Pages

Monday, January 4, 2010

SƠN TRUNG * VỀ ÔNG NHẤT HẠNH

*

CẢM NGHĨ VỀ HAI BỨC THƯ CỦA ÔNG NHẤT HẠNH


Khổng tử dạy chính danh. Vua phải yêu dân, trọng kẻ hiền. Tàn ác như Kiệt , Trụ thì không thể gọi là vua. Phật dạy chúng ta trọng tam bảo nhưng những ác tăng, theo quân ác gian thì không xứng được tôn kính và cúng dường



Trong kinh điển tạng Pali, Phât dạy:
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn. (Tăng Chi. chuong3. 26-Cần phải thân cận).


Cộng sản bách hại tôn giáo, phản quốc, hại dân nên những ai theo cộng sản, nhất là những tín đồ các tôn giáo, những kẻ tu hành, đều không phải là người tốt ngoại trừ một số người bị cưỡng bách hoặc lầm lỡ mà theo cộng sản.Tôi không coi những người theo Cộng Sản là sư mặc dù trước đây họ quy y tam bảo và nay vẫn lấy họ Thích.



I. BỨC THƯ THỨ NHẤT

(Nhất Hạnh và Nguyễn Minh Triết)




Bức thứ thứ nhất cho ta biết ông Nhất Hạnh có tài và can đảm. Ông làm như ông xa lạ, không biết Nguyễn Minh Triết ở đâu và không có cách liên lạc với Nguyễn Minh Triết. Ông làm như ông là người quốc gia, nhà chân tu cả đời không hề giao tiếp với cộng sản! Không lẽ Nhất Hạnh không biết Nguyễn Minh Triết ở Hà Nội? Vậy thì trước khi về Hà Nội, gặp Nguyễn Minh Triết thì ông làm sao? Ông làm cách nào liên lạc với cộng sản Việt Nam, nay cần thì theo đường giây đó chứ? Ông giả bộ hay thiệt!



Khi liên lạc với cộng sản Việt Nam, và gặp Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Võ Nguyên Giáp, ông xưng là Thích Nhất Hạnh hay Nguyễn Lang? Tại sao nay ông không dùng tên Thích Nhất Hạnh mà lại xưng là Nguyễn Lang? Nếu đúng ra người dân khi gặp vua chúa thì phải xưng tên. Nếu ông là thần dân của Nguyễn Minh Triết thì phải xưng là Nguyễn Xuân Bổn mới phải! Không lẽ Thich Nhất Hạnh là một cái tên xấu xa nên ông không dùng? Hoặc ông tưởng thiên hạ không ai biết và cộng sản cũng không biết Thích Nhất Hạnh là Nguyễn Lang?

(Nhất Hạnh và Phan Văn Khải)



Bức thư thứ nhất cũng cho ta thấy một số nhà sư đã bắt tay cộng sản, nuôi nấng cộng sản, và chính nhà chùa, cũng như một số nhà thờ, thánh thất, tổ đình. . . cũng là ổ cộng sản. Bức thư thứ nhất cũng là một cách kể công (Việt cộng gọi là báo công) nhưng ông có biết bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên từng nuôi Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh để rồi bị cộng sản giết về tội địa chủ, và thằng con trai bà, một trung đoàn trưởng cũng phải tư tử vì CCRD? Và ông có biết Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , Lê Văn Hảo, Trương Như Tảng, Châu Tâm Luân, Đoàn Văn Toại. . . đã bị cộng sản đá lăn cù? Và ông có biết hoà thượng Đôn Hậu đã bị cộng sản cưỡng bách lên núi cho nên sau 1975, Ngài chống lại cộng sản như việc ngài không chịu làm dân biểu quốc hội và tái lập Phật Giáo Thống Nhất chứ không theo lũ quốc doanh như Minh Châu, Võ Đình Cường. . . Và bức thư này cho thấy một Nhất Hạnh nuôi nhiều ảo tưởng về cộng sản. Nhưng quỷ cao tay hơn ma, ma chơi với quỷ thì ma sẽ bị quỷ ăn thịt!Nếu ông có chút lương tâm thì nên sám hối!


II.BỨC THƯ THỨ HAI

Bức thư thứ hai quá dài so với bức thư thứ nhất. Bức thư này có thể chia thành hai phần. Phần đầu khá dài. Trọng tâm của phần đầu, Nhất Hạnh khoe khoang về thành tích của ông. Ông quá đặt nặng vào kỹ thuật "marketing" trước khi nói về nỗi khổ của các đồ đệ của ông ở phần thứ hai!


1. Về ngôn từ


Trong các sách và các tự điển, người ta nói Phật, Pháp Tăng là Tam bảo, còn Tam thân, là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân là nói về ba thân của Đức Phật. Chưa nghe ở đâu nói Phật Pháp Tăng là tam thân như ông Nhất Hạnh. Danh từ tăng thân là do ông đặt ra, mập mờ giữa tam thân và Tăng thân, trong khi đó ý nghĩa của Tăng thân theo ông Nhất Hạnh Tăng thân là đoàn thể mà ta đang nương tựa, sống chung để tu học , mà đoàn thể của ông lập ra không phải là một tăng đoàn vì trong đó có đủ hạng người hỗn tạp,có kẻ trục lợi, thân cộng và cộng sản kể cả Nhất Hạnh. Vì vậy đoàn thề này không thể gọi là Tăng đoàn được.



(Nhất Hạnh và Võ Nguyên Giáp)





2. Về hạnh phúc.

Nhất Hạnh đã nói đến "Nghệ Thuật Hạnh Phúc". Ở đời, có nhiều thứ hạnh phúc, ông muốn nói đến Hạnh Phúc nào? Cứ cho là ông nói đến an lạc nội tâm.

Ông viết:
Câu linh chú thứ năm nếu ta nhớ thực tập sẽ có hiệu lực tức thời, ai cũng công nhận như thế. Chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, thấy được rằng mình (tuy vậy mà) đang có rất nhiều may mắn (hơn nhiều người khác), là mình có thể mỉm cười và đọc lên câu: “Giây phút này là một giây phút hạnh phúc”, để cho những người đang có mặt cũng trở về được với giây phút hiện tại để được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc như mình.

Ai tu thiền đều có ich lợi. Tuỳ theo căn cơ mỗi người, không phải ai ngồi thiền một năm, niệm chú một tháng là đạt được an bình. Đa số là rất lâu mới biết đến mùi vị an lạc. Có khi cả đời cả kiếp.Vì vậy mà những ai nói hiệu lực ngay, giác ngộ tức thời e chỉ là hư dối!

Nay 400 đồ đệ của ông ở Lâm Đồng đã học nghệ thuật của ông, họ có hạnh phúc không khi bị cộng sản, những " đồng chí" , những " huynh đệ " của ông đánh đuổi? Và bản thân ông có hạnh phúc không khi những người theo ông thấy mình bị đày đọa, bị lừa dối?



3. Về tu hành tập thể:


Ông Nhất Hạnh viết về việc tu tập tập thể như sau:
"người tu nguyện suốt đời nương tựa Tăng thân, không bao giờ ly khai Tăng thân, cũng như chúa sơn lâm không bao giờ rời bỏ núi rừng thâm u của mình".

Tu tập tập thể là tốt nhưng tốt hay xấu còn tùy cá nhân.Chùa chiền chính là những nơi để cho tăng chúng tu tập dưới sự giảng dạy, rèn luyện của các vị sư tổ. Ban đầu, các vị sư độc hành, độc cư trong rừng sâu đã thành tựu. Đức Phật tổ giác ngộ là do thiền định một mình dưới cội bồ đề không phải là do việc tu tập tập thể. Đa số cư sĩ là tu tại gia, nghĩa là tu một mình, vừa lo mưu sinh, vửa lo tu tập.Như vậy, không thể chỉ đề cao tập thể mà quên vai trò cá nhân.

Nhưng thời buổi ma quỷ, bọn ác lợi dụng đám đông, dùng chùa chiền, giáo đường, thánh thất, tổ đình. . . để tuyên truyền, để lợi dụng cho nên việc tu tập tập thể, có thể là chướng ngại, vô tình tiếp tay cho kẻ xấu.

4. Về giới luật

Trong bức thư thứ hai, Nhất Hạnh đề cao giới luật. Trưóc đây, ông đã không còn ở trong giáo hội Phật giáo, và trong tác phẩm của ông, ông cổ võ việc sư lấy vợ và xướng xuất một đường lối hiện đại ( Hiện đại hóa Phật giáo) và chê giáo hội xưa là chật hẹp, bảo thủ và lạc hậu.. Và ông bỏ một số tiền lớn để bênh vực khủng bố và nói người Mỹ phá 300 ngàn nhà ở thị xã Bến Tre. Đó là một điều nói láo (xem phụ lục 3, 4). Nay ông lập tông phái mới, và tuyên bố " hành trì giới luật và uy nghi vững chãi" . Vậy giới luật đó là gì ?Thiên hạ đồn ầm lên ông cũng có thê thiếp nhưng ông lại bảo Các thầy đã xuất gia làm gì có vợ . . .Ông theo Ghandhi ca tụng đời sống sống phạm hạnh, buông bỏ dục tình một cách tuyệt đối, sống đơn giản, đi theo sự thật và nuôi dưỡng đức vô úy, không sợ hãi. Ông kết tội công an vu khống ông và tăng đoàn ông làm đủ chuyện chứ không thanh tịnh như ông tuyên bố.

Chúng ta chưa mở cuộc điều tra về việc này nhưng chính ông trong sách trước 1975 đã có ý ly khai giáo hội truyền thống, lập ra một giáo phái hiện đại mà tăng ni có thể lập gia đình. Ông
giống như những thanh niên trác táng, lúc trẻ thì đòi tự do, nay thì tuổi già lên giọng đạo đức , giới luật thì ai mà tin cho được?

5. Bắt tay với cộng sản

Như đoạn trên, chúng ta đã thấy một số sư và rõ ràng nhất là Nhất Hạnh đã theo cộng sản. Ông theo vì ông tin cộng sản, ông theo vì ông nghĩ rằng ông được họ tôn trọng, hứa hẹn vì ông có công giúp cộng sản trong quá khứ và giúp cộng sản thoát khỏi danh sách đàn áp tôn giáo. Nhưng ông đã bị cộng sản lừa. Ông cũng như Mặt trận giải phóng miền nam bị đánh đuổi sau khi họ thắng lợi. Nếu ông không bị lừa thì là ông gian trá.Người ta có thể nói vậy vì trong thư ông cho biết ông đã biết cộng sản ác ôn, xão trá:

Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn.

Ông mới biết hay biết từ lâu? Ông bắt tay với cộng sản, làm tôi tớ cho cộng sản, nay ông cũng như bọn Trương Như Tảng, Đoàn Văn Toại, Lê Văn Hảo mà cũng đòi tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ư?

Nếu ông biết cộng sản xấu xa như vậy, tại sao ông bắt tay với cộng sản và đưa các đồ đệ của ông ở Mỹ, Pháp về nơi đây?Nếu ông muốn dấn thân sao ông không ở lại Việt nam mà dấn thân và tranh đấu?

Nếu ông thực tâm tranh đấu cho tự do, dân chủ, cho Phật giáo và dân tộc, tại sao xưa nay ông chỉ làm lợi cho cộng sản? Sao ông biết cộng sản ở Bến Tre chỉ có 6, 7 tên, ông kết án Mỹ thả bom nhưng tại sao Việt Cộng tàn sát dân Huế, quê hương ông thì ông im miệng?

Ông muốn tranh đấu cho dân quyền, cho phát triển Phật giáo thì tại sao ông o bế Việt Cộng mà khộng tác với các hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ? Ông mất đất, bị đuổi chùa thì ông lên tiếng nhưng bao ngàn vạn dân oan bị cướp đất, cướp nhà thì ông im lặng? Bây giờ ông nói ông lên tiếng về Tây Tạng, về dân chủ với Nguyễn Minh Triết nhưng trước đây ông nói gì đâu? Và những điều đó có thực hay ông biạ đặt?

Hay khi ngồi với Nguyễn Minh Triết thì ông lạy lục, nịnh bợ chúng? Bây giờ bị cộng sản cho một phát đá hậu, ông mới chửi cộng sản thì quá muộn rồi! Ông có 50 ngàn đô, 60 ngàn đô tại sao ông không gíúp gì cho người Việt hải ngoại thất nghiệp, học sinh hải ngoại và trẻ con tàn tật ở Việt Nam mà lại đem quảng cáo cho bọn khủng bố? Nếu vì chính nghĩa, vì Phật giáo, tại sao khi bọn Taliban phá hủy tượng Phật ở Afghanistan ông không lên tiếng? Tôi nghĩ ông chỉ mang cái áo Phật giáo chứ tâm tư ông không phải vậy.



Tôi nghĩ rằng ông đã được cộng sản cho đi tàu bay giấy. Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp ông. Họ trải thảm đỏ cho ông bước lên trong khi Hoà thượng Quảng Độ bị cấm đoán và linh mục Nguyễn Văn Lý bị giam cầm!. Họ ra lệnh bọn quốc doanh hoan hô ông. Họ sai công an che lọng vàng cho ông. Ông khoái chí, ông tự đắc, ông sinh tâm kiêu mạn!Ông tưởng là cộng sản nay quỳ mọp dưới chân ông, đời đời nhớ ơn ông! Vì vậy mà ông mang ảo giác ở nhiều nơi như ở chùa Từ Hiếu trong khi Phật giáo thì khuyên ta đừng mê ảo giác, đừng bị ảo giác lường gạt . Chính ông đã viết



Có thể nói rằng giờ phút hào sảng nhất trong chuyến đi đã xảy ra tại chùa tổ Từ Hiếu, ngày mà tất cả các thầy và các sư cô của hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn quy tụ lại để tụng giới chung với nhau sau hơn mười năm bị chia rẽ. Thầy nhớ rất rõ cái hôm sau buổi pháp thoại tại chùa Từ Đàm thầy báo tin là cả hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn sẽ quy tụ về Chùa Tổ để tụng giới chung, tất cả mọi người đều đã khóc vì sung sướng!

6.Về mặt tổ chức


Về mặt này , Nhất Hạnh là người cẩu thả và thiếu từ bi. Lâm Đồng là nơi heo hút, thiếu thực phẩm, thiếu tiện nghi. Trong một cái chùa ở Lâm Đồng, dù to kiểu nào cũng khó chứa nổi 400 ngưòi ăn ở, thuốc men.Ông làm như thế là "đem con bỏ chợ".


Cũng về mặt tổ chức, ông đưa chừng ấy người vào Bát Nhã, nhất là trước đây ông đưa người ở Pháp, Mỹ về Việt Nam trong một chính thể cộng sản tàn ác, trong khi ông ung dung ở ngoại quốc thì rõ là ông thiếu sáng suốt, thiếu trách nhiệm.

Tôi nghĩ rằng Nhất Hạnh là một kẻ không có Giới Định Tuệ nên đã nghe theo Cộng sản, làm tay sai cho cộng sản.

Trước khi ông chưa viết hai bức thư
, có nhiều người độc mồm độc miệng, , cho rằng đấy chẳng qua là cái khổ nhục kế của ông và mưu sâu cộng sản để lấy tiền xuất cảnh . Việt Cộng và ông ở giữa thủ lợi.Tôi không tin sau vụ ông Mai Chí Thọ tổ chức vượt biên bán chính thức, lại có một "affaire" lớn lao như vậy do một người mặc áo cà sa đứng ra tổ chức!

Nay thì ông đã xin tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, xin cho 400 vị của Tăng thân Bát Nhã được tạm thời nương náu ở Pháp Quốc để tiếp tục thực tập như một Tăng thân, cho đến khi nhà nước Việt Nam mở lòng cho phép Tăng thân Bát Nhã cũng được làm như thế ở ngay trên quê hương của mình! Như vậy, 400 người này là ở Việt Nam, trong đó không biết có bao gián điệp cộng sản và bao triệu phú đỏ cài vào? Lời lẽ khôn ngoan, mưu kế thâm sâu! Diệu kế! Diệu kế! Thành công, thành công! đại thành công!

Tương lai sẽ rõ là người Pháp có dễ dàng mắc mưu họ hay không và sự việc có xảy ra như vậy hay không. Nhiều đồng bào thiếu thiện cảm với Nhất Hạnh và nghi ngờ Nhất Hạnh gian trá.


(Trần Tế Xương: Công đức tu hành sư có lọng!"





Không biết ý kiến nào đúng. Không biết Nhất Hạnh bị cộng sản lừa dối, lợi dụng hay cả hai đang băt tay nhau? Hay Nhất Hạnh lợi dụng cộng sản? Tuy nhiên qua việc này, các Phật tử thì nên thấu hiểu lời Phật dạy về tự lực. Giác ngộ là tự mình, đừng tin vào một ai. Đức Phật dạy trong kinh Kamala:

"Ðừng vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo. Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".

Tóm lại, đừng tin vào bộ áo thấy tu, bất cứ thầy tu tôn giáo nào, và đừng tin vào những lời gian dối của ma quỳ!




Để làm sáng tỏ vấn đề, xin đính kèm các phụ lục.
PHỤ LỤC 1

1. Thư của giáo sư Nguyễn Lang gửi Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết

Kính thưa Chủ Tịch,
Tôi không biết hiện giờ Chủ Tịch đang ở đâu, nên nhờ mạng Phù Sa gửi một bản thư này đến Chủ Tịch. Đây là một tiếng chuông chánh niệm. Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương nhờ.


Ngày xưa trong Cách Mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc và che chở. Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy đã tìm tới tỵ nạn nơi một chùa khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc).

Hiện thời cảnh sát và công an của Chủ Tịch lại đang vây quanh chùa Phước Huệ buộc các vị xuất gia ấy phải ra khỏi chùa trong đêm nay. Các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng. Tôi xin Chủ Tịch kịp thời ngăn chận hành động trái chống luân thường đạo lý này.
Trân trọng cảm ơn Chủ Tịch.

Tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận.”

II. PHỤ LỤC 2

2.Thư Thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi tu sinh Bát Nhã
2009-12-30

Thầy biết rằng trong giờ phút này các con phải đi tản mác nhiều nơi, không còn được ở chung tu tập như một Tăng thân nữa, nhưng thầy tin rằng lá thư này của thầy vẫn tới được với tất cả các con.

AFP photo


Phương Khê Nội Viện, những ngày cuối năm 2009

Thân gửi các con Bát Nhã của thầy,

Ngày Chủ Nhật 20-12-2009 vừa rồi, đại chúng bốn chùa Làng Mai đã tập họp tại Xóm Thượng để làm ngày chánh niệm. Đã sáu tháng nay, chùa Pháp Vân Xóm Thượng vì không có thiền đường nên đã phải tổ chức các khóa tu và các ngày sinh hoạt chánh niệm ở ngoài trời. Hôm Chủ Nhật vừa qua, thiền đường Nước Tĩnh của Xóm Thượng đã được hoàn tất, cho nên đây là lần đầu tiên đại chúng được sử dụng thiền đường trở lại. Thiền đường mới rộng và đẹp lắm, rộng và đẹp hơn thiền đường cũ nhiều.

Các thầy, các sư chú và các cư sĩ ở Xóm Thượng đã cùng nhau tự thiết kế và xây dựng nên thiền đường này, đã làm việc như một Tăng thân, và trong suốt sáu tháng trời đã có cơ hội nuôi dưỡng và làm lớn lên tình huynh đệ. Nhìn vào thiền đường ai cũng thấy được Tăng thân và tình huynh đệ ấy. Mỗi viên gạch, mỗi tấm ngói, mỗi khung cửa đều mang dấu tích của những tiếng cười, những ánh mắt, những bàn tay và những giọt mồ hôi của mỗi người trong đại chúng. Các thầy các sư chú của chùa Sơn Hạ cũng như các sư cô của các chùa Từ Nghiêm Xóm Mới và Cam Lộ Xóm Hạ cũng thỉnh thoảng lên góp công chấp tác một ngày. Thiền đường rất đẹp, nhưng nếu nhìn thiền đường mà chưa thấy được tình huynh đệ của Tăng thân thì vẫn chưa thấy được cái đẹp đích thực của thiền đường.

Chủ đề của khóa tu mùa An Cư Kiết Đông năm nay là Nghệ Thuật Hạnh Phúc, và đại chúng đã học xong được kinh Cát Tường, Kinh Mâu Ni và bài kệ truyền thừa của Pháp Phái Liễu Quán. Đại chúng thực tập câu linh chú thứ năm rất chuyên cần và nhận diện được rất nhiều những giây phút hạnh phúc được sống và được thực tập bên nhau. Những ngày xuất sĩ tổ chức hàng tuần tại Nội Viện Phương Khê đem tới rất nhiều nuôi dưỡng và hạnh phúc cho đại chúng.

Câu linh chú thứ năm nếu ta nhớ thực tập sẽ có hiệu lực tức thời, ai cũng công nhận như thế. Chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, thấy được rằng mình (tuy vậy mà) đang có rất nhiều may mắn (hơn nhiều người khác), là mình có thể mỉm cười và đọc lên câu: “Giây phút này là một giây phút hạnh phúc”, để cho những người đang có mặt cũng trở về được với giây phút hiện tại để được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc như mình.

Thầy rất mong là dù ở đâu, các con của thầy cũng theo dõi được các bài pháp thoại của khóa an cư kiết đông và cùng thực tập theo những chỉ dẫn được đưa ra trong suốt khóa tu. Các con của thầy cần được nuôi dưỡng bằng pháp lạc và sự thực tập mới có thể đi qua được giai đoạn khó khăn này của Tăng thân Bát Nhã. Thầy có niềm tin lớn nơi các con.


Các con đã lớn lên rất mau chóng nhờ những biến cố và khó khăn xảy ra cho chúng ta trong hơn một năm qua, và thầy rất hài lòng với cách thức hành xử từ hòa bất bạo động của các con, từ Bát Nhã tới Phước Huệ. Lịch sử đã ghi nhận rằng với cách hành xử từ hòa ấy các con đã gieo trồng và tưới tẩm được hạt giống niềm tin, hiểu biết và tình thương trong trái tim của rất nhiều người, trong số ấy có những người đã thuê hoặc đã được thuê tới quấy nhiễu và đàn áp chúng ta.

Đó là sự thành công lớn nhất mà chúng ta đã đạt được, lớn lao hơn bất cứ công trình xây dựng chùa tháp nguy nga nào. Ngày 18 tháng 12 vừa qua, thầy Trung Hải, sư cô Giác Nghiêm và một số các thầy và các sư cô khác đã đại diện Tăng thân Bát Nhã đến điện Elysées trao một lá thư gửi cho tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, xin cho 400 vị của Tăng thân Bát Nhã được tạm thời nương náu ở Pháp Quốc để tiếp tục thực tập như một Tăng thân, cho đến khi nhà nước Việt Nam mở lòng cho phép Tăng thân Bát Nhã cũng được làm như thế ở ngay trên quê hương của mình.


Thực ra, theo pháp luật hiện thời, chúng ta có quyền sống và tu tập bất cứ ở nơi nào trên quê hương mình, nhưng không biết vì sao chúng ta lại không được hưởng cái quyền ấy khi mà chúng ta không vi phạm bất cứ một pháp luật nào, khi mà chúng ta chỉ muốn tu tập và hướng dẫn tu tập trong khuôn khổ của pháp luật và của truyền thống Phật giáo. Dư luận trong nước và trên thế giới, trong giới Phật tử cũng như trong giới không Phật tử, đang yểm trợ cho chúng ta một cách rõ rệt, vì vậy thầy tin chắc là các con của thầy sẽ không phải gánh chịu những khó khăn này dài lâu.

Có nhiều thân hữu đã hiểu được cái thiết yếu phải thực tập với một Tăng thân, cho nên đã không có hạnh phúc khi được tin là chúng ta phải phát tán đi mỗi người một ngả, mạnh ai người ấy thực tập. Truyền thống Phật giáo nói chung và truyền thống Làng Mai nói riêng không chấp nhận được sự bức ép đó. Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại. Đó là câu nói tự ngàn xưa: thực tập mà không có Tăng thân thì sự thực tập sẽ tàn lụi, cũng như chúa sơn lâm khi lìa bỏ rừng núi xuống tới đồng bằng thì sẽ bị con người giết chết và lột da. Truyền thống của chúng ta là phải đi như một dòng sông, không thể nào đi như một giọt nước.

Giọt nước đi một mình thì trên đường về biển cả sẽ bị bốc hơi nửa chừng và không bao giờ tới biển. Trong chúng ta ai lại không thuộc bài hát “Xin nguyện làm dòng sông, không làm hạt nước nhỏ” của sư chị Hoa Nghiêm? Bởi vậy cho nên Tăng thân bị giải tán là tai nạn lớn nhất cho người tu. Người tu phải luôn luôn quy y Tăng bảo. Tăng là đoàn thể những người tu học, xây dựng Tăng đoàn có phúc đức bao nhiêu thì phá hoại Tăng đoàn cũng bị quả báo bấy nhiêu. Thầy rất sợ cho những người có ác ý muốn phá hòa hợp tăng. Đây là tội lớn nhất trong các tội. Nếu cho phép Tăng đoàn được cư trú tại Pháp, tổng thống Pháp sẽ có phước đức nhiều lắm, có phải không các con? Dù cho là cư trú tạm thời.

Mỗi người trong chúng ta đều có ba thân: Phật thân, Pháp thân và Tăng thân. Phật thân trong ta còn non yếu, phải được nuôi dưỡng bằng sự thực tập hằng ngày.

Đó là hạt giống của trí tuệ và từ bi trong ta, đó là Phật tính. Pháp thân là công phu thực tập của ta, có công năng nuôi dưỡng và làm lớn Phật thân. Còn Tăng thân là đoàn thể mà ta đang nương tựa, sống chung để tu học. Đoàn thể của ta là thân thể của ta, đoàn thể tan rã thì Tăng thân không còn. Tăng thân chính là môi trường bảo hộ, nuôi dưỡng và soi sáng cho ta. Ta phải nương vào Tăng thân, phải xem Tăng thân là thân của chính ta, những gì đang xảy ra cho Tăng thân là đang xảy ra cho chính ta.

Vì vậy cho nên người tu nguyện suốt đời nương tựa Tăng thân, không bao giờ ly khai Tăng thân, cũng như chúa sơn lâm không bao giờ rời bỏ núi rừng thâm u của mình. Mất Tăng thân là một tai họa lớn, vì vậy trong những năm tháng vừa qua, các con của thầy đã hết lòng hành xử bất bạo động để bảo hộ cho Tăng thân, để Tăng thân không bị tan rã. Những người đang có quyền bính trong tay cần phải hiểu biết điều này, và vì người ta chưa hiểu thì mình phải tìm cách giúp cho người ta hiểu. Đối kháng bất bạo động là biện pháp mà đức Thế Tôn đã sử dụng khi Tăng đoàn núi Thứu bị kỳ thị và đàn áp bởi vua A Xà Thế. Vua A Xà Thế đã cố tình chia rẽ Tăng đoàn, phá hòa hợp tăng, và những năm sau đó bị bệnh tâm thần, cuối cùng phải đến với đức Thế Tôn để cầu xin chữa trị. Đọc sách Đường Xưa Mây Trắng các con đã được biết chuyện này.

Mahatma Gandhi cũng đã từng sử dụng phương pháp đối kháng bất bạo động để tranh đấu cho chủ quyền độc lập của Ấn Độ. Ngài nói: “Đối kháng bất bạo động là một sức mạnh tâm linh, một sức mạnh không có gì so sánh nổi. Sức mạnh của nó vượt lên trên cả sức mạnh của quân đội và vũ khí. Đó không phải là khí giới của kẻ yếu đâu.” (Passive resistance, that is, soul force, is matchless. It is superior to the force of arms. Not the weapon of the weak.)

Câu nói bất hủ đó của thánh Gandhi được nói ra hôm 29-04-1933 và ngài phát biểu tiếp rằng muốn thành công trong sự nghiệp phụng sự quê hương, người thực tập hành xử bất bạo động phải quyết tâm giữ giới, vì chính giới luật giúp cho ta làm chủ được thân tâm mình, và càng thực tập giới luật chừng nào thì ta càng thấy rõ được diện mục ta chừng đó. “To observe morality is to attain mastery over our mind and our passion. So doing, we know ourselves.”

Và thánh Gandhi đã chia sẻ kinh nghiệm thực tập và tranh đấu của ngài một cách cụ thể. Ngài nói: “Sau một thời gian có nhiều kinh nghiệm tranh đấu, tôi thấy rất rõ ràng rằng những ai muốn tranh đấu cho quê hương bằng phương pháp bất bạo động đều phải nên giữ trai giới cho vững chãi, sống phạm hạnh, buông bỏ dục tình một cách tuyệt đối, sống đơn giản, đi theo sự thật và nuôi dưỡng đức vô úy, không sợ hãi.” (After a great deal of experience, it seems to me that those who want to become passive resisters for the service of the country have to observe perfect chastity, adopt poverty, follow truth and cultivate fearlessness.)

Thật sự thầy chưa bao giờ tưởng tượng được là những viên chức của một chính quyền lại có thể sử dụng những cách hành xử bá đạo như vậy. Tiền đâu để họ thuê côn đồ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân? Đạo đức cách mạng ở đâu? Tại sao mà đạo đức cách mạng lại bị phá sản tới mức tồi tệ đến thế?

Suốt trong thời gian tranh đấu, thánh Gandhi đã sống theo tinh thần này, đã ăn chay nằm đất, sống phạm hạnh, không gần gũi nữ nhân, nếp sống không khác gì với nếp sống của một nhà tu. Đội ngũ trong phong trào tranh đấu ấy đã có niềm tin rất lớn nơi con đường họ đi và cũng đã thực tập sống theo nếp sống khổ hạnh và chay tịnh ấy.

Phong trào tranh đấu được gọi là Satyagraha, nghĩa là nắm lấy sự thực, bám vào sự thực. Giữ tâm hồn cho trong sáng, không sử dụng bất cứ một biện pháp nào trái với đạo lý, luôn luôn tôn trọng sự thực. Đối phương có thể lừa gạt, dối trá, tráo trở, đê tiện trong những phương cách của họ, nhưng bên phía những người tranh đấu bất bạo động, đạo đức và sự thật phải là chất liệu, là nền tảng cho tất cả mọi hành xử và hành động. Bất bạo động không phải chỉ là hình thức bên ngoài mà là nội dung chất liệu của lý tưởng bên trong. Phải nuôi dưỡng từ bi, không hận thù, và có khả năng nhận chịu những bạo động mà không đánh trả, đúng với bốn cách thức xử sự mà Bụt căn dặn các thầy thực tập, và mỗi nửa tháng các vị khất sĩ phải tụng đọc một lần:

Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đùa diễu và khiêu khích thì không đùa diễu và khiêu khích trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta nhiếc mắng, nhục mạ thì không nhiếc mắng, nhục mạ trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đánh đập thì không đánh đập trở lại.
Con nguyện suốt đời,khi bị người ta giận thì không giận trở lại.

Bốn cách xử sự này, các con của thầy đã làm được trong những ngày bị côn đồ tấn công, và vì vậy cho nên các con đã có cơ hội giúp cho không biết bao nhiêu người cảm động và chuyển hóa. Các thầy Pháp Hội, Pháp Sỹ và Pháp Tụ đã bị lôi kéo, bóp cổ, liệng lên xe như những thùng rác, nghẹt thở, mặt bầm tím, cổ và vai chảy máu. Thầy Pháp Vinh bị đạp lăn lông lốc xuống lầu một, may mà thầy chưa bị gảy chân. Thầy Đồng Tịnh và em Bình Minh (bây giờ là sư chú trong cây Sen Hồng) bị đánh đến ngất xỉu mà không hề chống trả. Những côn đồ đến đánh phá bị mảnh kính làm đứt tay chảy máu đã được các sư cô băng bó và chăm sóc. Tất cả những hình ảnh ấy mà nhiều cái đã được ghi lại trong phim ảnh, đã làm chấn động tâm can của bao nhiêu người.

Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn. Chúng ta tu tập và tổ chức cho người khác tu tập để đối phó, ngăn ngừa và gột sạch những tệ nạn ấy, và đó là cách thức yêu nước yêu dân của chúng ta. Chúng ta là công dân của một nước độc lập, có hiến pháp, có luật pháp, chúng ta phải có quyền làm việc ấy. Không ai có thể tước đoạt quyền công dân ấy của chúng ta.

Và những điểm thầy đề nghị với nhà nước liên hệ tới sự tách rời chính trị ra khỏi tôn giáo v.v... những điểm đề nghị này thật ra đã không được xuất phát từ thầy mà đã xuất phát từ các thầy khác trong Giáo Hội.

Thầy đã lắng nghe các vị tôn túc, và đã ghi nhận nguyện vọng và nhận thức của các vị. Các vị không nói lên được, thì thầy nói giùm cho các vị,..Cũng như thầy đã lên tiếng về vấn đề Tây Tạng. Mình là một dân tộc từng bị khổ đau nhiều lần vì sự xâm lấn của phương Bắc, bây giờ một dân tộc khác đang bị rơi vào tình trạng ấy, nỡ nào mình không lên tiếng? Thầy lên tiếng thay cho cả một dân tộc, để nói lên một sự thực, biết rằng lên tiếng thì sẽ gặp khó khăn mà vẫn phải lên tiếng. Đó là lương tâm, đó là tình huynh đệ.

Trong chuyến về quê đầu tiên của thầy năm 2005, thấy những cổng chào đề các dòng chữ “thôn văn hóa”, “ấp văn hóa”, “khu phố văn hóa” v.v. thầy đã mừng thầm, nghĩ rằng đây là một chính sách thông minh và đúng lúc của nhà nước. Hỏi thăm, thầy được biết là chính sách thành lập những thôn những ấp văn hóa ấy là để đối phó với các tệ nạn xã hội đang bắt đầu lan tràn như ma túy, đĩ điếm, cờ bạc, bạo hành v.v. Nhưng sau đó chừng hơn một tháng thầy đã được báo cáo rằng nhà nước đã không thành công gì mấy với các ấp văn hóa, các thôn văn hóa kia. Chỉ có danh từ mà không có sự thật. Những biện pháp kiểm soát và trừng phạt không đủ để bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là khi những người đứng ra kiểm soát và trừng phạt cũng đang vướng vào các tệ nạn xã hội như tham nhũng, lạm quyền và dối trá.

Lúc đó, thầy thấy rất rõ ràng là chỉ có sự giáo huấn và hành trì của đạo đức thật sự mới có thể đối phó được với tình trạng. Các con đã biết là gia đình nào có hành trì năm giới là gia đình đó có hòa thuận, có hạnh phúc. Mà không ai có thể ép buộc mình hành trì năm giới nếu mình không có đức tin nơi giáo pháp và giới pháp. Cho nên trong khóa tu dành cho giới xuất gia tại tổ đình Từ Hiếu (từ ngày 07-03-2005 đến ngày 12-03-2005) thầy đã đưa ra mô thức một thôn xóm trong đó ngôi chùa đóng vai trò lãnh đạo tinh thần đạo đức; các thầy hoặc các sư cô trong ngôi chùa đó hành trì giới luật và uy nghi vững chãi, tổ chức những khóa tu cho người lớn và cho thanh thiếu niên, gây niềm tin nơi một con đường đạo đức tâm linh và khuyến khích sự tiếp nhận và hành trì năm giới, mỗi nửa tháng đến chùa tụng giới một lần và dự pháp đàm để kiểm điểm về công phu hành trì của mình. Đây không phải là một cái gì mới mẻ mà chỉ là công trình hiện đại hóa một truyền thống thực tập ngày xưa, và những người hướng dẫn thực tập phải có tư cách và khả năng hướng dẫn cho tuổi trẻ cũng như cho mọi giới kể cả giới trí thức, giới thương gia và chính trị.

Mà muốn được như thế thì phải bắt đầu đào tạo một thế hệ người xuất gia mới. Đó là nội dung của khóa tu tại tổ đình Từ Hiếu có gần cả ngàn vị xuất gia trẻ tham dự và những bài pháp thoại này như các con đã biết đã được in lại thành sách dưới nhan đề Xây Dựng Tình Huynh Đệ. Trong óc thầy, tu viện Bát Nhã lúc ấy đã được hình thành. Tu viện Bát Nhã là mẫu mực của một trong những trung tâm để đào tạo những người xuất gia mới như thế.

Giới luật và uy nghi không phải là những gì có tác dụng gò bó và làm mất bớt quyền tự do của con người. Giới luật và uy nghi, trái lại, có công năng bảo vệ tự do. Một người hành trì giới không uống rượu và không sử dụng ma túy có tự do gấp ngàn lần so với một người không trì giới ấy, vì người này khi bị vướng vào say sưa nghiện ngập thì không còn tự do nữa và sẽ sẵn sàng phạm vào các giới khác như nói dối, ăn cắp, giết người v.v. để có tiền mua ma túy.

Không giữ giới thì một gia đình ba bốn người cũng sinh ra lục đục, làm khổ cho nhau, ai cũng biết điều ấy. Có hành trì giới luật và uy nghi thì dù là một cộng đồng 400 người ở chung với nhau, chúng ta cũng vẫn sống được trong hòa thuận, tin yêu và hạnh phúc. Tăng thân Bát Nhã đã chứng thực được một cách hùng hồn như thế. Họ vu khống chúng ta, họ nói chúng ta không giữ giới, ăn nằm với nhau, để họ có cớ triệt hạ chúng ta. Thậm chí họ đem tài liệu khiêu dâm tới để vu cáo chúng ta. Đó là một trong những lối hành xử hèn hạ nhất. Ai cũng biết rằng không hành trì giới luật và uy nghi thì không thể nào tin nhau, sống với nhau, đoàn kết với nhau và thương yêu nhau như người ruột thịt như thế được.

Ngày xưa khi Bụt còn tại thế, một nhóm người ngoại đạo cũng đã từng vu oan cho giáo đoàn khất sĩ của Bụt như vậy. Trong khi các thầy đi vào thành Xá Vệ khất thực họ đã đem xác một người kỹ nữ chôn dấu vào đất tu viện Kỳ Viên và đi báo cảnh sát. Rồi họ tuyên truyền rằng các thầy ở tu viện không giữ giới. Vua Ba Tư Nặc và dân chúng trong thành Xá Vệ rất hoang mang. Nhiều thầy không dám đi khất thực. Bụt dạy các thầy: “Các vị đừng lo, sự thực sẽ được bung ra trong vòng mười hôm. Các vị hãy cứ đi vào thành khất thực như không có chuyện gì xảy ra.”

Hồi đó, thương gia Cấp Cô Độc đang có mặt. Ông đã nhờ thám tử đi dò hỏi và tìm ra được sự thật và cuối cùng cảnh sát đã bắt được những người chủ mưu. Họ khai rằng họ làm như thế bởi vì họ thấy giáo đoàn của Bụt nổi tiếng quá, dân chúng đi theo đông đảo quá và họ sợ sẽ mất chỗ đứng trong quần chúng. Vua Ba Tư Nặc, sau khi có được bằng chứng, đã trừng trị những người vu cáo một cách thích đáng.

Vụ Bát Nhã rắc rối hơn vụ Kỳ Viên, bởi vì trong vụ Bát Nhã và Phước Huệ, bọn côn đồ được thuê mướn và những nhà chức trách thuê mướn họ đã làm việc chung với nhau. Họ là hai mà họ cũng là một, trong khi vua Ba Tư Nặc là một người rất tôn quý đức Thế Tôn.

Chúng ta cũng đã có những Cấp Cô Độc vô danh đã từng giúp ta làm bung ra sự thực, nhưng chúng ta hiện không có một vua Ba Tư Nặc để trừng phạt bọn lạm quyền và gian dối. Nhưng chúng ta cũng còn may mắn, vì quần chúng trong nước và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc với sự thực, và dư luận đã đứng về phía chúng ta để lên án những người vô đạo.

Ba Tư Nặc ngày nay là dư luận quốc nội và quốc tế. Họ không thể nào che dấu hành động thấp hèn của họ được. Họ thuê côn đồ tới giả danh Phật tử để giăng biểu ngữ trước bàn Phật, để phá phách, đánh đập, khiêu khích, mong rằng các con sẽ phản ứng trở lại bằng bạo lực để họ có cớ bắt giam và lên án. Nhưng nhờ cách hành xử bất bạo động của các con, các nhà chức trách này đã thất bại hoàn toàn. Phật tử gì mà hành hung và chửi mắng các thầy, Phật tử gì mà mang dày dép vào chánh điện, Phật tử gì mà dám treo biểu ngữ ngay trước tượng Phật, Phật tử gì mà gọi các thầy là đồng chí, tại sao không về quê đi để sống cho gần cha, gần mẹ, gần vợ Các thầy đã xuất gia làm gì có vợ Tội nghiệp cho những người bị thuê làm côn đồ. Họ chỉ được thuê với giá 200.000 đồng một ngày và họ đã được Công An và Mặt Trận chỉ huy bằng những dấu hiệu và tiếng huýt gió.

Viết tới đây thầy thấy rất rõ nguyên nhân vì sao chính sách thôn ấp và khu phố văn hóa không thành công. Một chính sách mà do những viên chức thừa hành không có đạo đức phụ trách thì làm sao thành công được? Nếu các viên chức này tham nhũng, lạm quyền, khi mà gia đình của họ là nạn nhân của tệ nạn xã hội thì làm sao họ có thể thành công trong sự hướng dẫn và xây dựng những thôn ấp và khu phố văn hóa? Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm đã thất bại với chính sách “ấp chiến lược” thì nhà nước hiện tại cũng đã không thành công với chính sách “thôn ấp, khu phố văn hóa.”

Công an, Chính quyền địa phương và ban Tôn giáo, bằng hành động và bằng các văn thư của họ đã và đang làm ngược lại với luật pháp, hiến chương và với cả pháp lệnh tôn giáo, do đó chúng ta phải có bổn phận giúp cho quốc dân và các cơ quan lập pháp và hành pháp trung ương thấy được những sai trái đang gây đổ vỡ nặng nề trên đất nước và trong lòng dân.

Thầy tự hỏi không biết vị nào đã quyết định sử dụng từ văn hóa thay vì từ đạo đức? Một ý thức hệ lên án tôn giáo, cho tôn giáo là thuốc phiện, thì sẽ cảm thấy không thoải mái khi sử dụng từ đạo đức. Nhưng tại sao trong những buổi đầu cách mạng, chúng ta đã nói tới đạo đức cách mạng? Có lẽ vì đạo đức cách mạng đã bị phá sản cho nên danh từ đạo đức đã không còn chuyên chở được gì nhiều nữa.

Từ văn hóa có thể đi đôi với văn minh, cũng như từ culture có thể đi với từ civilization. Nó không chuyên chở được ý niệm luân thường, đạo đức. Nhưng tại sao lại không dùng từ phong hóa? Trong quá khứ tổ tiên chúng ta đã dựng nên một nếp sống đạo đức lành mạnh, với sự góp công của ba nền đạo học là Khổng học, Lão học và Phật học. Dựa vào truyền thống là đi ngược với chủ thuyết mới hay sao? Cái đẹp nhất của đạo Bụt là tinh thần bao dung, không giáo điều, không cố chấp, không có nhu yếu loại trừ những truyền thống khác. Đó là nghĩa chữ xả trong bốn đức từ, bi, hỷ và xả. Xả (upeksa) là sự không kỳ thị, là tinh thần bao dung. Đạo Bụt trong quá khứ đã góp phần vào sự tạo dựng tinh thần tam giáo tịnh lập, tam giáo đồng nguyên, để ba truyền thống Phật, Nho và Lão có thể đứng bên nhau mà xây dựng đất nước.

Trong chuyến về năm 2005, tại buổi thuyết giảng tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ở Sài Gòn, có một vị thính giả đã đặt câu hỏi: Nếu quy y Tam Bảo rồi thì ta có quyền yêu Đảng và yêu Nước không? Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng nói lên được tất cả những lo ngại của những người muốn trở về với con đường tâm linh mà tổ tiên ngày xưa đã dày công khai mở, nhưng còn chưa dám.


Thầy đã trả lời bằng một câu hỏi khác: Nếu quy y mà mất tự do, không còn được yêu những gì mình muốn yêu thì quy y làm gì? Tiếng vỗ tay vang dậy hội trường. Giờ phút ấy đánh tan được bao nhiêu là băng giá. Quy y rồi thì ta sẽ yêu nước và yêu Đảng đúng hơn và hay hơn. Đất nước ta dân tộc ta đã từng được đạo Bụt giáo hóa, đã được hưởng cái hạnh phúc do tinh thần bao dung đưa lại. Tại sao ta không được trở về nguồn? Tại sao người ta lại sợ tinh thần bao dung? Tại sao người ta không thấy được rằng nếu tư duy được theo chiều hướng bất nhị, phá chấp và bao dung thì nhân loại sẽ tiết kiệm được biết bao nhiêu là máu xương và nước mắt?

Những lời thầy viết cho các con, thế nào các chú công an cũng sẽ tìm đọc. Điều này theo thầy cũng rất tốt vì thầy tin mọi người đều có Phật tính, nghĩa là có hạt giống của trí tuệ và từ bi. Tưới tẩm những hạt giống ấy thì rất có phước. Nhiều chú Công an đã được các con chuyển hóa.

Còn nếu những dòng thầy đang viết đây lọt vào mắt của những vị trong ban chấp hành Trung Ương Đảng, trong ban Tuyên Giáo, trong các hội đồng cấp cao của nhà nước thì sao? Thầy nghĩ các vị ấy sẽ chau mày, sẽ nói rằng đây là những sai sót của cấp thừa hành, rằng con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng sự thực là quý vị ấy đã để cho cấp thừa hành làm như thế rồi báo cáo lên không đúng sự thực và lôi cuốn luôn quý vị ấy đi theo.


Như vậy thì thì quý vị ấy cũng không đổ trách nhiệm cho người khác được. Giới nhân sĩ trí thức trong nước đã đề nghị quý vị ấy mở một cuộc điều tra để làm sáng tỏ sự thật. Những sai lầm phạm phải trong những năm qua, những tham nhũng, lạm quyền, lừa gạt và dối trá ấy phải được đưa ra ánh sáng và phải có sự trừng phạt công minh thì họa may dân chúng trong nước mới có được niềm tin nơi guồng máy chính quyền, và chính quyền mới có thể tiếp tục “cai trị” được.

Trong chuyến về nước đầu vào năm 2005, sau ba mươi chín năm ở hải ngoại, thầy đã hết lòng thực tập lắng nghe mọi giới và đã có một cái thấy tương đối chính xác về tình trạng. Thầy đã nói: Trong chuyến về thăm này, tôi chỉ có một thông điệp, đó là không có gì cao quý hơn tình huynh đệ. Có thể nói rằng giờ phút hào sảng nhất trong chuyến đi đã xảy ra tại chùa tổ Từ Hiếu, ngày mà tất cả các thầy và các sư cô của hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn quy tụ lại để tụng giới chung với nhau sau hơn mười năm bị chia rẽ. Thầy nhớ rất rõ cái hôm sau buổi pháp thoại tại chùa Từ Đàm thầy báo tin là cả hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn sẽ quy tụ về Chùa Tổ để tụng giới chung, tất cả mọi người đều đã khóc vì sung sướng.

Có rất nhiều vị tôn túc trong giáo hội rất muốn che chở cho các con Bát Nhã của thầy. Các vị ấy đã cố gắng lên tiếng nhiều lần, thậm chí đã đưa ra đề nghị bảo lãnh để cho các con có pháp lý tu học, nhưng vì giáo hội không có giáo quyền thật sự cho nên những đề nghị ấy đã bị Công An và Ban Tôn Giáo nhà Nước bác bỏ. Đất nước chúng ta chưa thực sự có tự do tôn giáo, và nhà nước đang quản lý chặt chẽ guồng máy giáo hội, và giáo hội bất lực không che chở được ngay chính con em của mình. Đó là một sự thực ai cũng đã trông thấy. Làm sao che dấu được?

Công an, Chính quyền địa phương và ban Tôn giáo, bằng hành động và bằng các văn thư của họ đã và đang làm ngược lại với luật pháp, hiến chương và với cả pháp lệnh tôn giáo, do đó chúng ta phải có bổn phận giúp cho quốc dân và các cơ quan lập pháp và hành pháp trung ương thấy được những sai trái đang gây đổ vỡ nặng nề trên đất nước và trong lòng dân.

Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức. Ngày xưa Siddhartha cũng đã từ khước con đường chính trị để đi vào con đường tâm linh đạo đức. Và Siddhartha cũng đã gặp khó khăn. Chúng ta tu tập để vực dậy một nền văn hóa lành mạnh, một nếp sống có phẩm chất đạo đức và từ bi, và cách tranh đấu hay nhất của chúng ta là tu học và tổ chức tu học.

Nhưng thầy không bi quan. Thầy tin chắc rằng tình trạng sẽ thay đổi. Lý do là các con đang có mặt đó. Tuổi trẻ Việt Nam đã bắt đầu thấy sự thật và biết là mình đang mong ước gì cho quê hương cho đất nước. Người thanh niên Việt Nam dù đang theo học trong nước hay đang du học ở nước ngoài đều đã thấy được rằng chúng ta cần có thêm dân chủ, có thêm dân quyền và nhân quyền thì người dân chúng ta mới có cơ hội đóng góp cho đất nước và đưa đất nước đi lên. Trong thời đại này đất nước không thể nào còn bế môn tỏa cảng được. Phải mở cửa và cộng tác với các quốc gia khác. Và phải tuân theo luật lệ quốc tế, trong đó có sự tôn trọng nhân quyền. Các con Bát Nhã của thầy đã chọn con đường tranh đấu bất bạo động và đã đem hết niềm tin của tuổi trẻ để làm việc ấy. Trái tim không hận thù của các con, trái tim của tình huynh đệ ấy đã làm cảm động lòng người.


Giới Phật tử trong và ngoài nước đang yểm trợ cho các con đã đành, mà tất cả các giới khác cũng thế. Các con không lẻ loi trên con đường của mình đâu. Con đường tuy khó khăn nhưng con đường rất đẹp. Thầy rất hạnh phúc khi thấy rằng thầy đã được các con tiếp nối. Dù trong số chúng ta còn có những người còn non yếu, nhưng trái tim của chúng ta luôn luôn trong sáng và hiền hậu. Chúng ta đi như một dòng sông, vừa đi lên vừa học hỏi và chúng ta cũng sẽ được tiếp nối bằng những thế hệ đi sau. Chúng ta có một con đường. Một con đường thật sáng mà tổ tiên đã khám phá.

Thầy đã đọc chăm chú tất cả các lá thư mà các con đã gửi cho Thầy. Đôn Nghiêm nói: “Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nảy hạt bồ đề.” Áo Nghiêm nói: “Trên con đường mình đi, con đã tìm được những người anh em cùng chí hướng. Dù có gì xảy ra cho con đi nữa, con vẫn không hổ thẹn với tổ tiên và với bạn bè năm châu.”

Hôm quý vị tôn túc Lâm Đồng về bố tát tụng giới ở Phước Huệ, vì thương cảm cho tình cảnh các con, tất cả quý vị đã khóc, và tất cả các con đã có dịp cùng khóc với quý vị. Giờ phút đó rất đẹp. Đó là một cơn mưa cam lộ. Lịch sử đã ghi chép giờ phút ấy.

Đôn Nghiêm là một trong những đóa Sen Trắng, chưa đầy 18 tuổi. Bài thơ của sư em gửi thầy có giá trị của một bài kệ kiến giải mà chính em cũng không biết. Bát Nhã đối với em đã là những năm tháng hạnh phúc vì ở đấy em đã được sống trong lý tưởng và tình huynh đệ. Bát Nhã cũng đã là những dòng nước mắt khổ đau, chảy dài trong những ngày bị đánh phá và áp bức.

Bát Nhã đã trở thành huyền thoại, đã thành chuyện ngày xưa, nhưng Bát Nhã không mất mà chỉ trở thành mưa. Những trận mưa Bát Nhã đã rơi xuống mặt đất và đã làm nẩy lên hạt giống Bồ đề, hạt giống bồ đề trong trái tim của Đôn Nghiêm, trong trái tim của các con và trong trái tim của bao nhiêu người trẻ khác. Đó là những hạt giống Kim cương bất hoại, không có ngọn lửa nào có thể đốt cháy. Bát Nhã sẽ tái sinh trong những hình thức mới vì hạt giống Bồ đề của nó đang có mặt khắp nơi. Phải thấy Bát Nhã trong những hình thái vô tướng và đa tướng của nó. Đôn Nghiêm đã thấy được, nên Đôn Nghiêm không còn khổ đau, không còn lo sợ. Bát Nhã của Đôn Nghiêm sẽ còn mãi mãi.

Với cái thấy ấy, những con người như Đôn Nghiêm sẽ không bao giờ chùn bước, sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Vì vậy thầy không hề bi quan. Thầy tin ở tuổi trẻ Việt Nam. Thầy không cần phải dặn dò các con phải làm cái này cái nọ. Ngay trong tình trạng của mình và của đất nước, các con tự biết là phải làm gì và chắc chắn các con sẽ thực hiện được chí nguyện của mình. Đó là tại vì tâm bồ đề của các con đang có mặt. Vì vậy cho nên thầy có niềm tin nơi các con.

Ngày 06-12-2009 vừa qua, từ Mai Thôn thầy đã có dịp thuyết trình cho Hội Nghị Thượng Đỉnh Tôn Giáo ở Melbourne Úc Châu bằng phương tiện viễn thông. Thầy đã chia sẻ với các nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đang có mặt tại hội nghị về cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Thầy đã nói về năm giới tân tu của chúng ta như con đường mà nhân loại có thể sử dụng để ra khỏi tình trạng khó khăn, cứu vớt được hành tinh và đem lại hòa bình an lạc trên thế giới. Năm giới tân tu trong văn bản mới là hoa trái của công phu tu tập của Tăng thân trong hơn tám tháng trời. Đó là con đường do Bụt khai mở. Đó là đóng góp của đạo Bụt cho nhân loại, rất cần thiết cho giai đoạn toàn cầu hóa này.

Chúng ta đã có con đường, chúng ta đã có niềm tin, chúng ta đã có nhau như một Tăng thân thì chúng ta không cần phải lo lắng nữa. Nói như sư chú Pháp Đại: “Chúng con biết ngoài việc tu tập thì chúng con không cần phải lo lắng gì thêm. Chúng con nguyện sẽ tu tập tốt hơn để không phụ lòng thầy tổ.” Nghe các con nói những câu như thế, thầy biết là thầy đang có niềm tin nơi các con.

Thầy Bát Nhã của các con (như một số các con đã gọi thầy!),

Nhất Hạnh


1. Để hợp thức hoá tình trạng phá giới của mình, ông đã đưa ra một phương thức tu tập mới để thanh minh hành động của mình bằng cách ra cuốn Phật Giáo Hiện Đại Hoá xuất bản tại Sàigòn vào tháng 5-1965.

Ngày 11 tháng 9 năm 2001 là ngày mà Hoa Kỳ và cả Thế giới sửng sốt và đau thương vì khủng bố đã dùng phương tiện của chính người Mỹ đánh sập toà tháp đôi tại New York khiến trên 3000 người bị chết thảm, Nhất Hạnh phải là người cầu kinh để chia xẻ niềm đau thương nầy, trái lại, vào ngày thứ ba, 25-9-2001 lúc 7 giờ chiều, ông
đến Riverside Church ở thành phố New York kêu gọi hoà giải với những tên khủng bố, lại còn quảng cáo rùm beng trên tờ New York Times nguyên 2 trang A 5 và A 22 tốn hết 45,000 USD; trong đó có đăng câu trả lời của ông do ký giả Anne A Simpkinson hỏi, ông nói trong vụ Mậu Thân 1968, chỉ có vài tên du kích bắn vu vơ, lập tức Mỹ đem bom tới dội, tàn phá thành phố Bến Tre làm hư hại 300,000 căn nhà. Đây là đoạn văn được đưa lên tờ New York Times số ra ngày 25-9-2001, có cả hình ông ngồi chắp tay như đang cầu nguyện !

Sự thật thì trong vụ Mậu Thân 68, VC đã tấn công Thị xã Trúc Giang của tỉnh Bến Tre vào lúc 3 giờ sáng rạng ngày mồng 3 Tết âm lịch. Chúng đã pháo vào toà Hành Chánh tỉnh và Bản Doanh trung đoàn 10 của sư đoàn 7 bộ binh rất ác liệt nhưng không chiếm được. Đến 10 giờ sáng, 2 tiểu đoàn 3 và 4 của trung đoàn 10 BB chiến đấu dũng cảm trong thị xã và đã đẩy lui được VC ở khu vực Toà Hành Chánh, Bản Doanh Trung đoàn và bệnh viện thị xã. Các khu vực thương mãi, VC vẫn chiếm giử các cao ốc, trừ đài phát thanh. Đến chiều, 2 tiểu đoàn thuộc lử đoàn 2 bộ binh Hoa Kỳ tăng viện. Vào ngày mồng 4 tết, VC bỏ chạy để lại trận địa 300 xác và hơn 100 vũ khí đủ loại. Phía thuờng dân có 90 người chết và 50% nhà cửa bị hư hại. Chợ Thị xã Trúc Giang bị hủy hoại hoàn toàn. Tham dự trận đánh nầy, VC đã huy động 2000 lính chiến đấu gồm 2 tiểu đoàn tân lập 3 và 4, hai đại đội địa phương, nhiều trung đội du kích và dân quân. Thế nhưng Nhất Hạnh đã ăn gian, nói dối với báo chí quốc tế với dụng ý bôi nhọ quân đội Mỹ và quân lực VNCH. Trong khi đó tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế là sinh quán và nơi tu học Phật Pháp của ông, trong vụ Mậu Thân đồng bào của ông đã bị VC chôn sống, bị chém giết dã man, ông không lên án hành động bất nhân nầy cũng như chẳng có một lời phân ưu, chia buồn đến đồng hương của mình !
http://toandanlentieng.blogspot.com/2009/10/thien-su-nhat-hanh-la-ai.html

IV.PHỤ LỤC 4

Lời tác giả: Bài viết này được lược trích từ bài “Sự Thật Che Giấu Sự thật” và đổi lại tựa đề cho đúng với hoàn cảnh thực tại của Sư ông Nhất Hạnh . Sư ông Nhất Hạnh đã phản bội lý tưởng của ông ta qua hai hành động về Việt Nam để

1) giải độc cho CSVN trong thời điểm mà Thế giới lên án CSVN đang khốc liệt đàn áp Tôn giáo, và 2) bành trướng môn phái Tu sĩ có quyền lấy vợ. ... Người viết xin được đưa ra một số sự thật như sau: Sự thật về sự khủng bố: 1) Vào ngày 11.9.2001, đã có trên dưới 7 ngàn dân Mỹ và các dân khác trên thế giới đã bị thiệt mạng dưới những khối bê tông cốt sắt khổng lồ tại Nữu Ước và Ngũ Giác Đài – Đó là sự thật! 2) Qua quá trình điều tra của cơ quan FBI, chính thực rõ ràng tên trùm khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn đã trực tiếp gây ra vụ thảm sát đẫm máu này – Đó là sự thật! 3) Nếu vì lý do bất đồng chính kiến với một thể chế chính trị nào đó, Laden có thể nhắm ngay đầu não của một chính quyền, là một chuyện khác; nhưng thật sự Laden đã cố tình giết hại những người dân vô tội tại Trung tâm Mậu dịch Quốc tế . Rõ ràng Laden và đồng bọn là những tên sát nhân, thú vật, mất hết lương tri, cố tình diệt chủng, không thua gì Cộng sản Việt Nam– Đó là sự thật! 4) Chính quyền Taliban đã đập nát tất cả những tượng Phật, di tích Phật giáo có tầm cỡ lịch sử, hủy diệt một nền văn hóa có tự ngàn xưa, đã chứng tỏ cho thế giới thấy được sự thật về những hành động dã man của bọn chúng . Thể chế chính quyền Taliban hiện nay đang diệt chủng, diệt tông, không thể tha thứ – Điều này không thể chối cãi! Sự thật về Thiền sư Nhất Hạnh: 1) Thiền sư Nhất Hạnh đã cố tình quên đi hành động dã man của tập đoàn khủng bố, mặc nhiên trước những sinh linh vô tội, nỗi đau đớn của thân nhân và nhân dân Hoa Kỳ, nỗi lo sợ của toàn thế giới trước âm mưu tiêu diệt nhân loại của tập đoàn này qua biến cố vừa qua . Trước nỗi thống khổ của nhân loại, Thiền sư đã không thể hiện tinh thần Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh qua lời Phật dạy trong Lục Độ Thập Kinh: “Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu muôn dân ra khỏi chốn lầm than” . Đó là sự thật! 2) Từ ngày bọn Cộng sản áp đặt nền chuyên chính trên toàn nước Việt, chúng ra sức bóc lột nhân dân, tham nhũng cực độ, đàn áp khốc liệt, tiêu diệt tôn giáo, khủng bố chứng nhân và các nhà ái quốc yêu tự do, thủ tiêu Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Trí Thủ… giam cầm và quản chế Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ… thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một Giáo hội Dân lập được truyền thừa gần 2000 năm của Lịch Đại Tổ Sư, một Giáo hội đã dày công nuôi dưỡng Thiền sư Nhất Hạnh và nhờ sự trưởng dưỡng đó mới được đến ngày nay, thế mà khi Giáo hội trong cơn Pháp nạn, kêu cứu từ hơn một phần tư thế kỷ qua mà sư vẫn thiền, vẫn còn tự cho mình là “nhất hạnh” . Đó là sự thật! 3) Sư Nhất Hạnh đã chọn thành phố New York để tổ chức một buổi thuyết trình, Thiền sư đã quảng cáo 2 lần, một lần ¼ trang và sau đó quảng cáo nguyên trang . Trong quảng cáo có đăng bài thơ với phần ghi chú rằng, Bến Tre - thị xã ba trăm ngàn dân - đã bị phá hủy chỉ vì 7 du kích bắn vu vơ. Trong quảng cáo lần thứ nhì, con số “7” bị rút đi vì gặp sự phản ứng của dư luận, nhất là qua cuộc Họp Mặt Cho Sự Thật tại miền Nam Cali vào ngày 14.10.2001 đã minh xác lời của Thiền Sư Nhất Hạnh là sai trái . Đó là sự thật! 4) Sư Nhất Hạnh đã buộc tội quân đội Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh Hoa Kỳ một cách hàm hồ như sau: - Chỉ có “7” hoặc “vài” du kích quân Việt Cộng vào thành phố . - Du kích quân bắn máy bay Mỹ, không trúng . - Du kích quân rút đi . - Mỹ ném bom hủy diệt thành phố ba trăm ngàn dân Bến Tre . - Viên chức Mỹ tuyên bố: hủy diệt thành phố Bến Tre để cứu nó . ... Những hành vi như đã kể ra ở trên chứng tỏ Thiền sư Nhất Hạnh đã đi ngược lại với nguyện vọng đấu tranh cho công lý của mọi người, thiết thực nhất là nguyện vọng đấu tranh đòi hỏi Cộng sản phải thực thi tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam của toàn thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại . . . .Phạm Cố Quốc http://www.thienlybuutoa.org/Misc/SuPhanBoi.htm
*



No comments:

Post a Comment