Pages

Thursday, November 24, 2016

TRUNG CỘNG =LIÊN XÔ= NGUYỄN VŨ BÌNH = VIỆTTUSAIGON=TƯỞNG NĂNG TIÊN


LÊ PHÚ KHẢI * ĐẠI HỘI XII

23/12/2015


Trước thềm Đại hội 12

Lê Phú Khải – một người ngoài Đảng
Nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước đã hỏi tôi: “Theo ý anh, ai trong Bộ Chính trị hiện nay sẽ làm Tổng bí thư tại Đại hội 12 sắp tới là tốt nhất?”.
Tôi trả lời: “Trong gần bốn triệu đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, có nhiều người tài giỏi và có đức, yêu nước thực lòng. Nếu để ứng cử tự do và bầu phổ thông đầu phiếu trong toàn Đảng thì sẽ chọn được một Tổng bí thư xứng đáng, dân được nhờ. Nếu chỉ chọn trong Bộ Chính trị, hay Ban Chấp hành Trung ương thì… Bác Hồ sẽ là… người Thanh Hóa!”.
Nhiều người đã rất ngạc nhiên. Nhiều người còn mắng tôi: “Thấy ông là nhà báo mới hỏi, sao lại…?”.

Tôi bèn kể cho họ nghe câu chuyện “Bác Hồ là người Thanh Hóa”. Chuyện như sau: Có bốn anh bộ đội đi chơi với nhau. Một anh quê ở Nghệ An, ba anh kia quê ở Thanh Hóa. Anh quê Nghệ An nói: “Bác Hồ là người quê choa”. Một anh quê Thanh Hóa nói: “Không phải, Bác Hồ là người quê tôi!”.
Thế là cãi nhau. Cuối cùng phải bỏ phiếu. Kết quả: Bác Hồ là người Thanh Hóa, vì ba anh anh Thanh Hóa đều bỏ phiếu Bác là người quê mình. Rõ ràng dân chủ, công khai, minh bạch, thiểu số phục tùng đa số: Bác Hồ vẫn là người Thanh Hóa.
Phương Tây văn minh trải qua những vận động đi lên của lịch sử đã gọi cái đa số trong câu chuyện kể trên là đa số thiểu số (majorité minimal). Nguyên tắc tập trung dân chủ, thực chất là mất dân chủ ngay trong Đảng đã tạo ra cái đa số tối thiểu ấy. Nhiều lần đại hội mất dân chủ, đã dẫn đến nông nỗi này cho Đảng hôm nay… phải họp Trung ương liên tục, họp mãi vẫn chưa tìm được “lãnh tụ” xứng tầm.
Năm 2015, tính ra có đến 6993 cái đại hội trong cả nước. Này nhé, 63 tỉnh thành là 63 cái đại hội tỉnh đảng bộ. Mỗi tỉnh ước tính có 10 huyện thị, vị chi là có 630 cái đại hội huyện đảng bộ, mỗi huyện ước tính có 10 xã. Vậy ước tính cả nước có 6993 cái đại hội. Đó là chưa kể các đại hội của các ngành ở Trung ương. Đại hội nào cũng cờ dong trống mở, chăng đèn kết hoa xanh đỏ tím vàng như sân khấu cải lương chèo tuồng! Cả ăn uống liên hoan nữa. Tất cả đều lấy từ ngân sách nhà nước, từ thuế của dân để chi… Vậy mà vẫn không tìm ra được người tài đức để cứu Đảng cứu nước!
Cái nguyên tắc tập trung dân chủ thật là đáng sợ, thật là đại bi kịch cho đảng cầm quyền.
L. P. K.
Tác giả gửi BVN.



TRẦN TRUNG ĐẠO * LIÊN XÔ

26/12/2015


25-12-1991, ngày cuối cùng của chế độ Cộng sản Liên Xô

Trần Trung Đạo
clip_image002
Merry Christmas!”. Một viên chức trong đoàn tùy tùng của Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev chào Ted Koppel và nhóm phóng viên của hệ thống ABC đang đứng chờ trước bậc thềm điện Kremlin. Ted Koppel chào lại nhưng anh chàng Rick Kaplan, phụ tá của Ted Koppel phản đối “Với tôi anh phải chúc là Happy Hanukkah mới phải”. Rick Kaplan nói thế chỉ vì anh ta gốc Do Thái. Viên chức Liên Xô không hiểu Hanukkah nghĩa là gì và tưởng là Honecker nên hỏi ngược “Tại sao tôi phải chào Happy Honecker chứ nhỉ?”.

Thật ra, thắc mắc của viên chức Liên Xô không phải là không có lý do. Ngày 25 tháng 12 không chỉ là ngày cuối cùng của hệ thống Cộng sản Liên Xô mà có thể cũng là ngày cuối của Erich Honecker nữa. Tên lãnh tụ Cộng sản Đông Đức này bị truy tố tại Đức và được Gorbachev cho phép tỵ nạn chính trị tại Liên Xô. Erich Honecker sợ bị Boris Yeltsin tống cổ về Đức nên hôm qua đã chạy sang tòa đại sứ Chile ở Moscow xin tỵ nạn. Báo chí loan tin sáng hôm đó Erich Honecker vừa xin tỵ nạn chính trị lần nữa nên viên chức trong đoàn tùy tùng Gorbachev liên tưởng đến y khi nghe “Happy Hanukkah”.
Ngày 25 tháng 12 là ngày nhiều tỉ tín đồ Thiên Chúa Giáo trên thế giới kỷ niệm ngày Chúa Cứu Thế giáng trần nhưng tại Moscow, ngày 25 tháng 12, 1991 là ngày chính thức cáo chung của chế độ Cộng sản. Thật khó tin nhưng đang diễn ra trước mắt nhân loại. Ngày cuối cùng của chế độ Cộng sản Liên Xô được tường thuật theo từng giờ trong tác phẩm Moscow, December 25, 1991, the last day of Soviet Union của Conor Óclery mà người viết tham khảo.
Tối ngày 24
clip_image003Thời tiết Moscow lạnh xuống gần 0 độ F. Những lớp tuyết dày trên dưới chân tường điện Kremlin dấu vết của cơn bão tuyết ba ngày trước. Nửa đêm 24 tháng 12, một đoàn hành hương đến cầu kinh dưới chân tháp Thánh Nicholas. Từ khi chính sách Glasnost ra đời, việc tiếp xúc tôn giáo có phần cởi mở. Nhiều đoàn hành hương có cơ hội đến thăm viếng các nhà thờ lớn ở Liên Xô. Phần đông người trong đoàn đến từ Mỹ. Dù Giáng Sinh theo lịch Julian do Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga dùng là ngày 7 tháng Giêng những người hành hương này muốn đón Giáng Sinh theo lịch Mỹ ở Moscow. Những ngọn đèn cầy được thắp lên trong đêm đông tại quốc gia Cộng sản hàng đầu thế giới. Những người hành hương không biết một cách chi tiết những gì sắp xảy ra trên đất nước này trong vài giờ nữa.
Sáng sớm ngày 25
Mikhail Sergeyevich Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản kiêm Chủ tịch Cộng hòa Liên bang Sô Viết thức dậy sớm. Ông ta ý thức ngay rằng, tất cả những gì ông sắp sửa làm từ bữa ăn sáng do đầu bếp Shura phục vụ và cả biệt điện nguy nga mà vợ chồng ông ta nghĩ trước đó sẽ ở cho đến chết đều sẽ là lần cuối. Chiếc xe đặc biệt ZiL-41047 chờ ông. Hai viên đại tá có khuôn mặt lạnh như tiền ngồi trên chiếc Volga theo sau xe của Gorbachev. Họ không phải là cận vệ nhưng là người mang chiếc cặp trong đó chứa các thông tin tuyệt mật để phát động chiến tranh nguyên tử. Hai đại tá này biết chiều tối nay họ sẽ chào từ biệt Mikhail Gorbachev để phục vụ lãnh đạo Cộng hòa Nga Boris Yeltsin.
Mikhail Sergeyevich Gorbachev được thế giới ca ngợi như là người đã thổi vào không khí chính trị Liên Xô làn gió mới và được trao tặng giải Nobel Hòa Bình 1990 nhưng trong nước dân chúng đổ hết công phẫn lên ông ta. Tên Gorbachev đồng nghĩa với suy thoái, thất nghiệp, vật giá leo thang, tem phiếu. Người dân thường dĩ nhiên không biết và cũng không cần biết, Gorbachev là lãnh đạo cộng sản thứ bảy từ Lenin và cũng là người kế thừa một gia sản lạc hậu, ung thối từ trong máu của chế độ.
Nhiều câu chuyện cười ở Moscow về thái độ bất mãn của người dân đối với Gorbachev. Ví dụ, trong một tiệm rượu, một người khách đứng dậy bỏ đi, các bạn anh ta hỏi đi đâu, anh chàng đáp đi giết Gorbachev chứ đi đâu, anh ta mở cửa ra đi thật nhưng trở lại ngay, bạn bè hỏi sao giết Gorbachev mà nhanh thế, anh chàng đáp không giết được vì phải sắp hàng dài quá.
9 giờ sáng ngày 25
Mikhail Gorbachev và đoàn tùy tùng đến dinh chủ tịch ở điện Kremlin hơi trễ hơn thường lệ chút ít. Hãng tin Mỹ ABC gồm Ted Koppel và Rick Kaplan có mặt ngay tại chỗ dừng xe. Họ được Gorbachev cho phép tường thuật biến cố lịch sử này. Theo lời kể lại của Ted Koppel, Gorbachev rất trầm tĩnh. Nhân viên làm việc trong điện Kremlin vẫn tới đủ nhưng không có việc nào làm khác hơn là dọn dẹp. Thời khóa biểu tiếp khách trước đây được tính từng phút hôm đó trống không. Mặc dù theo thỏa thuận, Gorbachev có đến cuối năm để dời ra khỏi điện nhưng thực tế Yeltsin đã tóm thu hết quyền hành và các phương tiện thông tin. Đơn vị phòng vệ điện Kremlin vẫn túc trực nhưng không đặt dưới quyền chỉ huy của Gorbachev mà trực thuộc thẳng Yeltsin. Chiếc điện thoại màu trắng trên bàn làm việc của Gorbachev còn hoạt động nhưng không ai gọi vào.
10 giờ sáng ngày 25
Trong lúc điện Kremlin chìm trong im lặng, Tòa Nhà Trắng Nga lại sôi nổi với hàng loạt chương trong ngày mới của nền Cộng hòa. Tòa nhà quốc hội Nga này là biểu tượng của trận chiến chống chế độ toàn trị khi Yeltsin đứng trên xe tăng thách thức đám lãnh đạo Cộng sản cực đoan hồi tháng Tám trước đó. Boris Yeltsin lãnh đạo Nga đến văn phòng làm việc. Ông lên văn phòng đặt trên tầng thứ năm bằng cầu thang riêng phía sau. Trên bàn làm việc hàng loạt sắc lịnh chờ ông ký. Một chế độ hình thành bằng máu, dao búa và súng đạn đang được giải thể bằng sắc lịnh. Một trong những sắc lịnh ông phải ký hôm nay là giải tán cơ quan KGB và thay bằng Federalnaya Sluzhba Bezopasnosti gọi tắt là FSB tức Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga. Không chỉ trong ngành an ninh, mật vụ mà cả sắc lịnh về các hí viện, nhạc viện, các viện hàn lâm, trường đại học, viện bảo tàng, v.v. từ nay đều trực thuộc Cộng hòa Nga.
Các cơ quan ngoại giao quốc tế cũng vậy. Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze nổi tiếng thời Gorbachev bị trục xuất ra khỏi nhiệm sở và thay bằng Bộ trưởng Ngoại giao Nga Andrey Kozyrev. Tại tất cả nhiệm sở ngoại giao khắp các múi giờ trên toàn thế giới, cờ Liên Xô bị hạ xuống và cờ Cộng hòa Nga ba màu được kéo lên. Nhiều đại sứ vội vã đánh điện cho Yeltsin tuyên bố trung thành. Tòa đại sứ lớn nhất của Liên Xô là tòa đại sứ tại Washington DC với hơn 300 nhân viên thuộc nhiều sắc tộc. Các nhân viên chia thành nhiều nhóm theo sắc dân và tự tuyên bố họ là đại diện cho cộng hòa của họ tại Mỹ.
Gần 11 giờ sáng Tổng thống Nga Boris Yeltsin qua phòng họp quốc hội Nga ở lầu 1. Tổng cộng 252 đại biểu Quốc hội đang tập trung để chứng kiến ngày lịch sử. Nhân dịp này, Boris Yeltsin thông báo tin vui rằng 11 quốc gia cựu Liên Xô trong phiên họp tại Kazakhstan đã đồng ý thành lập Khối Thịnh vượng chung.
12 giờ trưa ngày 25
Mikhail Gorbachev ăn trưa xong. Phía sau phòng ăn có một phòng nhỏ bỏ trống. Tổng Bí thư Cộng sản Liên Xô vào, đóng cửa lại và nằm nghỉ. Các phụ tá của ông hớt hải đi tìm. Gorbachev phải có mặt để ký thư từ biệt gởi các lãnh đạo thế giới mà ông có quan hệ tốt. Một danh sách khá dài từ Tổng thống Mỹ George H. W. Bush cho đến Thủ tướng Anh John Major và cả các ông hoàng như Vua Juan Carlos và Nữ hoàng Sofia của Spain.
Bài bình luận trên báo Nga buổi sáng hôm đó chẳng tốt lành gì cho lãnh tụ Cộng sản Mikhail Gorbachev. Tờ Rossiyskaya Gazeta tiết lộ các cam kết mật Yeltsin dành cho Gorbachev khi về hưu bao gồm số phụ cấp bằng với mức lương hiện nay của ông ta có điều chỉnh theo mức lạm phát, hai chiếc xe riêng và một đoàn tùy tùng 20 người kể cả tài xế và an ninh. Đây là thỏa thuận kín giữa Gorbachev và Yeltsin nhưng đã bị cánh Yeltsin tiết lộ cho báo chí biết. Các báo còn cho rằng Gorbachev đòi hỏi một đoàn phục vụ lên đến 200 người. Thật ra, theo Chernyaev, phụ tá của Gorbachev, ông ta chưa bao giờ đòi hỏi một số lượng nhân viên phục vụ đông như thế. Phe Yeltsin chỉ bịa ra để làm nhục Gorbachev.
4 giờ chiều ngày 25
Gorbachev và phụ tá Andrei Grachev xem lại diễn văn mà 4 giờ nữa ông sẽ đọc và quyết định thay chữ “từ chức” bằng chữ “ngưng các hoạt động” trong chức vụ chủ tịch Liên bang Sô Viết. Diễn văn được sửa tới sửa lui nhiều lần chung quanh các điểm xung khắc giữa Yeltsin và Gorbachev.
Cũng trong buổi chiều cuối cùng này, Gorbachev gọi điện thoại chào từ giã Tổng thống Mỹ George H. W. Bush. Buổi điện đàm được truyền hình ABC thu. Gorbachev mở đầu trước bằng gọi một cách thân mật “George thân mến, chúc mừng Giáng Sinh đến anh và Barbara!” và nói tiếp “George, tôi muốn báo anh biết một tin quan trọng. Trước mặt tôi là diễn văn từ nhiệm. Tôi sẽ rời khỏi chức vụ tổng tư lịnh và chuyển giao quyền sử dụng vũ khí nguyên tử sang tổng thống Liên Bang Nga”. Buổi điện đàm diễn ra trong không khí rất thân mật và tổng thống Mỹ mời Gorbachev viếng thăm Mỹ lần nữa. Cả hai đều tránh nhắc tới tên Yeltsin.
Trời đã về chiều. Gorbachev và hai phụ tá thân cận nhất của ông ngồi quanh nhau bên ly cà phê cuối cùng. Cả ba đồng ý, sau khi đọc diễn văn, Gorbachev sẽ ký quyết định từ nhiệm thay vì ký trước như dự tính.
Trong lúc nhấp cà phê, câu chuyện về số phận Nicolae Ceausescu của Romania được nhắc đến. Mặc dù Gorbachev ví Ceausescu như là Hitler của Romania, cả hai đã duy trì một quan hệ lãnh đạo các quốc gia trong khối Cộng sản. Chỉ ba tuần trước khi vợ chồng Nicolae Ceausescu bị xử bắn, Gorbachev đã tiếp y tại điện Kremlin. Trong dịp đó Gorbachev khuyên Ceausescu đừng ngại thực hiện các cải cách dân chủ và tiên đoán “đồng chí sẽ còn sống trong dịp hội nghị các lãnh đạo Cộng sản Liên Xô và Đông Âu” tổ chức ngày 9 tháng Giêng. Ngày đó không bao giờ đến và Nicolae Ceausescu cũng đã chết rồi.
7 giờ tối ngày 25
Kính thưa toàn thể nhân dân”, giọng Mikhail Gorbachev hơi lạc đi vì xúc động, gò má ông rung lên. Trong chốc lát, ông lấy lại bình tĩnh và đọc tiếp “Số phận đã quyết định rằng, khi tôi trở nên lãnh đạo đất nước, hiển nhiên đã có những sai trái trầm trọng trong quốc gia này. Chúng ta có đầy đủ mọi thứ, đất đai, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và Tạo Hóa đã ban cho chúng ta trí tuệ và tài năng – Tuy nhiên, mức sống của chúng ta tệ hại hơn nhiều so với các quốc gia kỹ nghệ khác và khoảng cách mỗi ngày rộng thêm. Lý do rõ ràng vì xã hội bị bóp ngặt trong tay của một hệ thống quan quyền được tạo ra để phục vụ một ý thức hệ, và phải chịu gánh nặng chạy đua vũ trang, căng thẳng tột cùng. Tất cả cố gắng để thực hiện các cải cách nửa vời đều lần lượt dẫn đến thất bại. Đất nước không còn hy vọng gì nữa.”
Gorbachev tiếp tục nói về các cải cách ông thực thi từ 1985, dù sao, đã là những viên gạch cần thiết lót lên con đường dẫn đến chế độ dân chủ và theo ông “xã hội đã đạt được tự do, tự do về chính trị và tự do về tinh thần. Gorbachev chấm dứt diễn văn lúc 7:12 phút tối. Ông nhìn lên ống kính truyền hình và thêm vào câu nữa “Chúc quý vị mọi điều tốt đẹp”.
Các lý do làm Liên Xô sụp đổ là nguồn thúc đẩy sự nghiên cứu của nhiều sử gia, nhà nghiên cứu, nhà phân tích và vẫn còn đang được nghiên cứu, phân tích. Tuy nhiên, như nhiều người đông ý, nguyên nhân sâu xa vẫn là (1) những mâu thuẫn có tính triệt tiêu trong bản chất của chế độ Cộng sản độc tài toàn trị, (2) sự chuyển hóa không ngừng của xã hội và (3) các nguyên nhân trực tiếp gồm tình trạng tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và trung ương không giữ được địa phương.
Mâu thuẫn có tính triệt tiêu của chế độ Cộng sản
Nếu chỉ nhìn từ bên ngoài, chế độ Cộng sản Liên Xô không thể nào sụp đổ. Sau thế chiến thứ hai, Liên Xô có một đạo quân khổng lồ gồm 500 sư đoàn trong đó 50 sư đoàn thiết giáp. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh với Mỹ và Tây phương, Liên Xô duy trì một đạo quân từ 3 triệu người đến 5 triệu người. Khoảng thời gian Liên Xô sụp đổ, Liên Xô có 210 sư đoàn với một phần tư là các sư đoàn thiết giáp. Kho vũ khí hạt nhân Liên Xô có 27 ngàn đầu đạn nguyên tử trong đó 11 ngàn đầu đạn có tầm bắn xa đến tận nước Mỹ. Mỗi đầu đạn nguyên tử có thể tàn phá một thành phố Mỹ.
Bên ngoài hùng mạnh nhưng bên trong, Liên Xô là một cơ chế chính trị chứa đựng các mâu thuẫn nội tại dẫn đến thối rữa. Chủ nghĩa Marx-Lenin đề cao “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” nhưng thật sự từ Cách mạng Cộng sản tại Nga, Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn, Việt Nam v.v. đều phát xuất từ một nhóm nhỏ cán bộ Cộng sản biết vận dụng các lý do lịch sử và bất đồng nhất thời trong xã hội để phát động chiến tranh và sau đó tiếp tục cai trị nhân dân bằng súng đạn, nhà tù, sân bắn. Người dân không có quyền chọn lựa. Mâu thuẫn đối kháng mang tính triệt tiêu nhau giữa chế độ độc tài toàn trị và quyền sống, quyền tự do chọn lựa của con người vì thế đã bắt đầu ngay khi cách mạng Cộng sản thành công và sâu sắc dần theo thời gian.
Sự chuyển hóa tri thức xã hội
Như người viết đã có dịp phân tích bài Trung Cộng không đáng sợ, sự chuyển hóa tri thức của xã hội là nguồn lực chính thúc đẩy cách mạng dân chủ tại các quốc gia Cộng sản. Nguồn lực đó nhanh hay chậm tùy theo điều kiện mỗi nước nhưng là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước Cộng sản đã âm thầm lớn mạnh chỉ chờ cơ hội là bùng vỡ. Sức sống của đất nước cũng như của xã hội là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ, các thế lực cầm quyền độc tài chỉ là những khe đá, có thể làm chậm dòng thác văn minh nhưng không thể ngào ngăn chận được.
Khi nhận thức con người được mở rộng sự sợ hãi sẽ giảm dần. Điều này thể hiện không chỉ ở người dân Liên Xô lúc đó mà cả các cấp lãnh đạo Cộng sản Liên Xô cũng không còn sợ các biện pháp chế tài của trung ương đảng. Chưa bao giờ trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô có một ủy viên Bộ Chính trị từ chức. Không cần phải tìm hiểu cũng biết điều gì sẽ xảy ra cho Boris Yeltsin nếu ông ta từ chức trong thời kỳ Lenin, Stalin.
Yếu tố chính tác động vào sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống Cộng sản tại châu Âu và sẽ diễn ra tại Trung Cộng cũng như Việt Nam chính là nội lực phát xuất từ xã hội, kết quả của các phong trào xã hội và sự chuyển hóa không ngừng của xã hội. Các quốc gia Cộng sản còn lại như Trung Cộng, Việt Nam tìm mọi cách để ngăn chận sự phát triển tự nhiên của văn minh con người, cố tình che đậy, bưng bít thông tin nhưng chỉ làm chậm lại tiến tình cách mạng dân chủ một thời gian ngắn mà thôi. Cuộc chiến tranh xoi mòn từng mảnh nhỏ này đang diễn ra từng giờ, từng phút và phần thắng đang nghiêng dần về phía người dân.
Tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và trung ương không giữ được địa phương
Thập niên 1970 Liên Xô có vẻ trong vị trí ổn định và có ảnh hưởng quốc tế nhất. Vị trí của Liên Xô lên cao tại Phi Châu, Trung Đông và Á Châu. Tuy nhiên sau thượng đỉnh Vladivostok giữa Leonid Brezhnev và Tổng thống Mỹ Gerald Ford tình hình bắt đầu đổi khác. Nền kinh tế Liên Xô suy sụp dần vì hơn 30%, nhiều phân tích cho rằng hơn một nửa, ngân sách quốc gia phải đổ vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ. Giống như đòn kinh tế Mỹ đang áp dụng hiện nay đối với Vladimir Putin, thập niên 1980, Mỹ cũng thỏa thuận với Saudi Arabia để giữ giá dầu thấp nhằm đánh vào nền kinh tế sống nhờ xuất cảng dầu khí của Liên Xô.
Gorbachev kế thừa một “sự nghiệp cách mạng” nhưng trong thực tế một gánh nặng của chủ nghĩa độc tài toàn trị kéo dài từ 1917 cho đến tháng 3 năm 1985, thời gian ông được chọn làm Tổng Bí thư đảng. Cơ chế chính trị trung ương không giữ được các cộng hòa địa phương. Trước Giáng Sinh 1991 vài ngày, 11 nước cộng hòa Sô Viết gồm Ukraine, Liên bang Nga, Belarus, Armenia, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Turkmenistan, Tajikistan và Uzbekistan tuyên bố họ không còn là những tiểu quốc trong Liên bang Sô Viết. Bốn nước Estonia, Lithuania, Latvia, Georgia chọn nghiêng hẳn về phía Tây thay vì theo Nga.
Không có con đường nào khác dành cho các lãnh đạo Cộng sản
Chế độ Cộng sản, một chế độ đi ngược dòng phát triển văn minh nhân loại và quyền con người như Mikhail Sergeyevich Gorbachev xác nhận trong diễn văn từ chức “hệ thống toàn trị đã ngăn chận một quốc gia để trở nên giàu có và thịnh vượng, hệ thống đó phải bị giải thể.” Điều đó đã xảy ra tại Nga, Đông Âu, Phi Châu và đương nhiên sẽ xảy ra tại Trung Cộng và Việt Nam. Cách mạng dân chủ là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam chỉ có một trong hai chọn lựa, hoặc như Mikhail Gorbachev hoặc như bị lật đổ như Nicolae Ceausescu, Erich Honecker chứ không có chọn lựa thứ ba nào.
T. T. Đ.


NGUYỄN VŨ BÌNH * FACEBOOK

Những người chối bỏ facebooks


     Trong vài ba năm trở lại đây, mạng xã hội facebooks đã phát triểnvới tốc độ chóng mặt tại Việt Nam. Theo thống kê, hiện đã có hơn 30 triệu tài khoản facebooks tại Việt Nam. Với nhiều tính năng ưu việt được tích hợp, facebooks đã chinh phục được cả những người khó tính nhất. Ngoài nguyên nhân về ưu thế kỹ thuật, như miễn phí, tốc độ lan truyền nhanh...thì ở môi trường Việt nam cũng có những lý do đặc thù khiến facebooks phát triển bùng nổ. Trước hết, xã hội Việt Nam là xã hội cộng sản với đặc trưng là bưng bít thông tin và dối trá, bịp bợm. Chính vì vậy, việc xuất hiện và sử dụng facebooks để chia sẻ, công khai những thông tin trung thực, khách quan là nhu cầu lớn và tất yếu của người dân. Khi những thông tin chính thống và chính thức không bảo đảm độ tin cậy, trung thực và khách quan thì người dân tìm đến những nguồn thông tin khác mà facebooks là điển hình. Mặt khác, xã hội Việt Nam hiện nay không có môi trường và không đủ diễn đàn để người dân thể hiện khả năng, mà facebooks lại là nơi người dân tự thể hiện bản thân dễ dàng và đơn giản nhất. Chính hai lý do quan trọng này, đã khiến cho số lượng tài khoản facebooks ở Việt Nam tăng vọt.
     Tuy nhiên, không phải ai cũng tham gia và thích thú với facebooks. Ở Việt Nam, có một số lượng người không nhỏ, đã không tham gia vào sân chơi vô cùng bổ ích và lý thú này. Có nhiều người, đã tham gia, có tài khoản một thời gian thì bỏ, đóng tài khoản. Có người có tài khoản nhưng hầu như không tham gia và ngó ngàng gì tới facebooks nữa. Chỉ có một số ít người thực sự không thích facebooks nên không tham gia. Còn lại, số lớn người từ chối facebooks vì lý do khác, không phải vì bản thân facebooks mà vì những thông tin được chia sẻ trên đó. Người ta từ chối facebooks vì những thông tin, hoặc ảnh hưởng từ những thông tin được chia sẻ và lan truyền trên facebooks. Vì sao lại vậy? Những thông tin đó là những thông tin gì? Vì sao họ lại tránh?
     Trước hết, phần lớn những người tránh, từ chối facebooks là những người đang làm việc, đang là cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, hệ thống và guồng máy của đảng cộng sản và nhà nước Việt nam. Những người này, từ chối facebooks trước hết là họ không muốn tiếp xúc với những thông tin tiêu cực có thật trong xã hội hiện nay. Bản thân họ, trong công việc và cuộc sống hàng ngày đã tiếp xúc với rất nhiều tiêu cực, mặt trái của xã hội, nên họ không muốn lên facebooks để chứng kiến thêm những vấn nạn của xã hội nữa. Nhưng lý do này chỉ là một phần nhỏ, không quan trọng lắm. Điều quan trọng là, khi tiếp xúc với các thông tin tiêu cực trên facebooks, họ lại được biết cách thức lý giải, giải thích khác có nguồn gốc từ chính hệ thống, guồng máy mà họ đang làm việc và phục vụ. Bằng trực giác và nhận thức của bản thân, những người này cũng đã lờ mờ nhận ra nguyên nhân gốc rễ của những vấn nạn, những đau khổ của người dân là do hệ thống chính trị mà họ đang phục vụ, là chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam. Nhưng nếu thừa nhận điều này, họ sẽ bị mâu thuẫn nội tại giằng xé. Một bên là lương tâm, trách nhiệm, đạo lý, đạo đức làm người, khi thấy những tiêu cực, sai trái, bất bình phải tìm hiểu ngọn nguồn, tới gốc rễ. Khi đã tìm hiểu như vậy, khi thấy cái đúng, chân lý phải lên tiếng....một bên là cuộc sống, là tiền lương, là thu nhập. Và phần lớn họ lựa chọn sự an toàn cho bản thân và gia đình, bằng cách quay lưng lại với những nguồn thông tin vô cùng bổ ích, đúng đắn và lý thú. Họ từ bỏ những nguồn thông tin này cũng chính là từ bỏ việc tham gia và sử dụng facebooks, một công cụ vô cùng lý thú và tiện ích đối với mọi người dân.
     Nhưng có những khát vọng trong con người, có thể bằng cách này hay cách khác, lúc này hay lúc khác dập tắt hoặc quên đi mà nó vẫn tồn tại. Khát vọng hiểu biết, khát vọng tự thể hiện hay khát vọng tự do sẽ lại lôi kéo thành phần này vào vòng ảnh hưởng của facebooks. Người ta làm sao có thể chối bỏ mãi được những thông tin, những chia sẻ, những kiến thức và muôn vàn điều lý thú đang lướt đi trên hệ thống mạng xã hội hàng ngày hàng giờ. Chúng ta tin rằng, sẽ ngày càng có nhiều người vượt qua nỗi sợ hãi mơ hồ, hoặc thậm chí những rủi ro khi tham gia vào sân chơi facebooks, bởi vì đó là lời mời gọi từ sự kết nối, chia sẻ của nhận thức, của tự do và của cả tình người./.
Hà Nội, ngày 24/12/2015
N.V.B


VIETTUSAIGON * ĐÀN ÔNG VIỆT

Đàn ông Việt với quán nhậu, gái gọi và Tân Hiệp Phát


Đàn ông Việt Nam (ngoại trừ một số rất ít biết quan tâm đến xã hội, dân tộc, quốc gia) đã làm được gì sau khi đàn bà đã hy sinh quĩ thời gian quí báu, tuổi xuân để mà cán đán việc gia đình, cho người chồng, người con, thậm chí người em, người anh đi ra xã hội? Thật đáng buồn và xấu hổ khi phải nói rằng đại đa số đàn ông Việt Nam chỉ quan tâm đến tiền, quán nhậu và gái gọi! Câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát là một ví dụ điển hình.
Dựa vào cơ sở nào để nói rằng đại đa số đàn ông Việt Nam chỉ quan tâm đến tiền, quán nhậu và gái gọi? Và câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát (THP) cũng như vấn đề chính trị, xã hội Việt Nam có liên quan gì đến nhận thức, lựa chọn của đại đa số đàn ông Việt Nam?
Từ quyền chọn lựa, ý thức cá nhân
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, phải nói đến một vấn đề khác đáng xấu hổ hơn cho đại đa số đàn ông Việt Nam ăn hàng nhiều hơn đàn bà. Và có vẻ như đàn bà Việt Nam đã thay đổi thói quen, chuyện đi chợ, ghé siêu thị mua thực phẩm về nấu cho cả gia đình cùng thưởng thức đang là chuyện phổ biến của phụ nữ Việt Nam. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho phụ nữ Việt nhưng lại đáng xấu hổ cho đàn ông Việt Nam.
Bởi vì Việt Nam tuy là một nước có nền kinh tế èo ọp nhưng lượng bia rượu tiêu thụ mỗi năm nếu chia tổng số lượng tiêu thụ với bình quân đầu người thì có thể nói rằng Việt Nam nhậu thuộc vào hàng sư tổ của thế giới. Vui – nhậu, buồn – nhậu, có bạn mới – nhậu, đầy tháng con – nhậu, tao nôi con – nhậu, chó bị xe cán – nhậu, heo bị dịch – nhậu, con gà bị tai nạn vì chui vào lưới – nhậu, thằng bạn mới sinh được con trai nối dõi – nhậu, vợ thằng bạn mới lành bệnh – nhậu, thằng bạn li dị vợ – nhậu, mừng thằng bạn có vợ mới – nhậu, mừng có bài thơ đăng trên báo văn nghệ thành phố - nhậu, thậm chí giết cả con bò mời cả làng cùng nhậu vì có bài thơ đăng trên báo văn nghệ trung ương… Kính thưa các lý do để nhậu. Nói ra vài câu là thấy “bữa nào rảnh anh em mình cùng nhậu!”.
Hình như chữ nhậu đã gắn sẵn trên vùng ngôn ngữ của đại đa số đàn ông Việt Nam! Và hình như phụ nữ Việt Nam cũng đã quen chịu đựng với việc chồng đi nhậu tùy hứng, thậm chí bỏ bê công việc, nói không chừng, có nhiều trường hợp dù biết chồng nhậu xong rủ nhau đàn đúm gái gú, tìm ca-ve nhưng vẫn làm thinh cho xong chuyện. Bởi nói có khi bị đánh đập hoặc bị cắt “viện trợ” hằng tháng, con cái không có tiền mà ăn học. Và có lẽ cũng chính vì sự bất công này mà đa số các chị em phụ nữ ở chợ lại am hiểu về chính trị hơn cánh đàn ông ở các quán nhậu.
Đi bất cứ khu chợ nào cũng có thể nghe các bà bàn tán về chuyện Trung Quốc xâm lược, các phố Tàu ở Đà Nẵng, Bình Dương, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Tây Nam Bộ… Hầu hết các câu chuyện này đều là của chị em phụ nữ ngồi “tám” với nhau ở các chợ. Ngược lại, cánh đàn ông, đại đa số nhậu với nhau xong, nếu có yêu nước thì cũng yêu nước trên bàn nhậu, nói dóc năm điều bảy chuyện, bình luận đủ điều về chính trị… Nhưng sau bữa nhậu, vấn đề họ quan tâm là tiền đâu để chiều nay, chiều mai nhậu tiếp, chỗ karaoke Cẩm Tú, Cẩm Li, Cẩm Kì, Cẩm Cọ… có mấy em chân dài bốc lửa, giá cũng được… vân vân và vân vân…!
Và nói về chuyện ăn hàng, có lẽ ít ai ăn hàng như các ông nhậu, chỉ cần nhìn thấy bà bán chả đi ngang qua thì cách gì cũng làm vài cây lót bụng trong lúc chờ mồi, thấy lạc rang đi qua cũng làm một bao ngồi nhâm nhi đưa cay, me xoài cóc ổi bán chạy nhất, được lãi nhiều nhất cũng nằm ở các quán nhậu chứ không phải ở chợ. Nói đến chuyện này thật là ốt dột cho cánh đàn ông, đặc biệt là cánh đàn ông trẻ chưa có sự nghiệp và thừa thời gian, thừa hèn nhát nhưng lại thiếu tri thức, thiếu hiểu biết chính trị và thiếu cả lòng tự trọng cũng như ý thức cá nhân.
Sở dĩ đàn ông Việt, đại đa số ra nông nổi như đang thấy phải nói rằng do họ chưa kịp hoàn hồn sau quá trình kinh tế tập thể, tập trung bao cấp thì lại ngoi ngóp trong cái thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì sao lại nói rằng nguyên nhân của hèn nhát, thiếu hiểu biết chính trị, thiếu tự trọng và thiếu ý thức cá nhân là do nền kinh tế xã hội chủ nghĩa?
Bởi lẽ, chính cái nền kinh tế tập trung bao cấp, không có sở hữu tư nhân một thời rồi sau đó mạnh thằng nào thằng nấy vơ cào, tư túi dưới ánh sáng định hướng xã hội chù nghĩa của một thị trường kinh tế hỗn loạn, cá lớn nuốt cá bé đã lấy mất dũng khí cũng như ý thức tư hữu, quyền cá nhân của đại bộ phận đàn ông, những người chủ chốt trong vấn đề nuôi gia đình. Thậm chí có những thằng đàn ông đổ liều, chấp nhận dùng năng lực dưới lưng quần vợ để nâng cao địa vị, sự nghiệp tổ tiên và xem đó là điều hiển hách. Chuyện này không hiếm trong nền chính trị Việt Nam hiện tại. Và cũng không hiếm những thằng đàn ông moi trộm tiền vợ để đi chơi với gái…!
Đến tính vong thân, vong tộc…
Tất cả những thứ đó đều là biểu hiện của một dân tộc đang đi đến chỗ đánh mất nhân phẩm, đánh mất lòng tự trọng, đánh mất ý thức về bản thân. Và một khi ý thức về bản thân không có thì quyền lựa chọn cá nhân, quyền phát biểu những gì mình đã lựa chọn hoặc quyền khước từ hầu như không còn. Cũng chỉ có Việt Nam mới có câu chuyện THP đã nhiều lần phạm lỗi với khách hàng, có quá nhiều sản phẩm lỗi mà họ vẫn ngang nhiên ‘làm từ thiện’ đánh bóng tên tuổi, ngang nhiên tung sản phẩm và ngang nhiên gài thế đẩy những nạn nhân của họ vào chốn lao lý.
Bởi nếu ở các nước tiến bộ, người tiêu dùng coi trọng bản thân, coi trọng sức khỏe và nhân phẩm của họ thì họ đã khai trừ bất kì hãng sản xuất nào có sản phẩm không đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng. Và họ sẽ kiện đòi bồi thường cho dù chưa dùng sản phẩm mà chỉ mới mua về nhưng phát hiện nguy hiểm. Bởi lẽ, nền pháp lý của những nước đó không những chặt chẽ mà còn đề cao nhân phẩm, giá trị của cá nhân. Chính vì có được hệ thống luật pháp coi trọng và bảo vệ cá nhân nên công dân sẵn sàng đi kiện, sẵn sàng đối mặt với sự thật.
Ngược lại, ở Việt Nam, trong trường hợp này nếu đi kiện thì mất tiền án phí mà có thể mất cả mạng sống bởi xã hội đen hỏi thăm, cuối cùng cũng không được gì. Nếu gọi điện cho công ty bán sản phẩm lỗi thì họ có thể gài bẫy và tống vào tù… Trường hợp con ruồi THP là một điển hình. Và sở dĩ THP có thể cậy quyền cậy thế để làm mưa làm gió bấy lâu nay là vì đa số người Việt, đặc biệt là đàn ông Việt không quan tâm đến pháp luật, chính trị, tình hình thế giới bằng quan tâm đến tình hình các quán nhậu, bia ôm, hớt tóc thanh nữ, các tụ điểm ăn chơi…
Và khi người ta không quan tâm đến bản thân, không quan tâm đến danh dự, không quan tâm đến giá trị cá nhân, giá trị cộng đồng, điều này cũng đồng nghĩa với việc người ta thây kệ ai chết mặc ai, miễn mình chưa chết, còn có cái để ăn chơi, sung sướng là đủ. Cũng chính thứ tâm lý kỳ quái này đã kết tạo thành một sinh quyển xã hội đầy tính vong thân, sợ quyền thế, sợ nói ra điều mình nghĩ. THP tồn tại được với hàng loạt sản phẩm hư hỏng mà vẫn không bị phá sản là nhờ vào thứ tâm lý này. Không riêng gì THP mà bất kì tập đoàn hay công ty ma mãnh nào cũng có thể dùng cái dù quyền thế của họ để đè người tiêu dùng, để nhân danh thứ này thứ nọ.
Ngay cả trong giới trí thức, giới luật sư vẫn không thiếu những luật sư khốn nạn hoặc không thiếu những nhà báo đầu chứa toàn nịnh bợ và sợ sệt. Một bài báo nói rằng “nếu khai trừ THP thì đó là một lựa chọn ngu ngốc” đã xuất hiện.
Điều này cho thấy tâm lý coi thường người tiêu dùng và lấy miếng ăn đe dọa người khác trong giới bồi bút vẫn còn nặng. Họ vẫn nuôi tâm lý khi lấy miếng ăn đe dọa, tỉ như nếu tẩy chay THP thì có hơn 50 ngàn con người sẽ đói khổ, thiếu việc làm… để phân tích. Trong khi đó họ chưa hoặc không bao giờ nghĩ tới chuyện đã bao nhiêu năm nay, có 50 ngàn con người đã sống trong một tập đoàn mà ở đó, sự giả dối, không đảm bảo chất lượng và tính thủ đoạn, đẩy người nghèo vào chỗ lao lý. Điều đó cũng đồng nghĩa với hơn 50 ngàn con người đã được nuôi trong bầu khí quyển tội ác, hưởng lợi trên tội ác. Và khi xóa sổ tội ác, đương nhiên cái thiện được mở cửa tự do trong mỗi người. Không có THP thì họ sẽ làm nơi khác…! Bởi nếu nghĩ được vậy và quyền cá nhân, quyền lựa chọn của người tiêu dùng được đề cao thì sẽ không bao giờ có những bài báo đại loại như thế.
Phong trào tẩy chay THP, nếu nói đúng bản chất, nó phát biểu lên tính coi trọng quyền của người tiêu dùng một cách mạnh mẽ nhất và nó cũng cho thấy nghĩa khí bảo vệ kẻ yếu đã trở lại. Đây là một tín hiệu mừng sau 40 năm ngủ quên của dân tộc.


SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

 

  Ngã Tư Quốc Tế


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình.

Thỉnh thoảng, tôi vẫn gặp phải một câu hỏi khó:
  • Thế những tác giả ngoại quốc ông thường đọc là những ai?
Tôi lí nhí:
  • Gần như chả có ai ngoài Kim Dung và Remarque. Lâu lâu tôi cũng có đọc Ernest Hemingway, Mario Puzo, Boris Pasternak, hay Solzhenitsyn thôi...
  • Úy Trời! Sao cũ mèm hết trơn vậy, cha nội?
  • Bị hồi đó, ở miền Nam, hầu hết sách của những tác giả này đều được dịch ra tiếng Việt.
  • Bộ không đọc được tiếng Anh, tiếng Pháp gì sao?
  • Dạ, ráng thì cũng được nhưng ... ngại lắm!

Nói nào ngay thì khi còn trẻ tôi cũng có ráng, với đôi chút làm dáng, khi vào cà phê Tùng với La 25ème Heure hay Of Mice and Men trên tay. Cái thời sung sức, và hơi nặng phần trang sức, này đã qua lâu lắm rồi. 

Cũng từ lâu lắm rồi, tôi đã thôi mặc áo quần từ tiệm giặt ủi, thôi soi gương, thôi chải đầu, và gần như chỉ đọc những tác giả đang sống ở Việt Nam: Nguyễn Quang Lập, Đinh Tấn Lực, Huy Đức, Tuấn Khanh, Huỳnh Ngọc Chênh, Cánh Cò, Nguyễn Ngọc Già, Trương Duy Nhất, Võ Thị Hảo, Đoan Trang, Huỳnh Thục Vy ...
Đọc họ rất “khoẻ,” trừ Nguyễn Ngọc Tư. Nhà văn này làm tôi hay bị ... mệt. Đang đọc phải bỏ ngang.
Bà hay đặt những vấn đề gây quá nhiều xúc cảm quá khiến tôi, đôi khi, cảm thấy bị chới với. Riêng bài này (“Có Còn Người Không?”) tôi đọc cho tới dòng chữ cuối vì nó quá ngắn, chưa kịp bỏ xuống thì đã tới câu kết mất rồi:
Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.
 Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi uống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũng có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằng bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc. Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc. Chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc. Em bé – con mồi sống không nói gì hết, mà tôi tưởng như nó hỏi, người ơi, người ở đâu?
 Tôi đã nhận được câu hỏi đó bao nhiêu lần trong đời? Không đếm được. Có đứa thậm chí còn không khóc. Nó ngủ mềm oặt, xanh rớt trên tay người đàn ông ngồi ở một góc đường. Một kiểu ngủ mụ mị vì tác dụng của thuốc. Buổi tối tôi đi qua chỗ đó và em lại hỏi bằng vẻ câm lặng im lìm. Như cái chết. Có còn người không?
 Đám đông không lên tiếng. Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào đưa cả hai con người rách rưới về, gạn hỏi coi có thật là cha con như gã đàn ông phân trần, hay chỉ là kẻ chăn dắt với con mồi. Em bé ngủ vì thuốc ngủ hay vì sốt cao? Em cần một mái ấm hay một bệnh viện cho qua cơn đau? Bàn tay mỏng đó không quá khó để người đời nắm lấy. Nhưng dòng người lũ lượt không ai dừng lại.
Chính xác là cũng có người bước tới cho vào cái ca nhựa bạc màu chút tiền lẻ, nghĩ sau đó mình sẽ nhẹ lòng. Tôi cũng vậy, tự lừa mình. Và cái góc đường trước Trung tâm văn hóa thông tin ám ảnh tôi dai dẳng dù em bé chỉ ở lại hai đêm rồi biến mất. Cuộc ra đi gây bất an hơn cả khi xuất hiện, bởi linh cảm em lại vạ vật ở một góc đường khác, bị nhấn chìm trong giấc ngủ khác. Ngủ là một cách hỏi, người đâu mất rồi?
 Cũng như những em bé ăn xin mà bất cứ ai cũng có thể gặp một đôi lần trên đất nước này, chúng gọi con người bằng nhiều cách, bằng ánh mắt thất thần, bằng vẻ ngoài trần trụi và lem luốc, bằng tiếng khóc, tiếng hát, bằng bàn tay bẩn thỉu xòe ngửa, bằng những vết thương bầm tím trên da thịt… Ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…
Và những đứa trẻ đường phố vẫn tồn tại, như một phép thử.
 Thử coi người ta bất lực, rụt rè, ngại khó bao nhiêu? Bao nhiêu người đã từng đi qua, chứng kiến những thân phận nhỏ bé khốn khổ. Dù ngoái lại, dù áy náy, dù thấy thương và bất an… nhưng chậc, mình lại phải đi rồi… Họ không làm gì mà kêu mấy ông nhà nước làm gì đi chớ…
nh: Dân Trí
Tôi không thể đoán được “cái góc đường trước Trung Tâm Văn Hóa Thông Tin” của Nguyễn Ngọc Tư nằm trong cái thành phố nào, ở đất nước mình. Tôi đã đành đoạn quay lưng, bỏ cái quê hương khốn khổ của mình đi biền biệt từ lâu lắm rồi. Người xưa, cảnh cũ đều đã trở thành nhạt nhoà và phai mờ hết ráo.
Tôi hiện đang ở một đất nước khác. Chỗ tôi tạm cư có tên là Silicon Valley  (hay còn gọi là Thung Lũng Hoa Vàng) nơi có vài chục sắc dân cùng ở bên nhau, cùng chia sẻ một cuộc sống an bình và phú túc. Những đứa bé ăn xin “trần trụi, lem luốc “vớinhững vết thương bầm tím trên da thịt” – tất nhiên – không thể hiện hữu ở một chốn văn minh như thế.
Tuy thế, từ cái Ngã Tư Quốc Tế này (hàng ngày) tôi vẫn nhìn thấy “ánh mắt thất thần ...chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc” của vô số trẻ thơ – qua những phương tiện truyền thông.


Trẻ con Bắc Hàn. Nguồn nh: VOA
Từ đây, tôi cũng nhìn thấy hàng trăm người đã mang thân mình làm đuốc, với hy vọng gây được sự chú ý của nhân loại về thảm kịch bị mất quyền tự chủ và nguy cơ bị đồng hoá của dân tộc họ.






Và cũng từ cái Ngã Tư Quốc Tế này – thỉnh thoảng – tôi vẫn được xem một cái thư kêu cứu, gửi từ những trại tù của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Nơi còn có tên gọi khác là Trung Quốc Đại Lục, hay Trung Cộng.
Thư sau được đăng tải trên New York Times, vào ngày 11 tháng 6 năm 2013, rồi được phổ biến rộng rãi khắp nơi, kể cả những trang tiếng Việt: 


Bức thư được viết với những dòng chữ tiếng Anh nguệch ngoạc trên một tờ giấy mỏng và người viết nói rằng ông bị giam giữ tại một trại cải tạo lao động ở thị trấn phía Đông Bắc Trung Hoa. Ông cho biết ở đó các tù nhân phải làm việc vất vả bảy ngày một tuần, 15 giờ trong ngày họ bị ám ảnh về sự giám sát ác nghiệt của bọn cai tù tàn bạo.
“Quý vị: Nếu quý vị thỉnh thoảng mua sản phẩm này, xin vui lòng chuyển thư này đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới.
 Đó là một đọan trong bức thư được nằm giữa hai ngôi mộ đá giả, nó rơi ra khi bà Julie Keith mở chiếc hộp trong phòng khách nhà bà vào tháng 10 năm ngoái. "Hàng ngàn người tù ở đây, những người đang bị nhà cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Cộng hành hạ, sẽ tri ân và nhớ đến quý vị mãi mãi.” (Đằng Sau Tiếng Khóc Kêu Cứu Từ Trại Cải Tạo Lao Động Trung Quốc" - "Behind Cry for Help From China Labor Camp". Như Ngọc chuyển ngữ).
Thư kế tiếp theo xuất hiện trên tờ Belfast Telegraph vào ngày 26 tháng 6 năm 2014. Qua ngày hôm sau trang web của Time đã có bản tin (“Another SOS Note From China Has Been Found In a Piece of Store-Bought Merchandise”) với đầy đủ những chi tiết cần thiết:




 “SOS! SOS! SOS!... We are prisoners in the Xiang Nan Prison of the Hubei Province in China. Our job inside the prison is to produce fashion clothes for export. We work 15 hours per day and the food we eat wouldn’t even be given to dogs or pigs. We work as hard as oxen in the field.”
(SOS! SOS! SOS!... Chúng tôi là tù nhân tại nhà tù Xiang Nan ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Công việc trong tù của chúng tôi là sản xuất quần áo thời trang đem xuất khẩu. Chúng tôi làm việc 15 tiếng một ngày, thực phẩm chúng tôi ăn thì đến chó và lợn cũng không thèm ăn. Chúng tôi phải làm việc nặng nhọc như trâu bò ở ngoài đồng. Dương Long chuyển ngữ).
Những tiếng kêu cứu thảm thiết như trên, tuy được nhanh chóng phổ biến khắp mọi nơi nhưng rồi đều rơi ngay vào quên lãng, tựa như những viên sỏi nhỏ ... rơi tõm xuống một cái ao bèo! Thái độ của cư dân nơi những cái Ngã Tư Quốc Tế, buồn thay, cũng (hờ hững) y như cái đám đông ở góc đường trước Trung Tâm Văn Hóa Thông Tin – gần nhà Nguyễn Ngọc Tư – thôi.
Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào bận tâm cả. Nhân loại (chắc) cũng có ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…  ráo!
Đã thế, ở nhiều nơi, những kẻ nhởn nhơ ăn mòn tấm thân của hàng triệu nạn nhân (khốn khổ) còn được long trọng đón tiếp nữa cơ:
-RFA: Chủ tịch Trung Quốc phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
-RFI: Luân Đôn Trải Thảm Đỏ Đón Chủ Tịch Trung Quốc.
--BBC: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới Anh trong chuyến thăm bốn ngày mà Thủ tướng Anh David Cameron gọi là 'kỷ nguyên vàng' trong quan hệ hai nước.

Photo: Arthur Edwards
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình. Cái tốt sao mà nhỏ nhoi, lẻ loi, yếu đuối, cô đơn vậy. Công lý sao mà chậm chạp, nhợt nhạt vậy – hả Trời?

Nguồn: UK Times

 

 



NGUYỄN THIÊN - THỤ * ĐẶC TÍNH VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU HIỆN ĐẠI



 
               ĐẶC TÍNH VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU HIỆN ĐẠI
                                               NGUYỄN THIÊN - THỤ 

 Văn chương truyền khẩu hiện đại có một sức sống mãnh liệt và mang nhiều màu sắc. Chúng ta thấy có bốn tính chất:


-Tính chiến đấu
-Tính trung thực
- Tính châm biếm
-Tính bi đát.


I. TÍNH CHIẾN ĐẤU


Văn chương truyền khẩu hiện đại là vũ khí của nhân dân bị áp bức chống cộng sản độc tài, tham nhũng và tán ác. Nhân dân ta chỉ trích từ các thần tượng cho đến những cán bộ, công an và các xã viên HTX trong guồng máy cộng sản. Cộng sản ca tụng Marx, Lenin, Stalin nhưng dân Việt Nam kết án họ:

`Cộng sản ở tại nước Nga,
Chính danh thủ phạm tên là Lê nin. 

 
Họ kết tội Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và bọn Tố Hữu đã làm dân chúng đói khổ:


Ông Hồ, ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân mình lầm than ! 

 
Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng đều bị điểm mặt chỉ tên:

-Ba muơi năm chinh chiến, Võ đại tướng nay không còn nguyên giáp

Hồ chủ tịch, một cuộc đời cách mạng, giờ hết cả chí minh!
 
- Bác Nguyễn Lương Bằng, cả nước ít người lương bằng lương bác,
Ông Tôn Đức Thắng, trên đời nhiều kẻ đức thắng đức ông! 




.Nhân dân đã chỉ trích các chính sách của cộng sản:


(1)-Cộng sản gây chiến:


Trời sinh cộng sản làm chi,
Bắt dân ta phải ra đi chiến trường.
Tuổi trẻ nát thịt tan xương,
Tuổi già tải đạn, tải lương đêm ngày.



(2)-Cộng sản nịnh hót tư bản:


Ngày xưa chửi Mỹ hơn người,
Ngày nay theo Mỹ chẳng ai bằng mình.

-Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống cửa rước ngay Mỹ vào!

(3)-Cộng sản bất công, thối nát:


Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no.
Thằng bò thì sướng.
Thằng bướng thì chết,
Thằng bết thì tôn,
Thằng khôn thì đập.


-Nhất thân, nhì thế, tam tiền, tứ chế.


(4)-Chính sách trí thức hóa vô sản:


Cộng sản ghét trí thức bởi vì trí thức hiểu biết, không dễ bị lường gạt. Nhưng chúng vẫn khoái nhãn hiệu trí thức, chúng dán nhãn hiệu này cho chúng và con em chúng. Do đó, họ mở các lớp bổ túc văn hóa, đào tạo tại chức để phong kỹ sư, cử nhân, bác sĩ, phó tiến sĩ và tiến sĩ cho cán bộ và đảng viên nòng cốt. Việc này chỉ là làm hình thức, vì vô sản thất học lại lớn tuổi, đâu có trình độ để học. Ngày nay, tiến sĩ giả xuất hiện đày rẫy trong mọi cơ quan cộng sản. Kết quả nền giáo dục giả dối này, dân chúng nhận định: Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức!


II. TÍNH TRUNG THỰC


Văn chương truyền khẩu hiện đại phản chiếu trung thành thực tại xã hội. Có những truyện do nhân dân sáng tạo, và cũng có những truyện rất thực. Dù là sáng tạo nó vẫn nói lên những thực tại đau khổ của nhân dân và hành vi gian ác, sa đọa của cộng sản. Một số truyện nói thẳng, tố cáo thẳng, không nói quanh co, xa gần.


(1)-Nông dân bị bóc lột:


-Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà, lát sân.
- Một người làm việc bằng tư,
Để cho cán bộ tiền dư thóc thừa.

(2)-Trí thức nghèo khổ:

-Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà đài,
Bốn nhà cọng lại bằng hai nhà nghèo.


(3). Bất công, vô pháp luật:


Ăn cắp một đồng,
Thì gông vào cổ
Ăn cắp hàng tỷ,
Xử lý nội bộ.



III. TÍNH CHÂM BIẾM

(1). Cộng sản tham tiền:
Những điều tuyên bố dân chủ, công bằng là xảo trá. Chế độ cộng sản đã đưa người nghèo và vô học lên nắm quyền cho nên lòng tham càng mau chóng phát triển. Xã hội cộng sản suy đồi hơn là xã hội quân chủ và tư bản. Khi chưa nắm quyền, cộng sản đã tô vẽ một thiên đường, nào là công bằng xã hội, cơm áo no đủ, tận diệt nạn người bóc lột người, vàng chỉ để lót cầu tiêu. Ngày nay, cộng sản gộc đã trở thành tư bản đỏ, đồng đô la, vàng đã trở thành mục tiêu phấn đấu của người cộng sản. Từ đảng viên trung ương cho đến địa phương, từ cán bộ cho đến quần chúng đều tôn thờ đồng tiền, chạy theo lợi nhuận:


-Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật tuổi trẻ
Là sức khoẻ tuổi già.
Là cái đà tiến thân,
Là cán cân công lý.
Tiền! Hết ý


- Bảng đỏ sao vàng,
Sang giàu bỏ đảng. 





Chuyện Thăm lăng Bác được kể như sau :
Một thương gia ngoại quốc tới Hà Nội để lo việc kinh doanh.Thương gia đó mãi lo các thủ tục giấy tờ, cho đến lúc gần phải lên đường về nước, mà lúc ấy đã năm, sáu giờ chiều, các cơ quan đã đóng cửa, mới nhớ ra mình đã quên một điều khá quan trọng là phải đi thăm lăng Hồ chủ tịch. Ông bèn than thở cùng các nhân viên khách sạn, thì được họ mách nuớc : Đừng lo! Ông cứ dúi cho họ vài đô la là xong '. Ông khách ngoại quốc nghe lời bèn chỉnh tề y phục ra thăm lăng Bác. Đến nơi thì hết giờ du khách thăm viếng, cửa lăng đã đóng. Ông khách bèn gặp người gác cổng và nói :' Tôi rất kính yêu bác Hồ vĩ đại, nay vì quá bận việc nên tới trễ, xin đồng chí vui lòng cho tôi vào thăm bác.' Đồng chí gác cổng mặt sắt đen sì, xua đuổi khách :" Hết giờ làm việc, mai đến! " Ông khách sực nhớ lời khuyên của nhân viên khách sạn, bèn rút ra 5 đô la trao cho đồng chí bảo vệ. Đồng chí bảo vệ liền đổi thái độ hỏi :
"Ông muốn vào trong hay muốn tôi lôi bác ra đây cho ông xem ?" 
 

(2)-Thối nát, bất công, cá lớn nuốt cá bé.
Một công ty xây dựng quốc doanh xây xong một tòa building 5 tầng cho nhân dân và cán bộ ở. Công ty xây xong, bộ xây dựng bèn cử cán bộ đến thanh tra để nghiệm thu. Sau khi xem xét mọi mặt như xi măng, thép, sơn, gỗ ...cán bộ thanh tra rất hài lòng. Nhưng có một điều làm thanh tra khó nghĩ, đó là mọi tầng lầu đều không có cầu tiêu dù là cầu tiêu công cọng. Lẽ nào kiến trúc sư hoặc nhà thầu lại bỏ quên một điều quan trọng như thế? Viên thanh tra bèn mở một cuộc họp yêu cầu công ty xây dựng trả lời.Viên cán bộ đại diện công ty xây dựng bèn giải thích : 'Tòa nhà có 5 tầng lầu. Tầng thứ nhất dành cho học sinh mẫu giáo. Các em mẫu giáo ngồi bô cho nên không cần cầu tiêu.Tầng thứ hai dành cho nông dân, mà nông dân thiếu phân canh tác phải ra đồng ngồi để lấy phân bón cây cho nên không cần cầu tiêu.Tầng thứ ba dành cho công nhân, mà công nhân đã sử dụng cầu tiêu xí nghiệp rồi. Tầng thứ tư dành cho cán bộ trung cấp, mà các đồng chí này thường ăn phân, ăn bẩn cho nên không cần cầu tiêu.Tầng thứ năm dành cho cán bộ cao cấp, mà những đồng chí này thường ị lên đầu đàn em, cho nên cũng không cần cầu tiêu.'

(3). Lãnh đạo cộng sản vô học:

Truyện Người bạn học của Tổng bí thư. 

 Một hôm, có một vị khách ăn mặc sang trọng, mắt đeo kính trắng gọng vàng, tay xách cặp da, đến văn phòng Tổng bí thư xin gặp mặt. Nhân viên văn phòng hỏi giấy chứng minh nhân dân, thư giới thiệu, rồi hỏi lý do xin gặp mặt Tổng bí thư.
Khách đáp khách là bạn thân của Tổng bí thư, lâu ngày không gặp, nay tới thăm cho thỏa lòng thương nhớ.
Nghe khách nói xong, viên sĩ quan An Ninh ở trong văn phòng liền hô an ninh bắt trói vị khách và tống giam ngay lập tức. Hôm sau, báo Công An, Nhân Dân và Quân Đội đều đưa tin rằng cán bộ An Ninh đảng ta đã bắt được một tên CIA xâm nhập văn phòng để ám sát Tổng bí thư kính yêu của đảng và Nhân dân ta. Các thông tín viên trong và ngoài nước đến phỏng vấn:
-Tại sao đồng chí biết ngay tên ấy là CIA?
-Bọn đế quốc ngu dốt, chẳng biết gì cả. Đồng chí Tổng bí thư ta có đi học ngày nào đâu mà có bạn học!


Về nghệ thuật, phần lớn trình bày theo lối văn chương bóng bảy với ý tưởng sâu xa, kín đáo. Trong tính trào phúng này còn có một chút dâm tính theo truyền thống truyện tiếu lâm Việt Nam.
Tại miền Bắc, thời kỳ chiến tranh, cộng sản bắt dân nộp thuế, lại thu mua lúa gạo vẫn chưa đủ, họ còn ép dân phải bán tất cả khoai, sắn, bắp, đậu mà họ gọi là '' nông sản phụ''. Cán bộ đi khắp nơi tuyên truyền chính sách này. Họ vào cả ''xưởng đẻ'' vận động quần chúng. Bọn cán bộ nói ngọng, n và l lẫn lộn. Vì vậy, khi nghe cán bộ nói ba hoa về thu mua '' nông sản phụ'' một bà phát biểu:

-Đảng cần thu mua thì chị em phụ nữ chúng tôi xin tuân lệnh. Chỉ xin dùng kéo đừng nhổ tay đau lắm! ( Theo Truyện Cười Trà Lũ)


Truyện sau đây cũng vậy, dùng tiếu lâm, mang chút tính dục để cười cợt tệ nạn tôn sùng lãnh tụ:
Một cố vấn Liên Xô qua Việt Nam công tác, được đảng và chính phủ Việt Nam cho đi nghỉ mát Đồ Sơn để bồi dưỡng. Đảng cho một nữ cán bộ trợ lý thuộc bộ ngoại giao cùng đi để săn sóc và thông dịch cho đồng chí. Nữ đồng chí từng đi Liên Xô, Đức nên rất thông thạo đường lối ăn chơi Tây phương. Khi vào nhà khách, cả hai thoát y. Đồng chí cố vấn thấy hai bên đùi của nữ đồng chí bên này xâm hình bác Hồ và bên kia xâm hình cụ Mác. Vị cố vấn liền nịnh đầm một phát:


-Đồng chí có nhiều biểu hiện tốt, có lập trường giai cấp, lại có trình độ chính trị cao.
Thấy cố vấn Liên Xô chăm chú nhìn đùi mình, nữ cán bộ đáp:
- Em là đảng viên mà! Bất cứ ở đâu, và lúc nào, em cũng là một đảng viên gương mẫu, luôn theo gương Mác và Hồ Chủ tịch. Vậy đồng chí thích Mác hay bác Hồ?
Đồng chí cố vấn chỉ vào các hình và nói:
- Mác và bác Hồ là hai nhà cách mạng vĩ đại của cộng sản quốc tế, nhưng tôi thích hình đồng chí Fidel Castro ở giữa hơn!\

(4).  Chế độ thối nát, phản dân hại nước, chủ nghĩa cộng sản thất bại:
 

-Một năm ba thước vải thô,
Lấy gì che kín cụ Hồ hỡi em!

-Nhà thơ thì làm kinh tế,
Quan thống chế thì đi nạo thai!

-Ngày xưa đại tướng công đồn,
Bây giờ đại tướng bịt l... chị em!
-Ngày xưa đại tướng cầm quân
Bây giờ đại tướng cầm quần chị em!
-Ngày xưa đại tướng cầm quân,
Bây giờ đại tướng cầm chân đàn bà!

-Lenin ông ở nước Nga,
Cớ sao ông đến vườn hoa xứ này? Ông trợn mắt, ông chỉ tay.
Sự nghiệp quá độ chúng mày còn lâu


-Ông Lê Nin ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này
Ông vênh mặt, ông chỉ tay:
Tự do hạnh phúc chúng mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bảy mươi năm lẻ có ra đếch gì!



IV. TÍNH BI ĐÁT

Văn chương truyền khẩu nói lên thực trạng bi đát của nhân dân Việt Nam bi tù đày, chém giết và đầy vào chiến tranh phục vụ đế quốc Trung Cộng.



Trên đường Trường Sơn


Một anh chàng Nam Bộ nhỏ con, ốm yếu nhưng lại muốn chứng tỏ mình mạnh khoẻ, hăng hái, và tiên tiến, xứng đáng là đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản. Anh xung phong đi B ( vào Nam), và tình nguyện vác một cây trung liên rất nặng, quá sức của anh. Đi được một tuần, anh đuối sức, cứ té lên, té xuống hoài! Vạn bất đắc dĩ, anh trình bày cùng cấp chỉ huy, xin giao cây trung liên cho người khác. Anh trung đội trưởng hỏi khắp trung đội ai có thể vác cây trung liên, nhưng mọi người đều im lặng vì ai phải mang nặng trong khi bị bệnh sốt rét và đau chân. Anh trung đội trưởng đành bảo anh chàng vác trung liên:

-Tại sao đồng chí không liệu sức, vác nặng làm chi cho đến nỗi kiệt sức? Bây giờ lại gây khó khăn cho người khác! Anh em ai cũng mệt và bị bệnh. Thôi, đồng chí cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đã hứa với đảng.



Hôm đó mưa như trút, trời tối đen, người đi sau không thấy người đi trước. Đột nhiên, cả đoàn nghe một tiếng bịch rất lớn và một tiếng kêu la thảm thiết. Cả đoàn dừng lại, soi đèn pin thì thấy anh chàng vác trung liên đã quỵ xuống, khẩu trung liên đè lên người, mặt nhăn nhó ra vẻ đau đớn lắm. Hai mắt nhắm nghiền, nước mắt ứa ra. Miệng anh ta thều thào:

Má ơi! Con đã về!

Nói xong, anh buông tay, đầu vẹo một bên và tắt thở! ( Theo Xuân Vũ) 




Trăm  tội chỉ vì  chiếc đồng hồ

          Một đám dân chúng và cán bộ, công nhân viên bị giam trong cùng một phòng. Họ hỏi nhau:
- Anh bị tội gì mà vào đây?
-Chỉ vì cái đồng hồ.
- Tại sao?
- Tôi lười vặn đồng hồ lên một giờ, cứ xài giờ cũ, nên bị kết tội là chưa dứt khoát với chế độ cũ.
- Còn anh?

Anh thứ hai đáp:
- Cũng tại cái đồng hồ. Nhà tôi hết gạo, tôi phải đi giật đồng hồ, bị bắt quả tang.
Anh thứ ba kể:
- Tôi bị giam cũng vì chíếc đồng hồ. Tôi dùng đồng hồ Liên Xô nên đi trễ mười phút, bị thủ trường cơ quan kết tội ăn cắp giờ nhà nước, phá hoại sản xuất.
Anh thứ tư than:
- Tôi dùng đồng hồ Trung Quốc, chạy nhanh mười phút, nên đến cơ quan sớm mười phút, bị kết tội làm gián điệp và toan tính ăn cắp tài liệu mật và tài sản xã hội chủ nghĩa,
Anh thứ năm thở dài:
-Tôi thì tại dùng đồng hồ Thụy Sĩ tốt quá, nên bị kết tội theo tư bản chủ nghĩa.
Anh thứ sáu thong thả trình bày:
-Tôi làm thợ sửa đồng hồ. Trước cửa tôi vẽ chiếc đồng hồ và ghi hàng chữ:
''Tại đây chuyên sửa đồng hồ hư hỏng''.
Vì bảng nhỏ, tôi viết ''ĐỒNG HỒ HƯ HỎNG'' xuống hàng dưới và viết chữ hoa in. Công an kết tội tôi phỉ báng chủ tịch Hồ Chí Minh, thủ tướng Phạm văn Đồng và chống đảng nên nhốt tôi đã tám năm rồi!


Một số là truyện bi, vì kết thúc là đau buồn hoặc chết chóc.

 Sinh viên đại học Văn Khoa Sài gòn là Nguyễn Văn Hồng, đẹp trai, thích thể thao, yêu điện ảnh, nghe lời dụ dỗ của Việt cộng bỏ nhà, bỏ học, bỏ người yêu vào mật khu làm anh hùng. Trước đó, anh được cộng sản tuyên truyền rằng trong khu có đường sá xe cộ như Sài Gòn, có thư viện và các trường đại học như trường Văn khoa, Khoa học, Nghệ Thuật, và Điện ảnh. Trước khi vào khu, anh đã đưa ý nguyện là theo phục vụ cách mạng bằng ngành điện ảnh . Họ hứa hẹn đảng sẽ cho anh toại nguyện. Hồng nghe nói mà sướng mê tơi! Theo cộng sản chẳng bao lâu anh sẽ thành tài tử điện ảnh lừng danh quốc tế. Vào khu, không thấy đường sá, xe cộ, trường lớp mà chỉ thấy rừng xanh, anh lấy làm thất vọng. Người ta đưa anh vào trại tân binh. Anh chống đối vì anh đã nói là anh theo ngành điện ảnh chứ không muốn cầm súng! Đảng đưa anh lên gặp chính ủy, và chính ủy giải thích cho anh là làm việc gì cũng phải nhắm phục vụ cách mạng và lợi ích của đảng.



''Đâu cần thì thanh niên có,
Đâu khó thì có thanh niên.''
Thanh niên phải từ bỏ mọi sở thích cá nhân, vị kỷ, thấp hèn, và phải đặt tổ quốc lên trên hết. Song anh vẫn không tuân theo lệnh. Họ bèn đưa anh vào một đơn vị tân binh, nhưng suốt ngày tháng, họ thực hiện việc rút phép thông công, nghĩa là không ai nói chuyện với anh, anh hỏi gì, nói gì thì người ta làm thinh hoặc bỏ đi chỗ khác. Cuối cùng, anh chịu thua, xin ra trận. Nhưng trong chế độ cộng sản, sinh viên, trí thức mới vào lính là phải mang cấp bậc binh nhì. Trong đơn vị, nghe bọn cán bộ i tờ giảng giải, anh bịt miệng cười. Anh bị đem ra phê bình. Anh nghĩ rằng anh giỏi toán, xin đi pháo binh. Thấy anh xin đi pháo binh, họ chấp thuận, cho anh theo bộ binh vác pháo. Công việc nặng nề, anh chịu nhiều cay đắng vì biết mình bị cộng sản lường gạt và hành hạ. Đã thế, bọn cộng sản lại khuyên anh viết thư khuyên anh em vào khu chiến đãu. Anh đã lầm lạc và đau khổ, lẽ nào anh lại đem anh em vào địa ngục. Anh không viết thư cho nên bị phê bình và trừng phạt. Anh uất hận và chết trong một trận đánh ( Theo Kim Nhật, Về R).


Nhiều truyện mang đủ tính chất bốn tính chất trên như truyện sau đây:


Anh Thòong làm việc tại một HTX thuộc tỉnh Quảng Châu ( Trung Quốc), chuyên làm ruộng và chăn nuôi rất tích cực. Anh được vào đoàn viên thanh niên cộng sản, và được chi bộ cho phép kết hôn với một thiếu nữ khá xinh xắn. Đêm động phòng hoa chúc, anh tắt đèn và leo lên giường. Nhưng cô dâu ngăn lại, bắt anh quỳ xuống nâng quyển sách Đỏ của Mao chủ tịch đọc một trang. Chủ tịch dạy:
''Người cộng sản phải đặt nhiệm vụ tổ quốc lên trên hết và gạt mọi tình cảm cá nhân''.
Hai người vâng lời Mao chủ tịch, lên giường nằm ngủ, không nghĩ đến việc ân ái riêng tư. Đêm hôm sau, hai người cũng thử thời vận, cần sách Đỏ lâm râm khấn vái, bốc trúng trang:


Trong thời kỳ xây dựng XHCN, thanh niên nam nữ phải thực hiện chính sách ba khoan:
Lỡ quen nhau thì khoan yêu
Lỡ yêu nhau thì khoan cưới
Lỡ cưới thì khoan có con.

Các đồng chí phải nắm chặt hai điểm trên và nhấn mạnh điểm dưới.

Chị vợ cũng là một đoàn viên, rất tin tưởng Mao chủ tịch. Chị bảo:
-Mao chủ tịch đưa ra chính sách ba khoan, thôi hôm nay chúng ta khoan động phòng.
Anh chồng không chịu, bảo rằng :
-Mao chủ tịch nói phải nắm chặt hai điểm trên và nhấn mạnh điểm dưới, nghĩa là chủ tịch bảo tôi phải động phòng và làm theo kiểu nhân dân nước Mỹ tiến bộ!


Chị vợ cãi lại, cương quyết thực hiện ba khoan, anh chồng đành chịu thua. Đêm sau nữa, hai anh chị cũng mở sách Đỏ, và chủ tịch dạy:
Chúng ta phải tiến nhanh tiến mạnh , tạo ra những bước nhảy vọt lên XHCN.
Vâng lời Mao chủ tịch, hai người vội vàng tiến nhanh tiến mạnh, và thực hiện bước nhảy vọt. Nằm một hồi, người chồng lại mở sách Đỏ, và thấy Mao dạy:
Không được ngưnghỉ, Hãy liên tiếp tấn công như vũ bão để đạt lấy những thắng lợi cuối cùng..

Anh đọc to lời chủ tịch cho vợ nghe và cả hai bèn liên tiếp chiến đãu, giáng cho đối phương những đòn mạnh bạo chưa từng thấy. Nhưng lần cuối sức mõn, anh chẳng làm gì được. Anh lại mở sách Đỏ, thấy hiện ra lời Mao dạy:
Trong cuộc chiến đấu, dù là chiến đấu với địch quân hay giải quyết mâu thuẫn nội bộ, người đảng viên phải cương quyết cắt bỏ không thương tiếc những gì mềm yếu, và thoái hóa của bản thân mình.

Người chồng vội vàng đi ra nhà sau, xuống bếp lấy dao phay cắt ngay của quý quăng ra ao sau nhà!

Nói chung, văn chương truyền khẩu hiện đại rất phong phú, nhiều màu sắc, nhưng chủ yếu là chống cộng với nụ cười trào phúng. 


 

HUY PHƯƠNG = THICH THIỆN MINH = GIÁNG SINH

HUY PHƯƠNG * NỖI BUỒN CUỐI NĂM


Nỗi Buồn Cuối Năm, Nỗi Buồn Cuối Đời - Tạp Ghi Huy Phương



Câu chuyện đi thăm Tướng Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người khách thăm viếng. Nhưng ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách, trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.


Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.


Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.


Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già! Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.


Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.


Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.


Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!


Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.
Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?”Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.

Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?


Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.


Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.
Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.
Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.


Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.


Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!

Huy Phương

NHỮNG CHUYỆN HAY





Những Câu Chuyện Hay 

BẢO HIỂM

Chàng này ở Charlotte (NC) mua một hộp thuốc xì gà thuộc loại hiếm và quý nhất thế giới. Vì quá quý nên chàng mua bảo hiểm  để chống cháy hộp xì gà. Trong vòng một tháng, chưa trả tiền bảo hiểm tháng đầu, chàng ta đã hút sạch hộp xì gà. Thế nhưng  chàng ta khiếu nại với hãng bảo hiểm đòi bồi thường vì xì gà bị cháy hết. Trong đơn khiếu nại chàng ta ghi rõ bị "cháy liên tục bởi ngọn lửa nhỏ".


Hãng bảo hiểm từ chối bồi thường vì cho đó là tiêu thụ (consumed) chứ không phải cháy. Chàng ta thưa ra tòa và thắng kiện
vì quan toàn căn cứ vào bản văn của "policy" đã viết rõ là bảo hiểm "mất mát và bị cháy" mà bản văn không xác định rõ lý do  phải cháy như thế nào. Công ty bảo hiểm không muốn chống án vì sẽ tốn tiền hơn nên bằng lòng bồi thường $15,000 cho mớ xì gà bị cháy.

KẾT CUỘC :
Sau khi nhận được $15,000, chàng này chưa kịp xài thì bị bắt tống giam về tội đốt phá
(arson). Căn cứ vào lời khai của chàng ở phiên toà trước và theo văn kiện bảo hiểm, anh ta bị kết tội "có âm mưu tự phá hại tài sản của mình để lãnh bảo hiểm (intentionally burning his insured property)". Tòa phạt chàng ta [https:]24 tháng tù ở và $24,000 tiền phạt.

2.​2

CƯỚP NHÀ BĂNG

Chàng cướp này bước vào Bank of America ở San Francisco xếp hàng như mọi người chờ tới phiên giáp mặt với người phát ngân (teller). Trong khi chờ đợi chàng ta lấy một tấm "deposit form" viết mấy chữ: "Bỏ hết tiền vào bịch này nếu không tôi nổ súng". Sau đó anh ta lo ngại rằng có người nào đó trong hàng đã nhìn thấy những gì anh viết, họ có thể đi gọi cảnh sát rồi. Thế  là anh ta ra khỏi Bank of America và bước vào bank Wells Fargo bên kia đường. Chờ vài phút thì tới phiên, chàng ăn cướp liền  đưa mảnh giấy cho "teller" của Wells Fargo. Chị này đọc qua, trả lại cho hắn vừa chê hắn viết sai chính tả vừa bảo hắn rằng chị không thể đưa tiền cho hắn được vì hắn viết trên cái "deposit slip" của Bank of America. Bây giờ hắn phải viết lại trên "deposit slip " của Wells Fargo hoặc phải trở lại Bank of America.


Thấy rắc rối quá tên cướp liền trở lại Bank of America. Sau khi tên cướp đi rồi chị "teller" của Wells Fargo liền gọi cảnh sát.


KẾT CUỘC :
Chỉ ít phút sau tên định ăn cướp ngân hàng bị bắt trong khi đứng xếp hàng chờ trong Bank of America.

2.3
​ ​

TRỘM XE

Có một bà bị tên lưu manh nào đó "thổi" mất cái xe hơi. Bà báo cảnh sát và cho biết trong xe của bà có cái "cell phone".
Ngày hôm sau cảnh sát gọi số điện thoại đó và tên cướp xe trả lời. Cảnh sát liền phịa rằng đọc quảng cáo thấy anh ta bán xe nên muốn coi xe để mua. Tên trộm xe liền hẹn giờ giấc và địa điểm để mang xe đến.



KẾT CUỘC :


Xe được trả về cho chủ và tên thổi xe bị cho đi nằm ấp.​
​2.4​


40₤ & Vỏ quýt dầy móng tay nhọn
​(chuyện này ở Anh)​


Một chàng kia lái xe quá vận tốc giới hạn, vượt qua chỗ cảnh sát để máy rada và chụp hình tự động nên chàng ta không biết  là mình đã bị phạt. Ít ngày sau, nhận được bao thư của Sở cảnh sát, giở ra thấy có một vé phạt 40 mươi bảng Anh. Cảnh sát  còn cẩn thận gửi kèm bức ảnh xe của anh ta ở "phạm trường". Thay vì gửi tiền nộp phạt chàng này liền láo cá gửi nộp tấm hình  của 40 Anh kim mà thôi.

Ít ngày sau anh ta nhận được thư phúc đáp của sở cảnh sát, giở ra thì bên trong có bức hình của cái còng số 8.

 

KẾT CUỘC:

Anh ta nhanh nhẩu gửi tiền nộp phạt ngay lập tức.

​5

GIẬN QUÁ HÓA NGU​

Dennis Newton, 47 tuổi, ở Oklahoma City ra tòa về tội ăn cướp một tiệm chạp phô (convenience store) có vũ khí. Anh ta giận ông luật sư "chỉ định" (public defender) làm việc ấm ớ nên đuổi luật sư và tự biện hộ. Anh ta đã làm việc đó tương đối không có gì tệ cho lắm cho tới khi biện lý mời chị bán hàng tiệm chạp phô ra tòa làm nhân chứng để nhận diện một lần nữa. Sau khi nghe chị bán hàng xác nhận, Newton nổi giận đùng đùng chửi chị ta là quân nói láo và nói thêm: "Biết mi nói láo như thế thì
bữa đó tao bắn bể đầu mi cho rồi...".
 ​

Quan tòa và bổi thẩm đoàn được một trận cười bể bụng...


KẾT CUỘC:


Tự Dennis xác nhận là có sử dụng vũ khí... đành chịu tội.

2.


​6

HẠI BẠN

Có là hai chàng ăn cướp cũng ở Detroit vào tiệm kia ăn hàng. Tên thứ nhất quơ súng lên trời la lớn: "Đứng yên tại chỗ, không người nào được lộn xộn, nếu nhúc nhích sẽ ăn đạn". Khi mọi người đứng chết cứng không dám nhúc nhích thì tên cướp thứ hai chạy lại két tiền...


​ ​

KẾT CUỘC:


​ ​ Tên cướp thứ nhất bắn tên thứ hai một phát chết ngay và lẩm bẩm:

"Tao đã bảo không được nhúc nhích mà lại...".




​2.


​7


THẬT THÀ THẬT THỘN


Harold Russum ở San Francisco đã hai lần đi tù về tôi hiếp dâm vẫn không chừa mà lại còn ngu ngốc nữa. Theo lời kể của nạn nhân Joan, 26 tuổi, thì hôm đó, 29-4-2000, khoảng [https:]6 giờ chiều cô đang sửa soạn cơm tối thì bỗng nhiên nghe tiếng vỡ  của kính cửa sổ và anh chàng Harold hiện ra lừng lững giữa phòng khách. Harold chỉa súng ra lệnh cho Joan cởi quần áo ra.


Joan từ từ cởi quần áo và suy nghĩ cách thoát thân nhưng không nghĩ ra được cách gì trong trường hợp khẩn cấp này. Khi  tụt đến mảnh vải cuối cùng trên người, Joan liền tươi cười bảo tên cường đạo: "Anh trông cũng đẹp trai vừa ý tôi lắm.


Anh cần gì phải cưỡng hiếp tôi, tôi sẽ hiến dâng anh một buổi tối đê mê, nhưng tôi chưa ăn chiều vậy anh dẫn tôi đi nhà hàng làm một chầu rồi về mình tha hồ thư thả".
Chẳng hiểu sao Harold lại đồng ý để Joan mặc quần áo trở lại và hai người đến nhà hàng gần đó. Sau khi ăn xong, Harold gọi tính tiền, thì Joan xin lỗi, vào phòng vệ sinh. Trong phòng vệ sinh, Joan gọi ngay 911.

Khi Joan trở lại bàn với Harold thì hai cảnh sát viên cũng vừa tới...

​ ​

KẾT CUỘC:

​ Joan cho biết cô không thể quên được khuôn mặt của Harold  nó thộn ra và khó tả vô cùng..




THÚ VỊ BẤT NGỜ

MERRY CHRISTMAS AND HAPPY NEW YEAR
Thú vị bất ngờ

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố NewYork để trở về nhà. Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để giao lưu với nhau. Wendy hiểu được thuật ngữ ra dấu bằng tay vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật nên cô đã học được cách ra dấu tay để trò truyện với những người câm điếc.
Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo thuật ngữ này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã "nghe lóm" được câu chuyện của hai người. Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì "trả lời" là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái. Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay để "nói" trong câu chuyện của họ. Khi xe lửa đến trạm thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ email cho nhau.

Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò chuyện dùng tin nhắn của điện thoại di động rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau. Chàng trai kia tên là Jack và cô gái tên là Debbie. Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập khẩu và ở cách nhà Wendy không xa . Từ những tin nhắn điện thoại, email thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chổ trở thành bạn thân lúc nào không hay. Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi. Tuy phải ra dấu để trò chuyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện mà cô lại có dịp trau dồi "thủ thuật" để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu "I Love You" thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào chatroom đấu láo với bạn bè, mỗi khi Wendy đặt câu hỏi "Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?" thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát. Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu: "Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?" Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc nhưng sau đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong nội tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân. Quả nhiên cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái "lầm đường lạc lối" trở về. Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ có vận động tới để làm thuyết khách. Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack, cô còn cho mọi người biết là thái độ lạc quan, đầu óc thực tế, tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi hơn những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe giải bày đã không còn quá khắc khe phê bình, mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12 sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng. Wendy đã có quyết định trong đầu, nếu như cha mẹ, anh chị của cô có những cử chỉ, hành động khinh miệt Jack thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để nhờ sự gia ơn và chúc lành của Thiên chúa. Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack, anh mỉm cười ra dấu cho cô:
- Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.
Đó là lần đầu tiên trong đời cô sinh viên trường dược rơi những giọt lệ cảm động.
Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ, cô nói:
- Thưa ba má, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.
Câu nói của cô vừa thốt ra thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất, anh nhào tới ôm lấy cô vào vòng tay khỏe mạnh của anh. Một điều mà Wendy không thể ngờ được là cô bổng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:
- Trời đất, em biết nói à?
Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.
Mọi người ngoại cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.

GIAĨ THƯỞNG TRẦN VĂN BÁ:

GIAĨ  THƯỞNG  TRẦN  VĂN  BÁ:
http://www.tinhthantranvanba.org/index.php?option=com_content&view=article&id=232&Itemid=554
COMPASSION -VIETNAM  ỦNG  HỘ TT TTMINH
docu

Thư đề cử TT Thích Thiện Minh

tiếng Việt, Anh, Pháp và Đức

Tiếng Việt


Kính gửi Ủy Ban Giaỉ Thưởng " Tinh Thần Trần Văn Bá"Tôi xin đề cử Thượng Tọa Thích Thiện Minh vào giaỉ Thưởng cao quý này. TT Thích Thiện Minh qua 26 năm tù tội khắc nghiệt, vẩn một lòng vơí Lý Tưởng Quốc Gia và đem Phật Pháp dấn thân vào Đời, cứu khổ hàng trăm gia đình các Cựu Tù Nhân Chánh Trị và Tôn Gíao và các Thương Phế Binh-Việt Nam Cộng Hòa kém may mắn còn kẹt lại dươí ách CS.

Tuy mang nhiều chứng bệnh, nặng nhất là bán thân bất toại vaì năm trước, TT không ngại chia sẽ 1 ký gạo, 1 lon sữa đem đến tận nhà cho ba hay má của những ngươì tù chánh trị khọng may đã chết oan ức trong lao tù CS, hoặc mang những phần quà an uỉ ít oi để gíup các Cựu Tù Nhân Chánh Trị & Tôn Gíao và TPB-VNCH để mua thuốc...cho qua cơn nguy kịch trong khi đó bản thân Thượng Tọa cũng không đủ thuốc men và không có bảo hiểm y-tế vì CS không cho giấy thường trú ở Saìgòn !

Chùa bị tịch thu, không có Phật Tử gìau sang cúng dưòng, sợ áp lực của Côn An, nên chỉ vaì chục công nhân nghèo... tôí trên đường đi làm về ghé qua tụng kinh tại Tịnh thất nhỏ...chia nhau nôì cháo nóng trước khi được Thượng Tọa chăm cứu trị bệnh miển phí!

BS Phan Minh Hiển (Président de Compassion-Vietnam):
http://compassion-vietnam.monsite-orange.fr/index.html

Tiếng Anh


Dear Prize Committee "Mental Tran Van Ba"
I would like to nominate Venerable ThichThien Minh in this distinguished award. ThichThien Minh, through 26 years of imprisonment harsh, still holds a strong passion about a freedom of his country, and brings Buddhism to life, helps hundreds of families of the former political and religious prisoners, and wounded warriors of the former Republic Vietnam, who have less fortunate and been trapped under the communist regime. With many diseases, the most serious was paralyzed a few years ago, the Venerable does not mind sharing a kg of rice, or a can of milk directly to the door of the family having the unfortunate political prisoner who died unjustly in the communist prison, or brings a small amount of money to help the political and religious prisoners, and wounded warriors of the former Republic Vietnam to buy medicines while he has nothing for himself, no health insurance nor enough medicine because he is not granted for permanent residence in Saigon.
His Temple was confiscated, no donations were contributed to manage the small, temporary temple because of the threating from the cop, only a few dozen poor workers come to exercise their religions and share their food each other before the Venerable use an acupuncture treatment for free.
Dr. Phan Minh Hien ( Président de Compassion-Vietnam )

Tiếng Pháp


Au comité du Prix " La Flamme Trần Văn Bá "

J'ai l'honneur de vous proposer la candidature du Vénérable Thich Thiên Minh pour ce prestigieux prix. Malgré ses 26 années de détention dans le goulag vietnamien, le Vénérable Thich Thiên Minh reste fidèle aux idéaux de Liberté-Égalité-Fraternité. Il ne cesse de s'investir pour amener la Parole de Bouddha pour réconforter et aider financièrement des centaines de familles de prisonniers politiques et religieux, ainsi que des mutilés de guerre de l'ex-armée sudiste qui subissent encore le joug communiste à ce jour! Malgré une santé précaire avec beaucoup de maladies invalidantes, dont la dernière en date en 2013 est une hémiplégie, il partage volontiers 1 kilo de riz ou une boîte de lait lors des visites à un père ou à une mère dont le fils/ ou la fille est morte en détention dans des conditions atroces. Le Vénérable Thich Thiên Minh partage sans état d'âme ses maigres finances pour aider des ex-prisonniers politiques ou religieux, ou des mutilés de guerre sudistes dont l'état de santé se dégrade, alors que lui-même ne dispose pas suffisamment de médicaments pour se soigner! Sa pagode confisquée, sans riches fidèles pour les dons, sans cesse de la police.. il n'y a le soir que quelques dizaines de fidèles, pauvres ouvriers rentrant de travail qui partagent avec lui un maigre repas végétarien, avant de se faire soigner gratuitement par acupuncture..

DR Phan Minh HIÊN
Président de Compassion-Vietnam:
http://compassion-vietnam.monsite-orange.fr/index.html

Tiếng Đức


An die Preisverleihungskommission " Im Geist von Tran Van Ba "
Ich erlaube mir, den Obermönch Thich Thien Minh für diesen honorablen
Preis zu nominieren.
Trotz 26 Jahre im Gefängnis ist er nach wie vor unnachgiebig von dem nationalen Geist überzeugt und hat Buddha-Lehren in das weltliche Leben eingeführt und praktiziert mit dem Ziel, hunderten politischen sowie aufgrund
Religionsdiskriminireung in Haft genommenen Gefangenen samt deren Fami-
lien, hunderten Kriegsinvaliden der ehemaligen Republik Vietnam samt deren
Liebenden soviel wie möglich finanzielle und materiale Hilfe zu leisten, die unerklärlicherweise den Tod im Gefängnis hinnehmen mußten.
Mehrere Krankheiten, insbesondere vor einigen Jahren die Halblähmung, zum Trotz ist er jedoch niemals zurückgescheut vor der Tat, eine Handvoll Reis,
eine Dose Milch persönlich zu den Eltern der Mitgefangenen mitzubringen, die
bedauerlicherweise ihren Tod im Gefängnis nicht entkommen konnten.
All jene oben erwähnten Leute erhielten öfter eine kleine Spende von ihm zur persönlichen Benötigen z.B. Arznei- sowie Nahrungsmittel, während Obermönch Thich Thien Minh gesundheitlich nicht versichert ist, weil er keine Einwohnermeldebestätigung in Saigon besitzt und benötigt dringend denn je
auch Medikamente für sich selbst.
Pagode wurde konfisziert, keine Geldspende von wohlhabenden buddhistischen
Anhängern wegen Beobachtung von staatlichen Sicherheitskräften. Er konnte lediglich mit einer Almosen der armen Arbeiter rechnen, die auf dem Weg nach Hause vorbei an einer kleinen Andachtsstelle zum Sprechen von buddhistischen
Gebeten mit ihm eine kleine Portion warmer Suppe teilten, bevor sie von ihm kostenlose Akupunkturbehandlung erhielten.
Dr. med. Minh Hien Pham ( Président de Compassion-Vietnam )
Thượng Tọa Thích Thiện Minh, thế danh là Huỳnh Văn Ba, sinh năm 1955 tại Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
- Quy Y Tam Bảo năm 12 tuổi tại chùa Long Phước, phường 5, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, Bổn sư là HT. Thích Huệ Hà
- Xuất gia năm 14 tuổi, tại chùa Long Phước, vừa tu học vừa học thuốc Đông Y và Châm cứu, do Đông Y Sĩ Trần Bá Lân truyền dạy
- Năm 1972 TT.Thích Thiện Minh được bổ nhiệm về trụ trì chùa Vĩnh Bình, ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Tuổi rất còn trẻ đã thọ giới Sa Di nhưng chưa thọ Đại Giới Tỳ Kheo, vừa làm trụ trì vừa hốt thuốc Nam và Châm Cứu.
- Năm 1972 cho đến ngày bị cầm tù Cố Vấn thêm 3 phòng thuốc Từ Thiện, xem mạch, hốt thuốc Nam và Châm Cứu đó là:
- Chùa Vĩnh Bửu,(còn gọi là chùa Quan Đế) ấp Trà Văn, Châu Hưng, Bạc Liêu,
- Chùa Từ Quang, ấp 1, Cây Gừa, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai, Bạc Liêu và
- Chùa Khánh Lâm, xã Tuân Tuất, huyện Thạnh Trị, Sóc Trăng
-Trong thời gian nầy TT cùng HT. Thích Tịnh Hạnh, Chánh Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN ) tỉnh Hậu Giang vận động bảo vệ GHPGVNTN bởi chế độ Cộng Sản bắt đầu kỳ thị tôn giáo và âm mưu quản lý tôn giáo, cái gọi là "Ban Liên Lạc PG yêu nước do Mặt Trận Giải Phóng". T.T. điểu hành và giúp đỡ các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa trốn học tập cải tạo trong rừng.
-Năm 1977, TT.Thích Thiện Minh thọ giới Tỳ Kheo tại chùa Ấn Quang, do HT.Thích Trí Thủ làm HT Đàn Đầu, Phó Tăng Thống Đại Lão HT. Thích Hành Trụ làm Chứng Minh Đạo Sư, làm trụ trì được 7 năm.
- Ngày 28/03/1979, TT.Thích Thiện Minh bị CS bắt, can tội Âm Mưu Lật Đỗ Chính Quyền,vì cố vấn cho Tổ chức Mặt Trận Nghĩa Quân Cứu Quốc (Tổ chức gồm đủ mọi tầng lớp , nông dân, công nhân, trí thức và các cựu Dân Quân Cán Chính/VNCH gồm: Cán bộ xây dựng nông thôn, Biệt kích Mỹ(còn gọi City), An Ninh Quân đội, lính Sư đoàn 21(các vị này đa số trốn học tập cải tạo ở rừng U Minh) giam tại công an tỉnh Minh Hải.
-Năm 1981, TT.Thích Thiện Minh nhận bản Cáo sắc luật 03 khoảng A , án: tử hình T, gần tới giờ xử án, rất bất ngờ phiên tòa bị đình.
Ba tháng sau cùng năm 1981 nhận bản Cáo Trạng mới, Sắc luật 03, khoảng A+B, án Chung than.
-Năm 1983 TT.Thích Thiện Minh bị lưu đày từ Nam ra Miền Trung, tại trại giam A20, Xuân Phước, còn gọi là “Thung lũng tử thần” tỉnh Phú Khánh (Phú Yên +Khánh Hòa)
- Ngày 21/03/1987 TT.Thích Thiện Minh ra tòa thêm 1 án Chung thân, do tòa án lưu động tỉnh Phú Khánh, xét xử tại trại giam, can tội: Tổ chức cướp trại giải thoát tù nhân (gọi là Chống phá trại giam).
-Năm 1989 TT.Thích Thiện Minh chuyển từ trại A20 Phú Khánh về trại Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai cho đến ngày được trả tự do (ở trại Z30A 16 năm).
-Năm 1995 tại trại tù Z30A Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) TT.Thích Thiện Minh cùng anh em tù nhân đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù khăc nghiệt của nhà tù cộng sản, yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, bị biệt giam cùm hai chân trong xà lim gần 6 năm.
- Năm 2004, ông Abdel Fattah Amor, Đặc phái viên đặc biệt về Bất bao dung tôn giáo của LHQ đã đến thăm TT. Thích Thiện Minh tại nhà tù Z30A.
- Năm 2005, vào dịp Tết Ất Dậu, TT. Thích Thiện Minh được trả tự do nhờ vào sự can thiệp của LHQ, chính phủ các nuớc Hoa Kỳ, EU...và các tổ chức nhân quyền quốc tế.
- Ngày 27/01/2005 TT.Thích Thiện Minh được trả tự do theo quyết định số 109/QĐ/CTN của Chủ Tịch nước CHXHCNVN về đặc xá tha tù trước thời hạn, do sự can thiệp của LHQ và các tổ chức nhân quyền quốc tê, cùng chính phủ Hoa Kỳ, Châu âu....
- Tổng cộng ở liên tục 26 năm tù.
- Khi ra tù, ngôi chùa Vĩnh Bình (tỉnh Bạc Liêu) đã bị tịch thu, TT. Thích Thiện Minh về cư ngụ tại gia đình người em trai ở Bạc Liêu.
-Năm 2006, sau khi ra tù TT.Thích Thiện Minh tham gia tiếp tục Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất nhằm phục hoạt lại Giáo hội (GHPGVNTN) phụ trách Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Thanh Niên GHPGVNTN và Chánh Đai diện Miền Khánh Anh(Các tỉnh Miền Tây Nam Phần)kiêm Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Bạc Liêu.
-Ngày 19/ 11/2006, TT.Thích Thiện Minh thành lập Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Viêt Nam (Hội Ái hữu) và TT được bầu làm Hội trưởng, đây là tổ chức XHDS (độc lập) đầu tiên tại Việt Nam. Tính cho đến nay, Hội Ái hữu đã giúp tài chính và pháp lý cho hàng trăm Tù Nhân Chính trị và Tôn Giáo cũng như gia đình họ.
-Năm 2006, TT Thích Thiện Minh xuất bản quyển hồi ký "26 năm lưu đày" bằng tiếng Việt tại hải ngoại.
-Năm 2007 và 2008, TT. Thích Thiện Minh bị công an Việt Nam khám xét nhà nhiều lần, bị bắt giam ngắn hạn, bị tịch thu tài sản như tiền bạc, kinh sách, computer, máy in, điện thoại...đến nay công an vẫn chưa hoàn trả.
- Với công việc của Tổng vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên GHPGVNTN và Hội truởng Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Viêt Nam từ năm 2007 cho đến nay, TT.Thích Thiện Minh thường xuyên giúp đỡ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa và Tù nhân Chính trị/Tôn giáo, cứu trợ đồng bào nghèo miền Trung, cho dù sự đi lại luôn gặp nhiều khó khăn, bị ngăn cản của chính quyền và nơi ở bị theo dõi.
- Năm 2014, TT.Thích Thiện Minh xuất bản hồi ký "26 năm lưu đày” (Memories of 26 years in exile in Communist Vietnam) bằng tiếng Anh.
- TT. Thích Thiện Minh đuợc Mạng luới nhân quyền Việt Nam (Hoa Kỳ) vinh danh vào năm 2008 với giải thuởng nhân quyền vì những cống hiến cho phong trào dân chủ - nhân quyền tại Việt Nam.
- Năm 2009, Human Rights Watch (Hoa Kỳ) đã trao giải thưởng nhân quyền Hellman/Hammett cho TT. Thích Thiện Minh.
- Hiện nay, TT. Thích Thiện Minh mang trong người các bệnh tiểu đường, cao máu, thần kinh tọa và sức khỏe suy yếu do hậu quả của sự giam cầm khắc nghiệt và vô nhân đạo nhiều năm trong nhà tù cộng sản.Mặc dầu sức khỏe có suy yếu nhưng TT.Thích Thiện Minh luôn sẵn sàng ủng hộ các phong trào đấu tranh ôn hòa góp phần vào công cuộc xây dựng một xã hội thật sự Tự do, Dân chủ tại Việt Nam.
Công tác từ thiện
Thăm viếng Hòa Thượng Thích Thanh Tịnh, cựu tù nhân Tôn Giáo, bị cầm tù 20 nămPhát quà Thương Phế Binh VNCH tỉnh An giangTrợ giúp cựu tù nhân chính trị Nguyen Hoa Dang

BIOGRAPHY of VENERABLE THICH THIEN MINH

Venerable Thich Thien Minh, secular name is Huynh Van Ba, was born in 1955 in VinhLoi district, Bac Lieu province.
- Taking refuge in Buddhism at age of 12 with Very Venerable Thich Hue Ha at Long Phuoc temple in Bac Lieu.
- Committed to Bhikkhu life at the age of 14. Also studied eastern medicine and accupunture from Eastern Medicine Doctor Lan Ba Tran while learning Buddhism.
- In 1972, was appointed to be the Abbot of VinhBinh pagoda in Cai Day hamlet, Chau Hung commune, VinhLoi district, in Bac Lieu province. Between 1972 and 1979, the young Bhikkhu continued running his temple while praticing eastern medicines at four different locations including Vinh Buu (Quan De) and Tu Quang pagoda both in Bac Lieu, and Khanh Lam pagoda in Soc Trang provicne.
- In 1977, was ordained at An Quang Pagoda with following abbots Very Venerable Thich Tri Thu and Very Venerable Thich Hanh Tru.
- During the period between 1972 and 1979, along side with Venerable Thich Tinh Hanh, a representative of GHPGVNTN,the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV), began to get involved with activities against the current comunist government which at the same time began to suppress freedom of religion. He ran an operation which helped escaped prisoners from re-education camps.
- In 1979, was arrested by the communist gorvernment for “conspiracy to overthrow the government.”
- In 1981, received the “death sentence” but later was sentenced to life in prison.
- In 1983, was moved to Xuan Phuoc prison camp in Phu Yen.
- In 1987, received an additional sentence to life in prison for “plotting escape- schemes against prison’s management at A20 prison camp in Xuan Phuoc, Phu Yen.
- In 1989, was moved from Phu Yen to Z30A prison camp in Xuan Loc, Dong Nai.
- In 1995, while in Z30A prison camp and along with others, protested to demand changes to cruel living conditions of the prison camp, and also requested the abolition of Article 4 in Vietnam’s Constitution. (Article 4 states that the Communist Party of Vietnam is the sole force assuming leadership of the State and society). Afterwards was retaliated by being shackled in solitary confinement for almost six years.
- In 2004, Visited by Mr. Abdel Fattah Amor, the United Nations’ Special Rapporteur on Freedom of Religion or Belief, at Z30A prison camp. Subsequently, on Jan/27/ 2005, was released from prison due to the intervention of the United Nations, the governments of the United States of America, the governments of the European Union and many others.
- A life of twenty six consecutive years in prison!
-With Vinh Binh pagoda sequestered, Venerable Thich Thien Minh return to live with his brother in Bac Lieu
- In 2006 resumed his collaboration with the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) as chairman of Youth Affairs Committee. In December 2006, along with other former political and religious prisoners, founded the Vietnamese Political and Religious Prisoners Friendship Association in Vietnam (VPRPFA), of which he served as the chairman. VPRPFA is the first independent social civic organization in Vietnam, which has provided financial and legal assistance to hundreds of political and religious prisoners and their families.
- In 2006published a book titled“Memoirs of 26 Years in Exile in Communist Vietnam” in Vietnamese. The English version was released in 2014.
- During 2007 and 2008, his residence was subjected to warrant search multiple times by the Vietnamese security forces; Personal properties including money, Buddhist scriptures, books, computer, printer and telephone were confiscated; him self also detained many times.
- With his responsibilities as chairman of the Youth Affairs Committee under UBCV and chairman of VPRPFA since 2006, Venerable Thich Thien Minh often provides assistance to the Wounded Warriors of the former Republic of South Vietnam, political and religious prisoners, and the poor in Central Vietnam despite many difficulties imposed by the communist government.
- Presented the Vietnam Human Rights Award by Vietnam Human Rights Network for his relentless efforts for the human rights and democracy movements in Vietnam.
- Presented the Hellman/Hammett award by Human Rights Watch in 2009.
- Venerable Thich Thien Minh has been suffering with diabetes, hypertension, sciatica, and deteriorating health due to harsh inhumane conditions in communist prison. Despite his poor health, Venerable Thich Thien Minh is always ready to participate in peaceful fights for a Free and Democratic Society in Vietnam.
CHARITY WORKS
Visiting Venerable Thich Thanh Tinh, a 20 yr. rel.Distributing gifts to wounded warriors of Ex- Republic Vietnam in An GiangProviding needed assistance to Nguyen Hoa Dang, a political prisoner

Biographie du Vénérable Thích Thiện Minh

Le Vénérable Thich Thiên Minh, nom civil : Huynh Van Ba est né en 1955 à Vinh Loi, province de Bac Liêu.
- A 12 ans, il se fait baptiser à la pagode Long Phuoc ( Bac Liêu) par le Vénérable Thich Huê Hà.
- A 14 ans, il se fait moine et étudie les préceptes de Bouddha, tout en suivant un enseignement des plantes et d'acupuncture avec un médecin traditionnel Trân Ba Lân.
- En 1972, le Vénérable Thich Thiên Minh officie à la pagode Vinh Binh ( Bac Liêu), mais donne aussi des soins par plantes et acupuncture à 3 autres pagodes (Vinh Buu, Tu Quang,Khanh Lâm) jusqu'à son emprisonnement.
- A cette époque, avec son supérieur le Vénérable Thich Tinh Hanh à Hâu Giang, ils s'inquiètaient pour leur Ordre "Eglise Bouddhique Unifiée" car le gouvernement communiste veut créer un Ordre bouddhiste à leurs bottes, via
" Le Comité de Liaison bouddhiste et patriotique" dirigé par le Front Patriotique de Libération.

- Le Vénérable Thich Thiên Minh aide aussi beaucoup d'ex soldats sudistes à se cacher dans la forêt pour échapper aux camps de "rééducation" communistes. Ce qui lui vaut l'ordre d'arrestation au poste de police de Minh- Hai le 28.3.1979 avec motif : "complot visant à renverser le régime" car il conseillait "le Front Armé pour sauver le pays" où toutes les classes de la population du Sud Vietnam essayent de rejoindre le maquis avec les ex soldats sudistes.
- En 1981, le verdict " Condamnation à mort " a été prononcé à son encontre. La sentence a été reportée de justesse avant l'exécution, et 3 mois plus tard commuée en "Prison à perpétuité".
- En 1983, le Vénérable Thich Thiên Minh a été transferré du Sud vers le Centre du pays au goulag A 20, Xuân Phuoc tristement surnommé " le gouffre de la Mort " à Phu Khanh
- Le 21.3.1987: il fût condamné une 2ème fois pour " Tentative de rébellion pour faire évader des prisonniers" par un tribunal déplacé sur place dans le camp de "rééducation".
- En 1989, il a été transféré de nouveau au camp Z 30A à Xuân Lôc, Dông Nai jusqu'à sa libération (soit 16 ans dans ce dernier camp de "rééducation")
- En 1995 il participa à un soulèvement général pour réclamer des conditions de détention moins dures, l'abolition de l'article 4 de la Constitution qui ne reconnait que le Parti Communiste au pouvoir: il a été enfermé dans un container 6 ans avec les pieds enchaînés!
- En 2004, Mr Abdel Fattah Amor, envoyé spécial de l'ONU pour les problèmes de répression religieuse, lui rendit visite au camp Z30 A.
- Pour le Nouvel An de 2005, Le Vénérable Thich THiên Minh fut libéré grâce à l'intervention de l'ONU et à la pression des USA et de l'Europe, ainsi que des Organisations Non Gouvernementales Internationales:
soit 26 ans d'emprisonnement!

A sa sortie de prison, sa pagode Vinh Binh à Bac Liêu a été confisquée, il a été hébergé chez son frère à Bac Liêu.
- En 2006, il a accepté le poste de Secrétaire Général en charge de la Jeunesse au sein de l'Eglise Bouddhique Unifiée, et Responsable de la région de Khanh Anh et Bac Liêu
- Le 19/11/2006, Le Vénérable Thich Thiên Minh est élu Président de la première association "Amicale des Prisonniers Politiques et Religieux qui jusqu'à ce jour a aidé des centaines de familles en désarroi.
- En 2006, Thich Thiên Minh publia son journal : "26 ans de goulag" en vietnamien à l'étranger.
lire le lien du livre en VN : doc sách gưỉ riến, đưa lên mạng rôi cho link qua đây
- En 2007 et 2008: la police lui a confisqué jusqu'à ce jour ses biens : son argent, ses livres , matériel informatique, téléphonie!
- Ce qui ne l' a pas empêché de venir en aide à des centaines de mutilés de guerre sudistes, ainsi que les familles de prisonniers politiques et religieux, les nécessiteux du Centre Vietnam...malgré l'hostilité de la police qui va jusqu'à lui refuser une carte de séjour permanente à Saigon (d'où l'impossibilité d'acheter une assurance santé)
- En 2014, son livre a été traduit en Anglais : Memories of 26 years in exile in Communist Vietnam
lire le lien du livre en Anglais:
En 2008, le Vénérable Thich Thien Minh reçoit le Prix aux USA " Réseau des Droits de l'Homme pour le Vietnam" et en 2009 le Prix des Helleman / Hammet pour les Droits de l'Homme
Actuellement, il souffre de Diabète, d'Hypertension, Sciatique, séquelles importantes dû à une longue détention inhumaine et d'hémiplégie il y a 2 ans. Malgré cela, le Vénérable est toujours prêt pour un mouvement pacifique pour réclamer une vraie Démocratie pour le Vietnam

Biographie des buddhistischen Obermönchs

Thich Thien Minh

Obermönch Thich Thien Minh, Familienname: Huynh Van Ba, geboren im Jahr 1955 in Vinh Loi, Provinz Bac Lieu.
- Im Alter von 12 Jahren alt bekennt er zum Buddhismus bei der buddhistischen
Pagode Long Phuoc, Stadtviertel 5, Provinzhauptstadt Bac Lieu, dessen religiöses Portepee der Oberste Mönch Thich Hue Ha war.
- Im Alter von 14 jahren alt wurde er als angehender Mönch bei der Pagode Long Phuoc aufgenommen. Ihm wurde hier buddhistische Lehre unterrichtet und zugleich Lehre von traditioneller Medizin sowie die Kunst der Akupunktur von dem Arzt für traditionelle Medizin namens Tran Ba Lan eingeimpft.
- Im Jahr 1972 wurde Obermönch Thich Thien Minh zum Vorsteher der Pagode Vinh Binh, Siedlung Cai Day, Dorfgemeinde Chau Hung, Landkreis Vinh Loi, Provinz Bac Lieu, ernannt. In einem noch so blutjungen Alter wurde er bereits durch die SADI-Absolvierungszeremonie mit Erfolg in die buddhistische Religionsgemeinde aufgenommen. Auf die Große Zuerkennungszeremonie als "Ty Kheo" mußte er doch noch warten.
Hier bekleidete er die Funktion als Vorsteher der Pagode und zugleich fungierte er als Arzt für traditionelle Medizin, insbesondere als Akupunkteur.
- 1972 bis zu dem Tag, wo er inhaftiert wurde, arbeitete er bei folgen carita- tiven Vergabestellen von traditionellen Arzneimitteln als deren Berater für Diagnostizieren, Vergabe von Arzneimitteln und die Beherrschung der Perfektion der Akupunktur.
- Pagode Vinh Buu ( alias Quan De ) in der Siedlung Tra Van, Chau Hung, Bac Lieu,
- Buddha-Andachtsstatte Tu Quang in der Siedlung 1, Cay Gua, Dorfgemeinde Binh Thanh, Landkreis Gia Rai, Bac Lieu und
- Pagode Khanh Lam, Dorfgemeinde Tuan Tuat, Landkreis Thanh Tri, Soc Trang.
- In diesem Zeitraum startete er zusammen mit dem Obermönch Thich Tinh Hanh, Vorstandsvorsitzenden der Vietnamesischen Vereinigten Buddhistischen Religionsgemeinschaft der Provinz Hau Giang, eine Aktion zum Schutz derer
angesichts der Religionsdiskriminiereung in Vietnam durch die kommunistischen Machthaber und deren Unterwerfung durch die Herausbildung der von der Leitung der Befreiungsfront manipulierten sogenannten Kommission zur Kontaktpflege zwischen den Buddhistischen Religionsgemeinden verschiedener Richtungen. Darüber hinaus leitete er insgeheim eine Organisation zur Hilfe-leistung für die Ex-Soldaten sowie Offizieren der Ex-Republik Vietnam, die die sogenannte Umerziehung durch die Kommunisten entkommen und in das Dschungel fliehen wollten.
- 1977 erlebte Obermönch Thich Thien Minh die höchste Ernennungszeremonie
zum "Ty Kheo" bei der Buddha-Andachtsstätte An Quang; Dabei fungierte der Oberste Mönch Thich Tri Thu als Betreuer. Der Mönchspatriarch, Vizevorsitzender der buddhistischen Religionsgemeinschaft Obermönch Thich Hanh Tru, fungierte als Zeuge. Obermönch Thich Thien Minh bekleidete 7 Jahre lang die Funktion als Vorsteher der An Quang-Pagode.
- Am 28.03.1979 wurde Obermönch Thich Thien Minh in Haft genommen mit der Beschuldigung, die Verschwörung zur Eliminierung des gegenwärtigen vietnamesischen Regimes zu planen, die Funktion als Berater für die Front zur Rettung der Nation (eine Organisation, die aus allen Gesellschaftsschichte wie Bauer, Arbeiter, Intellektuellen und dazu auch die ehemaligen Beamten, Soldaten der Ex-Republik Vietnam wie die ehemaligen Kader für den Aufbau der Dorfgemeinschaften, Sonderkommandos (alias City), Sicherheitskräfte der Streitkräfte, Armeeangehörigen der Division 21, (deren Mehrheit bereits in das U-Minh-Dschungel flüchtete) innegehabt zu haben. Er saß im Polizeigefängnis der Provinz Minh Hai.
- 1981 sollte Obermönch Thich Thien Minh durch eine Gerichtsverhandlung verurteilt werden. Laut Anklage und gemäß Paragraph 03, Abschnitt A wäre das
Todesurteil T eine sichere Sache gewesen. Kurz vor dem Beginn des bereits anberaumten Gerichtstermins wurde aber die Verhandlung unerwartete weise vertagt.
3 Monate später im gleichen Jahr 1981 erhielt er laut neuer Anklage und gemäß
dem Paragraph 03, Abschnitt A+B das Urteil zu lebenslangem Zuchthaus.
- 1983 wurde Obermönch Thich Thien Minh vom Süden in die Mitte von Vietnam deportiert und saß in der Haftanstalt A20, Xuan Phuoc, die vom Volksmund als "Todestal" von Phu Khanh (Phu Yen+Khanh Hoa) bezeichnete.
- Am 21.03.1987 wurde Obermönch Thich Thien Minh bei einer durch das Mobile Gericht der Provinz Phu Khanh gleich in der Haftanstalt abgehaltenen Verhandlung wegen Durchführung einer Gewaltaktion zur Befreiung von inhaftierten Gefangenen ( sogenannt: Zerstörung der Haftanstalt ) noch einmal zu lebenslangem Zuchthaus verurteilt.
- 1989 wurde Obermönch Thich Thien Minh von der Haftanstalt A20 von Phu Khanh in die Haftanstalt Z30A in Xuan Loc, Dong Nai, verlegt. Er saß hier bis zu seiner Haftentlassung (Haftzeit in der Haftanstalt Z30A dauerte 16 Jahre).
- 1995 wurde Obermönch Thich Thien Minh bei der Haftanstalt Z30A in Xuan Loc in Einzelhaft eingesteckt und mit Fußfesseln angelegt wegen Organisierens einer Protestaktion zusammen mit anderen Mitgefangenen gegen das unmenschliche Leben der Häftlingen , Aufforderung zum Wegstreichen des Paragraphen 4 in der Vietnamesischen Verfassung. Diese Einzelhaft dauerte fast 6 Jahre.
- 2004 besuchte Herr Abdel Fattah Amor, UN-Sondergesandter für die Bekämpfung der Intoleranz gegenüber Religionen, den Obermönch Thich Thien Minh in der Haftanstalt Z30A.
- 2005 anlässlich des Neujahr-Festes At Dau wurde Obermönch Thich Thien Minh freigelassen dank der Intervention der UNO, der Staaten von Europa und der internationalen Menschenrechtsorganisationen.
- Am 27.01.2005 wurde Obermönch Thich Thien Minh in die Freiheit gesetzt gemäß dem Beschluss des Staatsoberhauptes Nr. 109/QD/CTN über die vorzeitige Entlassung von Gefangenen, der durch die Intervention der UNO, der internationalen Menschenrechtsorganisationen samt der Regierungen von USA, Europa... zustande kam.
- Insgesamt verbrachte er ununterbrochen 26 Jahre im Gefängnis.
- Nach der Gefängnisentlassung konnte er nicht mehr zur Vinh Binh-Pagode
(Provinz Bac Lieu) zurückkehren, denn jene Pagode war bereits vom Staat
konfisziert. Obermönch Thich Thien Minh mußte deshalb bei seinem jüngeren Bruder in Bac Lieu als Untermieter wohnen.
- Obermönch Thich Thien Minh nahm nach der Gefängnisentlassung unverzüglich an den Tätigkeiten der Buddhistischen Vereinigten Religionsgemeinschaft von Vietnam zwecks Reaktivierung der Geschäftigkeiten jener Religionsgemeinschaft (GHPHVNTN) teil. Dabei bekleidete er die Funktion als Vorsitzender der Hauptabteilung für die Angelegenheiten der Jugend und zugleich Hauptvertreter der Khanh-Anh-Landeszone ( bestehend aus den westlichen Provinzen des Südens ) und dazu noch die Funktion als Vorsitzender der GHPGVNTN der Provinz Bac Lieu.
- Am 19.11. 2006 hatte Obermönch Thich Thien Minh die Freundschafts-Assoziation von politischen sowie aufgrund der Religionsdiskriminierung in Haft genommenen Gefangenen (Freundschaftsverein) gegründet. Er wurde als deren Vorsitzender gewählt und wohlgemerkt die Gründung einer zu allerersten Zivilgesellschaftsorganisation (independent) in Vietnam.
Bis zu diesem Tag hatte jener Freundschaftsverein finanzielle und juristische Hilfeleistung für hundert Ex-Gefangene allerart und deren Familien vollbrachten.
- Im Jahr 2006 hatte Obermönch Thich Thien Minh die in vietnamesischer Sprache abgefasste Memoiren " 26 Jahre in der Verbannung " im Ausland herausgegeben.
- 2007 und 2008 wurde die Wohnung von Obermönch Thich Thien Minh von der Polizeibehörde mehrmals durchsucht, in Haft für kurze Zeit genommen. Dabei Geld, Religionsbücher, Computer, Printer, Telefonapparate wurden auch konfisziert. Bis heute sind jene beschlagnahmten Gegenstände noch nicht zurückgegeben.
- Als Vorsitzender der Hauptabteilung für die Jugend anbelangten Angelegenheiten der Buddhistischen Vereinigten Religionsgemeinschaft von Vietnam und Vorsitzender des oben erwähnten Freundschaftsvereins seit 2007 bis heute hatte Obermönch Thich Thien Minh ständig den Kriegsinvaliden der ehemaligen Republik Vietnam und politischen Ex-Gefangenen samt deren Familien finanziell sowie material geholfen. Außerdem kam er öfter in die Zonen von Mitte Vietnams zur Hilfeleistung bei Überschwemmungen, zur Linderung von Nöten seiner Landsleuten durch Spenden von Trost und finanzielle Beihilfe. Dabei war er entschlossen, diese Hilfeleistung aufrechtzuerhalten trotz Behinderungen durch die kommunistischen lokalen Machtinhaber.
- Im Jahr 2014 hatte Obermönch Thich Thien Minh seine in englischer Sprache
abgefaßte Memoiren " 26 Jahre in Exil in kommunistischem Vietnam " heraus-gegeben.
- Er wurde im Jahr 2008 von dem Zusammenschluss von Menschenrechtsor-ganisationen in den USA für den Menschenrechtepreis nominiert wegen seiner
Verdienste für die Bewegungen zur Erlangung von Demokratie und Menschenrechte in Vietnam.
- 2009 hatte Human Rights Watch (USA) dem Obermönch Thich Thien Minh den Menschenrechtepreis Hellman/Hammett verliehen.
- Derzeit ist Obermönch Thich Thien Minh an Diabetes, Hypertonie, Ischias erkrankt und gesamter Gesundheitszustand ist geschwächt infolge der grausamen, inhumanen Inhaftierung von mehreren Jahren in den verschiedenen kommunistischen Haftanstalten. Trotz seines sehr schlechten Gesundheitszustandes unterstützt Obermönch stets mit ganzem Herzen und vorhandener Kraft verschiedene gewaltlose Bewegungen mit dem Ziel, seinen Beitrag zum Aufbau einer veritablen liberaldemokratischen Gesellschaft in Vietnam leisten zu können.
Laternenfest-Geschenke-Verteilung an arme KinderGeschenke-Verteilung an die in Not lebenden Menschen in Mitte von VietnamTeilnahme an der caritativen Gruppe für den Straßenbau

MẶC LÂM * NGUYỄN MẠNH TUẤN

Mạn đàm với nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-11-08

Email
051_2-622.jpg
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, ảnh chụp năm 2013.
Courtesy Nguyễn Nguyên Bảy Blog


Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn có thể xem là một cây viết thành công nhất trong lĩnh vực tiểu thuyết và viết kịch bản truyền hình, điện ảnh. Mặc dù tác phẩm đầu tay Đêm sương muối của ông được giải nhì của Hội nhà văn năm 1969, nhưng khi tác phẩm Đứng trước biển ra đời thì theo nhà văn cho biết lãnh đạo một số tỉnh có liên quan phản đối một cách dữ dội, coi là phản động. Lúc ấy Nguyễn Mạnh Tuấn đã dám phủ nhận một xí nghiệp đánh cá được phong anh hùng. Còn Cù lao tràm viết về đề tài nông nghiệp khi tác phẩm ra đời đã có văn bản đề nghị đưa tác giả đi cải tạo. Một số nhà văn, nhà nghiên cứu có bài viết phê phán tác phẩm, có bài còn vạch rõ bảy tội danh. Nhà văn gần như bị cô lập, chung quanh không còn ai cảm thông chia sẻ sự áp chế mà các quan văn hóa dành cho ông.
Những cái được gọi là vấn đề ấy chỉ hơn 10 năm sau đã trở thành vấn đề thật và từ đó người đọc truyện của Nguyễn Mạnh Tuấn cứ tăng dần lên và đồng thời chính quyền cũng tăng dần sự giám sát ông trong bất cứ đề tài nào ông đưa ra với độc giả sách lẫn khán giả truyền hình.
Từ những ngày đầu tranh đấu bằng ngòi viết với một chính quyền, nhà nước rõ ràng, hiện hữu cho tới tác phẩm gần đây nhất tiếp tục đặt dấu hỏi cho một vấn đề khó nhận ra nhưng vẫn lởn vởn trong tiềm thức con người: thiện và ác, đúng và sai, tội lỗi và hình phạt…để tác phẩm “Nỗi sợ hãi mầu nhiệm” ra đời trong những ngày gần đây.
Chúng tôi có cuộc trao đổi ngắn với nhà văn trong lúc ông bận bịu với nhiều dự án mới từ sân khấu truyền hình cho tới những phác thảo văn chương vừa hình thành trên bàn viết.

Phản ánh và kiến nghị

Mặc Lâm: Ông là một nhà văn phải gọi là giàu có, giàu có từ ý tưởng, cách nghiên cứu và sắp xếp để hoàn thành tác phẩm cho tới cả tiền bạc và danh tiếng… trong tất cả những thứ ấy ông hài lòng với điều gì nhất?
Làm nhà văn theo quan điểm của tôi thì mình đưa vào tác phẩm những vấn đề của xã hội. Trong những vấn đề đó có những phần thuộc về phản ánh, có phần thuộc về kiến nghị. Còn chuyện nhà nước hay xã hội có bị biến động theo ý của mình hay không thì thuộc về khách quan.
-Nguyễn Mạnh Tuấn
Nguyễn Mạnh Tuấn: Trước hết cũng phải nói là chuyện tiền tài, danh vọng luôn luôn là thứ yếu nhưng nó đến với mình thì tất nhiên là mình không từ chối. Mình không coi đấy là mục đích. Cái quan trọng nhất đối với tôi là đã nói được điều mình muốn nói. Tác phẩm của mình có hiệu ứng tốt với bạn đọc, với xã hội.
Mặc Lâm: Riêng bản thân tôi xin thứ nhận là rất thích Cù Lao Tràm ngay từ những ngày đầu tiên cuốn sách được in ra…từ đó tới nay hình như nhà nước vẫn chưa áp dụng các phản biện có tính cách dự báo vào các chính sách của họ, có phải đây là một thất bại của nhà văn?
Nguyễn Mạnh Tuấn: Không. Trước hết phải nói như thế này: Làm nhà văn theo quan điểm của tôi thì mình đưa vào tác phẩm những vấn đề của xã hội. Trong những vấn đề đó có những phần thuộc về phản ánh, có phần thuộc về kiến nghị. Còn chuyện nhà nước hay xã hội có bị biến động theo ý của mình hay không thì thuộc về khách quan. Đương nhiên là mình cũng phải bận tâm nhưng nó không phải là điều quyết liệt để cho mình phải dấn thân làm bằng được. Tôi nghĩ nhiệm vụ của nhà văn là phản ánh và kiến nghị và như vậy cũng tạm đủ rồi.
Mặc Lâm: Ông là một nhà văn mà nói theo ngôn ngữ thời thượng là bị “lên bờ xuống ruộng” nhiều lần nhưng vẫn thành công. Xin ông chia sẻ một ít về những đau đớn lẫn vinh quang mà mình đã qua?
Nguyễn Mạnh Tuấn: Khi anh viết một tác phẩm mà nó an toàn cho mình thì thực sự mà nói tác phẩm đó sẽ không đáp ứng được với cảm xúc chung của xã hội. Trách nhiệm của nhà văn với xã hội nếu chỉ chọn lấy sự an toàn thì sẽ viết không đến nới đến chốn. Cho nên khi mình nói vấn đề nhạy cảm hay những vấn đề có tính cách đấu tranh (ví dụ trong nước nói là đấu tranh chống tiêu cực, đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh chống những sai phạm trong đường lối chính sách...) thì đương nhiên nó sẽ đụng chạm đến nhiều người. Mình phải chấp nhận cái giá mình phải trả. Tôi nghĩ rằng nếu có “lên bờ xuống ruộng” thì mình cũng có một điều rất an tâm là đã làm đúng lương tâm của mình; đúng trách nhiệm công dân và nghệ sĩ của mình. Còn việc cái giá phải trả có đắt thì đương nhiên mình sẽ lãnh thôi.
Tôi nghĩ về căn bản thì trước sau mình cũng vượt qua được, bởi vì sao? Bởi vì bao giờ cũng có hai phía. Một phía là về phía mình, tức là phía nhà văn, phía tôi. Tôi chỉ nghĩ là mình thành tâm và nói đúng thì không sợ gì hết. Có oan trái hay có nghiệt ngã thì mình cũng không sợ. Còn phía thứ hai thì thực sự mà nói, về chế độ xuất bản báo chí nó cũng có những nghiệt ngã thật nhưng rồi dần dần cũng sẽ cởi ra chứ nó cũng không thể nghiệt ngã mãi được.
Chỉ có điều là mình phải chọn cách viết, phải chọn cách thể hiện như thế nào để vừa gần được với người đọc mà những sự đụng chạm chưa tới mức thái quá để mình phải “tử vì đạo”. Đấy là quan điểm của tôi.

Người đọc yêu mến


059-400.jpg

Vợ chồng Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn và những người bạn, ảnh chụp năm 2013. Courtesy Nguyễn Nguyên Bảy Blog.
Mặc Lâm: Thưa ông có phải là do những oan trái, nghiệt ngã mà ông vừa nói đã được bù lại bằng sự ngưỡng mộ, yêu mến của người đọc, người xem?
Nguyễn Mạnh Tuấn: Tôi nghĩ rằng mục đích viết văn của mình là phục vụ cho người đọc. Cái quan trọng nhất là người đọc chia sẻ được với mình, thấu hiểu được mình. Nó cũng là một sự an toàn, một bảo chứng để an toàn cho người viết. Nếu anh không tiếp cận người đọc thì tác phẩm của anh có thể chỉ ở một mức nào đó; Nó có thể quyết liệt hơn hoặc có thể nó là “một mất một còn “ với vấn đề tiêu cực của xã hội nhưng không có người đọc thì tác phẩm đó dần dần nó cũng lu mờ thôi. Tôi chỉ nghĩ trước sau như một, dù viết cách nào đi nữa thì mình cố gắng để tạo ra việc thu hút người đọc, hòa nhập cùng với cảm xúc của người đọc. Nếu giả dụ không làm được, lưc bất tòng tâm thì mình cũng đành chịu.
Tôi thấy chính nhờ người đọc mà những tác phẩm của tôi tuy là đụng chạm rất nặng, tuy cái giá phải trả như anh nói cũng đã từng “lên bờ xuống ruộng” nhưng mình được ở trong lòng người đọc nên mình cũng được an ủi và cổ vũ rất nhiều.
Mặc Lâm: Viết kịch bản phim truyền hình có cái lợi là chiếm lĩnh trái tim của khán giả ngay lập tức và làm cho họ sống cùng với tác phẩm do đó có thể phản biện mặt xấu của xã hội và cả của nhà nước… tuy nhiên trở ngại lớn nhất vẫn là kiểm duyệt, có bao giờ ông chấp nhận lách luật để kịch bản tới được với khán giả hay không?
Tôi nghĩ có hai vấn đề rất là rõ. Vấn đề thứ nhất là cái tâm của mìn, mình tranh đấu, mình phê phán nhưng cái tâm của mình trong sáng. Mình không dành thời gian để thóa mạ, để đấu tố, để cay cú.
-Nguyễn Mạnh Tuấn
Nguyễn Mạnh Tuấn: Hầu hết những bộ phim của tôi là những bộ phim phải nói thẳng là đều rất dữ dội, đều chạm vào những vấn đề nóng của đời sống. Thậm chí còn đụng chạm đến những vấn đề tiêu cực của quyền lực. Tuy nhiên tôi nghĩ có hai vấn đề rất là rõ. Vấn đề thứ nhất là cái tâm của mìn, mình tranh đấu, mình phê phán nhưng cái tâm của mình trong sáng. Mình không dành thời gian để thóa mạ, để đấu tố, để cay cú.
Như vậy sự kiểm duyệt, theo tôi nghĩ là không chính xác lắm, vì tất cả những bộ phim đều có một hội đồng nghệ thuật của hãng phim hoặc của đài truyền hình họ duyệt. Họ nhận ra điều đó thì người ta cũng chấp nhận được. Nếu mà mình thái quá thì mới có chuyện đòi hỏi chỉnh sửa. Hầu hết các tác phẩm của tôi đều không phải chỉnh sửa bởi vì mình biết đến thế nào là đủ.
Vấn đề thứ hai thì quan điểm của tôi là như thế này: Tại sao tôi lại chuyển sang làm phim? Cái này cũng thuộc về quan điểm thôi chứ năng lực thì chưa chắc tôi đã bằng người khác. Quan điểm của tôi là điện ảnh và truyền hình là những sản phẩm mà vị trí của tác giả rất khiêm tốn so với đạo diễn và diễn viên. Tuy nhiên, giá trị phục vụ thì điện ảnh và truyền hình phục vụ trực tiếp, nhanh và phạm vi của “người đọc” rất là rộng. Một bộ phim anh bắn lên truyền hình một cái là có hằng triệu người xem nhưng tất nhiên đấy phải là bộ phim để cho “người đọc” người ta ưa thích. Do vậy, trong thời gian rất dài tôi ngừng việc viết sách để chuyển sang truyền hình. Quan điểm của tôi trước sau như một, đó là mình phải gần người đọc; phục vụ người đọc ở mức nhanh nhất và cao nhất.
Mặc Lâm: Tác phẩm mới nhất mang tên “Nỗi sợ hãi mầu nhiệm” nghe cái tên đã thấy ..sợ hãi! Vì chúng tôi không có sách trong tay nên nếu có thể xin ông cho biết nỗi sợ hãi ấy ra sao?
Nguyễn Mạnh Tuấn: Đầu tiên nó chỉ là câu chuyện mang tính chất cá nhân của tôi thôi. Câu chuyện này nói về hoàn cảnh của người xưng tôi với căn bệnh về tình dục không có phương pháp gì để chữa cả. Dần dần một hoàn cảnh đưa đến: nếu muốn chữa nó thì mình phải phạm tội. Đến kết thúc thì nhân vật tôi vì sợ phạm tội quá do tội này là tội vi phạm vào đạo đức, vi phạm vào đạo lý, vi phạm vào luật pháp. Do đó anh ta dừng lại. Anh ta dừng lại thì anh ta cũng hết bệnh.
Tất nhiên cũng có những ẩn dụ trong câu chuyện đó. Trong trang đầu của tập truyện ngắn này tôi có nói câu danh ngôn của một người mà tôi rất là quí trọng. Ông ta có nói rằng” Vô phúc ắt vô đạo. Vô đạo ắt vô luân. Vô luân ắt vô phúc.” Năm câu chuyện ở trong này đi vào tư tưởng đó, vào tinh thần đó. Cái nọ dắt dây đến hậu quả của cái khác, cái xa của một thế hệ. Câu chuyện “Nỗi Sợ Hãi Mầu Nhiệm” nói về điều đó. Nó nói người ta không có đạo thì sẽ không có phúc.
Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà văn đã tạo cơ hội cho chúng tôi hoàn thành cuộc phỏng vấn này.
Nguyễn Mạnh Tuấn: Vâng, rất cảm ơn ông đã quan tâm.

Saturday, December 26, 2015


LỄ GIÁNG SINH KHẮP NƠI

Mừng Giáng sinh trên toàn thế giới

  • 25 tháng 12 2015

 
Image copyright EPA
Image caption 10.000 người đã tham dự thánh lễ Giáng sinh cùng Giáo hoàng tại nhà thờ St Peter


Những người Công giáo trên toàn thế giới đang đón mừng Giáng Sinh và dõi theo thánh lễ do Giáo Hoàng Francis cử hành tại Vatican.
Tại thánh địa Bethlehem, Bờ Tây, nơi được tin là Chúa Jesus ra đời, không khí Giáng Sinh đã bị ảnh hưởng bởi những vụ đụng độ gần đây giữa người Palestine và người Israel.
"Tuy Giáng Sinh có đèn hoa và những bài thánh ca nhưng người ta cảm thấy căng thẳng", Paul Haines, một người Anh hành hương đến Bethlehem, nói với hãng AP.
Vatican

 
Image copyright AFP
Image caption Trong bài giảng tại nhà thờ St Peter, Giáo hoàng kêu gọi các tín hữu thể hiện sự mộc mạc như Chúa hài đồng, "sinh ra trong cảnh nghèo khó nơi máng cỏ"

Bethlehem

 
Image copyright EPA
Image caption Một linh mục Armenia cầu nguyện trong thánh lễ tại nhà thờ ở Bethlehem


 
Image copyright Reuters
Image caption Giáo dân người Nigeria dự thánh lễ tại Bờ Tây

Iraq

 
Image copyright AFPGetty
Image caption Hàng trăm giáo dân dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ ở Baghdad


 
Image copyright AFPGetty
Image caption Một cậu bé người Iraq dự lễ tại Baghdad

Indonesia

 
Image copyright EPA
Image caption Indonesia là một trong những quốc gia đón Giáng Sinh sớm nhất

Bắc Kinh

Image copyright AFPGetty
Image caption Các em bé dự lễ Giáng Sinh tại Bắc Kinh, Trung Quốc
 
Image copyright AFPGetty
Image caption Giáng sinh diễn ra an lành tại Bắc Kinh dù trước đó có cảnh báo an ninh tại Tam Lý Đồn 
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/12/151225_christian_celebrations

NHẬT BẢN & TRUNG QUỐC

Nhật Bản đang “quần” TQ trên biển

Từ Hoa Đông tới Biển Đông, những tin tức về việc Nhật Bản tăng cường vũ khí và liên minh chống Trung Quốc ngày càng dồn dập.


Ngày 18/12, hãng tin Reuters trong một phóng sự tiết lộ rằng Nhật Bản đang nỗ lực củng cố hệ thống phòng thủ và hạ tầng cơ sở trên khoảng 200 đảo xa ở vùng Biển Hoa Đông, với mục tiêu đặt chiến hạm Trung Quốc trong tầm nhắm, và ngăn chặn không cho Hải quân Trung Quốc thống trị miền Tây Thái Bình Dương.
Theo một số nguồn tin từ các giới chức quân sự cũng như chính phủ Nhật Bản, Tokyo đang tìm cách liên kết thành một chuỗi các hệ thống tên lửa chống hạm và phòng không, trên khoảng 200 hòn đảo ở vùng Biển Hoa Đông, trải dài trên phạm vi 1.400 km từ thềm lục địa Nhật Bản tới giáp vùng lãnh thổ của Đài Loan.
Khoảng hơn một chục nhà hoạch định chiến lược quân sự và chính sách của Nhật Bản đều đã xác nhận rằng mục tiêu tăng cường sức mạnh quân đội của Thủ tướng Shinzo Abe, đã chuyển đổi thành một chiến lược nhằm giành ưu thế thống trị vùng biển và vùng trời xung quanh các đảo xa của Nhật Bản, từ đó kềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc.
Việc bố trí các phương tiện vũ khí trên các đảo xa không phải là một điều bí mật, nhưng theo hãng tin Reuters, đây là lần đầu tiên mà giới chức có trách nhiệm trong chính quyền Nhật Bản nêu rõ là hệ thống bố phòng này có tác dụng kềm chế Trung Quốc tại miền Tây Thái Bình Dương.
Một khi chuỗi hệ thống tên lửa nối liền 200 đảo hoàn thành, đây sẽ là rào cản lớn đối với tàu thuyền Trung Quốc muốn đi từ bờ biển phía Đông của nước họ ra khu vực Tây Thái Bình Dương. Theo luật lệ quốc tế, không có gì cấm cản chiến hạm Trung Quốc đi ra Thái Bình Dương, nhưng các chiếc tàu này luôn phải nằm trong tầm bắn của các giàn tên lửa của Nhật Bản đặt trên các đảo.
Giới quan sát nhận định, chiến lược bố trí tên lửa trên đảo là một phiên bản do Tokyo sáng tạo của chiến thuật chống tiếp cận hiện đang được Trung Quốc sử dụng để cố gắng đẩy Mỹ và các đồng minh ra khỏi khu vực.
tin nhap 20151220100312
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (trái) và Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull tại Tokyo hôm 18/12
Chuyển qua Biển Đông, Nhật đang ngày càng thắt chặt quan hệ với các nước liên quan để kìm chế Trung Quốc. Ngày 18/12, trong chuyến viếng thăm chớp nhoáng chỉ trong vòng 1 ngày, Thủ tướng Úc đã gặp gỡ Thủ tướng Nhật để bàn về quan hệ hợp tác của hai nước, trong đó có vấn đề an ninh khu vực.
Lần đầu tiên hai chính phủ có mối quan tâm chung tới vấn đề Biển Đông. Hai ông kêu gọi các bên tranh chấp phải giữ nguyên trạng và mặc dù không chỉ đích danh Trung Quốc giới quan sát cũng biết cả hai Thủ tướng muốn gửi thông điệp tới cho Bắc Kinh khi nước này đang xây dựng bồi đắp các đảo nhân tạo, một hành động nhằm phá vỡ hiện trạng địa lý của khu vực Hoàng Sa và Trường Sa.
Hai bên cũng đồng thuận về hoạt động trao đổi quân sự, các cuộc tập trận giữa Úc và Nhật cũng được nhắc tới và đồng thời khuyến khích các nước nỗ lực hướng tới việc ký kết Bộ ứng xử Biển Đông (COC).
tin nhap 20151220100312
Thủ tướng Nhật Shinzo Abe (phải) tiếp Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Ryamizard Ryacudu ở Tokyo ngày 17/12
Trước đó một ngày, hôm 17/12, Nhật Bản và Indonesia đã thống nhất một chương trình hợp tác trong lĩnh vực ngoại giao và quốc phòng, mở đường cho Nhật xuất khẩu vũ khí và công nghệ quốc phòng sang Indonesia và tạo điều kiện cho Tokyo tham gia sâu hơn những vấn đề ở Biển Đông.
Phát biểu tại cuộc họp báo ở Jakarta, Ngoại trưởng Nhật Fumio Kishida, phát biểu: “Môi trường an ninh ở khi vực ngày càng trở nên căng thẳng hơn, chúng tôi muốn thúc đẩy hợp tác với Indonesia, thành viên quan trọng của ASEAN, trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng”.\
tin nhap 20151220100312
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và đồng nhiệm Ấn Độ Narendra Modi trao đổi văn kiện ký kết, New Delhi, Ấn Độ, ngày 12/12
Chưa hết, ngày 14/12, Bắc Kinh đã lên tiếng bày tỏ thái độ hết sức bất bình trước sự kiện hai Thủ tướng Ấn Độ và Nhật Bản chính thức tuyên bố bảo vệ quyền tự do đi lại trên Biển Đông nhân dịp ông Shinzo Abe công du New Delhi đầu tháng 12.
Bản tuyên bố chung Ấn Độ-Nhật ngày 12/12 đã dành nguyên một đoạn để nói về Biển Đông, trong đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các tuyến hàng hải, và xác nhận rằng Thủ tướng hai nước đã “quyết định tổ chức những cuộc tham khảo ý kiến lẫn nhau một cách chặt chẽ và thường xuyên về các vấn đề liên quan đến an toàn và an ninh của các tuyến giao thông hàng hải”.
Ngoài việc hỗ trợ đồng minh Mỹ kìm chế Trung Quốc, giới phân tích cho rằng Nhật Bản tăng cường tính chủ động đối với an ninh ở Đông Nam Á cũng có lý do khác. Các tuyến vận chuyển năng lượng qua những vùng biển Đông Nam Á rất quan trọng đối với Tokyo. Từ khi quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng vào năm 2012, Tokyo đã chuyển hướng đầu tư sang ASEAN. Năm 2013, đầu tư của giới doanh nghiệp Nhật Bản tại ASEAN cao gấp 3 lần so với Trung Quốc. Hơn nữa, Đông Nam Á cũng là nơi Nhật Bản thử nghiệm chiến lược xuất khẩu vũ khí.

No comments:

Post a Comment