việc nhỏ mà có xây dựng được sự thân mật. Hãy có một cuộc hôn nhân thực sự hạnh phúc!
Nếu bạn không chia sẻ bài này, chẳng có điều gì xảy ra với bạn.
Nếu bạn chia sẻ, bạn có thể sẽ cứu vãn được một cuộc hôn nhân nào đó. Nhiều người gặp thất bại trong cuộc sống là những người không nhận ra họ đã đến gần với thành công thế nào khi họ quyết định bỏ cuộc.
Hãy nhớ rằng tình yêu là những thứ quý báu nhất trong tất cả các kho báu. Nếu không có nó bạn sẽ chẳng có gì, và nếu có nó bạn có tất cả mọi thứ. Tình yêu không bao giờ mất đi, ngay cả khi xương cốt của một người mình yêu đã trở thành tro bụi. Cũng giống như mùi thơm của gỗ đàn hương không bao giờ mất đi, ngay cả khi nó đã bị nghiền nát, tương tự như vậy nền tảng của tình yêu là linh hồn, nó không thể phá hủy và tồn tại mãi mãi. Vẻ đẹp có thể mất đi, nhưng tình yêu thì không bao giờ.

No comments:

Post a Comment