Pages

Tuesday, December 8, 2009

NGUYỄN THIÊN THỤ * KIM CỔ KỲ QUAN LUẬN GIẢI

*



KIM CỔ KỲ QUAN CỦA NGUYỄN VĂN THỚI (1866-1926)
VÀ VẬN MỆNH VIỆT NAM

LỜI NÓI ĐẦU

Sau 1975, tôi được một vài bạn thì thầm: các kinh sách Phật giáo Hòa Hảo nói hay lắm, nào là Bắc Kỳ cai trị Nam kỳ, nào là Gia Định thì còn, Sài gòn thì mất. . Tôi đi chợ sách ở ngõ Cá Hấp đường Bùi Quang Chiêu Sài gòn mà chỉ mua được một cuốn Kim Cổ Kỳ Quan rất mỏng.

Hôm nay, cuôi năm 2009, tôi tìm được trên các trang nhà của Phật giáo Hòa Hảo, các tài liệu về Hòa Hảo trong đó có Kim Cổ Kỳ Quan . Tôi thích thú đọc kỹ và viết bài này để giới thiệu cùng độc giả một khối ngọc thạch quý trong văn chương Miền Nam
. Tôi hiểu thế nào thì viết thế đó. Có những câu, những chữ không hiểu thì còn để lại, và có những tài liêu thiếu sót, chúng tôi sẽ bổ túc và sửa chữa sau.

Nguyễn Thiên Thụ



Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại miền Nam nổi lên một phong trào văn chương đại chúng. Văn chương này phát xuất từ những nông dân chất phác hoặc những hàn nho. Nội dung văn chương này có hai điểm chính : Văn chương yêu nước và văn chương tôn giáo.

Đây là lúc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu phải chạy về Bến Tre và sáng tác các bài văn tế Trương Công Định, văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây cũng là lúc phát sinh các tác phẩm khác như Thơ Sáu Trọng, Thơ Năm Nhỏ, Thơ Năm Tỵ, Thơ Cậu Hai Miêng. . . thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp, và sinh hoạt xã hội..

Trước đó không lâu, Bửu Sơn Kỳ Hương với Đức Phật Thầy ra đời (1849), truyền xuống đến các đệ tử như Phật Trùm, Đức Bổn Sư , Sư Vãi Bán Khoai và Huỳnh Giáo Chủ . Và tại Tây Ninh, đạo Cao Đài ra đời. Hai tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài đã có nhiều tác phẩm tôn giáo.

Trong những tác phẩm tôn giáo Hòa Hảo như Vãn Núi Tà Lơn của ông Cử Đa, Giảng Xưa của Đức Sư Vãi Bán Khoai, Sấm Giảng của Hùynh Giáo chủ thì tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan có vị trí
khá quan trọng,

I. TÁC GIẢ

Tác phẩm này do ông Nguyễn Văn Thới ( Ba Thới), soạn thành. Trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông tự giới thiệu như sau:
Quê ngụ miền Cao Lãnh
Tôi nay Ba Thới xưng danh
Từ theo Thầy học đạo minh thanh
Cửu thu mãn thính danh dư tuế
(Kim cổ)

Tôi nay Ba Thới tùng Quới Mỹ-Trà
Tên Thạnh Phật bà chủ nhà Sa Đec
Nhiều người ghen ghét mở bét bạc bôi
Nhiều việc thương Vôi thương ôi ong bướm
Việc đời lụy ướm như bướm gầy ong
Tên Thành là ông Quan-Công thuở trước
Phò vua giúp nước thuở trước rất miêng
Phật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứ
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Láng linh
Hai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt
Hai Ngôn thậm ngặt oán giặt (giặc) hỏa thiêu
Căm hờn quần yêu bao nhiêu chẳng cử
Chú tư biện xử tích cử tòa chương
Nhiều việc tủ thương lưới vương Châu đốc
Hai Nhơn tử tốc vị bốc cáo trình
Nhiều việc bất bình thương tình chú bảy dám bì

(Cáo thị)

Có vài tài liệu của Hòa Hảo viết về Ông Nguyễn Văn Thới.

+Tài liệu thứ nhất: Các đại đệ tử cùa đức Phật Thầy Tây An
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_192_ArticleID_3549_.aspx
Tài liệu thứ nhất đơn giản và ghi năm sinh năm mất 1866-1927.

+Tài liệu thứ hai đơn giản, ghi năm mất là 1925.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4070_.aspx
+Còn tài liệu thứ ba:
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx
Tài liệu này ghi năm mất 1927 và chi tiết hơn.

Cả hai tài liệu thứ hai và thứ ba nói ông thọ 61 tuổi.
Tài liệu thứ hai ghi ông mất ngày mồng chín tháng tư năm 1925. Tài liệu này ghi ngày tháng âm lịch nhưng năm lại là dương lịch.
Tài liệu thứ ba ghi ngày mồng 9 tháng tư bính dần tức là ngày thứ năm 20 tháng 5-1926.
Vậy ông mất năm 1926.

*

Ông Nguyễn Văn Thới tức Ba Thới là một nông dân có học chữ Hán, sinh năm bính dần (1866) đời Tự Đức thứ 19 tại làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec). Ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng-nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.

Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba tìm đến ông Trần Văn Nhu là con của Quản cơ Trần Văn Thành, đại đệ tử của đức Thầy Tây An, và cũng là một nghĩa sĩ chống Pháp, xin quy-y với ông Hai ở Láng-linh. Sau ông đem cả gia đình về ở nơi đây.

Trong thời gian này, ông Ba viết ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim Lai.
Vì có sự ghen ghét của Nguyễn-văn-Phẩm (1) là cháu của ông Hai Nhu đưa đến việc Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Ông Ba thoát , ông Hai thì phải trốn tránh, nhưng con trai của ông ba là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vả buồn vì cảnh chùa tan nát, ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt-hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Ông không chấp nhận việc chữa trị của người Pháp, ông cự tuyệt và gở bỏ hết. Độ vài tháng sau liệu bịnh-tình ông Ba không thể chữa được, nhà thương đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.

Tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Trong chuỗi ngày tàn, ông ký thác lòng mình vào những quyển : Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-Đại và Thừa Nhàn
Ông mất vào lúc năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), thọ 61 tuổi. Ông để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.


II. NIÊN ĐẠI VÀ HIỆN TRẠNG TÁC PHẨM

Về năm viết, bản điện tử Hòa Hảo Cali đề ở đoạn cuối lời tựa:

Cất bút châu phụng tỏa (tả) một bài
Di truyền để hậu lai tường khán
“Phật ông diễn thế gian di chúc,
Tiền kỷ tái hậu vô giai”.
Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí Du (vu) kim,
Nhâm ngũ niên cọng, kế cứu thập tứ niên
Nhâm ngũ niên hạ nguơn nhựt Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu
( 1849-1969 )

Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí vu kim nghĩa là Năm kỷ dậu (1849) đức Phật Thầy khai đạo đến năm mậu ngọ ( 1858) tiếp theo là 94 năm sau mới tái bản. Vậy quyển này tái bản năm 1952.

Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu

( 1849-1969 ). Ở đây có sai lầm. Vì ông Ba sinh năm 1866 nên sách không thể viết hay tái bản năm 1849. Theo tiểu sử đã giới thiệu, ông Ba viết qua nhiều thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là sau 1907 là khi ông về Láng, làm nhà gần Bửu Sơn Tự. Và giai đoạn thứ hai là trong khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lỡ (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên) và trước khi mất . Điều này là đúng vì trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu:
" Nặng nề mang nhục chữ dân
Trung-huê Dân-quốc khó phân vùi đầu.(2)
(Thừa nhàn)

Như vậy tác phẩm này gồm chín bổn viết trong khoảng từ 1907 đến 1926, trong đó
Thừa nhàn viết sau 1912.
Giác mê viết tại Láng Bà khoảng sau 1907.
Láng bà để kiển trung quân tựu
Ngọc xuất An-giang hựu thú vui.

Cáo thị viết khi ở Láng (sau 1907):
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Lang (Láng ) linh
Hai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt.

-In người chốn Láng ngán ỷ vinh.

Thừa nhàn là bản thứ chín:
Ngồi buồn cất bút chép riêng
Đặt làm chín bổn bình yên coi đời.

Kim Cổ: cuối bổn Kim Cổ câu:
"Ất mão niên cơ thâm nay đủ".
Như vậy, bổn Kim Cổ viết xong năm ất mão (1915).

Trong bản Kim Cổ Kỳ Quan, ở dưới các đoạn có ghi Chép xong ngày 19 tháng hai (nhuần) Năm Đinh Hợi , Châu Đốc. Đinh Hợi có lẽ là năm 1947 có tháng hai nhuần , do người đời sau chép lại và năm 1952 thì tái bản. Vậy xuất bản lần đầu năm nào?

Theo tài liệu thứ nhất, Tình Thầy nợ Nước miên man bao nỗi cảm hoài, ông ký thác lòng mình vào bộ sách Kim Cổ Kỳ Quan, gồm chín cuốn, cũng gọi chín bổn: Vân Tiên, Thiên Tứ, Cổ Vãng Kim Ca, Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ Ðại và Thừa Nhàn, toàn văn vần, tuy văn chương bình dân mộc mạc, có khi bí hiểm tiên tri, nhưng chứa đựng mối cảm hoài tha thiết tình Thầy nợ Nước, ưu đời ái đạo trong một hoàn cảnh xã hội bi đát, quốc phá gia vong, mà Phật Thầy đã nói trước về những khổ cảnh tai nạn đang chờ đợi chúng sanh trong những thời kỳ sắp tới.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx


Kim Cổ Kỳ Quan có nghĩa là Chuyện Lạ Xưa Nay. Tại Trung Quốc đã có tập truyện này viết về một số nhân vật Trung Quốc như Lý Bạch, Bá Nha, Tử Kỳ. . .Tại Việt Nam ông Ba Thới cũng đặt tên cho tác phẩm của ông là Kim Cổ Kỳ Quan để nói lên những điều ông suy nghĩ và nhìn thấy (tiên tri) về tương lai nước Việt.

Kim Cổ Kỳ Quan là tên chung 9 bổn nhưng Kim Cổ là một bổn chính, là bổn đầu trong chín bổn. Tác giả nhiều lần nhấn mạnh các chữ Kim cổ, Cổ vãng kim lai :
-Ngẩn ngơ cổ vãng, đục ngầu kim lai.
(Kim cổ)

-Tri kim cổ mới biết việc đời,
Sao người chẳng tưởng Phật Trời độ thân.
(Kim cổ, 3B Cali)

-
Cổ kim lòng thế phân lìa
Bất cầu nan ngộ Phật vìa (dìa: về) độ thân

-Nói ít nghe đầy lỗ tai
Suy đời cổ vãng kim lai biết lòng
(Thừa nhàn)

-Đậu câu trúng lý nghiệm suy
Kim lai cổ vãng luận tri Phật Trời
Thuở xưa giặc mọi tơi bời
Cũng vì tham sắc như đời trào nay
Cổ kim loạn quốc Nam Tây
Cựu thù tích oán thương thay đời này
. . . . . .
Cổ vãng ngũ hổ tam hùng
Kim lai dục đắc phục tùng bá nhân
(Thừa nhàn)


Tác phẩm này ban đầu viết bằng chữ nôm, hay quốc ngữ? Chưa có tài liệu nào xác nhận và chúng ta cũng không thấy bản chánh. Chúng tôi nghĩ rằng ở thôn quê thời điểm 1920 quốc ngữ chưa phổ biến, có lẽ Kim Cổ Kỳ Quan được viết bằng chữ nôm:

Đặt nôm na lộn lạo trữ minh ( chữ mình?)
Dám khuyên thượng trí chớ khinh quê mùa.
(Kim cổ)
Nôm na chữ nghĩa lam nham
Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng.
(Giác mê)

Tôi đặt mấy bổn không hay
Nôm na mấy lớp nói nay tật khùng.
(Thừa nhàn)

Nay thì hai nhóm Phật giáo Hòa Hảo ở Cali trình làng bản điện tử năm 2009
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_289_ArticleID_4100_.aspx
nhóm này cũng audio gồm 9 băng.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_260_MenuID_260_.aspx

còn nhóm Texas thì giới thiệu các audio gồm 19 băng Kim Cổ Kỳ Quan phát hành 2005. www.phatgiaohoahaotexas.org/kim_co_ky_quan.htm

19 băng của nhóm Texas được phân bố như sau:

(1). Tựa: băng 1A
(2). Kim Cổ : băng 1A đến 4B
(3).Giác mê: băng 5A-5B
(4). Thừa nhàn: băng 6A-10B
Như vậy là các nhóm đều chưa có đủ bộ Kim Cổ Kỳ Quan.

Nhóm Cali nay mới trình bày được 9 băng ( từ 1A đến băng 5A) . Như vậy 19 băng của nhóm Texas là đầy đủ. Cả hai nội dung giống nhau, do các ông Lê Văn Ngợi , Nguyễn Phúc Tâm, các cô Phạm Thị Ngọc Hà , Lương Thị Khởi ngâm.

Tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan hoàn thành gần một trăm năm, và đã ấn hành bằng quốc ngữ trong khoảng 1945 . Đó là phỏng đoán chứ chúng tôi không thấy ấn bản đầu tiên.
Ngày nay, bản điện tử của Hòa Hảo California cho biết có 9 bổn, nhưng thiếu hai bổn cuối là Tiền giang và Kiểng Tiên. Hai bổn Kim CổBốn tuồng giống nhau trong khi audio cho thấy Kim Cổ là một bản khác.


III. NỘI DUNG TÁC PHẨM

Ông Nguyễn Văn Thới là một cư sĩ, là đệ tử của Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông còn là một học trò của Trần Văn Nhu, con của Quản cơ Trần Văn Thành. Ông lo việc đạo, ông cũng suy nghĩ về tương lai đất nước :

Cát bồi đi chẳng lấm chưn
(Thầy ôi !)
Nước nghèo không kẻ đỡ nưng nước nghèo
Dắt ra sông rồi dắt lên đèo
(Thầy ôi ! là Thầy ôi !)
Hết cơn bỉ cực còn nghèo về đâu ?
Biển bao sâu còn thả sợi câu
Vận thời, thời vận tới đâu bớ thầy ?
(Kim cổ) (3)

Nội dung chính của các tập là giảng đạo, khuyến thiện, nhưng xen vào đó là những lời tiên tri về tương lai đất nước. Ông không giống như Nostradamus, Trạng Trịnh chuyên việc tiên đoán tương lai. Mục đích tiên đoán của ông Ba chính là khuyến thiện, và dẫn chứng các biến cố để cho con người biết tu nhân tích đức để tránh tai nạn.

Ông cũng khác với những nhà tôn giáo đưa ra những sư kiện tận thế hay thiên đàng đia ngục thiếu cụ thể. Ông cũng nói đến tận thế, hạ nguyên nhưng tận thế không phải là chấm dứt toàn bộ. Có thể tận thế là trái đất bị tiêu diệt hoàn toàn, cũng có thể tận thế là mặt đất thay đổi như sóng thần, hỏa diệm sơn , bịnh dịch làm cho một số người chết và loài vật biến khỏi địa cầu trong khi một số khác vẫn tồn tại. Các bậc tiên tri Bửu Sơn Kỳ Hương cho rằng vũ trụ tiến triển trong vùng sinh trụ, hoại diệt.cũng như xuân hạ thu đông biến dịch. Sau thượng nguyên, là trung nguyên, sau trung nguyên là hạ nguyên. Sau hạ nguyên là thượng nguyên. Vũ trụ luân hồi theo bánh xe quay, nghĩa là theo vòng tròn chứ không phải theo chiều thẳng đứng như Marx quan niệm. Thế giới chuyển vần từ thịnh đến suy, từ bỉ đến thái, biển cả thành nương dâu, núi cao thành biển rộng. Chuyện đó xa vời nhưng cũng là trước mắt. Nguyễn Du than thở:
Trăm năm một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Trần Tế Xương thì rên rỉ:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Đêm đêm tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!

Ông nêu lên những điều ông thấy rất gần, rất thật để cảnh báo dân chúng Việt Nam là tai họa sắp đến, phải tu Phật mà tránh tai họa:
Cải tà quy chính kẻo lầm quỷ ma.
(Kim cổ)

Ai ai nhẫn chí để dành
Hạ nguơn tận thế tu hành cần năng.
(Ngồi buồn)

Những lời tiên tri này như là những thỏi vàng, những viên kim cương nằm rải rác trong khối đất, tảng đá.

1. GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT THẦY

Đường lối của Phật Thầy Tậy An là tu tâm.
Các nhà nghiên cứu Phật giáo cho rằng đạo Phật trải qua ba giai đoạn:
+Chánh pháp: Thời Phật Thích Ca tại thế
+Tượng pháp: Thời mà các Phật tử chú trọng thờ tranh, tượng Phật
+Mạt pháp.:Thời đạo Phật suy đồi.

Ông Ba nêu lên cốt lõi của đạo Phật là "tu tâm", loại bỏ âm thanh săc tướng:
Việc âm thinh sắc tướng bất dùng
Đạo tại tâm tâm đạo xuất tùng.
(Tựa)

Chùa linh chẳng kỳ tượng tranh
Có lòng Phật hiện rồng đoanh không chừng.
(Vân Tiên)

Ông Ba Thới chỉ trích người Trung Hoa đã truyền bá việc thờ tranh tượng:
Tội Tàu man ước chất như thành,
Bán hình bán tượng tranh hành nước Nam
.

. ............ ............ .................

Phật tức tâm, tâm tức Phật ấy là tà chánh tại tình
Lẻ nào dám họa hình tượng cốt.
Đến ngày nay nhà Tàu chê Nam Kỳ rằng dốt,
Tàu rất thiệt khôn lanh !

Phật sanh nhơn hà nhơn sanh Phật.
Bởi vậy nhà nam trào mắc đọa,
bị nhà Tàu dấy họa bất minh,
bị nhà Tàu đa kinh loạn chí đa sử loạn ngôn,
người vùng chôn nước Nam-Việt người chê rằng dốt nát.
Người lại tống kinh, thơ tượng ảnh qua bán cho nước Nam-Việt an tâm tùng lý
(Bốn tuồng)


Ông chủ trương tu tại tâm mà nội dung là tu trì đạo đức.Ông chỉ trích một số giả dạng tu hành:

Tu cần kiệm gia đường phú túc
Tu ghét ghen tu chúc gông cùm
Tu hiếu nghĩa bao trùm Tiên Thánh
Tu làm vậy Phật trời lưỡng tánh
Tu quỉ ma tránh chẳng khỏi tai
Tu thi ân mới đặng lâu dài
Tu phước đức mới là phương tiện
Tu nhẫn nhẫn khuyên đừng thưa kiện
Tu hưu hưu vạn sự thôi thôi
Tu trongtâm đừng ở ngoài môi
Tu nhân nghĩa lễ nghi trí tín
(Tựa)

Đặc điểm của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là trọng tứ ân, kết hợp đạo với đời, dung hòa xuất thế và nhập thế. Đường lối tu của Bửu Hương Kỳ Sơn là kết hợp Nho và Thích:

Loài cầm thú còn hay biết ổ
Huống chi người nỡ bỏ tứ ân.
(Giác mê)

Tu là tu tâm, không phải nhất thiết là vào chùa mới là tu.
Tu quốc-vương có vợ có chồng,
Có con có cháu nối dòng an bang
.
(Tựa)

-Hữu công trời Phật lại tìm
Nam mô nhớ Phật trọn niềm thủy chung
Vẹn toàn hai chữ hiếu trung
Chữ tà chữ nịnh chữ hung làm gì.
(Ngồi buồn)

-Gái trai giữ vẹn đạo hằng
Vàng thoi bạc nén chẳng bằng nghĩa nhân.
(Ngồi buồn)

Tư tưởng của ông là tư tưởng của nhân dân Việt Nam:
Tu đâu bằng tu tại gia,
Thờ cha, kính mẹ ấy là chân tu!

Ông chú trọng vai trò của cư sĩ và đó chính là đường lối của đức Phật Thầy Tây An.
Ông cũng như dân Việt Nam chỉ trích những việc tu hình thức mà đức Phật đã bãi bỏ như việc tu khổ hạnh, việc ăn chay.

Niệm Phật không cần ăn chay
Niệm Phật thì giữ lòng ngay phận mình
(VAN TIEN, PHẦN I)

Tu sao mà dụng ăn chay
Thượng thanh hạ trược gốc cây hôi rình
Chay là chánh trực tâm tình
Vật nào thuộc thổ bất bình thượng thanh
Làm sao rạng tiết thơm danh
Thượng đường chói chói quản thanh phước lành
(Thừa nhàn)

Kỷ dậu Thầy ra độ đời
Xét xem cho biết những lời gian ngay
Niệm Phật không cần ăn chay
Niệm Phật thì giữ lòng ngay phận mình
Bây giờ năn nỉ ai binh
Lá lay cũng bởi tại mình thuở xưa.
(Vân Tiên)


2. CHỐNG THỰC DÂN XÂM LƯỢC

Cũng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, tác giả sống vào thời Pháp xâm lăng Việt Nam, chiếm đất Nam Kỳ cho nên các đệ tử của Phật Thầy như Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành đã đứng lên chống Pháp. Ông Ba Thới đã tôn ông Trần Văn Nhu con Trần Văn Thành làm thầy, tức là đã đứng vào hàng ngũ nhân dân yêu nước chống thực dân xâm lược. Ông không theo Pháp:
Dụng tây tà bĩ Thới chẳng theo.
(Cáo thị)

...Ít có kẻ xét đời
Nhưng ham lời trước mắt
Khéo khéo đua chen trào Tây tặc
Đừng đừng sanh giặc đấu tranh.
(Tựa)

Ông thấy nhiều kẻ gian ác theo Pháp giết hại đồng bào mà chính ông là nạn nhân:

Ăn cơm phải múa việc chúa cho dàng
Bạo phát bạo tàn ngày mủi nhiếm chúm chím lắc đầu
Ba hồi mõ hầu lầu không có
Miệng thời la ó, bắt nó nạp Tây vấn tội
Nhiều lòng phản bội lập hội lương điền
Kết sửa bạc tiền cảm phiền làng tổng
.
(Tựa)

Xã hội Việt Nam thời Pháp vô đạo đức
Trào tây nhiều kẻ phi ân
Người Nam sao chẳng xét thân mà nhờ
(Vân Tiên, phần 2)

Ông ca tụng quản cơ Trần Văn Thành chống Pháp:
Lòng chẳng đầu Tây giữ ngay một dạ.
(Cáo thị )

Tuy ghét Pháp, sau một thời gian thiền định và đắc phép màu, ông nhìn thấy người Pháp khá tốt so với Cộng sản. Việt Cộng tà vạy, gian ác hơn Pháp nhiều:

Nam Việt (4) chê Tây thương thay mình vạy
Việc làm tồi bại mình hại lấy mình
.
(Cáo thị)

Người Nam quốc gia và cộng sản đều ghét thực dân Pháp nhưng sau vài năm ở với cộng sản, người ta thấy Pháp tốt hơn nhiều vì thời Pháp dân ta tương đối sung túc. Sau khi Pháp về nước thì dân ta khổn khổ vì cộng sản chiếm nông thôn, và sau 1975 ở với cộng sản thì ăn bo bo và lao tù. Cộng sản tự xưng là trí tuệ và anh hùng, coi khinh Pháp Mỹ, miệt thị tôn giáo là thuốc phiện mà họ không biết rằng về khoa học, Nga Tàu đều thua Âu Mỹ. Vì kiêu căng, họ không chịu học hỏi, họ không biết rằng Âu Mỹ rất tài giỏi vì trong cõi ta- bà ai cũng có Phật tính:

Một năm súng nổ điếc tai
Hai năm điêu hảo chẳng ai tranh tài
Tây về đói khát nằm dài
Đừng lo mắng lén chưởi xài (hoài) người Tây
Chừng nào tới đó thì hay
Bây giờ chưởi lén người Tây hoài hoài
Chẳng lo học phép học tài
Để lo nói lén mắng xài (hoài) người Tây.
Đều chê phép Phật không hay
Tây hầu cận Phật người Tây cũng tài
(Thừa nhàn)

Nhân dân ta một số nghe theo cộng sản mà chống Tây phương, cho tư bản Âu Mỹ là bóc lột, là thực dân, đế quốc. Ông Ba trong thiền định đã giác ngộ một sự thật là tư bản tương đối tốt hơn cộng sản ma quỷ, ông khuyên dân ta phải phân biệt chánh tà đừng chống Âu Mỹ một cách cực đoan:

Phải tri việc chánh việc tà
Đừng theo ma quỉ bất hoà Tây-phương
(Thừa nhàn)

3. TIÊN ĐOÁN : VẬN MỆNH VIỆT NAM TỪ 1926 ĐẾN 2009

(1). Phong tục hình dáng, và tâm tính đổi thay

Ngày trước, người Việt nhuộm răng đen, sau bỏ tục này, và sau này hình dung đẹp hơn trước:

Nhịn trầu thuốc biếng nói biếng cười,
Ngày sau răng trắng như người Quảng-Đông.
Nội châu thân không có mọc lông,
Tóc dài da trắng phụng long dạng hình.
. . . . . . .
Con mắt sao ngó thấy sáng ngời,
Trong như mắt cọp miệng cười ngọt thơm.
Răng thì trắng thiệt người ăn cơm,
Lưỡi sao răng vậy gạo thơm ngọt-ngào


+Người ăn nói bằng thẳng thiệt thà,
Trình thưa dậm dạ giữ mà phép khuôn.
Lập Thượng-Ngươn tuổi có một muôn,
Trung-Ngươn giữ dạ phép khuôn trên ngàn (5)
. . . . . . . . . . . . .
Thông minh trí độ dạng hình phương phi.
(Kim cổ)

(2). CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Trước 1926, ông Ba Thới đã thấy chiến tranh sẽ đến gây bao tai họa cho dân Việt Nam:

Những năm trước là chiến tranh thế giới, từ 1945 (ất dậu) về sau, Việt Nam lâm cuộc nội chiến, dân chúng gặp nhiều tai ương:

Đứt cương ngựa chạy thình lình
Gà con vỡ ổ giựt mình chắc chiu
Noi đời Thuấn nhựt thiên Nghiêu
Cõi trần hung bạo xử tiêu xác hồn.
(Ngồi buồn)

Chiến tranh xảy đến khắp nơi gây tang tóc cho mọi người:
Phật trời lộn lạo quỉ ma
Âm-dương tương tội Diêm la hiện trần
Đao binh khởi loạn rần rần
Quan quân phú quí cơ bần như nhau.
(Ngồi buồn)

Không những cộng sản chiếm Cà Mâu, Ngã Ba biên giới, đắp mô Mỹ Tho, bắn tĩa Gò Công mà rồi thủ đô Saì gòn cũng bị cộng sản chiếm cứ :

Tỷ như phố ngói Sàigòn
Lâm cơn nguy biến biết còn hay không
Sang giàu như buổi chợ đông
Thác rồi cũng nắm tay không mà đời
Dữ lành hai việc để dời
Thác đem theo (giỏi) dõi Phật trời xử phân
(Ngồi buồn)

Ông cũng đã nói đến thời hạ nguyên, Việt Nam nhiều đau khổ.(Sẽ nói ở phần hạ nguyên)

(3). ANH PHÁP VÀO VIỆT NAM


Quân Anh đổ quân vào Việt Nam ngày 13 -9- 1945 để giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, còn Trung Hoa Dân Quốc giải giới từ vĩ tuyến 16 trở ra. Quân Pháp theo chân Anh trở lại Việt Nam. Than ôi, lúc này thế lực Pháp rất mạnh (thế cường) vì là kẻ chiến thắng thuộc phe đồng minh, nhưng vận suy kiệt (vận bại) vì chiến tranh làm Pháp phá sản mà vẫn cố bám Việt Nam:

Ngày sau các nước lai chinh
Tây dương Anh quốc chiêu binh qua rày.
(Vân Tiên 2)

Thế cường vận bại Tây lại qua Nam
(Cáo thị)

(4). HỒ CHÍ MINH & CỘNG SẢN

Tại Paris, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh viết chung với Nguyễn Tất Thành lấy bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc. Sau Nguyễn Tất Thành lấy tên này cho riêng ông, và sau 1924 tại Trung Quốc, ông đổi tên Hồ Chí Minh.Tứ Thánh là một cậu bé 9 tuổi, là người đồng thời với Ba Thới. Trước 1930 mà Tứ Thánh đã biết khá nhiều về Nguyễn Ái Quốc và đảng cộng sản. Tứ Thánh khuyên những người tu hành chân chính, những nhà chính trị quốc gia không nên mắc mưu thâm độc của Nguyễn Ái Quốc:

Tay chuông tay mỏ tu trì.
Tránh mưu ái- quốc tránh vì kế sâu.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Tứ Thánh đã nói trước việc quân Nhật (ánh dương ) gây ra chiến tranh, và Mỹ thả hai quả bom nguyên tử trên đất Nhật (Mây trắng chớp nháng) kết thúc đệ nhị thế chiến. Tứ Thánh cũng nói đến cộng sản cờ đỏ, sao đỏ (xích tinh), búa liềm và sao vàng (nguyệt tinh) nổi lên khắp năm châu:

Mây trắng chớp nháng như gương.
Tiếng vang nổ dậy Thái dương ánh trời.
Thiên binh thiên tướng đổi dời.
Núi xương, sông máu góc Trời quá ghê.
Lìa gia chia rẽ phu thê.
Tiếng kêu khóc kể gia quê chẳng còn.
Xích tinh, phưởng phất lỗ tròn.
Nguyệt tinh chớp nhoáng mọc tròn năm châu.
Lao - xao dân chúng khó âu.
Sao giăng tứ hướng xuất thâu ngân hàng
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Người cộng sản mưọn danh nghĩa giải phóng dân tộc, chống xâm lăng để lôi kéo dân chúng nhưng chính họ theo chủ nghĩa vô sản quốc tế, không theo chủ nghĩa dân tộc. Karl Marx nói:
" Người cộng sản không có tổ quốc"!Vì vậy, sau khi nắm được quyền hành là họ giết hại trí thức, nông dân, tư sản và vô sản. Họ kết tội phe quốc gia là theo Pháp, theo Mỹ nhưng chính họ cũng theo Nga, theo Tàu. Những người quốc gia như Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Nhất Linh, Trần Văn Tuyên phải về vùng Pháp kiểm soát vì họ không thể sống dưới ách cộng sản. Tứ Thánh cho chúng ta biết cộng sản là không tôn trọng độc lập , không bảo toàn lãnh thổ quốc gia (Không toàn độc lập), không tôn trọng nhân dân, mà nhân dân là nô lệ, là rơm rác (nhơn dân như bèo.). Kết quả là chính sách độc tài của các lãnh tụ cộng sản (Tại ai cầm lái phăng lèo) mơ tưởng thiên đàng XHCN (Tìm tân thê giới ) làm cho dân chúng mất các quyền tự do trong đó có quyền tự do ngôn luận (Có miệng không nói lại câm. và phải sống trong nghèo khổ (chịu nghèo lâu năm):

Tang điền thương hải khó phân.
Không toàn độc lập nhơn dân như bèo.
Tại ai cầm lái phăng lèo.
Tìm tân thê giới chịu nghèo lâu năm.
Có miệng không nói lại câm.
Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Trong Tứ Thánh cũng như Kim Cổ Kỳ Quan, các tác giả đã chỉ trích những hạng giả sư, giả tu hành. Một phần là hai vị chỉ trích bọn lưu manh đội lốt tu hành, nhưng cũng có ý nghĩa nói về cộng sản lớn tiếng về "đại đồng", về công bằng xã hội, bình đẳng, tự do và dân chủ nhưng thật sự họ cũng chỉ là một loại " sư hổ mang". Họ mươn danh đấu tranh cho vô sản để họ nắm quyền lợi và độc quyền bóc lột nhân dân trong đó có trí thức, vô sản, công nhân, nông dân và tín đồ các tôn giáo.

Tứ Thánh và Nguyễn Văn Thới đã khuyên ta phải tụng kinh niệm Phật cũng có nghĩa khuyên ta phải tranh đấu chống bọn gian ác vì trung với nịnh, ngay với gian khác nhau.

Thật vậy, Marx, Lenin, Stalin, Mao, Hồ. . . tự xưng là cách mạng, giải phóng giai cấp, đưa đến tự do, hạnh phúc cho mọi người... Ông Hồ đã xưng thánh xưng thần, hy sinh đời tư, sống độc thân phục vụ nhân dân... Cộng sản có kinh kệ như tôn giáo nhưng những ông Phật này là Phật giả, là quỷ giả làm Phật để lừa đảo loài người. Tứ Thánh gọi họ là "Phật rau" có nghĩa là giả dạng nghèo khổ, tương rau, đua muối. Tứ Thánh cũng nói đến những ông Phật súng đạn, Phật ra làm quan. Những câu thơ này là văn hoa , bóng gió mà cũng là sự thật vì trong các chùa Phật giáo, nhà thờ Thiên Chúa giáo hoặc nơi thờ tự của Cao Đài, Hòa Hảo có những sư, cha, thầy "quốc doanh " hay công an giả sư lưng giắt súng, hoặc sư cha làm dân biểu quốc hội:

Tứ Thánh vạch mặt thật của các lãnh tụ cộng sản:
Phật rau xuống thế làm quan.
Súng đồng gươm giáo tưng bừng bồn phang.
Phật mà xuống thế làm quan.
Hại làng hại xóm dân gian khó nghèo.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Ông Hồ Chí Minh giả dạng bình dân ( ngồi chiếu lác ) xưng là bác, khủng bố tôn giáo, giết hại đức Huỳnh giáo chủ và các tín đồ Hòa Hảo, chuyên dùng vô sản ngu dốt, và thi hành các chính sách tàn ác. Ông Ba dùng chữ Tây phiên, hay Bắc Phiên hoặc phiên bang là nói về Liên Xô ( Nga), vì Liên Xô ở phía bắc Trung Quốc mà những nước ở phía Bắc Trung Quốc thường được Trung Quốc gọi là rợ Phiên, rợ Hồ là những nước sau này trở thành Mông cổ, Kim. . .

Nhớ ngồi chiếu lác (6) xưng bác xưng cô
Chẳng phải nam mô giấy chẳng thấy chư dưng
Bây giờ người xưng đam quí đạo
Ngổ ngang nghịch bạo qui đạo học cho xuôi
Mặc kẻ tới lui mù đui con chuột
Học hành mới thuộc bạch tuột sao
.
(Cáo thị)

Trước 1930, Tứ Thánh đã biết sau này cộng sản đánh nhau với Pháp (Tứ Thánh gọi Pháp là Phiên bang). Cộng sản cướp chính quyền nắm ất dậu (1945), đến năm bính tuất (1946) thì gây ra cuộc tàn sát ( giết VNQĐ, Đệ tứ CS và tôn giáo), đồng thời mở ra cuộc toàn quốc kháng chiến cho đến 1975 mới lấy được miền Nam. Cộng sản tốn công sức câu cá. và những phải tốn tiền mua mồi câu cá nghĩa là phải ký nợ Nga Tàu:

Chó thấy trời mọc phải tru.
Thảm thương chú cộng công phu đợi chờ.
. . . . . . .
Thả câu đáy biển quăng phao.
Muốn ăn cá lớn phải hao miếng mồi

Phiên-bang, đảng Cộng đôi đàng,
Chiến tranh giành giựt xóm làng thác oan.

TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Trong nhật ký Lã Quý Ba cũng như lời ông Hồ nói việc viện trợ người và lương thực, vũ khí của Nga Tàu là cho không vì tình nghĩa anh em em, đồng chí quốc tế vô sản nhưng thực tế là ông Hồ, ông Đồng đã lấy đất lấy biển của cha ông mà trả ơn sâu:
Giang- san công kỷ đắp bồi.
Chín Châu mười Quận ơn rồi ai mang.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA
http://bskh.net/2007/12/tuthanh.htm
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4071_.aspx

Trong khi đó, ông Ba gọi cộng sản là Phiên bang vì gốc ở Nga, một nước phía bắc Trung Quốc
Cộng sản ( Phiên bang ) đàn áp và bóc lột nhân dân:

Phiên-bang nhiều việc bất bình
Sưu cao thuế nặng khổ tình dân ôi!
(Ngồi buồn)


Giai đọan hạ nguyên chính là lúc Cộng sản xuất hiện. Nhiều nơi trên thế giới cộng sản phát triển để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp trong nước mà thực tế là nồi da xáo thịt ( mình hại mình) trong chủ trương đấu tranh giai cấp, gây tai họa cho đa số nhân loại không riêng gì nước ta (Nước nào hại nấy lăng xăng trở đời ). Cộng sản miệng nói công bằng xã hội, xóa bất công đem lại thịnh vượng dân chủ và tự do gấp triệu tư bản, nhưng đó là những lời đầu môi chót luỡi (thương miệng thương lời).. Thực tế, từ Liên Xô cho đến Cao Miên, cộng sản sát hại và bỏ tù hàng trăm triệu người ( Tìm tâm giết thác trong trời biết bao!...đề lao chen người.). Ộng Ba đã cảnh báo tai họa cộng sản trong thời hạ nguyên:

Nay hạ nguyên soi xét minh tường,. .
. . . . . . . . . .
Mình hại mình nói việc có căn,
Nước nào hại nấy lăng xăng trở đời
Thương với nhau thương miệng thương lời.
Tìm tâm giết thác trong trời biết bao!
. .. . . . . . . .
Hậu nhất thinh tiêu hết cái cù lao,
Nhị niên chí khổ đề lao chen người.
Nỗi sầu bi thấy thiệt tức cười
Họa đâu chưa có thấy người đa mang.
Kiếm Phật trời đâu chẳng đặng an,
Bá gia bá quốc tiêu tan chẳng còn.
Lòng than ôi mệt mỏi hao mòn
Dẫu y như dấu giả còn hồ nghi.
Nhơn dĩ thịnh đạo bất dĩ suy,
Nước nào cũng vậy huống chi nước mình...

(Kim Cổ, băng 2A)


Cộng sản Hà Nội (Bắc kinh) tuyên truyền dối trá, phá hoại luân lý đạo đức:
Ngồi buồn trách chúa Bắc kinh
Làm cho lỗi đạo bất minh hại đời
Đa đoan ngôn ngữ loạn lời.
(Ngồi buồn)

Xã hội Việt Nam băng hoại, nhất là sau 1986, ngoại quốc đầu tư làm giàu cho tư sản đỏ. Bọn cộng sản lo hưởng thụ, bỏ phế việc xây dựng quốc gìa :
Đất Nam bang cỏ mịt ai trồng
(Ý làm sao)
Không đam chút lòng buồn
Mà người đem dạ thơ tuồng hí hởn
(Bốn tuồng)

Giai cấp mới tham nhũng, hối lộ, ăn chơi . Cà phê ôm, bia ôm là đặc sản của XHCN :
(Ấy lại thêm)
Ba huê ôm dỡn
(Vui cha chả là vui)
Đào đĩ gái trai hí hởn
(Vui cha chả là vui)
Đào đĩ gái trai hí hởn
(Mà gọi rằng xính, rằng tốt, rằng tử tế đó mờ)
Ý ăn ở lẳng lơ.
(Bốn tuồng)

Cộng sản kết tội tư bản bóc lột nhưng cộng sản còn bóc lột dân chúng trăm lần hơn. Chúng không chăm nom y tế bắt dân nghèo đóng tiền quá nặng khiến trẻ con chết rất nhiều. Còn về giáo dục thì chúng cũng bóc lột, băt phụ huynh đóng góp đủ thứ, và nạn thi cử gian lận, mua bán bằng cấp phổ biến, mặc tình ai muốn làm gì thì làm, cho nên nay tại Việt Nam đã có hàng vạn thạc sĩ, tiến sĩ ma:

Thương kẻ dại ấu thơ đa tử
(ấy là kẻ dại đó)
Còn già kinh sử thế nào?
Mặc ý người đi thấp trèo cao
Bực nào giỏi làm sao cho phải đó thì làm
(Bốn tuồng)

Công nhân, nông dân bị bóc lột:
Hiếm hiếm kẻ bán vàm
Người ăn làm ít thiệt
(người tính những việc lắc léo, bắt con nhà nghèo làm tôi, làm mọi, người rằng ngoan)
Hiếm kẻ giàu sang
Lương ( lường ) công cướp của thế gian đà chẳng dễ.
(Bốn tuồng)


Cộng sản là một thứ đạo tặc giết người cướp của. Lenin, Stalin, Mao, Hồ là những tội phạm của thế giới. Cải cách ruộng đất chính là chiến dịch cướp của giết người. Nhân dân ta đã mắc mưu ông Hồ Chí Minh, và ông Hồ (Nhẫn Hồ, Trịnh Hồ, Cáo) là kẻ gian ác xung quanh ông là một lũ gian nịnh:

Giận lũ cáo phá xóm làng.
(Kim cổ)

Nghỉ thôi nhiều nỗi cay co
Đêm khuya tuông lụy sầu lo việc đời
Mất mối trời tối rã rời
Lần lần nẻo tắc dò thời đường quanh
Cám phiền phận chị nỗi anh
Nhà trống không thức mà canh mất đồ
Mắc mưu chú Nhẫn chú Hồ ,
Truông mây chiếm cứ dực (giật) đồ ăn no
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Hội nầy nhà ngói của kho chẳng còn
(Thừa nhàn)

Một lũ Trịnh Hồ dực (giật) đồ ải ải
Tào mang
Bây lại xưng trung tứ tung lũ nịnh
.
(Cáo thị)


Sống trong chế độ cộng sản, bọn cộng sản độc tài tham nhũng, làm cho con người bị tha hóa, mất tự do, không có dân chủ và công lý:

Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Thương dân không cội không căn
Tây-phiên trấn thủ lo ăn bạc tiền
Đa ngân phá luật phản tiền
Tòa-sơ thầy kiện cải liền bạc trăm
Khiến dân bất chánh tà tâm
Người quấy mà có bạc trăm phải rồi
Đồng bạc bất chánh bại tồi
Mắt tham đồng bạc thôi rồi nghĩa nhân.
(Thừa nhàn)

Cộng sản Bắc Việt ( Bắc địa) phỉnh phờ, lừa dối. Chúng xuyên tạc lịch sử, chúng bắt văn nghệ sĩ ca tụng chúng theo chủ trương hiện thực xã hội chủ nghĩa nghĩa là theo chủ trương nói láo và nịnh hót. Ai nói thẳng, ai trung cang đảm lược phê bình chúng thì chúng bỏ tù hoặc trừng phạt nặng nề như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm :

Trách thay Bắc địa lộng tình
Tác thơ kinh sử bất bình trung cang
Đêm nằm nát một lá gan
Oán thù nịnh tặc chẳng an trong lòng.
(Thừa nhàn)


(5). PHÁP RÚT LUI KHỎI VIỆT NAM

Phắp đánh Đà Nẵng năm mậu ngọ (1858) .Sau khi thất trận Điện Biên Phủ ( giáp ngọ 1954) , Pháp quyết định rút lui toàn bộ khỏi Viêt Nam, chấm dứt 8 năm chống Việt Minh. Tháng 4 năm 1956, người lính Pháp cuối cùng rời Việt Nam .
Vỉ xà thủ mã Tây hồi
Dê đi dưới đất khỉ ngồi trên non
(Kim cổ)

Tây qua Mậu-ngũ vua lầm
Tới năm Mậu-ngũ ( 7 ) Tây tầm (8) về Tây
(Thừa nhàn)

Sau khi Pháp lui khỏi Việt Nam, nghĩa là sau hiệp định Geneve, nước Việt Nam đi vào con đường vinh nhục vô thường. Miền Bắc bị Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp và Chính đốn đảng khiến cho dân chúng bị ở tù , bị chém giết , bị đấu tố và mất nhà cửa, ruộng đất. Còn miền Nam bị cộng sản miền Bắc xâm lược dưới danh nghĩa Giải phóng miền Nam:

Trời xuôi (xui) ách nước người Tây suy rồi
Nhục vinh gẫm chẳng mấy hồi
Đố ai gánh thịnh đam bồi chỗ suy
Việc nào sự dễ bất tri
Khó khôn khôn khó đường đi đã mòn
Ai hay sống mất thác còn
Để hai con mắt không mòn cửa vương
Nỗi oan ương nhiều nỗi ưu sâu
Kìa dinh Bắc địa nọ lầu Nam bang
(Bốn tuồng)


(6). MỸ ĐẾN VIỆT NAM

Phật xui khiến Mỹ ( có cánh tức là dùng máy bay) sang Việt Nam để trừ cộng sản (bọn quỷ ăn thịt người ):
Phật sai một nước dị kỳ
Mình thời có cánh khác thì người ta
Phật biểu qua xử tà ma
Nó mà ăn thịt người ta muôn ngàn.
(Vân Tiên 2)

Nước Mỹ có quốc huy là con Ó, cờ có sọc (vằn), thân thể to béo (nhiều thịt).Người Mỹ tham chiến tại Việt Nam phải hao binh và tốn tiền bạc:

Nước Ó-Rằn người có qua đây
Thương người nhiều thịt bỏ thây
(Kim cổ)

Cộng sản kết tội Mỹ và chính phủ miền Nam nhưng sự thực Mỹ và các chính phủ miền Nam rất quang minh chánh đại (minh chánh):
Vi nhựt tế tân nhơn dân Mỹ Diệm
Xuất trình chiêm nghiệm Mỹ Diệm tỏ phân vi nhân minh chánh

(Cáo thị)

Dân chúng thích Mỹ và chính phủ Quốc gia hơn cộng sản. Họ luôn luôn ca ngợi, nhắc nhở (niệm) đến Mỹ Diệm (theo cách nói của Cộng sản):
Nhơn tình Mỹ Diệm niệm thơm tho
(Cáo thị 3)

Nhưng vì thất bại hay vì chiến thuật, Mỹ (Ó ) rút lui khỏi Việt Nam:
Trời ôi ! sao ó biến (biếng) bay.
Xe kia biến (biếng) chạy tại ai xe ngừng.
Súng sao biến (biếng) nổ không chừng.
Chư bang thập bát ngập ngừng ngẩn ngơ.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

(7). NHẬT BẢN, TRUNG QUỐC & CAO MIÊN

Năm 1945, Nhật Bản thất trận, năm 1946 (bính tuất), một số binh sĩ Nhật ở lại Việt Nam, một số theo Việt Minh, đưa vũ khí cho Việt Minh:
Trâu Nhựt-bổn Nam-Việt bắt cày,
Gay go chó sửa hằng ngày sủa dai.

Một giai đoạn nữa, Trung Quốc phải làm " trâu cày" cho Việt Nam. Phải chăng Trung Quốc đem tướng, cố vấn, binh sĩ và vũ khi giúp Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ?

Trâu của Chệt Nam-Việt bắt cày,
Khỏi sưu khỏi thuế khỏi rày lao-đao .

Trung Cộng theo chủ nghĩa Mac Lê, phá hoại Phật giáo. Chúng đào tạo cộng sản Việt Nam, giúp người, lương thực và vũ khí cho Việt Nam để mượn tay người Việt giết người Việt, và biến Việt cộng thành tay sai của chúng:

Người lại bày binh bố trận cho người An nam, ấy là cũng một tánh tham -
người bày ra xanh, vàng đen, đỏ, người An-nam nhiều kẻ thiệt khôn
khôn mà chẳng rỏ, vùng bỏ đạo Phật mà theo Tàu
( Bốn tuồng).

Vì theo chủ nghĩa duy vật, Trung Cộng và Việt Cộng khinh thần Phật, chỉ biết kính lạy Marx, Lenin ( Kim phiên hay Tây phiên là nói cộng sản, còn thánh Kim Phiên là ông Thánh cộng sản là Karl Marx , Engels. . .)
Bởi vậy cho nên người mới / lộng ngôn loan tánh,/ người mới theo nhà Thánh Kim phiên.
( Bốn tuồng).

Bắc Việt (Bắc kinh) xâm lăng miền Nam gây chiến tranh tang thương, cướp tự do no ấm của nhân dân và gây mối họa cho cả dân tộc Việt Nam (theo Tàu bị Tàu đô hộ)
Cộng sản Việt Nam huyênh hoang (Cây héo mà tươi thấy tươi mà héo) đại thắng nhưng sau khi chiếm miền Nam (1975) và bị Trung Quốc dạy một bài học (1979) , họ lo buồn vì phải trả nợ cho Trung Quốc. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã đem biển và biên cương (Nam Quan, Bản Giốc) dâng cho Tàu trừ nợ:
Cây héo mà tươi thấy tươi mà héo
Muốn ăn cho béo nợ kéo mà trừ biên thùy giỏi nữa.
(Cáo thị)

Nay Trung Quốc gian manh xâm lược thế giới, Việt Nam tình hình nguy ngập. Trung cộng chiếm biển, lấn biên cương, khai thác Trung nguyên, và làm thủy điên ở thượng lưu sông Cửu Long. Tương lai miền Nam sẽ không còn phù sa, không còn nước ngọt, nói chung là tài nguyên khô cạn. Bọn lãnh đạo một số bối rối vò tơ, mắt như đui mù đậm đầu vào lửa, một số phải chìu luồn Trung quốc:

Thế vô quan xử tử thị oan
Thế thị Tàu mang gian năm mối
Sanh cờ phản bối rối vò tơ
Bất kiến thiên cơ trơ trơ lý
Bất tri giáp tí ý giáp dần
Nói chuyện lần xần trần bịt nhỉ
Mong lòng tranh thủy nghỉ không xuôi
Có mắt như đui lui vào lửa
Dạ mong ngồi giủ lừa cháy trùng
.
(Cáo thị)

Việc trong lục tỉnh hao mòn,
Nam bang khô cạn chìu lòn hết hơi.
(Kim Cổ audio 2B)

Bản tính chung của cộng sản là gian ác. Bọn Pol Pot đuổi dân ra khỏi Nam vang và giết khoảng hai triệu người:

Nam-vang nhà gạch nhà vôi./ Ngày sau kiếm trại lá ngồi không ra.

(8). KẾT THÚC CHIẾN TRANH


Cộng sản Bắc Việt gian giảo (Giặc Bắc kinh) , miệng hô hào hòa bình nhưng lại đánh lén, giành đất chiếm dân:
-Kẻ tiểu nhơn bất tụng đạo mầu
Giắc Bắc kinh sớm đánh tối đầu.
(Vân Tiên 3)

Trong cuộc chiến tranh này, Pháp ( cờ tam tài ba màu) thua Trung Quốc. Mỹ vào Việt Nam Mỹ và Pháp là đồng minh, là cùng nòi giống (Cậy cùng nòi giống sớm trưa giúp rày/Thanh- long nối gót trổ tài/Thòng vòi lấy nước phun ngoài âu quân). Nhưng vì khó khăn hoặc vì chiến lược, chiến thuật, Mỹ không chiến đấu lâu dài ( khó nổi bền quân), cho nên Pháp và Mỹ cuối cùng phải lui về Sài Gòn, Gia Định rồi về nước:

Ba màu phải chịu thớt thưa.
Cậy cùng nòi giống sớm trưa giúp rày.
Thanh- long nối gót trổ tài.
Thòng vòi lấy nước phun ngoài âu quân.
Kiếm chi khó nổi bền quân.
Rút về Gia- định ngăn chừng Đồng- nai
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Chiến tranh Nam Bắc khiến cho dân Nam thiệt hại vì Mỹ bỏ rơi ( Nam Việt thả trôi) với chính sách Việt Nam hóa chiến tranh trong khi Bắc Việt hung hăng cậy thế Nga, Tàu:

Nam Việt thả trôi thương ôi không chúa
Bắc kỳ tay múa là chúa Bắc kỳ
Nam Việt chịu lỳ ong lộn kíp người tiếp hơi vua
Nam Việt nhịn thua thiết chua xót dạ
Nam Kỳ mắc dọa hạ tôi day chưa thôi mấy kíp
Nước nào ăn hiếp người tiếp bợ bưng
Trở mặt đấm lưng dặm chưn sợ té có khi
.
(Cáo thị)

Nhưng cộng sản đã mua thắng lợi với một giá rất đắt. Tứ Thánh nói :
Thương công chú Cộng chan dầm/Vào sanh ra tử lại lầm kế ai.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4071_.aspx

Cộng sản mắc mưu ai? Tàu, Nga hay Mỹ? Măc mưu Tàu, ký giấy bán nước cho Tàu?
Măc mưu Nga vì ký hiệp ước liên minh nhưng Nga làm lơ khi Bắc kinh tấn công? Hay mắc mưu Mỹ? Đây là bí mật của lịch sử!

Xâm chiếm miền Nam là cộng sản gây tai họa mà dân chúng miền Nam phải khổ sở nhiều bề:

Nam-kỳ địa hàm oan chịu đọa
Bắc kinh vương gây họa từ đây
(Kim cổ)

Thành phố Sài gòn bị chiếm và mất tên trong khi Gia Định vẫn còn, và Gia Định nằm trong Sài gòn và Sai gòn trở thành hang quỷ:
Lập tiền Gia định đạt lịnh cải danh
Saigòn ly quì việc (diệc ) quỉ

(Cáo thị)

Cải tiến Saigon đem lòn Gia định
(Cáo thị )
Hậu nhựt lập danh niên canh Phật định
Đồng tuân nhứt lịnh Gia định cựu tồn

(Cáo thị)
Cộng sản đổi Châu Đốc thành An giang:

Gia-đình còn, sau mất Sài-gòn,
Châu-đốc mất trước tiếng còn An-giang
(Kim cổ audio 2B)

Trong chiến tranh, nhân dân Nam thất bại vì Mỹ bỏ rơi trong khi Nga hết sức ủng hộ Lê Duẩn.
Ông Ba Thới đã nhìn thấy bao tai ương cho nhân dân như Quảng Trị mùa hè đỏ lửa, dân chết đầy đường, bao quân nhân phải ngồi tù, bao dân chúng phải chết trên biển cả và rừng sâu để tìm tự do:

Tai hoạ Trời xuống chốn lăng xăng
Nạn nước lửa nạn phần ôn dịch
Nạn trái ban thương phần con nít
Nạn chìm ghe lão ấu bất tồn
Nạn hổ lang ác thú hết hồn
Nạn chết đói ó rằn mổ cắn
Nạn giặc giã chạy dường cóng cẳng
Té ngã lăng chân thẳng chân dùn
(Tựa)

Tận nhà Hớn Bắc kinh á vị ấy làm vậy người cũng không ngờ
Nam kỳ địa bị vây thậm khổ
Biệt từ hải ngoại khứ mang mang
Trức (Trực) đáo lâm san an tỵ tử
Ta hồ hung dữ tử vô phân
Chư sự tùng tân vận ân chí
Hoàng thiên định lý ý vị ngoan (9)
(Bốn tuồng)

Sau 30- 4-1975, dân miền Nam từ nhân viên chính phủ, sĩ quan quân đội và nhân dân ( sát hại quân thần ) bị cộng sản giết hại, tù đày mặc dù họ chẳng có tội tình gì:

Kẻ không tội bắt giam ?
Còn người gian tham khỏi hại ?
Người khiến nhiều lẽ Nam kỳ tồn bại
(Ý người muốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần
(Kim cổ)

Cộng sản (Tây phiên) bắt dân đi đào kinh và lao động không phân biệt dân thành thị, thôn quê, không phân trí thức và lao động

Bắc chiên nhiều người quên cười biếng khóc
Tây phiên nả tróc bắt tốc cường thọ trường dân bộ
Đa binh nhứt ngộ nhập mộ đa điền
Làng bắt đi liền kinh tiền Vỉnh Tế tận thế đa nhơn
Quan cựu vô phân hành đàn nhựt dạ
.
( Cáo thị)

Kinh tế xã hội thay đổi . Dân chúng miền Nam nay bắt đầu ăn bo bo, khoai sắn. Ngày xưa miền Nam đong lúa gạo bằng giạ, bằng lít nhưng cộng sản vào thì củi cũng bán cân (ký lô)!

+Vượt biên

Sau 1975, dân miền Nam bỏ nước ra đi, sau đó dân miền Bắc XHCN cũng đi:

Ăn cơm chúa kẻ quên người nhớ
Đất Nam trào kẻ ở người đi.
(Vân Tiên)

Thương người xa xứ Saigon
Ngày sau đem lại dạ còn chúa tôi.
(Thừa nhàn)

+Cộng sản tham nhũng, bán nước buôn dân
Thương dân không cội không căn
Tây-phiên trấn thủ lo ăn bạc tiền
Đa ngân phá luật phản tiền
Tòa-sơ thầy kiện cải liền bạc trăm
Khiến dân bất chánh tà tâm
Người quấy mà có bạc trăm phải rồi
Đồng bạc bất chánh bại tồi
Mắt tham đồng bạc thôi rồi nghĩa nhân
(Thừa nhàn)

Sau khi xâm chiếm miền Nam, cải danh Sài gòn thành tên ông Hồ, Cộng sản lộ mặt bán đất, bán dân, bán nước và bóc lột nhân dân khiến cho nhân dân đau khổ trong khi đó cộng sản trở thành tư bản đỏ, có hàng biệt thự, hàng khách sản, công ty, cửa hàng, đi xe hơi bạc triệu, sống xa hoa gấp mười, gấp trăm thời trước:

Vật bán ế ngon ngọt nhiều lời,
Bán ngày, bán phấn, bán thời nhục vinh.
. . . . . . .
Tiền Gia Định cải hậu Sài gòn,
Địa đầu chân hạc hao mòn muôn dân.
Chẳng dạy người tri ác vi nhân,
Gập ghình trào quốc muôn dân bất hòa.
Bất luật điều trẻ lộn với già
Ở ăn khác thế cửa nhà khoe khoang.
(Kim cồ)

+Cộng sản và các giáo hội

Sau 1945, cộng sản bách hại tôn giáo .Khoảng 2000 chúng công khai cướp đất giáo hội, phá nhà thờ như vụ Thái Hà và Tam Tòa năm 2009:

Minh quân dĩ đọa sát hạ Phật hình
Cầu tử bất chứng Bịnh con chẳng đứng nghi chứng sanh cờ
Truyền phá nhà thờ mấy giờ tan hết
Việc còn câu về Nhiều việc phân lìa trở về Tây trước
Thập tự vô phước bắt bước ngang qua
Việc tại quốc gia chịu cực chịu cực nhiều phen

(Cáo thị)

Sau 1975, cộng sản kiêu ngạo vỗ ngực xưng anh hùng, đã đánh thắng bốn tên đế quốc đầu sõ, nhưng họ chỉ là đầy tớ Nga, Tàu, là lưu manh trộm cướp, vô đạo lý, coi khinh Phật Trời:


Nhìn xem phàm cảnh rưng rưng
Thấy tà ma quỉ đều xưng anh hùng
Một mình luống những nằm mùng
Phúc đâu trận gió đùng đùng ra oai
Làm người sao khỏi ba tai
Hết cơn bỉ cực thới lai mới tường
(Thừa nhàn)


Tiếng đồn Lục-tỉnh Nam-kỳ
Khôn hơn các nước chỗ gì gọi khôn
Khôn làm đày tớ một môn
Khôn ăn khôn nói khôn chôn Phật Trời
Căm gan tức dạ ngán lời
Ai sanh không tưởng Phật Trời người ôi!
(Thừa nhàn)

+ Cộng sản xuất khẩu lao động, buôn người. .. Gái Việt Nam đua nhau lấy Đài Loan, Đại Hàn, đui què mẻ sứt cũng lấy miễn là thoát khỏi Việt Nam quang vinh, kể cả buôn son bán phấn ở Sigapore, Thái Lan:

Trào nào kẻ oán, người ân gập ghình.
Người gái Nam Tây lấy lộng bình,
Một gái mười gã nước mình biết sao!
Chà và đống bạc trắng kim cao,
Gái Nam cũng lấy biết sao nỗi người!
Nước Chệt qua lấy hết tức cười,
Cành. . . tha thứ hỡi người nước Nam!
(Thừa nhàn)

4.TIÊN ĐOÁN THẾ GIỚI & VIỆT NAM TỪ 2010 VỀ SAU


(1). THẾ GIỚI

Theo quan niệm của các bậc tiền bối Cao Đài, Hòa Hảo, nhất là theo tư tưởng của Sư Vải Bán Khoai, thế giới sẽ trải qua ba kỳ là Thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Hạ nguyên thì khốn khổ. Hết hạ nguyên lại đến thượng nguyên. Đời thượng nguyên, Trời Phật mở hội Long Hoa. Các tài liệu Bửu Sơn Kỳ Hương nói đến " mười tám nước" . "Mười tám nước", " thập bát quốc" chỉ là một thành ngữ chỉ số nhiều, tức là liên quân, các nước đồng minh. Tại Việt Nam, liên quân hai lần đến Việt Nam. Một lần trước 1975 và một lần sau 1975:

Sửu Dần vốn thiệt hẵn hòi,
Hội mười tám nước tôn Vương Đế Hoàng.
Đặng coi cái hội Long Hoa,
Chọn người tu niệm Hoàng gia tôn thần.
(Giảng Xưa của Sư Vãi Bán Khoai. Phần 2)

http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_283_ArticleID_3515_.aspx

Ông Ba luôn nói đến thời hạ nguyên dân ta rất khổ:
Hạ nguơn đã cận người ôi
Nay ta giáng bút để thôi cõi đời
(Giác mê)

Thầy ôi trở lại độ đời
Hạ-ngươn ăn nói nhiều lời đắng cay.
(Ngồi buồn)

Hạ-nguơn Phật đã bỏ liều
Phật cho sĩ xuống dạy chiều huờn mai
. . . . . . .
Hạ-Nguơn nay đổi mai vời (dời)
Phật cho trẻ ra đời nối sau.
(Thừa nhàn)


+Hạ nguyên tang điền thương hải
Tứ Thánh nói:

Hạ nguơn mỗi việc mỗi mòn.
Mòn sông mòn biển, lại còn mòn non.
Đổi chồng, đổi vợ, đổi con.
Đổi sông, đổi núi, đổi hòn Hà-Tiên.
Đổi Châu-Đốc, đổi Tịnh-Biên.
Thất- sơn lại đổi Hoa liên Nhà-Bàn.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Thời kỳ này Việt Nam nhiều nơi thay đổi địa hình. Ông Ba viết:
Lao xao dưới biển trên nguồn
Cù lao sụp hết ghe xuồng vắng sông
Saigon trở lại lập công
Đất đồng còn đặc hóa sông bây giờ
(Kim cổ)

Gió vay bốn hướng mịch (mịt) đàng
Thương người nhân nghĩa thọ tàn lao đao
Bây giờ như thể chiêm bao
Tam thinh thấy biển Vàm-nao rộng thình
Hiền lương binh Phật độ mình
Bạo tàn mất hết thả hình trôi sông
Âm binh rao khắp thinh không
Ba đêm việc trước minh mông cứu người
Núi tan đất sụp bớ người
Vi sơn đảo hải thương ngưỡi không tin
Tới đời tam giái hội binh
Thời người khủng cụ thất khinh thất cuồng
. . . . . . . .,
Chưa tường đáy biển trâu cày
Ngư phùng đại lộ khó rày người ôi!
Giáp thìn điềm ứng rồi thôi
Đinh mùi phản thủy có ngôi Thủy-hoàng
Giáp dần gởi họa xa đàng
Đinh mẹo hội thí viễn tràng Nam-bang
Ứng tình quản lượng nói khan
Qua tới Dần Mẹo thì an nước nhà.
(Thừa nhàn)

Sài gòn và một vài nơi ở Bắc Việt sẽ bị nước biển dâng cao lên đến núi rừng:
Núi biển it sau lại nổi thêm,
Đồng Nai Bắc địa không êm chút nào.
Nghĩ tới đâu ruột thắt gan bào,
Mắt nhìn bá tánh hỗn hào chỉn ghê.
Có chốn kiểng cao, có chốn quê,
Thác chung trần thế chỉn ghê Diêm đình.
(Kim cổ, băng 2A)

Đất Bắc-kỳ sau lại ruộng sâu,
Mười phần thác chín khó âu cho người.

(Cổ kim audio 2B)

Đất Bắc-địa giăng câu đặt lọp (11),
Ăn cá đồng không cọp ở rừng.

Đất Sài gòn giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng.


+Chiến tranh thế giới lần thứ ba?

Thế giới bùng nổ chiến tranh để sau đó là đến thời kỳ thượng nguyên.
Giặc dậy lăng xăng lăng xăng giặc dậy
Đánh nhau tầm bậy tầm bậy đánh nhau
Nước nào ở đâu ở đâu đánh đó
Vận nghèo thấy ngó thấy ngó vận nghèo
Người thác bá bèo bá bèo người thác
Đâu đâu tan nát tan nát đâu đâu
Đặng chỗ ruộng sâu ruộng sâu ở đặng
Bấy lâu lội lặng (lặn) hết nặng tới nề
Chưa đặng chọn bề việc hề sung sướng.
(Cáo thị)

Phải chăng Trung cộng muốn làm bá chủ thế giới và sẽ đánh chiếm khắp nơi? Tứ Thánh đã thấy nước Ấn Độ , Pakistan và Cao Miên sẽ tan hoang vì ở đây là mặt trận của Trung Quốc và Trung Đông chiếm Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan, Miên, Lào, Miến Điện và Việt Nam.
Ông Ba đã thấy Ấn Độ và Pakistan đều tan hoang:
Trời khiến xui ách nước từ đây/ Chà-và hai nước (12) mất thây chẳng còn.
(Kim cổ)

Cao Miên cũng lâm khổ nạn lần nữa. Ông Ba viết:
Cao-miên phải lo dùng cơm gói,
Người khá lo đói trước bấy giờ.
Việc minh mông chưa tới bực bờ,
Thấy Tần-quốc vật-vờ hồn phách.
Nhìn đói lạnh chớ than chớ trách,
Một con sâu làm đổ trách canh.


Việt Nam lúc này bị Trung Quốc xâm chiếm bằng quân sự. Châu Đốc là nơi trận địa giữa quân Trung cộng và quân đồng minh ( năm nước):

Tứ Thánh tiên đoán:
Qua liền năm nước chật đàng.
Qua lộ Văn giáo máu tràn như sông.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Ông Ba đã nhận định :
Qua hậu xứ Văn-Giáo giáo giăng,
Thây phơi ngọn cỏ vô căn Phật Trời.
Con trong nhà nói chẳng nghe lời,
Huống chi hàng xóm nói đời ai nghe.

Đây là lúc quân Mỹ và quân đồng minh (thập bát quốc) trở lại châu Á và là lúc Việt nam quật khởi chống Trung Cộng xâm lược:

Gầm trời ó cất cánh bay.
Nửa chừng dấp dới bằng nay dập dều.
Nghèo mà che trại cất lều.
Gặp cơn bừng thới biết điều mới hay.
Gặp thời gặp vận ra tay.
Đấp bồi xã tắc mới hay tiếng thầy.
Đất đồng cỏ mọc dẫy đầy.
Xúm nhau chen chúc đứng rầy mới vui.
Ghe thuyền kẻ tới người lui.
Giữ lời Phật dạy nhủi chui núi rừng.
Xử tiêu một cuộc không chừng.
Long- châu ước giáp, Phật trừng loài gian.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Đây là lúc Việt Nam thay đổi màu cờ:
Tứ Thánh tiên đoán:
Đổi cồn, đổi bãi, đổi cờ Nam-bang.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Có lẽ Thiên chúa giáo La Mã và Do Thái bị khối Trung Quốc và Á Rập đánh phá nặng nề hoặc vì biến cố nội bộ xảy ra mà có sự thay đổi:
Đổi cha lại đổi nhà thờ.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA


Còn tác giả Kim Cổ Kỳ Quan thì nói:
Nước Tây Phiên nhà thờ không cha,

Ông Ba cho rằng Mỹ và đồng minh (thập bát quốc) đánh Trung Cộng kịch liệt và giải phóng Việt Nam.Nước ta có minh quân (Phật vương ) và trở thành một nước hùng mạnh như nhà Hán (Hán trào):

Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến Nam-mô tranh tài.
Thập bát quốc vây phủ ở ngoài,
Thiền trung xuất trận phép tài quan thiên,
Đoái Ngũ-Long tiền trận nữ Phiên,
Giao chinh lam trận chư Tiên lai đều.
Phật thâu phép chư quốc chu hầu,
Qui lai thiền nội ừng hầu Phật-Vương.
Đồng chúc Thánh vạn thọ an khương,
Tuế tăng vạn tuế Phật-Vương thọ trường.
Phán chư quốc cống lễ minh tường,
Tiểu bang lãnh sắc thường thường thọ an.
Đãi yến diên chư quốc an phân,
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân,
Chúc Hớn trào miên viễn hoàng ân,
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh-nhàn.
Lập Thượng-Ngươn hưởng thọ khôn càn,
Đặt chung tứ bổn vẹn toàn hiếu-trung.

+Thượng nguyên

Nhiều tôn giáo nói đền ngày tận thế, nhân loại bị tiêu diệt. Nhưng theo quan điểm Nho, Lão, Phật, vạn vật vô thường, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh. Vũ trụ và nhân loại cứ ở trong vòng sinh sinh sinh hóa hóa như thế. Theo quan niệm Bửu Hương Kỳ Sơn và Cao Đài, sau thời hạ nguyên, Phật sẽ mở hội Long Hoa tạo một nền hòa bình cho thế giới.

Sư Vãi Bán Khoai viết:
Mấy người làm phước làm nhân,
Long Hoa một hội quân thần âu ca.
Còn kẻ ác đức bất nhân,
Có tướng chư Thần phân nát thịt xương.
(phần 2)

Ông Ba đã cho ta thấy hình ảnh hội Long Hoa vào khoảng năm giáp tí . Giáp tí nào? 2008? 2068?
2128? hay 2208?

Giáp Tý hội Phật hội Trời
Qua năm Kỷ-Tỵ lập đời thanh nghiêm
Mãn cổ lập lại đời kim
Mãn kim lập cổ thanh nghiêm đời đời
Thập bát quốc hội Phật Trời
Bất dạ bất nhựt một đời minh linh
Xuất binh ở ngoại quản (quảng ) thinh
Đằng vân giá võ tinh minh quản đường
Giáp Tý hiệu một thái bường
Ký hiệu lập hậu thượng đường mấy năm.
(Thừa nhàn)

Có lẽ chúng ta đang đi vào cuối hạ nguyên và khởi đầu Thượng nguyên. Nhà tiên tri Ấn Độ là Sudeih Babu (?-1918) trước đây đã nói cuối thế kỷ XX phe vô thần sụp đổ (10). Ông Ba cho biết:
nhân loại đã khổ trong hai ngàn năm:
Trong hai ngàn năm tử biến thất sưong (sơn?)
Biến thiên, biến địa biến nhơn thay đời.
(Kim cổ)
Ông Ba nói rất đúng. Trong hai ngàn năm nay, nhân loại đã gặp nhiều đau khổ như chiến tranh tôn giáo, nạn thực dân, đế quốc xâm lược, nạn phát xít và cộng sản diệt chủng. Hy vọng sau này, nhân loại bước vào kỳ thượng nguyên hòa bình, thịnh vượng.

Theo Tứ Thánh, có lẽ phải sau đại chiến thứ ba mới thật là đời Thượng nguyên:
Trời xây Âu-Á bốn phang.
Nước tràn bờ cõi khó an thời kỳ.
Chuyển luân bỏ bực biên thùy
Ngửa nghiên(nghiêng) Trời Đất lập kỳ Thượng-nguơn.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Đây cũng là lúc đời thứ năm của Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời:
Thứ nhứt tồn dĩ cơ thâm
Thứ ba giáo thế thứ năm ra đời
Thứ sáu hòa hiệp nước trời
Khuyên người chữ ( giữ) dạ nghe lời thảo ngay
(Thừa nhàn)



(2). TƯƠNG LAI VIỆT NAM

Tần Thủy hoàng đốt sách chôn học trò, chế độ khắc bạo thế mà không bền vững. Cộng sản cũng vậy:
Người ngay thác thác rồi lại sống
Kẻ gian tà biết thuở nào trông
Đừng đem lòng dạ bướm kề ông
Thác có bữa không trông trở lại
Thấy thiệt thà bây chê rằng dại
Nghĩ phận mình xét lại chẳng khôn
Tần-Thủy-Hoàng đốt sách mà chôn
Nên Phật khiến tiền tồn hậu thất
Người trung nghĩa phải lo còn mất
Đừng học đồ cà khất điếm đàng
Mà phá xóm phá làng cả lũ
Đạo làm lành nào ai có rủ
Mặc ý người tu đặng thì tu
Khó biết bề biển Thánh rừng Nhu.

Cộng sản cai trị chỉ hơn nửa thế kỷ mà thôi:

-Phật tra ngũ thập dư niên
Tây phiên cai trị nam biên dữ lành
(Vân Tiên 2)

Cộng sản cai trị miền Bắc từ 1945, mà miền Nam cũng vậy. Chính phủ Quốc gia kiểm soát các thành thị nhưng cộng sản kiểm soát núi rừng và thôn quê, thậm chí còn có các cơ sở nội thành từ 1945. Từ 1945 đến 2010 là 65 năm. Nếu kể từ 1956, Bắc Việt xâm lược miền Nam dưới danh hiệu giải phóng cho đến 2010 là 54 năm.

+Sau này Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc:

Tương lai Việt Nam độc lập, không còn làm nô lệ cho Tây phuơng hay nước nào như trước đây:

Đất này nào phải đất Tây mà buồn!

(Thừa nhàn)

Không những nước ta độc lập mà còn có mười tám nước " chư hầu". Có lẽ lúc bấy giờ địa lý thế giới biến cải, trật tự thế giới được lập lại, có mười tám tiểu quốc với nước ta trở thành một liên bang. Phải chăng vì tình hình chính trị, kinh tế và quân sự đòi hỏi, nước ta liên kết với Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Phi Luật Tân, Singapore và các nước nữa thành Liên bang Việt Nam hay liên bang Đông Dương, hoặc liên bang Đông Nam Á mà Việt Nam là nước đứng đầu.

Tác giả Kim Cổ Kỳ Quan viết:
Mười tám nước lai giáng hàng đầu/ Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.
Có lẽ ông Ba thấy rằng lúc đó nước ta hùng mạnh như thời Hán Cao Tổ thống nhất thiên hạ lập nhà Hán. Hán bang là sự so sánh trong văn chương và lịch sử:

Trước đó, Sư Vãi Bán Khoai đã nói:
Nước Nam như thể cái lầu/Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.
Giảng Xưa của Đức Sư Vải Bán Khoai, phần IV.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_283_ArticleID_3516_.aspx

Ông Ba cũng có ý kiến tương tự và nhắc lại nhiều lần:

Nam-triều sau có quân sư
Coi mười tám nước chư châu phục tùng
Ngày sau nhiều kẻ anh hùng
Nghề văn nghiệp võ trí trung không cùng.

Nước Nam như thể cái chùa
Ngày sau các nước bốn mùa bán buôn
(Vân Tiên 2)

Đại Nam ngồi ngự đền rồng
Phật cho các nước đạo đồng tiêu bang
Bây giờ nhà dọc dãy ngang
Phố lầu chợ quán muôn ngàn người ta
Lập làng lập xóm vạn gia
Quan quân thiên hạ vào ra nhộn nhàng
(Vân Tiên 2)

Trước đó ông Ba viết:
Có ai từng ăn ốc không gai /Ăn cơm không đũa đại tai nước Tần (13).

Ăn cơm không đũa là Ấn Độ (Tần) ăn bốc.
Câu sau ông nói rằng sau này Ấn Độ và Việt Nam ở trong một liên bang
Ai từng làm ruộng không trâu/ Nước Tần sau lại lai thâu Hớn-trào.
(Kim cổ)
Bắc Việt ở vị trí địa đấu trong tứ trấn:
Hậu Bắc-địa tứ trấn cõi ngoài,/ Nam-bang đại quốc lâu dài trường sanh.

Nước ta địa giới đến Hạ Lào.
Có sông dọc lên khỏi Nam-vang,
Lên đèo xuống dốc nhà sang dẫy đầy.

Từ Lèo hạ sấp xuống dưới này,
Kiểng vui Nam-quốc lời Thầy di-ngôn.


Nước ta trở thành một nước hòa bình và thịnh vượng:
Đâu đâu lạc nghiệp thuận an
Lập mười tám nước hiển vang quới quyền.
(Thừa nhàn)

Ngày sau không được loạn dâm,
Nước nào ở nấy loạn thâm đứt đầu.
Phật lâp chư quốc chư hầu,
Bán buôn lui tới phải đầu nước Nam.
Phật dạy lòng dạ chẳng tham,
Không tu không thể nước Nam thanh nhàn.
Mười tám nước ăn ở một tràng,
Chợ nào không góp xóm làng an ninh.
Tri sự tiền lập hậu chánh minh,

Nhà không đóng cửa quảng thinh đêm ngày.
(Thừa nhàn)

Lúc đầu vùng này có bốn nước sau hợp với Việt Nam thành một quốc gia hay một liên bang. Từ đây nước ta có vua thánh, tôi hiền, nhân tài xuất hiện:

Tiêu tứ bốn nước lộng tình
Quy lai nhất thống nước mình chăn dân.
Tiên xử kỷ hậu xử bỉ thân,
Ở trần bất chính bất phân tội hoài.
Lo việc hậu mới đặng lâu dài,
Ngày sau nhiều kẻ phép tài trí tri.
(Kim cổ, băng 2A)

-Trên vua khai rạng dưới tôi trung thần (Vân Tiên)

Thành phố đông đảo du khách thế giới, và người Việt hải ngoại cũng về thăm quê hoặc về làm ăn, chùa chiền tấp nập khách thập phương:
Kẻ đi trước, người về sau
Kẻ về người tới đâu đâu mệt đường.
Chợ đêm ngày nhóm cũng bình thường,
Chùa đông đi tới, chật đường người ta.
Có xe hơi xe kiếng chạy ra,
Có đường xe lửa chạy xa chạy gần.
Đường thời tàu chạy rần rần,
Đêm trường xe máy rần rần chạy đua. ..
(Kim Cổ)

Nước ta lúc này như thời hoàng kim thời đại của Nghiêu Thuấn đêm ngày không đóng của, ngoài đường không ai lượm của rơi:
-Nhà không đóng cửa quảng thinh đêm ngày.
- Họ hàng khơi chiều mai ngó thấy/Qua ngày sau của rơi chẳng lấy.

Tại Bắc Việt thời cộng sản cai trị, văn hóa dân tộc bị kìm kẹp:
Xem đời Bắc địa chẳng còn sử kinh.
(Kim cổ, 3A Cali)

Trách thay Bắc địa lọng (lộng) tình
Tác thơ kinh sử bất bình trung cang
Đêm nằm nát một lá gan
Oán thù nịnh tặc chẳng an trong lòng
(Thừa nhàn)

Sau này văn hóa Việt Nam phát triển mạnh mẽ.

Tại miền Nam , vùng Thất Sơn sẽ là trung tâm văn hóa của nước ta:
An-trừơng An định phe văn.
Long châu phe võ hiệp đoàn Thất sơn.
. . . . . .
Cù lao ông Chưởng ai bì.
Cá tôm lại rẻ thiếu gì chuyện vui.
Vàm ông, năm chợ tới lui.
Ai mà tan nát thây trôi dập dìu.
Đường tràng ngựa chạy ngập kiều.
Trường hoa ứng thí dập dìu chim bay.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Ông Ba cũng nhận định rằng sau này Việt Nam văn hóa, giáo dục rất phát triển:

Kim-Cổ lập hội tràng thi
Nam-kỳ Lục-tỉnh tu tri ra tài
Mặc tình văn vỏ thơ bài
Trí mưu lập hậu hữu tài mới khôn
Chữ rằng nhĩ thính thiện ngôn
Bất đọa tam ác nhứt môn phước tài
Thiện nhơn hậu nhựt hớn hài
Sum vinh quyền quí lâu dài Thái-sơn
(Thừa nhàn)

Ngồi buồn luận trí Nam-bang
Dắt đường chỉ ngỏ Tây-an cao kỳ
Đế cung lập lại bất tùy
Nhà cơ hội thí Hương-kỳ hậu lai
(Thừa nhàn)

Trước kia người ta ca tụng Âu Mỹ tài giỏi (Tây sĩ: trí thức, khoa học gia Âu Mỹ) , trong tương lai, người Việt Nam sẽ vô cùng tài giỏi:
Trước xưng Tây-sĩ anh hùng
Hậu lai Nam-V iệt vô cùng trí tri
Thời Trời vận khiến trước suy
Kim lai kế hậu tiên tri vận thời.
(Thừa nhàn)

Xưa sợ người Tây nay hết sợ
Việc đời trả nợ trợ thời suy
.
(Cáo thị)

Tại sao nay ta không còn ca tụng Âu Mỹ và sợ Âu Mỹ ? Vì lúc này vào đời Thượng nguyên, nước ta có nhiều nhân tài. Ta hơn các nước về văn chương và khoa học. Hiện nay, nước Mỹ là nhất, đồng đô la của Mỹ đứng nhất kinh tế thế giới, và ngôn ngữ văn tự của Mỹ cũng nhất thế giới vì các nước phải học tiếng Anh, dùng tiếng Anh. Mai sau, tiếng Việt cũng sẽ trở thành ngôn ngữ quốc tế:
Sau nước Nam ít kẻ vụng về,
Thông-minh trí huệ người giỏi hay.
Không có cánh đi đặng trên mây,
Phép tài văn võ hơn nay nước nào.
Hữu quân-sư thượng-trí anh hào,
Dạy mười tám nước chỗ nào văn thơ.
Mười tám nước tài phép trơ trơ,
Phật thâu trả quả ngẩn-ngơ chư hầu.
Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.
Phật thâu hết các chữ đa đoan,
Chỉ tồn nhứt tự Nam-bang tiếng mình.

Sau này, các nước sẽ đến với Việt Nam. Xưa kia Nho, Lão Phật đồng nguyên ( Tam hữu) , nay các tôn giáo (Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo .. .) đều sống an vui hòa bình (đào viên kết nghĩa) :

Thú vui huê nở biên đình
Tai nghe các nước giống hình tới đây
Dập dìu quan khách Tàu Tây
Đức cha nhà phước vui thay lạ lùng
Nhớ xưa tam hữu xưng hùng
Đào viên kết nghĩa nay cùng đường đi
(Thừa nhàn)


Sau này, Việt Nam sẽ theo chính thể nào? Không biết sẽ theo quân chủ hay dân chủ, nhưng theo các nhà tiên tri thì là quân chủ. Các tài liệu Bửu Sơn Kỳ Hương cho biết người đứng đầu là vua, là Minh vương. Thực ra Quốc trưởng, Tổng thống hay chủ tịch thể chế khác nhau cũng đều là vua, nghĩa là người đứng đầu quốc gia. Còn Thánh nhân, Minh quân hay Minh vương có nghĩa là người lãnh đạo quốc gia rất sáng suốt.

Đức Phật Thầy để lại di chúc:

Bửu Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên
Sơn Trung Sư Mạng Địa Nam Tiền
Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc
Hương Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên






Bài thơ này đọc ngang ( bốn câu) :
Bậc minh quân tương lai là bảo ngọc của trời Việt. Trước kia vốn ở Việt Nam. Khi thời cơ đến, Ngài sẽ phục hưng Việt Nam, và xây dựng cơ đồ Việt Nam.
Đọc dọc (7 câu):
Vua này sẽ xuất hiện năm thân ( ngọc+trung: thân 玉 中=申). Ngài kiếp trước là vua Minh Mạng, kiếp này xuống thế, có quân sư là trạng Trình phò tá. Ngài sẽ khôi phục cơ nghiệp Việt Nam như ngày xưa. Phải chăng chữ nguyên là chữ Nguyễn. Thánh nhân là họ Nguyễn. Trạng Trình cũng nói:
Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về.
Nếu là như vậy, câu thứ nhât đọc ngang nghĩa là vị Minh quân là bảo ngọc của Việt Nam vốn họ Nguyễn.

Sư Vãi Bán Khoai nói vị vua tương lai là Minh vương:

-Minh Vương khôi phục Hớn Châu phong thần.(Phần 5)
-Sửu Dần vốn thiệt hẳn hòi/Hội mười tám nước tôn Vương Đế Hoàng.(phần 2)
-Chọn người của Phật mến thương/Đặng giao mối nước choVương Minh Hoàng.(Phần 2)
-Ngọc Hoàng phán rõ nguồn cơn/Minh Vương vốn thiệt là vua nhơn từ.(Phần6)

Trên cõi thiên đình, Minh vương đã cầu xin Thượng Đế và Phật cứu vớt loài người

Minh Vương không (khôn ) xiết hỡi ôi,
Lo mưu định kế cứu rày Hạ Ngươn.
Liền qua Tây Vức Linh Sơn,
Cầu Phật giải cứu cõi trần hạ Ngươn.
Chư Phật đến trước đơn trì,
Tâu cùng Ngọc Đế chớ hờn chúng sanh. (phần 6)


Theo Sư Vãi Bán Khoai, Minh vương ở Tây Sơn. Phải chăng quê Bình Định, Quy Nhơn hoặc có nguồn gốc Tây sơn, hoặc là người ở Âu Mỹ (Tây phương ) về ? hoặc có nghĩa nào khác?
Phật Trời thương hết thế trần
Truyền kinh Tăng sĩ rao cho dân tường.
Tây Sơn xuất thế Minh Vương,
Độ cho khỏi hết tai ương dưới trần. (phần 9)
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_283_ArticleID_3518_.aspx

Tứ Thánh cũng nói vua ta sẽ là Minh vương:
Cầu cho tỏ rạng Thánh-hoàng.
Minh vương trị chúng xóm làng bình an.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

Ông Ba cho biết sau này nước ta có vua :

Trước thời nam bắc nay chắc Hớn bang/ Điềm ứng thiên nhan hiển vang vạn tuế tâm phế thiện vương. (Cáo thị)

Khi nào quốc vương xuất hiện hay về nước? Trên kia, Phật Thầy nói năm Thân.Trạng Trình cũng nói:

Thân dậu niên lai kiến thái bình.

Trạng Trình cũng nói:

Khi nao ngựa đá qua sông,

Tứ Thánh nói:

Chừng nào ngựa đã (đá) qua sông.
Phụng hoàng xuống biển thì Ông mới về.
Bây giờ kẻ Sở người Tề.

Đến kỳ Thiên định cũng kề một bên.TỨ THÁNH * GIẢNG XƯAÔng Ba viết:
Thầy xưa dạy bảo tỏ tàng (tường )
Tây an viễn đại gần đàng đế cung
Bây giờ phân rẽ cội thung
Chừng nào gặp hội cội thung mọc chồi
Ngai vàng vững đạt báu ngôi
. . . . . . .
Đinh-tỵ ra sấm thình lình
Nhơn dân xao xuyến nước mình có vua
(Thừa nhàn)

Ông Ba nói Việt Nam sẽ có nữ hoàng nối nghiệp:
Phật sanh thiên hạ trong Trời
Có nam có nữ nối đời quốc vương.
(Thừa nhàn)

Trị Thập-bát-quốc sửa sang
Hậu biến chư quốc lập đoan Phật Trời
Nguyện cho Thánh chúa trị đời
Tây phương bửu điện cảnh Trời thanh tân
Thuyết khẩu thành trái trung phân
Chúc lai Thánh thọ tuế tăng thanh nhàn
Môi son má phấn đầu đàng
Đức tinh đức cậy thanh nhàn chúa tôi
Đời nầy chết yểu người ôi
Làm sao thấy chúa cao ngôi trung thần
(Thừa nhàn)

Tứ Thánh cho biết vua trẻ lắm, mới 26 tuổi:
Hai sáu là tuổi vua mình
Thập tứ hưởng thọ trào đình gia tăng
Một nàng Hoàng hậu hiệp căn
Tuổi vừa hai tám Trời trăng hiệp hòa
Phụ mẫu trường thọ nước nhà
Nhứt phu nhứt phụ thiệt thà qui căn
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA


+Tương lai Nam Kỳ

Một ngày kia dân Nam Kỳ sẽ thoát ách đô hộ của Bắc Kỳ cộng sản, và từ đó dân ta sẽ xây dựng một xã hội đạo đức:

Nam kỳ từ giã Bắc kinh
Trai ngay thờ chúa gái trinh thờ chồng
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung cang nghĩa khí giữ lòng tự nhiên.
(Ngồi buồn)

+Miền Nam trở thành cõi Bồng Lai:
Giữ lòng niệm Phật Di-Đà
Thời lên sơn lãnh thấy mà thời hay
Lòng ta dạ dốc thảo ngay
Lên non sơn lãnh tìm tày Bửu Châu
Bửu Châu có đó hết sầu
Non tiên từ tạ khấu đầu lui ra
Nguyền xin cho đến Láng-bà
Xem trong làng ấy tợ mà Bồng Lai

(Giác mê)

Nói trong Lục tỉnh bây giờ
Làm lành niệm Phật mà chờ đợi vua
Nước Nam như thể cái chùa
Ngày sau các nước bốn mùa bán buôn.
(Vân Tiên 2)

Thấy trong Lục tỉnh Nam Kỳ
Chùa thiền rực rỡ cũng bì cù lao
Nhà thờ phố ngói thấp cao
Nam thanh nữ tú ra vào coi xinh
Hết nhục rồi tới thời vinh
Làm sao khỏi chốn đao binh mới tài
(Vân Tiên 2)

+Tương lai An Giang

Ông Ba tiên tri:
Chừng nào Phật xuất An-Giang
Nhơn dân lục tỉnh thanh nhàn tấm thân
Bảo người niệm Phật cho cần
Việc đời đã tới hầu gần tới đây.

(Giác mê)

Bao giờ ngọc xuất An-giang
Thái bình thiên hạ bạc tiền nhiều thay
Nhà nhà no đủ bằng nay
Nơi nơi lạc nghiệp toại thay tấm tình
(Giác mê)

Có lẽ kinh đô ở Tây An, An Giang:
Ngồi buồn luận trí Nam-bang
Dắt đường chỉ ngõ Tây-an cao kỳ
Đế cung lập lại bất tùy
Nhà cơ hội thí Hương-kỳ hậu lai
Đây trai đó cũng là trai
Mặc tình chúng bạn vừa ai thì vừa.
(Thừa nhàn)

Tứ Thánh cũng có ý kiến giống vậy:
Núi rừng trổ ngọc trổ ngà,
Long-Hoa lại trổ lên Toà Thượng-Ngươn.
Nam-bang một lá quế đơn,
Năm châu tựu hội Thất-Sơn đông vầy.
. . . . . . . . . .
Ngày sau có một không hai /Thất-Sơn duy nhứt Như-Lai lập-đời.

TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA

http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4071_.aspx
http://bskh.net/2007/12/tuthanh.htm

Sau 1975, cộng sản đổi Châu Đốc thành An Giang. Đến khi nào đổi lại Châu Đốc là lúc thái binh thật sự. Tứ Thánh nói:

An-giang sao (sau) lại đổi dời.
Đổi lên Châu-Đốc vậy thời mới yên.
TỨ THÁNH * GIẢNG XƯA
http://bskh.net/2007/12/tuthanh.htm


Trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông Ba đã nói đến một vài nơi ở Việt Nam biến thành cù lao,khí hậu thay đổi:
-Nước một bực thanh-thuỷ biên Trời/Không ròng không lớn thuận đời chảy xuôi.
-Lòng niệm Phật hản dạ chí tu/Ngày sau lập lại xuân thu hai mùa.
-Gió hai ngọn xuân nhựt nguyệt thu,
Không lạnh không nực chí tu để trời.

-Đến chừng nào nhựt nguyệt hiệp căn,
Ngày thời ông mọc đêm trăng sáng hoài.


-Tới ngày sau Tý-Ngọ bất di,
Thìn thời ông mọc bất tri giờ nào.
Đêm giờ Tý, ngày Ngọ hiệp vào,
Tý Ngọ đứng bóng giờ nào lại tranh.
Ngày sáu giờ, đêm sáu giờ canh.
Nguyệt xuất giờ Tuất, không tranh giờ nào.

Giáo sư Nguyễn Văn Hầu đã viết như sau về việc thay đổi mặt địa cầu như sau:
Về thế-giới các nước sau này, theo chúng tôi được biết, thì Đức Bổn-Sư núi Tượng có để lại một bản Đồ-thơ nghe đâu hiện nay trong môn-đệ của Ngài con giữ, nhưng tiếc vì chúng tôi không được thấy để coi cho biết nước nào còn nước nào mất và mười tám nước còn lại là những nước nào? KIM CỔ KỲ QUAN * PHỤ LỤC

Về việc thay đổi địa lý các quốc gia và Việt Nam, xin xem thêm một đoạn viết về ông Đạo Nhỏ do ông Nguyễn Văn Hiệp tường thuật .
Về chuyện trong nước thì cuối cùng ông phán trong một bài thơ, đại ý là :“Miền Nam không đứng vững, không đủ khả năng đánh bại miền Bắc”. Kế đó tôi hỏi về chuyện Thế giới thì được trả lời đến gần 100 bài nữa, trong đó có hai bài hỏi về Hội Long Hoa.Tôi hỏi “Hội Long Hoa thành lập ở đâu, do ai chủ trì và giải quyết chuyện gì ?”

Vấn đề nầy ông không trả lời nhưng ông vẽ một cái hình lên trên tờ giấy. Ông vẽ một khán đài rồi vẽ một cái vòng tròn, ông vẽ một mũi tên chỉ vô để “người” tức là nhiều người ngồi trên đó, rồi phía dưới ông vẽ hình người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người ngồi ghế bên dưới. Còn vùng đó là vùng có núi mà là núi thấp; ông không nói địa điểm chỗ nào nhưng nhìn xa xa thấy toàn là núi, còn chỗ hội họp là giữa hai cái núi, ông vẽ sơ sơ vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái dấu tròn phiá trước, kế đó là cái dấu tròn thứ hai; cái dấu đầu tức là có người ngồi trước, rồi ông vẽ một mũi tên chỉ vào dấu thứ hai đó, ông viết chữ “ông” tức là tôi sẽ là người thứ nhì ngồi ở Hội Long Hoa.

Đến nay, khi tôi kể lại tôi còn cảm thấy run cả người bởi vì Hội Long Hoa là một chuyện trọng đại và phi thường giải quyết cả một vận hội thế giới chớ không phải cho riêng nước mình thôi đâu.Rồi khi tôi hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh thứ III thì ông cho bài thơ trả lời, đại ý là chuyện đó sẽ phải xảy ra và thế giới cũng bị tận diệt rồi sau đó mới lập Hội Long Hoa (nghiã là khi chiến tranh Thế Giới thứ III chấm dứt mới có Hội Long Hoa).

Sau đó tôi kêu chú lính chạy đi lấy cho tôi một bản đồ Thế Giới rất lớn mang đến và cả bản đồ Việt Nam, tôi phải trải từng khúc lên bàn, theo ý muốn của ông. Ông cầm cây viết mỡ lên sẵn sàng giải đáp. Đầu tiên, tôi hỏi :“xin ông cho biết ảnh hưởng về Việt Nam và Trung Quốc sẽ đi tới đâu ?” Ông cầm cây viết mỡ vẽ một lằn từ bên Tàu phía trên Hồng Kông từ ngoài biển kéo vô một lằn tới dãy Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn) rồi ông kéo trở lại cắt ngang phía Bắc Việt Nam từ miền Thượng du Bắc Việt tức vùng Cao bằng- Lạng sơn ra tới phía Bắc của Hải phòng. Rồi ông lấy viết xanh ông gạch gạch rồi cho biết “tất cả chỗ đó sẽ trở thành biển”, ông viết một chữ “biển” lên đó.Nguyên phần đất nầy sẽ tan biến, tức là ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ thành một cái biển lớn. HồngKông không còn rồi qua đến phiá Bắc của Lào, một phần của Thái lan, một phần của Miến Điện rồi vô tới dãy Himalaya sẽ bị sụp mất hết, Việt nam chỉ mất có bấy nhiêu đó thôi.

Cái vạt Bắc Kinh- Thượng Hải được ông gạch nát hết, Đài Loan cũng lặn mất. Xong rồi, tôi để bản đồ trước mặt Ông, chỉ vào từng vùng, từng vùng thì ông cho thấy quốc gia nào cũng bị khó khăn hết. Nước Mỹ nầy thì ông vẽ Tiểu Bang Washington, Oregon, California đi xuống biển, còn ở phía miền Đông thì bể nhiều lỗ, Nữu Ước không còn nữa tức cũng thành biển, nước Mỹ chỉ bị mất mấy vùng hai bên bờ biển phiá Đông và phiá Tây, rồi ông làm một bài thơ cho biết Địa cầu chuyển trục, nước Mỹ trở thành một vùng nằm ngay giữa đường Xích đạo. Đường Xích đạo đi ngang qua nước Mỹ biến nước Mỹ trở thành một quốc gia bị nóng như Sa mạc.Còn bên Âu châu thì quốc gia nào cũng bị thiệt hại một phần hết. Nước nào ông cũng bôi bỏ chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại hai chỗ là Úc châu và Tân Tây lan.

Tôi hỏi ông về phần đất Úc châu thì ông cho một bài thơ cho biết đó là Thánh địa không có bị động chạm gì tới và Tân Tây Lan cũng như Úc Châu đều còn nguyên vẹn. Các quốc gia con con ở gần Bắc băng dương và Nam băng duơng thì nơi nào cũng bị đánh phá, chỉ trừ có Úc Châu và Tân Tây Lan mà ông cho là Thánh điạ.Đến đây, tôi nói với ông là cũng đã khuya rồi, chú lính đã giăng mùng sẵn, mời Ông đi nghỉ.(Về chuyện hậu vận của tôi, tôi cũng có hỏi và được giải đáp đầy đủ nhưng vì thuộc về cá nhân nên tôi không thể nói được, ngoại trừ việc về già giống trường hợp ông Khương Thượng như đã nói ở phần trên. Bởi vì tin vào vận mệnh đó mà tôi mới dám qua Cam-pu-chia ở 10 năm và chiến đấu bên đó từ năm 1984 đến năm 1994 .TÀI LIỆU VỀ CÁC NHÀ TIÊN TRI (14).



Việc này không phải là hoang đường. Các nhà khoa học nay đã nói đến hiệu ứng nhà kính, quả đất ngày càng nóng lên, băng ở Nam cực và Bắc cực sẽ tan rã, nước biển tràn lên, Hải Nam, Hải Phòng , Sài Gòn sẽ ngập nước, Bắc kinh sẽ thành sa mạc, trục địa cầu thay đổi, Saigon sẽ có hai mùa như Canada hiện nay, còn Canada, Mỹ sẽ có bốn mùa hoa nở, khắp nơi xôn xao cày bừa, mặc sức sản xuất lúa gạo, rau quả, không phải nhập cảng sản phẩm nước nào! Cũng có thể vùng này biến thành sa mạc. Hơn nữa, thái dương hệ thay đổi , mặt trời sẽ nóng hơn, và chiến tranh hạt nhân cũng sẽ làm biến dạng địa cầu. Năm mươi năm, trăm năm hay hai trăm năm sau sẽ thấy rõ!


Ông Ba quả đã tiên đoán những việc từ 2009 về trước rất đúng, rất rõ ràng, và cụ thể. Những việc từ 2010 trở đi, chúng ta sẽ chờ xem. Hai ngàn năm qua nhân loại đã khổ vì chiến tranh tôn giáo, vì hai cuộc thế chiến, vì tai họa của thực dân, đế quốc , phát xít, và cộng sản. Hy vọng hết cơn bỉ cực đến ngày thái lai, nhân loại sẽ được hòa bình và thịnh vượng.
*

Phật giáo Hòa Hảo đã chú thích kỹ lưỡng Giáo lý và Sấm giảng của Huỳnh giáo chủ. Để bảo vệ văn học Phật giáo, và để tiện việc nghiên cứu, chúng tôi đề nghị quý vị bên Phật giáo Hoà Hảo tiếp tục chú thích và giảng giải các tác phẩm khác trong đó có Kim Cổ Kỳ Quan.
Về Kim Cổ Kỳ Quan, cần chú thích từ ngữ khó trong đó có chữ Hán và tiếng địa phương, tiếng cổ. Vì Kim Cổ Kỳ Quan ra đời lúc quốc ngữ sơ khai nên sai nhiều chính tả. Cần sửa lại chính tả nhưng vẫn giữ nguyên bản vì cần tôn trọng nguyên bản.
Có hai cách sửa chính tả:
-Sửa ngay bên cạnh . Thí dụ :
Phật ngày xưa dạy bảo người tùng
Nay mắc nạn rùng rùng phế bổ ( bỏ).
Tu nhân đạo tậm thâm ai rõ
(Tựa)
-Hoặc sửa ở cuối trang hay cuối bài.
Thí dụ: Người lại bày binh bố trận cho người An nan (10)
(10).Sửa: An Nam.



___

Chú thích
(1). Theo tài liệu 2, sáu Phẩm là cháu của Cậu Hai Trần Văn Nhu.
(2).Trung Hoa dân quốc:Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1912, do Tôn Văn làm Tổng Thống, sau Tưởng Giới Thạch lên thay, đương đầu với Nhật Bản và Cộng sản.Năm 1949 Mao Trạch Đông chiếm Hoa lục, Tưởng Giới Thạch chạy sang đảo Đài Loan và một số đảo khác
(3). Kim cổ và Bốn tuồng giống nhau.
(4). Nam Việt có hai nghĩa: Việt Nam, và Nam Kỳ.
(5). Một số kinh Phật đã nói đến nguồn gốc thế giới và con người, trong đó có những thời kỳ khác nhau con người thọ đến vạn tuổi, rồi tụt xuống ngàn tuôi, trăm tuổi. . .( Kinh Di Lặc, Quy nguyên trực chỉ và kinh tạng Pali nay đã dich Việt ngữ như
“Khởi Thế Nhân Bổn – số 27″ , Đại tạng kinh Việt Nam, Trường Bộ Kinh, tập 2, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr. 387. Kinh tương đương: “Kinh Tiểu Duyên – số 5” (Đại tạng Kinh Việt Nam, Trường A Hàm, tập 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr. 285).
(6) Chiếu lác: chiếu bằng cói lác là loại bình thường.
(7). Năm giáp ngọ 1945 chứ không phải mậu ngọ Pháp thua Điện Biên Phủ rồi rút lui khỏi Việt Nam.
(8).Tầm :tìm
(9) . Nhiều người bỏ nước đi ra biển cả mênh mông.
Có người vượt rừng núi rồi cũng không thoát khỏi chết thảm.
Tất cả đều chết hết không phân biệt. Đó là số trời!
(10).Xin trích một đoạn từ sách Hành Trình về Phương Ðông , nhà chiêm tinh Sudeih Babu (?-1918) nói về tương lai:
..." Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh cơ giới cùng thuyết "Tiến Hóa" của Darwin và phong trào Thiên Chúa giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh cấp giữa tinh thần và vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực gây nên phong trào Duy Tâm và Duy Vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của thuyết Duy Vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một cách mãnh liệt. Ðến khoảng 25 cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy Tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hóa tâm linh. Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ xụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu....
" Nguyễn Hữu Kiệt. Hành Trình Về Phương Đông.
(11). Lọp: dụng cụ đơm cá, bắt cá.
(12). Do sự tranh đấu của Gaghi, Ấn Độ độc lập 1947, nhưng người Anh chia Ấn Độ thành hai nước. Dân Hồi giáo lập thành nước Pakistan năm 1947. Nhưng lúc đó ông Ba đã cho biết là Ấn Độ (Chà Và ) là hai nước!
(13). Ngày xưa khi ăn ốc, người ta phải dùng gai mà khều con ốc ra. Còn Ấn Độ ăn bốc, không ăn đũa như ta.
(14). Xin xem thêm bài của
Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Văn Hiệp trong bài viết về "Ông đạo Nhỏ" tại
http://www.bskh.net/noidung_detail.php?newsid=86
http://www.bskh.net/noidung_detail.php?newsid=70
http://hoangson.lienminhdantocvn.com/#post2

TÀI LIỆU VỀ CÁC NHÀ TIÊN TRI

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG SỐ 101.
http://son-trung.blogspot.com


***
Để hiểu rõ tác giả và tác phẩm, xin xem thêm phần
Quý vị có thể đọc tại đây:

*


1 comment: