Pages

Wednesday, November 23, 2016

NGUYỄN TƯONG THỤY = VIETTUSAIGON = HÀ THÚC KÝ




NGUYỄN TƯỜNG THỤY * KINH NGHIỆM MYANMA

Chuyến đi tham quan học hỏi kinh nghiệm của Myanmar


Thắng lợi rực rỡ của phong trào dân chủ trong cuộc bầu cử tự do ở Myanmar ngày 8/11/2015 đã mở ra cho đất nước này một cơ hội xây dựng một thể chế dân chủ. Sự kiện đã lan tỏa đến Việt nam gây hưng phấn cho giới hoạt động dân chủ khiến cho những người hoạt động dân chủ vừa phấn khởi, vừa nhìn lại phong trào dân chủ ở đất nước mình.
Nắm bắt được những nỗi trăn trở của những người hoạt động dân chủ ở quốc nội, Đảng Việt Tân đã tổ chức một chuyến đi thăm Myanmar nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền.
Mục tiêu của chuyến thăm là học hỏi kinh nghiệm của Myanmar từ thời phong trào còn đối diện với những khó khăn cơ bản như Viêt nam hiện nay cho đến những nỗ lực trong cuộc tổng tuyển cử vừa qua.
Tại Myanmar, phái đoàn sẽ gặp gỡ các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội dân sự và truyền thông Myanmar để rút ra những kinh nghiệm trong từng lĩnh vực hoạt động.
Chương trình của chuyến đi sẽ có những nội dung chính:
1. Gặp gỡ các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội dân sự và truyền thông Myanmar.
2. Thảo luận bàn tròn về nhân quyền với một số tổ chức ở Myanmar.
3. Thắp nến cho Dân chủ Việt Nam nhân ngày Quốc tế Nhân quyền và thăm các di tích lịch sử liên quan đến công cuộc đấu tranh của người dân Myanmar.
Chương trình cuộc thăm Myanmar sẽ diễn ra trong 3 ngày: 7,8,9 năm 2015.
Số thành viên từ Việt Nam đã có mặt tại Myanmar là 7 người. 
Có 6 người bị chặn xuất cảnh không đi được là Nhà văn Phạm Thành, Nhà báo Nguyễn Tường Thụy, Nhà hoạt động Trương Văn Dũng, Lê Sỹ Bình, Mục sư Hoàng Hoa và Nhạc sĩ Văn Cung.
Ngày đầu tiên, vào lúc 15 giờ chiều nay, Đoàn đã Gặp gỡ Đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ  (NLD)
Tại trụ sở của Đảng Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ, phái đoàn đã được đón tiếp bởi ông Nyan Win phát ngôn nhân đảng NLD, và sau đó là cuộc trò chuyện với ông Tin Oo, Chủ tịch Danh Dự của NLD.
Tướng Tin Oo cùng với bà Aung San Suu Kyi là một cặp bài trùng không thể thiếu của cuộc đấu tranh dân chủ Miến Điện. Cả hai đã kết hợp vào năm 1988 để thành lập đảng NLD.
Trong hơn một giờ trò chuyện, ông Tin Oo đã chia sẻ nhiều bài học về phong trào. Khi được cho biết rất nhiều người Việt Nam sung sướng với kết quả thắng cử vừa qua, ông nói: "Đừng! Khoan hãy mừng vội. Đó chỉ là một chặng đường và chúng tôi chưa thành công. Chúng tôi còn nhiều điều phải làm để đất nước này khá hơn, thật sự dân chủ."
Với câu hỏi điều gì đã giúp các ông thành công trước 30 năm đàn áp của nhà cầm quyền? Ông nói: "Lòng dân. Chúng tôi luôn đi sát với lòng dân. Chúng tôi hiểu họ và đấu tranh cho họ, là tiếng nói của họ." Ông chia sẻ thêm "và phải bất bạo động. Đó là chính sách và kim chỉ nam của chúng tôi. Chúng tôi chống lại mọi hành vi bạo động kể cả việc trả thù với những người trong quân đội đã từng hành hạ, cầm tù chúng tôi. Bất bạo động, phải bất bạo động."

Đoàn gặp gỡ Đảng Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ
Trước đó, trên đường đến trụ sở của đảng NLD, đoàn đã dừng chân trước cổng nhà bà Aung San Suu Kyi, một căn nhà bình dị bên bờ hồ Inya là nơi ở, và cũng là chốn giam giữ bà bởi nhà cầm quyền quân phiệt suốt 15 năm trời từ năm 1989 đến 2010. Cũng tại nơi đây, đằng sau cánh cửa sắt bà đã từng xuất hiện mỗi cuối tuần để chào đón những thường dân Myanmar có cảm tình, đến thăm hỏi và bày tỏ sự ủng hộ của họ với bà.
Bên cổng sắt lạnh lùng này vẫn có những chòm hoa nở rộ. Giữa sự kìm kẹp khủng bố, lòng bất khuất đã đơm hoa dân chủ.

 Trước cổng nhà bà  Aung San Suu Kyi

Các thành viên trong đoàn đến thăm Myanmar
Cuối buổi chiều, đoàn tham quan chùa Shwedagon
Trong hai ngày tới, Đoàn sẽ có hững hoạt động như sau:
@ Gặp gỡ Đài Tiếng nói dân chủ Myanmar (Democratic Voice of Burma) phát thanh từ năm 1992
@ Gặp gỡ Hội tương trợ Tù nhân chính trị (Assistance Association for Political Prisoners, AAPP). Hội Tương Trợ Tù Nhân Chính Trị được thành lập tại Thái Lan, nay có trụ sở ở Miến Điện. 
@ Thảo luận Bàn tròn Bài học từ Myanmar tại Myanmar Innovation Lab, Phandeeryar, cùng đại diện các tổ chức dân chủ Việt Nam & Miến Điện.          
@ Gặp gỡ Nhóm Sinh viên thế hệ 88 (88 Generation Students Group) Vào giai đoạn 1988, họ là những sinh viên trẻ tuổi, lãnh đạo phong trào xuống đường của sinh viên đòi độc lập cho Miến Điện. Nhiều người trong số này đã bị cầm tù với những bản án chung thân.
@ Sinh hoạt với tổ chức FREEDOM HOUSE (tại Phandeeryar). Đây là một trong các tổ chức phi chính trị lớn của Hoa Kỳ, chuyên về vấn đề tự do chính trị. 
@ Gặp gỡ tổ chức Khởi hành Myanmar (Myanmar Egress). Tổ chức này thành lập năm 2006 nhằm hỗ trợ các hoạt động xã hội dân sự. 
@ Gặp gỡ tổ chức Thế hệ cơn sóng (Generation Wave) Tổ chức này được thành lập năm 2007 ngay sau cuộc xuống đường của các sư sãi (Saffron Revolution), bị đàn áp đẩm máu bởi nhà cầm quyền quân phiệt.
@ Hoạt động cuối cùng của Đoàn là buổi tối ngày 9/12/2015 là thắp nến cho Dân chủ Việt Nam nhân ngày Quốc tế Nhân quyền.
Mặc dù không thể có mặt ở Đất nước Myanmar cổ kính và xinh đẹp, chúng tôi luôn cảm ơn Đảng Việt Tân đã chân tâm, tận tình, chu đáo hết mức đối với chúng tôi trong chuyến thăm này. Tuy nhiên, 7 người có mặt sẽ thay mặt chúng tôi cất lên tiếng nói khát khao dân chủ - một sự khao khát tự nhiên của con người mà lâu nay, đảng cộng sản Việt nam ngang nhiên tước đoạt của chúng tôi.
Xin chúc cho chuyến thăm Myanmar của những người đấu tranh cho dân chủ thành công mỹ mãn.
7/12/2015
NTT
Bài có sử dụng thông tin thông tin và hình ảnh của các bạn trong đoàn.

NGUYỄN THỊ TỪ HUY * MÔN SỬ

Môn sử ở trường phổ thông : đa dạng quan điểm và sự thật lịch sử


Nhân cuộc thảo luận đang diễn ra gần như trên phạm vi toàn xã hội về vị trí thê thảm của môn lịch sử trong Dự thảo chương trình giáo dục tổng thể do Bộ Giáo dục ban hành trong khuôn khổ dự án cải cách giáo dục mà BGD đang thực hiện, tôi xin giới thiệu lại ở đây bài phỏng vấn một giáo viên Pháp dạy môn lịch sử ở cấp trung học cơ sở, từng công bố trên tạp chí Tia sáng. Tựa đề do tôi đặt lại.
Khi có thời gian tôi sẽ trở lại với dự thảo về cải cách chương trình môn sử, một cách cụ thể.
Tạm thời xin nêu ra đây mấy câu hỏi : 
1/ Nếu coi việc rút bỏ thời lượng của môn sử và đem nó tích hợp với hai môn khác là một sự cải cách, thì cải cách này sẽ mang lại kết quả hay hậu quả nào ? Cải cách này liệu có góp phần giải quyết các vấn đề hiện tại mà môn lịch sử đang gặp phải hay không ? Những người thiết kế chương trình có hình dung tới kết quả hay hậu quả của các đề xuất do mình đưa ra ?
2/ Tên gọi của môn lịch sử, trên thực tế, không tồn tại trong Dự thảo, nó đã được thay thế bằng một tên mới « Công dân và Tổ quốc ». Tên gọi này cho thấy, môn lịch sử thậm chí không có được sự bình đẳng với hai môn mà nó tích hợp : giáo dục công dân và giáo dục quốc phòng. Điều này, cộng với sự giảm thiểu thời lượng đến mức thảm hại của môn sử (Theo ông Bùi Mạnh Hùng cho biết, môn « Công dân và Tổ quốc » có 105 tiết/năm, như vậy, giả sử thời lượng của môn sử bình đẳng với hai môn còn lại cho dù nó hoàn toàn không có mặt trong tên gọi của môn học, thì nó cũng chỉ có hơn 30 tiết/năm), đã gây nên nỗi lo âu cho nhiều bộ phận xã hội trước nguy cơ về sự biến mất của môn lịch sử. Nguy cơ này có thật hay không ? Khi hình dung về nguy cơ này, nhiều người nghĩ đến ý kiến của Havel, nguyên tổng thống Tiệp Khắc, về việc trong chế độ toàn trị không có lịch sử, và đồng thời nghĩ đến việc lịch sử đã bị viết lại như thế nào và bị xuyên tạc một cách có hệ thống như thế nào trong các chế độ cộng sản.
3/ Nếu nguy cơ môn lịch sử biến mất là có thật, và nếu BGD và những người soạn dự thảo chương trình cương quyết không thay đổi quan điểm của mình, nếu việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo chương trình giáo dục cũng có cùng bản chất với việc lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo hiến pháp sửa đổi vừa qua : dân đóng góp ý kiến thì cứ đóng góp, phần quyết định thuộc về những người nắm quyền lực, và khi quyết định người nắm quyền không thèm đếm xỉa đến ý kiến của dân, thì trong trường hợp này, xã hội cần phải làm gì để ký ức lịch sử của toàn dân tộc không bị xóa bỏ ?
4/ Những người bảo vệ xu hướng rút bỏ tối đa thời lượng môn sử và tích hợp để biến nó thành một bộ phận của môn « Công dân và Tổ quốc » cho rằng : « không nên quan niệm giáo dục lịch sử trong nhà trường là phải dạy các kiến thức của khoa học Lịch sử một cách hệ thống ».
Trong khi đó quan điểm của giáo viên sử ở Pháp (tôi trích nguyên văn từ bài phỏng vấn dưới đây) : « Các chương trình cũng phản ánh sự tiến triển của khoa học lịch sử. Cuối thời kỳ thống trị bởi cái gọi là Biên niên sử (Annales), từ những năm 1980, khoa học Lịch sử là nơi các thành tố chính trị và văn hóa được đánh giá trong tương quan với kinh tế và xã hội, và các chủ đề nghiên cứu cũng chia cắt với nhau thành những chủ đề nhỏ hơn. »
Vì sao có sự khác nhau trong quan niệm về môn sử ở trường phổ thông, khác nhau đến mức trái ngược như vậy ?
5/ Cuối cùng : trong nhìn nhận của nhiều người, việc « tích hợp » môn sử có lẽ cho thấy giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa một cách sâu sắc như thế nào, và những người soạn chương trình bị chính trị chi phối một cách đau đớn đến như thế nào.
Tuy nhiên, nếu quả thật không phải như vậy, nếu quả thật những người thiết kế chương trình lần này có tự do đề xuất ý tưởng của mình và không bị cái vòng kim cô của Ban Tuyên giáo siết chặt, thì mong rằng chúng ta có thể chứng kiến việc những người soạn chương trình có tự do thay đổi ý tưởng, dựa trên việc phân tích thực tế xã hội chính trị của Việt Nam hiện thời, dựa trên việc tiếp thu lòng dân và nỗi niềm của tầng lớp trí thức.
Tự do thay đổi Dự thảo còn là biểu hiện của lương tâm và trách nhiệm của những người làm chương trình đối với thế hệ trẻ và đối với vận mệnh dân tộc.
Paris, 26/11/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
Môn sử ở trường phổ thông: đa dạng quan điểm và sự thật lịch sử
Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH):
Trước hết, xin cám ơn ông đã cho tôi dự tiết ông dạy về chủ nghiã Quốc-Xã ở lớp 9.  Tôi theo dõi ông làm việc với một nửa lớp, gồm những học sinh chậm tiến. Nhưng tôi không cảm thấy là học trò của ông gặp khó khăn, vì ông đã thúc đẩy các em nói ra các ý kiến của mình, giúp các em hiểu bài, nắm được các khái niệm và những hiện tượng phức tạp khó nắm bắt, như hệ ý thức Quốc-Xã, như chủ nghĩa bài Do Thái, như khái niệm chuyên chế ...  Tôi nhận thấy ông không nói nhiều, mà đặt nhiều câu hỏi. Khi học trò không trả lời được ngay, ông đưa ra các gợi ý hoặc ông nêu câu hổi theo cách khác. Tôi thấy ông tỏ ra rất kiên nhẫn để hướng các học trò tới các mục tiêu bài học phải đạt được. Tôi có thể hình dung thấy việc ông chuẩn bị bài giảng chẳng đơn giản chút nào, ông đã đưa ra bốn lược đồ và học sinh phải tự phân tích dưới sự hướng dẫn của ông. Xin ông làm ơn giải thích chi tiết hơn về phương pháp làm việc của ông cũng như về mục đích chính xác của bài dạy này?
Dominique Delmas:
Một trong những mục tiêu có tính thách thức trong chương trình Sử học lớp 9 trung học cơ sở là làm cho học sinh hiểu rõ hai nhà nước toàn trị thế kỷ thứ 20, là nhà nước Đức Quốc-Xã và nhà nước kiểu Stalin, làm sao chỉ ra cho các em thấy hai nhà nước đó có gì giống nhau và có gì khác nhau.
Tôi hoàn toàn tôn trọng phương pháp suy diễn, xuất phát từ các tư liệu lịch sử để đi tới phát hiện hệ ý thức, các mục tiêu và cách thức hoạt động trong thực tiễn của các chế độ toàn trị, nên tôi đã nghĩ đến việc sử dụng các hình ảnh thị phạm trong đó có cả lược đồ và biểu tượng, tôi làm như vậy vì 4 lý do chính sau đây:
-       Bằng cách thêm dần, trong quá trình thày trò cùng làm việc, từng yếu tố một vào lược đồ mang hình ảnh thị phạm, ta xây dựng được khái niệm trong tâm trí học sinh theo cung cách tiệm tiến.
-       Bằng cách diễn đạt thị phạm các khái niệm vừa tổng quát vừa trừu tượng đó, ta sẽ giúp học sinh tiếp nhận các khái niệm một cách dễ dàng thoải mái hơn.
-       Việc dùng các hình ảnh được xây dựng theo cùng một cung cách triển diễn và dùng cả các ký hiệu chung khiến cho việc so sánh hai hệ thống được dễ dàng hơn.
-       Ta có thể giúp học sinh làm việc bằng cách yêu cầu các em chuyển từ ngôn ngữ này [thị phạm – ND thêm] qua ngôn ngữ khác [nói và viết – ND thêm] bằng cách yêu cầu các em tái tạo lại các lược đồ dưới dạng văn bản viết.
Điểm cuối cùng vừa nói lắm khi cũng rắc rối. Có khi các em quên diễn đạt lại một số yếu tố trong lược đồ, khi thì các em không tìm được yếu tố ngôn ngữ cần cho cách biểu đạt khác, và cũng có khi các em không tái tạo lại lược đồ trước theo một lô gich chặt chẽ nhất quán (trật tự từ hệ ý thức sang các mục tiêu sang hành động thực tiễn và các dẫn chứng).
Trong ba hình thức văn bản viết cơ bản mà khoa Sử học yêu cầu: loại chuyện tự sự, bảng biểu diễn một tình huống, và việc mô tả có suy lý một hiện tượng lịch sử hoặc một khái niệm rút ra từ hiện tượng đó, thì dạng văn bản cuối cùng này hay gặp rắc rối hơn cả. Điều đó có nhiều lý do: việc tạo dựng [lại trong tâm lý học sinh – ND thêm] không tuân thủ một lô gích tuyến tính hoặc một lô gích theo chủ đề, nên người học cần làm chủ được những thuật ngữ phức tạp đồng thời cũng cần biết cách đi từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, nghĩa là đi con đường quy nạp, ngược với con đường diễn dịch, (từ những tư liệu cụ thể đến tổng quát hóa) được ứng dụng khi học.
Về cách thức làm việc, chị đã hoàn toàn thấy rõ những gì tôi tìm cách thực hiện. Cách tôi sắp đặt các bảng nhằm tạo thuận lợi cho cả những trao đổi và việc lắng nghe lẫn nhau. Việc phát biểu ý kiến và việc đưa ra các giả thuyết đều được khuyến khích tối đa nhằm củng cố sự tự tin và độ tin cậy lẫn nhau giữa các học trò phần lớn đều thuộc diện gặp khó khăn[1]. Các buổi làm việc chung theo cách thức đối thoại đan xen nhau với các buổi khác để trẻ em được làm việc độc lập hoặc theo từng cặp đôi. Khi đó việc trao đổi với giáo viên mang tính cá thể hơn và thích hợp với từng học trò riêng rẽ. Cũng có cả hình thức hoạt động học khác là cách viết bài mà không ít học sinh cho đến lúc này vẫn gặp khá nhiều khó khăn.
NTTH
Giá mà được ông cho biết về sách giáo khoa Sử học trường phổ thông thì hay vô cùng. Ông là tác giả sách Sử học dùng trong trường này, ông có thể chia sẻ với chúng tôi những gì liên quan đến cấu tạo sách giáo khoa của ông, về nguyên tắc biên soạn, và cả về chương trình Sử học bậc trung học cơ sở của nước Pháp?
Dominique Delmas
Sách giáo khoa được biên soạn bởi những nhóm giáo viên thường là do tổ chức IPR thanh sát (IPR viết tắt của Inspecteurs Pédagogiques Régionnaux là Thanh tra Sư phạm Khu vực phụ trách đánh giá các giáo viên trung học). Tại từng trường, các giáo viên bỏ phiếu chọn một trong số những sách giáo khoa được in ở các nhà xuất bản khác nhau (có chừng tám nhà xuất bản như thế). Ở trường phổ thông cơ sở (collège), sách giáo khoa được phát không, nhưng trường trung học phổ thông (lycée) thì không như vậy.
Các tác giả sách giáo khoa biên soạn dựa trên những chương trình học chính thức quy định các nội dung hoặc các chủ đề, đôi khi các nhóm biên soạn có chọn lựa khác, nhưng đều phải có những thực hành đặc biệt thí dụ như huấn luyện cách học tự sự hoặc nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật như là chứng nhân của Lịch sử. Ở Pháp, do thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc cho tới 16 tuổi, học sinh từ lớp 6 tới lớp 9 phải học cho xong những giai đoạn lớn của Lịch sử kể từ thời Cổ đại tới thế giới đương đại. Chương trình học tập trung vào Pháp và châu Âu. Các không gian lịch sử được mở rộng dần, từ vùng Địa Trung Hải tới Đại Tây Dương, rồi tuần tự tới các vùng khác trên thế giới. Cũng có vài chuyên đề riêng nhưng ngắn gọn học ở lớp 6 về triều đại Gupta của Ấn Độ và thời nhà Hán của Trung Hoa, ở lớp 5 có bài về các vương quốc và đế quốc Tây Phi châu thế kỷ thứ X và XV. Các chương trình cũng phản ánh sự tiến triển của khoa học lịch sử. Cuối thời kỳ thống trị bởi cái gọi là Biên niên sử (Annales), từ những năm 1980, khoa học Lịch sử là nơi các thành tố chính trị và văn hóa được đánh giá trong tương quan với kinh tế và xã hội, và các chủ đề nghiên cứu cũng chia cắt với nhau thành những chủ đề nhỏ hơn.
Như chị đã thấy, các chương sách đều có những trò chơi đan xen với các tư liệu khác nhau để các giáo viên lấy từ đó ra để tổ chức cho học sinh hoạt động học. Trong các trò chơi và tư liệu đó nhất thiết phải có một «bài học» dưới một hình thức trình bày sáng sủa và dễ hiểu, mà người học phải tìm ra được phần căn bản của chủ đề được đề cập tới. Sách giáo khoa cũng phải chịu những ràng buộc từ phía nhà xuất bản: maket và cách dàn trang đôi khi rất áp đặt rất hà khắc, yêu cầu về tính hấp đãn (để ve vãn người mua và người dùng …) đôi khi lại dẫn tới sự đơn giản hóa quá mức. 
NTTH :
Ông dạy những nội dung nào về Lịch sử Pháp cho học sinh lớp 9? Liệu những sự kiện coi là nhạy cảm (như chiến tranh Algérie) có được đem dạy không?
Dominique Delmas :
     Ở lớp 9, học trò học lịch sử Pháp thế kỷ XX.  Chương trình học ưu tiên cho ba thời điểm nổi trội: nước Pháp thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiên thế giới, nước Pháp thời Đức Quốc-Xã chiếm đóng, phe Kháng chiến và phe Hợp tác với Đức, sau cùng là Đệ Ngũ Cộng hòa từ năm 1958 cho tới thời điểm hiện nay. Cuộc chiến Algérie được học trong chương về giải trừ chế độ thực dân. Dần dà, với vấn đề này và nhiều vấn đề khác nữa, như vấn đề về Thời bị Đức chiếm đóng, cùng với những thay đổi thế hệ và những tiến bộ trong nghiên cứu, thực tại được bóc trần ở mọi kích tấc, kể cả những thứ khó xử nhất hạng đốí với ký ức quốc gia dân tộc. Trong Thế chiến 2 chẳng hạn, đó là những vấn đề về vai trò của chính phủ Vichy và vai trò của một số người Pháp trong các vụ bắt bớ người Do Thái và đàn áp người kháng chiến, hoặc trong cuộc chiến tranh Algérie thì có những vấn đề về tội ác chiến tranh và tra tấn.
Liên quan đến Lịch sử nước Pháp đương đại được dạy ở bậc Trung học cơ sở, có bốn yếu tố chính yếu trong những năm 1970 đã giúp vào việc nghiên cứu những phương diện đối lập nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định: sự thay đổi các thế hệ, những công trình của các nhà nghiên cứu đôi khi là các nhà nghiên cứu người nước ngoài như nhà viết sử người Mỹ, Paxton, tác phẩm của ông về chính quyền Vichy đã gây sốc tại Pháp[2], sức mạnh phản kháng trước và sau Biến cố tháng Năm 1968, sau nữa là những đòi hỏi của các thế hệ con cháu muốn được nghe tiếng nói và ký ức của những người thiểu số (Người Pháp gốc Algérie vẫn gọi là Pieds-Noirs, người «lính địa phương»  Algérie  vẫn gọi là người Harkis, những chiến binh Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algérie -FLN- trên đất Pháp).
Các sách giáo khoa được viết tự do về những tội ác gắn liền với chế độ thực dân hoặc vấn đề về những cuộc nổi loạn năm 1917 trong Thế chiến thứ nhất. Với những giai đoạn lịch sử xa hơn nữa, các quan điểm có khác nhau. Thế nên, ở lớp 8 Trung học cơ sở, triều đại của Louis XIV không chỉ được nghiên cứu dưới lăng kính hành động của nhà vua và giới tinh hoa mà cũng còn được xem xét theo các điều kiện của người dân thời đó. Về nước Pháp thế kỷ 20, có hai vấn đề gai góc nhất, như tôi đã nói, là giai đoạn Chiếm đóng và giai đoạn giải trừ chế độ thực dân, nhất là về cuộc chiến tranh Algérie. Về giai đoạn Chiếm đóng, những vấn đề liên quan đến chính sách Do Thái của chính quyền Vichy và sự tham gia vào chính sách này của người dân Pháp và một bộ phận chính quyền và tổ chức chính trị cũng được xem xét thẳng thắn hơn, đây là một dẫn chứng: trong sách giáo khoa có những tư liệu cho thấy một người Pháp mặc quân phục Đức trên vai có phù hiệu Pháp và cả những tư liệu khác cho thấy cảnh sát Pháp tham gia càn quét người Do Thái rồi chở họ đi trên những xe buýt tịch thu của lực lượng du kích kháng chiến RATP. Cũng có những tài liệu tương tự về thái độ và dư luận công chúng rất đa dạng, có vẻ như hồi ban đầu tỏ ra đi theo phe đa số của thống chế Pétain và cứ thay đổi tiến bộ dần trải qua thời kỳ kéo dài bốn năm chiếm đóng. Sau hết, chuyện chiến tranh Algérie, Sử học dạy ở nhà trường cố gắng cho thấy sự đa dạng trong quan điểm và cố không che dấu sự tàn bạo của các cuộc đụng độ: phe khủng bố và việc đàn áp phe khủng bố. Nhưng các cuộc tranh cãi vẫn còn nóng hổi, một khi vị trí quan trọng vẫn dành cho việc dạy Sử học trong nhà trường Pháp. Mới cách đây vài năm thôi đã có dự luật trình Quốc Hội cho phép nhà trường thừa nhận phương diện tích cực của chế độ thực dân.
                     Phạm Toàn dịch từ tiếng Pháp
---
1 Thiếu tự tin dường như là một đặc tính của học sinh Pháp. Khi tham dự các test quốc tế của tổ chức Hợp tác và Phát triển châu Âu OCDE, đa số học sinh Pháp chọn cách không-trả lời thay vì chọn cách có thể sai, các em học sinh Pháp chiếm số đông trong đám ngồi im thin thít hơn là rơi vào nguy cơ sai lầm.
2 Tác giả chứng minh rằng đường lối chính trị của chính quyền Vichy không chỉ là hệ quả của những áp lực và mệnh lệnh của quân chiếm đóng.

VIẾT TỪ SAIGON * CỘNG SẢN HÈN NHÁT

Xét lại khái niệm “Hèn với giặc mà ác với dân”


Đây là khái niệm có lẽ đã rất cũ kĩ trong chế độ Cộng sản xã hội chủ nghĩa. Chí ít là nó cũng cũ kĩ từ những năm 1988, khi bãi đá Gạc Ma, Trường Sa nhuộm máu của 64 chiến sĩ bộ đội và trên bàn tròn hội nghị nơi đất liền những lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vẫn nói cười, bắt tay với lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc. Và mãi cho đến bây giờ, trải qua không biết bao nhiêu biến cố, người dân Việt Nam nói chung và ngư dân Việt Nam nói riêng đã cô đơn chống chọi, cô đơn chịu đựng, cô đơn thương tích và cô đơn chết, thậm chí cô đơn mang xác đồng loại vào đất liền… Trong lúc lãnh đạo cấp cao của Cộng sản Việt Nam vẫn bắt tay, vẫn khúm núm cụng ly với Tập Cận Bình và cả một quốc hội trở thành đám cừu trong lời thuyết giảng của đạo sĩ họ Tập.
Ai đã xử tệ với dân và khúm núm với giặc?
Có lẽ đã quá cũ, nhưng thử một lần nữa đặt lại câu hỏi: Vì sao nói công an, nhà cầm quyền Cộng sản hèn với giặc mà ác với dân? Dựa vào những bằng chứng nào để đưa ra nhận xét này?
Để trả lời câu hỏi trên, vấn đề cần minh định ở đây chính là trả lời đâu là dân, đâu là giặc, vì sao gọi là giặc? Nói về người dân, con số gần một trăm triệu nhân dân chưa hẳn là dân, có khi thành phần giặc chiếm trong đó cũng không ít và chúng phản lại nhân dân bằng nhiều cách như tham nhũng, rút ruột tài nguyên, tàn phá môi trường, tham quyền cố vị, không có tài nhưng ưa nắm quyền, buôn bán ma túy, tuyên truyền đồi trụy nhằm làm cho nhân dân bị phiến diện về mặt tư tưởng và tư duy ngày càng tụt hậu, bóp méo giáo dục thành một loại tuyên tuyền chính trị, bán nước bằng đi đêm quyền lực và loa mồm…
Tất cả những kẻ đó đều là giặc, là những kẻ đi ngược với nhân loại, đi ngược với nhân dân và không thể gọi cách nào khác ngoài “phản động”, “giặc”. Và loại phản động này, loại giặc này là loại giặc nội ứng, chúng giống như những con giun bên trong cơ thể đất nước. Còn một loại giặc khác, đó là giặc ngoại xâm.
Tự tiện vẽ đường biên giới lấn vào lãnh thổ quốc gia khác; Mang quân sang bắn giết nhân dân quốc gia khác; Dùng bàn tròn chính trị để đe nẹt nước yếu hơn mình nhằm biến lãnh thổ của nước đó trở thành đơn vị hành chính của quốc gia mình; Dùng đòn kinh tế để xâm lấn, biến nền kinh tế nước khác thành một con rối trong tay mình và tha hồ thao túng; Dùng đòn ngoại giao bề trên để tìm cách đưa người, đưa quân sang âm thầm phá hoại nội tạng của quốc gia khác. Và đáng sợ hơn là dùng đến cả súng đạn để giết dân của quốc gia khác trong lúc người dân nước đó đang hoạt động, làm ăn ngay trong lãnh thổ, lãnh hải của họ… Tất cả những hành vi trên đều là hành vi của giặc, của quân cướp nước.
Theo logic này, nhân dân Việt Nam sẽ là ngót nghét một trăm triệu người sau khi trừ đi chừng mười triệu kẻ ăn hại, bán nước, phản động và phản lại sự tiến bộ của loài người. Và con số mười triệu kia chính là giặc nội ứng cho kẻ ngoại xâm đang ngày đêm lăm le bờ cõi. Giặc ngoại xâm ở đây không ai khác chính là Cộng sản Trung Quốc, kẻ đã nhiều lần gây hấn, giết tróc và tổ chức chiến tranh nhiều mặt trên lãnh thổ Việt Nam.
Trở lại vấn đề hèn với giặc, ác với dân. Câu hỏi tiếp theo sẽ là ai đã hèn với giặc? Nếu nhìn từ bên ngoài thì dễ dàng nhận thấy nhà nước Cộng sản Việt Nam cùng với hệ thống công an trị của họ đã hèn với giặc và ác với dân. Bằng chứng cho việc này là suốt bốn mươi năm nay, kể từ khi hai miền đất nước được thu nạp vào triều đại Cộng sản xã hội chủ nghĩa, người dân luôn nơm nớp lo sợ mỗi khi đụng chuyện với công an mặc dù chưa biết ai đúng ai sai.
Và gần đây nhất, tình trạng người bị tạm giam chết trong đồn công an vì bị tra tấn, sau đó trá hình bằng kịch bản tự tử ngày càng nhiều, con số đã lên vài trăm người chỉ trong vòng chưa đầy năm năm. Hình ảnh cảnh sát giao thông, công an bảo vệ trật tự chưa bao giờ mang lại sự bình an cho người dân khi ra đường nếu không muốn nói họ là những hung thần có thể gây nguy hiểm, gây thiệt hại cho người dân khi ra đường. Tình trạng công an giao thông dùng xe phân khối lớn ép xe người đi đường xảy ra tai nạn chết người và công an giao thông ngang nhiên tát tai người đi đường, đánh người đi đường đến chết, bẻ gãy tay, đạp lên mặt người đi đường là chuyện không hề lạ ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, mỗi khi giới trí thức, văn nghệ sĩ và học sinh sinh viên cũng như nhiều tầng lớp khác trong nhân dân đứng lên biểu tình ôn hòa, kêu gọi lòng yêu nước, phản đối Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải… Đều bị công an đàn áp thô bạo, đánh đập không thương tiếc.  Những dân oan đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của họ trên công viên Lý Tự Trọng, vườn hoa Mai Xuân Thưởng cũng từng bị đánh đập, đã có người chết vì bị đánh đập…
Tất cả những hành vi trên đây đều cho thấy nhà cầm quyền Cộng sản và hệ thống công an của họ đã không những không đối xử tốt với dân mà còn rất thô bạo, tàn ác và thiếu hẳn tình người, tính người trong việc đối đãi với nhân dân – người đã ngày đêm đóng thuế, đưa thân gánh chịu nợ công và bán sức lao động rẻ rúng cho nước ngoài để nuôi chế độ, nuôi hệ thống nhà nước.
Trong khi đó, tất cả những biệt khu của người Trung Quốc trên đất Việt Nam từ Bình Dương cho đến Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Tây Nguyên… Đều chung một tình trạng là công an địa phương, thậm chí công an cấp huyện, cấp tỉnh cũng không được vào bên trong, Phó Chủ tịch tỉnh, có khi Chủ tịch tỉnh cũng không được vào bên trong nếu người Trung Quốc chưa đồng ý. Đó là chưa muốn nói đến nhiều trường hợp công an Việt Nam đứng ra bảo vệ cho các ông chủ người Trung Quốc cưỡng phá tài sản, phá rừng trồng của người dân Việt Nam.
Với người Việt Nam thì chèn ép, đánh đập, khủng bố tinh thần, giết tróc nhưng với người Trung Quốc, mặc dù họ trái khoáy, làm càn thì vẫn cứ dung túng, thỏa hiệp, tiếp tay, thậm chí cúi luồn, làm nô bộc… Gần đây nhất là hai vụ nổi cộm, một vụ người Trung Quốc bị bắn chết tại thành phố Đà Nẵng và vụ ngư dân Trương Đình Bảy bị “tàu lạ” bắn chết trên ngư trường Việt Nam ngoài biển Đông.
Vụ người Trung Quốc bị bắn chết thì hàng trăm công an vào cuộc để truy tìm hung thủ, điều tra làm rõ vụ việc và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho gia đình người Trung Quốc kia. Trong khi đó, ngư dân Việt Nam bị bắn chết, dường như cảnh sát biển Việt Nam và công an hình sự Việt Nam chỉ có mặt trên bờ, ở cảng Sa Kỳ. Họ vừa đứng đợi chiếc tàu chở xác ngư dân mệt mỏi và lẻ loi sau ba ngày lênh đênh trên biển đưa anh Bảy vào bờ lại vừa theo dõi, quan sát và cản trở báo chí tác nghiệp. Ngành công an cũng như cả hệ thống nhà nước Cộng sản Việt Nam không hề có động thái nào nhằm chia sẻ nỗi mất mát của người dân cũng như điều tra, lấy lại công bằng và quyền được sống của ngư dân Trương Đình Bảy.
Bộ ngoại giao Việt Nam lại đưa ra những lời phản đối vô thưởng vô phạt và càng ngày càng lạt như nước ốc, chẳng đâu vào đâu bởi nó lặp đi lặp lại quá nhiều như một thứ tâm thần hoang tưởng kèm hội chứng nói bâng quơ. Hễ cứ chạm cơn thì nói, nói không cần biết sẽ ra sao và được gì, không cần biết đúng sai…!
Ai là giặc?
Điều đó chỉ chứng minh một vấn đề duy nhất là nhà nước và công an Cộng sản đã hèn với giặc mà ác dân nếu nhìn từ bên ngoài. Nhưng, nếu nhìn sâu vào bản chất, khái niệm này cũng chưa đúng lắm. Bởi lẽ, một kẻ tiếp tay cho giặc để tàn hại nhân dân, đồng tộc, đồng bào của mình, một kẻ đã bán đứng lãnh thổ, lãnh hải quốc gia vì quyền lực đảng, quyền lực phe nhóm thì bản chất của họ là giặc.
Ở đây, câu hỏi cần đặt ra là ai đã xâm lược Việt Nam trên mọi chiến tuyến từ kinh tế đến văn hóa, giáo dục, sức khỏe, tư tưởng và cả lãnh thổ, lãnh hải? Có thể trả lời dễ dàng là hiện nay, giặc ngoại xâm Việt Nam là Cộng sản Trung Quốc. Và câu hỏi tiếp theo là ai đã nội ứng, tiếp tay cho Cộng sản Trung Quốc xâm lược Việt Nam? Câu trả lời cũng rất rõ ràng và nhanh chóng là đảng Cộng sản Việt Nam cùng hệ thống và bộ máy nhà nước của họ.
Bởi chính đảng Cộng sản Việt Nam đã ký công hàm 1958 công nhận Hoàng Sa là của Trung Quốc; Chính đảng Cộng sản Việt Nam đã ký thỏa ước Thành Đô 1990 để theo đó dần biến Việt Nam thành một tỉnh lị của Trung Quốc; Và cũng chính Cộng sản Việt Nam đã một mặt đào tạo ra những thế hệ máu lạnh thông qua giáo dục, đầu độc người dân bằng việc thả lỏng hàng Trung Quốc trên đất Việt cũng như đàn áp dân chủ, đàn áp người yêu nước chống Trung Quốc.
Tất cả những chỉ dấu trên đây đều chứng minh đảng Cộng sản Việt Nam là một loại giặc nội ứng, sẵn sàng đạp lên sinh mệnh dân tộc để được vinh thân phì gia. Và càng ngày, hệ thống quyền lợi của họ càng cao ngất, đè bẹp mọi quyền lợi của nhân dân.
Đến đây, khái niệm “hèn với giặc mà ác với dân” dành chỉ đảng Cộng sản Việt Nam có lẽ không còn phù hợp, không đúng nữa. Mà phải nói rõ bản chất bằng một khái niệm khác, đó là “khom lưng với bề trên và phản động với dân tộc”. Tôi viết bài này với tất cả sự chân thành dành cho đảng Cộng sản, bởi vì chân thành nên tôi không thể xuyên tạc hay bóp méo bản chất bằng những khái niệm lệch lạc. Đã đến lúc trả đúng khái niệm về với bản chất của đảng đang cầm quyền!

NGUYỄN VŨ BÌNH * HOÀNG MINH CHÍNH

Cụ Hoàng Minh Chính - Người tạo ra những con đường (Bài 1 - Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh cụ Hoàng Minh Chính)


     Đầu năm 2001, sau khi thôi việc tại Tạp chí Cộng sản, tôi có dịp gặp gỡ làm quen với các nhà đấu tranh dân chủ, trong đó có Cụ Hoàng Minh Chính. Ấn tượng gặp gỡ đầu tiên là một cụ già nhỏ nhắn nhưng có giọng nói sang sảng vượt xa sức vóc của bản thân cùng một đôi mắt tinh anh. Trong suốt những năm qua, những ảnh hưởng và sự giúp đỡ, dìu dắt của Cụ đối với tôi và gia đình không thể nói hết bằng lời. Nhưng trên hết tôi nhận thức được những đóng góp vô cùng to lớn của Cụ đối với phong trào Dân chủ Việt Nam.
Người tạo ra những con đường
     Trong công cuộc vận động Dân chủ, chúng ta đã biết tới những bài viết của các nhà đấu tranh Dân chủ, những người phản tỉnh, những nhà văn, những trí thức quan tâm tới vận mệnh đất nước. Chúng ta cũng biết tới những kiến nghị thư, phản kháng thư tập thể ban đầu từ ba đến năm người tham gia ký và tăng dần số người theo thời gian. Những đơn thư tố cáo, tố giác tham nhũng, lạm quyền được truyền tay nhau và hình thức ban đầu của tổ chức là Hội (cụ thể là Hội Chống tham nhũng). Vậy thì những hình thức đấu tranh đó từ đâu ra? Có phải đột nhiên chúng ta có được ngay những hình thức đấu tranh mà hiện nay đã trở nên rất bình thường hay đó là một cuộc đấu tranh vô cùng kiên nhẫn, bền bỉ, khôn ngoan và rất can trường của những người đi trước. Không cần phải suy nghĩ nhiều chúng ta cũng có thể trả lời rằng đó chính là kết quả của một quá trình đấu tranh âm thầm, gian khổ trong một môi trường vô cùng khắc nghiệt của những người đi trước. Những người đã bước những bước chân đầu tiên, đã tạo ra những lối mòn, những đường mòn mà sau này trở thành những con đường để cho các thế hệ kế tiếp bước đi và phát triển nó. Trong số những người đầu tiên đó thì Cụ Hoàng Minh Chính là người có công đầu và lớn nhất. Đây chính là đóng góp quan trọng nhất, vĩ đại nhất của Cụ Hoàng Minh Chính đối với phong trào Dân chủ Việt Nam.
     Ngay từ những ngày còn ở Tạp chí Cộng sản, tôi đã được đọc một số bài viết ngoài luồng và sau này tôi được biết xuất phát điểm của những bài viết đó chính là từ nhà Cụ Hoàng Minh Chính. Khi đã tới nhà Cụ, tôi được Cụ phát cho những bài viết. Tôi thấy có vài ba người khi thì đến lấy bài đi phô tô coppy, khi thì mang mấy chục bản để đi tán phát. Thời gian đầu thì số lượng không nhiều (vài ba chục bản), nhưng sau đó thì số lượng ngày càng nhiều hơn đến một, hai trăm bản. Và tôi còn được biết những bản này sau khi tới một số địa điểm còn được nhân lên rất nhiều bản nữa.
     Những ngày đầu tới gặp Cụ Hoàng Minh Chính, tôi còn được thấy Cụ và một số người đấu tranh Dân chủ rất hồ hởi và vui vẻ vì các Cụ vừa ký vào một kháng nghị thư mà tôi không nhớ nội dung nhưng được các Cụ nói là “Năm cụ già trên một chiếc xe tăng”. Sau đó một thời gian thì những kháng nghị thư, kiến nghị tập thể đó số người tăng lên rất nhanh 10 người, 18 người,..
     Một điều đặc biệt nữa là tôi thấy nhà Cụ rất đông khách, gần như lần nào tôi tới cũng đều gặp khách đang ở nhà Cụ. Khách của Cụ thì đầy đủ các thành phần: nông dân, công nhân, trí thức, cựu chiến binh... tất cả đều được Cụ tiếp đón với một thái độ nhiệt tình, trân trọng và cởi mở. Có một lần Cụ chỉ vào tập bài viết (khoảng vài ba gang tay) và nói: “Cháu tưởng là để có được những cái này như ngày hôm nay mà đơn giản à?” – Vâng, tôi biết là không hề đơn giản. Cụ đã mất hàng chục năm trời kiên nhẫn tìm ra và âm thầm thực hiện cách thức để thông tin tới các tầng lớp trí thức, những người quan tâm tới vận mệnh dân tộc mà sau này Nhà nước Việt Nam đã định hình thành hẳn một tội danh: “Tán phát các tài liệu chống lại chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước”
Người bảo trợ về tinh thần cho các nhà đấu tranh Dân chủ, nhất là những người trẻ tuổi
     Có thể nói, bất cứ người tham gia đấu tranh Dân chủ nào ngay khi bước vào cuộc đấu tranh đều tìm đến với Cụ. Có thể là đều đã được nghe danh tiếng của Cụ, có thể là biết rằng đến gặp Cụ sẽ được gặp gỡ, quen biết với những người đấu tranh Dân chủ khác. Và quả thực khi đến với Cụ tất cả đều được Cụ trân trọng, quan tâm và giúp đỡ không khía cạnh này thì khía cạnh khác. Khi đã đến được với Cụ thì mọi người đều yên tâm như đứng dưới một mái nhà chung có Cụ là trụ cột cho các hoạt động chung của phong trào Dân chủ. Tôi đã được gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều người đấu tranh Dân chủ và những người này dù xuất thân, hoàn cảnh, tính cách rất khác nhau thậm chí có những người không hợp, không ưa nhau nhưng khi nói tới Cụ Hoàng Minh Chính thì tất cả đều phải công nhận Cụ là thủ lĩnh tinh thần của những người đấu tranh Dân chủ. Những người trẻ tuổi như tôi, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang được Cụ đặc biệt quan tâm bởi vì chúng tôi là những người trẻ tuổi đầu tiên đã tham gia vào cuộc đấu tranh dân chủ đến với Cụ. Ngay từ những ngày đầu gặp gỡ, Cụ đã quan tâm hỏi han về hoàn cảnh gia đình, các con và Cụ rất hay cho quà các cháu nhỏ khi tôi tới thăm Cụ. Sau này tôi được biết, Cụ đã giúp đỡ vợ và các con tôi rất nhiều trong những ngày tôi ở tù. Cụ như một người cha đối với vợ chồng tôi và như một người ông đối với các cháu nhỏ. Tôi rất tâm đắc với Phạm Hồng Sơn khi anh nói rằng tình cảm của Cụ đối với anh em mình thì rất bao la.
Người giữ vai trò tập hợp của phong trào Dân chủ
     Tôi không được tham gia và chứng kiến cuộc đấu tranh Dân chủ thời kỳ sôi động 2005 – 2006 nên không rõ những hoạt động của Cụ giai đoạn này. Nhưng thời gian gần hai năm hoạt động bên Cụ trước khi bị bắt, tôi nhận thấy rõ vai trò tập hợp của Cụ trong phong trào Dân chủ. Từ việc tổ chức phân công người trong việc phát tán tài liệu Dân chủ, việc tổ chức kháng nghị, kiến nghị tập thể đến các cuộc gặp gỡ, trao đổi chung của các nhà đấu tranh Dân chủ cho tới việc hình thành Hội chống tham nhũng Cụ đã thể hiện được vai trò thủ lĩnh, tập hợp được các nhà Dân chủ trong các hoạt động đấu tranh với mục tiêu chung. Để có được vai trò tập hợp đó, Cụ đã được mọi người thừa nhận cái tâm trong sáng, ngọn lửa đấu tranh cho Tự do Dân chủ vô cùng mạnh mẽ cũng như khả năng tổ chức và nhìn nhận, phân công từng con người vào công việc cụ thể. Đối với cá nhân tôi, Cụ là lãnh tụ của phong trào Dân chủ không cần phải bàn cãi. Vậy nên, tôi đã rất ngạc nhiên khi nghe được tin nhóm này, nhóm kia đã phản đối Cụ khi Cụ có ý kiến đại diện cho phong trào Dân chủ.
    Tôi vẫn thường tâm niệm với bản thân, và cũng có lúc tâm sự với người này, người kia, cụ Chính là người thầy của tôi trong hoạt động thực tiễn và người thầy về bản lĩnh. Tôi đã có những kỷ niệm, những bài học mà Cụ đã dạy cho tôi cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Khi tôi làm đơn xin thành lập đảng Tự do – Dân chủ (2/9/2000), tôi có chuyển lá đơn và bài viết ( “Việt Nam và con đường phục hưng đất nước”) tới những nhà Dân chủ với hy vọng họ sẽ chuyển tài liệu đó ra nước ngoài. Nhưng mấy tháng liền tôi không nhận được hồi âm và khi đó tâm trạng của tôi rất bức xúc. Khi đã gặp gỡ cụ Chính và những người đấu tranh Dân chủ khác, tôi được biết cụ Chính là người đã giữ tài liệu đó nhưng không chuyển ra nước ngoài. Tôi vẫn rất bức xúc. Nhưng sau đó một thời gian, tôi đã hiểu ra và thầm cảm ơn Cụ vì Cụ đã giải thích là khi đó chưa biết tôi là ai, thật giả thế nào và quan trọng hơn là Cụ lo khi chuyển những tài liệu đó ra ngoài có thể tôi sẽ bị bắt, và Cụ muốn bảo vệ tôi. 
     Kỷ niệm thứ hai là năm 2002, thời gian trước khi tôi bị bắt, tôi và một số người nữa đã đề nghị Cụ tái lập đảng Dân chủ. Chúng tôi đề nghị và áp lực lên Cụ rất mạnh mẽ nhưng Cụ cương quyết từ chối. Khi đó tôi chưa có kinh nghiệm nên không thừa nhận sự giải thích của Cụ là thời điểm đó chưa chín muồi và nếu thực hiện sẽ bị đàn áp nặng nề, dẫn tới tổn thất rất lớn cho phong trào Dân chủ mà bao nhiêu năm mới xây dựng được như vậy. Sau này khi ở trong tù, tôi đã công nhận là Cụ đúng và có nhắn người ra ngoài nói với Cụ là tôi hoàn toàn đồng ý với Cụ về việc đó. 
     Một kỷ niệm nữa cho thấy Cụ là người rất thực tế, khi thấy những ý kiến đúng là thực hiện ngay. Năm 2001, trong một lần ra thăm nhà cụ Trần Độ, gặp cả ông Phạm Quế Dương ở đó. Tôi thấy cụ Trần Độ hỏi ông Phạm Quế Dương về Hội Chống tham nhũng và ông Lê Khả Phiêu, sau đó hai người cười khà khà với nhau. Tôi có gặp và hỏi Cụ Chính về chuyện này. Cụ Chính nói rằng đây là việc đang tiến hành, cháu nghe thì biết vậy. Đang có kế hoạch lôi kéo ông Lê Khả Phiêu đứng ra lập Hội Chống tham nhũng. Ban đầu tôi cũng không chú ý lắm đến việc này, nhưng sau đó suy nghĩ kỹ tôi thấy ý tưởng đó là rất hay. Tôi có tới nhà Cụ Chính và trao đổi lại với Cụ. Tôi hỏi Cụ là nếu ông Lê Khả Phiêu không tham gia thì sao, hoặc nếu ông Lê Khả Phiêu tham gia nhưng sau đó bị áp lực mà bỏ giữa chừng thì thế nào? Chúng ta sẽ từ bỏ việc này hay sao? Vậy chỉ còn cách là Bác cháu mình tự làm thôi. Cụ Chính nói “đúng rồi”, để Bác trao đổi với ông Phạm Quế Dương và ông Trần Khuê ngay. Và sau đó có việc thành lập Hội Chống tham nhũng.
     Nói về bản lĩnh của Cụ Hoàng Minh Chính, tôi không đủ tư liệu để viết. Nhưng trong phạm vi mà tôi nhận thức và cảm nhận được thì đúng là tôi còn phải học tập Cụ rất nhiều. Nói về bản lĩnh thì có hai vấn đề quan trọng. Đó là bản lĩnh để đương đầu với sự đàn áp và bản lĩnh để giữ vững ngọn lửa đấu tranh cách mạng trong những hoàn cảnh khó khăn, cô đơn. Với cá nhân tôi, bản lĩnh để đương đầu với sự đàn áp tôi có thể theo được Cụ nhưng còn bản lĩnh để giữ vững ngọn lửa nhiệt tình cách mạng trong hoàn cảnh khó khăn, cô đơn và kiên trì cách mạng thì tôi còn phải học tập ở Cụ rất nhiều. Những ngày gặp Cụ khi Cụ còn tỉnh táo, qua trao đổi tôi biết Cụ có nhiều nỗi ưu tư về phong trào Dân chủ hiện nay. Hai Bác cháu trao đổi và đều hiểu được những khó khăn và phức tạp của phong trào Dân chủ. Nhưng khi nói chuyện với những người khác, Cụ vẫn thể hiện được tinh thần lạc quan. Tôi rất mừng là những ngày tháng cuối Cụ đã rất vui khi nghe được tin về Thanh niên - Sinh viên xuống đường biểu tình chống Trung Quốc thôn tính Hoàng Sa, Trường Sa. Tôi luôn tin là hiện nay ở một nơi nào đó, Cụ vẫn đang dõi theo từng bước đi của phong trào Dân chủ và phù hộ cho phong trào Dân chủ sớm có được thành công, đất nước sẽ có Dân chủ, nhân dân được Tự do trong một ngày không xa nữa.
     Tôi xin có câu đối nôm na để tiễn đưa Cụ về cõi vĩnh hằng:    
     Vì Độc lập hiến trọng tuổi thanh xuân!
     Vì tự do hy sinh cả cuộc đời!
      Cầu chúc linh hồn Cụ về cõi Niết Bàn!
                                                      Hà Nội, ngày 16 tháng 2 năm 2008
                                              (tức ngày mồng 10 tháng Giêng năm Mậu Tý) 
                                                                Nguyễn Vũ Bình
Hà Nội, ngày 16/11/2015

 

  Cụ Hoàng Minh Chính và việc lập Hội Chống tham nhũng (Bài 2 - Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh Cụ Hoàng Minh Chính)


     Sinh thời, trong quá trình đấu tranh dân chủ mấy chục năm, cụ Hoàng Minh Chính rất quan tâm và luôn đau đáu vấn đề tổ chức của phong trào dân chủ. Thực tế, Cụ đã hai lần thực hiện việc lập tổ chức. Sự kiện phục hoạt đảng Dân Chủ Việt Nam vào tháng 6/2006,  khi đó tôi còn đang ở trong tù, nên không biết được gì về quá trình chuẩn bị cũng như các diễn biến xảy ra. Nhưng vụ việc chuẩn bị lập tổ chức lần đầu tiên của Cụ Chính, đó là Hội Nhân dân ủng hộ Đảng và nhà nước Chống tham nhũng (gọi tắt là hội Chống tham nhũng) thì tôi là người được bàn bạc và tham gia từ đầu tới cuối. Có lẽ, có rất ít người tham gia trực tiếp và có thể kể lại một cách khách quan những gì xảy ra của quá trình chuẩn bị thành lập, cũng như việc đàn áp của an ninh thời kỳ đó.


     Bài viết trước (Cụ Hoàng Minh Chính - Người tạo ra những con đường) tôi đã có đề cập, khi tôi đến nhà Cụ Chính, đặt vấn đề lập hội Chống tham nhũng, theo ý tưỏng sẵn có của Cụ Chính và những nhà đấu tranh dân chủ, Cụ Chính đã đồng ý. Tôi nhớ không nhầm thì hôm đó là ngày 20/8/2001, vô tình tôi đã lưu vào đầu một thời điểm quan trọng trong công việc của hai bác cháu. Như vậy, quá trình chuẩn bị tới khi bị bắt giữ, bị đàn áp chỉ trong vòng hai tuần lễ. Cụ Chính mời ông Phạm Quế Dương và ông Trần Khuê (khi đó đang ở Hà Nội) tới nhà bàn bạc. Các buổi thảo luận thường có 5-7 người tham gia gồm: Cụ Hoàng Minh Chính, Nguyễn Vũ Bình, ông Phạm Quế Dương, ông Trần Khuê, ông Hoàng Tiến, ông Trần Dũng Tiến, thỉnh thoảng có tiến sĩ Nguyễn thanh Giang và một vài người khác. Sau một thời gian bàn bạc sôi nổi và khá vô tư, không hề quan tâm chuyện bảo mật, cả nhóm đã thống nhất được một số vấn đề. Tên gọi của Hội là Hội Nhân dân ủng hộ Đảng và nhà nước Chống tham nhũng, viết tắt là Hội Chống tham nhũng. Có một lá đơn xin thành lập hội Chống tham nhũng do ông Phạm Quế Dương và Trần Khuê đứng tên ký. Lá đơn được gửi đi vào ngày 02/9/2001. Nhưng lá đơn chỉ có tính chất thông báo, còn việc tiến hành lập Hội, mọi người tự làm, không cần sự cho phép. Cụ Chính và mọi người thống nhất cử ông Phạm Quế Dương là đại diện cho Hội (có thể gọi là chủ tịch Hội) ở miền Bắc, ông Trần Khuê, phó chủ tịch Hội phụ trách phía Nam. Ban đầu mọi người đều suy tôn Cụ Chính làm chủ tịch, nhưng Cụ từ chối và nói, cần có người ở phía sau để hoạt động cho hiệu quả. Tất cả đều biết rằng, tuy Cụ không làm chủ tịch, hội trưởng nhưng vẫn là người có tiếng nói quyết định sau cùng, không chỉ trong việc lập Hội Chống tham nhũng. Mọi người cũng thống nhất, Hội Chống tham nhũng sẽ có một tập san (tạp chí) Chống tham nhũng, do ông Phạm Quế Dương làm chủ nhiệm kiêm tổng biên tập, ông Hoàng tiến làm phó tổng biên tập, Nguyễn Vũ Bình làm thư ký tòa soạn. Ông Phạm Quế Dương đã đồng ý để Hội có thể lấy một phòng nhỏ nhà ông được chia ở tầng 1, quay mặt ra sân của khu tập thể 37 Lý Nam Đế, để làm văn phòng của Hội Chống tham nhũng. Tất cả mọi công tác chuẩn bị đã xong, theo kế hoạch, ngày 05/9/2001, mọi người đi viếng đám tang cụ Phạm Thị Tề (vợ cụ Vũ Đình Huỳnh, mẹ ông Vũ Thư Hiên) sau đó sẽ quay về nhà Cụ Chính ở 26 Lý Thường Kiệt để làm Lễ thành lập.



     Sáng ngày 03/9/2001, tất cả đã bị bắt, khoảng trên dưới 20 người. Cá nhân tôi nhận được điện thoại, Cụ Chính bị bắt và khám nhà, tôi liền phóng xe ra ngay nhà Cụ. Tới nơi, tôi có gặp cụ Ngọc, vợ cụ Chính và rất nhiều người, có cả công an mặc sắc phục và an ninh mặc thường phục. Bác Ngọc có nói, ông Chính bị bắt rồi Bình ạ. An ninh liền hỏi và bắt tôi ngay, đưa về công an phường Trần Hưng Đạo gần đó vài tiếng, sau đó đưa về sở công an làm việc tiếp. Tôi làm việc đến tối thì được về nhà, hôm sau lên sở công an làm việc tiếp. Liên tục trong ba ngày như vậy, sau đó thêm hai ngày cách quãng nhau, tổng cộng 5 ngày, sáng đi lên sở công an, trưa ăn cơm và nghỉ tại đó, chiều làm việc tiếp đến tối thì về nhà. Cụ Chính ngay từ khi bị bắt đã tuyên bố bất hợp tác và tuyệt thực, tuyệt ẩm ngay. Một cụ già hơn 80 tuổi, bị bệnh tiền liệt tuyến không ăn, không uống ở sở công an là điều không ai đủ can đảm để giữ lại. Chính vì vậy, ngay chiều tối ngày hôm đó (03/9), Cụ Chính đã được về nhà và sau đó cũng không phải làm việc gì nữa. Sau này tôi được biết, có ba người bị sở công an bắt lên làm việc là Cụ Chính, ông Phạm Quế Dương và tôi. Ông Trần Khuê bị ép đưa lên máy bay về Sài Gòn và làm việc với an ninh trong gần một tháng. Trong vụ việc này, có gần chục người bị bắt lên công an quận thẩm vấn, nhưng chỉ kéo dài trong khoảng nửa ngày, một ngày. Một số bị bắt đưa ra các đồn công an phường làm việc, cũng chỉ trong vòng một ngày.
     Trong vụ việc bàn bạc lập Hội Chống tham nhũng, cũng như ứng

xử với an ninh khi bị bắt, tạm giữ làm việc, tôi có hai kỷ niệm khá sâu sắc với Cụ Hoàng Minh Chính. Khi đó, mọi người phân công tôi làm thư ký cho tập san Chống tham nhũng, và cũng gần như thư ký của toàn Hội, ông Phạm Quế Dương không đi được xe máy nên mọi người giao cho tôi trách nhiệm đưa ông Phạm Quế Dương đi các nơi giao dịch. Cụ Chính đã quan tâm và nói luôn, tôi làm như vậy cần phải có thù lao, phụ cấp và Cụ đã lấy luôn 100 USD để đưa tôi ngay. Tôi từ chối nhưng không được. Điều này chứng tỏ cụ rất quan tâm tới mọi người, sâu sát và quyết đoán. Khi sự việc không thành công, tôi đã gửi lại Cụ số tiền đó. Một kỷ niệm nữa, Cụ đã nói với mọi người, nếu xảy ra việc gì, tất cả mọi người sẽ nói tôi (Nguyễn Vũ Bình) không tham gia gì cả. Khi gặp Cụ ở sở công an (vô tình đi vệ sinh gặp Cụ), Cụ cũng nói cháu không tham gia gì vào việc này. Cụ rất có ý thức bảo vệ tôi, bảo vệ lớp trẻ.
     Đến giờ phút này, khi ngồi viết lại những sự việc đã xảy ra khi xưa, tôi vẫn còn hình dung ra hình ảnh một cụ già quắc thước, có tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất và đầy tình người. Đó chính là người thầy của tôi, Cụ Hoàng Minh Chính./.
Hà nội, ngày 27/11/2015
N.V.B

TUẤN KHANH * QUÁI VẬT

Đối diện con quái vật


Thái độ công dân đối với quốc gia mình, phản ánh rất nhiều điều để nghĩ. Nó có thể người tay hân hoan vỗ tay cười, và có thể khiến từng cá nhân gục mặt khóc âm thầm.
Tháng 11/2015, sau khi nước Pháp bị tấn công bởi quân IS, số lượng thanh niên xin tòng quân để bảo vệ tổ quốc và đáp trả lại những kẻ đã giết hại đồng bào mình tăng gấp bốn lần. Các cơ sở tuyển quân của Pháp cho biết họ bất ngờ trước các lời xin nhập ngũ và các thư thắc mắc về tiêu chuẩn nhập ngũ lên đến 1500 hồ sơ, mỗi tuần. Theo ước tính, từ đây đến năm sau, Pháp sẽ nhận thêm 25.000 tân binh nữa. Hầu hết các lý do trong đơn xin nhập ngũ, được ghi rõ rằng họ muốn bảo vệ tổ quốc mình.
Tổ quốc là cái gì đó rất mơ hồ, không cụ thể. Nhưng đứng trước những hình ảnh nơi sinh sống của mình đang lâm nguy, những người chung tiếng nói, quốc tịch của mình bị giết, bị đe doạ, ý thức về tổ quốc bừng dậy như một bản năng cao quý.
Nước Pháp không phải là ngoại lệ. Vụ khủng bố ngày 9/11/2001 ở Mỹ cũng đã khiến tinh thần ái quốc của người Mỹ đa chủng tộc lên cao bất ngờ. Các thống kê cho thấy chỉ một tháng sau vụ đánh vào toà tháp đôi, trang mlive.com cho biết hàng chục ngàn thanh niên đã xin đăng lính vào nhiều binh chủng, đặc biệt ghi rõ là họ sẳn lòng đi đến bất cứ nơi đâu để tiêu diệt kẻ tấn công vào đất nước mình, người dân của mình. Năm 2002, nước Mỹ đón nhận thêm 80.000 tân binh. Tình trạng bùng nổ bất ngờ này làm gợi nhớ số lượt đăng lính tăng vọt sau vụ người Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) vào năm 1941.
Đọc những tin tức này, những ai yêu lẽ phải và mang trong mình lòng tự hào dân tộc đều có thể ứa nước mắt vì xúc động. Dâng hiến cuộc sống cho tổ quốc mình và giờ phút nguy nan, là niềm hãnh diện và cao quý mà không phải nền giáo dục nào, văn hoá nào cũng có thể may mắn có được.
Đã từ nhiều năm nay, các bản tin về tàu Trung Quốc tấn công ngư dân Việt mỗi lúc càng nhiều, càng hung hãn. Tàu "bạn hữu nghị" từ phương Bắc tràn xuống, cướp, giết, bắt cóc... kể cả bao vây đường biển của Việt Nam - nói chính xác là một cuộc xâm lăng trong thời đại mới. Thanh niên Việt trong đời sống xã họi chủ nghĩa đã làm gì?
Thật kinh ngạc, tăng dần theo thời gian là số lượng cha mẹ đưa con cái đi du học, đi xa đất nước như một cuộc đào thoát lớn lao và kiên nhẫn, bao gồm trong đó là các bậc phụ huynh có chức vụ, miệng luôn hô hào xây dựng đất nước và tồn tại hoà bình, 16 chữ vàng với Bắc Kinh.
Bối cảnh Việt Nam luôn thấp thỏm trước các lời đe doạ sẽ bị tiến và chiếm trong 24 giờ của báo chí chính thống Trung Quốc, thì thống kê cho thấy nạn trốn nghĩa vụ quân sự cũng tăng cao bất ngờ. Thậm chí. Trên các trang mạng xã hội, giới thanh niên nồng nhiệt bàn với nhau cách trốn nghĩa vụ quân sự. Thậm chí cẩm nang có 17 cách thoát chuyện đi lính được chia sẻ khắp nơi. Mệt mỏi đối phó với tình trạng này, năm 2013, Trung tướng Trần Đình Nhã, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh của Quốc hội cũng đã từng đề nghị cho phép hợp pháp việc không phải đi lính, bằng việc đóng tiền thế thân.
Quả là một nghịch cảnh mà lịch sử Việt Nam từ thời sơ khai đến giờ mới có. Một dân tộc từng đánh bại mọi quân đội ngoại bang, ngay cả lúc túng cùng nhất, lại rơi vào thảm cảnh như vậy. Lẽ nào dân tộc Việt Nam hôm nay không còn yêu nước, hay không còn tin vào những món hàng vũ trang quân sự "khủng" hàng đầu thế giới vẫn được thông tin là đã về đến, đã trang bị cho cho quân đội nước mình?
Đây là một vấn đề thật đáng suy nghiệm lâu dài, nhưng để trả lời nhanh, rõ ràng con người đang mất niềm tin. Trong mọi sự hy sinh cho tổ quốc mình, chắc chắc nhân dân không ngại, nhưng họ muốn sự dâng hiến của mình phải có ý nghĩa. Và thật là ngu ngốc, nếu chết không cho ai, để làm gì, và chết thay một cách ngu ngốc.
Ngày 29/11/2015, thêm một ngư dân Việt bị bắn chết thảm thương trên biển ở Trường Sa, Quảng Ngãi. Ông bị bắn không có thông báo, không có lời cảnh cáo, bị bắn đến 2 phát đạn vào một cơ thể chỉ biết quăng lưới và thả câu.
Người ngư dân này bị bắn chết trên biển, bởi niềm tin được thúc giục từ các nhà lãnh đạo trên bờ vẫn thúc giục rằng hãy cứ ra khơi và cứ đánh bắt như một cách "thực thi chủ quyền của tổ quốc". Những người còn sống hãi hùng đã đưa thi thể của người ngư dân này về đất mẹ, thật cô đơn, vì bởi hàng trăm hải lý đầy kẻ thù đó, cũng có những tàu cảnh sát biển đi tuần tra "khống", báo cáo láo để ăn tiền dầu, tiền hoạt động, để vui vẻ an sinh trên bờ.
Người ngư dân bị bắn chết ngày 26/11, đến ngày 30 thì thi thể mới giao được cho gia đình. Thế nhưng trong những ngày di chuyển về nhà, chiếc tàu này thật cô đơn vì chỉ có một mình, dù đã báo với bộ đội biên phòng chuyện mình bị tấn công và có người tử nạn. Không có tàu kiểm ngư nào ra đón, không có ai đi cùng nỗi kinh hoàng của họ trong chuyến quay về. Mọi trang thiết bị hiện đại trên biển luôn được tuyên truyền, như chỉ nặng phần trình diễn cùng sự thờ ơ của chính quyền.
Dân tộc Việt Nam hôm nay mới đáng thương làm sao, đi biển mà yếu ớt như trẻ nhỏ. Ai cũng có thể bắt nạt. Ai cũng có thể cướp và giết. Láng giềng thì mặt cười thân thiện, quay lưng thì tay súng, tay dao. Nhưng đáng thương hơn bao giờ hết là chuyện ngư dân chết trên biển đã ngày càng nhiều và thường hơn, còn những người trên bờ nghe chuyện tang thương ngoài khơi, giờ chỉ mệt mỏi, nhíu mày thương hại mà cũng không thấy cần phải làm gì.
Người Việt Nam như đang được các chính sách đối ngoại của chế độ tập quen dần thói quen ích kỷ, sợ mình bị mất mát, nhưng lại im lặng và chọn lựa thay thế bằng mất mát của những ngư dân nghèo khó. Nó giống như những câu chuyện cổ tích về các ngôi làng xưa phải hiến tế ai đó cho con quái vật để được yên. Vẫn có những người tin rằng việc hiến tế không bao giờ đến lượt mình, và mỗi ngày vẫn ăn ngon ngủ yên với những con cá đẫm máu đồng loại. Họ không muốn một cuộc chiến đối diện thẳng với con quái vật vì chỉ sợ mất mát cho riêng họ.
Cũng như những ngôi làng khiếp nhược và u mê ấy, có bao giờ chúng ta tự hỏi rằng chúng ta sẽ mất - mất rất nhiều - thậm chí mất tất cả, mà các loại quái vật không cần mất sức cho bất kỳ một cuộc chiến tranh nào. Và những người lãnh đạo ngôi làng, nếu không có dũng khí để đối diện với cái ác để bảo vệ mọi người, thì họ tồn tại để làm gì?

Saturday, December 5, 2015


SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

Gặp Một Nhà Thơ Ở Thủ Đô Nước Thái


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

VN là một cường quốc về thơ!
Nguyễn Quang Thiều


Cách đây chưa lâu, ông Bùi Minh Quốc đã phán (một câu) rằng “thơ thiêng lắm.” Mọi thứ thiêng liêng trên cõi đời này, tất nhiên, đều rất nên tôn kính. Nhưng riêng chuyện thơ thẩn, tôi cảm thấy có hơi hơi nghi ngại nên xin mạn phép được rà lại (chút xíu) cho nó chắc ăn.
Tôi không quen nhưng biết khá nhiều thi sĩ rất nặng tình với thi ca. Cuộc sống của họ, tuy thế, không hề được thơ phú phù bật, phù hộ hay phù trợ gì ráo trọi; đã vậy, thi nhân còn bị đời hành cho bầm dập và te tua thấy rõ!
Nguyễn Thị Hoài Thanh là một trong những vị này:
 “Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần ly dị. Vẻ đẹp của tuổi ba muơi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao nhiêu khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa. Hình như Nguyễn Thị Hoài Thanh sinh ra là để gặp rắc rối và vuợt qua những rắc rối khó khăn. Chịu đựng và vượt qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca như cuộc đời vốn như vậy ...
Có việc gì mà không trải qua. Hãy kể những việc chính: Công nhân xi măng, thợ điện Hải Phòng điện khí, thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công ty xuất nhập khẩu, đứng máy bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Định, công nhân công ty xếp dỡ, cấp dưỡng công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc qui Công Ty Quốc Doanh Đánh Cá Hạ long…Đó là chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc, làm và bán nước mắm … Đồng luơng không đủ nuôi mình mà còn phải nuôi con …” (Bùi Ngọc Tấn. “Một Mơ Ước Về Kiếp Sau.” Viết Về Bè Bạn. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2005).







Thảo nào mà thơ của Nguyễn Thị Hoài Thanh đọc nghe như một tiếng thở dài, dù (rất) khẽ:
Sông Cấm ơi! Sông như người bạn mới quen
Thân thiết thế mà sao không hiểu được
Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
Sông với tôi, với bóng là ba
Bóng tôi nghiêng với bao la
Sông mang về biển
Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?
Sông Cấm chả hiểu có mang được “nguyên vẹn” bóng  người “về biển” hay không nhưng chị Thanh, tiếc thay, đã không giữ được nguyên vẹn hình hài của chính mình:
“Tai nạn xẩy ra ngay ngã Sáu, gần nhà tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết, mặt đường sền sệt một thứ nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy… Chị bảo người nhà xin cho người tài xế đã gây ra tai nạn vì người ta không cố ý, người ta cũng khổ như mình. (Bùi N.T. sđd, trang 111-112).
Sau đó, sau khi bị thương tật, Nguyễn Thị Hoài Thanh không bao giờ còn được “khổ như” nhiều người dân Việt (trung bình) khác nữa. Ở vào bước đường cùng, loay hoay mãi vẫn không lối thoát, chị đành bỏ nhà vào Nam đi … mót!
Với dân Việt thì gặt lúa, bẻ bắp, rỡ khoai, rỡ lạc là những sinh hoạt quen thuộc hàng ngày. Mót lúa, mót bắp, mót khoai, mót lạc cũng là những sinh hoạt quen thuộc khác – với những người không có một hòn đất ném chim, như ... Nguyễn Thị Hoài Thanh.
Có chiều, ở Đồng Xoài, chị đang ngồi chơi vẩn vơ đùa nghịch với những cây hoa mắc cở (trong khi chờ người ta rỡ đậu phụng xong để mót) thì ý thơ chợt đến:
Chiều lặng ngồi trên cây xấu hổ
Lá thẹn thò sau đám cỏ rối bời
Hãy ngoảnh mặt lại đây
Có gì đâu mà mắc cở
Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.

Có gì đâu mà mắc cở? Vậy mà tôi cứ xấu hổ mãi vì quê hương đất nước của mình (“một cường quốc về thơ”) đã để cho một thi nhân phải ... đi mót lạc!
Đi mót, nghĩ cho cùng, vẫn đỡ hơn đi xin như hoàn cảnh đau lòng (hơn) của một nhà thơ khác:
“Lật hồ sơ Dương Ánh Dương, thấy ông ghi thế này: Họ và tên: Dương Thân Mật. Sinh năm 1950. Bút danh: Dương Ánh Dương. Nghề nghiệp: ăn mày …
Mình bật cười. Mấy ông văn nghệ sĩ chỗ nào cũng tếu táo được. Hồ sơ lý lịch là chuyện nghiêm túc, các ông vẫn đùa như thường. Mục Đã đi nước ngoài lần nào chưa anh Lê Văn Thảo trả lời : dễ gì! Mục Chức vụ cao nhất đã kinh qua anh Đỗ Chu trả lời: Đàn anh Hữu Thỉnh. Vui nhất là Mục Quá trình tham gia cách mạng. Thằng Trung Dũng sinh sau đẻ muộn, lớn lên đã hết chiến tranh, suốt ngày chỉ đi học và vẽ, chẳng làm gì tốt cho cách mạng. Không biết ghi thế nào, nó ghi: Ngày Bác Hồ mất, gia đình có tổ chức khóc Bác. Hi hi...

Té ra không phải, Dương Ánh Dương không đùa, anh hành nghề ăn mày đã mấy chục năm rồi. Thằng Vinh nói oa chà, chuyện ông này đúng là một bi kịch rất đặc biệt. Vinh khoa chân múa tay kể, nói ông này xuất thân là giáo viên cấp 3. Năm 1975 đói quả bỏ dạy đem vợ vào Sài Gòn kiếm sống. Chưa đầy năm thì vợ bỏ anh theo bạn vượt biên. Buồn chán anh tìm về một làng chài ở Nha Trang làm thuê kiếm ăn qua ngày, làm được đồng nào thả vào hũ rượu đồng đó. Ngày đi đánh cá thuê, vá lưới thuê, xẻ mực thuê… tối về uống rượu làm thơ đọc thơ giải khuây.
Có người thương lấy làm chồng, sinh được đứa con, vợ chồng sống đắp đổi qua ngày tạm gọi là hạnh phúc. Không ngờ anh đi tàu đánh cá, luýnh quýnh thế nào đó bị ngã cuốn vào chân vịt, gãy chân tay, chấn thương sọ não bán thân bất toại, nằm liệt giường hai năm. Sau vài năm ra sức chạy chữa cho anh, nợ nần chồng chất, bà vợ thấy cùng đường đành ôm con bỏ đi. Anh phải lê lết ăn mày từ đó. (Nguyễn Quang Lập. “Gã Ăn Mày Thi Sĩ.”  Bạn Văn 2. NXB Hội Nhà Văn: Hà Nội, không rõ năm xuất bản).
Chiều qua, tại Thái Lan, tôi tình cờ lại gặp thêm một nhà thơ nữa. Ông cũng đang “ở bước đường cùng,” dù không bị tai nạn hay thương tật gì ráo trọi. So với Nguyễn Thị Hoài Thanh và Dương Ánh Dương, Dương Văn Nam thuộc vào một thế hệ khác, và thời đại khác: Thời Internet. Chính những “bài thơ phê phán chế độ” trên FB đã khiến ông phải “tìm đường chạy trốn” – theo như thông tin của blogger Huỳnh Bá Hải, đọc được trên trang Thông Luận:
“Lại thêm một người đấu tranh cho dân chủ từ Việt Nam sang Bangkok lánh nan. Đó là ông Dương Văn Nam, sinh năm 1970 quê ở Bắc Giang. Ông Nam là nông dân hay làm thơ phê phán chế độ và ủng hộ cho dân chủ...
Anh em dân chủ ở khu vực phía Bắc hay gọi ông với biệt danh chất phác: ‘Nhà thơ nông dân’. Trên đường chạy trốn đợt khủng bố gần đây nhất của công an Việt cộng, anh ‘nông dân làm thơ’ đến được Bangkok cùng với đôi dép tổ ong.”

Dương Văn Nam ở Bắc Giang
Tôi nhận ra ngay người đồng hương không nhờ vào “đôi dép tổ ong” mà vì ánh mắt ngơ ngác, và lạc lõng của Dương Văn Nam, giữa lòng thủ đô Vọng Các. Tôi bước đến trước mặt ông, đọc khẽ mấy câu thơ (những vần thơ mà tôi đã làm hơn ba mươi năm trước, khi bước chân ra Bangkok lần đầu) để làm quen:
Chiều về trên xứ lạ
Xe ngược xuôi trăm đường
Trăm ngàn khuôn mặt lạ
Mong một người đồng hương ...
Chút xíu nữa “thằng chả” ôm chầm ngay lấy tôi vì ngạc nhiên, và vì cảm động:
  • Thế bác cũng là người Việt à?
  • Vâng.
  • Bác cũng biết nàm thơ à?
  • Vâng.
  • Em nàm nông nhưng thỉnh thoảng cũng có nàm thơ ... Nếu không vì thơ chưa chắc em đã phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ, bỏ con nưu nạc đến tận nơi này.
Tôi đã tiếp xúc với không ít những nông dân Việt Nam đang đẩy xe bán kem, bán nước dừa, bán trái cây, hay phụ bếp trong những tiệm ăn ở Thái Lan. Họ lâm vào cảnh tha phương cầu thực giản dị chỉ vì mất đất đai, và không tìm được kế sinh nhai ở quê nhà. Đây là lần đầu tiên tôi mới gặp một người “nàm nông nhưng thỉnh thoảng cũng có nàm thơ” phải bỏ nước ra đi chỉ vì những câu thơ chân chất (y như đất và khoai bắp) của mình đã xuất hiện trên face book:
lương tâm các mác tuyệt vời
muốn cho nhân loại sướng đời muôn năm
nhưng vì chủ thuyết oái oăm
khi đem thí nghiệm không thành cái chi
chỉ thành xã hội ngu xi
dân thì khổ nhục quan thì sướng rên
sướng vì độc đảng triền miên
quan tham hút máu dân đen đời đời



Dương Văn Nam (phải) ở Bangkok. Ảnh chụp tháng 11/2015.
Tôi mời Dương Văn Nam vào quán bên đường uống mấy chai bia, và nghe ông tâm sự:
  • Vừa sang đến đây em được giới thiệu đi làm phụ hồ ngay cho ông Trần Thanh Hải nhưng ông ấy không trả cho cắc bạc nào cả ...
  • Cha này tên là Hải Xây Dựng. Bà con H’mông của mình ở xóm chợ Dênh Chơn Lơn cũng than phiền là ông ấy hay mướn người tị nạn làm việc rồi quỵt tiền, hay chỉ trả tượng trưng thôi, vì biết chắc là chả ai dám thưa kiện gì cả.
  • Bây giờ em chưa biết tính nàm sao, có người khuyên đi bán kem. Bác nghĩ thế lào?
  • Bán kem thì chả cần phải vốn liếng gì vì xe kem của chủ nhưng đẩy xe từ sáng đến tối cũng chỉ được chia khoảng ba bốn trăm baht, nghĩa là chừng mươi mười đô la hay nhỉnh hơn chút xíu thôi.
  • Thì em cũng chỉ cần đến thế thôi. Vợ em nó đi nàm ô sin ở Macao đã đủ tiền gửi về nhà để nuôi bố mẹ hai bên, với hai cháu bé rồi.
Nói xong nét mặt của Dương Văn Nam trông thư giãn hẳn. Ông tợp một ngụm bia cực lớn như một cách tự thưởng vì vừa tìm ra được sinh lộ giữa cảnh khốn cùng.
So với chuyện đi mót Nguyễn Thị Hoài Thanh, hay đi xin của Dương Ánh Dương ngày trước thì “viễn tượng” đi bán hàng rong tuy không huy hoàng nhưng (ngó) dễ coi và đàng hoàng hơn thấy rõ. Thế nước (quả) đang lên, dù không nhanh lắm. Tuy chậm nhưng không chóng thì chầy “Việt Nam (sẽ) là một cường quốc về thơ.” Nghĩ cho cùng thì thơ thiêng thật, chỉ e là “không thiêng lắm” thôi!

NGUYỄN THIÊN- THỤ * HỒI KÝ HÀ THÚC KÝ






HỒI KÝ HÀ THÚC KÝ (1920- 2008)

NGUYỄN THIÊN- THỤ


Ông Hà Thúc Ký sinh tại làng La Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình khoa bảng. Sau khi đỗ Tú Tài ông ra Hà Nội học Đại Học và đỗ Kỹ Sư Thủy Lâm và đến năm 1943 thì lên đường làm Phó Quận Trưởng Thủy Lâm tại Cà Mau. Sau khi Nhật đảo chánh Pháp năm 1945, ông trở về Huế và tham gia Kháng Chiến tại Mặt Trận Lào trên con đường số 9 với tư cách là Trưởng Ban Đặc Vụ Quân sự. Ít lâu sau, vì bị cán bộ chính ủy Việt Minh tại đó phao vu là


thành phần phản động, ông đành phải rời bỏ hàng ngũ Kháng Chiến và ra Hà Nội. Tại đây ông gặp bạn bè cùng lứa và gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng do Ông Trương Tử Anh thành lập năm 1939,cùng một thời với những đảng viên của đảng này như Nguyễn Tiến Hỷ, Đặng Vũ Trứ, Đặng Văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Tất Ứng, Bùi Diễm v.v…








Năm 1953, ông vào Sài Gòn và được bầu vào Hội Đồng Chủ Tịch Trung Ương Đảng Bộ Đại Việt Quốc Dân Dảng. Vì Đảng Trưởng Trương Tử Anh bị mất tích, Hội Đồng này tạm thời thay thế Đảng Trưởng để lãnh đạo Đảng. Ông cũng tham gia vào Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình năm 1954 cùng với một số nhân sĩ và giáo phái Miền Nam như Cao Đài và Hòa Hảo…


Năm 1955, vì bất đồng chính kiến với chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, và vì có liên quan đến vụ biến động Ba Lòng ở Miền Trung, ông bị kết án (vắng mặt) khổ sai chung thân, rồi đến tháng 11, 1958 thì bị bắt và biệt giam cho đến sau ngày đảo chính ngày 1 tháng 11, 1963 mới được ra khỏi tù…


Sau Tết Mậu Thân, để đối phó với Cộng Sản , ông vận động 6 đảng lớn có thực lực ở Việt Nam là Dân Xã Đảng (Hòa Hảo), Lực Lượng Đại Đoàn Kết, Nhân Xã Cách Mạng Đảng, Lực Lượng Tự Do Dân Chủ, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội với mục đích đoàn kết lại những chính đảng chống Cộng…


Vào đầu năm 1988. ông cũng nỗ lực cùng với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và ông Bùi Diễm để tiến tới việc thống nhất lại Đại Gia Đình Đại Việt. Một bản thông cáo với chữ ký của 3 người được gửi tới các cấp của các hệ phái Đại Việt và được công bố ngày 27 tháng 3, 1988. Trong lúc những nỗ lực kết hợp được tiến hành đều đặn thì không may Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy từ trần….


Năm 1992, ông hợp tác với Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn theo tinh thần đã được đồng ý với Giáo Sư Huy từ trước để tái lập lại Đại Việt Quốc Dân Đảng, nhưng việc kết hợp gặp trở ngại nên ông trở về với tổ chức Đại Việt Cách Mạng. Trong 3 kỳ Đại Hội liên tiếp 1995, 1999 và 2003, ông được bầu làm Chủ Tịch Đảng. Vì lý do sức khoẻ, trước ngày Đại Hội VI, ông tuyên bố rút lui và trong một bức tâm thư tháng 10, năm 2006, ông ủy quyền cho ông Bùi Diễm đứng ra triệu tập Đại Hội. Tại Đại Hội lần thứ VI, ngày 26 tháng 5, 2007, ông Bùi Diễm đã được bầu làm Chủ Tịch Tân Ban Chấp Hành Trung Ương thay thế ông Hà Thúc Ký… Ông Hà Thúc Ký qua đời lúc 12 giờ 10 chiều ngày 16 tháng 10, năm 2008 (nhằm ngày 18 tháng 9 năm Mậu Tý) tại bệnh viện Holy Cross, tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ, hưởng thọ 89 tuổi.



                                                 A. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM

Quyền hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” của Hà Thúc Ký khổ trung bình, dài 371 trang, bìa cứng, giấy trắng, ấn loát rõ ràng, trình bày trang nhã, do Phương Nghi ấn hành năm 2009.


Khởi đầu, ông cho biết mục đich của ông viết quyển Sống Còn Với Dân Tộc” là để nhớ lại quá khứ chiến tranh của Việt Nam và những tranh đấu nhưng thất bại của bản thân ông:


Cuốn sách này một phần lớn là những hồi ức về cuộc đời tôi, xuyên suốt qua quá trình hoạt động cách mạng và chính trị theo dòng lịch sử của đất nước từ thập niên 1930 cho đến ngày nay. (Thay Lời Tựa )


Ðã ba mươi năm qua, quang cảnh ly loạn của đô thành Sài gòn ngày ấy như còn lung linh ẩn hiện trước mắt tôi, tiếng người, tiếng xe, tiếng đạn pháo, tất cả mọi thứ âm thanh hỗn loạn đó như còn vang dội nhức nhối trong tim tôi. Bởi vậy, mở đầu tập hồi ký này, tôi muốn nhắc lại ngày ấy như nhắc đến một món nợ chưa trả nổi. Ở vào cái ngày đen tối ấy, bản năng hoạt động của con người tôi, trong tình huống đó, trở nên hoàn toàn bất lực, như đầu hàng trước thiên định! (Ch. I)


Tác phẩm này cũng là một sự nhìn lại quảng đường đã qua, một bản kiểm điểm về hành động trong suốt cuộc đời:


“Tôi nghĩ đã đến lúc cần phải kiểm điểm lại những gì mình đã làm suốt một đời người cho việc đóng góp vào công cuộc chung có ảnh hưởng đến vận mệnh của đất nước. Những việc làm của tôi, nếu có thể cho đó là một sự nghiệp cách mạng và chính trị thì sự nghiệp này có đem lại lợi ích cho Tổ Quốc và Dân Tộc hay không, cũng như hành động của tôi, phải hay trái, đúng hay sai…”


Năm năm trước khi rời bỏ trần gian, tuổi đời đã 83, ông vẫn thao thức, băn khoăn đã “Làm được gì cho đất nước?” “Còn có hy vọng nào để đóng góp cho xứ sở nữa không?” (tr. 362).


Quyển Hồi ký này cũng là một lời tạ lỗi vì đã không làm tròn nhiệm vụ, một niềm đồng cảm với những người đã bỏ nước ra đi, một nỗi xót thương cho người ở lại, một câu cảm tạ những đồng chí,và đồng bào và một hồi hướng cho những người ở lại biển đông.Đến bến tự do, ông đau khổ nghĩ đến những đồng bào đã nằm yên trong biển cả, và những người phải ợ lại chịu đựng một chế độ độc tài tàn bạo: 


Từ ngày rời xa quê cha đất tổ đến nay thấm thoát đã gần ba mươi năm, nay viết chương mở đầu này, đưa hồi ức lui về những ngày hoảng loạn của tháng tư đen năm ấy, trước hết tôi xin đốt nén hương lòng để tưởng nhớ những người ra đi mong tìm đất sống nhưng không may đã phải vùi thây trong gió bão biển khơi hoặc bỏ thân vì nạn hải tặc. Sau nữa, tôi muốn san sẻ nỗi niềm đau thương, chua xót, với những kẻ ở vào cái thế chẳng đặng đừng phải bỏ nước ra đi, nhưng ra đi không trót lọt, bị kẹt lại ở quê nhà, để phải cắn răng chịu đựng một cuộc sống đắng cay, tủi nhục, tù tội, đọa đày. Tôi cũng muốn ký thác nơi chương mở đầu này mấy dòng cảm nghĩ chân thành phát xuất từ đáy tâm tư để ngợi khen sự thủy chung của các đồng chí, sau khi thoát khỏi ngục tù cải tạo Cộng sản, liền tìm về với đảng, tinh thần bất khuất vẫn không sa sút. Tôi cũng xin cảm tạ đồng bào đã từng ủng hộ tôi trên con đường dài đấu tranh cho Ðộc Lập Tự Do của quê hương đất nước(Ch.I).


Ngoài ra tác phẩm còn muốn truyền lại cho thế hệ sau kinh nghiệm xưong máu của đảng Đại Việt và nhân dân Việt Nam:


“…những sự việc tường thuật trong tập hồi ký này sẽ là một tặng phẩm tinh thần trao lại cho các đồng chí của tôi và các bạn trẻ sau này để ít nhiều giúp được họ một vài kinh nghiệm trên con đường tranh đấu cho sự sống còn của dân tộc (370)..


Hồi ký của ông cũng là di chúc cho các đảng viên Đại Việt. Ông hy vọng các đồng chí của ông “đây là một vài lời thành khẩn nhắn nhủ các anh chị em đồng chí của tôi, những người bạn đồng hành đã cùng tôi một lòng kiên trì theo đuổi lý tưởng phục vụ dân tộc qua tất cả những giai đoạn thăng trầm của đất nước.”mạnh dạn cố gắng tiếp nối trên con đường chông gai mà chúng ta đã đi từ mấy chục năm qua cho đến ngày đất nước thực sự có tự do dân chủ” ....con đường chông gai mà các anh chị em đã đi qua từ mấy chục năm qua , kế tục truyền thống cách mạng của cố đảng trưởng Trương Tử Anh là con đường chính nghĩa. Anh chị em hãy mạnh dạn cố gắng tiếp nối trên con đường đó cho đến ngày đất nước thực sự có Tự Do, Dân chủ... Trong một tương lai không xa, những người tranh đấu cho tự do, dân chủ và công bằng xã hội cho dân tộc cùng với thế hệ của những người trẻ ở trong nước và ngoài nước, sẽ có cơ hội đóng góp cho xứ sở như tôi vẫn hằng mong ước mà chưa được như ý nguyện. Và để cho cơ hội sớm đến, anh chị em có bổn phận phải yểm trợ những cố gắng của đồng bào đang can đảm tranh đấu ở quê nhà bằng tất cả sự nhiệt tâm của người dân đối với đất nước thân yêu.”(365- 369).


Quyển Hồi ký của ông cho chúng ta biết nhiều sự kiện lịch sử:



1. Về Cộng sản:

Ông kết tội cộng sản:đảng CSVN đã lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào chống Pháp, nhưng chủ đích là mưu đồ bành trướng chủ nghĩa cộng sản quốc tế hầu đưa đất nước vào vòng nô lệ Nga, Tàu. Họ đã tàn sát các đảng phái quốc gia, bóc lột, đàn áp và giết hại nhân dân:

-Sau khi cướp được chính quyền, Việt Minh đã nhanh chóng ký sắc lệnh giải tán Đại Việt Quốc Dân Đảng… Nhưng trước đó 3 đảng đã liên kết thành lập Quốc Dân Đảng Viêt Nam với sự long trọng chào mừng của ông Ngô Thiết Thành đại diện Trung Hoa Quốc Dân Đảng…Chỉ từ khi Việt Minh ký với Pháp hiệp đinh sơ bộ 6-3-1946 để cho quân Pháp kéo vào trú đóng các thành phố và thị xã phía bắc vĩ tuyến 16, thay thế quân đội Trung Hoa rút về Tàu sau khi đã giải giới quân đội Nhật, Việt Minh mới tìm cách diệt trừ đảng phái Quốc Gia.”(tr.113)

- Ông đã cảm “thấy xót xa cho bao nhiêu người dân đã bị chết oan ức bởi cái gọi là tòa án nhân dân của Việt Minh trong giai đoạn hỗn quân, hỗn quan sau ngày 18 tháng 8-1945 (tr. 82). Qua các vụ Ôn Như Hầu ở Hà Nội và Chiêm Sơn ở Quảng Nam, ông đã thấy rõ “Người Cộng sản mang dã tâm sát hại các lực lượng cách mạng có xu hướng Quốc Gia để giành độc quyền yêu nước.” (tr. 118)

- “Phát triển thì có nhưng từ một khởi điểm quá thấp nên ‘tụt hậu’ so với các nước láng giềng vẫn là một nguy cơ trước mắt. Còn về chính trị thì khỏi nói, ai đã từng sống ở Việt Nam cũng đều được dịp chứng kiến những cảnh đàn áp dân chủ một cách thô bạo hay những hình thức chà đạp tôn giáo một cách trắng trợn”(tr.367).



2. Về Bảo Đại:

Ông không tán đồng chương trình của Bảo Đại nhưng ông không chống đối.Ông khen ngợi cựu hoàng đã có công lao không nhỏ với đất nước trong giai đoạn 1945-1955 qua việc tranh thủ với Pháp để giải tán chính phủ Nam Kỳ tự trị; thành lập lưc lượng liên tôn chống Cộng.



3. Thành tích của Đại Việt 


Ông đã xây dựng cơ sở ở Miền Trung, nhiều đảng viên đã thành công trong cuộc chống cộng như Trần Điền, tỉnh trưởng Quảng Trị. Có nhiều nhân vật quan trọng đã tham gia đảng Đại Việt.

Vào cuối năm 1945, Đảng Trưởng Trương Tử Anh bí mật cử 2 đồng chí đầu tiên là Nhân và Tín vào Nam Kỳ để lập cơ sở và phát triển Đảng. Nhân là bí danh của GS Phạm Đăng Cảnh, có một thời gian làm Giám Đốc Nha Tư Thục Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. GS Cảnh hiện ở Rennes, Pháp. Tín là bí danh của GS Nguyễn Tấn Thành, thuộc trường Đại Học Luật Khoa, Sài Gòn. GS Thành đã qua đời tại Niles, Pháp, hơn 10 năm trước đây. Một người thứ 3 được cử vào Nam là Lễ. Lễ hay Mười Lễ là bí danh của Nguyễn Văn Hướng, về sau, năm 1967, làm Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống cho TT Thiệu, trong những ngày đầu của chế độ nền đệ II Cộng Hòa. Có một người khác được đưa vào sau là Nghĩa, được nói là bí danh của Nguyễn Văn Kiểu, anh ruột của TT Thiệu, làm Đại Sứ tại Đài Loan cho đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam.

Sau 1963, Đảng Đại Việt chia rẽ. Ông viết

“Hiện tượng này bề ngoài có vẻ như một sự chia rẽ về phương hướng hoạt động nhưng thực ra giữa những tổ chức mối tình thân vẫn được giữ lại như tình anh em trong một đại gia đình” (iv).

Ra hải ngoại, ông cố tái tổ chức đảng Đại Việt: trang 364 anh viết “Đại Việt Cách Mạng do đó mà được tổ chức lại, hàng ngũ những đảng viên đã có thành tích hoạt động từ trong nước nay được đặt biệt cũng cố và tăng cường bởi một lớp người mới thuộc thế hệ trẻ… Đại Việt Cách Mạng hoạt động trở lại với một lề lối làm việc mới, thực tập dân chủ ngay trong sinh hoạt của đảng và từ bí mật chuyển sang công khai… tất cả với mục đích cố gắng góp sức với các đoàn thể và tổ chức quốc gia bạn trong công cuộc chung mưu cầu tự do, dân chủ cho dân tộc (tr.364).



4.Vụ chiến khu Ba Lòng.

Ba Lòng là chiến khu của Việt Cộng, quân đội quốc gia có nhiệm vụ đến tiếp thu chiến khu này. Nhưng rồi lại có lệnh ngưng hành quân, và đoàn quân bị trừng trị:

"Tỉnh Trưởng đề nghị lên Trung Ương qua Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần kế hoạch phối trí lực lượng và đã được chấp thuận như sau: Tỉnh có 10 đại đội Cảnh Bị (sau này gọi là Bảo An, rồi sau cùng là Địa Phương Quân) được sử dụng để tiếp thu căn cứ của VC. Mỗi đại đội gồm 150 người. Riêng tại căn cứ Cùa và Ba Lòng, lực lượng tiếp thu là 4 đại đội. Sau khi tiếp thu, Ba Lòng sẽ trở thành một quận hành chánh kiểu mẫu. Đại Úy Nguyễn Ngọc Cứ được tỉnh trưởng cử làm Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng. Sau Tết Nguyên Đán (1955), trong khi chờ đợi sự vụ lệnh chính thức làm Quận Trưởng, Đại Úy Cứ được lệnh Tỉnh Trưởng đem hai đại đội lên Ba Lòng trước để chuẩn bị tiếp thu và gây dựng cơ sở. Đại Úy Cứ chia lực lượng ra làm hai cánh: một đại đội đi đường thủy, ngược sông Thạch Hãn và một đại đội đi đường bộ lên Cam Lộ, vào Ba Lòng qua ngả Kho Muối.



Hai đại đội còn lại tiếp tục ở Thị Xã, chờ làm lễ xuất quân chính thức, rồi lên đường.

Sau đó ít hôm, Tỉnh Trưởng Trần Điền ký sự vụ lệnh bổ nhiệm Đại Úy Cứ làm Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng Cảnh Bị Ba Lòng, đồng thời ấn định ngày 19 tháng 2, năm 1955 làm lễ xuất quân. Buổi lễ được tổ chức trọng thể trước tòa Hành chánh Tỉnh, dưới sự chủ tọa của Tỉnh Trưởng Trần Điền để tiễn đưa tân Quận Trưởng và 2 đại đội Cảnh Bị còn lại lên đường.



Vào 8 giờ sáng ngày 19 tháng 2 năm 1955, trong lúc đang làm lễ xuất quân trước Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị, đột ngột nhận được công điện từ Huế đánh ra, ra lệnh đình chỉ chiếm đóng Ba Lòng. Tỉnh Trưởng Trần Điền quyết định rằng đoàn quân cứ tiến hành theo chương trình đã định. Ông sẽ thương nghị với thượng cấp".



Tỉnh Trưởng Trần Điền và Thiếu Tá Hoàng Văn Hiền, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Bị (Bảo An) Tỉnh về trình diện Tòa Đại Biểu Chính Phủ ở Huế. Quyết định của Trần Điền bị Đại Biểu Chính Phủ coi là "bất tuân thượng lệnh'. Sau đó, Tỉnh Trưởng được ra về, còn Thiếu Tá Hiền bị đưa sang Nha Bình Trị giam lỏng. Trần Điền phản đối và đòi ở tù tại Huế cùng với Thiếu Tá Hiền.



Ông Ngô Đình Cẩn cho mời GS Nguyễn Văn Mân của Đại Việt đến, ra một tối hậu thư là các đơn vị ở Ba Lòng phải trở về thị xã và nộp tất cả võ khí. Ông Cẩn còn nặng lời rằng không tuân lệnh, thì sẽ bị dẹp, tới lúc đó tất cả sẽ vào ngồi tù. GS Mân khẳng khái trả lời: "Chúng tôi hân hạnh ở tù dưới chế độ cụ Ngô."

Năm ngày sau, Bộ Tư Lệnh Quân Khu II ra lệnh cho một tiểu đoàn Bộ Binh, một đại đội Thiết Giáp đưa Thiếu Tá Hiền về Quảng Trị, đến thẳng văn phòng Tỉnh Đoàn Bảo An, buộc ký lệnh thu hồi tất cả võ khí của các đại đội ở các quận và thị xã đem về nộp vào kho của tỉnh đoàn, buộc Thiếu Tá Hiền ra lệnh cho tiểu đoàn ở Ba Lòng trở về thị xã. Sau đó Thiếu Tá Hiền được trả tự do và tước hết quyền hành. Ngay chiều hôm đó, Thiếu Tá Hiền đi thẳng lên Ba Lòng. Ngoài ra, vì thấy chính quyền quyết định như vậy, Thiếu Tá Phạm Văn Bôn, Chỉ Huy Trưởng Tiểu Đoàn Khinh Quân 610 đang đóng quân ở Quảng Nam và Đại Úy dù Phạm Văn Đồng với một trung đội Dù nghe tin như vậy, tuyên bố ly khai và kéo quân về Ba Lòng.



"Chính quyền đã dồn họ vào thế phải chống đối dù biết rằng đằng nào cũng gặp nguy hiểm". Anh em sĩ quan gốc Đại Việt quyết định "đã bị dồn vào chân tường, thì chỉ còn cách là 'họ đánh thì mình đỡ'. Đằng nào cũng vào tù, nhưng ngẩng mặt mà vào tù, không chịu áp bức, không chấp nhận sự bất công."



Đệ Nhị Quân Khu điều động 3 tiểu đoàn thiện chiến nhất để lập thành Đòan Quân Thứ Lưu Động lên Ba Lòng. Sau đợt tấn công đầu tiên không vào được mục tiêu, vì Chỉ Huy Trưởng chiến dịch là Trung Tá Phan Văn Cách không có ý định 'tàn sát lẫn nhau'. Bộ Tư Lệnh đệ II Quân Khu đưa Trung Tá Lê Văn Nghiêm lên thay thế. Quân đội dùng công binh mở đường để đem đại bác vào tận Đá Nổi để tác xạ vào Ba Lòng. Cầm cự đến ngày 9 tháng 3, năm 1955, quân trú phòng bị bất ngờ khi quân chính phủ tiến vào phía sau, chiếm kho đạn và lương thực. Ba Lòng thất thủ. Lực lượng Đại Việt rút về Ba Hi, bên kia biên giới Lào.



Ngày 10 tháng 3, Ban chỉ huy quyết định giải tán lực lượng. Th. Tá Hiền và Đại Úy Cứ dẫn một số anh em về Quảng Trị. Họ bị giam ỏ nhà lao Thừa Thiên cho đến 1977, Tòa quân sự Huế mới đưa ra xét xử. Còn chừng 100 người ở lại và lén về ẩn náu tại làng Ven. Tại đây, một số chết dần vì bệnh tật, hoặc sa vào tay Việt cộng. Ít người khác lẻn về Huế, rồi cuối cùng cũng bị bắt.

Chung cuộc,Tỉnh trưởng Trần Điền bị cách chức và loại ra khỏi ngạch công chức. Những sĩ quan chỉ huy Ba Lòng, người thì bị án tù, khổ sai và một số vắng mặt bị khổ sai chung thân.[...].



Sự việc này bắt nguồn từ ở mối nguy cơ mất chức của viên Đại biểu Chính Phủ tại Trung Phần Việt nam: Nguyễn đôn Duyến.

Trong cuộc viếng thăm Quảng Trị vào đầu năm 1955, Thủ tướng Diệm ngợi khen Tỉnh Trưởng Trần Điền về thành quả đã đạt được, ban cấp Bảo Quốc Huân Chương, chấp thuận kế họach tiếp thu các căn cứ VC, và lại công khai nói rõ ý định của Thủ Tướng Diệm là sẽ đưa Trần Điền làm Đại Biểu Trung Phần.

Kẻ sắp bị mất chức trong trường hợp như vậy như Nguyễn đôn Duyến phải tìm cách diệt kẻ "thù" của mình. Có như thế, thì mới giữ được ghế của mình. Dưới triều Ngô, ai cũng biết có nhiều trung tâm quyền lực trong nội bộ gia đình của TT Diệm :Giám Mục Ngô đình Thục, Ngô đình Nhu, Ngô đình Cẩn. Những nhân vật này được coi là trung tâm quyền lực thực tại ( de-facto), nghĩa là không có chức vụ chính thức trong chính quyền, ngay cả đến luật pháp căn bản để thiết lập ra quyền lực ấy cũng không có. Và mọi người đều hiểu rằng họ là Cố Vấn của Ông Diệm. TT Diệm là người nắm quyền chính thống , được Hiến Pháp ban cấp quyền hành. Chính ông nhiều khi lại không hành sừ quyền của mình liên quan đến những vấn đề của quốc gia. Quyền hành của TT Diệm bị chi phối bởi những người thân trong gia đình của ông. Chi phối ở đây không có nghĩa là anh em ông Diệm gây ảnh hưởng đối với trung tâm quyền lực chính thống là ông Diệm, mà là hạn chế quyền hành của ông, có khi thay thế hay vướt quá cả quyền hành của ông. Vì nhu nhược trước các hành động của các trung tâm quyền lực khác của gia đình, mà nhất là gia đình có truyền thống phong kiến, Ông Diệm không dám hay không thể nắm hay hành sử quyền hành mà Hiến Pháp, hay là gọi là do quốc dân giao phó.

Nhờ quyền hành rất lớn như thế của ông Cố vấn và là người đỡ đầu, ông Duyến đi tới quyết định chấm dứt kế hoạch tiếp thu Ba Lòng đã được ông Diệm chấp thuân từ trước và đã bắt đầu thi hành một phần rồi. Lại ra lệnh chấm dứt vào đúng phút chót là lúc tổ chức "lễ xuất quân" để đánh vào mặt và hạ uy tín Trần Điền. Lệnh của ông Duyến dù có trái với quyết định trước đó của chính ông Diệm, nhưng lệnh ấy vẫn được ông Diệm hợp thức hóa bằng cách trừng phạt, và bắt bớ, truy tố "các kẻ thù" của ông Duyến về tội "phá rối trị an", và "vi phạm an ninh quôc gia". Tỉnh trưởng Trần Điền là mục tiêu của ông Duyến. Ông Trần Điền và các sĩ quan Đại Việt trong công tác tiếp thu chiến khu Ba Lòng, dù sẵn sàng chấp nhận phải đổ máu, là nạn nhân của tranh chấp quyền hành trong gia đình Nhà Ngô. Lệnh hủy bỏ kế hoạch tiếp thu Ba Lòng của ông Duyến được ông cố vấn Cẩn chính thực "bao yểm" khi ông Cẩn mời GS Nguyễn văn Mân tới "nhà", để "chỉ thị" rằng sĩ quan Đại Việt phải giải giới về trình diện tại Quảng trị, nếu không sẽ bị bỏ tù.

Tôi có gọi điện thoại nói chuyện với cựu Thượng Nghị Sĩ Mân , hiện tại ở Texas về vấn đề này. TNS Mân xác nhận rằng có trả lời ngay ông Cẩn rằng " Đại Việt chúng tôi rất vui mừng ở tù dưới triều đại cụ Ngô". Hành động của chính quyền địa phương đã dồn sĩ quan Đại Việt vào vị trí phải chống trả lại , nghĩa là họ quyết định "ngẩng đầu lên mà đi". Cũng vì hành vi "ngẩng đầu mà đi" này đối với người em của ông Diệm, là Cố Vấn Cẩn, mà GS Mân bị tòa án quân sự phạt tù 6 năm, dù GS Mân không có một hoạt động nào dính líu đến vụ Ba Lòng. Lý do được viện dẫn trong bản án là : phá rối trị an và vi phạm an ninh quốc gia.(221)



5.Việc chống Ngô Đình Diệm. 


"Từ 1956, Đại Việt bị chính quyền dồn vào tình thế bất lợi. Các hoạt động của Đảng không những bị ngưng trệ và càng ngày càng lâm vào bế tắc".

Đề làm sáng tỏ vấn đề này, hồi 1992 , BS Nguyễn tôn Hoàn kể với tôi rằng " sau khi ông Diệm ở Mỹ về, thì thái độ của ông ấy thay đổi hẳn. Trước khi xuất ngoại, vì tôi là người đứng đầu phong trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình để vận động yểm trợ ông ấy. Ông ấy còn dặn ông Nhu rằng cần phải vận động khối Hòa Hảo và Cao Đài và phải nhờ BS Hoàn giúp liên lạc và giới thiệu. Ông Diệm còn nói rằng hai giáo phái đó không chấp nhận hợp tác với ông Nhu. BS Hoàn phải đích thân đưa ông Nhu đến gập các nhà lãnh đạo của hai khối này để giải quyết vấn đề hợp tác để ủng hộ ông Diệm. Nay thấy ông Diệm tỏ vẻ thờ ơ và có thêm được tin tức về âm mưu đàn áp đối lập đã lộ rõ. Ngay trong giai đoạn đầu cũng đã có tin việc thủ tiêu Nguyễn bảo Toàn, Vũ tam Anh …. Tôi thấy có một mối nguy hiểm cho tôi. Tôi đến gập ông Diệm và nói rằng tôi cần đi ngoại quốc. Ông Diệm hỏi tai sao tôi muốn đi như vậy. Tôi trả lời thẳng với ông Diệm rằng: " Nêu tôi ở lại, có ngày anh sẽ giết tôi." Kế đó, ông Diệm gọi ông Nhu vào văn phòng, bảo ông Nhu: " làm thủ tục để BS Hòan xuất ngoại."



Rồi, ngày 3 tháng 4 năm 1957, Tòa án quân sự Sài gòn xử tù một số đảng viên Đại Việt thuộc Xứ Bộ Miền Nam trong số này có ông Phan thông Thảo; và ngày 7 tháng 10,1958 , tòa quân sự Nha Trang cũng xử một số Đảng viên Đại Việt. Thí dụ Bà Trương thị Thỉnh, em ruột của Đảng trưởng là một nạn nhân, bị 3 năm tù. Tất cả bị qui tội "phá rối trị an" và bị án tù, dù họ không có liên hệ gì đến vụ Ba Lòng. Ngoài ra, Trương tử An, một em ruột khác của Đảng trưởng Đại Việt bị thủ tiêu vào giai đoạn này.



Dưới chế độ Ngô đình Diệm, tác giả sa vào vòng tù tội từ tháng 10 năm 1956 mãi cho tới ngày 3 tháng 11 năm 1963 ( hơn năm năm, kể cả biệt giam tại sà lim), sau ngày đảo chính, mới được thả. Với cách thức đối đãi với tù nhân (như đã mô tả trong cuốn hồi ký này)- một người đã từng cộng tác trong một số phong trào trước đó, để chống lại thực dân và cộng sản, có cả phong trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình là để ủng hộ chính Ngô đình Diệm giành đoạt chính quyền với mục đích xây dựng một quốc gia độc lập và tự do, ngoài ra, vợ và con út của tác giả ( mới chỉ có 3 tháng tuổi) cũng bị giam cầm gần 3 năm, chỉ vỉ chồng và cha tham gia chống đối chế độ, tác giả trong suốt cuốn hồi ký không có một chữ hay câu văn ngụ ý đến oán hận nhà Ngô mà ngược lại còn ca tụng, thương tiếc (tr.360).

Ông đã ghi lại những đau khổ trong nhà tù họ Ngô. Ông bị giam trong tù chứ không được “lao động khổ sai” như bản án. Ông đã nếm đủ các mùi vị và thưởng thức đủ các cung bậc của giam cầm, đói, lạnh, ốm đau trong tù và cách đối xử của chế độ Ngô Đình Diệm với tù nhân (tr. 226). Nhưng trong lòng không chút oán hờn cá nhân ai. Ông nhắc lại những khổ nhục của tù nhân chỉ với mục đích “nhắn nhủ các thế hệ mai sau có người nào ở địa vị lãnh đạo đất nước xem đây là kinh nghiệm… phải có nhân đạo vì người ta đã mất tự do, đừng cướp mất luôn lẽ sống của họ.” (tr. 226).



6. Phê bình người Mỹ 


Vai trò của Mỹ ở Việt Nam qua sự nhận xét về thời Đệ I và Đệ II Cộng Hòa đi đến một kết luận chung dựa vào những kinh nghiệm đã trải qua. Thực ra nếu nói đến sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam (kể từ đầu thập niên 50) thì sự can thiệp này đã có từ thời còn chiến tranh Đông Dương cho đến lúc Mỹ rời khỏi Việt Nam. Trên căn bản chính sách của Mỹ luôn luôn vẫn ngăn Cộng sản (containment policy).

Qua từng giai đoạn, trước tiên Mỹ giúp Pháp chống Việt Minh, sau đó ủng hộ giài pháp Bảo Đại, ủng hộ giải pháp Ngô Đình Diệm và cuối cùng can thiệp trực tiếp bắng cách gửi quân sang Việt Nam, tất cả chỉ là tùy thời đưa ra lập luận này hay lập luận khác, chứ chưa bao giờ thực sự là vì dân tộc Việt Nam mà người Mỹ can thiệp vào Việt Nam.

Nếu có thể gán cho Mỹ một thiện ý nào đó thì phải nghĩ rằng họ tưởng có sức mạnh quân sự thì làm gì cũng được. Dẹp được Việt Minh thì sẽ giúp được chế độ không Cộng Sản ở Miền Nam đứng vững. Nhưng rồi chiến tranh kéo dài, dư luận nội bộ sốt ruột buộc họ phải tìm cách sớm chấm dứt chiến tranh. Chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh là phương thức để đạt mục tiêu đó trong danh dự. Nhưng danh dự thật ra đã bị hoen ố bởi quyết định cuối cùng của họ, bỏ rơi một nước nhỏ đồng minh đã tin cậy vào họ. Đây là một vết nhơ trong lịch sử Hoa Kỳ.

Nhìn lại lịch sử nước nhà trong mấy nghìn năm, tổ tiên ta đã từng tự lực tự cường chống ngoại xâm.

Song, trong thế giới ngày nay với sự toàn cầu hóa, chúng ta cần phải có đồng minh. Tất cả các nước, kể cả các nước đại cường, đều ở trong thế liên lập.

Các quốc gia phải sát cánh với nhau, nương tựa vào nhau để sinh tồn và phát triển. Cùng kết minh ước với nhau thì cường quốc hay tiểu nhược quốc đều phải coi nhau ngang hàng, nhất là đừng phản bội nhau . Tiếc rằng đồng minh Mỹ đã gây nhiều áp lực đối với chính quyền Miền Nam, nhất là dưới chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuy là người được tiếng khôn ngoan nhưng ỷ lại vào Mỹ quá mức nên dần dà để mất chủ quyền quốc gia rồi đưa đến sự bại trận của Việt Nam Cộng Hòa khi đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi. Đó là một bài học để đời cho các vị lãnh đạo đất nước.

7. Phê bình Ngô Đình Diệm

"Chế độ chuyên chính và độc tôn của nhà Ngô ngày càng thấy rõ và đối lậpkhông còn đất đứng. Ngày 4-3-1956, chính quyền tổ chức Quốc Hội LậpHiến để soạn thảo Hiến Pháp. Thành phần Dân Biểu Lập Hiến gồm 123 người. Tất cả các giai đoạn của tiến trình hình thành Hiến Pháp, từ côngviệc biên soạn đến thảo luận, biểu quyết và ban hành, nhất nhất đều phải thông qua sự chỉ đạo của Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Ngày 20-10-1956, HiếnPháp được ban hành. Việt Nam Cộng Hòa được khai sinh với Tổng Thống Chế, mọi quyền hành được tập trung hoàn toàn vào tay Tổng Thống. Ngàyban hành Hiến Pháp được chọn làm ngày Quốc Khánh. Song hành với cơ cấu chính quyền, các ông họ Ngô còn tổ chức Đảng Cần Lao Nhân Vị . Từquân, cán, chính đến dân sự, mọi người ào ạt gia nhập đảng cầm quyền đểmưu cầu địa vị, áo cơm. Có người chất vấn cán bộ chủ chốt của Đảng CầnLao Nhân Vị về chủ trương của đảng thì được trả lời một cách thản nhiên :

" Chủ trương nằm trọn trong Hiến Pháp 26-10-1956 ".

Như vậy, Đảng Cần Lao Nhân Vị và chính quyền Ngô Đình Diệm tuy hai mà một : Đảng Cần Lao bao trùm lên mọi cơ cấu quốc gia, kể cả quân đội.Vào lúc bấy giờ ở Việt Nam chỉ còn có hai đảng : Đảng Cộng Sản ở Miền Bắc, và Đảng Cần Lao ở Miền Nam. Ở cả hai miền, tiếng nói đối lập bị bịt miệng bằng nhà tù." ( trang 218 ) Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, mặc dù chế độ Ngô Đình Diệm đã mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng, nhất là những năm cuối cùng, nhưng trong 9 năm cầm quyền, chế độ Diệm có nắm được chủ quyền quốc gia - tuy không hẳn trọn vẹn - và với quốc sách "Ấp Chiến Lược" dù kết quả không hoàn toàn như quốc sách đề ra, nhưng cũng chận được phần nào Cộng Sản Miền Bắc xâm nhập Miền Nam để làm lủng đoạn chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Sự xụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hòa một phần do những lỗi lầm nghiêm trọng mà ai cũng thấy, nhưng nguyên nhân sâu xa là sự thay đổi thái độ của chính quyền Diệm đối với đồng minh Mỹ. Ông Diệm muốn nắm lấy chủ quyền toàn vẹn. Điều này không phải là sai, nhưng khổ nỗi, trong lúc đồng minh của mình chưa tới lúc muốn xóa bỏ ván cờ trên bàn cờ Việt Nam mà họ bày biện cả công cả của lẫn sinh mạng binh sĩ của họ trong 9 năm ròng rã thì hậu quả là sự phản ứng của họ mà ta đã thấy. Liên kết với đồng minh, nhất là đồng minh Mỹ, thì như chơi với dao hai lưỡi, và đây cũng là một bài học cho các nhà lãnh đạo mai hậu suy gẫm.

Riêng đối với ông Diệm, cá nhân tôi đã từng ngưỡng mộ chí sĩ Ngô Đình Diệm từ ngày tôi còn sinh viên. Cái cảm tình của tôi đối với vị Thượng Thư từ chức của ngày xa xưa ấy là do "hữu xạ tự nhiên hương" từ nơi con người thật của ông, chứ vào thời điểm đó chưa có những bài ca "Suy tôn Ngô Tổng thống" và "Ngô Tổng thống muôn năm". Kíp đến giai đoạn ông Diệm lên cầm quyền, ông Diệm ở địa vị cao tột đỉnh thì tôi đi vào tù. Đến nay, ông đã nằm xuống thì cái tình cảm của người sinh viên đã dành cho ông ngày ấy lại trở về với tôi, mỗi khi bất chợt nghĩ tới ông, tôi vẫn bùi ngùi tiếc thương con người đích thực của ông, cả một đời nặng lòng lo toan đất nước.(350-360)



8. Phê bình Nguyễn Văn Thiệu 


Sau 1968, Hà Thúc Ký và các đảng phái đã hợp tác với Nguyễn Văn Thiệu theo đề nghị của đại sứ Bunker

Nói về việc tướng Phát thế ông làm Tổng Trưởng Nội Vụ, và việc gia nhập Đại Việt của ông Phát, ông Thiệu, ông Khiêm, ông viết “Tướng Lâm Văn Phát thay thế tôi. Tướng Phát cũng là đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng. Tướng Phát tuyên thệ gia nhập đảng hồi còn mang quân hàm Đại Tá, một lần với Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Trần Thiện Khiêm, do anh Nguyễn Tôn Hoàn và tôi đứng chủ trì lễ tuyên thệ.” (tr. 255).



Năm 1972, ông cùng với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và ông Trần Quốc Bửu thành lập Mặt Trận Tự Quyết.

Sau này ông Thiệu lập Đảng Dân Chủ thì ông muốn dùng luật chính đảng để loại các đảng phái khác kể cả các đảng có gốc Đại Việt mà ông đã từng tuyên thệ gia nhập. Nguyễn Văn Thiệu bỏ qua các đảng phái để tiến tới độc tài. Ông viết:



Chỉ sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm chấm dứt, sang thời quân nhân, Đệ nhị Cộng hòa thì Đại Việt có cơ hội hoạt động nhiều hơn.

Ông Hà Thúc Ký ra tranh cử tổng thống năm 1967 nhưng thất bại. Tuy thế, ông trúng cử dân biểu và cùng một số nhân vật của Đại Việt tham gia Lưỡng viện Quốc hội.

Sau Tết Mậu Thân, để đối phó với Cộng Sản, ông vận động 6 đảng lớn có thực lực ở Việt Nam là Dân Xã Ðảng (Hoà Hảo), Lực Lượng Ðại Ðoàn Kết, Nhân Xã Cách Mạng Ðảng, Lực Lượng Tự Do Dân Chủ, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Cách Mạng Ðảng để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội với mục đích đoàn kết lại những chính đảng chống Cộng. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó là Chủ Tịch Chủ Tịch Ðoàn của Mặt Trận.

Năm 1972, ông cùng với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và ông Trần Quốc Bửu thành lập Mặt Trận Tự Quyết.

Tác giả cuốn Sống Còn Với Dân Tộc khi nói về Mặt Trận bị giải thể, nhấn mạnh rằng các thành viên trong Chủ Tịch Đoàn ra đi "không kèn , không trống" . Trái lại, lễ khai mạc được tổ chức tại rạp Rex ở Sàigòn, long trọng, 'rầm rộ'.

Tại sao như vậy, tôi nghĩ rằng TT Nguyễn văn Thiệu , chủ tịch Mặt Trận cảm thấy đã đạt mục tiêu về phía Mỹ đòi hỏi rồi, và không cần có lực lượng nào hẫu thuẫn nữa. Đó là chưa kể đến sự kiện là suốt trong thời gian gọi là hoạt động của Mặt Trận, chẳng có gì xảy ra, ngoài một số buổi họp chiếu lệ, tẻ nhạt, của các chủ tịch trong Chủ tịch đoàn chỉ có tính cách tượng trưng để quảng cáo hay tô vẽ vẻ đẹp cho chế độ. Ông Thiệu cũng chẳng đến họp. Người ta có cảm tưởng rằng các chính đảng tham dự bị TT Thiệu cầm chân. Sau đó, hầu hết các chính đảng có chân tromg Mặt Trận đứng vào vị trí chống đối với TT Thiệu.

Các sự kiện này đưa đến một giải thích thứ hai là âm mưu của TT Thiệu là tiến tới độc tài. Ông Thiệu cho lập đảng Dân Chủ với phương tiện của chính quyền để nắm trọn quyền hành trong tay, dù trước đó đã phải ứng cử độc diễn. Với Luật ủy Quyền được Quốc Hội thông qua để chuẩn bị ứng cử nhiệm kỳ 3, với qui chế chính đảng mới thay thế qui chế đã ban hành trước, TT Thiệu đã lộ rõ âm mưu này. Sắc Luật 060 vào ngày 27 tháng 12, 1972 ( trước ngày hết hạn ủy quyền), đòi hỏi các chính đảng phải tái tổ chức trên phạm vi toàn quốc hay là bị giái tán. Rồi đến các luật lệ tiếp theo ban hành vào tháng 5, 1973, giải tán 26 chính đáng hợp pháp. Các đảng đó đã hội đủ điều kiện và đã đăng ký ở Bộ Nội Vụ theo luật Qui Chế Chính Đảng và đang hoạt động. Nay chỉ để một mình Đảng Dân Chủ của TT Thiệu hoạt động mà thôi.

Từ 1969, TT Thiệu quá say mê củng cố quyền hành, tập trung nỗ lực quốc gia vào mục tiêu này để tiến tới nắm trọn quyền hành trong tay. TT Thiệu đồng thời cố gắng làm sói mòn lực lương chính trị quốc gia, đến nỗi vào tháng tư 1975, không còn ai cộng tác vào lúc phải huy động mọi lực lượng chính trị, cải tổ nội các để đối đầu với Tổng Công Kích của VC nhằm chiếm đoạt Miền Nam.

Thực là thảm thương cho quân dân Miền Nam.

Năm 1974, sau khi “Quy chế chính đảng” được Tổng thống Thiệu ban hành, ông Hà Thúc Ký đưa đơn ra tòa kiện ông Thiệu vi hiến.

Nhận định về cá nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Hà Thúc Ký cho biết ông Thiệu tuy là người khôn ngoan, nhưng lại quá ỷ vào Mỹ, nên dần dà để mất chủ quyền quốc gia, rồi đưa đến sự bại trận của Việt Nam Cộng Hòa khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi.(350-360)



Gần cuối Hồi Ký, ông cũng cho biết vài vấn đề:

- Câu chuyện sẽ kể dưới đây gọi là chuyện hậu trường là do một nhân vật trọng yếu trong chính quyền kể lại. Hư thực không dám bảo đảm nhưng nếu có thực thì theo chiều hướng của câu chuyện được nghe, cục diện Miền Nam có thể hoàn toàn thay đổi.

Nhớ lại thời Đệ Nhất Cộng Hòa, lúc Hội Nghị Genève kết thúc, trước mặt Thủ Tướng Miền Bắc Phạm Văn Đồng, Ngoại Trưởng Trung Cộng Chu Ân Lai mời Ngoại Trưởng Miền Nam Trần Văn Đỗ sang thăm chính thức Bắc Kinh. Thủ Tướng Toàn Quyền Ngô Đình Diệm không chấp nhận lời mời của Trung Cộng. Đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, cũng có một trường hợp tương tự như vậy xẩy ra, mà nhân chứng là Tùy Viên Quân Sự tòa Đại Sứ Việt Nam tại Đài Loan và là người thân tín của Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu, bào huynh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Một gián điệp Trung Cộng họ Mã ngụy trang dưới lốt chủ tiệm thuốc Bắc, lập nghiệp ở Hồng Kông, đã bắt liên lạc với viên Trung Tá Tùy Viên khi người này có việc sang Hồng Kông. Tên gián điệp này đề nghị nếu Tổng Thống Miền Nam đi với họ thì sau khi đôi bên thỏa thuận, Trung Cộng sẽ cắt ống dẫn dầu mà họ yểm trợ bấy lâu nay cho Bắc Việt. Viên Trung Tá về Đài Loan trình lại tự sự với Đại Sứ Kiểu. Nghe xong, Ông Kiểu răn đe :

"Anh mà tiết lộ chuyện này ra là chu di tam tộc đó nghe không !"

Cả hai người lãnh đạo Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đều từ chối đề nghị bắt tay với Trung Cộng. Chung quy là ai cũng sợ Mỹ, không ai dám tương kế tựu kế để lấy cái lợi về phần mình.(354-360)

- Năm 1974, sau khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa, Hội Đồng Nội Các nhóm họp để thảo luận việc truy tố Trung Cộng xâm lược trước tòa án quốc tề La Haye. Hầu hết các thành viên Hội Đồng Nội Các đều phát biểu sôi nổi đối với hành động ngang ngược của Trung Cộng. Mọi người đều biểu lộ niềm thương tiếc và lòng cảm phục đối với các quân nhân đã bỏ mình trong trận chiến trên biển cả nhất là đối với Trung Tá Hải Quân Ngụy Văn Thà đã tuẫn tiết theo tàu. Một vài vị nêu lên sự kiện có mặt một viên Trung Úy Mỹ trong số những người bị Trung Cộng bắt làm tù binh, cũng như tin có một phi cơ của Hạm đội 7 bay lảng vảng trên vùng biển giao chiến, để lên tiếng phàn nàn thái độ " Thủ khẩu như bình " của Hoa Kỳ trước hành động ngang nhiên xâm lược của Trung Cộng. Tất cả thành viên Hội Đồng Nội Các nhất loạt tán đồng dự tính của bộ Quốc Phòng tổ chức đón tiếp rầm rộ các binh sĩ từ Hoàng Sa trở về và long trọng làm lễ truy điệu Trung Tá Ngụy Văn Thà. Suốt buổi họp, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm không nói gì. Ông không bày tỏ quan điểm, không tán đồng cũng như không phản bác ý kiến của bất cứ người nào, cũng không đưa ra quyết định nhất thời phải làm gì. Khi không còn ai nói gì thêm, ông từ tốn yêu cầu mọi người chờ một vài hôm nửa, để thu góp thêm tin tức. Rồi ông cười, nửa đùa nửa thật, nói rằng ông nghe người ta bảo người Mỹ đã thỏa hiệp để Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa. Sau khi nghe ông Khiêm nói như vậy, mọi người hiểu rằng trong vụ này chẳng còn gì bàn thảo nữa (350-360.

- Thật vậy, ít lâu sau, khi người Mỹ công khai để lộ ý định rút ra khỏi Việt Nam, để cho Bắc Việt thôn tính Nam Việt, nhưng mặt khác, người Mỹ ngại rằng vạn nhất sau khi tiếp quản Hoàng Sa, Bắc Việt giao cho Liên Xô sử dụng làm căn cứ tầu ngầm thì điều này sẽ là nguy cơ lớn cho cả Mỹ lẫn Trung Cộng. Dù sao thì điều phỏng đoán này cũng chỉ là giả thuyết, vì về các mặt địa hình, địa thế, Hoàng Sa không được như Cam Ranh hay Đà Nẵng để trở thành căn cứ quân sự quan trọng. Tuy nhiên, việc người Mỹ làm ngơ trước hành động xâm lược của Trung Cộng cho ta nhận chân được thực tế là quốc gia nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của nước họ, thân phận nhược tiểu trước sau vẫn là con cờ thí ! Đó là quy luật muôn đời của lẽ mạnh yếu, sống còn của mọi dân tộc trên quả đất này. (354-360)



- Hơn 30 trang cuối, tác giả nói về những ngày cuối cùng của VNCH và nỗi đau xót của tác giả trước “những cảnh tượng tủi nhục mà thân nhân, bạn bè và đồng chí phải chịu đựng trong những trại cải tạo tại nơi quê nhà” (tr. 362).



                     B. PHÊ BÌNH  TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Qua sự nghiệp đã qua của ông và qua bản Hồi ký, chúng ta công nhận ông là người yêu nước, đã tranh đấu cho chính nghĩa quốc gia. Ông là một trong những nhân tài của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên ông không có tầm nhìn xa. Ở một vai trò lãnh đạo đảng, và từng ở trong bộ máy chính quyền, thế mà ông không nhìn thấy trước con đường thối lui của Mỹ tại Việt Nam và Châu Á Thái Bình Dương. It nhất sau 1973, hiệp định Paris ký kết, ông phải thấy chiến lược của Mỹ đã thay đổi. Phải chờ đến cuối 1974, gặp Nguyễn Cao Kỳ nói cho ông biết tình hình, ông mới tá hỏa tam tinh!

Ông cho rằng cả hai người lãnh đạo Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đều từ chối đề nghị bắt tay với Trung Cộng. Chung quy là ai cũng sợ Mỹ, không ai dám tương kế tựu kế để lấy cái lợi về phần mình (354-360). Nhiều tài liệu nói rằng hai ông Nhu Diệm đã muốn bắt tay với phe cộng sản chứ không phải là không. Còn hai đời Tổng thống, trong Dinh Độc lập có cả đàn Việt Cộng, thành thử lời trách cứ của ông thành ra không đúng. Nhưng mình là tiểu quốc, làm gì mà qua mặt Nga, Trung Cộng và Mỹ? Hai phe Nam Bắc đều là quân tốt, làm sao mà tự chủ, tự quyền?Vấn đề quan trọng là phải họp tác với anh em chứ không phải xé ráo, ăn mãnh! Luật giang hồ không cho phép.xé rào. Tại Mỹ, vài ông tiến sĩ, luật sư, giáo sư tuyên bố nghe anh hùng lắm nào là tự quyền, tự chủ, sáng tạo, độc lập nhưng rồi cái tinh thần và lý thuyết cao cả đó   thực ra là làm  tay sai Việt Cộng! Té ra họ chỉ là trí thức lưu manh!

 
Anh em Ngô Đình Diệm chết là vì mưu lợi về mình  và kiêu ngạo tuyệt đỉnh mà quên thân phận mình. Dương Văn Minh khôn nên đã từ chối đề nghị Vanuxem cầu cứu Trung Cộng. Không lẽ một người quốc gia, một chính trị gia danh tiếng, một bậc lãnh tụ đảng Đại Việt, lại kém hơn Dương Văn Minh võ biền? Điều này cho thấy Hà Thúc Ký không phải là tay chính trị gỉỏi giang và khôn ngoan..! Ông tưởng ông tài giỏi, có muu thần chước quỷ. Tại sao ông không đặt câu hỏi: Tại sao từ 1954 cho đến nay, Trung Cộng một mặt ủng hộ Bắc Việt, một mặt luôn ve vản miền Nam? Ông mà giơ hai tay trần chụp lấy đề nghị của Trung Cộng là chụp lấy bình nước sôi ngàn độ! Ông mà làm tổng thống hay thủ tướng thì ông chết trươc và quốc gia này cũng tiêu vong!


Trong khi Hồ Chí Minh và bọn thủ hạ gian manh, tàn ác, phần nhiều chính trị gia quốc gia, nhất là chính trị gia Việt Nam Quốc Dân đảng, Đại Việt ...có danh mà không có thực. Một số thiếu khôn ngoan và đi vào ngã chấp , vô tài vô đức chỉ nhờ vào Tưởng Giới Thâch được vài ngàn quân đã tự cho lá cái thế  cho nên   Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh chẳng ai chịu ai,   Phan Huy Quát xung khắc với Phan Khắc Sửu và  bị phe Nguyễn Văn Thiệu  phá hoại , để đến nỗi trả quyền lãnh đạo cho quân nhân.

 Huỳnh Thúc Kháng, , Trần Văn Tuyên . Trần Văn Hương, đều là con tốt trong tay người. Mỗi lần một nhóm Đại Việt mới ra đời thì giá trị của các ông  ấy sụt xuống mấy chục điểm trong trong lòng nhân dân Việt Nam. Có hay ho gì trò chia rẽ? Đó chỉ là một cách bày ra cho người ta thấy cái áo  cánh của các ông nay đã rách bấy ra trăm mảnh rồi!


TRUNG CỘNG VIỆT CỘNG = HUẾ = TRUYỆN SƠN TRUNG

TRUNG CỘNG CÃI NHAU

Bộ Ngoại giao và hải quân Trung Quốc tranh cãi về nổ súng đầu tiên ở Biển Đông?

Hồng Thủy
06 - 12 - 2015
(GDVN) - Người ta thấy rõ có "mùi thuốc súng" trong những phát ngôn của ông Lưu Chấn Dân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc về cái gọi là "kiềm chế lắm mới...
Tạp chí Tiền Tiêu xuất bản tại Hồng Kông số tháng 12/2015 đưa tin, lâu nay Bộ Ngoại giao và hải quân Trung Quốc vẫn có mâu thuẫn trong việc xử lý vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Vài tháng trở lại đây mâu thuẫn giữa hai cơ quan này ngày càng lớn hơn trước.
clip_image001
Ông Ngô Thắng Lợi, Tư lệnh Hải quân Trung Quốc, ảnh: China Daily.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc vấn nhấn mạnh, trong các tình huống tàu chiến Trung Quốc chạm trán với tàu chiến Mỹ hay các nước khác, hải quân Trung Quốc nhất định không được nổ súng trước để tiện cho ngoại giao vào cuộc, xử lý các tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hoặc giữa Trung Quốc với các nước khác trong khu vực.
Tuy nhiên hải quân Trung Quốc đã kiên quyết không đồng ý. Các tướng hải quân Trung Quốc không dám công khai phản đối ra mặt yêu cầu của Bộ Ngoại giao nước này, mà xúi cấp dưới phản bác. Các sĩ quan chỉ huy trung cấp và cơ sở lên tiếng cho rằng, nguyên tắc cơ bản của chiến tranh là bảo tồn lực lượng rồi mới có thể tiêu diệt đối phương.
Hải quân Trung Quốc cho rằng yêu cầu không bắn phát súng đầu tiên làm khả năng tác chiến của lực lượng này giảm đi và để mất thời cơ. Tranh cãi giữa hải quân và Bộ Ngoại giao Trung Quốc khiến lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Ủy ban An ninh quốc gia hết sức đau đầu và khó xử lý.
Vài năm qua, Trung Quốc và Hoa Kỳ thường xuyên nổ ra những cuộc tranh cãi ngoại giao xung quanh vấn đề Biển Đông khiến dư luận lo ngại nguy cơ dẫn đến xung đột, đối đầu giữa hải quân 2 nước trên vùng biển căng thẳng này.
Vài lời bình luận
Chuyện nội bộ Trung Quốc có những bất đồng trong việc xử lý tranh chấp Biển Đông hay không thì chỉ có người Trung Quốc mới biết. Nhưng quan sát những phát ngôn và hành động của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông gần đây có thể thấy rõ, quân sự hóa, theo đuổi yêu sách đường lưỡi bò vô lý và bất hợp pháp bằng sức mạnh vũ lực vẫn là chủ đạo.
Trong vòng khoảng 2 tháng, lần đầu tiên ông Tập Cận Bình đã lên tiếng khẳng định cái gọi là "chủ quyền từ thời cổ đại" với các đảo ở Biển Đông khi công du 3 nước, Hoa Kỳ, Anh quốc và Singapore. Lãnh đạo Trung Quốc cũng công khai bác bỏ mọi kêu gọi phi quân sự hóa Biển Đông, ngừng bồi lấp đảo nhân tạo và thúc đẩy DOC, làm rõ đường lưỡi bò từ lãnh đạo các nước, đặc biệt là Tổng thống Mỹ Barack Obama.
Sự hung hăng của hải quân Trung Quốc không chỉ thể hiện qua những phát ngôn của lãnh đạo quân chủng này trước áp lực từ Hoa Kỳ, mà còn bởi những hành động leo thang ngoài thực địa, đặc biệt là việc bồi lấp, xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hóa bất hợp pháp nhanh chóng 7 thực thể ở Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam).
Còn về mặt ngoại giao, người ta thấy rõ có "mùi thuốc súng" trong những phát ngôn của ông Lưu Chấn Dân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc về cái gọi là "kiềm chế lắm mới không thu hồi" các đảo ở Biển Đông và Trung Quốc có cái gọi là "quyền và khả năng thu hồi". Phát biểu này được ông Dân đưa ra trước và sau hội nghị thượng đỉnh Đông Á tại Kuala Lumpur, Malaysia.
clip_image002
Ông Lưu Chấn Dân, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc. Ảnh: Reuters.
Có điều đáng lưu ý là những phát ngôn của ngoại giao Trung Quốc yểm trợ cho tuyên bố của ông Tập Cận Bình lại không đến từ ông Dương Khiết Trì - Ủy viên Quốc vụ phụ trách đối ngoại hay ông Vương Nghị - Ngoại trưởng Trung Quốc, mà là một ông Thứ trưởng Ngoại giao.
Tuy nhiên, Trung Quốc vốn nổi tiếng lắm mưu nhiều kế và tham vọng chiếm trọn Biển Đông vẫn mang tính thống nhất, xuyên suốt từ năm 1947 đến nay, dù thể chế hay cá nhân lãnh đạo có nhiều thay đổi.
Bởi vậy chưa thể kết luận bất cứ điều gì về việc có hay không những tranh cãi nội bộ ở Trung Quốc về cách thức xử lý tranh chấp Biển Đông, đặc biệt khi người đứng đầu đất nước vẫn khẳng định như đinh đóng cột cái gọi là "chủ quyền không tranh cãi".
Nhưng đúng là có những dấu hiệu dường như Trung Quốc cũng tính đến đường lùi trong trường hợp nếu Tòa Trọng tài Thường trực PCA bác đường lưỡi bò sau vụ kiện của Philippines.
Đe dọa láng giềng bằng hành động chỉ thể hiện sự yếu đuối
You Ji, một nhà Hán học tại Úc ngày 5/12 bình luận trên The Manila Times rằng, Trung Quốc càng hung hăng trên Biển Dông càng làm lộ rõ sự yếu đuối. Các nhà hoạch định chiến lược ở Bắc Kinh dường như tin rằng, các mối đe dọa bằng hành động dường như là hình thức tốt nhất để phòng ngừa chiến tranh trong giai đoạn hiện nay, khi quân đội Trung Quốc đang phát triển.
Những phát biểu mới nhất của ông Tập Cận Bình về cái gọi là "chủ quyền từ cổ đại" ở Biển Đông gần đây và từ chối kêu gọi ngừng bồi lấp đảo nhân tạo (bất hợp pháp) từ ông Obama rõ ràng cho dư luận thấy, chưa có bất cứ ánh sáng nào lóe lên cuối đường hầm của những bế tắc trên Biển Đông.
Từ chối của ông Bình đã buộc chính quyền ông Obama phải có cách tiếp cận cứng rắn hơn, nhưng nó giúp đánh bóng hình ảnh của ông Tập Cận Bình trong nước.
Biển Đông vẫn được Bắc Kinh xem là vấn đề mang tính thể diện quốc gia. Thậm chí ngay cả lúc cuối đời, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai vẫn giữ quyền kiểm soát trong việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa từ (thuộc chủ quyền) Việt Nam trong năm 1974, You Ji lưu ý.
Và bây giờ, để thực hiện được mục tiêu siêu cường toàn cầu, Trung Quốc cổ súy dư luận bằng cách xoáy vào cái họ gọi là "thế kỷ bị xỉ nhục". Nhà phân tích chính trị John J. Mearsheimer từ Chicago cho rằng, Trung Quốc đang trỗi dậy sẽ tìm cách để cuối cùng thống trị châu Á, trong khi Hoa Kỳ đang giữ vai trò lãnh đạo ở châu Á - Thái Bình Dương sẽ làm tất cả những gì để ngăn chặn điều này.
Bắc Kinh đang di chuyển lại gần Moscow, cùng xây dựng một Liên minh Kinh tế Á - Âu với nhóm hợp tác Thượng Hải 6 nước cộng thêm Iran. Người Nga đã sẵn sàng tích hợp Liên minh Kinh tế Á - Âu với chiến lược Con đường Tơ lụa của Tập Cận Bình. Bắc Kinh cũng đang tích cực tán tỉnh Myanmar và một số thành viên khác trong ASEAN.
clip_image003
Trung Quốc cất hạ cánh bất hợp pháp chiến đấu cơ J-11 trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, Đà Nẵng, Việt Nam.
The Manila Times tin rằng, những năm tới sẽ là quãng thời gian "kiểm tra dũng khí" của các nhà lãnh đạo khu vực châu Á - Thái Bình Dương trước cạnh tranh của 2 siêu cường Trung - Mỹ.
Biển Đông vẫn là rạp hát để Trung Quốc diễn tuồng "tham vọng bá quyền"
Đó là bình luận của nhà phân tích Brinda Banerjee trên Value Walk ngày 5/12. Từ yêu sách lãnh thổ (vô lý và phi pháp) nổi tiếng của Trung Quốc ở Biển Đông đến việc phát triển sức mạnh quân sự, Bắc Kinh có lẽ đã đầu tư rất nhiều để củng cố vị trí của họ như một sức mạnh quốc tế mới.
Mặt khác, Trung Quốc hiện là một trong những đối tác thương mại chủ chốt đối với 125 quốc gia trên thế giới. Thực tế này đảm bảo rằng khi nền kinh tế của nhiều nước phụ thuộc trực tiếp vào Trung Quốc, họ ít có khả năng thách thức các quyết sách chính trị của  Trung Quốc. Một thực tế khác là Bắc Kinh chắc chắn sử dụng những lợi thế này, bởi lịch sử đã chứng minh, quyền lực và kinh tế luôn đi liền với nhau.
Hoạt động phô diễn sức mạnh quân sự của Trung Quốc đặt ra vấn đề cấp bách là, liệu nó chỉ giới hạn trong những trường hợp đặc biệt nơi Bắc Kinh hy vọng đạt được một "kết thúc cụ thể" như trong vấn đề Biển Đông, hay là hướng tới sự theo đuổi sức mạnh tối thượng, một lần nữa cũng được chứng minh ở Biển Đông?
Trong hoạt động đối thoại quốc phòng thường niên Trung - Úc vừa qua, đại diện từ Bắc Kinh vẫn nhắc lại cái gọi là cam kết duy trì hòa bình và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, nhưng nhấn mạnh rằng họ sẽ sử dụng vũ lực để bảo vệ cái họ gọi là "lợi ích cốt lõi" khi cần thiết.
Trung Quốc cho rằng lợi ích cốt lõi là thứ không thể thương lượng, Bắc Kinh sẽ dùng vũ lực nếu nó bị đe dọa. Trung Quốc xếp (yêu sách chủ quyền đường lưỡi bò phi lý ở) Biển Đông vào danh sách "lợi ích cốt lõi" từ năm 2010.
H.T

NAM NGUYÊN * VIỆT NAM CẢI CÁCH

Việt Nam trước thách thức cải cách toàn diện

Nam Nguyên, phóng viên RFA
04-12-2015
VIETNAM-ECONOMY-POSTERS
Ảnh minh họa chụp tại Hà Nội hôm 18/11/2015. AFP
Ngân hàng Thế giới vừa đưa ra nhận định là Việt Nam cần phải cải cách toàn diện và quyết liệt khi thực hiện những cam kết của Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP. Đây là những khuyến cáo rõ rệt nhất từ trước tới nay, được các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đưa vào bản báo cáo cập nhật kinh tế Việt Nam công bố ngày 2/12/2015 tại Hà Nội.

Muốn hưởng lợi phải cải cách
Thời báo kinh tế Sài Gòn Online nằm trong số ít, nếu không nói là báo mạng duy nhất, đề cập tới những vấn đề nhạy cảm mà Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh trong bản báo cáo. Với tính cách một định chế quốc tế tầm cỡ, Ngân hàng Thế giới sử dụng ngôn từ chuẩn mực khi nói rằng việc thực thi các cam kết với TPP mà Việt Nam là thành viên, sẽ ảnh hưởng tới vấn đề quản lý doanh nghiệp nhà nước, tăng cường minh bạch cho các chương trình mua sắm của nhà nước, nâng cao chất lượng thực thi luật pháp, chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn lao động và môi trường, an toàn thực phẩm, tự do hóa thương mại và dịch vụ, kể cả dịch vụ tài chính và viễn thông.
Nhìn vào thể chế kinh tế chính trị hiện tại của Việt Nam và thời sự diễn ra hàng ngày, những ai theo dõi tin tức sẽ ngay lập tức nhận thấy là, Việt Nam nếu muốn hưởng những lợi ích đầy hứa hẹn của TPP thì chắc chắn phải cải cách quyết liệt và toàn diện.
Một trong những vấn đề lớn nhất mà Ngân hàng Thế giới đề cập tới, là những cam kết về vấn đề lao động. Sài Gòn Times Online trích báo cáo Ngân hàng Thế giới nhắc lại, TPP bao gồm một cam kết chung của các nước về tôn trọng quyền của người lao động được ghi trong Tuyên ngôn về Nguyên tắc và Quyền lợi cơ bản tại nơi làm việc của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Việt Nam còn cam kết cụ thể hơn trong một hiệp ước phụ, Kế hoạch Tăng cường Quan hệ Công đoàn và Công nhân Hoa Kỳ - Việt Nam.
Theo Sài Gòn Times Online, trong báo cáo ngày 2/12/2015 Ngân hàng Thế giới cho rằng, nếu thực hiện đầy đủ các cam kết này sẽ đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh trong cơ cấu công đoàn hiện nay, cho phép tự do liên kết thay vì toàn bộ các công đoàn đều nằm dưới sự quản lý của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Điều khoản chính qui định như sau: Việt Nam sẽ đảm bảo rằng luật pháp và qui định cho phép người lao động do doanh nghiệp tuyển dụng được thành lập tổ chức người lao động của riêng mình mà không cần sự cho phép từ trước.
Một tổ chức của người lao động đã đăng ký với với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ được quyền tự bầu ra đại diện của mình, xây dựng qui chế và qui tắc của mình, tổ chức quản lý, kể cả quản lý tài chính và tài sản của mình, đàm phán tập thể, tổ chức và lãnh đạo đình công và các hành động tập thể khác liên quan đến quyền lợi nghề nghiệp, kinh tế-xã hội của người lao động trong doanh nghiệp.
Ngân hàng Thế giới cho biết, theo cam kết thì Việt Nam phải công nhận hiệu lực của điều khoản vừa nêu trước ngày TPP có hiệu lực. Ngoài ra Việt Nam cũng đã cam kết cho phép tổ chức cơ sở của người lao động được thành lập các tổ chức lớn hơn giữa các doanh nghiệp trong vòng 5 năm kể từ ngày TPP có hiệu lực.
clip_image002
12 nước thành viên Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt TPP tại Atlanta, Mỹ ngày 5/10/2015.
Nhận định về vấn đề tự do nghiệp đoàn mà các nhà hoạt động xã hội dân sự quen gọi là công đoàn độc lập, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập, một tổ chức không được cấp phép, từ Sài Gòn phát biểu:
“Công đoàn độc lập là một định chế một thành phần bắt buộc trong Hiệp định TPP liên quan tới người lao động và quyền lợi của họ cũng như quyền tự do lập hội của người lao động Việt Nam. Cho dù không có Luật về Hội, nhà nước Việt Nam vẫn phải thực thi định chế công đoàn độc lập; chỉ có điều là suốt bao nhiêu năm cho tới nay chưa từng có một tổ chức cơ sở công đoàn độc lập ở Việt Nam, chưa từng có một nghiệp đoàn tự do cho người lao động. Tất cả vẫn bó buộc ở trong cơ chế của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Bởi vậy tôi cho rằng có thể phải mất thời gian 5-6 năm để gây dựng nên nền tảng của công đoàn độc lập ở Việt Nam, riêng ở các cơ sở thôi chưa nói đến tầm mức quốc gia. Đó là tuyên truyền về kiến thức, về ý thức, về kinh nghiệm đấu tranh cho người lao động, thì họ mới có thể gây dựng được một công đoàn độc lập theo đúng nghĩa của nó”.
Dự đoán sớm nhất đến 2018  TPP mới có hiệu lực thi hành, cộng thêm lộ trình 5 năm đối với việc Việt Nam cho phép tự do nghiệp đoàn ở tầm mức lớn hơn và tự do liên kết ngang dọc giữa các nghiệp đoàn. Ngoài ra  người lao động Việt Nam có thể chưa nhận thức đúng mức về quyền tự do nghiệp đoàn của mình. Phải chăng tương lai tự do nghiệp đoàn ở Việt Nam vẫn quá xa vời. Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, TS Phạm Chí Dũng cho rằng, vẫn có lối mở vì thời gian 7 năm đó chính là thời gian mà nhà nước Việt Nam có thể thực hiện một số tiểu phần của công đoàn độc lập. Hiện chưa công bố một lộ trình cụ thể, nhưng chỉ biết là sau 3 năm thì phía Hoa Kỳ và các nước trong TPP sẽ họp lại và đánh giá nhà nước Việt Nam đã thực hiện định chế công đoàn độc lập tới đâu. Các nghiệp đoàn ở cơ sở có được liên kết hoặc được nhận sự hỗ trợ kể cả hỗ trợ về tài chính của những tổ chức phi chính phủ về lao động quốc tế hay không. TS Phạm Chí Dũng nhấn mạnh:
“Nếu nhà nước Việt Nam không bảo đảm được những điều đó, cũng như không bảo đảm được khung luật sửa đổi về luật lao động, kể cả luật công đoàn thì như vậy không bảo đảm hoạt động của nghiệp đoàn tự do trong TPP, vi phạm TPP và sẽ bị chế tài. Nếu mà không cẩn thận thì hiệp định TPP đối với nhà nước Việt Nam chắc chắn sẽ là con dao hai lưỡi. Tôi cho rằng nói gì thì nói, mọi thứ cũng đang dần mở ra, chỉ có điều đây là một cuộc đấu tranh từng góc phố từng ngôi nhà để tiến trình dân chủ hóa Việt Nam có thể nhích dần lên từng bước chứ mọi thứ sẽ không thể đến nhanh được”.
Lo ngại về cải cách thể chế chính trị
Trở lại khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới là Việt Nam cần cải cách toàn diện và quyết liệt để thực hiện các cam kết TPP. Ngân hàng Thế giới nhận định rằng, đây là thách thức lớn đối với nhà nước Việt Nam, vì Việt Nam lựa chọn cải cách từ từ đối với những tồn tại lâu đời, đó là khu vực doanh nghiệp nhà nước quá lớn, thể chế thị trường không hoàn chỉnh.
Các chuyên gia nói rằng cải cách thúc đẩy tiến bộ, đem lại ích lợi cho người dân. Nhưng ngược lại cải cách cũng sẽ tạo ra đau đớn như việc giải phẫu cắt bỏ những khối ung thư. Trong dịp trao đổi với chúng tôi Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Sài Gòn nhận định:
“Việt Nam đã vào TPP rồi, đã vào một cơ chế đặc biệt, đặc thù và mở rộng, tất cả mọi thứ sẽ mở toang ra hết… thì đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi, phải sửa đổi rất nhiều luật cho phù hợp. Nếu không sửa đổi luật cho phù hợp thì làm sao Việt Nam là thành viên của TPP được. Cho nên vấn đề đó, theo lộ trình thì TPP có thể phải hai năm nữa mới có hiệu lực thi hành thì có lẽ trong thời gian đó, Việt Nam cái gì chứ cái món mà người ta bảo “nước cao quá gối cũng nhảy” thì Việt Nam có khi cũng phải nhảy”.
Bên cạnh vấn đề cải cách pháp luật, tôn trọng sở hữu trí tuệ, quản trị minh bạch doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công, cải cách tiêu chuẩn lao động và môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, tự do hóa thương mại và dịch vụ. Qui tắc xuất xứ sản phẩm dệt may trong TPP được Ngân hàng Thế giới mô tả như một nhược điểm khiến Việt Nam không tận dụng được tối đa cơ hội do TPP mang lại. Điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan khi Việt Nam xuất hàng dệt may vào  Hoa Kỳ và các nước khác trong TPP đó là nguyên tắc tính từ sợi, sản phẩm dệt may phải được sản xuất từ sợi dệt nội khối TPP. Thực tế hiện nay, báo cáo của Ngân hàng Thế giới  ghi nhận các nhà sản xuất dệt may sử dụng hầu hết xơ sợi nhập khẩu từ các nước ngoài TPP. Theo đó khoảng 60% tới 90% mặt hàng vải để sản xuất hàng may mặc được nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc và Đài Loan.
Hiện nay có một làn sóng đầu tư nước ngoài vào các dự án kéo sợi, dệt, nhuộm hoàn tất, nhưng Việt Nam sẽ rất khó đáp ứng nhu cầu sợi dệt nội khối, chưa kể không có đủ nhà máy dệt vải, nhuộm và hoàn tất khi đã có sợi dệt nội khối. Do vậy có thể thấy trước là dù có lộ trình để áp dụng danh mục thiếu hụt tạm thời, việc đáp ứng nguyên tắc sợi dệt nội khối ở tỷ lệ như thế nào và hưởng lợi tới mức nào vẫn còn là ẩn số.
Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TP.HCM từng nhận định:
“Rõ ràng đây là một bài toán về mặt vĩ mô, cân đối giữa năng lực của kéo sợi, năng lực dệt vải và năng lực nhuộm, khá hóc búa cho các nhà điều hành ở tầm vĩ mô của ngành dệt may Việt Nam.”
Dù chưa có TPP, kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2014 của Việt Nam  rất lớn trị giá 24,5 tỷ USD, trong đó riêng thị trường Hoa Kỳ đạt 9,8 tỷ USD. Tuy vậy sản xuất dệt may xuất khẩu của Việt Nam hầu hết là gia công với nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc và Đài Loan, nên phần lợi nhuận thực thụ của người Việt Nam chỉ là một phần nhỏ. Dù vậy lợi ích của xuất khẩu dệt may Việt Nam là thu dụng lực lượng lao động hàng triệu người.
Ngân hàng Thế giới dự kiến xuất khẩu hàng dệt may và phụ kiện của Việt Nam sẽ tăng khoảng 60% vào năm 2035 so với hiện nay, trong đó Hoa Kỳ là đích đến chủ yếu trong khối TPP. Ngành dệt may Việt Nam tiếp tục là nguồn tạo việc làm quan trọng, nhờ đặc thù ngành nghề sử dụng nhiều lao động và chính sách chú trọng xuất khẩu của nhà nước.
Vẫn theo Sài Gòn Times Online, Hiệp hội dệt may Việt Nam ước tính, cứ tăng thêm 1 tỷ đô la Mỹ xuất khẩu, thì sẽ tạo thêm được 150.000 nghìn tới 200.000 việc làm.
Tuy vậy Báo cáo của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 2/12/2015 cảnh báo, qui tắc xuất xứ có thể sẽ hạn chế đáng kể những tác động tích cực vừa nêu.
Ngân hàng Thế giới ước tính TPP có thể bổ sung thêm 8% Tổng sản phẩm nội địa GDP của Việt Nam, 17% giá trị xuất khẩu thực tế và 12% lượng tích lũy tài sản trong vòng 20 năm tới.
Tất nhiên đó là những tính toán theo sách vở và trong điều kiện Việt Nam thực hiện một chương trình cải cách toàn diện và quyết liệt để thực thi các cam kết của TPP.

HOÀNG NGỌC LIÊN * NHỮNG BÀI THƠ HUẾ


 



Huế Của Tôi – Những Bài Thơ Huế

HOÀNG NGỌC LIÊN




Ðúng ra, thành phố nào bên Nhà cũng là của chúng ta hết. Nhưng tôi rất... thương Huế, vì sau cố đô Hoa Lư là nơi tôi được sanh ra, Huế đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Do vậy mà thập niên 60 trước đây, tôi viết được nhiều về Huế, làm quen được không ít bạn thân sinh trưởng tại Huế. Từ huynh trưởng như Phan Du, đến người ít tuổi hơn như Bửu Chánh, ai cũng... thương tôi. Còn nữ giới, tôi tự giữ một làn ranh, không cho mình vượt qua. Bởi tôi là người đã có gia đình. Nhưng tôi vẫn vấn vương hình ảnh những cô gái Huế, nữ sinh trường Ðồng Khánh. Một ông bạn già vẫn bảo tôi, rằng kẻ làm thơ vốn nòi tình. Nhưng không sao, ông bạn nói tiếp, cũng cần có tình mới có thơ, miễn giữ được cái Tâm trong sáng. Tôi cũng biết, rằng muốn giữ được cái Tâm trong sáng không phải là chuyện dễ dàng.


Dạo ấy khung cảnh và con người Huế giúp tôi làm thơ. Khung cảnh, trên khắp các ngả đường, từ khi qua đèo Hải Vân đến Hoàng Thành Huế, hai bên hữu, tả ngạn sông Hương, rồi theo Quốc Lộ 1 đến Cổ Thành Quảng Trị, đối với tôi đều là ... Huế. Các cô gái Miền Trung mà tôi gặp trên những ngả đường ấy, đều nói giọng Huế. Giọng nói dễ thương chi lạ. Có phải vậy không, hỡi những chàng trai xứ Bắc, xứ Quảng?


Có một điều mà các thân hữu Huế của tôi chưa bao giờ nghe tôi nói, là tôi làm thơ ... Huế từ khi còn ở Hà Nội, bữa ghé thăm Thị Xã Hà Ðông: "Mưa Xứ Huế", bài thơ làm từ năm 1953, trước tháng 9, khi tôi nhận lệnh đi Thủ Ðức, cho đến 1960 là năm đầu tiên tôi đến Huế! "Mưa Xứ Huế" in trong thi tập "Nhớ Thương" do nhà Nam Sơn xuất bản năm 1962:


Năm nao tôi qua làng Duệ,

Cùng Em bàn chuyện mai sau.

Nghe Em nói về xứ Huế,

Mơ màng biết hẹn tìm đâu? Em kể: Song Hương man mác

Thuyền trôi, dòng nước nao nao.

Gió thoảng qua lầu Thương Bạc

Nắng vàng đường xuống Nam Giao.

Em nói: -“Nếu về Vỹ Dạ,

Thôn Em, trong khung dừa xinh.

Anh sẽ đi qua Ðập Ðá,

Lá hoa kể chuyện ân tình.

Sau nhiều mùa thu xa Em

Tôi được đến thăm xứ Huế.

Chân bước trên cầu Tràng Tiền,

Thời gian sao qua mau thế!

Tôi đã thăm phong cảnh Huế,

Còn Em, tôi biết tìm đâu

Chiều xuống cố đô lặng lẽ

Khói mờ mái Phu Văn Lâu.

Mưa giăng đường vô Thành Nội,

Ngỡ ngàng tôi đã gặp em.

Nhìn tôi, thản nhiên đi tới,

Như người chưa một lần quen!



Vì em đi bên "người ấy"

Chứa chan hạnh phúc với ... tình!

Tôi đứng bên đường tự thấy

Mình sao xa lạ với ... mình!



Ðã trọn một mùa vọng tưởng

Ngày xưa, chuyện cũ, xa rồi!

Nhìn em khuất sau cửa Thượng, **

Mờ mờ xứ Huế mưa rơi!

Năm 1960 tôi là một thành viên trong ban tổ chức buổi Nhảy Dù biểu diễn xuống sông Hương. Tôi giới thiệu chương trình các vòng bay và những huấn luyện viên nhảy điều khiển rơi tự do...Khán giả đông nghẹt, từ Câu Lạc Bộ Hương Giang đến cầu Bạch Hổ. Những chiếc xuồng máy, ho-bo lượn tới tấp để vớt những huấn luyện viên rơi trên mặt sông. Có đến bốn người rơi trúng khu vực khán đài, được đông đảo bà con vỗ tay hoan hô. Nơi đặt máy phóng thanh để tôi giới thiệu các vòng bay là Câu Lạc Bộ Thể Thao (CLBTT) Huế, gần đài phát thanh nên buổi tối, tôi ngủ đò ngay bến CLBTT. Khoảng hơn 10 giờ tối, có tiếng gọi trên bờ. Ðò áp bến, một cô bé mặc áo dài trắng có thêu hiệu đoàn Ðồng Khánh để xe đạp ven bờ sông rồi thoăn thoắt bước xuống.

Giọng nói của cô nhỏ nhẹ:

- Em là PD, có ông anh bà con nhà cũng trên đường Phan Châu Trinh, tên là CB, muốn mời trung úy ngày mai ghé nhà chơi.

Tôi vui vẻ:

- Ðược rồi, PD cứ cho địa chỉ, sáng mai tôi sẽ đến.

Thuở ấy, mà có thể bây giờ (2004), việc ngủ đò vẫn được coi như có chuyện "kèm theo". Cô bé nữ sinh này hẳn là không biết việc ấy, nên sau khi được một ông bạn tôi chỉ đường, cô cứ hồn nhiên xuống đò tìm tôi.

Tôi nói thiếp:

- Bây giờ khuya rồi, PD về đi nha.

Cô bé "dạ" rồi đạp xe đi trong màn sương mỏng của Huế. Những ngày tiếp theo, tôi được hai anh em BC-PD hướng dẫn đi thăm hầu hết các danh lam thắng cảnh của Cố Ðô, chỉ trừ Lăng Gia Long là không tới được, vì lý do an ninh. Nhờ tình cảm trong sáng của Huế, tôi làm được hai bài thơ Thuyền Về I và II:


Thuyền về I Năm nao kết ngọn tre làng,

Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.



Gửi Cố Ðô, để nhớ về xứ Huế

Buổi giã từ còn vương vấn chút duyên thơ!

Chiều nao, tim máu thẫn thờ,

Mái lầu Thương Bạc còn ngờ... hư không!

Hoa trời trải một dòng sông,

Bao giờ nguyện ước mà mong tâm tình?

Khi mô trở lại thần kinh,

Nhịp cầu, dòng nước, còn hình ảnh xưạ

Con thuyền neo bóng trăng thơ

Bàn tay ủ bóng mà chưa hẹn hò!

Gửi Cố Ðô màu nhớ,

Những nẻo đường tâm tư,

Những bến chiều lộng gió

Mây buồn nhỏ lệ nhớ thương chung

Ngày nao hoa dậy không trung,

Bàn tay, ánh mắt ngại ngùng tiễn đưạ

Con thuyền chở mãi gió mưa,

Nửa đêm neo bóng, đợi chờ bao năm?

Gửi một lời thăm

Nhắn ai về xứ Huế

Rằng người em mái đầu xanh trẻ

Còn nhớ chăng chiều ánh nước Hương Giang?

Năm nao kết ngọn tre làng,

Trăng sông Bến Ngự một khoang thuyền về!



Thuyền Về II

Năm nao kết ngọn tre làng,

Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.



Mái chèo buông chậm vô sông cũ,

Lơ đãng thuyền neo bến vắng người!

Ngả rẽ hoang sơ, lối đường bụi phủ,

Thôn Vỹ hàng cau màu lá bạc rồi!

Vòng tay đỉnh trúc reo cười,

Nắng tím Nam Giao từ tạ.

Núi sông cũ đã trở thành phương lạ

Dẫu người xưa còn đó, cố nhân ơi!

Giải mây trắng lạc chân trời,

Mờ phai dáng cũ bước đờị.. hẹn nhaụ

Thuyền ngược về đâủ

Sương lạnh nửa đêm lần cuốị

Những tin gió đường xa rong ruổi,

Những câu thề lạc nẻo hư vộ

Biết bây giờ là bao giờ?

Nghiêng mái tóc, cúi chào dĩ vãng.

Nét kỷ niệm, vết chăn mờ năm tháng,

Chuyễn Hoa Trời xin dành lại ngàn saụ

Ai vấn vương mà đón nhận thương đaủ

Ai trao gửi mà không hề ký thác.

Trên khói sóng, vẫn trăng vàng, nước bạc,

Giải câu thề còn lại một dòng sông.

Hởi ngàn xưa, từng khấn nguyện, chờ mong,

Xin chứng giám, đã thuyền về bến cũ!



Hoàng Ngọc Liên

Khung Trời Tưởng Nhớ - Saigon 1966



Cầu Tràng Tiền

Năm 1999, nghe tin Huế bị lụt, tôi làm bài thơ

GỬI VỀ XỨ HUẾ:

thân tặng anh chị Ái Khanh & Xuân Hùng

và các cháu Quang Tuấn - Thanh Hương

H.N.L

Trên màn ảnh xa xôi

Tôi nhìn khung cảnh Huế

Nước mênh mông lưng trời

Nỗi lo trào mắt lệ !

Tôi thấy cầu Tràng Tiền

Chìm trong vùng lũ lụt

Chỉ mái vòm xám đen

Còn nhô trên mặt nước!

Tôi thấy một căn nhà

Nước ngập tới lầu ba!

Từ Ngọ Môn thành Nội,

Nước tràn điện Thái Hòa!

Nước sông Hương, Bến Ngự,

Ðã hòa chung một dòng.

Trên cánh cửa Thượng Tứ

Trôi lạc mui thuyền cong!

Phía bên chùa Diệu Ðế,

Nước cuốn đi Kinh, Kệ.

Nước ngập một tầng lầu

Khu Dòng Chúa Cứu Thế!

Những hình ảnh như thế

Làm ray rứt lòng già

Xin gửi về xứ Huế

Lời thăm hỏi từ xạ

Orlando (Florida) November 04, 1999

Hoàng Ngọc Liên

Trong truyện dài Ðoàn Quân Mũ Ðỏ (1969 Chấn Mỹ SG; 1999,2001 Văn Tuyển HK), Tôn Nữ Diệu Khanh là một trong hai nhân vật chính của truyện và tôi đã viết nhiều về Huế. Với các thân hữu Huế, mỗi khi cần bài vở về Huế cho các báo, đặc san, luôn luôn tôi hân hoan cộng tác. Hôm nay, tôi gửi bài này đến chị Ái Khanh, cũng trong sự hân hoan nói trên.

Miền Ðông Hoa Kỳ, tháng 5 năm 2004.
Hoàng Ngọc Liên

SƠN TRUNG * CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN

CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN

Đinh Sơn quê ở ngoại thành Qui Nhơn. Thân phụ ông làm lý trưởng, có một cái nhà ngói và vài mẫu ruộng. Khi Nguyễn Nhạc khởi binh, bọn Lý Tài, Tập Đình cướp phá xóm làng, thân phụ của Đinh Sơn không chịu cung ứng vàng bạc, lúa gạo cho bọn họ nên bị Lý Tài kết tội là địa chủ, phong kiến, cường hào, ác bá rồi bắt giết. Đinh Sơn sợ hãi, bỏ vợ con trốn vào Gia Định sinh sống qua ngày. Đinh Sơn không được học hành nhiều cho nên vốn liếng chữ nghĩa cũng không là bao. Ông theo một ông thầy bói ở Gia Định học nghề bói toán. Ít lâu sau, ông thầy bói chết, Đinh Sơn nối nghiệp thầy mở một cửa hàng tướng số tại hương lộ 18, sau trở thành tỉnh lộ, là con đường nối liền Gia Định và Tây Ninh, và sau này thành khu Bà Quẹo, gần khu Bình Hưng Hòa.

Đinh Sơn làm ăn cũng khấm khá, mua được một căn nhà ngói ở mặt tiền, và cũng đã lập một gia đình mới, gồm một vợ và ba con. Khu nhà Đinh Sơn vốn xưa là một khu rừng. Sau khi chúa Nguyễn mở mang miền Nam, lập Gia Định trấn, khu này trở thành khu tân lập, gồm những người Bắc, người Thanh Nghệ theo Nguyễn Hoàng vào từ trước, và một số bà con người Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phan Rang vào sau. Những người này sinh sống bằng nghề canh nông, một số đốn cây rừng từ Tây Ninh về cưa xẻ làm bàn ghế đem về Gia Định , Đồng Nai bán. Một số chuyên buôn hàng từ biên giới Miên Lào về Gia Định và chuyển hàng từ Gia Định đi Miên, Lào.

Khi quân Tây Sơn đánh thành Gia Định quân chúa Nguyễn thua đậm. Chúa Nguyễn phải bỏ chạy ra ngoài. Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu tài sản của những quan lại theo chúa Nguyễn, và những thương gia giàu có tại miền Nam. Những tướng tá và binh lính chúa Nguyễn đều bị bắt giam trong rừng sâu. Những thầy tu, thầy bói cũng bị giam giữ. Thậm chí có người bị giết. Đinh Sơn cũng bị bắt giam một thời gian.
Bỉ nhân cư ngụ tại Gia Định . Hôm hôm cưỡi ngựa đi thăm một người bạn ở vùng này, nhân đi qua nhà nọ, thấy bảng hiệu “Đinh Sơn, chiêm tinh gia” bèn xuống ngựa vào chơi. Vốn từ lâu, nghe danh Đinh Sơn nhưng chưa có dịp gặp mặt. Nay qua đây, tôi muốn vào thăm. Đinh Sơn có nhà, ông vui vẻ tiếp tôi. Trong khi ông xin phép vào nhà thay y phục, tôi nhìn xung quanh thì thấy căn nhà cũng khá đầy đủ tiện nghi như bao gia đình bực trung tại Gia Định lúc này, mặc dầu nền nhà có những vết cạy phá, chưa kịp sửa sang. Đinh Sơn chuyên coi tử vi. Tại phòng khách , ông vẽ lên tường một bản tử vi to bằng cái chiếu. Khi ông ra tiếp tôi, ông bưng ra một khay trà mời khách. Chúng tôi cùng uống trà đàm đạo như hai người bạn quen thân. Ông bảo tôi viết tên tôi vào tay rồi nắm lại. Tôi che kín tay và viết tên tôi, thế mà ông nói rõ tên tôi. Tôi hỏi ông lá số của ai trên tường. 
Ông bảo đó là lá số của ông, rất giống lá số Nguyễn Nhạc, là lá số làm giặc, làm vua. Nhưng ông không làm vua được, mà làm giặc, làm kẻ chống đối bạo quyền, vì cung mệnh của ông có Sát, Phá tọa thủ. Ông cho biết, ông làm nhiều nghề. Khách muốn trừ tà, xin bùa ngãi, ông đều có. Ông bảo nhà ông có phủ thờ thần linh. Ông dẫn tôi lên xem. Trên gác, ông có cả một phủ thờ gồm khoảng một trăm bát nhang. Ngày rằm , mồng một và mỗi đêm , ông đều cúng kiếng thờ phụng nghiêm chỉnh. Ông là một thầy bói và cũng là một thầy pháp. Ông kể chuyện khi quân Tây Sơn vào, ông bị giam một năm. Nằm trong tù rất khổ sở, thân hình gầy ốm như quỷ đói. Khi ông ra tù về nhà thì nhà cửa bị cướp phá. Bọn quan quân Tây Sơn và bọn lưu manh lấy các cửa ngõ, dở gạch ngói nhà ông để xây nhà chúng, hoặc bán chợ trời. Ông nói:
-Thưa ông, vài tháng nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.
Ông bưng chén trà uống một hơi rồi nói tiếp:
-Chúng nói chống mê tín, dị đoan, nhưng sự thực là chúng muốn độc quyền buôn thần bán thánh. chúng sợ các thầy bói cạnh tranh với chúng, cướp nghề của chúng. Nguyễn Nhạc vốn làm nghề buôn lậu, ăn cướp. Nguyễn Nhạc cho bộ hạ đốt lửa trên núi, giả làm thần linh, kêu Nguyễn Nhạc lên nhận kiếm thần. Nguyễn Nhạc ghét thầy bói vì sợ dân nghe lời thầy bói mà chống lại chúng. Ngày nay, có hai loại thầy bói. Một loại không theo chúng thì bị chúng khủng bố và bắt giam. Một số theo chúng thì trong nhà đã có người của Tây Sơn phục sẵn. Ai có ý chống triều đình, hớ hênh đến xem việc thành bại, hay chọn ngày hưng binh, hoặc tỏ ý bất mãn, phê phán triều đình thì chết với chúng. Nếu thường dân đến xem xuất hành cát hung thì thầy bói hỏi đi xa hay đi gần. Nếu đi xa thì bất lợi, mà đi sông biển tất chết.
Ông kể chuyện nhà của ông. Ông có hai đứa con trai với bà vợ trước ở ngoài Quy Nhơn. Chúng hăng hái theo Nguyễn Nhạc. Sau khi quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, chúng tìm vào thăm ông. Chúng ở lại khoảng hai tháng thì về. Ngày chúng về quê, ông mua vải vóc, sâm nhung , và cho chúng mỗi đứa vài lượng vàng. Mấy ngày trước, chúng rất mềm mỏng, hiếu thảo, nhưng sau khi nhận vàng, chúng trở mặt. Chúng chỉ mặt ông chửi mắng.
Thằng cả nói::
-Ông không phải là bố tôi. Ông là một thằng giặc. Ông bỏ quê hương Quy Nhơn và Đại đế Nguyễn Nhạc, mà chạy vào Nam theo ngụy quyền Nguyễn Ánh. Ông bỏ chính nghĩa theo giặc bán nước. Ông là đồ phản bội dân tộc, phản bội tổ quốc.
Thằng hai tiếp theo:
Vi ông mả chúng tôi khổ. Chúng tôi không ngửng đầu lên nổi. Chúng tôi bị lý lịch xấu, bị triều đình nghi kị, hành hạ vì có thân phụ bỏ vào Nam. Chúng tôi xấu hổ vì ông. Ông vào Nam theo giặc, ông còn làm nghề bói toán là nghề mê tín dị đoan, lừa dối và bóc lột nhân dân. Người như ông phải ngồi tù suốt đời mới cải tạo được tư tưởng đồi trụy và lạc hậu!



Cuộc gặp gỡ đó cho tôi một cảm giác buồn. It lâu sau, tôi có việc phải qua vùng này. Khi đi qua nhà Đinh Sơn thì thấy quanh cảnh quạnh hiu. Ngôi nhà có vết đạn và vết cháy xém. Tôi ghé một nhà cách nhà Đinh Sơn vài căn , vào xin bát nước lã. Tôi hỏi bà cụ chủ nhà:

-Thưa bà , tại sao ngôi nhà bên cạnh trông tiêu điều lại có vết đạn và vết cháy như thế? Chủ nhân ngôi nhà là ai?

Bà chủ nhà cho biết câu chuyện như sau:

Đó là nhà của ông thầy bói Đinh Sơn. Ông có lệnh tập trung cải tạo nhưng ông không chịu đi.. Ông cho vợ con đi ở chỗ khác. Huyện phái hai tên lính Tây Sơn đến nhà bắt ông lên huyện trình diện. Ông cầm dao đâm chết một tên. Tên thứ hai sợ hãi chạy ra ngoài. Giờ sau, lính Tây Sơn kéo đến nhà ông vây chặt. Ông đóng cửa, đứng trên gác bắn súng và cung tên sát hại vài tên. Hết tên, ông ném tạc đạn, và phóng lao. Quân Tây Sơn bắn súng, bắn tên và phóng gươm giáo vào nhà ông. Hai bên giao chiến một ngày. Thiên hạ kéo đến xem đông như ngày hội. Cuối cùng ông mở tạc đạn tự sát.

Nghe tin ông mất trong một hoàn cảnh bi hùng như vậy, tôi rất buồn. Trong khi bao nhà khoa bảng và bao nhà tu hành bỏ nhân nghĩa, cúi đầu, khom lưng trước bạo quyền, Đinh Sơn là một kẻ thất phu, dám đem tính mạng tranh đấu cho tự do và chống lại kẻ ác. Riêng đối với tôi, tôi cũng vô cùng cảm kích vì tấm thịnh tình của ông. Thời buổi loạn ly, cha con không dám tin nhau, vợ chồng tố cáo nhau, bè bạn phản trắc, xóm giềng rình rập vu khống để tâng công, thế mà gặp tôi lần đầu, ông đã thật dạ tin tôi, coi như tri kỷ, kể hết chuyện lòng. Nghe đâu sau vụ Đinh Sơn tuẫn tiết, triều đình bỏ lệnh tập trung và cải tạo các thầy bói.

TS.NGUYEN THANH GIANG * AI PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC ĐƯA TRUNG QUỐC XÂM LẤN TRƯỜNG SA?

AI PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC ĐƯA TRUNG QUỐC XÂM LẤN TRƯỜNG SA?
TS Nguyễn Thanh Giang
Trong những sai lầm mà ĐCSVN phạm phải, việc đưa Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí thư thuộc loại sai lầm nghiêm trọng nhất.
Tôi đã viết như sau trong bài "Lại nói về nguy cơ Lê Chiêu Thống hiện đại", công bố ngày 20 tháng 4 năm 2013:
"Tổng Bí thư không học và chưa hề trải nghiệm thực tế lĩnh vực khoa học và công nghệ nói chung và nông nghiệp nói riêng; không học và chưa trải nghiệm thực tế về kinh tế-tài chính….Ông chỉ có một mớ sách Mác - Lênin cổ lỗ sĩ với một tệp văn kiện, diễn văn viết theo yêu cầu của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm."
(Tôi gọi ông là cậu ấm hiện đại, làm nghề cạo giấy. Cái mác giáo sư - tiến sỹ ông được gắn chẳng qua chỉ là trời ơi đất hỡi. Để làm được một luận văn khoa học nghiêm túc người ta không chỉ phải thiên kinh vạn quyển mà phải lăn lưng vào thực tế kiệm nghiệm để thu thập số liệu riêng của mình. Ông xào xáo không biết được mấy trang sách rồi đem cái giấy giới thiệu của ĐCSVN sang trường Đảng CSLX thì không thầy nào không thể không phê "otlichno" mặc dù chỉ người đọc thông viết thạo là có thể viết được luận văn kiểu ấy)
Chẳng những thế con người ấy còn tỏ ra rất non kém. Vì non kém, ông ta chỉ có thể thuyết giáo chung chung. Hoặc nói những điều vô thưởng vô phạt. Hoặc nói những điều cũ mèm lạc lõng, lạc hậu đến mức như là phản động.
Việc làm thì chẳng đâu vào đâu. Hồi làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, Thủ đô rất trì trệ. Kém hẳn so với Đà Nẵng, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Đã thế còn tiếp tay cho Siputra lậu thuế ba ngàn tỷ đồng để được hưởng một biệt thư trị giá một triệu đôla.
Hành động quyết liệt nhất trong đời NPT, sau này kể lại, chỉ có thể là hành động đã được ông biểu diễn trong Hội nghị Trung ương 4 vừa rồi. Thế mà, kết quả hành động này đã không chỉ mang lại thất bại cho cá nhân ông mà còn bôi nhọ cả "triều đình" ĐCSVN.…
Những gì diễn ra trong Hội nghị TW4 không dấu nổi âm mưu sát phạt nhau giữa Nguyễn Phú Trọng với Nguyễn Tấn Dũng.
Không hạ bệ được ông Nguyễn Tấn Dũng, NPT đứng khóc thút thít trên tivi như một đứa trẻ con. Càng trẻ con hơn khi ông từng "khoe phiếu bé ngoan" với "thiên triều" của ông. Sau đây là đoạn kể của tôi trong bài "Rất đáng phàn nàn về ông Nguyễn Phú Trọng" viết ngày 7 tháng 5 năm 2007:
"Ngạc nhiên hơn là, ông Nguyễn Phú Trọng oang oang báo cáo với Trung Quốc và với toàn thế giới rằng: "Từ ngày nhận lãnh cương vị chủ tịch Quốc hội, nước đầu tiên tôi đi thăm là Trung Quốc".
Khi nghe ông Nguyễn Phú Trọng vừa nói câu trên, mặc dù đang ngồi trước một số người, như là một phản xạ vô điều kiện, tôi đột nhiên văng bậy: "Sao cái thằng cha ngu quá thế nhỉ!".
Nói ra như vậy hết sức vô chính trị. Chẳng nhẽ ông Nguyễn Minh Triết lên làm chủ tịch nước, ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm thủ tướng chính phủ mà không sang thăm ngay Trung Quốc là không đúng bằng ông Nguyễn Phú Trọng hay sao? Chẳng nhẽ đối với Việt Nam, tất cả các nước đều chỉ được xếp hàng sau Trung Quốc hay sao?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chọn Nhật Bản, chủ tịch Nguyễn Minh Triết chọn Lào là những nước đến thăm đầu tiên (chứ không phải Hoa Kỳ hay Trung Quốc) là rất thông minh ….
Có cụ cách mạng lão thành đặt câu hỏi: "Hay là họ muốn vỗ vào mặt nhau, muốn chèn nhau để được ưu tiên đón nhận ân huệ và sự bảo trợ của Trung Quốc?" .
Trẻ con như vậy nhưng rồi NPT đã từng tỏ ra rất ngạo mạn, khinh khi. Giữa lúc Biển Đông trào sôi căm hận: Trung Quốc xây thành đắp lũy ở Hoàng Sa, tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, cắt cáp tàu thăm dò Dầu khí ở Trường Sa, cấm và bắn giết ngư phủ ta, không cho đánh cá ở Biển Đông …., Quốc hội bồn chồn lo lắng đòi được nghe, được bàn thảo về tình hình Biển Đông thì NPT gạt đi, bảo rằng "Tình hình Biển Đông không có gì mới. Chỉ có mấy hòn đảo thôi mà"!.
Không chỉ lấp liếm tội ác cho giặc, NPT còn tiếp tay thực hiện âm mưu cô lập hóa Việt Nam, biến Việt Nam thành con mồi đơn độc trước dã thú.
Ai cũng thấy, trong tình hình hiện nay, Việt Nam không thể nào đơn phương đương đầu với Trung Quốc ở Biển Đông. Muốn giữ Biển Đông phải dựa vào luật pháp quốc tế và sự hỗ trợ của cộng đồng nhân loại. Nhưng, NPT đã từng âm mưu tước bỏ các bửu bối quan trọng đó để trói tay nạp mạng Việt Nam cho Trung Quốc.
Bản tuyên bố chung ký kết giữa NPT và Hồ Cẩm Đào ngày 15 tháng 10 năm 2011 không hề đả động đến DOC và COC, chỉ cam kết sẽ giải quyết các vấn đề Biển Đông theo "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa". Hai ngày sau khi NPT ký bản cam kết đó, ngươ`i pha´t ngôn BộNgoại giao Trung Quô´c Lưu Vi Dân, sung sướng tung hô trươ´c thê´ giơ´i rằng: "Tuyên bô´ chung Trung-Việt" co´ y´ nghiã chỉ đạo quan trọng trong việc thu´c đẩy quan hệ hai nươ´c pha´t triển lâu dài, lành mạnh và ổn định. Trung Quô´c và Việt Nam thông qua đàm pha´n giải quyê´t tranh châ´p trên biển giữa hai nươ´c không liên can gì vơ´i bên thư´ ba".
Tháng 8 năm đó, sau "Đối thoại chiến lược quốc phòng an ninh Việt-Trung", Nguyễn Chí Vịnh cũng ném vào mặt quốc tế rằng: "Những tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc, rõ ràng cần giải quyết giữa hai nước với nhau" .
Vừa lấp liếm cho tội ác của giặc, vừa thực hiện âm mưu cô lập hóa Việt Nam, tại Hội nghị Shanggri-La 13, tên tướng rụt cổ Phùng Quang Thanh khua môi: "Những vấn đề có liên quan đến hai nước thì cần giải quyết song phương …. Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi".
Trời ơi, thế này thì còn cần gì Bí thư Quân ủy Trung ương với Bộ trưởng Quốc phòng cho tốn cơm. Làm gì cần đánh giặc nữa vì họ đã sẵn sàng rước chúng vào làm tổ sư họ!.
Cần lưu ý rằng, cự tuyệt quốc tế, song phương hóa vấn đề Biển Đông không phải chủ trương của Bộ Chính trị ĐCSVN mà chỉ là âm mưu của Trung Quốc được NPT rắp tâm thức hiện. Bằng chứng là trong bản Tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc do Trương Tấn Sang ký ngày 21 tháng 6 năm 2013 có nhấn mạnh đến DOC
Quyết liệt hơn, Nguyễn Tấn Dũng, giữa Hội nghị Shangri-La đã công khai "ra lệnh" cho Trung Quốc phải "thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC)", Ông nói : "ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS)".
Thẳng thừng bác bỏ đàm phán song phương, NTD tha thiết gọi mời: "Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất …".
Biểu hiện thực tế trên cho thấy có hai Bộ Chính trị. "BCT NPT" là BCT phản động, BCT bán nước; "BCT NTD", trong trường hợp này, đã nói đúng tiếng nói của dân tộc Việt Nam (Những mong rằng rồi sẽ làm như nói).
Trong nhiệm kỳ Tổng Bí thư của NPT nổi cộm nhất, nguy hiểm nhất, da diết nhất là vấn đề biển đảo Việt Nam bị Trung Quốc xâm lấn.
(Vấn đề tham nhũng, vấn đề tụt hậu, vấn đề tệ nạn xã hội … cũng nhức nhốùi và được nói đến nhiều, nhưng kết quả giải quyết chẳng ra gì. Tất cả ngày càng trở nên lụn bại hơn, nếu không muốn nói là thối nát. Giành lấy quyền trưởng ban chỉ đạo chống tham nhũng từ tay Thủ tướng, NPT làm tệ hơn. Chẳng những thế, để chạy tội non kém, NPT ngụy biện xằng bậy: Đường Tăng đi thỉnh kinh cũng phải hối lộ, Đánh chuột khéo vỡ bình).
Đối mặt với tai họa xâm lăng của Trung Quốc, Nguyễn Tấn Dũng từng mạnh miệng: "Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó".
Trước tuyên bố ngang ngược của Tổng Bí thư ĐCSTQ kiêm Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình khi trả lời báo Wall Street Journal ngày 22/9/2015: Quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam) ở Biển Đông "từ thời xa xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc", Trương Tấn Sang hôm 28/9/2015, trong bài phát biểu tại Hội Á Châu (Asia Society) ở New York cũng như trả lời Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) Việt ngữ, đã đáp trả dõng dạc:"Ngài Tập Cận Bình khẳng định Nam Sa từ lâu là của Trung Quốc thì chúng tôi cũng nói lại rằng đối với chúng tôi, lập trường trước sau như một không thay đổi. Chúng tôi gọi đó là Trường Sa và Hoàng Sa, trước sau như một là thuộc về Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng về lịch sử và thực tiễn pháp lý để xác định chủ quyền là của Việt Nam chúng tôi.", "Chúng tôi mong muốn mọi tranh chấp phải được giải quyết bằng luật pháp quốc tế. Đây là cách duy nhất (để giải quyết bất đồng)".
Trong khi đó thì NPT như liệt khẩu, không hề nói được một câu ra hồn trước vấn đề tối khẩn thiết liên quan đến vận mệnh quốc gia.
Nhãn quan chính trị của NPT mù mờ, cái tầm của ông ta rất thấp (cái tâm cũng chẳng ra gì khi chỉ quẩn quanh lo bảo vệ những ý kiến trong luận văn của mình mà bỏ mặc tổ quốc, bỏ mặc nhân dân). Trên bàn cờ chính trị, trước đối thủ, NPT luôn luôn hoặc bị lừa, hoặc chậm một nước. Rất có thể Trung Quốc đã không dám đưa HD-981 vào Hoàng Sa, chưa dám xây "Trường thành cát" ở Trường Sa nếu Việt Nam kịp thời nâng quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ lên tầm Hợp tác Chiến lược và có hải quân Hoa Kỳ đóng ở Cam Ranh.
Việt Nam luôn luôn bỏ qua những cơ hội vàng mà nhẽ ra những người lãnh đạo sáng suốt phải biết kịp thời nắm lấy. Trong chuyến viếng thăm vịnh Cam Ranh đầu tháng Sáu năm 2012, đứng trên con tàu chở khí cụ USNS Richard E. Byrd, ông Panetta Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đã khẳng định một điều vô cùng quan trọng trước báo chí: "Tàu hải quân của Hoa Kỳ có thể sử dụng cảng Cam Ranh là yếu tố quan trọng của mổi quan hệ giữa hai nước và chúng ta thấy khả năng xảy ra điều này là rất lớn trong tương lai".
Năm 1978 ta đã từng cho Liên Xô thuê cảng Cam Ranh 25 năm để phục vụ cuộc chiến tranh lạnh của hai nước ngoài, ngày nay trước họa ngoại xâm, vì quyền lợi của chính bản thân, nhằm bảo toàn giang sơn gấm vóc sao ta không khẩn thiết mời Hoa Kỳ vào.
Còn có thể dẫn chứng nhiều việc làm dớ dẩn, nhiều câu nói u mê nhưng thiết nghĩ những gì vạch ra trên đây đủ chứng tỏ rằng NPT hoặc quá ngu dại, hoặc là nội ứng cho giặc. Không những không gỡ được Hoàng Sa mà chính NPT còn tạo điều kiện cho Trung Quốc xâm lấn Trường Sa. Tội lớn này chắc chắn lịch sử sẽ phán xử.
Tiến sỹ Trần Nhơn, nguyên thứ trưởng Bộ Thủy Lợi đã luận tội rất chính xác:
Đóng cửa, hiệp thương với "Cướp ngày",
Giữa kỷ nguyên hội nhập Đông Tây.
Phải chăng hồn ma Lê Chiêu Thống
Nhập vào Nguyễn Phú Trọng hôm nay?!
Còn để những Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh ngày nào trong bộ máy lãnh đạo thì nguy cơ mất nước còn hiển hiện. Hãy kịp thời đuổi ngay họ ra khỏi Đảng.
Vậy mà, bọn gián điệp Phương Bắc, bọn chân gỗ, hay chính Nguyễn Phú Trọng đang tìm cách áp đặt phương án giữ NPT thêm nửa nhiệm kỳ TBT. Đây là tai họa khôn lường. Mong những kẻ có quyền và trách nhiệm đối với vấn đề này hãy hết sức cảnh giác.
Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2015
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 5, ngõ 341, đường Trung Văn
Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Mobi: 0984 724 165
   

Monday, December 7, 2015

ĐẠI NGHĨA * CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

Chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa lệ thuộc?

Đại Nghĩa (Danlambao) - Sau khi thành trì khối CNXH Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thì bọn lãnh đạo đảng CSVN sợ mất chỗ dựa, mất CNXH ở Việt Nam nên quay sang thần phục Tàu, cầu xin Đại Hán Thiên triều che chở. Những lời lẽ thù hằn chửi rủa “quân bành trướng Bắc kinh” sau những trận đánh nhau chí tử ở 6 tỉnh biên giới năm 1979, Hà Giang năm1984 và đảo Gạc Ma năm 1988 được xóa bỏ, ngay cả trong Hiến pháp. Hồi ký Trần Quang Cơ thuật lại lời của TBT đảng CSVN Nguyễn Văn Linh nói như sau:
“Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái đang sửa”. Anh sốt sắng muốn sang gặp lãnh đạo TQ để ‘bàn về vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội’ vì đế quốc đang âm mưu thủ tiêu CNXH… chúng âm mưu diễn biến hòa bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên xô thành trì XHCN, nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ CNXH… Tôi sẵn sàng sang TQ gặp lãnh đạo cấp cao TQ để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… TQ cần nêu cao ngọn cờ CNXH, kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin”. (Hồi ký Trần Quang Cơ-chương 10)
Tiến sĩ Địa chất Nguyễn Thanh Giang, nhà đấu tranh kiên cường tại Hà Nội trong bài “Bản chất chính quyền Đại Hán” đã nhận định:
“…chính quyền độc đảng Bắc Kinh và Hà Nội đều run sợ trước sự sụp đổ của bức tường Berlin và nhất là sự tan tành của Liên bang Xô viết và phe Xã hội chủ nghĩa, liền bắt tay nhau dù là mới trải qua cuộc ‘chiến tranh giữa hai đồng chí thù địch’ đầu năm 1979, để hòng cùng nhau trụ lại trước định mệnh đã an bài. Đó là bước ngoặt của cuộc hội ngộ Việt-Trung ở Thành Đô-Tứ Xuyên cuối năm 1990, mà ông Nguyễn Cơ Thạch phải la hoảng lên là ‘một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu’ để lập tức bị mất chức ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng, bị gạt khỏi chức ủy viên Bộ chính trị. Thực chất Thành Đô là cái bẫy cực kỳ thâm hiểm mang bản chất Đại Hán mà một loạt kẻ lãnh đạo mù quáng, mất gốc dân tộc Việt đã dại dột chui vào”. (DanLamBao online ngày -1-2012)
Nhà nghiên cưu về Trung cộng Dương Danh Dy, nguyên Bí thư thứ nhất Đại sứ quán VN tại Bắc Kinh, nguyên Tổng lãnh sự VN tại Quảng Châu…trong bài “Hội nghị Thành Đô ‘nguyên nhân và diễn biến” ông Dy viết:

“Các nước XHCN Đông và Trung Âu không còn nữa, Liên xô mất quyền lãnh đạo, sắp tan rã, Việt Nam đứng trước nguy cơ mất chỗ dựa về nhiều mặt (chính trị, kinh tế, quốc phòng) cần phải tìm chỗ dựa mới, và TQ là đối tượng thích hợp nhất. Do đó cần phải tích cực đáp ứng một số yêu cầu của phía TQ nhằm nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với họ…

Bây giờ chúng tôi quyết tâm sửa chữa chính sách sai lầm trước đây, khôi phục tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước, hai đảng, cùng đi về con đường XHCN tươi đẹp”. (BBC online ngày 10-23-2014) 
Ngày 3-4 tháng 9 năm 1990 một phái đoàn lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN do Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cầm đầu gồm có Thủ tướng Đỗ Mười, cố vấn Phạm Văn Đồng cùng bộ sậu vội vã sang Bắc Kinh khấu đầu phủ phục và xin giữ thân phận chư hầu. 
Lãnh đạo CSVN đã nhục nhã cúi đầu thi hành lệnh của cộng sản Tàu theo Đại tá Nguyễn Đăng Quang thuật như sau:

“Nhớ lại, vào một tối đầu Thu 1987 tại New York, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch có nói riêng với người viết bài này khi ông đẫn đầu phái đoàn CHXHCN Việt Nam sang dự khóa họp thứ 42 Đại hội đồng LHQ: ‘Họ công khai ra điều kiện cho lãnh đạo ta là ‘nếu VN thực tâm muốn cải thiện và bình thường hóa quan hệ với TQ thì việc đầu tiên Việt Nam phải làm là loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch”. (Boxitvn online ngày 5-8-2014)
Từ khi TBT Nguyễn Văn Linh cầm đầu phái đoàn sang Thành Đô ký mật ước mà nội dung cuộc họp bí mật mãi cho đến ngày hôm nay đảng CSVN chưa dám công khai công bố; tuy nhiên Thiếu tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó tư lệnh-Tham mưu trưởng Quân khu 2 và Tư lệnh mặt trận 1979-1984 (Hà Giang) trong bức thư gửi “Đ/C Tổng bí thư BCHTW đảng…” ngày 20-7- 2014 ông đã tiết lộ:
“Xin trích một đoạn Thỏa hiệp Thành Đô: ‘…Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…

Phía TQ đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc TQ. (Hết trích)” (DanChimViet online ngày 20-7-2014)
Nội dung mật ước Thành Đô cũng được tờ Thời Báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã của Trung cộng vừa cùng nhau công bố những điều cơ mật mà hai cơ quan này gọi là sự thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị” trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau:
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía TQ giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời có giũa hai đảng… Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…

Phía TQ đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc TQ”. (RFA online ngày 6-8-2014)
Đặc biệt, Đại tá QĐND Phạm Quế Dương tiết lộ bí mật Thành Đô rõ ràng từng chi tiết và từng thời điểm quan trọng trong mật ước như sau: 
“Thiếu tướng Hà Thành Châu, Chính ủy Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam, tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 8-4-2013. Ở đây, ông đã nhờ một viên chức cao cấp Hoa Kỳ trao cho Chủ bút Tạp chí Foreign Policy Magazine một tập tài liệu tối mật liên quan đến quan hệ Việt Nam-Trung Quốc.

Tập tài liệu này xuất xứ từ anh vợ ông là thiếu tướng Chính ủy Tổng cục 2, thời Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh làm Tổng cục trưởng.

Tập tài liệu này chép lại nguyên văn từ cuốn băng nhựa AKAI, mang bí số ML887 ghi những cuộc họp bí mật của các lãnh đạo Việt Nam: Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh… tại Thành Đô.

Nội dung những cuộc họp bí mật ấy cho biết kế hoạch sáp nhập Việt Nam vào TQ dự kiến tổ chức qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: 15-7-2020 Quốc gia tự trị

Giai đoạn 2: 5-7-2040 Quốc gia thuộc trị

Giai đoạn 3: 5-7-2060 Tỉnh Âu Lạc

Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng đốc Quảng Châu (TQ)

Sau khi sáp nhập, tiếng TQ là ngôn ngữ chính, tiếng Việt là ngôn ngữ phụ.

Sử dụng thể thức ‘diễn biến hòa bình’, làm cho người Việt Nam và dư luận Quốc tế nhìn nhận rõ là TQ ‘không cướp nước Việt’ mà chính người Việt Nam tự mình ‘dâng nước’ và tự ý đồng hóa vào dân tộc Trung Hoa.

TBT Nguyễn Văn Linh thì khấu đầu trước Đặng Tiểu Bình ‘Nhờ TQ mà đảng CSVN mới nắm được chính quyền, mới thắng được đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động”. (DanChimViet online ngày 14-1-2015)
Trong “Thông điệp tháng Tám”, Nhà văn quân đội, Đại tá Phạm Đình Trọng, người đã khỏi đảng cộng sản, cái đảng mà ông đã phục vụ ngót 40 năm, nay nó đã biến thái khiến ông phải kêu lên:

“Nguy cơ chính trị đã đưa đất nước trở về thời ngàn năm Bắc thuộc, đẩy dân tộc Việt Nam vào thân phận nô lệ tủi nhục. Chính trị đồng hóa dân tộc Việt Nam về ý thức hệ Đại Hán, mở đường cho Đại Hán thực hiện tham vọng thôn tính Việt Nam. Nguy cơ mất nước đến từ bên ngoài, nạn ngoại xâm…

Việt Nam đã bẽ bàng sang Thành Đô, Đại Hán cầu xin sự nhìn nhận của Đại Hán, cầu xin được làm thân phận chư hầu để được liên kết thực chất là núp bóng cộng sản Đại Hán…

Từ cuộc gặp ở Thành Đô, những người cộng sản khư khư ôm giữ lý thuyết cộng sản sai lầm và tội lỗi đã thực sự đặt cái gông Bắc thuộc lên đầu, lên cổ nhân dân Việt Nam”. (DanChimViet online ngày 6-9-2012)
Thế là hai năm đã rõ mười, không còn dấu diếm gì được nữa, CSVN đã bán đứng dân tộc và Tổ quốc cho đồng chí bá quyền Đại Hán… Tên Tập Cận Bình vừa mạnh miệng tuyên bố cướp biển đảo của Tổ quốc đã được đảng CSVN trải thảm đỏ, rắc hoa đón rước và những đại biểu của cái gọi là đảng hội CSVN đã dảo lỗ tai nghe lời dụ ngọt của hắn và nhiệt liệt vỗ tay ở Hội trường Diên Hồng… Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã “bức xúc” viết “Thư ngỏ gửi các đại biểu Quốc hội” có đoạn như sau:
“Vì sao quý vị không có bất kỳ hành động công khai nào phản đối, ngăn chặn Chủ tịch TQ Tập Cận Bình đăng đàn phát biểu tại Quốc hội nước ta, thực chất là với tư cách kẻ xâm lược, đại diện cho bè lũ bá quyền Đại Hán chưa khi nào rời bỏ âm mưu thôn tính Đất nước ta và nô dịch Dân tộc ta?” (Boxitvn online ngày 10-11-2015)
Ông Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ của CSVN tại Thái Lan thấy rõ việc CSVN ôm chân Tàu để duy trì chế độ CNXH Việt Nam thực chất là thời kỳ nô lệ mới bắt đầu.
“Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-4-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt-Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay. Một lần nữa TQ lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta”. (Boxitvn online ngày 13-8-2012)
Đảng CSVN đang tuần tự thi hành mật ước Thành Đô để đến kỳ hạn sẽ hoàn tất việc chuẩn bị gia nhập đại gia đình Hán tộc. Theo nhận định của Đại tá Phạm Đình Trọng thì:
“Ông đảng trưởng đương kiêm Nguyễn Phú Trọng và ông đảng trưởng tiền nhiệm Nông Đức Mạnh là hai ông đầu đảng đã rước Tàu cộng vào nước ta ồ ạt nhất, sâu rộng nhất. Tàu cộng làm chủ những dãy đất rừng đầu nguồn chiến lược rộng lớn ở biên cương. Tàu cộng rầm rập kéo đến mảnh đất boxit Tây Nguyên. Tàu cộng lặng lẽ nhưng cấp tập đổ bộ vào những vùng đất đắc địa kinh tế, hiểm yếu về quân sự dọc bờ biển nước ta”. (DanLamBao online ngày 22-11-2015)
Thực ra thì ngày hôm nay người CSVN không còn tin nơi ảo tưởng CNXH nhưng nó là một cái phao chỉ để lừa gạt những người nhẹ dạ để tạo thành sức mạnh của một băng đảng duy trì quyền lực dù cho phải làm nô lệ ngoại bang. Chính TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại tổ về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ông Trọng nói:
“Có thể nói là trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc chứ không nên nói trong công cuộc xây dựng CNXH và đổi mới. Đổi mới chỉ là giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. (ThanhNien online ngày 26-10-2013)
Qua lời phát biểu ngu ngơ của TBT đảng CSVN, Đại tá QĐND Phạm Xuân Phương, người nhiều năm phục vụ trong Cục Chính trị của QĐND Việt Nam trả lời câu hỏi tại sao Nguyễn Phú Trọng không thay đổi mục tiêu tiến tới CNXH, Đại tá Phương đáp:
“Cơ bản ông ấy không đủ khả năng để ông ấy hiểu nhưng bên cạnh ấy nó cũng là quyền lợi. Ông ta ngu dốt lại hưởng tất cả mọi quyền lợi thì việc gì mà thay đổi trong khi ông ta đang làm vua ở xứ sở này…

Giáo sư Đặng Phong, một chuyên gia kinh tế chính trị Đại học Kinh tế Quốc dân: ‘Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm XHCN thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu”. (RFA online ngày 30-10-2013)
CNXH chỉ là một ảo tưởng để cộng sản Tàu “xỏ mũi” CSVN và CSVN khư khư bám lấy CNXH có nghĩa là khư khư cam tâm làm nô lệ cho giặc Tàu. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu viết trong bài: “Dạy môn Công dân và Tổ quốc’, nhưng Tổ quốc tên là gì?” Có phải yêu tổ quốc Xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Ông kể Tàu đã ra lệnh CSVN như sau:

“Còn nhớ hồi ông Lê Khả Phiêu đang làm TBT, có đoàn đại biểu TQ sang thăm trao đổi về những vấn đề lý luận… Phía TQ nói VN cần sửa lại lịch sử của mình. Theo ý TQ, VN chỉ là ‘đứa con hoang’ cần trở về với mẹ thì những trang sử oanh liệt chống ngoại xâm của Lê Lợi, Hưng Đạo, Quang Trung… chẳng qua là những vụ phản loạn của địa phương, như bọn giặc cỏ nổi lên chống lại chính quyền Trung ương chứ có khác gì?” (DanChimViet online ngày 26-11-2015)
Nhà nghiên cứu Trung cộng Dương Danh Dy nói rõ:

“Nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít người lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc”. (BBC online ngày 10-25-2014)
03/12/2015

NGƯỜI ĐƯA TIN * HỒ CHÍ MINH

ĐMHCM đường "Bác" đi trùng điệp bất nhân (P1)

Người Đưa Tin (Danlambao) - Không biết đường mòn Hồ Chí Minh (ĐMHCM) chính thức khởi công từ khi nào. Theo báo cộng sản thì Võ Nguyên Giáp là người ra lệnh tiến hành ĐMHCM. Cho đến chấm dứt cuộc chiến phi nghĩa. Cộng sản Bắc Việt kết thúc "thắng lợi" cho Liên sô và Trung cộng để "thống nhất" đất nước bằng sinh mạng hàng triệu bộ đội sinh Bắc tử Nam. "Đánh Mỹ cho đến người VN cuối cùng", trong đó không ít nạn nhân là phụ nữ và trẻ em chỉ để đánh cho Liên sô và Trung cộng như Lê Duẫn đã thú nhận.
Trong một lần sang Nga để xin viện trợ pháo cao xạ và tên lửa, nguyên soái Andrei Antonovich Grechko đã hỏi: "Tôi đã xem kỹ các tấm ảnh đường mòn mà đồng chí đưa. Tôi chẳng thấy xe cộ đâu cả, chỉ thấy voi".

Tôi trả lời rằng, đường mà các đồng chí thấy có voi là đường để ngụy trang, đường thật được giấu trong rừng già. (Võ Nguyên Giáp. Vnexpress. Thứ bảy, 4/10/2014 | 06:15 GMT+7) 
Rõ ràng cộng sản đi xin quan thày Liên sô viện trợ vũ khí để xâm lược miền Nam, Giáp cũng không nói sự thật về kế hoạch tiến hành ĐMHCM? 
Như đã dẫn lời thú nhận của Lê Duẫn. Cũng theo báo cộng sản, Giáp đã nói láo khi trả lời phỏng vấn về cuộc chiến xâm lược miền Nam như sau: Tại sao chúng tôi lại xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh? Vì người Mỹ tấn công chúng tôi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán được chiến tranh sẽ kéo dài, nhưng chúng tôi nhất định sẽ thắng. (Võ Nguyên Giáp)
Sự thật chứng minh quân đội Mỹ không tấn công cộng sản Bắc Việt (CSBV). Quân đội Mỹ giúp chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tự vệ và bảo vệ miền Nam không cộng sản. Chủ đích của Mỹ là để ngăn chận làn sóng đỏ của khối cộng sản Đông Âu bành trướng ở vùng Đông Nam Á. Tương tự như CSQT viện trợ khí tài để CSBV tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa nhằm mục đích nhuộm đỏ Đông Dương. Nói cách khác CSBV là lính đánh thuê cho CNCS như HCM đã thú nhận làm công ăn lương. (Hồ Chí Minh Toàn Tập - tập 2.) Đó là sự khác biệt giữa miền Nam VNCH chính nghĩa và miền Bắc VNDCCH phi nghĩa.
Cần nhắc lại rằng, chính thể VNCH là một quốc gia có chủ quyền được đã được 56 quốc gia trên thế giới công nhận, ngược lại cùng thời điểm đó CSBV với tên gọi Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) tồn tại ngoài công pháp Quốc tế sau Hiệp định Genève 1954. CSBV lúc đó chỉ được có 10 nước cộng sản công nhận và hoàn toàn lệ thuộc vào khối cộng sản Đông Âu, đứng đầu là Liên sô và Trung cộng. Vì thế, không thể gọi hành động chủ chiến của CSBV là "giải phóng thống nhất đất nước". Đó là hành động xâm lược có chủ đích đẩy cả nước vào thảm họa cộng sản thể hiện qua bài Viếng đền Kiếp Bạc của HCM.
Bác anh hùng tôi cũng anh hùng
Tôi bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác diệt xâm lăng - thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc dữ - ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dẫn năm châu tới đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng tôi sự nghiệp đã thành công!
Chính sự cuồng xuẩn CNCS và tham vọng của Hồ "Dẫn năm Châu đến đại đồng" là nguyên nhân của mọi tai họa cho VN đến tận ngày nay. 
Trở lại với lời nói láo của Võ Nguyên Giáp trong việc quân đội Mỹ tấn công CSBV. Trong suốt cuộc chiến do CSBV chủ chiến. Lần duy nhất quân đội Mỹ tấn công CSBV, là dội bom miền Bắc vào năm 1972, buộc CSBV ngồi vào bàn đàm phán Hiệp định Paris 1973. Cùng thời điểm đó, CSBV đã gởi thư đầu hàng vô điều kiện. Nói CSBV thắng Mỹ là không đúng sự thật. Tiếc là Mỹ đã thỏa thuận với Trung cộng để bỏ rơi miền Nam, dẫn đến lời xin lỗi của Tướng Westmoreland: 
“Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
“Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn.”
(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.) William Westmoreland.
Vài thập niên sau, đến lượt Henry Kissinger thú nhận: Các ý-kiến của Kissinger phát biểu trong cuộc hội-thảo nói trên được tóm gọn như sau: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chớ không phải do VNCH.” (The American Experience in Southeast Asia : Historical Conference)
Đối chứng tài liệu từ cả hai phía, cho thấy đảng cộng sản rêu rao, cập nhật giáo dục, nhồi sọ tuổi trẻ "đảng cộng sản quang vinh đánh thắng hai đế quốc Pháp - Mỹ" là hành động nói láo, xuyên tạc sự thật lịch sử nhằm lấp liếm tội ác cũng như che đậy thân phận của đội quân đánh thuê, hay nói cách khác là tay sai cho ngoại bang bằng tham vọng điên cuồng của Hồ "dẫn năm châu tới đại đồng". Chiến thắng, nếu có thể gọi là như vậy trong việc xâm lược miền Nam của CSBV, thuộc về Liên sô và Trung cộng. Không thuộc về CSBV. Chính sự hoang tưởng của Hồ dẫn đến hàng loạt tội ác trong 24 năm Hồ cầm quyền theo lệnh từ Trung cộng. Trong đó nổi bật nhất là tội ác trong CCRĐ làm hàng trăm ngàn sanh linh chết cách oan uổng. 
Ý thức nô lệ ngoại bang một lần nữa được đại tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng của đảng cộng sản thể hiện qua lời nói như sau: 
“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”. 
Trước đó thì Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) cũng từng kêu gọi đồng bào VN bỏ chữ quốc ngữ học chữ Tàu để làm chư hầu Trung cộng. Bỏ cách chữa bệnh Tây y để uống cao đơn hoàn tán do Trung cộng sản xuất. (Xem tài liệu tham khảo) 
Bút tích của Trường Chinh. Tên cộng sản vong bản.
ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
NĂM THỨ VII 
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN 
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC 

Hỡi đồng bào thân mến! 

Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào! 

Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế? 

Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc. 

Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi! 

Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta! 

Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu!!! 

Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v... 

Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân! 

Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”. 

Trường Chinh 
Tổng thư ký đảng Lao Động
Với những bằng chứng không thể chối cãi. Việt Minh tiền thân của đảng cộng sản hôm nay, là một tập hợp những thành phần bất hảo, chưa bao giờ có thể tự đứng vững trên chính đôi chân của nó. Tất cả đều nhờ sự chống lưng của ngoại bang Liên sô và Trung cộng. Cần nhắc lại cuộc chiến biên giới 1979 khi Đặng Tiểu Bình chủ chiến xâm lược VN nhằm "dạy cho đảng cộng sản VN một bài học". Gợi nhớ đảng cộng sản cũng từng xem Trung cộng như kẻ thù. Khi khối cộng sản Đông Âu sụp đổ. Tập đoàn cộng sản lại quay về khấu đầu Trung cộng để tồn tại trên lập trường vong bản thà mất nước hơn mất đảng. Đó là nguyên nhân chính, CSBV ký Mật ước Thành Đô 1990 nhằm biến VN thành một tỉnh của Trung cộng. 
Tạm kết. 
Mười sáu vụ lừa đảo lịch sử của đảng cộng sản VN.
1. Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) ban đầu là cuộc nổi dậy của nông dân, không có sự tham gia, chứ đừng nói là lãnh đạo, từ đảng cộng sản. 
2. Việt Minh (1941) là bẫy dụ dỗ những người quốc gia đi theo cộng sản.
3. Cái gọi là Cách mạng tháng Tám (1945) chỉ là kết quả của nhiều biến cố bất ngờ tạo ra chính yếu bởi "khoảng trống quyền lực" đột ngột sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh.
4. Bản tuyên bố độc lập của Hồ (1945) lừa gạt dân Việt vì Hồ đã có ý định bán đứng Việt Nam cho Pháp hai tháng trước đó.
5. "Tuần lễ Vàng" (1945) là một cuộc trá hình cho việc cướp tài sản dân để hối lộ quân Tàu và tướng Lư Hán
6. Việc giải tán ĐCSĐD (1945) chỉ là trá hình cho hoạt động cộng sản để trấn an Trung hoa quốc gia và những người quốc gia 
7. Thỏa thuận Sainteny (1946) giúp hợp thức hoá chính quyền cộng sản và dùng Pháp để tiêu diệt phe quốc gia
8. Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) có được là nhờ sự giúp đỡ Tàu cộng và đóng góp của dân Việt vì được hứa hẹn cho ruộng đất
9. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu là một cuộc nổi dậy rộng lớn cần cả một sư đoàn quân đội đàn áp nhưng ĐCSVN làm giảm cường độ, xuyên tạc các lý do, và không đề cập đến sự đàn áp tàn bạo.
10. Công hàm của Phạm Văn Đồng gửi đến Tàu cộng (1958) lộ tính chất phản bội hoặc trò lừa đảo ngay cả với đồng bọn của ĐCSVN.
11. Mặt trận Giải Phóng miền Nam (1960) là một công cụ của cộng sản Bắc Việt nhưng ĐCSVN chối bỏ cho tới khi họ chiếm đoạt miền Nam năm 1975.
12. Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) được tiến hành bởi Hồ và ĐCSVN bằng cách lừa đảo dân miền Bắc và tạo chia rẽ hận thù trong dân Việt để phục vụ ngoại bang.
13. Vụ Lê Văn Tám (1945) và Nguyễn Văn Bé (1967) cho thấy đầu óc ngu muội của người cộng sản trong việc bịa đặt hình ảnh anh hùng để phục vụ mục tiêu họ.
14. Sự kiện UNESCO (1989) không những lừa bịp dân Việt mà còn là một quốc nhục khi Hồ Chí Minh bị so sánh tệ mạt hơn một học giả Thái Lan.
15. Bộ phim "Mậu Thân 1968" (2013) của đạo diễn Lê Phong Lan là một nỗ lực tuyệt vọng trong việc xóa bỏ tội ác không tả xiết của cộng sản.
16. Cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất (2014) toan tính lấp liếm tội ác giết hơn 170.000 dân vô tội.
(Tài liệu đã dẫn: Cao-Đắc Tuấn.)
ĐMHCM và đảng cộng sản VN đã biến một dân tộc với truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, vào con đường diệt vong. Sự khiếp nhược của đảng cộng sản VN trước giặc Tàu cộng là bằng chứng không thể chối cãi. Ngay cả hàng tướng lãnh cộng sản cũng thừa nhận điều đó: 
"61 đảng viên lão thành, đứng đầu là Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh gửi thư yêu cầu Đảng: 

1- Bạch hóa Hội nghị Thành Đô và các quan hệ với Trung Cộng. 
2- Từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê nin, từ bỏ con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội”.
Con đường duy nhất để thoát sự lệ thuộc vào Trung cộng, đòi buộc phải có đa nguyên, đa đảng. Kiểm soát lẫn nhau, đối trọng trên tinh thần bảo vệ Tổ quốc và tái thiết đất nước. Không bao giờ có độc lập tự do hạnh phúc trong một chế độ độc tài toàn trị. 
04/12/2015
______________________________________
Tài liệu tham khảo:
- Những sự thật cần phải biết (phần 10) - Cộng sản Việt Nam: Trẻ em là một con bài trong chiến tranh. Tác giả Đặng Chí Hùng.http://danlambaovn.blogspot.com/2013/07/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-10.html
- Đảng thừa nhận đánh Mỹ là đánh cho TQ
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đường mòn Hồ Chí Minh. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/dai-tuong-vo-nguyen-giap-va-duong-mon-ho-chi-minh-3088415.html
- Hồ Chí Minh Tự Thú: Tôi Là Nhân Viên Lãnh Lương Của Quốc Tế Cộng Sản - Thực Hiện Các Công Tác Bành Trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản Do Quốc Tế CS Giao Phó Với Lương Công Tác: 100 Mỹ Kim/tháng. (năm 1924). Hồ Chí Minh Toàn Tập - tập 2.
- Những sự thật cần phải biết - Nổi dậy hay khủng bố? Tác giả Đặng Chí Hùng. 
- Binh bài thơ xấc xược của Hồ trước vị anh hùng kiệt xuất của Dân tộc Việt Nam - Thánh nhân Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Tác giả Phan Châu Thành. 
- Bài học từ Hiệp định Geneva 1954. Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA. 2014-07-19.
- Những sự thật cần phải biết: "THỐNG NHẤT" - Xin đừng xảo ngôn! Tác giả Đặng Chí Hùng. http://danlambaovn.blogspot.com/2012/12/nhung-su-that-can-phai-biet-thong-nhat.html
- Pắc Bó: Miệng nguồn của tội ác. Tác giả TNLT. Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý. 
- Tướng Westmoreland xin lỗi cựu quân nhân Quân Lực VNCH. 
- Sự thật phũ phàng về Hiệp định Paris 1973. Tác giả Nguyễn Quốc Khải gửi RFA. 
- The Viet Nam War - Unknown Images (1973) The North Vietnamese Surrender. Phụ đề Việt ngữ. (CSVN xin đầu hàng năm 1973)
- Henry Kissinger đã đấm ngực thú tội. http://www.lyhuong.net/uc/index.php/vnch/930-930
- Hai bức thư Hồ Chí Minh gởi Stalin xin Chỉ thị để giết dân Việt Nam trong chiến dịch "Cải Cách Ruộng Đất" và xin vũ khí Nga để giết dân Việt. 
- Nguồn tài liệu: Cục lưu trử quốc gia Nga:
- Hồ sơ tội ác cuộc Cải Cách Ruộng Đất (1949-1956) 
- Hồ Chí Minh, một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 1 đến 26) Tác giả Huỳnh Tâm. 
- Đại tướng Phùng Quang Thanh 'lo lắng' vì dân Việt ngày càng ghét Tàu Cộng. Tác giả Bảng Đỏ. http://danlambaovn.blogspot.com/2015/01/ai-tuong-phung-quang-thanh-lo-lang-vi.html
- Những sự thật cần phải biết (phần 14) - Trường Chinh - Kẻ vong bản. Tác giả Đặng Chí Hùng. http://danlambaovn.blogspot.com/2013/08/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-14.html
- Đọc lại hồ sơ bán nước: Hội nghị Thành Đô 1990. Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ, nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu.http://www.trinhanmedia.com/2012/09/oc-lai-ho-so-ban-nuoc-hoi-nghi-thanh-o.html
- Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 1 đến 10) Tác giả Huỳnh Tâm. http://danlambaovn.blogspot.ca/2014/12/tien-trinh-am-phan-bi-mat-thanh-o-1990_12.html
- Chiến tranh Biên giới 1979: Không thể quên lãng. Tác giả Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện chiến lược, Bộ công an.http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/161648/chien-tranh-bien-gioi-1979--khong-the-quen-lang.html
- Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. Tác giả Cao Đắc tuấn. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/nhung-lua-ao-lich-su-cua-ho-chi-minh-va.html
VRNs (29.07.2014) - Sài Gòn - Chú Tễu viết: “Ngày 28.07.2014, 61 đảng viên lão thành, đứng đầu là Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh gửi thư yêu cầu Đảng: 1- Bạch hóa Hội nghị Thành Đô và các quan hệ với Trung Cộng. 2- Từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê nin, từ bỏ con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội”. http://www.chuacuuthe.com/2014/07/61-dang-vien-kien-nghi-bo-duong-loi-chinh-tri-sai-lam/

No comments:

Post a Comment