Pages

Monday, February 27, 2017

MAI THANH TRUYẾT * GIÁO DỤC

Suy nghĩ về một chính sách giáo dục mới: Giáo dục nhị thể (Dual education)

Ts. Mai Thanh Truyết (Danlambao) - Trong giai đoạn kinh tế toàn cầu đang suy trầm hiện tại, vấn đề giải quyết lao động và công ăn việc làm một vấn đề cốt lõi cho việc phát triển quốc gia, đặc biệt đối với số lượng đông đảo của các tân khoa tốt nghiệp hằng năm. Đây là một thách thức lớn và hướng giải quyết của từng quốc gia sẽ định mức lại sức tăng trưởng xã hội của quốc gia đó. Hiện tại Hoa Kỳ vẫn lúng túng trong việc sắp xếp “việc làm” cho những sinh viên tốt nghiệp hằng năm. Và năm 2016 số tân khoa ra trường không kiếm được việc làm đã quá ngưỡng cửa 35%.
Ở các quốc gia Âu Châu tình trạng càng tệ hại hơn nữa. Năm 2012 tình trạng không có việc làm của sinh viên tốt nghiệp là 56% ở Tây Ban Nha và 38% ở Ý. Mùa Hè năm 2016 nầy đã là một vấn nạn lớn cho các quốc gia trên vì sẽ có thêm một số lượng lớn sinh viên ra trường cần phải có việc làm.
Riêng tại Đức tỷ lệ sinh viên mới ra trường không tìm được việc làm chỉ giao động trên dưới 8% hằng năm. 
Câu hỏi được đặt ra là vì sao Tây Đức phải cưu mang người anh em nghèo là Đông Đức với tỷ lệ thất nghiệp khi thống nhất hai nước Đức trên dưới 50%, mà hiện nay nước Đức thống nhất lại ổn định mức lao động xã hội và phát triển trong chiều hướng ứng hợp với toàn cầu hóa?
Có thể trả lời ngay là nhờ chính sách giáo dục Đức đặt nền tảng trên hai khía cạnh học và hành, và cũng có thể nói đây là một chính sách giáo dục quốc gia mới trên thể giới. Đó là chính sách “Dual education”, xin tạm dịch là “Giáo dục nhị thể”. Nước Đức đã áp dụng chính sách này từ năm 1969 cho đến hôm nay.
Chính sách Giáo dục nhị thể
Trong một cuộc họp gần đây, Ursula Von Der Leyen, Bộ trưởng Lao động Đức công bố trước các thành viên của Liên hiệp Âu Châu (European Union) về tình trạng thất nghiệp ở xứ này, đặc biệt đối với giới trẻ là nhờ hệ thống giáo dục nhị thể. Có ba quốc gia Âu Châu thành công trong chính sách này là Đức, Áo và Thụy Sĩ.
Đây là một chính sách truyền thống phối hợp giữa giáo dục cổ điển (trường lớp Tiểu học-Trung học-Đại học) và tập sự học nghề (apprenticeships). Việc phối hợp trên làm cho học viên vừa đi làm vừa hoàn tất học trình của mình. Do đó phần lớn sinh viên đều có việc làm ngay sau khi ra trường.
Dĩ nhiên chu kỳ học tập cho hệ thống này dài hơn lề lối học tập cổ điển, vì sinh viên phải tạm nghỉ học lý thuyết một thời gian để đi tập sự trong khi vừa học được kinh nghiệm chuyên môn và giải quyết được tình trạng tài chánh trong thời gian học.
Chính sách nào cũng có thể được xem như việc thiết lập các hệ thống giáo dục hướng nghiệp (vocational education) tại Hoa Kỳ. Chính nhờ vậy mà nước Đức vượt qua được suy thoái toàn cầu từ năm 2007 và có thêm khả năng giúp các quốc gia khác trong Liên hiệp Âu Châu như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, v.v…
Các học sinh ở Đức sau khi tốt nghiệp trung học nếu không muốn vào hoặc không được vào đại học có thể tham gia chương trình giáo dục này; họ có thể đi làm 3 hoặc 4 ngày trong một hãng xưởng để được huấn nghiệp chuyên môn và được trả lương đầy đủ. Những ngày còn lại trong tuần họ phải đi học những lớp quy định trong chương trình giáo dục do sự tổ chức và điều hành của Phòng Thương Mại và các Hội Đoàn Kỹ Nghệ. Sau 3 niên học (không có nghỉ hè), học viên được cấp chứng chỉ và hầu hết đều được tiếp tục làm việc tại nhiệm sở mà họ đã thực tập trong những năm qua. Họ đã chính thức là nhân viên của hãng.
Đối với tuổi trẻ Đức, họ rất ưa chuộng hệ thống giáo dục này, có 2 trên 3 học sinh tốt nghiệp trung học chọn lề lối trên và họ đóng góp không nhỏ vào khoảng 350 ngành nghề đang hoạt động tại Đức, từ công việc của người thợ chuyên môn hoặc trong những dịch vụ thương mại, từ kế toán qua dược khoa, y khoa và nông nghiệp, v.v…
Chính sự thành công của chính sách này khiến cho nước Đức có một lực lượng chuyên môn có tay nghề cao, cung ứng và điều hòa được mức thất nghiệp thấp cùng duy trì sức phát triển đều đặn của quốc gia. Thêm một điểm son của chính sách giáo dục trên là nhân viên sau một thời gian làm việc có thể được tiếp tục học thêm để có những nhiệm vụ và địa vị cao hơn.
Nhìn lại Việt Nam
Với chính sách chuyên chính vô sản hiện tại, có thể nói chính sách giáo dục Việt Nam hoàn toàn đi đến bế tắc. Số trường đại học, cao đẳng tăng gấp vài chục lần so với miền Nam trước đây. Nhưng đó chỉ là số lượng, thật sự về phẩm chất, chương trình và đạo đức giáo dục băng hoại làm cho tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không còn định hướng về quốc gia và dân tộc.
Từ đó, đưa đến sự thờ ơ đối với công việc phát triển quốc gia. Phần lớn chạy theo việc làm giàu dù lương thiện hay bất chính, sống không biết ngày mai, sống thâu đêm suốt sáng bên cạnh những thú tiêu khiển trụy lạc sa đọa. Một số khác không có điều kiện thì sống vất vưởng bên lề xã hội. Những người cầm quyền hiện tại hoặc vì bận lo bảo vệ quyền lực và quyền lợi, vì vậy đất nước ngày càng đi xuống.
Câu chuyện “hàng ngày ở Huyện” xảy ra trong suốt 41 năm qua trong mỗi kỳ thi tốt nghiệp trung học vào tháng 6 hằng năm. CSVN không thể bưng bít được những hình ảnh tiêu cực xảy ra từ Bắc chí Nam như: đánh bùa (phao) trao đổi với giám thị; giáo sư chỉ bài cho thí sinh trước khi thi và trong ngày thi. Việc buôn bán bài giải là một dịch vụ béo bở cho một số người. Từ đó, nhìn lại chính sách giáo dục miền Nam trước kia là một chính sách quốc gia đặt căn bản Dân tộc-Nhân bản-Khoa học-Khai phóng làm trọng tâm cho việc phát triển quốc gia.
Và cũng có thể nói hệ thống giáo dục nhị thể nêu trên cũng đã manh nha ở giai đoạn của bậc trung học miền Nam thời bấy giờ. Vào năm 1958, một Đại Hội nghị giáo dục toàn quốc (miền Nam từ vỹ tuyến 17 trở vào) đã nghiên cứu và chấp nhận 3 nguyên tắc căn bản định hướng cho nền giáo dục Việt Nam là nhân bản, dân tộc, khai phóng.
a. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy nhằm mục đích phát triển toàn diện con người;
Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống, mật thiết liên quan đến những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và bảo đảm hữu hiệu cho sự sinh tồn và phát triển của quốc gia;
Nền giáo dục Việt Nam phải có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ xã hội, thâu thập tinh hoa các nền văn hóa thế giới.
Đến năm 1970, trong thời điểm của Đệ nhị Cộng hòa, có thêm một nguyên tắc khác được đem vào làm chuẩn cho nền giáo dục miền Nam. Đó là lấy sự tôn trọng tinh thần khoa học, như các quốc gia tân tiến trên thế giới, làm nền tảng cho mọi sự tiến bộ giáo dục tại Việt Nam.
Từ đó, giáo dục miền Nam đã có những bước đi vững chắc trên nền tảng của Nhân bản-Dân tộc-Khai phóng-Khoa học. Đây chính là kim chỉ nam làm cho nền giáo dục miền Nam liên tục tiến bộ nâng cao phẩm chất giáo dục quốc gia, và tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên miền Nam trở thành những thành viên ưu tú của đất nước trong suốt thời kỳ 1958-1975. Một điểm cần ghi nhận nơi đây là sinh viên tốt nghiệp Tú tài II ở miền Nam đều được xem như bằng phổ thông tương đương mỗi khi đi du học sang các quốc gia Âu châu hay Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan v.v… Còn các sinh viên đã tốt nghiệp Đại học đều được ghi danh vào các lớp hậu đại học ở những nước kể trên.
Cổng trường Cao Thắng chụp đầu năm 1974
Chúng ta còn nhớ trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng, được thành lập qua sắc lệnh của Tổng thống VNCH ngày 29/6/1956, tọa lạc tại đường Huỳnh Thúc Kháng, Sài Gòn, trong đó học sinh được học ngoài chương trình phổ thông còn rất nhiều giờ dành cho việc học nghề: tiện, máy móc, hàn xì... Và hằng năm học sinh được gởi đi thực tập ở xưởng Ba Son, hảng đóng tàu Caric, nhà máy đường Khánh Hội, và một số hãng dệt khác.
Qua việc đào tạo trên, học sinh tốt nghiệp trung học nơi đây khi thi đậu vào Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ thường hội nhập và thu thập nhanh hơn các học sinh phổ thông. Họ là những kỹ sư giỏi của trường.
Vào cuối thập niên 1960, trường Kiểu mẫu Thủ Đức cũng đã được thành lập dưới sự bảo trở tài chánh và kỹ thuật của USAID, Hoa Kỳ. Giảng viên phần lớn được huấn luyện ở Hoa Kỳ. Rất nhiều ngành nghề mới được giảng dạy và đào tạo nơi ngôi trường này.
Việt Nam Cộng Hòa còn có thêm hệ thống giáo dục tổng hợp:

Trung học tổng hợp: Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ.
Trước đây, Việt Nam có ba trường trung học cùng mang tên Kiểu Mẫu. Cả ba trường đều trực thuộc Đại học Sư phạm tại địa phương chứ không do Ty Giáo dục quản lý như hầu hết các trường trung học khác. 
Kiểu Mẫu ở Huế khai giảng khóa đầu tiên năm 1964. Năm kế tiếp, 1965, Kiểu Mẫu ở Thủ Đức hình thành. Kiểu Mẫu ở Cần Thơ xuất hiện vào năm 1968.
Triết lý giáo dục của trường Trung học Kiểu Mẫu dựa trên 3 nguyên tắc và 4 phương thức. 3 nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, khai phóng. 4 phương thức: toàn diện, thích nghi, thực dụng, tân tiến.
Đường lối giảng dạy mà Trung học Kiểu Mẫu chủ trương và áp dụng là chú trọng việc hướng dẫn từng cá nhân.
Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Dưới thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Huế (1965), Thủ Đức và Cần Thơ (1968), sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên. (trích trên mạng điện tử).
Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức tọa lạc trên một quả đồi thuộc xã Linh Xuân Thôn, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn và Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được xây dựng trong khuôn viên 5.107m2 theo đồ án cũng của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được thành lập theo nghị định 840GP/PC/NĐ, khai giảng niên khóa đầu tiên vào ngày 11-10-1965 với 8 lớp (cũng gồm 4 lớp đệ thất và 4 lớp đệ lục), 280 học sinh, do nhà giáo Dương Thiệu Tống làm Hiệu trưởng.
Đây là một đóng góp không nhỏ vào việc phát triển quốc gia. Chính vì vậy lợi tức trên mỗi đầu người của miền Nam năm 1960 là $223 Mỹ kim/người, so với Nam Hàn là $55, Thái Lan $101, Trung Cộng $92, Ấn Độ $84, và CS Bắc Việt $73.
Hiện nay, Thái Lan có tổng sản lượng nội địa (GDP) cao gấp 4 lần Việt Nam (sau 41 năm theo xã hội chủ nghĩa), Trung Cộng gấp 5 lần, Ấn Độ gấp 6 lần. Riêng Nam Hàn tăng trưởng nhanh và qua mặt hơn Việt Nam 15 lần.
Từ những con số vô tình trên, chúng ta có thể kết luận là đảng CSVN đã đưa đất nước vào tận cùng của sự nghèo đói, ngoài sự thành công “vĩ đại” của họ trong quản lý kinh tế là đem lại hằng tỷ tỷ đô la cho những nhóm “lợi ích kinh tế” mà những người lãnh đạo chốt bu của đảng chính là những chủ nhân ông của các tài sản kếch xù trên.
Tương lai Việt Nam đi về đâu?
Câu hỏi trên xin dành cho tuổi trẻ Việt Nam, những người sẽ mang lại lá cờ hồng tự do, dân chủ cho Đất và Nước.
20.12.2016


NGUYỄN THỊ TỪ HUY * LẬT ĐỔ?

Lật đổ hay kiến tạo ?


Bài này được viết ra trong mục đích tiến dần tới chỗ xác định mục tiêu chung cho một nước Việt Nam duy nhất và là của chung của chín mươi triệu người Việt Nam. Và thực ra những bài blog ngắn chỉ có thể mang tính gợi mở vấn đề mà thôi.
Bầu cử tổng thống ở Mỹ vừa kết thúc, bầu cử tổng thống ở Pháp đang được tiến hành. Chúng ta có cơ hội so sánh đối chiếu để thấy sự khác biệt giữa việc bầu cử các chức vụ của hệ thống quyền lực ở các nước dân chủ khác với ở các nước độc tài như thế nào. Chúng ta có cơ hội để thấy lá phiếu của người dân có trọng lượng như thế nào trong một cuộc bầu cử thực sự dân chủ. Đã có và sẽ còn rất nhiều phân tích về các cuộc bầu cử này, ở đây tôi chỉ nêu một điểm phục vụ cho mục đích bài viết của tôi.
Việc người dân bỏ phiếu lựa chọn lãnh đạo chính trị thể hiện một nguyên tắc tối cao của hệ thống dân chủ : cạnh tranh quyền lực bằng con đường ôn hoà, thông qua chiến dịch tranh cử để giành lá phiếu của người dân, tức là tìm kiếm sự ủng hộ của người dân.

Chiếu theo nguyên tắc này thì các giải pháp đoạt quyền bằng bạo lực đều vi phạm nguyên tắc dân chủ. Vì thế, nếu đem nguyên tắc này để đối chiếu với chính thể Việt Nam Cộng hoà trước 75 ở miền Nam Việt Nam thì ta sẽ thấy rằng Việt Nam Cộng hoà trên thực tế chưa phải là một chính thể hoàn toàn dân chủ, các cuộc đảo chính liên tục của chính quyền Sài Gòn cho phép có nhận xét này. Và cũng vì thế hành động lật đổ một chính quyền cũng sẽ không được xem là phù hợp với nguyên tắc dân chủ. Donald Trump không lật đổ Obama, Trump cũng không lật đổ Hilary Clinton. Trump thắng Clinton dựa trên số phiếu của đại cử tri.
Đến đây có thể nói rằng, nếu áp dụng nguyên tắc này vào trường hợp Việt Nam, thì hiện tại Việt Nam không có dân chủ. Trước hết là vì Việt Nam không có cạnh tranh quyền lực, chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền. Thứ hai là các chức vụ trong hệ thống quyền lực là do đảng cộng sản chọn, việc người dân đi bầu chỉ hoàn toàn là hình thức. Vì thế chưa bầu mà đã biết ai đứng ở vị trí nào. Và cũng vì thế, trước vô vàn các vấn nạn hiện nay, Việt Nam đang đứng trước nhu cầu cấp bách cần dân chủ hoá hệ thống chính trị.
Nhưng điều quan trọng mà tôi muốn nói trong bài này là những người thực sự muốn xây dựng một Việt Nam dân chủ sẽ không thể chọn giải pháp bạo lực. Và trên thực tế thì giải pháp này là bất khả, vì hiện nay, trong bối cảnh chia rẽ cùng cực của người Việt, không một nhóm người Việt nào có đủ tiềm lực để tiến hành việc đoạt quyền bằng bạo lực.
Nếu đã loại bỏ giải pháp bạo lực, lựa chọn con đường ôn hoà, thì việc dân chủ hoá Việt Nam, nếu có thể diễn ra, sẽ buộc phải chấp nhận một kịch bản (kịch bản này đã xảy ra ở Miến Điện trong quá trình dân chủ hoá ở nước này): sự tồn tại bình đẳng của nhiều tổ chức và đảng phái chính trị khác nhau, trong đó có cả đảng cộng sản. Thậm chí phải hình dung đến tình thế đảng cộng sản tiếp tục cầm quyền nhưng cho phép các đảng khác tham gia chính phủ. Đây là điều đã xảy ra ở Miến Điện: Tướng Thein Sein, vốn thuộc chính phủ độc tài quân đội, trở thành Tổng thống Miến Điện, nhưng cho phép đại diện của các đảng khác tham gia chính phủ, trong đó có lãnh đạo của Liên minh quốc gia vì dân chủ. Có thể nói đây là kịch bản lý tưởng nhất, nó sẽ tránh cho dân tộc, tránh cho đất nước tình trạng hỗn loạn và những hậu quả chưa lường trước được.
Nhưng kịch bản trên đây không thể xảy ra một khi đảng cộng sản vẫn mạnh như hiện nay, và các đảng chính trị khác không thể hình thành được, hoặc có tồn tại nhưng quá nhỏ và quá yếu. Trong điều kiện Việt Nam, đảng cộng sản chỉ có động lực thay đổi khi phải chịu áp lực bởi các tổ chức chính trị khác đủ mạnh. Đây chính là lý do của sự cần thiết phải hình thành được các đảng phái hay các liên minh chính trị mạnh. Và một trong những điều kiện để xác định một tổ chức chính trị có mạnh hay không là khả năng thu hút và tập hợp quần chúng của tổ chức đó.
Một khi đã không thể đoạt quyền bằng bạo lực thì một tổ chức chính trị thu hút sự ủng hộ của người dân bằng cách nào? Bằng cách nào, để trong điều kiện một cuộc bầu cử thực sự dân chủ, một đảng chính trị có thể giành được sự ủng hộ của người dân bằng lá phiếu? Chính là bằng các chương trình chính trị nhằm xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia.

Tất cả những phân tích trên đây là để nói rằng, dân chủ hoá Việt Nam không gắn với sự lật đổ, mà gắn với sự kiến tạo.
Paris, 29/11/2016
Nguyễn Thị Từ Huy

NGUYÊN THẠCH * PHẢN ĐỘNG


"Thế lực thù địch" và "Phản động" là gì?

Nguyên Thạch (Danlambao) - Những lời giải thích cho nhóm ngôn từ "Thế lực thù địch" và "Phản động" với mục đích nhắn gởi đến các tổ chức dưới cái gọi là "bảo vệ chính trị" rằng chính đảng CSVN mới là thế lực thù địch của dân chúng Việt Nam và là một băng đảng phản bội và phản động nhất lịch sử nước nhà.
*
Chúng ta hãy tìm hiểu hai nhóm từ "Thế lực thù địch" và "Phản động" mà xuyên suốt hơn 70 năm người cộng sản đã tuyên truyền ở miền Bắc và hơn 40 năm cho miền Nam và cả nước, ngữ mà họ đã luôn thuộc lòng như những con vẹt.
Nhóm từ ấy như một công thứ để vu oan giá họa cho những ai mà họ không thích hoặc xem là kẻ thù, nó như một chất keo dính chặt vào đầu môi chót lưỡi của những kẻ trong hệ thống cầm quyền, của những kẻ độc tài và tàn bạo với não trạng vô cùng ngu xuẩn, xấu xa, độc ác và bảo thủ.
Thế lực thù địch là gì?
- Là tập hợp của một nhóm người, một băng đảng hay cả một hệ thống chính trị đi ngược lại với mục đích cùng lý tưởng của cả dân tộc. 
- Là kìm hãm sự phát triển của xã hội, là trái ngược với nền đạo lý vốn dĩ lâu đời của dân tộc VN và kể cả của nhân loại.
- Là chống lại bản năng tự nhiên của con người khi sinh ra là phải có Tự Do, xã hội nơi họ sống là phải có Dân Chủ và trong suốt đời sống phải có Nhân Quyền.
- Là củng cố cũng như bảo vệ cho cá nhân mình hoặc băng nhóm mình một thế lực gần như tuyệt đối nhằm giữ vững sự cai trị, bất chấp mọi giá trị của Nhân Bản lẫn cả sự an nguy của dân tộc và của Tổ Quốc.
Xuyên suốt lịch sử cận đại tính từ khi ĐCSVN lên cầm nắm quyền hành cho tới hôm nay, những biến cố như Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm (Xét lại chống đảng), biến cố Mậu Thân, Mùa Hè đỏ lửa, biến cố 75, Hợp tác xã quốc hữu hóa, kinh tế mới, bỏ tù quân cán chính VNCH, Kinh tế tập trung chủ đạo... cho đến việc để mất đất, mất biển đảo vốn thuộc chủ quyền của quốc gia, cũng như khuynh hướng qui hàng và phục tùng Tàu cộng, ký kết những Hiệp thương, những "mật nghị" với chuỗi hệ lụy là đẩy cả dân tộc vào tròng ách nô lệ và mất nước.
Tất cả những vụ việc nêu trên của ĐCSVN, dần dà đã bị dân chúng phanh phui phát hiện, những người yêu nước đã lần lượt lên tiếng cũng như phê phán, tố giác nhưng tất cả đều bị ĐCSVN ngăn cấm hay bắt nhốt bỏ tù. Vì vậy: Đối nghịch với thế lực thù địch buôn dân bán nước của ĐCSVN là một "Thế lực thù địch" đáng yêu, đáng noi gương và ca tụng.
Phản động là gì và những ai là phản động?
Phản động, tiếng Anh "reactionary" bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "réactionnaire". Theo vật lý, phản động là động tác đi ngược lại với động tác, chuyển động đang xảy ra. Theo hóa học, phản động là phản ứng của những hóa chất không thuộc tính, cùng nhóm khi hòa trộn với nhau. Theo xã hội, phản động là: Phản động (chữ Hán: 反動) là từ được dùng để chỉ ý kiến hoặc hành động phản đối, chống đối các phong trào chính trị hoặc phong trào xã hội được cho là đúng đắn, tiến bộ. Trái nghĩa với "phản động" là "cách mạng", "tiến bộ".
Đảng CSVN là một nhóm băng đảng mà theo tên đầu sỏ Hồ Quang - Hồ Chí Minh lấy ý niệm của chữ CƯỚP, hành vi CƯỚP làm kim chỉ nam để thực hiện những ý muốn của ĐCSVN và CSQT. Hồ Chí Minh và ĐCSVN phải cướp cho được miền Nam bằng mọi giá giẫu đốt cháy cả dãi Trường Sơn, giẫu phải chiến đấu cho đến người thanh niên cuối cùng thì cũng phải lấy được miền Nam để qui về một mối để hiến dâng cho Nga Tàu cộng theo tinh thần "Quốc Tế Vô Sản".
Người cộng sản, trong đó có CSVN, họ không vì sự vẹn toàn của đất nước, không vì hạnh phúc của người dân, không vì niềm tin hữu thần của tôn giáo... mà chỉ vì ảo tưởng về một thế giới đại đồng. Từ tư duy duy ý chí hoang đường ấy mà họ họ đã không coi trọng đất nước và nhân dân, mà kết quả là những hệ lụy của những tư tưởng sai lầm, dẫn đến những thực thể cực kỳ sai lầm thảm bại của ngày hôm nay cho 4 nước còn lại, Cu Ba, Bắc Hàn, Việt Nam và ngay cả Trung cộng.
Dưới nhãn quan của người Việt Nam, ĐCSVN là một đảng phản động, đưa đất nước và dân tộc đến bất công, nghèo đói, tụt hậu và vong nô. Trong tầm nhìn của nhân loại thì cộng sản "sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực, chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của toàn thể nhân loại." (vô danh).
Những yếu tố đầy biện chứng nêu trên, đã chứng tỏ ĐCSVN mới chính là phản động, nên cái đảng phản động này luôn xem những người đối nghịch lại con đường mà đảng đã, đang và sẽ đi là lớp người phản động. Vậy sự phản động của đại đa số dân chúng Việt Nam từ trước đến nay là những kẻ phản động đáng yêu, đáng ca ngợi.
Ngạn ngữ VN có nói: "Làm dữ lo xa" hoặc "Ngậm máu phun người". Người cộng sản vô thần đã thực hiện những kế hoạch cũng như vô vàn hành động tàn bạo với những người mà họ cho là kẻ thù, cho nên tận thâm sâu, lúc nào họ cũng nơm nớp lo sợ cho những chuyện trả thù. Chính thái độ lo xa này, khiến họ nhiều lúc hoặc vô tình, hoặc hữu ý vung tay quá trán, dẫn đến tình trạng tàn nhẫn thái quá. Cho nên họ mới ngậm cứt phun người mà không nghĩ rằng chính cái thứ dơ bẩn này lại làm nhơ thối miệng của họ trước.
Những lời giải thích cho nhóm ngôn từ "Thế lực thù địch" và "Phản động" với mục đích nhắn gởi đến các tổ chức dưới cái gọi là "Bảo vệ chính trị" rằng chính đảng CSVN mới là thế lực thù địch của dân chúng Việt Nam và là một băng đảng phản bội và phản động nhất lịch sử nước nhà.
21.12.2016



NÔNG DÂN * PHÚC NIỄNG


Bác Phúc niễng ngu hay láo?

Nông dân Nam Bộ (Danlambao) - Hôm 18/12 tại Hội nghị Xây dựng nền công nghiệp nông nghiệp Việt Nam, tức là chỗ bàn những chuyện mà bác Phúc i tờ cờ lờ mờ vờ chẳng biết cái giống gì, bác đã tuyên bố một câu mà thật tình dân đen tui không biết bác ấy lờ áo láo hay ngờ u ngu.
Bác nói: “Khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ ra rất quyết liệt trên toàn cầu thì Việt Nam chúng ta có 3 thế mạnh rất quan trọng, một là nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao, hai là công nghệ thông tin và thứ ba là du lịch”. (1)
Trước hết nói về "tính ngu" của bác:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là cuộc cách mạng kỹ thuật số với đặc tính hợp nhất những công nghệ khác nhau và làm mờ đi ranh giới giữa các lãnh vực kỹ thuật số, vật lý, và sinh học. Cuộc cách mạng này được xây dựng trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 - cách mạng công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Trong khi đó cuộc cách mạng công nghệ thứ nhất là sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất; thứ hai là sử dụng điện năng cho các công trình sản xuất hàng loạt.
Vậy mà bác Phúc lại tiến lui tiến mạnh tiến tới té khói về cái thời nông nghiệp phân bắc phân xanh đầy đồng, thời nông nghiệp sạch sẽ - tức là con trâu đi trước, thân người cày đi sau, không có gì khác nên sạch trơn... để nói về thế mạnh trong thời đại cách mạng công nghệ thứ 4. Bác cũng hơi ngu ngu lôi các công nghệ thông tin vào làm thế mạnh trong khi cái xứ cộng hòa sở hụi của bác chưa viết được một cái phần mềm, phần dẻo, phần cưng cứng nào cho ra hồn để đem cho... free với hy vọng có người lấy về xài. Và thế mạnh về du lịch trong thời đại của cuộc cách mạng kỹ thuật số với những đặc tính hợp nhất những công nghệ khác nhau là làm mờ đi ranh giới giữa các lãnh vực kỹ thuật số, vật lý, và sinh học!? Ngu hết biết!!!
Kế đến là "tính láo" của bác:
Trong khi cả nước đang chết lên trên xuống vì ô nhiễm môi trường, chết... giả vì... tảo nở hoa, thủy triều đỏ theo căn bệnh nói láo kinh niên của quan chức cộng sản, sang đến chết thật vì Formosa phọt thải... thì bác lại né né, lạng lạng qua phía nông nghiệp... sạch cho nó... lành và cho nó... láo.
Bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hình như vốn liếng và thế mạnh của bác Phúc nói riêng và của đảng nói chung là cái cày và con trâu rất sạch. Bác vung vít rằng: “Phấn đấu sớm đưa Việt Nam thành một quốc gia hàng đầu về sản phẩm nông nghiệp”.

Bà con có biết đảng ta phấn đấu bằng cách nào không. Muốn biết thì hỏi mấy nông dân Campuchia họ sẽ kể cho nghe "tụi nó" qua học nghề, kinh nghiệm làm lúa giống như thế nào. Xin đọc lại bài viết Một "quyết tâm chính trị" long trời lở... hột gạo! (2) để biết rõ hơn nỗ lực phấn đấu rất sớm của các đồng chí đỉnh cao của đảng ta.
Bước vào cuộc cách mạng công nghệ thứ 4, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã không đi và cũng chẳng bước. Ông ta đang chổng mông và bò lùi. 
21.12.2016

____________________________________


ĐÀN EM ĐINH LA THĂNG

Đàn em của Đinh La Thăng hạ cánh an toàn

Bạn đọc Danlambao - Trần Ngọc Thành, một đàn em thân cận với Đinh La Thăng đã bị miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Đường sắt Việt Nam vào ngày 16.12.2016. Trần Ngọc Thành được chính thức bổ nhiệm vào chức vụ này vào tháng 4, 2013 theo quyết định Quyết định số 815/QĐ-BGTVT của Đinh La Thăng, lúc ấy đang là Bộ trưởng Bộ GTVT dưới trào Nguyễn Tấn Dũng.
Ông Thành là người đã bị nhiều tai tiếng trong vụ mua lại 164 toa xe cũ từ 12 năm đến trên 20 năm của Cục Đường sắt Côn Minh của Trung cộng. Trong vụ này Trần Ngọc Thành đã tuyên bố láo với truyền thông rằng ông ta chưa chấp thuận chủ trương mua toa tàu cũ nhưng sau đó các văn bản đã cho thấy chính ông ta đã ký phê chuẩn cho phép Vận tải đường sắt Hà Nội đàm phán mua toa tàu cũ từ Tàu cộng.
Bộ GTVT dưới quyền của Bộ trưởng mới là Trương Quang Nghĩa đã lên kế hoạch hạ cấp Trần Ngọc Thành xuống là Vụ trưởng - Phó trưởng ban Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn của Bộ. Tuy nhiên, vào tháng 10, việc bổ nhiệm chưa tiến hành thì Trần Ngọc Thành đã gửi đơn xin từ chức.
Ngày 16.12.2016 thay vì là Bộ trưởng GTVT - trong vai trò một bộ phận của nhà nước giải quyết chuyện của Trần Ngọc Thành thì Ban cán sự Đảng Bộ Giao thông Vận tải đã thò tay vào chuyện của nhà nước để ký văn bản miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đối với Trần Ngọc Thành.
16.12.2016



NGUYỄN THỊ TỪ HUY * HUỆ CHI

Phạm Toàn và Huệ Chi

Những thảo luận gần đây về vấn đề liên minh và chia rẽ khiến tôi nhớ lại một câu chuyện giữa hai cá nhân : Phạm Toàn và Huệ Chi.


(Phạm Toàn và Huệ Chi, ảnh: Bauxite Viet Nam)

Cách đây mấy năm, vào thời điểm khi tôi trở về Việt Nam sau lần du học đầu tiên, một buổi chiều tôi nhận được điện thoại của Phạm Toàn, giọng rất nghiêm trọng : « Tối nay toa bận gì, hẹn gì với ai cũng phải bỏ để đến ngay nhà moi, có việc gấp, quan trọng ». (Chắc nghĩ tôi mới ở Pháp về nên Phạm Toàn thỉnh thoảng chua tiếng Pháp vào các cuộc trò chuyện). Tôi nghe giọng điệu cũng cảm thấy là quan trọng, liền trả lời không chần chừ : « Cháu sẽ huỷ mọi cuộc hẹn để đến nhà chú, lúc 8h tối ».
Lúc đó Phạm Toàn còn thuê nhà ở khu Ciputra. Lúc tôi bước vào căn hộ rộng rãi và bày biện rất hiện đại thì đã thấy Phạm Toàn chỉnh tề ngồi đợi sẵn. Theo phong cách « tây » Phạm Toàn mời tôi chọn đồ uống, tôi chọn uống trà, đúng kiểu Việt Nam.
Sau đó Phạm Toàn bắt đầu nói rất dài về Huệ Chi, dĩ nhiên, giờ đây tôi chẳng còn nhớ gì, mà chắc Phạm Toàn cũng chẳng còn nhớ gì. Bởi vì lúc đó ông nói trong giận dữ. Tôi ngồi nghe, nghe với kinh nghiệm của một người từng làm việc vài năm trong một dịch vụ gọi là « Trung tâm tư vấn tâm lý tình cảm" (phải nói rằng những kinh nghiệm làm việc trong thời gian đó thực sự quý giá đối với tôi). Tôi để Phạm Toàn đi hết cơn giận của ông. Rồi cũng đến lúc ông hỏi : « Vậy theo toa thì moi nên làm như thế nào ? Moi định cắt đứt với Bô-xít. Moi không chấp nhận được ».
Tôi xin thêm một ly trà thứ hai, và quyết định nói thực sự những gì tôi nghĩ : « Cháu không thể nói gì về chuyện giữa chú và chú Huệ Chi. Cháu chỉ nghe mỗi mình chú, không được nghe chú Huệ Chi nên không biết thực hư câu chuyện như thế nào. Mà cái version (phiên bản) của chú lại được nói trong lúc chú tức giận như thế thì nó chính xác đến mức nào, cháu không dám chắc. Vì thế, cháu không thể nhận định gì về chuyện riêng giữa chú và chú Huệ Chi. Cháu cũng không thể khuyên chú điều gì, làm sao cháu dám khuyên chú ! Cháu chỉ muốn nói một điều thôi : dù chú quyết định như thế nào, dù chú lựa chọn giải pháp nào, thì Bô-xít, trong đánh giá của cháu, và có lẽ cũng là của nhiều người, là một thành quả của công cuộc dân chủ hoá, và nó sẽ đi vào lịch sử báo chí như là một thành quả của nỗ lực của người Việt Nam ở giai đoạn này. Chú cân nhắc điều đó khi lựa chọn giải pháp, cháu chỉ muốn nói như vậy thôi ». Ông Toàn gật gật gù gù rồi nói : « Nhưng moi tức không chịu được ».
Lúc đó tôi hỏi thêm : « Chú có nghĩ rằng đây là một sự hiểu lầm không, chú có nghĩ là có yếu tố an ninh trong tất cả những chuyện này không ? » Tôi không còn nhớ câu trả lời, nhưng phản ứng của Phạm Toàn vẫn trong tình trạng giận dữ. Sau đó chúng tôi chuyển sang chuyện khác, chuyện làm sách giáo dục. Rồi tôi ra về, vẫn không biết được Phạm Toàn sẽ quyết định như thế nào, có thể trong giới đấu tranh lại sắp có một xcăng-đan.
Vài ngày sau, an ninh gửi đi một email từ một địa chỉ gần giống hệt địa chỉ Phạm Toàn (hình như chỉ thêm vào một chữ cái). Email đó được gửi đến cho tất cả những người có trong danh sách địa chỉ mail của  Phạm Toàn, tôi không nhớ nội dung cụ thể chỉ biết là nó rất tệ, góp phần khắc sâu mâu thuẫn giữa Phạm Toàn và Huệ Chi và đặt Bô-xít vào tình trạng bê bối. Tôi vội gọi cho Phạm Toàn thì được biết đó là địa chỉ giả. Mọi việc lập tức được soi sáng. Cùng lúc đó an ninh liên tục gọi Huệ Chi lên để thẩm vấn. Trong những ngày ấy, ngày nào Phạm Toàn cũng đến nhà Huệ Chi, ngồi chờ cho đến lúc Huệ Chi từ đồn công an trở về, động viên gia đình Huệ Chi. Phạm Toàn viết bài đăng lên Bô-Xít để bày tỏ tình cảm tương ái và tình cảm yêu mến đối với Huệ Chi. Lúc đó mới thấy thật là khó có ai thương Huệ Chi hơn Phạm Toàn.
Câu chuyện về đại thể là như vậy. Bô-xít tiếp tục hành trình tranh đấu. Tình bạn của Phạm Toàn và Huệ Chi sâu đậm hơn, bền chặt hơn. Chính Phạm Toàn đã dẫn tôi tới thăm Huệ Chi tại nhà ông.
Phạm Toàn và Huệ Chi, từ hợp tác đến tan vỡ có thể chỉ trong khoảnh khắc, nhưng từ tan vỡ đến thương quý và thấu hiểu cũng chỉ trong khoảnh khắc. Trí nhớ của tôi vốn rất tệ, nhưng nó đã lưu giữ câu chuyện này, bởi đó là một câu chuyện đẹp. Thật khó mà quên được một câu chuyện đẹp như thế.
Paris, 28/11/2016
Nguyễn Thị Từ Huy

 Nguyenthituhuy's bloG
 http://www.rfavietnam.com/node/3578

NGUYỄN ANH TUẤN * THỦY ĐIỆN

Thủy điện Miền Trung và sự tha hóa của nền quản trị quốc gia

Sau một thời gian im ắng những tiếng nói chuyên môn đối với nguyên nhân lũ lụt trầm trọng bất thường ở miền Trung, gần đây, GS-TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam - một người đầy đủ thẩm quyền để phát ngôn về vấn đề này, đã lên tiếng.
Đọc bài phỏng vấn Giáo sư Hồng trên trang tin Một Thế giới ra ngày 19/12/2016 (*) không khỏi bàng hoàng trước những thông tin đang sau hàng chục cơn lũ tàn khốc ở miền Trung năm nay lấy đi sinh mạng của 235 người, làm hơn 1 triệu người điêu đứng vì mất nhà cửa, với tổng thiệt hại là hơn 37,000 tỷ đồng (~ 1,7 tỷ USD).
Hãy lược qua những ý chính trong phần trả lời phỏng vấn quan trọng này của giáo sư Hồng.
Nguyên nhân gây lũ lụt lớn năm nay là gì?
- Quy hoạch thủy điện nóng vội, làm quá nhiều thủy điện bậc thang trên các sông nhỏ, khoảng cách chỉ cách nhau vài chục cây số. Không nước nào cho phép làm như thế này, về mặt kỹ thuật là không được phép nhưng chính quyền vẫn cho phép làm điều này.
Có giải pháp cho thực trạng này không?
- Có, xóa bỏ các thủy điện nhỏ bậc thang loại này.
Giải pháp này có ảnh hưởng tiêu cực đến việc cung ứng điện cho nền kinh tế không?
- Bỏ các thủy điện này không ảnh hưởng gì nhiều, vì điện nước ta chủ yếu từ 37 thủy điện lớn.
Thế sao không thực hiện?
- Có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó cũng có nguyên nhân LỢI ÍCH NHÓM, NGƯỜI NÀY NGƯỜI KIA CÓ CỔ PHẨN ở trong các nhà máy thủy điện nên rất khó xóa bỏ.
Phần trả lời của Giáo sư Hồng, một người từng nắm trọng trách trong hệ thống, hiểu rõ cách hệ thống vận hành, chỉ có thế, không tiết lộ gì thêm. Thế thì rất có thể câu hỏi tiếp theo mà bạn đọc đặt ra sẽ là:
Ai là 'người này người kia' mà Giáo sư Hồng nhắc đến?
- Không biết. Nhưng chắc chắn là người có khả năng ngăn chặn quyết định xóa bỏ loại thủy điện này, nghĩa là người có thẩm quyền.
Nếu những thông tin mà Giáo sư Hồng cung cấp là chân thực, thì đâu khác gì tính mạng người dân đã bị bán rẻ và đất nước phải chịu những thiệt hại khủng khiếp chỉ vì lợi ích riêng của một nhóm nhỏ người - là thành phần nào thì chúng ta cũng có thể đoán được.
Có vẻ như giờ đây mọi chuyện nằm ở câu hỏi ai là cổ đông chính của các thủy điện miền Trung; họ đã làm cách nào để ban hành một loại quy hoạch không thể chấp nhận được như vậy; và họ đã kiếm được bao nhiêu tiền từ những mạng người miền Trung chết lũ?
Nhìn từ một hướng khác, dù rất cay đắng nhưng vẫn phải thừa nhận, một khi người dân chúng ta vẫn thờ ơ với chính trị - thứ tác động toàn diện đến đời sống chúng ta, và để mặc những kẻ nắm quyền muốn làm gì thì làm, thì chính trị sẽ bắt chúng ta trả những cái giá chẳng hề rẻ chút nào.
(*) Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi: ‘Quy hoạch thủy điện bậc thang trên sông nhỏ là sai lầm’ http://motthegioi.vn/thoi-su-c-66/xa-hoi-c-94/nguyen-thu-truong-bo-thuy-...

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến Công Án Bia Sơn & Lực Lượng Quốc Dân

Ảnh của tuongnangtien


Cách đây đã lâu, hôm 13 tháng 3 năm 2012, báo Quân Đội Nhân Dân có đăng tải bài viết (“Một Cuộc Chiến Tranh Ngầm”) với đoạn dẫn nhập, có phần hấp dẫn:
Núp dưới vỏ bọc doanh nghiệp, cơ sở dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng... một số phần tử cơ hội chính trị, phản động thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình chống phá cách mạng Việt Nam. Nhưng bằng tai mắt nhân dân và các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chức năng, bộ mặt thật của chúng đã lần lượt bị lật tẩy. Đáng chú ý là tổ chức chính trị phản động Hội đồng công luật công án Bia Sơn vừa bị Công an Phú Yên triệt phá. Đứng đầu tổ chức này là Phan Văn Thu (64 tuổi), ở xã An Thạch, huyện Tuy An. Trước năm 1975, Phan Văn Thu từng tham gia lính bảo an trong chế độ cũ.
Bằng chuyên án C611, đầu tháng 2-2012, Công an tỉnh Phú Yên đã triệt phá thành công tổ chức phản động này.... Các đối tượng bị khởi tố về tội Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo Điều 258 Bộ luật Hình sự.

Ông Phan Văn Thu. Ảnh: Nguyên Khang
Cuộc chiến ngầm giữa “tổ chức chính trị phản động Hội Đồng Công Luật Công Án Bia Sơn” và Đảng ta, xét ra, không được hào hứng gì cho lắm.
Coi: về nhân sự bên ta có 14 đồng chí Ủy Viên Bộ Chính Trị, lãnh đạo xuyên suốt (và tuốt luốt) hết mọi ban ngành Hành Pháp, Lập Pháp, và Tư Pháp – tất nhiên – kể luôn cả mọi cơ quan truyền thông, quốc hội, quân đội, và đám công an.
Riêng Bộ Công An của ta, theo wikipedia, có một ông bộ trưởng, sáu ông thứ trưởng, và vài trăm ông tướng. Số tướng lãnh này (dám) đủ để chỉ huy lực lượng công an cho cả Á Châu!
Còn phía bên địch thì nhân sự chắc không đếm hết mười đầu ngón tay (và ngón chân) được “chỉ huy” bởi một ông già 65 tuổi, “ lính bảo an trong chế độ cũ.” Lực lượng đã ít mà “tinh thần chiến đấu” lại hoàn toàn không cao.
Kể từ khi bị bắt đến nay không thấy có cuộc tổ chức vượt ngục nào ráo trọi. Tuyệt thực trong tù cũng khỏi có luôn. Đã thế, Thiếu Tướng Phạm Văn Hoá (giám đốc công an tỉnh Phú Yên) còn cho biết: “Họ không kêu oan gì cả, họ thừa nhận cả. Hỏi có yêu cầu luật sư không nhưng người ta không yêu cầu bởi vì người ta biết rõ tội rồi bây giờ chỉ cần khoan hồng cần giảm nhẹ thôi.”
Sau khi “khoan hồng giảm nhẹ,” ngày 4 tháng 2 năm 2013, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên án:
“Phan Văn Thu mức án tù chung thân. Vương Tấn Sơn, Lê Duy Lộc - tay chân đắc lực của Phan Văn Thu, mỗi bị cáo 17 năm tù. Các bị cáo: Võ Thành Lê, Nguyễn Kỳ Lạc, Võ Ngọc Cư, Đoàn Đình Nam, Từ Thiện Lương, Võ Tiết - mỗi bị cáo 16 năm tù. Lê Phúc 15 năm tù. Nguyễn Dinh, Đoàn Văn Cư, Phan Thanh Ý, mỗi bị cáo 14 năm tù. Đỗ Thị Hồng, Trần Phi Dũng đều 13 năm tù. Các bị cáo: Tạ Khu, Lê Trọng Cư, Trần Quân, Lê Đức Động, Nguyễn Thái Bình, Lương Nhật Quang đều 12 năm tù. Phan Thanh Tường 10 năm tù. Ngoài án tù, tòa cũng tuyên phạt quản chế 5 năm tại nơi cư trú đối với 21 bị cáo sau khi chấp hành xong bản án.”
Hơn một năm sau, vào ngày 02 tháng 11 năm 2014, trang Dân Luận có đăng tải “Đơn Xin Cứu Xét” của thân nhân những người tù trong vụ án này. Xin trích dẫn đôi đoạn để rộng đường dư luận:
Tôi trân trọng và khẩn thiết kính xin ngài Chủ tịch nước, ngài Thủ tướng cùng các cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét lại trường hợp của chồng tôi là ông Phan Văn Thu (tức Trần Công) cùng 21 người khác trong vụ án có tên “Hội đồng Công Luật Công án Bia Sơn”.
Chồng tôi bị kết án tù chung thân và 21 người còn lại lãnh mức án từ 10 năm đến 17 năm tù giam tại phiên tòa sơ thẩm ngày 04/02/2013 (bản án số 04/02/HSST) với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 Bộ luật Hình sự.
Thưa quý cấp, trong suốt quá trình cơ quan chức năng điều tra vụ án này cho đến lúc tòa mở phiên xét xử, chúng tôi đã không mời luật sự bào chữa cũng như không kháng án sau khi nhận bản tuyên án. Sở sĩ như vậy vì chúng tôi là những người tu hành, chúng tôi xem đó là pháp nạn mà mình phải gánh chịu.
Tuy nhiên, trong tình hình như hiện nay, tôi thấy Nhà nước rất độ lượng và khoan hồng cho những tù nhân có tội danh như chồng tôi. Vậy nên, tôi khẩn thiết viết đơn xin cứu xét này với mong muốn tột cùng là Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa hãy rộng lòng độ lượng xem xét lại mức án của chồng tôi và 21 người khác để họ được hưởng lượng khoan hồng mà sống hết quãng đời còn lại với người thân, gia đình và làm những việc có ích cho xã hội.

Ông Trần Anh Kim & Lê Thanh Tùng trong phiên toà ngày 16 tháng 12 năm 2016. Ảnh: vietnamnet
Tờ đơn “khẩn thiết” này chưa có hồi đáp thì RFA, nghe được vào hôm 16 tháng 12 năm 2016, lại vừa loan tin về một vụ án “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” khác:
Hai cựu tù chính trị Trần Anh Kim và Lê Thanh Tùng hôm nay bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình kết án tù với cáo buộc ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam. Tin cho biết ông Trần Anh Kim bị xử 13 năm tù và ông Lê Thanh Tùng 12 năm tù...
Theo cáo trạng, ông Trần Anh Kim là cựu  thượng tá quân đội nhân dân Việt Nam, ông có ý tưởng thành lập tổ chức mang tên “Lực lượng quốc dân dựng cờ dân chủ” với lực lượng nòng cốt là sĩ quan và hạ sĩ quan trong quân đội nhân dân và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước kia.
Công an Thái Bình cho biết họ đã bắt giữ hai nhà hoạt động dân chủ, ngăn chặn không cho hai ông Trần Anh Kim và Lê Thanh Tùng ra mắt “Lực lượng quốc dân dựng cờ dân chủ” trên Internet dự kiến vào lúc 21 giờ tối ngày 21/9/2015.
So với nhóm Công Án Bia Sơn thì Lực Lượng Quốc Dân “nhẹ ký” hơn thấy rõ. Nhân sự vỏn vẹn chỉ có hai người. Tuy thế, bản án mà nhà đương cuộc Hà Nội dành cho hai nhân vật này – xem ra – cũng không nhẹ nhàng gì!

Một góc Khu du lịch sinh thái Đá Bia. Ảnh: vietnamtourism

Không ít người tin rằng nếu Khu Du Lịch Sinh Thái Đá Bia trông bớt phần hấp dẫn ( không đến giá 280 tỉ đồng, theo vietnamtourism) khiến giới quan chức tố mắt thì ông Phan Văn Thu và hai mươi mốt đồng đạo đã không bị vướng vào vòng lao lý.
Dư luận cũng cho rằng cùng với lời cáo buộc (“có ý tưởng thành lập tổ chức mang tên ‘Lực lượng quốc dân dựng cờ dân chủ’ với lực lượng nòng cốt là sĩ quan và hạ sĩ quan trong quân đội nhân dân và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước kia”) bản án hai mươi lăm nam tù dành cho hai ông hai ông Trần Anh Kim và Lê Thanh Tùng dùng để răn đe và ngăn chận hiện tượng tự diễn biến, đang lan rộng trong lực lượng vũ trang, có thể làm sụp đổ chế độ.
Sự thực thì chính sức nặng của chế độ hiện hành đã làm cho nó sụp rồi, chỉ chưa đổ lăn kềnh ra thôi. Thời gian gắng gượng chắc cũng không còn dài lắm, ít nhất thì cũng không thể dài bằng những bản án (bất nhân) thượng dẫn.

NGUYỄN THIÊN- THỤ * ĐẶC TÍNH VĂN HỌC ĐỜI NGUYỄN

 

ĐẶC TÍNH VĂN HỌC ĐỜI NGUYỄN

NGUYỄN THIÊN- THỤ

Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng của Việt Nam, và văn học đời Nguyễn là một nền văn học rất lớn của nền văn học Việt Nam, bao gồm văn ïchương chữ Hán và văn chương chữ Nôm. Nhà Nguyễn tồn tại 133 năm (1802-1945), nhưng thực tế, văn học cổ điển đã ngưng lại năm 1919 vào khoa thi Hội cuối cùng, để sau đó văn học quốc ngữ và ngôn ngữ, văn tự Pháp thay thế địa vị chủ yếu trong giáo dục và hành chánh Việt Nam. Như vậy, văn học cổ điển đời Nguyễn tồn tại hơn một trăm năm nhưng đã đào tạo được một số tác giả đông đảo và xây dựng được một số tác phẩm phong phú bằng hoặc hơn văn học đời Lê đã trường trị gần 400 năm.
Văn học cổ điển đời Nguyễn có nhiều sắc thái đặc biệt. Tuy nhiên ở trong bài khảơ cứu này, chúng tôi chỉ trình bày một vài nét chính yếu, một vài nét tiêu biểu của văn học đời Nguyễn như trữ tình, lãng mạn, hiện thực, chiến đấu và trào phúng.
I.TRỮ TÌNH
Thi ca trữ tình VIệt Nam đã khởi phát từ đời Lê. Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi là một bài thơ ca tụng cảnh nhàn nhưng âm điệu và nghệ thuật trữ tình đã lên cao bậc nhất thời đại.Đến cuối đời Lê, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán, Ai Tư Vãn nối nhau tạo thành một không gian màu tím ngát của buồn thương, than khóc cho mình và thân phận con người. Tính chất trữ tình càng phát triển mạnh trong văn học đời Nguyễn. Không ai có thể phủ nhận thiên tài Nguyễn Du trong Văn tế Thập Loại Chúng sinh, Long Thành Cầm giả ca mang màu sắc nhân bản. TựÏ Tình Khúc của Cao Bá Nhạ và Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là tâm trạng tuyệt vọng và đau khổ thật sự của hai tù nhân.
Chúng ta còn phải kể đến Nguyễn Khuyến với bài khóc bạn là một áng văn chương tuyệt diệu cả Hán và quốc âm.
已矣楊 大年
雲樹心懸懸
回憶登科後
與君晨夕聯
相敬且相愛
遭逢如宿緣
輓同年雲享進士楊上書
Dĩ hỉ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu
Dữ quân thần tịch liên
Tương kính thả tương ái
Tao phùng như túc duyên.. .
(Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư)
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lỏng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời

( Khóc bạn)
Trước nay, dường như rất it thi nhân nói về tình gia thất. Ở đời Nguyễn, tình chị em, anh em, tình bác cháu, nhất là tình vợ chồng đã có những sằc thái nổi bật. Trương Đang Quế là một tấm gương trung hậu. Ộng luôn nghï đến anh em chi em là những người đã lo lắng cho ông khi ông ra Huế thi cử:
始我出門時
爲我求學力
妻爲縫其衣
姊爲贈其食
臨行送我門
時時好安息
(長安遊)
Thủy ngã xuất môn thì
Vị ngã cầu học lực
Thê vị phùng kỳ y
Tỷ vị tặng kỳ thực
Lâm hành tống ngã moan
Thời thời hảo an tức
(Trường An du)
Lần đẩu ra khỏi nhà,
Vì học phải đi xa,
Quần áo vợ may sắm
Lương thực chị cho ta.
Chị tiễn ta ra ngõ
Chúc thuận buồm xuôi gió.

( Đi Trường An.- Nguyễn Thiên Thụ dịch, )
Phan Thanh Giản hai vai gánh nặng. Ông lo việc nước, ông nặng tình nhà. Ông nhớ ngày ra kinh dự thí, cả nhà quan tâm, lo lắng:
親姑年七十
老病起凭牀
聞我來吿別
無言摧衷腸
中表有二兄
聚首最相愛
弟去莫復問
舅叔我分內
新婦纔七日
代我具餐食
今我事遠遊
井臼乃之職
家別
. . . Thân cô niên thất thập
Lão bệnh khởi bằng sàng
Văn ngã lai cáo biệt
Vô ngôn tồi trung tràng
Trung biếu hữu nhị huynh
Tụ thủ tối tương ái.
Đệ khứ mạc phục vấn
Cửu thúc ngã phận nội
Tân phụ tài thất nhật,
Đại ngã cụ xan thực,
Kim ngã sự viễn du
Tỉnh cửu nãi chi chức .( Gia biệt)
Cô già tuổi bảy mươi
Đau ốm nằm liệt giường.
Nghe cháu đến cáo biệt,
Không nói lòng xót thương!
Trong họ có hai anh,
Đối đãi rất chân thành.
Việc săn sóc cậu mợ,
Em đi, xin nhờ có anh.
Vợ cưới được bảy bữa
Lo nấu nướng suốt ngày
Nay ta phải đi vắng
Mọi việc cậy nàng thay. . .

(Giã nhà – .- Nguyễn Thiên Thụ dịch)
Nghệ thuật và tình cảm của các tác giả miền Nam như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản hoặc người Trung như Trương Đăng Quế rất chất phác, thành thật.
Một bước trưởng thành của thi ca đời Nguyễn là lối hát ả đào. Đây là một hình thức xướng ca có nguồn gốc từ đời Lê nhưng đến đời Nguyễn thành một phong trào, một phong thái văn nghệ mà nội dung là thi nhạc trữ tình, trong đó cũng có phần lãng mạn và tinh thần Lão Trang.
II. LÃNG MẠN
Lãng mạn là một khuynh hướng mạnh mẽ trong văn chương Việt Nam, đã thể hiện trong ca dao Việt Nam. Trong thi ca của Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông chúng ta đã thấy phảng phất nỗi nhớ thương về những giai nhân. Đến đời Nguyễn, tình yêu thầm lặng, kín đáo vẫn là những đóa hoa ướp thơm trang văn học.

Thơ Trịnh Hoài Đức mang tính cách lãng mạn của Đường thi:
鏡中美人
英華嫌外露
寶鏡隱嬋媛
冰玉春心照
菱花綵袖翻
月宮奔羿婦
銀漢渡天孫
塵海徑遷變
紅顏愛永存
KÍNH TRUNG MỸ NHÂN
Anh hoa hiềm ngoại lộ,
Bửu kính ẩn thuyền viên.
Băng ngọc xuân tâm chiếu
Lăng hoa thái tụ phiên
Nguyệt cung bôn Nghệ phụ
Ngân hán độ Thiên tôn
Trần hải kinh thiên biến,
Hồng nhai ái vĩnh tồn
MỸ NHÂN TRONG GƯƠNG
Hoa đẹp lộ ra ngoài
Người đẹp trong gương cười.
Lòng xuân băng ngọc hiện
Áo gấm hoa lăng tươi
Chị Hằng ở nguyệt điện,
Chức nữ qua Ngân hà
Bể trần nhiều biến chuyển,
Hồng nhan muốn đẹp hoài

( Nguyễn Thiên Thụ dịch, các bài sau cũng vậy)
Trương Đăng Quế cũng một thời lãng mạn. Bài thơ sau nay viết về một giai nhân:
推粧
香奩此日花前探
桂樹何時月裏攀
細問素娥寂無語
依依清影近人間
THÔI TRANG
Hương liêm thử nhật hoa tiền thám,
Quế thụ hà thời nguyệt lý phan?
Tế vấn tố nga tịch vô ngữ
Y y thanh ảnh cận nhân gian.
GIỤC TRANG ĐIỂM
Ngày ấy thăm hoa, tráp ngát hương
Bao giờ vin quế ở cung Hằng?
Tố Nga nghe hỏi mà không đáp,
Hình ảnh rạng ngời khắp thế gian.
Qua thơ của Tuy Lý Vương, ta thấy Ngài như vương mắc một mối tình sầu:
雨脚如麻夜復密
漫漫癡雲四野黑
燈昏欲蕊螢亂飛
幽衾潑水粟生肌
埯卷起座有所思
我思乃在勾曲之陽
(湘水湄)
Vũ cước như ma dạ phục mật,
Mạn mạn si văn tứ dã hắc,
Đăng hôn dục nhụy, huỳnh loạn phi,
U khâm bát thủy, túc sinh ky.
Yêm quyển khởi tọa, hữu sở ty,
Ngã ty nãi tại câu khúc chi dương.
(Tương thủy mi )
Mưa như sợi chỉ, đêm mênh mông,
Mây đen kịt che tối ruộng đồng.
Đèn leo lét, đóm bay tứ tung.
Chân như tẩm nước, da mọc ốc,
Xềp sách ngồi dậy, lòng vấn vương
Vấn vương đôi bờ sông Tương.
. .
(Bờ sông Tương)
感君有情情能癡
嗟我有心心自知
相逢且託巫陽夢
莫向人間訴別離
(夜座吟)
. . . Cảm quân hữu tình, tình năng si,
Ta ngã hữu tâm, tâm tự tri
Tương phùng thả thác Vu dưong mộng,
Mạc hướng nhận gian tố biệt ly.
(Dạ tọa ngâm)
. . . Thương nàng có tình, tình tha thiết
Thương ta có lòng, lòng tự biết
Chỉ được gặp nhau trong giấc mơ
Trần thế xin đừng nói ly biệt

( Ban đêm ngồi ngâm)
Những tác giả và tác phẩm kể trên cũng thuộc trào lưu lãng mạn nhưng mà là lãng mạn cổ điển, tình yêu kín đáo như những trang Đường thi. Lãng main thật sự phải kể Phạm Thái là một kiện tướng. Ông đã sống rất thực trong cuộc chiến đấu cô đơn và mối tình tuyệt vọng cùng kết thúc bi thảm. Tình yêu của ông và Trương Quỳnh Như đã nở hoa, thành những bài thơ và ngưng đọng thành truyện tình Sơ Kính Tân Trang mà nội dung như là Roméo và Juliette của Việt Nam. Phạm Thái và Trương Quỳnh Như là hai tác giả lãng mạn ở cuối Lê đầu Nguyễn. Phạm Thái đã yêu Trương Quỳnh Như và gửi thơ cho nàng bày tỏ tình yêu:
Từ chốn thiềm cung trộm dấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt dong đàn oán,
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận,
Thì xin ân ái vẹn nên đường.
Phong lưu đôi lứa đà ai dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương.

Trương Quỳnh Như cũng đã gửi thư cho chàng:
TIỄN ÔNG CHIÊU LỲ VỀ QUÊ
Sắt đá lòng này đã biết chưa?
Se duyên nay mượn gió cung Đằng.
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín,
Dặm liễu ai xui yến cách chừng.
Vàng ngọc nếu chăng cùng một ước,
Nước non thề đã có hai vầng.
Ai sang cây hỏi tri âm với,
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng.
Tiểu thuyết ái tình Việt Nam đã ra đời vào triều Lê với Phan Trần, Hoa Tiên. Sau đó, Truyện KIều, Lục Vân Tiên ra đời, mang một sắc thái mới cho văn học đời Nguyễn. Nhưng đó là những bản sao truyện tình Trung Quốc. Sơ Kính Tân Trang mới là tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Phạm Thái sinh trưởng tại Việt Nam nếu ông sinh tại Anh, Pháp, có lẽ ông đã trở thành thủy tổ của trường phái lãng mạn Tây phương.
III. HIỆN THỰC
Văn chương hiện thực là văn chương nói về những sự thực trong xã hội, cho nên trước nay người ta cũng gọi là truyện xã hội, nói về bất công xã hội. Nguyễn Thiếp đời Lê là người tiên phong về khuynh hướng này trong bài nói về cảnh dân chúng đói khổ vì lụt lội ở Bắc.
Đời Nguyễn, khuynh hướng xã hội ra đời mạnh mẽ với Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương. Là những trí thức, là bậc vương giả, họ đã đi sát nông dân, hiểu rõ đời sống quần chúng. Đó là căn bản tính thiện, bác ái, từ bi, và nhân nghĩa của Nho gia, Phật gia, khác với đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx.

Cao Bá Quát viết Đạo phùng ngạ phu để nói bất hạnh của con người trong vấn đề cơm áo.
家貧藝醫卜
我來走長安
長安無病人
群醫如邱山
零丁望歸路
(道逢餓夫)
Gia bần nghệ y bốc
Ngã lai tẩu Trường An,
Trường An vô bệnh nhân,
Quần y như khâu sơn.
Linh đinh vọng quy lộ. .
( Đạo phùng ngạ phu)
Nhà nghèo làm nghề thuốc,
Lên kinh đô kiếm sống.
Kinh thành không bệnh nhân,
Thầy thuốc ế cả đống
Phải trở về từng đàn. . .

( Giữa đường gặp người đói)
Tùng Thiện vương là cành vàng lá ngọc nhưng ngài hiểu thấu dân tình. Tấm lịnh ngài th ương cäm với nổi khổ của dân nghèo và những bất công xã hộI qua các bài Bần gia và Lưu dân thán.
貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑
枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉
BẦN GIA
Tân khổ bần gia tử
Niên niên hàn phục cơ
Hiểu trường sơ thế phạn,
Đống cốtt hỏa vi y.
Biển địa do binh giáp.
Mãn thiên thả tật oai,
Chu môn lạc hà sự
Dạ ẩm đạt triều huy.
NHÀ NGHÈO
Con nhà nghèo khổ đau
Quanh năm rét lại đói,
Bụng rỗng phải ăn rau.
Lấy lửa thay chăn gối.
Khắp đất là gươm đao,
Đầy trời là họa hại.
Vui vẻ thay nhà giàu,
Yến tiệc suốt đêm thâu.
Tuy lý vương lên tiếng tố cáo quan lai tham nhũng làm dân chúng khốn khổ:
土車謡
車轢轆轢轆.
土多折軸
不畏折軸
唯恐土覆
車一輪
人一身
愼勿遲延官場嗔
我亦父母之子王之臣
THỔ XA DAO
Xa lịch lộc! Lịch lộc!
Thồ đa chiết trục
Bất úy chiết trục
Duy khủng thổ phúc
Xa nhất luân
Nhân nhất thân
Thận vật trì diên, quan trường sân.
Ngã diệc phụ mẫu chi tử, vương chi thần.
BÀI CA XE CHỞ ĐẤT
Lộc cộc, lục cục,
Chở đất nhiều, xe gãy trục,
Gãy trục, chẳng sợ
Chỉ sợ xe đổ
Xe một cổ,
Người một thân.
Làm chậm trễ
Quan rầy la.
Ta là con của mẹ cha
Cũng là thần tử vua ta đương triều!
IV.TRANH ĐẤU
Năm 1862, thực dân Pháp đã bộc lộ dã tâm xâm chiếm nước ta. Một số rất it ra làm tay sai cho Pháp như Trương Vinh Ký, Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc nhưng tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có các nho sĩ yêu nước đã đứng lên tranh đấu cho độc lập Tổ quốc. Một số đã cầm quân đánh giặc, tham gia khởi nghĩa chống Pháp như Phan Đình Phùng, Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Thông, một số hoạt động chính trị vận động Duy Tân, Đông Du như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thức Kháng, Ngô Đức Kế. Một số bất cộng tác, hoạt động theo tinh thần bất bạo động như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Lâm. . .Lớp này ngã xuống, lớp sau tiến lên. Các bậc trí thức đời Nguyễn đã đem xương máu tranh đấu cho độc lập Việt Nam, họ đã nêu cao tinh thần bất khuất của sĩ phu Việt Nam.

Mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp của triều đình, Nguyễn Thông đã tố cáo thực dân Pháp xâm lăng và ông đã bày tỏ nỗi đau đớn khi nghe tin Nam kÿ rơi vào tay Pháp:
書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜
THƯ HOÀI THỊ DINH ĐIỀN PHÓ SỨ BÙI BÁ XƯƠNG
Ngưu chữ vô đoan tác chiến trường
Trấp niên giang hải túy vi hương.
Đồng lai cố quận duy quân tại,
Quán xúc nguy cơ tiếu ngã cuồng.
Triều luận không văn đàm ngã lợi,
Vân phàm hà nhật hạ trùng dương?
Chỉ kim Yên Triệu bi ca khách,
Nhiệt huyết điền ưng lữ mấn sương
Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Bến Nghé gây nên cuộc chiến trường,
Làng say mấy lúc lại qua thường.
Cùng về xứ cũ người càng khoẻ
Chạm mãi cơn nguy, tớ muốn cuồng.
Chầu chợ đồn rầm mối lợi lớn,
Biển khơi bao thuở cánh buồm giương?
Chỉ lưa ca khúc người Yên Triệu.
Lòng nóng sôi lòng tóc nhuộm sương.
Cùng lúc này, Nguyễn Đình Chiểu ra sức tán dưong tinh thần hy sinh anh dũng của cha con nhà họ Phan, và ca tụng tinh thần của nghĩa quân như Trương Công Định, và nghĩa quân Cần Giuộc. Đoạn sau nay viết về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân:
Trên cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; Trong tay cắp moat ngọn tầm vông, nào đơi sắm dao tu, nón gõ. . .
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ,trống giục, đạp rào bước tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như không có
. .
 ( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Phan Bội Châu là một nhà cách mạng và là một văn hào yêu nước. Tác phẩm của ông là một kho tàng vĩ đại. Chúng tôi xin nêu lên một vài tác phẩm của Sào Nam Phan tiên sinh: -Bình Tây Thu Bắc (1883); -Song Tuất Lục (1886);- Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (1903);- Khuyến Quốc Dân Du Học Văn (1905);-Việt Nam Vong Quốc Sử (1905);–Việt Nam Nghĩa Liệt Sử (1907);-Ngục Trung Thư; -Tự Phán. . .
Tất cả thi ca của ông đều nhằm vài việc giải phóng dân tộc. Thơ ông đã được dịch quốc ngữ truyền bá trong Đông Kinh nghĩa Thục và khắùp nước. Bài thơ sau nay do Phan Bội Châu viết ngày mồng hai tháng giêng năm ất tị (1905) lên đường sang Nhật Bản:
生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下車無誰
江山死矣生圖汭
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Hữu thiên tải hạ cánh vô thùy.
Giang sơn tử hỷ sanh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện dục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ýtrời.
Trong cuộc trăm năm đành có tớ
Rồi sau muôn thuở há không ai.
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoải.
Đông hải xông pha nương cánh gió,
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi!

( Ngục Trung Thư. Đào Trinh Nhất dịch)
Trong Hải Ngoại Huyết Thư, Phan Bội Châu làm nhiều bài văn thơ kêu gọi canh tân và chống Pháp:
腥風馥鼻唉劍挾之無忴
忿氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎
Tình phong phốc tị, ai kiếm hiệp chi vô linh
Phẫn khí điền hung, võng côn hùng chi giao chúc.
Hoàng thiên hậu thổ ký giám dư tâm phủ hồ?
Hội đảng côn đồ, kỳ thỉnh dư ngôn phủ hồ?
Gió tanh sống mũi khó ưa
Gươm sao cắp nách mà ngơ cho đành.
Hòn máu uất, chất quanh đầy ruột
Anh em ôi, xin tuốt gươm ra
Có trời, có đất có ta,
Đồng tâm thế ấy mới là đồng tâm!

(Lê Đại dịch)
Phan Bội Châu là một văn hào, một nhà cách mạng chân chính của Việt Nam.
V. TRÀO PHÚNG
Tinh thần trào phúng xuất hiện đời Nguyễn với Hồ Xuân Hương cười cợt nhân thế với nghệ thuật tượng trưng mà đậm đà nhất là biểu tượng cái giống. Nụ cười của Hồ Xuân Hương bắt nguồn từ cái dâm và tục của người Việt Nam trong kho tàng tiếu lâm. Sau đó, khi thực dân xâm chiếm nước ta, nghệ thuật trào phúng nhắm vào thực dân, bọn tay sai và hủ tục gây ra do chế độ thực dân và chính quyền tạo ra những sân khấu mới và những tên hề mới. Đại biểu cho trào lưu này là Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huỳnh Mẫn Đạt, Kỳ Đồng, Nguyễn Thiện Kế. . . .Trào phúng ở nay là vũ khí chống lại bất công và thối nát của xã hội và chống bọn thực dân xâm lược.

Nguyễn Khuyến đã chỉ trích bọn quan lại thời Pháp thuộc:
吾惟嗜飮食
雨非吾能為
神今且如 此
於民復奚疑
(禱雨)
Ngô duy thị ẩm thực
Vũ phi ngô năng vị
Thần kim thả như thử
Ư dân phục hề nghi
( Đảo vũ)
Ta chỉ biết ăn uống,
Ta không biết làm mưa
Bao nhiêu thần bây giờ
Chỉ làm khổ dân chúng 
( Cầu mưa)
Ông mượn lời vợ người phường chèo để chỉ trích vua quan thời Pháp:
俳優皇帝且不惧.
何況爾為俳優官
(優婦詞 )
Bài ưu hoàng đế thã bất cụ
Hà huống nhĩ vi bài ưu quan
( Ưu phu từ)
Vua chèo còn chẳng ra chi
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề

( Nguyễn Khuyến dịch)
Trần Tế Xương lả một nhà thơ xuất sắc. Ông đem cái nghèo, cái thi hỏng của ông làm đề tài châm biếm. Ông cũng chỉ trích xã hội của ông gồm những quan lại và nho sĩ thời Phàp cai trị đất Bắc:
THẾ CŨNG ĐÒI THI
Cử nhân cậu ấm Kỷ
Tú tài con Đô Mỹ
Thi thế cũng đòi thi
Ơi khỉ ơi là khỉ!
LẮM QUAN
Ở phố hàng Song thực lắm quan,
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
Chồng chung, vợ chạ kìa cô Bố,
Đậï lạy quan xin nọ chú Hàn!
Văn chương cổ điển đời Nguyễn rất phong phú, trong đó các văn nhân, các vua, các quan lại đã tích cựïc đóng góp cho văn học. Nổi bật nhất Siêu, Quát, Tùng Tuy. Thời này khác các đời trước là ai cũng có thi tập lẫn văn tập. Văn xuôi, văn bình luận đã ra đời khá nhiều. Công cuộc nghiên cứu sử học rất vĩ đãi. Trong mấy chục năm trời, các văn thần Quốc Sử quán như Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Cao Xuân Dục đã biên khảo nhiều bộ sử có giá trị như Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Quốc Triều Chánh Biên. . .
Lối hát ả đào là một nghệ thuật mớI, kết hợp thi ca và nhạc. Loại Anh hùng ca đã có từ xưa, nay lại ra đời, phản chiếu trung thành lịch sử nước nhà trong giai đoạn đen tối với Nguyễn Nhược Thị, Nguyễn Văn Giai.Văn chương triều Nguyễn mang tính cách bi và hùng mà con người và sự nghiệp của Nguyễn Du, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu và Phan Bội Châu là những khuôn mặt rạng ngời trong lịch sử dân tộc và lịch sử văn học triều Nguyễn. Các vua quan, văn nhân, thi sĩ đời Nguyễn đã sáng tác, nghiên cứu và tranh đấu anh dũng cho văn học, nghệ thuật và độc lập Việt Nam. Lịch sử muôn đời sẽ công quên công ơn và sự đóng góp lớn lao của họ.
 
SOME CHARACTERESTICS OF VIETNAMESE LITERATURE UNDER THE NGUYEN DYNASTY ( 1802-1945)
by NGUYỄN THIÊN-THỤ
Under the Nguyễn dynasty, Vietnam had two writing systems: the Sino Vietnamese and the Nom. Although the Nguyen dynasty lasted 133 years, its literature last 117 years, because the year 1919 marked the end of its fate. From this year, French colonialists cancelled the old Vietnamese education and built a new one with French and Quốc Ngữ, a kind of Romanized Vietnamese.
Vietnamese literature under the Nguyen dynasty is a great literature because of a great number of famous authors and famous works. This literature also has some characteristics such as lyricism, romanticism, realism, combat, and satire.
I. LYRICISM
 
Lyricism was a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Chinh Phu Ngâm (Song of a Soldier’s Wife ) by Đặng Trần Côn (1710-1745), Cung Oán Ngâm Khúc ( A Plaint Inside the Royal Harem) by Nguyễn Gia Thiều (1741-1798)
and Ai Tư Vãn (Lamentation) by Queen Ngọc Hân (1771-1804) were the most famous lyric poems. In the Nguyễn dynasty, Nguyễn Du (1765-1820) wrote Văn tế thập loại chúng sinh ( Calling All Wandering Souls) which was a well known lyric poem based on Vietnamese belief and Buddhist influence:
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Bóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương.
May Buddha rescue you from life and death
And ferry you to his Pure Land of Bliss!
Let his effulgent light dispel such gloom
As clouds the mind in ignorance and sin!
The over all fours seas his peace shall reign
To soothe all griefs and purge all hatred off.
May Buddha’s power send the Wheel of the Law,
Through all three realms, through all cardinal points
(Transl. by Huynh Sanh Thông)
Nguyễn Khuyến (1835- 1909) wrote Khóc Dương Khuê ( Lamentation ) in both Chinese and Nôm, and this long poem is a poetic creation. Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm ( Nostalgy ) by Đinh Nhật Thận (1815- 1866), and Tư Tình Khúc ( Expression) by Cao Bá Nha (19th century)ï are the great works of two prisoners.

Giấc thanh dạ cơn say ,cơn tỉnh,
Ngày lưu niên, khi lạnh khi nồng.
Phần du nẻo Bắc ngừng trông,
Nước non cách mấy mươi trùng xa xa.
Câu lữ cảm lệ hòa nét mực,
Chữ gia tình thấm tắt lòng son 
(Tự Tình khúc)
At night, I can not sleep well,
In the exile, I am not happy.
I always look toward the North,
Where my home is
It is far away by mountains and rivers
In the foreign country,
I miss my family
I sadly write about my nostalgia

( Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
II. ROMANCISM
Romanticism is a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Phan Trần,
( Story of Phan and Trần), Hoa Tiên ( Flowered Stationery) were the famous love stories. In the Nguyen dynasty, there were a lot of love stories appeared, but Truyên Kiều (The Tale of Kieu ) by Nguyễn Du and Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) were the most popular works. Some Vietnamese stories such as The Tale of Kieu, Nhị Độ Mai, ( Plumtrees Blooming Twice ) are derived from the Chinese sources, but Sơ Kinh Tân Trang ( The Comb and the Mirror ) by Phạm Thái ( 1777-1813 )was written in 1804. It is an autobiographical work, disguised account of the love affair between the author and lady Trương Quỳnh Như. Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu is also an autobiographical work of the author, a student, who became a blind, and lost his fiancée .

In Vietnamese poetry under the Nguyễn dynasty, we can see a number of romantic poems. Nguyễn Văn Siêu (1799- 1872) wrote a short poem:
落花辰節又逢君
何辰雲水各天涯
腸斷春風萬里賒
萍梗此囬疑夢寐
忽添驚淚落如花
Meeting you when flowers are falling
In the horizon, how long have we been wandering?
In foreign country, the spring wind makes me sad
I think that we are dreaming.
Suddenly my tears drop as flowers falling!
Tùng Thiện Vương (1819-1870) was also a romantic poet. He expressed love and sadness of a young woman:
落花辰節又逢君
何辰雲水各天涯
腸斷春風萬里賒
萍梗此囬疑夢寐
忽添驚淚落如花
FROM THE DAY YOU GO
When you leave,
I did not weave
My soul, like the moon each night
It decreases its light
III. REALISM
Realism in Vietnamese literature began in the Lê dynasty with an poem entitled Phù Thạch phùng lão ngư ( An old fisherman on the Phù Thạch river ) by Nguyễn Thiếp (1723-1804). In the Nguyễn dynasty, this movement developed with Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý vương. By influence of human love and compassion of Confucianism and Buddhism, many poets paid attention to the reality and life of poor people. Cao Bá Quát (1809- 1853) reported news from the North of Vietnam where had been in trouble time: people were killed and houses were burn by the robbers and the revolters:
怪事怪事不忍聞
自畫殺人全家去
軍吏過者顧之他
鄊里藏匿不敢語
語者十人無一生
家家灰盡成飛絮. . .
(人自北寧來言北寧事感作)
It is very strange to hear that news
They killed a whole family by day
Officials and soldiers were indifferent,
The village authorities did not dare to say!
Who speak truthfully will be killed
A lot of houses became ashes to fly away!. . .

( News from Bắc Ninh province, transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
Although Tùng Thiện Vương was a king’s relative, he took interest in poor people:
貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑
枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉
Poor people
Poor people are unhappy
Every year cold and hungry,
They eat vegetables when
their stomachs are empty.
Fire instead of clothes in winter,
Land is full of swords
And sky disaster
Rich people are happy
Every night party and party.
IV PATRIOTISM
In 1859 the French colonialists began occupy Vietnam. Vietnamese people, especially the scholars struggled against them. A numbers of writers and poets became the generals or leaders of the revolutionary movements such as Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Huân, Trương Công Định, Nguyễn Thiện Thuật and Phan Bội Châu. This war also created a new movement in literature that was the resistant literature, revolutionary literature, or patriotic literature.
Nguyễn Thông (1827- 1884) was a combatant. In 1859, the French occupied Gia Định, he followed general Tôn Thất Hiệp to fight French colonialists. In 1881, he became Chief of Education and a Chief of Agriculture of Binh Thuân province.

He was a patriot. Most of his poems expressed his love of country:
書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜
LETTER TO MY FRIEND BÙI BÁ XƯƠNG
Saigon becomes a battle field,
I have been drinking.
In my countrymen, only you are still living.
Experiencing danger, I become mad.
Everywhere they discussed about negotiating.
I want to steer a cloud boat to the southern sea.
I am a stranger who lost his country and very sad.
My head became white, but my heart is burning.
Nguyễn Đình Chiểu recounted a scenery when the French attacked Gia Định:
CHẠY GIẶC
Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ chó lăng xăng chạy,
Mất ổ bay chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh khói nhuốm màu mây.
Hởi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
AVOIDING THE FRENCH INVADERS
After the market hour, the French troops fired,
In a minute, every thing changed and we failed.
The dogs quitted home and ran on the way,
Lost their nests, the frightened birds flied away.
In Bến Nghé, property became bubbles in a day
In Đồng Nai, houses were burnt to ashes quickly
Where were you? The heroes?
Why didn’t you save our country?
Nguyễn Đình Chiểu praised the heroes such as Phan Thanh Giản, Phan Tòng, Trương Công Định., especially the peasants in Cần Giuộc in the fight on december, 14, 1861:
Bữa thấy bòng bong trắng lớp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khòi đen sì, muốn ra cắn cổ.. .
Nào sợ thằng tây bắn đạn to, đạn nhỏ, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . . .
Chẳng thà thác đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Chẳng hơn còn chịu tiếng hàng tây, ở với man di rất khổ. . .
( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Seeing black French ships with white bubbles in the river, our men wanted to kill them all. . .
They didn’t care of French guns, and considered their lives were nothing. . .
They wanted to die heroically like their brave ancestors, rather than to surrender the barbarians.

( Lamentation- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)

Phan Bội Châu (1867-1940 ), Phan Chu Trinh ( 1872- 1926), and Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) were the leaders of the Vietnamese Movement of Reform ( Phong trào Duy Tân ). Phan Bội Châu was a prominent revolutionist and a scholar, he wrote a lot of works in order to appeal to his compatriots to revolt against the French colonialism. The follwing poem was written in 1905 when he was on the way to Japan:
生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下竟無誰
江山死矣生途芮
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛 
(獄中書)
I am a man, I have to achieve great success,
I try to save my country.
In this life, I have to fulfill my duty
In future, many people will continue my business.
If there is no more nation, my life will be useless.
There is no more saint, why I still study?
I will travel the stormy sea
Although thousand waves are in angry.

( Letter From the Prison- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
In Hải Ngoại Huyết Thư ( Blood Letter From the Oversea) , he accused the French colonialism, and called on the people to join him in the struggle to free Vietnam.
腥風馥鼻唉劍挾之無忴
忿氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎
I hate bad smelling,
I can not take a sword with no intention
In my heart, my anger is rising
My friends, draw your weapons,
In the Heaven and earth, we stand
And hold together with hand in hand.

(Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
V.SATIRISM
In oral literature , there are many humorous stories whereas in Sino Vietnamese and Nôm literatures, we have no a laughing. In the Nguyễn dynasty, a number of satirical poems appeared in Sino Vietnamese and in Nôm literatures. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Lạc, Kỳ Đồng , Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Thiện Kế were the prominent satirists.

When some poets focused on the individuals just for fun, the others aimed to criticise society, especially society under the French domination. Satire in this case is the weapon to struggle against our enemies.
Nguyễn Khuyến wrote many patriotic poems, he also composed a lot of satirical poems. A lot of his satirical poems criticized people and mandarins who followed the French invaders, became their tools, and their servants. His satirical poems were also his patriotic poems. He criticized Bastille Day, the French celebrated on 14 July in Hanoi:
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền, cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trị vui thề
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

(Hội Tây)
Relying on their strength, many women swing
Eager for money, on the grease pillars,
some men try climbing
Who displayed these games?
It is not a joy, but a shame.

( A French Festival- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
He criticized the education and examination under the French domination which caused corruption in the administration and bad habits in society. He described the paper dolls featuring the scholars with a doctor degree in the Mid Autumn Festival in Hà nội:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy m ới h ời!
Ghế tréo , l ọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

(Tiến sĩ giấy)
His body with court dress is very light,
And the price of his fame is not high.
He is great in his throne with blue parasol,
Is this a real doctor? No, it is a toy for the child.

( An unreal doctor)

Trần Tế Xương (1870-1907) was a greatest satirical poet. His poverty and his failure in examination were his poetry subjects. He criticized himself and he attacked his society, a new society corrupted by French colonialists and servants. He satirized a chief police in Ha nam province:
Hà Nam danh giá nhất ông cò,
Trơng thấy ai ai chẳng dám ho.

(Ông Cò )
A chief of police is a very important person
in Hanam province
Seeing him, everybody keep silent by fright.

(Mr. French Police officer)
He criticized the corrupted exam of his time:
Cử nhân cậu Ấm Kỷ,
Tú tài con đô Mỹ.
Thi thế cũng đòi thi,
Ôi ! khỉ ôi là khỉ!
 
(Thế cũng đòi thi)
Uncle Kỷ passed his licentiate
Đô Mĩ ‘ s son got baccalaureate.
How can they pass?
What a monkey tricks!

( What an exam !- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
The Nguyễn dynasty had a number of great authors and works. The National History Institute
( Quốc Sử Quàn) with Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Vũ Xuân Cẩõn, Nguyễn Trọng Hơp, after many years of research, completed their great works such as:
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
Đại Nam Thục Lục,
Đại Nam Liệt Truyện
Đại Nam Nhất Thống Chi. . .,

There were many famous authors The Kings, generals mandarins and scholars were writers or poets. Each writer wrote both poetry and prose, in both Chinese and Nôm. Before the French domination, Vietnam was a peaceful country, therefore the majority of works were the love stories, lyrical poems, and realist works. But after the French occupied Vietnam, the combat literature and the revolutionary literature developed so much. Besides the patriotic literature, satirical literature became a kind of weapon to attack the French colonialists. We can conclude that Vietnamese literature under the Nguyễn dynasty expressed love of country, love of peace, and the struggle of Vietnamese people against the French invaders. The Vietnamese intellectuals were the vanguard force in politics, in culture and in military. They died on battle field, in the prison, or were executed on ground, but their works and their names still exist in the heart of Vietnamese people. History of Vietnamese literature was written by tears and blood of Vietnamese people through many centuries of building and protecting their country.

No comments:

Post a Comment