Pages

Wednesday, November 23, 2016

TUẤN KHANH =TƯỞNG NĂNG TIẾN=SƠN TRUNG =BIỂN ĐÔNG



LS. NGUYỄN VĂN ĐÀI * QUỐC KHÁNH CHDC ĐỨC

Mừng Quốc khánh CHLB Đức ngày 3/10/1990 - 3/10/2015


Hà nội, ngày 2-10-2015
Luật sư Nguyễn Văn Đài.
Tối ngày 1 tháng 10 năm 2015, Đại sứ CHLB Đức tại Hà Nội đã tổ chức tiệc chiêu đãi kỷ niệm 25 năm ngày Thống nhât nước Đức.
Tới tham dự có Chủ tịch MTTQ Việt Nam, ông Nguyễn Thiện Nhân, Thứ trưởng Bộ ngoại giáo Bùi Xuân Hưng và nhiều quan chức các Bộ của Việt Nam. Cùng với các viên chức ngoại giao của đại sứ quán các nước tại Hà Nội.

Đại diện phong trào dân chủ và xã hội dân sự có Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, anh Nguyễn Chí Tuyến, Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, cô Nguyễn Thị Nga.


Lần đầu tiên tôi được nghe một quan chức cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam có thể đọc hai ngoại ngữ trong một bài diễn văn.
Mở đầu bài diễn văn, ông Nguyễn Thiện Nhân đọc bằng tiếng Đức, sau đó chuyển sang đọc bằng tiếng Anh. Bài diễn văn khá dài theo phong cách của những người cộng sản làm ông Phó Đại sứ và những người tham dự rất sốt ruột. Nhưng cuối cùng thì nó cũng kết thúc để mọi người có thể cùng nâng ly.
Tôi nhớ lại cách đây 25 năm, khi đó tôi đang sống tại Đông Đức. Tôi đã có cơ hội chứng kiến người dân Đông Đức xuống đường biểu tình năm 1989 để đòi xóa bỏ chế độ cộng sản và thống nhất với Tây Đức.
Và ý nguyện của người dân Đông Đức đã được toại nguyện khi chính phủ cộng sản sụp đổ, người dân Đông Đức được bầu cử tự do, chính phủ mới đã ký thỏa thuận thống nhất hai miền Đông và Tây của nước Đức vào ngày 3-10-1990.
25 năm sau khi thống nhất, mọi tàn dư của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Đức đã bị xóa bỏ. Hơn 40 năm dưới chế độ cộng sản chỉ còn là một kỷ niệm buồn của những dân Đức ở độ tuổi trên 40.
Ngày nay, những thế hệ trẻ được sinh sau 1990 ở phần Đông Đức có thể không bao giờ biết rằng chủ nghĩa cộng sản đã sinh ra và tồn tại ở đó. Họ chỉ biết đến một nước CHLB Đức dân chủ, tự do và thịnh vượng.
Có lẽ ước mong xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản không chỉ là ước mơ của người dân Đông Đức, Đông Âu vào thập niên 1990. Mà ngày nay còn là ước mong của người dân ở các nước đang phải chịu sự cai trị hà khắc của chủ nghĩa cộng sản.


TUẤN KHANH * TUỔI XANH

Tôi thấy hoang tàn trên tuổi xanh



Đó là một buổi chiểu của năm 1987. Một buổi chiều mà tôi cứ hay bị ký ức lôi về căn phòng tối thăm thẳm không lời đáp.
Đó là năm thứ 2 trung cấp, tôi đang theo học ở Nhạc Viện TP. Buổi chiều với giờ học Trích giảng Âm nhạc của thầy Trương Hữu Lang. Cả lớp bỗng sững lại. Gương mặt ông thấy cũng bối rối khi bà bí thư Đảng Uỷ Nguyệt Anh dẫn theo một công an viên đến lạnh lùng gọi tên một người bạn của tôi bước ra khỏi lớp. Anh Trịnh Bằng Phi học contrabass luống cuống nghe thông báo rồi quay lại bàn gom sách vở ra về. Từ đó về sau, tôi không bao giờ gặp lại anh được nữa. Anh Phi bị đuổi học bất ngờ vì người ta tìm thấy ba anh là một sĩ quan của chế độ VNCH. Khi ấy anh chưa được 25 tuổi, nhưng đã là một trong những tay chơi contrabass hiếm hoi đủ thể chất và trình độ của miền Nam, thế nhưng anh bị xô ngã một tương lai, vì lý lịch.
Trong suốt những năm theo học ở các trường đại học, tôi học khôn được một chuyện là ở quê hương mình, lý lịch có thể giúp một người đi xa đến bao nhiêu, và ngược lại, có thể tàn phá hành trình đến tương lai nhanh đến nhường nào.
Cho đến hôm nay, khi câu chuyện về anh thanh niên 30 tuổi nhận chức giám đốc Sở ở tỉnh Quảng Nam bị đưa vào các cuộc tranh cãi, tôi lại đọc thấy các phát ngôn trên các trang báo của Nhà nước bảo vệ cho vị giám đốc Sở trẻ trung ấy bằng những lời lẽ nhân ái mà tôi và thế hệ tôi chỉ có mơ mới thấy.
Trả lời phỏng vấn của báo Người Đưa Tin, ông Nguyễn Viết Chức, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa Thăng Long, nói rằng người tài không cần xét là con ai. Còn độc giả Vu Gia thì viết trên VietnamNet rằng "nhắc đến lý lịch làm gì?".
Tôi chúc phúc cho anh giám đốc Sở 30 tuổi ấy. Và hy vọng rằng nếu anh may mắn được bảo vệ ở đủ chiều cho chức vị ấy, hãy cố gắng chứng minh khả năng của mình với đất quê Quảng Nam nghèo khó. Anh hãy chứng minh là một người lãnh đạo minh bạch và tử tế để vượt qua mọi cái nhìn ghẻ lạnh của dân chúng lúc này.
Anh ta may mắn hơn những người bạn của tôi, của thế hệ tôi.
Những ai từng học qua ở Nhạc Viện vào cuối thập niên 90 chắc đều còn nhớ tay chơi viola tài hoa Phúc Hải. Anh được nhận học ở Nhạc Viện bởi ngay từ lúc thi tuyển, các thầy cô chuyên môn đã nhận ra đó là một tài năng hiếm có. Những năm cuối của bậc đại học, Phúc Hải được các chuyên gia âm nhạc của Nga đến nghe và lập tức chọn để cho học bổng tu nghiệp ở Moscow. Cũng như mọi câu chuyện lãng mạn về âm nhạc, như Đặng Thái Sơn, sinh viên Phúc Hải có thể thử sức mình ở một môi trường thử thách với tài năng của anh.
Thế nhưng vào buổi chiều hôm đó, Phúc Hải được tin anh không được nhận học bổng đi du học, vì ba của anh là thành phần của chế độ cũ. Thầy tôi, giáo sư Đinh Sơn, một đảng viên có hơn 30 tuổi đảng, là người ra sức bảo vệ sinh viên Phúc Hải nhưng rồi thất bại. Ông buồn bã nói với tôi rằng có lẽ ở đất nước này, chuyện lý lịch là một cái bẫy công khai nhưng ai cũng phải bị vướng một lần.
Tôi chúc cho tất cả những bạn trẻ làm quan ở tuổi thanh xuân phô phới hôm nay, sẽ không có những ngày tháng hoang tàn như bạn bè tôi. Dù bên tai tôi nghe vẫn vo ve những xảo ngữ về chuyện lý lịch không quan trọng, tôi vẫn mong đất nước này người tài có thể cống hiến, và tham vọng cha truyền con nối chức vụ chỉ hiếm hoi ở bọn đê tiện.
Buồn chán, anh sinh viên Phúc Hải tài năng mà tôi biết đã bỏ trường và bỏ hẳn đàn. Sau đó ít lâu anh đi nước ngoài theo diện H.O. Anh là một trong nhiều trường hợp không may về lý lịch. 
Lý lịch không phải là chuyện của hôm qua hay hôm nay mới trở thành chuyện bàn cãi, mà Việt Nam đã từ lâu ghi nhận câu chuyện của nghệ sĩ Đặng Thái Sơn với lý lịch có cha Đặng Đình Hưng, là một nghệ sĩ bị chỉ định cư trú kèm theo dõi của công an vì đã tham gia các phong trào Trăm Hoa Đua Nở, Nhân Văn Giai Phẩm. Nếu không có nghệ sĩ dương cầm người Nga Issac Katz ra sức bảo vệ và tìm đủ mọi cách để mang ra khỏi Việt Nam vào năm 1974, thì chưa chắc thế giới đã có một Khôi nguyên người Châu Á giải Chopin quốc tế tại Warsaw, Balan vào 1980.
Chúng ta không muốn nói về lý lịch. Thật vậy. Nhưng rõ ràng lý lịch đã là một hiện thực bất khả biện trên đất nước này, và đã gieo không ít hoang tàn lên tuổi trẻ của chúng ta và nhiều người khác. Vậy hãy đối diện với nó, trò chuyện với nó, chứ đừng tảng lờ và giả nhân giả nghĩa.
Tháng 9/2015, tôi gặp lại anh Nguyễn Hoàng Phương, từng là một trong những tay chơi Oboe xuất sắc của khoa kèn và dàn nhạc giao hưởng của Sài Gòn. Năm 1993, anh Phương cũng từng được cử dự tuyển đi du học ở Nga, như một trong những hạt nhân xuất sắc của dàn nhạc giao hưởng thành phố. Thế nhưng trước vài giờ vào phòng thi tuyển với chuyên gia người Nga, anh được thông báo của bên giáo vụ cho biết anh không đủ tư cách dự tuyển, cũng do có ba là sĩ quan VNCH - dù ba anh đã rời trại cải tạo và về nhà vài năm trước đó.
Còn rất nhiều người mà tôi chưa thể kể hết ở đây. Còn rất nhiều những câu chuyện mà thỉnh thoảng, khi chúng tôi ngồi lại, buồn ngơ ngác vì chỉ thấy hoang tàn trên tuổi xanh của thế hệ mình. Chẳng bao giờ chúng ta có thể thấu hiểu được mất mát nếu cứ giả vờ như những kẻ bại liệt lương tri và ý thức.
Mất mát sẽ là một bài học gần gũi và nhân ái nhất để nhận ra rằng lý lịch chỉ là chuyện vặt cần phải bước qua, nếu tuổi trẻ sớm được trao cho cơ hội để cống hiến danh dự, trách nhiệm cho tổ quốc. Nhưng tuổi trẻ sẽ mãi mãi hoang tàn, nếu chỉ biết nhìn quê hương như những phần ăn giấm giúi cho nhau dưới gầm bàn quyền lực. Tuổi trẻ đó, thời đại đó, không khác gì dành loài dã thú.
 http://www.rfavietnam.com/node/2834


SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

Nhà Thơ & Nhà Thổ


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ.

Nguyễn Khoa Điềm
Thỉnh thoảng, tôi cũng có (lén) làm một bài thơ ngăn ngắn. Những câu thơ được ghi chép nắn nót trên những trang giấy trắng tinh, rồi trân trọng gửi đến những toà soạn báo (ở khắp mọi nơi) với địa chỉ tác giả, ghi rõ ràng ở mép trái của phong bì.
Tất cả sáng tác của tôi, than ôi, đều “một đi không trở lại.” Chưa bao giờ tôi nhận được hồi âm, dù muộn.
Cứ thế, từ thập niên này sang thập niên khác, tôi sống thường trực trong tâm trạng của một kẻ đợi chờ trong buồn rầu, và ... thất vọng. Tôi thất vọng vì tài năng thi phú của mình không được người đời nhìn nhận!
Cho đến chiều 25 tháng 4 vừa qua – tình cờ, và bất ngờ – tôi đọc được vài dòng nhắn tin (ngắn ngủi nhưng rộn ràng) qua F.B:
Thái Kế Toại toTưởng Năng Tiến
April 25
Xin chào anh. Tôi đã tuyển thơ anh in trong tập Vầng trăng lưu lạc. tuyển tập thơ hải ngoại cho NXB Hội Nhà văn, Hà Nội xuất bản năm 1994. Lê Hoài Nguyên
Úy Trời/ Đất, Qủi/ Thần, Thiên/ Địa, mèn đéc, ơi! Sao thơ của con người ta được in từ hồi năm 1994 lận mà sao tới bữa nay mới chịu cho hay (“kỳ cục vậy”) cha nội? Thì tui cũng làm bộ trách “nhẹ” cho nó có vậy thôi, chớ trong bụng (nói thiệt tình) vui râm ran nguyên tháng và sướng âm ỉ gần năm! Cái ước vọng được chường mặt ra trong thơ của tôi, cuối cùng, đã trở thành hiện thực.

Cụm từ này tôi học được từ một bài viết ngắn (“Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm”) trên báo Lao Động, số ra ngày 5 tháng 6 năm 2011: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ.”

Đúng là ngôn ngữ và phong cách của một nhà qúi tộc, nhà thơ và “nhà  chính trị” theo như nguyên văn của  Wikipedia – tiếng Việt:
Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương; sinh 15 tháng 4 năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông là ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, cựu Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Nguyễn Khoa Điềm sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Thân sinh của ông là nhà báo Hải Triều, thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dương (tỉnh Hải Dương cũ nay là Hải Phòng). Quê quán: làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Lúc nhỏ Nguyễn Khoa Điềm học ở quê. Năm 1955 ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.
Sau đó, ông vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ... cho đến năm 1975. Nguyễn Khoa Điềm từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, ông được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Vào thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ.

Tôi sinh sau đẻ muộn nên không có cái may mắn được sống cùng thời/cùng nơi với Bộ Trưởng Văn Hóa Nguyễn Khoa Điềm, chỉ được nghe (tiếng) ông chính là nhân vật đã (“lỡ”) ném vào máy nghiền cuốn Chuyện KNăm 2000 của Bùi Ngọc Tấn.

 

Tiếng dữ đồn xa, và đồn nhanh nên mãi sau này tôi mới biết thêm rằng ngoài việc làm văn hoá, ông còn làm thơ nữa, và là một tác giả quan trọng, với tác phẩm đã được đưa vào giáo trình văn học cách mạng. Chương trình lớp 9, môn văn, có bài “Phân Tích Thơ Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Xin được trích dẫn, đôi đoạn, để mọi người cùng thưởng lãm:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc.
Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biêt bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc.
Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.
Sau khi đất nước “sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thống nhất” thì ông Nguyễn Khoa Điềm chuyển đổi công tác từ nhà làm thơ sang nhà làm chính trị. Em cu Tai cũng chuyển đổi chỗ ngủ, từ lưng mẹ sang lưng anh hay lưng chị:
Ru em vào giấc ngủ.
Anh đứng đó ê a ...
Ba mẹ đi làm xa.
Em ơi ngon giấc nhé.
Cô gọi anh lên bảng.
Anh đọc cả lớp nghe.
Cô vội đi tìm chiếu.
Nhưng chiếu ở đâu ra?

nh: soha
Ba mẹ nơi chốn xa.
Thương con nhiều biết mấy.
Chiều nay trời đừng lạnh....
Mẹ mang gạo về rồi !!!
Ô! thằng em tỉnh giấc.
Bỗng nó nhoẻn miệng cười.
Anh ơi em hết ngủ.
Lưng anh ấm áp ghê!!!
Chân anh không cần dép
Áo anh xẻ cánh tay
Dây địu em mẹ xé...
...Áo rách mẹ hôm xưa.
Ngày mai em lớn lên
Lưng anh gù thêm chút.
Và rồi em có biết
Em lớn dậy có anh?

Ảnh: tin.vn
Ngày xưa: “từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường.” Nay trên từ lưng chị em ra thị trường để “làm kinh tế,” ngay tại lề đường, theo bản tin của trang Một Thế Giới:
 “Những em bé H'mông dù lên 9, lên 10 hay chỉ mới lên 5, lên 6 cũng có thể kiếm ra tiền với vô vàn hình thức khác nhau, từ việc bán cành đào mỗi dịp Tết, bán những móc chìa khóa lưu niệm, bán dây trang trí đeo tay hay thậm chí chụp ảnh chung với khách du lịch rồi xin tiền...”

  Ảnh: motthegioi.vn
 “Điều đáng sợ nhất đối với người H.Mong là hiện tại, đã có nhiều cô gái H.Mong chấp nhận làm gái điếm để bán mình làm giàu. Người Kinh khi nói về các cô gái điếm H.Mong thường dùng hai chữ ‘gà mọi’ hoặc ‘chơi mọi’ để giễu cợt, khinh khi” – như lời của Nhóm Phóng Viên Tường Trình Từ Việt Nam, nghe được qua RFA, vào hôm 8 tháng 5 năm 2015:
Cái ước mơ “mai sau con lớn làm người tự do” mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dành (riêng) cho những người dân vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng năm nào – tiếc thay –  đã không trở thành hiện thực. Sự thực, rõ ràng, đã không thiếu ê chề mà còn thừa cay đắng.
Nỗi ê chề và đắng cay này, từ nay, được thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm gói gọn trong thơ  những câu thơ buồn thiu và yếu xìu hà:
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả

Cái khí thế (Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông / Mẹ địu em đi để giành trận cuối) nay không còn nữa nên nhà thơ của chúng ta đã bị chê trách là “đổi giọng.”
Lời “chê trách” này khiến tôi nhớ đến nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn về một tác phẩm khác, viết lúc cuối đời, của một tác giả quen thuộc khác:
“Gọi là ‘Đi tìm cái Tôi đã mất’ cho sang. Ở đây tác giả không định đi tìm cái gì cả... Thế tại sao Nguyễn Khải lại viết ‘Đi tìm cái Tôi đã mất’? Theo tôi, trường hợp này cũng giống như Chế Lan Viên viết ‘Di cảo thơ’, và Tố Hữu tâm sự với Nhật Hoa Khanh. Thực chất cái việc các ông ‘cố ý làm nhòe khuôn mặt của mình’ như thế này là cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào mình đã sử dụng.”
Tình hình, rõ ràng, đã khác và khác lắm nên nếu đúng là nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có đang chuẩn bị “sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới” (theo tôi) cũng là chuyện tốt thôi. Lo xa vốn là một đức tính, không có gì đáng phải phàn nàn.
Tôi chỉ hơi “tâm tư” chút xíu về sự lựa chọn thời điểm xuất hiện trong thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ.” Nhà thổ thì ai cũng có thể chường mặt vào bất cứ lúc nào, còn ở nơi được mệnh danh là cường quốc thơ mà chuyện ra/vào cũng (y) như vậy hay sao?


SƠN TRUNG * LÝ DUYÊN KHỞI


LÝ DUYÊN KHỞI VÀ CỘNG SẢN 

SƠN TRUNG

Cuộc đời nhiều bất công nhưng con người ai cũng mong ước có sự công bình mãi mãi, ở đời này và đời sau. Bởi vậy các triết gia và tôn giáo thường chủ trương thuyết nhân quả. Nhân (Nhơn )là cái nguyên do, cái cớ; Quả là cái trái, kết quả. Nhơn Quả là Nhân nào thì Quả nấy. Nhân ví như cái hột, Quả ví như cái trái. Hễ gieo hột dưa thì mọc lên cây dưa, cho ra trái dưa; gieo hột đậu thì mọc lên cây đậu, rồi cây đâu sinh hạt đậu chứ không thể khác.  Phật giáo chủ trương thuyết nhân quả. Nho giáo cũng chủ trương nhân quả. Nho giáo cho rằng Thượng Đế là quan tòa công minh:


積善逢善,積惡逢惡
種瓜得瓜,種豆得豆
天網恢恢,蔬而不漏

Tích thiện phùng thiện, Tích ác phùng ác
Chủng qua đắc qua, Chủng đậu đắc đậu
Thiên võng khôi khôi, Sơ nhi bất lậu

(Làm việc thiện thì gặp điều lành, làm ác gặp điều dữ;
Trồng được dưa, trồng đẩu được đâu.
Lưới trời thưa mà không lọt)

Luật ấy không bao giờ sai chạy, đó là Luật Nhân Quả.

Một cái nhân tạo ra cái quả, quả nầy tạo ra nhân mới, nhân mới lại tạo ra quả mới, cứ thế tiếp diễn mãi. Nếu như muốn không có quả thì đừng tạo nhân. Luật Nhân Quả thể hiện sự công bình của Trời Đất.

Đấng Thượng Đế chí công vô tư, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Đấng ấy lập ra Luật Nhân Quả và cầm cây cân Công bình thiêng liêng để cho Luật Nhân Quả tác động một cách chính xác công bình.


Các tôn giáo khác cũng vậy, nếu không thì sao các tôn giáo dựng lên thiên đàng, địa ngục? Thiên chúa giáo còn nói đến ngày phán xét cuối cùng. Khoa học cũng chủ trương nhân quả. Nước trăm độ thì sôi, H +2O thành nước không thể có kết quả khác.

Đạo Phật còn chủ trương Lý Duyên khởi, nghĩa là sự vật liên hệ với nhau. Thuyết này chỉ rõ là mọi hiện tượng tâm lí và vật lí tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này làm loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong Luân hồi (sa., pi. saṃsāra).
Thuyết Duyên khởi dạy:


Nếu cái này tồn tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt.


Đức Phật cho rằng trùng trùng duyên khởi, các nọ sinh ra các kia cứ như vậy mà tiếp diễn.

Đạo Phật cũng nói nói nhân quả nhưng sự vật, vũ trụ vô thủy vô chung,  Thuyêt nhân quả và Lý duyên khởi đi với nhau mặc dầu cũng có khoảng cách. Lý Duyên khởi là Vô ngã nghĩa lả tự vật sinh ra, không do thượng đế hay ai chủ trương. Người Việt Nam nói "Sinh sự thì sự sinh" Vạn vật tư nhiên liên đới với nhau, cái nọ sinh ra cái kia cũng trong vòng nhân quả.


Chúng ta không biết khi vũ trụ mới hình thành, con người là cái giống gì. Là con sâu, con cá, hay con khỉ?

Chúng ta chỉ nói giai đoạn con người đã là con người, sống thành từng bầy, ăn chung ở chạ như bầy gà, đàn chim, đàn cá, đàn voi...Đó là thời cộng sản nguyên thủy.

Nhưng con người có người thiện kẻ ác, người yếu kẻ mạnh, người khôn kẻ ngu. Người khôn, người mạnh cướp hết thực phẩm, kẻ yếu, bệnh phải chịu lép vế, chịu đói rét. Đàn bà trở thành trò chơi tập thể cho bọn đàn ông. Xong rồi đi mặc cho đàn bà yếu đuối và con thơ bé bỏng. Lậi nữa, đàn bà con gái đẹp thì nhiều đàn ông yêu thich, đưa đến ghen tuông, tranh chấp, chém giết, thù hận. Cũng vì thế mà gái đẹp bị bắt coc, rồi bắt lao động quá sức sinh ra bệnh tật, chết chóc. Vì vậy các bậc trưởng lão phải đứng ra phân xử, từ đó có hôn nhân, giá thú, cưới hỏi mà thành vợ chồng. Cũng vậy, cái hang này, mảnh đất này thuộc bộ lạc này nhưng bộ lạc khác muốn chiếm. Do đó có sự lập quốc, bảo vệ lãnh thổ, lập ra  các quốc gia riêng biết. Muốn hòa bình thì nước nào sống yên nước đó, không được xâm chiếm nước khác.. Chế độ cộng sản nguyên thủy nay chuyển qua tư hữu với các bộ lạc sau thành phong kiến. Voi rừng, heo rừng, chim cá...vẫn giữ nguyên chế độ cộng sản còn con người sau những bất lợi đã từ bỏ nó mà chủ trương tư hữu.

 Marx muốn trở lại thời cộng sản nguyên thủy. Nhân lúc tư bản nổi lên, ông liền hô hào chống tư bản, dùng nhãn hiệu tranh đấu cho giai cấp vô sản, xóa tan bất công xã hội. Trước ông đã có nhiều nhóm tỗ chức đời sống cộng sản  . Sir Thomas More (1478 – 1535), được phong thánh (Saint Thomas) cũng là một luật sư, tác giả quyển tiểu thuyết giả tưởng  Utopia, là một tiểu thuyết vạch ra một thiên đường hạ giới, một chủ nghĩa cộng sản xanh. Nhiều người theo Thomas More. Triết gia kiêm chính trị gia Anh quốc,James Harrington, là tác giả The Commonwealth of Oceana, đã có ảnh hưởng đến ba tiẻu bang  Carolina (thành lập năm 1670), Pennsylvania (1681), và  Georgia ( 1733)  trong chiều hướng thảnh lập các cộng đồng Utopia. Tiểu bang  Georgia  đã tổ chức chế độ nông nghiệp bình đẳng, ruộng đất được chia đều., cấm mua bán và truyền tử lưu tôn.  Chủ trương này được Thomas Jefferson.
 ( 1743 – 1826)   )  của Mỹ hưởng ứng. (Wikipedia)


Nhưng những xã hội theo kiểu  Utpia  đều thất bại vì cha chung không ai khoc và không phải "bàn tay ta làm nên tất cả "!. Marx khôn lanh khi nghĩ rằng tự minh tay trắng xây dựng xã hội thì khó lắm. Phải cướp của giết người mới mau giàu và mạnh. Bởi vậy, Marx đưa ra chủ trương cướp của giết người trong Tuyên Ngôn đảng Cộng sản. Cướp của giết người, kìm kẹp, khủng bố, bóc lột nằm ở chủ trương tịch thu tài sản tư sản , bãi bỏ tư hữu, vô sản chuyên chính và cưỡng bách lao động..
Marx củng khôn ngoan khi khuyến cáo phải tiến lên cộng sản sau khi đã xây dựng xong chủ nghĩa tư bản vì lẽ cướp nhà giàu sướng hơn cướp nhà nghèo. Cướp nhà giàu thì có vàng bạc lụa là, cướp nhà nghèo chỉ có áo rách, khoai sùng. Marx khinh cái đám Á châu nghèo hèn không thể tiến lên cộng sản. Nghèo lạc hậu mà theo cộng sản chỉ là tự tử.

Nhưng Lenin không thể nhịn được. Cướp được chính quyền là tổ chức theo cộng sản. Phải làm vua ngay mới sướng, còn chờ xây dựng xong từ bản thì lâu lắm Nga và Trung Quốc mới thành Âu Mỹ tư bản. Nghèo đói lạc hậu như Nga, Trung Cộng mà theo Cộng sản và đua với Âu Mỹ thì chỉ có nước chết. Nhân nào quả nấy, hậu quả rõ ràng. Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông " tiến lên " cộng sản mà bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản cho nên thất bại trăm đường. Nhân như thế thì sinh ra quả đắng:

-Dân chúng phản kháng

-Dân chúng và cán bộ không tich cực làm việc, phá hoại trộm cắp bí mật.

-Tài sản thuôc vào tay một vài người hay một nhóm người, họ trở thành giai cấp mới, ngang nhiên chiếm các vai trò then chốt trong chính trị, kinh tế, quân sự quốc gia. Chúng đem vợ con chúng ngồi trên đấu dân chúng, ngang nhiên cướp nhà, chiếm đất và bán nước cho ngoại bang.

-Đệ tam quốc tế là một tổ chức của Stalin nhắm bắt các nước cộng sản đàn em làm nộ lệ cho Liên Xô. Sau Liên Xô yếu thế, Trung Cộng vươn lên chiếm vai trò hoàng đế trong đế quốc cộng sản.


Kết quả dân chúng nghèo khổ, cộng sản nắm trong tay hàng tỷ dollars Mỹ và gửi tiền ra ngoại quốc, ngân hàng trở thành trống rỗng, đất nước tan hoang vì đạo tặc và vô đạo đức.


Dù thế nào đi nữa, dù chờ tiến lên tư bản chủ nghĩa  như Marx, hoặc chủ trương dân chủ hoặc ôn hòa  như Martov,Trotsky, chủ nghĩa cộng sản cũng thất bại bại vì con người ai cũng thich  tư hữu, thich tự do, không thich làm nô lệ hoặc bị đàn áp. Thực tế cho thấy Marx khoa trương, dối trá khi  giương cao khẩu hieệu bênh vực vô sản và tổ chúc xã hội bình đẳng,  thịnh vượng. Thực tế là đói khổ, mất độc lập, tự do, dân chủ. Hiện tượng này là quá rõ ràng và phổ biến trên toàn thế giới cộng sản, không phải là hiện tượng riêng lẻ. Trong khi đó, chủ nghĩa Marx đã không thành công ở Âu Mỹ, chỉ thành công ở các nước nghèo đói, bi ngoại bang xâm chiếm.

Và việc này đưa đến kết quả là lòng dân căm thù, một ngày nào đó nhân dân sẽ vùng lên tiêu diệt cộng sản để xây dựng một Việt Nam tự do, dân chủ và giàu mạnh.



NGUYỄN KHÔI =TRƯỜNG QUỐC HỌC =BIEN DONG

Saturday, October 10, 2015



NGUYỄN KHÔI * EM LÀ NGƯỜI HÀ NỘI


        EM LÀ NGƯỜI HÀ NỘI
(Tặng những ai là Người Hà Nội gốc)
                   -------
Lời thưa : trên trạng mạng xã hội Facebook mấy hôm nay đang lan truyền bài thơ "Em là Người Hà Nội" của Nguyễn Khôi viết ngày 12-6-2010, có đăng trên một trang Web bạn bè nào đấy (không nhớ ?) chưa đưa in trên báo giấy nào  , đã bị Tác giả "loại" ra  , không đưa vào  tập thơ "Chiều phố Vọng" đã xuất bản năm 2011...Vốn quan niệm từ hồi còn cắp sách tới trường nghe Thầy dạy :"Nhà văn, nhà thơ là Thư ký thời đại", không viết thì thôi, nhưng đã là Tác phẩm văn học thì phải để lại cái "Vết thời gian" mà anh ta đã sống. NK tôi về ở có "hộ khẩu Hà Nội" từ 1984 đến nay đã 30 năm có lẻ, nhưng vẫn cảm thấy mình chưa phải là Người Hà Nội đích thực...?!
Nhân đọc một mấy  bài báo của Nhà thơ Hoàng Hưng về "Người Hà Nội" xưa thanh lịch , hào hoa...rồi lại nghe một vị Giáo sư đầu ngành Ngôn Ngữ Học (người Hà Nội gốc) vào ở Sài Gòn đã lâu, nay ra Hà Nội ngỡ ngàng là phần lớn cư dân Hà Nội bây giờ phát âm rất khác, đến nỗi ông phải thốt lên : có lẽ chỉ có mình là nói ngọng ?
Tuy không sở trường về Thơ trào phúng nhưng NK thấy bức xúc đã hạ bút :
" Có hộ khẩu" nghĩa "là Người Hà Nội"
Thủ Đô của cả nước mà Em !
Nói ngọng líu "Em nà Người Hà Lội"
Vô tư đi...sao trong túi đầy Tiền.
                      *
Người Hà Nội - ơi em Người Hà Nội
Thời tự do mặc mốt Sex quá thường
"Vượt đèn đỏ" đâm chết người mặc kệ
Ăn bánh xong, vứt toẹt lá ra đường...
                      *
Người Hà Nội- ơi em Người Hà Nội
Yêu là yêu bất chấp miễn là "hên"
Từ Quê ra tìm "Sếp" mà ôm chặt
Có nhà lầu sướng hơn cả vượt biên.
                      *
Người Hà Nội- vui đời "dân làm chủ"
tha hồ xây, thỏa chiếm cứ vỉa hè
đem Rác thải lấn sông Hồng mặc "lũ" (lụt)
thành mấy Phường dày đặc "Phố ngoài đê" .
                       *
Người Hà Nội- ơi em Người Hà Nội
Ta vào dây "cò" đất phất trúng mùa
Chụp Chứng Khoán- thắng- thì- ôi Tỷ phú ,
Có chức quyền tham nhũng cũng chào thua !
                       *
Ôi bức xúc, Nhà Cầm Quyền ra "Luật" (1)
Người quá đông - ai nào chịu thi hành ?
-Người Hà Nội. "Em nà Người Hà Lội"
Thủ Đô của cả nước mà Anh ? !
---
(1) Luật Thủ Đô. Ở Việt Nam ta về sản xuất ra "văn bản Luật" và các loại "Lệ" , loại "phí " có lẽ về số lượng là đứng hàng đầu Thế giới , nhưng đi vào cuộc sống thì còn nhiều bất cập, hạn chế...do Dân trí thấp, buông lỏng Quản lý...?
      Hà Nội 12-6-2010

        NGUYỄN KHÔI




HOÀNG HUY HOÀNG * TRƯỜNG QUỐC HỌC

TRƯỜNG QUỐC HỌC
                                                Hoàng Huy Hoàng Phước Quyến




 


Các đồng môn Quốc Học Huế 1959 - 1962 sẽ tổ chức “quốc học 50 năm gặp lại” vào hạ tuần tháng 4 năm 2012 tại San Jose, đã là một học sinh Quốc Học Huế nên góp bài vào Đặc San phát hành dành cho dịp vui này. vào tuổi “thất thập”, hoàng hôn đời người, có thì giờ rãnh rỗi viết lách cũng là một thú tiêu khiển hữu ích cho tuổi già, song viết gì đây? Trường Quốc Học Huế có một bề dày lịch sử 116 năm 

(1896-2012) trong khoảng thời gian dài đó đã có biết bao thế hệ học sinh ra vào cổng trường này, đã có người làm nên lịch sử, có người dùng văn tài trí tuệ đóng góp tô điểm văn hóa xã hội nước nhà cận và hiện dại. Trong khi đang băn khoăn chợt nhớ đến hai câu thơ của Vua Tự Đức:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tàn y lại để dành hương”

giúp định hướng bài viết.

Kỷ niệm lúc nào cũng đáng trân quí, bới lại đống tro tàn nhắc lại điều xưa cũ có thể có người thốt lên “biết rồi khổ lắm, nói mãi”, nhưng cũng có người vì nhiều lý do khác nhau chưa được dịp nghe biết đến, và nhân dịp này cùng nhau ôn lại những “ngày xưa thân ái” đó, biết đâu có người bạn cũ nào đọc được, lòng sẽ cảm thấy vui vui vì đã có người vẫn còn nhớ tới, nói hộ cho… mình.


Qua lịch sử cho thấy nước ta có một nền văn hóa lâu đời rập khuôn theo Trung Hoa, Tam giáo đồng tồn Nho Thích Lão hòa quyện vào nhau làm nên bản sắc riêng của văn hóa Việt, trong đó Tam Cương của Nho Giáo nắm vai chủ đạo làm giềng mối cho xã hội: Quân-Thần Phụ-Tử Phu-Phụ”, chính tinh thần nho giáo này sản sinh ra các sĩ phu yêu nước lãnh đạo các phong trào Văn Thân Cần Vương chống Pháp gây nhiều khó khăn trong tiến trình xâm lăng và bình định. Hòa ước Patenôtre 1884 đặt Việt Nam hòan tòan dưới sự thống trị của thực dân Pháp, chính sách cai trị được thể hiện rõ qua lời Thống Sứ Paul Bert (*): “Khi một dân tộc vì một lẽ nào đó đã đặt chân lên lãnh thổ của một dân tộc khác thì có ba việc : Tiêu diệt kẻ bại, nô lệ họ một cách nhục nhã, hoặc đồng hóa họ theo mình” (Việt Sử Toàn Thư của Phạm văn Sơn). Giai đọan xâm lăng vũ lực đã hoàn tất, bước tiếp theo là xâm lăng văn hóa ổn định xã hội bảo đảm nền thống trị củng cố chính quyền thực dân. Muốn đạt được như vậy phải phá bỏ văn hóa chữ nho cũ, phổ biến văn hóa mới nhằm đồng hóa dân Việt với loại văn tự có mẫu tự la tinh, dùng tiếng Pháp và chữ quốc ngữ (**), đào tạo lớp người mới đọan tuyệt văn hóa ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhào nặn các thế hệ sau đi theo văn hóa phương tây để phục vụ mẫu quốc. Trần Tế Xương đã để lại dấu ấn xã hội lúc đó qua các bài thơ của ông.

Trên ghế bà Đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng
......
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông Phán
Tối rựơu sâm banh, sáng sữa bò
.......
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi giắt viết chì
Trong thời kỳ phôi thai, Pháp thiết lập vài trường làm nòng cốt của hệ thống giáo dục phổ thông mới đảm trách chiến lược trồng người mới cho các thế hệ kế tiếp. Năm 1867 Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp sau khi Cụ Phan Thanh Giản giao nốt ba tỉnh miền tây. Bảy năm sau (1874) Pháp lập trường Chasseloup-Laubat nay là Lê Quí Đôn ở Saìgòn. Năm 1879 lập trường Collège de Mytho,  thường gọi trung học Le Myre de Vilers nay là Nguyễn đình Chiểu. Mười hai năm sau khi đặt xong nền bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, năm 1896 lập trường Quốc Học Huế. Năm 1905 lập trường trung học Collège du Protectorat tức trường Bưởi Hà Nội. Các trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, sau mới giảng dạy đến các bậc cao hơn. Ở Trung Kỳ có ba trường đều mang tên Quốc Học đưọc mở vào những thời điểm khác nhau: Quốc Học Huế, Quốc Học Vinh và Quốc Học Qui Nhơn.

Trường Quốc Học Huế là trường đầu tiên có một lịch sử lâu dài nhất ở xứ bảo hộ so với các trường khác. Năm 1896 vua Thành Thái ra chỉ Dụ “Trẫm đã xét kỹ lời trình tấu. Vậy nay giáng dụ chỉ thành lập một trường lấy tên là "QUỐC HỌC" (xem chỉ Dụ đính kèm) chỉ có bậc Tiểu Học do ông Ngô Đình Khả làm Chưởng Giáo, Ông Nguyễn Văn Mại làm Phụ Tá Chưởng Giáo, Trường có tên École Primaire Supérieur (Cao Đẳng Tiểu Học) chủ yếu dạy tiếng Pháp, thứ yếu là chữ Quốc Ngữ và chữ nho. Từ năm 1902 chức Chưởng Giáo phải giao lại cho ngươì Pháp nắm giữ mãi tơí 1945 mới chấm dứt do Nhật thay Pháp thống trị. 




Cổng trường Quốc Học ngày thành lập tầng trên có gác chuông


Khởi thuỷ  trường được đặt tại trại thủy quân cũ của Nhà Nguyễn gồm hai dãy nhà tranh cột gỗ, năm 1911 bị hỏa hoạn cháy rụi. Năm 1915 trường được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói cơ bản giống như hiện thấy, được nâng lên thành Collège de Quốc Học dạy cấp hai gồm Thất Lục Ngũ Tứ. Tới năm 1936 trường mở rộng cơ sở tuyển thêm cấp ba gồm các lớp Đệ Tam, Đê Nhị, Đệ Nhất, trường chính thức mang tên Lycée de Khải Định cho đến năm 1946. Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, trường được Nhật cho mở cửa trở lại, bỏ tiếng Pháp, ông Phạm Đình Ái là Hiệu Trưởng người Việt đầu tiên của trường, các lớp học phải chuyển vào Đại Nội. Năm 1946 Pháp tái chiếm Huế, toàn quốc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, dân chúng tản cư, trường tách ra làm hai, một phần ở lại Huế một phần di chuyển ra Bắc, các lớp Thất Lục Ngũ Tứ đóng tại Hương Khê Hà Tĩnh có tên trường Bình Trị Thiên, các lớp Đệ Tam Nhị Nhất đóng tại Đức-Thọ Hà-Tĩnh mang tên trường Huỳnh Thúc Kháng (hậu thân Quốc Học Vinh sau này). Sau hồi cư các giáo sư còn lại hợp với một số ít người trong nhóm ra Hà Tĩnh quay về Huế phục hoạt trường Khải Định, thầy Phạm Đình Ái tiếp tục ra Bắc đến năm 1952 mới trở lại Huế, các Hiệu Trưởng kế tiếp:


Phạm văn Nhu (1947-1948),
Nguyễn Hữu Thứ (1948-1950)
Hùynh Hòa (1950-1954)
Nguyễn văn Hai (1954-1956)
Nguyễn Đình Hàm (1956-1958)


Trong buổi đầu tái họat động quí vị Hiệu Trưởng hẳn chắc phải vất vã rất nhiều, dồn mọi tâm huyết đối phó với việc thiếu trường ốc vì cơ sở Khải Định đang bị quân đội Pháp chiếm làm nơi đóng quân, phải mượn trường Thượng Tứ, Lê Lợi, Việt Anh (Nguyễn Tri Phương). " Giữa năm 1948, được tá túc chia một nửa cơ ngơi của trường Đồng Khánh. Khải Định được phân nửa nằm ở phía tây con đường đi từ cổng chính đến sân chơi (préau). Học trò của Khải Định đi học, đi vào cổng chính, nhưng chỉ được đi theo con đường đó một đoạn ngắn mà thôi. Qua khỏi văn phòng hiệu trưởng là phải rẽ vào con đường nhỏ đi thẳng đến dãy lầu lớp học. Học trò của Đồng Khánh đi học, đi vào cổng bên, phía dinh Phủ Doãn, qua khỏi cổng là đến ngay dãy lầu lớp học đối diện. Như vậy, con đường biên giới giữa hai ngôi truờng, trừ phần ngoài cổng chính đi vào, không một học sinh nào được phép đi lại. Sáng sáng, vào giờ tựu trường, chỉ thấy thầy hiệu trưởng Nguyễn Hữu Thứ thong dong đạp chiếc xe đu-ra bóng lộn từ cổng chính tiến vào, theo con đường biên giới đến cột cờ, từ từ rẽ sang phải, đi về phòng giáo sư, và trăm lần như một, xe thầy còn xa mới tới bậc thềm đã thấy bác Tôn tùy phái văn phòng chạy ra đỡ lấy xe mang vào bên trong. Đây là màn show rửa mắt buổi sáng quen thuộc của bọn học trò con trai chúng tôi.”(BS Hồ văn Châm kể)

Ngày 29 tháng 4 năm 1955 quân Pháp rút đi trả lại cơ sở trường Khải Định cho chính quyền Việt Nam, trường được mang tên Ngô Đình Diệm dưới thời Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Dương Đôn, thầy Nguyễn Đình Hàm làm Hiệu Trưởng (trong sân cờ của trường lúc tôi học có thấy dựng một bia nhỏ đánh dấu sự kiện này, không rõ ngày nay còn không). Tên Trường Ngô Đình Diệm chỉ hiện hữu trên giấy tờ chưa dựng bảng lên cổng trường, (đang trong quá trình cân nhắc chăng?). Có lẽ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cảm thấy không ổn vì trường đã do thân phụ ông, cụ Ngô Đình Khả, làm Chưởng Giáo đầu tiên nên ông ra Quyết Định lấy lại tên Quốc Học. Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Hàm là người lo toan sắp xếp tổ chức lại từ một nơi đóng quân trở thành trường học qui cũ khang trang không phải là việc đơn giản, công lao của những người góp tay trong quá trình phục hoạt lại trường phải được các thế hệ hậu sinh ghi nhớ. Trường mang tên TRƯỜNG QUỐC HỌC từ 1957 cho tới ngày nay. 




Nóí về Trường Quốc Học mà không nói đến Trường Đồng Khánh là một thiếu sót lớn. Lễ dặt đá xây dựng trường ngày 15 tháng 7 năm1917 dưới sự chủ tọa của vua Khải Định. Từ 1919 đến 1955 trường mang tên Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh, sau năm 1955 mới trở thành Trung Học Đồng Khánh chỉ có Đệ Nhất Cấp, lên Đệ Nhị Cấp phải qua Quốc Học mãi cho đến sau 1963 trường mớí có đủ các lớp Đệ Nhị Cấp, từ đó không còn thấy bóng hồng thấp thoáng trong sân Quốc Học nữa. 


 
Cụm từ Quốc-Học Đồng-Khánh luôn đi liền bên nhau, phải chăng định mệnh đã khiến hai trường gắn bó với nhau? Này nhé: hai trường đều nằm trong khu đất trại thuỷ quân Nhà Nguyễn, cùng nhìn ra sông Hương chỉ cách nhau một con đường nhỏ, đường Nguyễn Trường Tộ, hai trường đều quét vôi màu hồng đậm, học sinh hai trường cùng đi trên một con đường râm mát bóng cây, cùng xuôi Đập Đá về Vĩ Dạ, chợ Cống, qua cầu Trường Tiền hay ngược Dã Viên lên Cầu Lòn qua Kim Long, hoặc cùng đợi ở bến đò Thừa Phủ để vào Thành Nội về Gia Hội... đó là cơ hội tốt cho tình yêu thuở đầu đời chớm nở sẽ đâm hoa kết trái về sau. Như đã thấy có thời gian Quốc Học phải nương nhờ Đồng Khánh, ngược lại lên Đệ Nhị Cấp thì Đồng Khánh phải núp bóng Quốc Học vì vậy hai trường có nhiều liên hệ tình cảm, đã để lại mãi mãi về sau nhiều chuyện tình đẵm nước mắt, cũng như tràn đầy hạnh phúc….Hồi tưởng lại lòng đầy thương cảm vợ chồng Thầy Văn Đình Hy, Giám Học Quốc Học và Cô Đặng Tống Tịnh Nhơn, Hiệu Trưởng Đồng Khánh. Bất cứ người Huế nào lúc đó cũng thèm thuồng hạnh phúc đẹp đôi của họ.


Cùng năm 1917, tại Hà Nội được lập một trường Đồng Khánh bên cạnh Hồ Gươm, năm 1948 đổi thành trường Trưng Vương. Tại Sàigòn năm 1915 lập trường nữ Tiểu Học mặc áo tím nên thường được gọi là Trường Áo Tím, năm 1922 nâng lên Trung Học gọi Collège de Jeunnes Filles tức Gia Long sau này.

Trường Quốc Học Vinh ( Collège de Vinh) được lập năm 1920 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Hiệu Trưởng đầu tiên là ông Pihet. Người Việt Nam đầu tiên làm Hiệu Trưởng là ông Vũ Đức Thân, người cuối cùng là ông Nguyễn Ngọc Cầu từ 9/1949-9/1950. Năm 1943-1944 trường được đổi tên thành Trường Nguyễn Công Trứ. Quân Trung Hoa lấy trường Nguyễn Công Trứ làm nơi đóng quân nên đầu năm học 1945 - 1946 học sinh phải học ở dinh Đốc học trong thành Vinh. Sau tạm ước 6-3-1946 quân Trung Hoa rút về nước học sinh lại trở về trường cũ học cho đến hết năm học 1945 – 1946, niên khóa 1946 - 1947 chỉ học được vài tháng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chính sách “tiêu thổ kháng chiến” đã phá hủy trường hoàn toàn. Cơ sở Trường Quốc Học Vinh không còn tồn tại, hiện nay Trường Huỳnh Thúc Kháng là hậu thân của Quốc Học Vinh. (Theo Phan Trọng Báu-văn hóa Nghệ An).

Trường Quốc Học Qui Nhơn được nâng lên từ một trường Tiểu Học. Niên khóa 1921-1922 trường Pháp-Việt Qui Nhơn (nay là trường Tiểu Học Lê Lợi), mở thêm lớp Đệ nhất niên, được đổi thành Trường Quốc Học Qui Nhơn (Collège de Qui Nhon). Sau lớp này học sinh phải ra Quốc Học Huế học tiếp lên trên. Niên khóa 1924-1925 trường di chuyển đến vị trí khác (nay là khu vực Tiểu Học Lê Hồng Phong). Niên khóa 1926-1927 trường hoàn chỉnh cấp Cao Đẳng Tiểu Học và có đủ 10 lớp từ lớp năm lên Đệ Tứ (lớp 1 đến lớp 9). Trường có khoảng 400 học sinh người các địa phương từ Đànẳng đến Phan Thiết và các tỉnh Tây Nguyên. Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã học ở đây trước khi ra Quốc Học Huế. Trong thời chiến tranh Việt-Pháp trường bị phá hủy. Năm 1955 chính quyên mới xây dựng lại trường trên nền cũ bị thu hẹp vì dân chiếm dụng trong thời chiến, ngôi trường mới được xây dựng mang tên Trung Học Cường Để. Sau 1975 trường đổi tên Trường cấp III Quang Trung. Niên học 1991-1992 trường mang lại tên Quốc Học Qui Nhơn. ( quochocquynhon.edu.vn)

Trên đây là đại lược quá trình hình thành các trường học vào buổi bình minh nền giáo dục mới trong đó có Quốc Học Huế nơi mà tôi chỉ có duyên vào ra trong ba năm cuối của bậc Trung Học. Nhân viết về Quốc Học nên có đôi giòng về đời học sinh với nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong đó có thời gian ở Quốc Học, kể lại nơi đây biết đâu “ai đó” đọc được, giúp gợi nhớ quá khứ thời học trò nhiều vụng dại:
 

“Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi”
  TTKh

Sau khi hòa bình lập lại tôi vào học Trường Tiểu Học Tương Lai Bồ Điền thuộc nhà Thờ Bồ Điền do Cha Lập cai quản, giáo viên là các Soeurs (thường gọi là Chị): chị Chiên làm Hiệu Trưởng, Chị Thái dạy lớp Nhất, Chị Ban dạy lớp Nhì. Mùa hè 1956 lên Huế thi Tiểu Học tại trường Thanh Long. Tiệm tạp hóa La Ngu trên đường Hàng Bè ở gần cầu Đông Ba là nơi tôi mua bút mực chuẩn bị cho ngày thi Tiểu Học. Các bạn cùng lớp còn nhớ tên là Trần Nhạn, Thái Bình Minh, Vỏ Cừ, Vỏ Y, Ngô Hiệu. Hết hè năm đó lên Huế trọ học ở đường Ô Hồ, sau mang tên đường Mạc Đỉnh Chi. Nơi đây có Mã Ông Trạng sau lưng chùa Diệu Đế, có lẽ vì vậy nên khu vực này nhiều đường mang tên các danh sĩ nước nhà như đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tức đường Đò Cồn đi thẳng đến bến Đò Cồn (bến đò nối liền Huế với Cồn Hến), đường Trung Bộ mang tên Tô Hiến Thành, đường Ngự Viên đổi lại đường Nguyễn Du (không phải đường Ngự Viên hiện nay song song với đường Diệu Đế). Niên khóa 1956-1957 là năm học đầu tại Trường Nguyễn Du ở đường Ngự Viên, âm hưởng Ngự Viên nghe khá nên thơ vì nơi đây có vườn Ngự Uyển. Khi tôi đến đây Ngự Viên chỉ là một khoảng đất có tường rào xiêu vẹo, đổ nát, cổng đi vào có mấy trụ biểu đã loang lổ vì thời gian, bên trong được trồng hoa màu có mấy gian nhà tôn lụp xụp, cảnh huyên náo xôn xao ngựa xe áo quần lượt là, mùi thơm sực nức ướp hương của các cung tần mỹ nữ, màu sắc cờ quạt áo mão cân đai của các đình thần quan lại, các tân khoa trạng nguyên bảng nhản thám hoa…đã theo gió bay xa, chỉ còn mây trắng bay bay trong bầu trời xanh mông mênh….. “Bạch vân thiên tải không du du”, và tiếng gió rì rào qua xóm nghèo xơ xác, lòng xao xuyến nhớ lại bài thơ XÓM NGỰ VIÊN Nguyễn Bính đã tả về Ngự Viên (đính kèm toàn bài):
……………………………….
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
…………………………………..
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
…………………………………
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên


Trường Nguyễn Du lúc đó chỉ có Đệ Nhất Cấp, nam nữ học chung. Lớp tôi có khoảng chừng bốn mươi, nữ sinh chiếm ba, bốn bàn đầu bên phải nhìn lên bảng đen. Những tên Tôn Nữ Thu Hương, Nguyễn Thị Liên Hương, Trần thị Thanh Xuân, Nguyễn thị Chanh, Hồ Xuân Tịnh, Nguyễn Khoa Bông, Lê Vầm, Lê Vệ, Bùi Hữu Vịnh, Nguyễn văn Chánh, Nguyễn chánh Sáu, Lê văn Ngăn, Nguyễn văn Châu, Nguyễn thanh Châu, Nguyễn Ngân, Nguyễn Khắc Lý... ở Đệ Thất Lục . Lên Đệ Ngũ Tứ có thêm Phan thị Hằng, Phan thị Xuân, Nguyễn Thúy Liệu, Nguyễn Thị Kim Quyên, Trần Nhơn, Vĩnh Cao, Lê cảnh Tuấn, Lê quang Dật, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn hữu Dật, Nguyễn văn Thọ …..Tốt nghiệp Trung Học Đệ Nhất Cấp xong có người vào trường chuyên nghiệp như Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Cán Sự Y Tế Huế, Nữ Hộ Sinh Quốc Gia (Sâge Femme Huế), Cán Sự Bưu Điện Sàigòn…Người nào học lên phải thi vào Quốc Học (đỗ hạng Bình khỏi qua thi tuyển), không đỗ thì vào Trường Trung Học Bán Công Huế, trường Mê Linh, trường Bồ Đề Hữu Ngạn..
 

Lên Đệ Tam Quốc Học chỉ còn gặp vài bạn như Trần Nhơn Ban A, Vĩnh Cao, Hồ Xuân Tịnh ban B, Lê văn Ngăn Ban C, các bạn khác thời Nguyễn Du không còn gặp nữa không rõ đi đâu. Lớp Đệ Tam B3 nằm trong dãy nhà trệt mới xây dựng dọc bờ tường giữa Quốc Học Đồng Khánh. Các bạn mới có Lê Đức Viêm, Lê Lợi, Trần đình Văn, Bùi Thiệp có nước da ngăm ngăm đen, một cầu thủ chủ yếu của đội bóng tròn Quốc Học (bóng tròn ngày nay gọi là bóng đá xem ra hợp lý hơn, chứ bóng tròn thì bóng nào chả tròn). Kỷ niệm khó quên là chuyện đá thạch anh mà Trần đình Văn nhờ cô Trần Thị Như Lưu, giáo sư vạn vật, lấy trong túi quần, và bạn Trương đình Thư đi học bằng xe gắn máy. Những giờ nghỉ giữa buổi hoặc cuối tuần Thư thường hay chở đi chơi nhiều nơi (thời này học sinh hiếm có xe gắn máy), cuối năm Đệ Tam bạn Thư đi đâu không rõ. Giờ ra chơi bọn Đệ Tam chúng tôi thường tụ tập dọc hành lang đối diện với dãy nhà hai tầng có các lớp Đệ Nhất với một số ít nữ sinh Đồng Khánh học trong đó, chỉ chỏ luận bàn lung tung hò reo chọc phá các đàn chị Đệ Nhất, có chị Tương Giang con Thầy Hiệu Trưởng, đúng là nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò.


Về thầy giáo, năm Đệ Tam có Thầy Nguyễn như Truyền dạy Quốc Văn, thầy Tôn Thất Dinh dạy Anh văn, chúng tôi đặt biệt danh “keep silence” vì thầy luôn luôn nói keep silence mỗi khi thầy tới lớp. Thầy Nguyễn Hữu Kiêm dạy tóan, thầy hắc ám nhất, thầy ra tóan quá khó, phần đông 2/3 dưới điểm 6/20. Thầy lấy bài ca dao ra biểu áp dụng đại số lập phương trình để tìm số người nói tới trong đó (lâu ngày quên bài ca dao đó), thầy luôn luôn mang tất (vớ). Thầy Trần Đình Bình dạy Lý Hóa kiêm Giáo Sư hướng dẫn, thầy có dạy ở trường Bán Công Huế và kết hôn với Phan thị Xuân một hoa khôi của Nguyễn Du. Thầy Đòan Nê dạy Pháp Văn, thầy say sưa giảng về thời Phục Hưng (Renaissance) của văn học Pháp với giọng khàn khàn trầm trầm nhừa nhựa, thầy hay kể nhiều chuyện vui trong văn học Pháp, chúng tôi hay xin thầy kể tiếp, rất thích nghe (để thầy không còn giờ truy bài chúng tôi), kể về thời gian vào tiếp thu ở Nam Ngãi sau hiệp định Genève, dân tới gõ vào xe tăng rồi la lên: “ồ bằng sét (sắt) thiệt bà con ơi” vì trong thời gian dưới quyền cai trị của Việt Minh dân được tuyên truyền xe tăng làm bằng giấy cạc tông (giấy bồi) đừng sợ, chuyện nhìn qua lỗ khóa.


Năm Đệ Nhị có các thầy Trần như Uyên dạy Quốc Văn, thầy Phan Khắc Tuân dạy Lý Hóa. Thầy Tuân có mang đôi mắt kiếng khá dày, có lẽ thầy bị cận thị nặng như thầy Đinh Qui Hiệu Trưởng. Thầy Nguyễn Đức Mai dạy Anh Văn, bên cạnh thầy luôn có một người bạn Mỹ đi kèm, sau này có thời gian thầy được cử giữ chức Trưởng Ty Thông Tin Thừa Thiên Huế. Thầy Bùi đình Nhuận dạy Toán, thầy đẹp trai, ít cười khi nào nét mặt cũng nghiêm, thầy đi dạy không cần sách vở cặp da gì cả, đi tới lớp với hai tay không.


Các thầy năm Đệ Nhất có Bà Nguyễn Châu dạy Triết thường gọi bằng khuê danh là Cô Lan, thầy Lê vĩnh Kiến dạy Lý Hóa, sau này thầy chuyển qua hoạt động chính trị, liên danh của thầy đắc cử Thượng Viện, thầy Tóan vẫn thầy Nhuận, thầy Vĩnh Quyền dạy Anh văn, thầy Lâm Tài dạy Sử Địa. Thầy Tài đi một chiếc xe hơi màu hoa lý rất đẹp làm nhiều người mơ ước. Thầy Ngô Bút dạy Công Dân, thầy Cao Hữu Hoành dạy Pháp Văn. Năm Đệ Nhất có các bạn Bùi hữu Vừa, Phan tử Duy, Hà thúc Thụy, Lê văn Tiu, gia sư con gái nhà Mỹ Thắng (hoa khôi Đồng Khánh) sau du học Tây Đức, Lê Tự Rô, Ngô văn Tường…

Thời gian này bù đầu lo học cho đậu Tú Tài I rồi Tú Tài II nếu không đậu đời sẽ bi đát lắm, “rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ” (Tú tài trong câu nói này là Tú Tài I), cho nên ít giao du rong chơi mà chỉ lo “dùi mài kinh sử”. Lên Đệ Nhị Cấp chỉ rảnh năm Đệ Tam, bận nhất hai năm liên tiếp Đệ Nhị phải đậu Tú Tài I mới lên Đệ Nhất. Thời đó Tiểu học phải thi, Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng thi. Lúc đi thi tất cả các môn (trừ Tóan) đều trong đầu viết lên trên giấy nên phải thuộc lòng, cái nóng mùa hè ở Huế mà phải học bài quá vất vả. Học sinh Quốc Học mang bảng tên màu trắng thêu chữ màu xanh nước biển, hai đầu tên là các gạch, ví dụ: một gạch (─ tên ─) là Đệ Tam, hai gạch chồng lên (═ tên ═) là Đệ Nhị, anh nào mang ba gạch (≡ tên ≡) là Đệ Nhất tức là chàng ta đã có trong tay mảnh bằng Tú Tài I rồi khỏi lo, có thể ra đời kiếm sống, nếu đi lính thì Chuẩn Úy trong tay. Nữ sinh Đồng Khánh tinh mắt lắm hay liếc nhìn bảng tên trước tiên khi đối diện chuyện trò cho thích hợp. Mang ba gạch là oai lắm vì là Niên Trưởng trong trường, ngoài xã hội là ông Tú-nửa, phải học hết năm Đệ Nhất đậu được Tú Tài II mới đưọc gọi là ông Tú, cửa vào đời rộng mở để tiếp đón, kể cả con tim của mấy nàng cũng rộng mở. Nếu vào Đại Học Huế thì còn oai hơn, con tim mấy nàng càng mở rộng hơn nhiều. Lúc đó nhìn xuống thấy một đòan đàn em đông đảo, nhìn lên thấy các sinh viên Đại Học Huế oai quá, gặp đối tượng nữ sinh xinh xắn hay nghêu ngao chọc ghẹo:
 

“Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé đừng sang một mình”


Năm tiếp theo vào giảng đường Đại Học Khoa Học Huế ở Morin, thử MatGén (Mathématique générale) quá khó, xoay qua MPC (Mathématique Physics Chimie) cũng không xong vì chiến sự ngày càng ác liệt, thanh niên phải nhập ngũ cầm súng, thế là đành “xếp bút nghiên” theo nghiệp Hải Quân, giang hồ vùng vẫy, “giã từ Cố Đô” nổi trôi theo vận nước lưu lạc xứ người.




Thế hệ chúng tôi hầu hết đã bị đốt cháy trong lửa đạn chiến chinh, người phía này kẻ phía kia trở thành kẻ thù tàn sát lẫn nhau, còn được sống đến hôm nay quả rất may mắn, là những hạt gạo còn sót lại trên sàng. Ngày nay chỉ còn gặp lại một số ít người bạn học cũ đếm không hết các ngón của bàn tay. Lần trở lại thăm Huế năm 2008, bạn bè đồng trang lứa cũ không còn mấy, hoặc đã chết hoặc đi nước ngoài. Ghé qua Quốc Học, vào Đại Nội, dạo chơi bờ sông Hương, nơi nào cũng thấy tẻ lạnh, chỉ thấy dòng nước buồn thiu không muốn chảy, phải chăng giòng nước đang ngậm ngùi cho cuộc bể dâu, hay cảm thông cho số phận những mái đầu xanh thời trai trẻ đã từng soi bóng nước Hương Giang nay đã bạc màu vì bụi thời gian và truân chuyên trong cuộc sống? Thẩn thờ nghĩ đến quá khứ thời hoa niên, những kỷ niệm cũ tràn về: những ngày cùng nhau đi trại ở Vạn Niên, hái dâu, ăn thanh trà ở Nguyệt Biều, tắm sông Hương ở Lương Quán, tắm biển Thuận An, du ngọan đồi Thiên An, Vọng Cảnh, dự lễ giỗ Cụ Ngô đình Khả đầu năm âm lịch trong tư dinh ông Cẩn ở Phủ Cam với đầy đủ các thành viên của một gia đình đang nắm quyền lực, đi xem Cầu Ngói Thanh Tòan, Hổ Quyền, những ngày biểu tình bãi khóa, tiếng hò reo xem chừng cơ hồ như còn hòa lẫn trong gió chiều vi vu trên bờ sông. Tất cả đã lùi về quá khứ như một giấc mơ. Chuông chùa Thiên Mụ boong… boong… boong… vang lên từng tiếng một, uể oải, thong thả ngân dài, buông lơi tan dần trong không gian u tịch lúc chiều xuống khiến viễn khách chạnh lòng nhớ lại những người có duyên lành đã tình cờ từng được gặp gỡ trên đất Thần Kinh thưở nào nay chỉ còn là kỷ niệm của một kiếp người, lòng bâng khuâng tự hỏi:


“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

Vũ đình Liên.

Sacramento,California
Cuối Thu Tân Mão, tháng 11 năm 2011

Hoàng-Huy Hoàng Phước Quyến


____


Ghi chú:

(*) Paul Bert sinh năm 1833, xuất thân trường École polytechnique ở Paris, giáo sư Đại học Bordeaux (1866), Sorbonne (1869), Bộ trưởng Giáo Dục (1881-1882), tháng 1 năm 1886 được cử giữ chức Thống Sứ (resident-général) Bắc và Trung Kỳ, nhậm chức tháng 4 đến khi qua đời tháng 11 năm 1886 tại Hànội. Pháp coi ông là kiến trúc sư tổ chức lại thuộc địa và qui hoạch Hà Nội trước khi vua Đồng Khánh giao Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp.


(**) Thoạt kỳ thủy các giáo sĩ ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự latinh tạo ra chữ Việt vì nhu cầu truyền giáo. Với truyền thống thông minh và quật cường của dân tộc, các trí thức yêu nước đã biết vận dụng văn tự này góp sức chỉnh sửa phổ biến thành chữ Quốc Ngữ chúng ta dùng ngày nay, thông qua chữ Quốc Ngữ truyền bá văn hóa mới mở mang dân trí đưa dân tộc thoát khỏi lối học từ chương nho giáo cũ dành độc lập cho nước nhà lại là chuyện khác ngoài dự tính của các giáo sĩ và của thực dân Pháp. HPQ


Đính Kèm: Chỉ Dụ của Vua Thành Thái, Nghị Định của Toàn Quyền Đông Dương và Xóm Ngự Viên của Nguyễn Bính

Tồn Nghi: Trong tài liệu này ghi “Năm Thành Thái thứ hai (ngày 17 tháng chín), Cơ Mật Viện triều Thành Thái…”, tôi e có nhầm lẫn chăng? Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, năm 1888 là năm Thành Thái nguyên niên, lên ngôi ngày 28 tháng 1 năm 1888, như vậy năm 1896 phải là năm Thành Thái thứ Tám, có nhiều người viết “năm Thành Thái thứ 8 lập trường Quốc Học”. Mong BS Hồ Đắc Duy có đọc được Tồn Nghi này nên xem lại bản gốc do thầy Châu Tăng cung cấp để chỉnh sửa vì đây là sử liệu cần tính chính xác. HPQ

I- DỤ NGÀY 23-10-1896 :
http://h.1asphost.com/quochochue/tsQH.htm

Năm Thành Thái thứ hai (ngày 17 tháng chín), Cơ Mật Viện triều Thành Thái cung lục "dụ chỉ" như sau :
 

"Muốn cho việc giáo dục đuợc hoàn bị, không nên hạn chế học vấn trong khuôn khổ hẹp hòi. Trái lại, để bảo đảm cho việc giáo huấn được điều hòa cần mở ra các lớp học thường xuyên.


Nay ngoài những thánh kinh, hiền truyện của Trung Hoa lại còn nhiều sách trước tác ở các nước khác và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong lúc giao thiệp trên trường quốc tế rất là quan trọng. Vả lại, phát triển giáo dục là phương tiện duy nhất để mở mang trí thức, đào tạo nhân tài.


Trong tình hình hiện tại không thể xem thường những nhận xét trên đây được, bởi vì ở nước ta việc giáo huấn theo sách vở Khổng học, trừ trường Quốc tử giám đến các trường công ở tỉnh tuy rất phổ thông và hoàn toàn, nhưng việc giảng cứu các môn học tây phương đến nay vẫn còn nhiều thiếu sót cần phải được bổ cứu".
 

Trẫm đã xét kỹ lời trình tấu, vậy nay giáng dụ chỉ thành lập một trường lấy tên là "QUỐC HỌC", môn dạy chính là Pháp văn. Tuy nhiên, chương trình học còn có môn Hán tự nữa. Các công tử, tôn sanh, sinh viên trường Quốc tử giám cùng các học sinh trường công các tỉnh lỵ đều có thể xin học vào trường này và được học bổng theo lệ định với điều kiện tuổi từ 15 đến 20. Những người quá hạn tuổi, những học sinh con nhà thường dân đều có thể được đặc cách nhận vào nếu học lực xuất sắc.


Dụ này sẽ chuyển đạt cho qúy Toàn quyền đại thần để bổ nhiệm vị Chưởng giáo ( có ấn kiếm) và chuẩn y những nguyên tắc đại cương của nhà trường.


Ấn kiếm làm bằng đồng đen, theo kiểu mẫu ấn kiếm của trường Quốc Tử Giám. Ấn lớn khắc chữ lớn "QUỐC HỌC TRƯỜNG QUAN PHÒNG", tiểu kiếm khắc chữ Hán "QUỐC HỌC".


Khâm thử.
 


II- NGHỊ ÐỊNH NGÀY 18-11-1896 CỦA PHỦ TOÀN QUYỀN ÐÔNG DƯƠNG.

Khoản 1. Nay thiết lập tại Huế. một học đường lấy tên là QUỐC HỌC (Quốc Gia Học Ðường). Pháp văn sẽ chiếm phần lớn trong chương trình dạy, tuy Hán văn vẫn được chú ý để cho sinh viên sẽ vào ngành quan lại có thể đồng thời học hai thứ chữ.


Khoản 2. Trường Hành Nhân nay bãi bỏ và trường Quốc Học thay thế.


Khoản 3. Ngoài sinh viên trường Quốc Tử Giám và trường Hành Nhân cũ, không một sinh viên nào được nhận vào trường Quốc Học nếu không có đủ 15 tuổi.


Khoản 4. Ðược nhận vào trường. các công tử con hoàng thân, các tôn sanh chi nhánh trong hoàng gia, các ấm tử hoặc những con quan được hưởng đặc quyền, sinh viên trường Hành Nhân và sinh viên trường Quốc tử Giám.


Khoản 5. Có thể được nhận để theo học các khoa ở trường Quốc Học những thanh niên bản xứ muốn theo đuổi học vấn và được nhìn nhận sau một thời kỳ khảo thí là đủ trình độ Hán học để theo dõi các khóa học.


Khoản 6. Những học sinh dưới 15 và trên 8 tuổi có thể được nhận học ngoại trú vào một lớp riêng mở tại nhà phụ thuộc của trường.


Khoản 7. Ban Giám đốc trường gồm 01 chưởng giáo, 01 giáo sư hạng nhất, 01 giáo sư hạng nhì, 01 giáo sư hạng ba, 01 giáo sư hạng tư , 01 giáo sư phụ trách các lớp nhỏ, 02 kiểm khán viên.


Khoản 8. Chưởng giáo do Toàn quyền bổ dụng được cấp phẩm hàm đối chiếu trong ngạch quan lại và có thể trực tiếp giao thiệp với Khâm sứ Trung kỳ, Viện Cơ Mật và các vị Thượng Thư.


Khoản 9. Các giáo sư chỉ được phép dạy sau khi được Hội đồng do Khâm sứ Trung kỳ cử khảo thí năng lực.


Khỏan 10. Ngoài lương bổng tính theo phẩm trật ngạch quan lại ông Chưởng giáo và các giáo sư sẽ được hưởng phụ cấp chức vụ.


Khoản 11. Chưởng giaó, giaó sư đuợc cư trú trong trường.


Khoản 12. (chế độ nhà trường, thời biểu học, sĩ số.)


Khoản 13. Học viên. được hưởng những quyền lợi thích đáng


Khoản 14. Các khoản chi phí về nhân viên, khí mảnh, công tác xây dựng và tu bổ trường ốc sẽ do chính phủ Nam triều đài thọ.


Khoản 15. Ông Khâm sứ Trung kỳ và Hội đồng Cơ mật chiếu nhiệm vụ thi hành nghị định này.


Ký tên :
A. Rousseau


(Tài liệu này do thầy Châu Tăng cung cấp và Nguyễn văn Sa - Hồ Ðắc Duy lược ghi theo yêu cầu của nhóm cựu học sinh QH/61-64 )
 

~~oOo~~


Xóm Ngự Viên

Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
Khách du lần giở trang hoài cổ
Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên.

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm
Cung nữ đa tình vua thiếu niên
Một đôi công chúa đều hay chữ
Hoàng hậu nhu mì không biết ghen.

Đất rộng can chi mà đổi chác
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: "Hô lai bất thượng thuyền."


Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Đã giả xong rồi nợ bút nghiên
Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến
Đi xem hoa nở mấy hôm liền
Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên
Thắp hương tôn nữ xin trời phật
"Phù hộ cho con được phỉ nguyền."
Lòng Trạng lâng lâng màu phú quí
Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy?
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nhìn.
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền?


Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên
Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên


Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen.
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa
Khúc "Hậu đình hoa" hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn...

Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên


Nguyễn Bính

THÔNG TIN VÀ BÌNH LUẬN QUỐC TẾ

Mỹ sẽ điều tàu chiến tới Trường Sa?

  • 8 tháng 10 2015






Image copyright US Navy
Image caption Tàu hải quân Hoa Kỳ tuần tra ở Biển Đông
Hải quân Mỹ đang chờ Tổng thống Obama chuẩn thuận việc điều tàu chiến vào khu vực 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông.
Thời gian gần đây Trung Quốc đã tích cực cải tạo, cơi nới một số đảo ở Trường Sa, mà Việt Nam và một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền. Các đảo nhân tạo này được coi như tiền đồn và bàn đạp của Trung Quốc ở Biển Đông.
Từ tháng Năm năm nay, đã có tin Hoa Kỳ sẽ điều tàu tới khu vực tranh chấp, nhưng tới giờ mới có thông tin từ nhiều nguồn nói quyết định thực hiện việc này có thể được đưa ra sớm.
Báo Financial Times dẫn lời quan chức Mỹ giấu tên nói chiếc tàu chiến đầu tiên có thể tới trong vùng 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc "khoảng hai tuần tới".
Nếu xảy ra, đây sẽ là lần đầu tiên kể từ 2012 hải quân Mỹ có hành động thách thức trực diện tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông thông qua hoạt động mà Lầu Năm Góc gọi là thực thi tự do hàng hải.
Hôm 6/10, Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ - Đô đốc Scott Swift, phát biểu tại một hội thảo về hàng hải ở Australia rằng "một số quốc gia" hành xử ngược lại với luật pháp quốc tế, rõ ràng ám chỉ Trung Quốc.
Đô đốc Swift được hãng tin Reuters dẫn lời nói: "Một số quốc gia tiếp tục đưa ra những cảnh báo và giới hạn không cần thiết về tự do hàng hải trong các vùng kinh tế đặc quyền và tuyên bố chủ quyền không phù hợp với [Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc]".

Đe dọa tự do hàng hải







Image copyright Reuters
Image caption Thời gian gần đây Trung Quốc tăng cường cơi nới, cải tạo đảo
Hồi tháng Chín, 29 nghị sỹ Mỹ từ cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã ký vào một bức thư kêu gọi điều máy bay và tàu hải quân qua các đảo nhân tạo của Trung Quốc như một thông điệp mang tính biểu tượng nhằm phản đối các hành động của Trung Quốc mà họ gọi là "gây đe dọa cho tự do hàng hải và trật tự hòa bình thế giới được sắp đặt từ cuối Thế chiến II".
Nhận định về thông tin mới nhất liên quan tới việc điều tàu chiến vào trong vùng 12 hải lý quanh đảo mà Trung Quốc xây cất, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nói: "Thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều chỉ trích đối với chính quyền Obama trong việc không có những hành động kiên quyết với Trung Quốc".
Ông Việt nói với BBC: "Thông báo đưa tàu chiến vào vùng 12 hải lý chứng tỏ quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc không chấp nhận việc sử dụng các đảo nhân tạo để nhằm thay đổi hiện trạng tại Trường Sa, trong đó có việc muốn thay đổi tính chất pháp lý của các cấu trúc san hô này, nhằm tạo nên các cơ sở cho việc yêu sách chủ quyền trên biển đông của Trung Quốc".
"Đồng thời, nó cũng tỏ rõ quyết tâm "xoay trục châu Á" của chính phủ Mỹ, nhằm trấn an các đồng minh, cũng như các đối tác trước các hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, nêu cao tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Luật biển LHQ."
Tuy nhiên ông Hoàng Việt cũng cho rằng còn phải chờ phản ứng của Trung Quốc và những gì diễn ra sau đó vì bất kỳ hành động nào như vậy "sẽ dẫn đến những diễn biến mới trên Biển Đông và khu vực".
"Hoa Kỳ cũng không muốn đẩy tới tình trạng đối đầu với Trung Quốc."






Image copyright BBC World Service
shttp://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/10/151008_us_china_warships







Mỹ đã quyết đi vào 12 dặm quanh đảo nhân tạo Trung Quốc ở Trường Sa ?


media 

Khu vực gần bãi đá Xu Bi - Subi Reef.AFP PHOTO / POOL / RITCHIE B. TONGO
Trong hai tuần lễ sắp tới, Hải quân Mỹ sẽ cho tàu quân sự tiến vào vùng 12 hải lý chung quanh một số đảo nhân tạo mà Trung Quốc mới bồi đắp ở khu vực quần đảo Trường Sa trên Biển Đông. Trên đây là tiết lộ của một quan chức Mỹ cao cấp, được nhật báo Anh Financial Times tiết lộ ngày 08/10/2015.
Động thái này nhằm khẳng định lập trường của Washington, không công nhận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực. Vấn đề cho tàu hải quân áp sát các hòn đảo nhân tạo đã được giới chức quân sự Mỹ gợi lên từ nhiều tháng nay. Nhiều nguồn tin trùng hợp đã xác nhận rằng Bộ Quốc phòng Mỹ đã thúc giục Nhà Trắng bật đèn xanh cho chiến dịch được gọi là « tuần tra vì quyền tự do lưu thông trên biển » này, nhưng chưa được.
Một trong những lý do khiến chính quyền Mỹ dè dặt, chính là không muốn gây nên sự cố trước chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào hạ tuần tháng 9 vừa qua, trong bối cảnh giữa hai nước đang có bất đồng nghiêm trọng trên hồ sơ Biển Đông.
Tuy nhiên, cử chỉ hòa hoãn của Washington đã bị Bắc Kinh đáp trả bằng những hành vi khiêu khích công khai ngay trước lúc ông Tập Cận Bình đặt chân lên đất Mỹ. Điển hình là vụ tàu chiến Trung Quốc thâm nhập vùng lãnh hải Hoa Kỳ ngoài khơi Alaska vào đúng hôm Tổng thống Mỹ ghé thăm tiểu bang này, và vụ chiến đấu cơ Trung Quốc cắt đường bay của máy bay tuần thám Mỹ trên Hoàng Hải.
Bên cạnh đó, cuộc gặp thượng đỉnh Obama-Tập Cận Bình tại Nhà Trắng hôm 25/09 cũng không giúp được hai bên giảm bớt bất đồng trên vấn đề Biển Đông, thậm chí trước đông đảo báo giới Mỹ và quốc tế, lãnh đạo Trung Quốc còn thản nhiên bác bỏ những lời Mỹ chỉ trích Bắc Kinh xây đảo nhân tạo ở vùng Trường Sa khi cho rằng vùng Biển Đông thuộc về Trung Quốc từ « ngàn xưa ».
Trong bối cảnh kể trên, Nhà Trắng chỉ có thể đáp ứng yêu cầu của Hải quân Mỹ, và như tiết lộ của quan chức cao cấp Mỹ là việc tàu quân sự Mỹ áp sát đảo nhân tạo Trung Quốc sắp sửa diễn ra.
Câu hỏi đặt ra vào lúc này là tàu Hải quân Mỹ sẽ thâm nhập vùng 12 hải lý của các đảo nhân tạo nào, trong số 7 đảo mà Trung Quốc đã bồi đắp ? Đây là một vấn đề mà giới chức quân sự Mỹ cần phải cân nhắc vì các thực thể địa lý mà Trung Quốc bồi đắp tại vùng Trường Sa có quy chế khác nhau trước lúc bị biến thành đảo nhân tạo.
Nếu căn cứ vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, thì bốn bãi ngầm Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Vành Khăn (Mischief), và Xu Bi (Subi) trước lúc được tôn tạo, thuộc diện « bãi cạn lúc chìm, lúc nổi – Low-tide elevations » cho nên chỉ được quyền có hải phận 500 mét bao quanh.
Ba bãi còn lại là Đá Châu Viên (Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross) và Gạc Ma (Johnson) thì được xem là « đảo đá – rocks », có thể có lãnh hải 12 hải lý, nhưng không thể có vùng đặc quyền kinh tế.
Trong mọi trường hợp Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển không công nhận đảo nhân tạo là một cơ sở để cho một nước đòi lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế, do đó Trung Quốc không có quyền viện dẫn quy chế đảo của các thực thể vừa bồi đắp, để cản trở quyền tự do lưu thông của tàu thuyền các nước khác.
Theo báo Nhật Bản The Diplomat hôm 04/10, rất có thể là Mỹ sẽ chọn phương án tiến sâu vào bên trong vùng 12 hải lý quanh các thực thể như Xu Bi và Vành Khăn chẳng hạn, vì kể cả trong trường hợp hai thực thể này thuộc chủ quyền của Bắc Kinh - điều đang trong vòng tranh cãi – với tư cách là bãi cạn nửa chìm, nửa nổi trước lúc được bồi đắp – các cấu tạo địa lý này chỉ được tối đa 500 mét bao quanh.
Và công việc đó cũng đủ để cho chứng tỏ một cách rõ ràng là Mỹ bác bỏ các đòi hỏi quá đáng của Trung Quốc, một điều mà các nước đang bị Trung Quốc lấn lướt tại Biển Đông đang chờ đợi. Câu hỏi đặt ra là liệu các nước này có cùng hành động với Mỹ hay không ?
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20151008-my-da-quyet-di-vao-12-dam-quanh-dao-nhan-tao-trung-quoc-o-truong-sa

Trung Quốc lo ngại về tàu chiến Mỹ

  • 9 tháng 10 2015






Image copyright US Navy
Image caption Tàu hải quân Hoa Kỳ tuần tra ở Biển Đông

Bắc Kinh nhanh chóng phản ứng về việc hải quân Mỹ có thể điều tàu chiến vào khu vực 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Báo Financial Times hôm 8/10 dẫn lời quan chức Mỹ giấu tên nói chiếc tàu chiến đầu tiên có thể tới trong vùng 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc "khoảng hai tuần tới".
Nếu xảy ra, đây sẽ là lần đầu tiên kể từ 2012 hải quân Mỹ có hành động thách thức trực diện tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông thông qua hoạt động mà Lầu Năm Góc gọi là thực thi tự do hàng hải.
Ngay lập tức, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh lên tiếng: "Chúng tôi hy vọng là Hoa Kỳ nhìn nhận tình hình hiện tại ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) một cách khách quan và công bằng; đồng thời đóng vai trò xây dựng cùng với Trung Quốc gìn giữ hoà bình và ổn định tại đây".
Bà Hoa nói thêm: “Tôi tin là phía Hoa Kỳ hết sức rõ ràng về lập trường nguyên tắc của Trung Quốc".
Giới quan sát cho rằng quan chức Hoa Kỳ và Trung Quốc đã không đạt được giải pháp cho vấn đề Biển Đông trong chuyến thăm mới đây của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Hồi tháng Chín, 29 nghị sỹ Mỹ từ cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã ký vào một bức thư kêu gọi điều máy bay và tàu hải quân qua các đảo nhân tạo của Trung Quốc như một thông điệp mang tính biểu tượng nhằm phản đối các hành động của Trung Quốc mà họ gọi là "gây đe dọa cho tự do hàng hải và trật tự hòa bình thế giới được sắp đặt từ cuối Thế chiến II".
Áp lực từ chính giới Mỹ khiến cho người ta cho rằng quyết định điều tàu chiến tới khu vực tranh chấp sẽ sớm được đưa ra.
Thời gian gần đây Trung Quốc đã tích cực cải tạo, cơi nới một số đảo ở Trường Sa, mà Việt Nam và một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền. Các đảo nhân tạo này được coi như tiền đồn và bàn đạp của Trung Quốc ở Biển Đông.






Image copyright BBC World Service
 TQ cảnh báo chống lại những cuộc tuần hành của Hoa Kỳ ở Biển Đông

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh.
Bill Ide
Trung Quốc đã gửi đi một lời cảnh báo dường như nhắm vào Hoa Kỳ chớ nên có thái độ mà Trung Quốc gọi là “khiêu khích” ở Biển Đông.
Lời cảnh báo được ra sau khi có tin tức hôm qua nói rằng quân đội Hoa Kỳ đang có kế hoạch đưa tàu chiến đến gần các hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh đã ráo riết xây dựng với hy vọng củng cố khẳng định chủ quyền trong vùng biển có tranh chấp.
Theo các bản tin, các giới chức Hoa Kỳ nói họ đang cứu xét việc đưa tàu chiến vào trong khu vực 12 hải lý gần các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh nói là sự mở rộng hợp pháp của lãnh thổ họ trong vòng 2 tuần sắp tới.
Cả Ngũ Giác Đài lẫn Tòa Bạch Ốc đều không xác nhận các bản tin. Tháng trước khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ash Carter phát biểu về tình hình ở Biển Đông, ông nói Hoa Kỳ sẽ “đưa máy bay, tàu và hoạt động vào hoạt động ở bất cứ nơi nào luật quốc tế cho phép, như lực lượng Hoa Kỳ vẫn làm trên khắp thế giới.”
Hoa Kỳ không thừa nhận những khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trong vùng, mà Philippines, Việt Nam và các nơi khác cũng đòi chủ quyền.
Đáp lại một câu hỏi hôm nay về việc Hoa Kỳ có thể tiến hành các cuộc tuần tra, nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh nói với các phóng viên rằng Bắc Kinh “sẽ không bao giờ cho phép bất cứ nước nào vi phạm lãnh hải và không phận của Trung Quốc trong quần đảo Trường Sa, nhân danh việc bảo vệ quyền tự do đi lại trên biển và trên không”.
Chưa rõ Trung Quốc có thể có những biện pháp nào. Một bản tin trên tờ South China Morning Post trích thuật một nguồn tin quân sự ở Trung Quốc gợi ý rằng Bắc Kinh có những chọn lựa “hợp lý về phí tổn cho tình trạng đối đầu như thế chẳng hạn như sử dụng máy bay không người lái để ngăn cản tàu bè.
Không nêu đích danh Hoa Kỳ, bà Hoa nói Trung Quốc hối thúc “các bên liên hệ chớ nên có các hành động khiêu khích, và thực sự có một lập trường có trách nhiệm về hòa bình và ổn định trong khu vực”.
Ngoài Trung Quốc, Philippines, Việt Nam, Đài Loan, Malaysia và Brunei đều có các khẳng định chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông và trong những năm gần đây đã xây dựng 7 hòn đảo nhân tạo ở bán đảo Trường Sa. Quần đảo Trường Sa nằm gần như ngay trung tâm những vụ khẳng định chồng chéo nhau đó.
Hoa Kỳ từng tuyên bố sẽ không can thiệp vào những vụ tranh chấp lãnh thổ đang tiếp diển, nhưng sẽ bảo vệ quyền tự do đi lại trên biển trong một khu vực thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
Biển Đông là nơi có khoảng 5.000 tỷ đô la giao thương hàng năm và trong chuyến đi mới đây đến Hoa Kỳ, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tuyên bố việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo không nhắm mục tiêu vào bất cứ nước nào.
Trung Quốc nói việc xây dựng thực ra là để củng cố khả năng của họ đóng góp vào sự an toàn của vùng biển và cung cấp những dịch vụ khác như dự báo thời tiết và hỗ trợ tìm kiếm và cứu hộ.
Tuy nhiên, việc hoàn tất hai phi đạo có khả năng xử lý các máy bay quân sự, và các dấu hiệu xây dựng một phi đạo thứ ba, đã khiến Hoa Kỳ và các quốc gia khác kêu gọi Trung Quốc đình chỉ hoạt động “quân sự hóa” ở các tiền đồn hẻo lánh gây thêm căng thẳng trong khu vực.

Trung Quốc 'đẩy mạnh cơi nới đảo'

  • 9 tháng 5 2015





Image caption Hoạt động cơi nới đảo của Trung Quốc đã làm nhiều nước láng giềng lo ngại
Hoa Kỳ nói Trung Quốc đang mở rộng chương trình thi công cơi nới đảo trên Biển Đông.
Giới chức nước này cho biết Trung Quốc đã bồi đắp 810 ha đất kể từ đầu năm 2014.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với hầu hết Biển Đông.
Các nước khác cáo buộc hoạt động thi công đảo nhân tạo của Bắc Kinh là bất hợp pháp và có thể được sử dụng cho mục đích quân sự.
Trung Quốc nói việc cơi nới đảo là hợp pháp và cần thiết nhằm bảo vệ chủ quyền.
Trong một báo cáo, Ngũ Giác Đài nói Trung Quốc đã bồi đắp 200 ha đất tại 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa trong năm 2014.
Giới chức Hoa Kỳ nói 610 ha đất khác đã được bồi đắp kể từ đó.
Báo cáo nói "mục đích cuối cùng của kế hoạch cơi nới đảo vẫn chưa được làm rõ", nhưng cũng cho biết Trung Quốc có khả năng muốn "thay đổi thực trạng" bằng cách củng cố hệ thống phòng thủ trên Biển Đông.

Việt Nam nới đảo

Trong khi đó, hôm 7/5, Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) nói với hãng tin Reuters rằng họ có các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã bồi đắp các đảo tranh chấp trên Biển Đông.
Tuy vậy, quy mô và nhịp độ của các công trình này còn nhỏ so với của Trung Quốc, theo CSIS.
Hình ảnh vệ tinh của CSIS cho thấy Việt Nam đã bồi đắp hai đảo mà nước này đang kiểm soát, đó là đảo Sơn Ca (Sand Cay) và đảo Đá Tây (West London Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, nói công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và dường như bắt đầu trước khi Trung Quốc tiến hành ồ ạt các công trình vào năm 2014.
Các bức hình của công ty DigitalGlobe chụp từ 2010 đến 30/4 năm nay.
Bà Rapp-Hooper nói Trung Quốc “đúng” khi cáo buộc Việt Nam.
“Nhưng có thể nói rằng quy mô và nhịp độ của Trung Quốc là chưa từng thấy và hơn gấp nhiều lần so với Việt Nam.”
Theo bà, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca.
Trong khi đó, Trung Quốc bồi đắp 900 ngàn mét vuông chỉ riêng cho Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef).http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/05/150509_china_island_buildings







Mỹ tăng viện trợ cho 4 nước ASEAN để nâng cao năng lực tuần tra biển


media 
Một phi cơ chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay ở vịnh Subic, bắc Manila ngày 25/09/2015.REUTERS/Ezra Acayan
Hoa Kỳ vào hôm qua, 08/10/2015, đã loan báo quyết định tăng gấp 4 lần ngân sách viện trợ cho Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia để giúp 4 nước Đông Nam Á nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển. Quyết định được đưa ra vào lúc Trung Quốc đang chèn ép ba trong bốn nước được Mỹ giúp tại Biển Đông, tuy nhiên, Washington nhấn mạnh rằng việc tăng viện không liên quan gì với tranh chấp Biển Đông.
Trong một cuộc họp báo qua điện thoại từ Washington, một tuần sau khi ông đi thăm Indonesia, Philippines và Việt Nam, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ William Brownfield xác nhận : « Sáng kiến trợ giúp lần này gồm hơn 100 triệu đô la dành cho lãnh vực chấp pháp biển tại bốn quốc gia có liên quan ».
Như vậy là Washington đã quyết định gia tăng đáng kể khoản viện trợ này vì thoạt đầu, vào tháng 12/2013, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry chỉ cam kết một khoản trợ giúp 25 triệu đô la mà thôi.
Nhà ngoại giao Mỹ nhấn mạnh : « Chúng tôi không phải là hoàn toàn ngu ngốc. Chúng tôi biết rằng trong khu vực còn có nhiều vấn đề khác, nhưng trợ giúp của chúng tôi lần này tập trung vào lãnh vực thực thi luật pháp trên biển ».
Đối với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, sáng kiến giúp đỡ của Washington « hoàn toàn minh bạch », và Hoa Kỳ không hề có bất kỳ ẩn ý nào khác cho dù « theo logic thông thường, một quốc gia có khả năng tốt hơn trong việc thực thi luật lệ trên biển của mình sẽ có năng lực tốt hơn trong việc giải quyết nhiều vấn đề khác. Nhưng đó không phải là mục đích của sáng kiến ​​này. »
Malaysia, Philippines và Việt Nam là ba nước hiện đang có tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền trên Biển Đông. Tình hình đã căng thẳng hẳn lên đặc biệt từ năm ngoái, với việc Trung Quốc gây nên sự cố giàn khoan HD-981 trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời rầm rộ bồi đắp 7 rạn san hô đang tranh chấp thành đảo nhân tạo, và cho xây dựng trên đó các cơ sở bị cho là nhằm mục tiêu quân sự.

No comments:

Post a Comment