Pages

Monday, June 21, 2010

WIKIPEDIA * PHAN BỘI CHÂU

*


Phan Bội Châu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Phan Bội Châu


PhanBoiChau.jpg
Tên: Phan Bội Châu
Hán-Nôm: 潘 佩珠
Tên thật: Phan Văn San
Tự: Hải Thu
Ngày sinh: 26 tháng 12 năm 1867
Ngày mất: 29 tháng 10, 1940 (72 tuổi)
Tên khác: Sào Nam
Thị Hán
Độc Kinh Tử
Việt Điểu
Hàn Mãn Tử

Phan Bội Châu (chữ Hán: 潘佩珠; 26 tháng 12 năm 186729 tháng 10 năm 1940) là một nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động dưới thời kỳ Pháp thuộc. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du. Không những thế, ông cũng viết thơ và tiểu thuyết, với những bút danh Hải Thu, Sào Nam, Thị Hán, Độc Tỉnh Tử,… [1]

Mục lục

Thân thế

Phan Bội Châu tên thật là Phan Văn San (潘文珊)[2], tự là Hài Thu, bút hiệu là Sào Nam (巢南)[3], Thị Hán (是漢), Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v. Theo gia phả họ Phan, ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, cha là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông nổi tiếng thông minh từ bé, năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện. Thuở thiếu thời ông đã sớm có lòng yêu nước. Năm 17 tuổi ông viết bài "Hịch Bình Tây Thu Bắc" đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kì khởi nghĩa kháng Pháp. Năm 19 tuổi (1885) ông cùng bạn Trần Văn Lương lập đội nghĩa quân Cần Vương chống Pháp nhưng việc không thành.

Gia cảnh khó khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi, nhưng thi suốt 10 năm không đỗ, lại can tội "hoài hiệp văn tự" (mang văn tự trong áo) án ghi "chung thân bất đắc ứng thí" (suối đời không được dự thi). Năm 1896, ông vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan xin vua Thành Thái xóa án "chung thân bất đắc ứng thí". Khi được xóa án, ông dự khoa thi hương năm Canh Tí (1900) ở trường Nghệ và đậu Giải nguyên[4]. Có tài liệu cho rằng bài làm của ông quá xuất sắc đến nỗi khi yết bảng, trường thi đã làm 2 bảng, 1 bảng ghi 5 chữ to "Giải nguyên Phan Bội Châu", bảng kia ghi tên những người thi đỗ còn lại. Câu "Bảng một tên lừng lẫy tiếng làng văn" từ đó mà ra.

Hoạt động Cách mạng

Phong trào Đông du

Phan Bội Châu (ngồi) và Cường Để (đứng) tại Nhật Bản

Trong vòng 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, ông bôn ba khắp nước Việt Nam liên kết với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại để cùng họ chống Pháp. Ông chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để - một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn - làm lãnh tụ phong trào Cần Vương.

Năm 1904, ông cùng 20 người họp mặt tại Quảng Nam để thành lập Hội Duy Tân.

Năm 1905, ông cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để gặp gỡ các nhà cách mạng Nhật Bản và Trung Quốc và cầu viện trợ tài chính cho phong trào do ông thành lập. Tại Trung Quốc ông gặp Lương Khải Siêu, và được khuyên nên dùng thơ văn để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Nghe lời khuyên, ông viết nhiều tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước (xem bên dưới). Cùng thời điểm này, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đánh tan tác Hải quân Đế quốc Nga trong trận hải chiến tại eo biển Tsushima. Chiến thắng của đế quốc Nhật Bản trước đế quốc Nga trong chiến tranh Nga-Nhật đã tạo nên nhiều quan trọng các phong trào chống thực dân ở châu Á. Do đó, các tác phẩm của ông đã tạo nên một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông Du, xuất ngoại học tập để tìm đường chống Pháp.

Năm 1906, Phan Bội Châu đưa Kì Ngoại Hầu Cường Để và một số học sinh người Việt khác sang Nhật. Cũng trong năm đó ông mời được Phan Chu Trinh, một nhà cách mạng nổi tiếng khác, đến thăm ông tại thủ đô Tokyo. Sau hai tuần thảo luận, hai người không giải quyết được bất đồng chính kiến về cách chống Pháp. Trong khi Phan Bội Châu muốn giữ thể chế quân chủ, Phan Chu Trinh muốn hủy bỏ chế độ này để tạo một quốc gia dân chủ.

Năm 1907, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Cống Hiến Hội, một phong trào gồm có 100 học sinh du học ở Nhật. Việc này có ý nghĩa tượng trưng vì những học sinh có được cơ hội để cộng tác với nhau với tư cách là những người Việt, không phải người Bắc Kì, Nam Kì hay Trung Kì mà người Pháp đã chia ra. Tuy nhiên, dưới áp lực của Pháp, Nhật Bản đã trục xuất họ trong năm sau.

Trong năm 1907, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập để huấn luyện các nhà cách mạng chống thực dân Pháp. Các tác phẩm của ông được nghiên cứu và Phan Chu Trinh giảng dạy tại trường này. Nghi rằng Phan Bội Châu có liên quan đến trường này, Pháp đã đóng cửa trường trong vòng gần một năm. Họ cũng cho rằng ông có trách nhiệm trong các cuộc biểu tình chống thuế tại các tỉnh Quảng NamQuảng Ngãi cũng như tại Huế vào đầu năm 1908. Ngoài ra, họ còn cho rằng ông có dính líu đến một cuộc nổi dậy bị thất bại tại Hà Nội vào tháng 6 năm 1908. Pháp đã xử tử 13 người tham gia cuộc nổi dậy này và bỏ tù hàng trăm người khác tại Côn Đảo (trong đó có Phan Chu Trinh).

Hoạt động ở Trung Quốc

Sau Chiến tranh Nga-Nhật, đế quốc Nhật Bản dù thắng trận nhưng nền kinh tế cũng phải chịu nhiều gánh nặng. Nhật Bản cần rất nhiều vốn để tái thiết, đầu tư vào kinh tế. Chính phủ Pháp đồng ý cho Nhật Bản vay 300 triệu franc, nhưng đổi lại, về mặt chính trị Nhật Bản phải hợp tác với Pháp chống lại phong trào Đông Du. Vì lí do đó, tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu bị Nhật Bản trục xuất. Sau đó, ông đến Hồng Kông, BangkokQuảng Châu. Trong những năm này, các tác phẩm cách mạng của ông ảnh hưởng đến phong trào chống Pháp ngay tại Việt Nam.

Năm 1912, nức lòng vì thành quả của cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc của Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng quốc gia Việt Nam lưu vong tại Quảng Châu thành lập một tổ chức cách mạng thay thế cho Hội Duy Tân. Tôn chỉ của tổ chức mới với tên Việt Nam Quang phục Hội (VNQPH) là đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước, khôi phục chủ quyền của Việt Nam, và thành lập "Việt Nam Cộng hòa Dân quốc".

Trong thời điểm này, Phan Bội Châu đã thay đổi chính kiến của ông về thể chế quân chủ. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì Kì Ngoại Hầu Cường Để trong vai trò chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Quang Phục Hội. Nhằm gây tiếng vang, tạo ủng hộ trong quần chúng quốc nội, năm 1913 ông cho tổ chức ám sát và đặt chất nổ phá hoại nhiều nơi trong nước. Nhà cầm quyền Pháp đã phản ứng gay gắt. Nhân cơ hội Viên Thế Khải lên cầm quyền tại Trung Quốc, chính quyền Pháp đã nhờ ông này bắt giam Phan Bội Châu cùng các đồng chí. Có sách chép Lương Tế Quang, không phải Viên Thế Khải, đã bắt Phan Bội Châu[5].

Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Pháp đưa 50.000 binh lính và 50.000 lao công người Việt sang châu Âu tham chiến. Pháp còn buộc người dân Việt Nam phải chịu thêm nhiều sưu thuế nặng nề để tài trợ nỗ lực chiến tranh của Pháp. Nhiều cuộc nổi loạn chống thực dân bộc phát tại Việt Nam nhưng đã bị Pháp đàn áp dễ dàng. Năm 1916, vị vua trẻ Duy Tân xuất cung tham gia cuộc nổi dậy do Thái PhiênTrần Cao Vân tổ chức. Người Pháp được mật báo kế hoạch nổi dậy nên đã bắt giam và xử chém những người lãnh đạo cuộc nổi dậy. Vua Duy Tân bị truất ngôi và bị đày ra đảo RéunionẤn Độ Dương.

Một trong những cuộc nổi dậy kháng Pháp hữu hiệu nhất năm 1916 là cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên. Khoảng 300 binh lính người Việt đã nổi dậy, phóng thích và cấp súng ống cho 200 tù binh chính trị cùng vài trăm dân địa phương. Nghĩa quân đánh chiếm và làm chủ Thái Nguyên trong nhiều ngày liền, với hi vọng được tiếp viện bởi Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Khi không ai đến giúp họ, Pháp đã đánh chiếm lại Thái Nguyên và truy bắt hầu hết các nghĩa quân.

Năm 1917, Phan Bội Châu được phóng thích. Ông lưu lạc tại Trung Quốc suốt tám năm sau đó, ông học tập và viết báo sinh nhai ở Hàng Châu, làm biên tập viên của tờ Bình sự tạp chí, nhưng không còn trực tiếp ảnh hưởng đến các cao trào cách mạng tại Việt Nam. Trong thời gian từ 1921 đến 1924, sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), liên minh Quốc - Cộng tại Trung Quốc... đã có ảnh hưởng lớn đến Phan Bội Châu. Ông tìm hiểu về cuộc Cách mạng Tháng Mười, và viết báo tôn vinh Vladimir Ilyich Lenin.[6] Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, ông đã cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng. Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (khi đó là thư kí và thông dịch viên cho Borodine, người Nga, cố vấn cao cấp cho Quốc dân đảng Trung Quốc) đã có cuộc tiếp xúc với Phan Bội Châu, cùng trao đổi về xu hướng Quốc - Cộng hợp tác cho cách mạng Việt Nam, vốn đang thịnh hành tại Trung Quốc bấy giờ.

Bị Pháp bắt và an trí

Căn nhà tranh là nơi ở của ông già Bến Ngự

Ngày 30 tháng 6 năm 1925, ông lại bị Pháp bắt tại Hàng Châu, ông bị dẫn giải về Hà Nội và xử án chung thân khổ sai. Các nguồn sử liệu và nghiên cứu khác nhau đã đặt nghi vấn về người tiết lộ cho Pháp tung tích của ông[7]. Về sau, bản án được đổi lại thành án quản thúc tại gia. Theo Việt Nam Pháp Thuộc Sử, ông được giảm án vì phản ứng mạnh mẽ của toàn dân đối với nhà cầm quyền Pháp.

Từ năm 1926, ông bị đưa về sống ở Bến Ngự, Huế, cho đến khi mất vào năm 1940. Lúc đó ông được gọi là Ông già Bến Ngự.

Mộ phần

Trong thời gian này, tư tưởng chống Pháp của Phan Bội Châu đã ôn hòa hơn. Vào tháng 3 năm 1927, trong dịp kỉ niệm ngày giỗ một năm của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã viết:

"Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng? Lúc ông [từ Nhật Bản] về nước [1906], tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỉ 19 về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gửi trong tay một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà nay Bác lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có câu gì đáp lại, nay đã hơn 20 năm rồi, lời ôn càng lâu, càng nghiệm. Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông! Phỏng ngày nay ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới được. Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hi Mã mà được danh tiếng lưu truyền với sử xanh là vì ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt."

Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế. Tên ông đã được đặt cho trường chuyên của quê nhà-tỉnh Nghệ An và một con phố lớn tại Hà Nội, gần Ga Hà Nội, nối từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Điện Biên Phủ (Cửa Nam).

Quan hệ với Hồ Chí Minh

Nhà cách mạng Phan Bội Châu đã từng quen biết với Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969).

Nguyễn Ái Quốc đã từng có bài báo viết về cuộc tiếp xúc và đối đầu giữa Alexandre Varenne (Toàn quyền Đông Dương thời đó) và Phan Bội Châu nhan đề "Những trò lố, hay là Varenne và Phan Bội Châu" ("Turlupinades, ou Varenne et Phan Boi Chau" - báo Le Paria (Người cùng khổ), số 36-37, tháng 9 - tháng 10 năm 1925). Bài viết có nội dung đả kích hành động của thực dân Pháp mà đại diện toàn quyền Đông Dương là Varenne, trong việc giả vờ đón tiếp cụ Phan từ nước ngoài về, nhưng thực chất thì "tay phải giơ ra bắt tay Phan Bội Châu, còn tay trái thì nâng cái gông để siết chặt Phan Bội Châu trong nhà tù ảm đạm".

Theo cuốn Sổ tay tra cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh (NXB Hải Phòng, 1998) dựa vào Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên thì Nguyễn Tất Thành đã từ chối ý định của Phan Bội Châu đưa anh sang Nhật Bản mà anh chọn con đường khác là sang Pháp.

Theo Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu kể rằng Nguyễn Tất Thành thường nghe ông ngâm hai câu thơ và sau này Nguyễn Tất Thành thường nhắc lại:

Mỗi bữa không quên ghi sử sách
Lập thân hèn nhát ấy văn chương.

Đã từng gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong khoảng năm 1924, ông từng có ý định đi theo đường lối Xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, ông bị bắt và quản thúc ít lâu sau đó, nên chưa thể theo Xã hội chủ nghĩa được.[8] Về sự kiện Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt, một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Ái Quốc đã bán tin tức về Phan Bội Châu cho Pháp. Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng các bằng chứng chống lại Nguyễn Ái Quốc là không thuyết phục và phủ nhận giả thuyết này[7]. Bản thân Phan Bội Châu cho rằng kẻ phản bội mình là Nguyễn Thượng Huyền (thư kí cho ông, sau này ra làm cho Pháp).

Trong bài thơ khóc thương tiếc ông của Phan Bội Châu có đoạn:

Cờ xã hội những toan lên thẳng bước
Gánh giang sơn chẳng chút chịu nhường ai!
Đau đớn thay! Trời chẳng chìu người,
Người bước tới mà trời giằng kéo lại.
Công nghiệp sống chưa ra vòng thất bại,
Tuổi chết nay đã trải chẵng mười năm
Nhớ bạn xưa khôn nỡ khóc thầm,
Một hàng chữ gởi thôn tâm cùng thiên cổ!
Kẻ tiền đạo ấy ai là người hậu lộ?

Nhận định

Các sử gia Việt Nam[cần dẫn nguồn] cho rằng đóng góp của Phan Bội Châu vào nền độc lập của Việt Nam là một đóng góp cực kì lớn lao. Lúc đầu ông hết lòng bôn ba vận động chủ trương kháng Pháp bằng vũ lực với sự giúp đỡ của triều đình Nhật Bản. Tuy cá nhân ông không giải quyết được phương thức thực thi công việc đó, nhưng nghĩa khí và lòng tận tụy của ông biến thành sao Bắc Đẩu cho các cao trào cách mạng bạo động Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Ông hô hào nhân dân học hỏi từ các cuộc cách mạng và các lãnh tụ Đông Á, và cho rằng, với sự giúp đỡ của các nước Đông Á đồng văn, người Việt có thể giành lại độc lập cho chính mình.

Theo một số sử gia[cần dẫn nguồn], khuyết điểm lớn nhất của ông là đã không lôi kéo được thành phần dân nghèo, số người chiếm 80% dân số Việt Nam thời điểm đó, vào công cuộc giành độc lập. Theo họ, thay vì cố tập trung đấu tranh tại tầng lớp làng xã, ông và những người đồng chí hướng chỉ chú trọng vào tầng lớp đứng đầu xã hội, tin tưởng rằng dân chúng bần nông sẽ tự động theo gương đấu tranh của các bậc học giả trí thức. Các lãnh tụ cách mạng bước sau ông và các nhà cách mạng tiên phong khác nhờ vậy học hỏi được từ sai lầm này, cũng như thấu hiểu được tầm quan trọng của việc vận động địa phương[cần dẫn nguồn].

Sinh thời, Phan Bội Châu được một luật sư người Pháp tên là Bona ca ngợi: [8]

Cụ Phan (Phan Bội Châu) là người quả không hổ là kẻ ái quốc, ái quân chân chính. Dầu tôi là người Pháp, đối với cụ Phan tôi cũng phải ngưỡng mộ. Tôi ngưỡng mộ là ngưỡng mộ cái thân thế quang minh, cái tinh thần cao thượng, cái nghị lực bất di, bất khuất đã chứng tỏ ra trong việc làm của cụ.

—Luật sư Bona

Tác phẩm

Tác phẩm cách mạng

Việt Nam vong quốc sử
  • Việt Nam Quốc sử khảo (1909)
  • Ngục Trung Thư (1913) (loc) – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950
  • Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??)
  • Việt Nam vong quốc sử (1905)
  • Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927)
  • Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??) (loc) – Huế: NXB Anh-Minh, 1957
  • Chủng diêt dự ngôn(19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991
  • Tân Việt Nam (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989
  • Thiên Hồ Đế Hồ (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978
  • Khuyến quốc dân du học ca (19??)
  • Hải ngoại huyết thư (1906)
  • Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??)
  • Hà thành liệt sĩ ca (19??)
  • Truyện Lê Thái Tổ (19??)
  • Tuồng Trưng nữ vương (19??)
  • Gia huấn ca (19??)
  • Giác quần thư (19??)
  • Nam quốc dân tu tri (19??)
  • Nữ quốc dân tu tri (19??)
  • Truyện Chân tướng quân (1917)
  • Truyện tái sinh sinh (19??)
  • Truyện Phạm Hồng Thái (19??)

Tác phẩm biên khảo, thi ca

  • Kí niệm lục (19??)
  • Vấn đề phụ nữ (19??)
  • Luận lí vấn đáp (19??)
  • Sào nam văn tập (19??)
  • Hậu Trần dật sử (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996
  • Khổng Học Đăng (19??) (loc) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986
  • Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) (loc) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa, 1971
  • Phan Bội Châu Toàn Tập (19??) (loc) – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001
  • Trùng Quang Tâm Sử (19??) (loc) Hà Nội: NXB Văn học, 1971

Lưu ý: các bản có đánh dấu (loc) hiện còn lưu trữ.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ NHÀ THƠ PHAN BỘI CHÂU
  2. ^ Vì San trùng với tên huý vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu. (Theo Họ và tên người Việt Nam- PGS.TS Lê Trung Hoa- NXB Khoa học xã hội-2005)
  3. ^ Tên hiệu Sào Nam lấy từ 2 câu thơ cổ Hồ mã tê sóc phong, Việt điểu sào nam chi nghĩa là Ngựa Hồ hí gió Bắc, Chim Việt đậu cành Nam, ý nói người không quên gốc gác của mình.
  4. ^ Xem Gia Phả Họ Phan, Phần Thứ Hai, Chương V-03, [1]
  5. ^ Trong Việt Nam Pháp Thuộc Sử (VNPTS), GS Phan Khoang (ban Việt Sử, ĐH Văn Khoa Sàigòn & ĐH Huế 1963-1970) có ghi rằng Phan Bội Châu bị bắt năm 1913 là do Lương Tế Quang, Tổng đốc Quảng Châu, chứ không phải Viên Thế Khải, Tổng thống Trung Quốc bắt. Cũng theo VNPTS, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để có thân hành đến Bắc Kinh gặp Viên để dàn xếp khi Công sứ Pháp yêu cầu Bắc Kinh bắt giam Phan Bội Châu, và mọi sự được giải quyết ổn thỏa để Phan Bội Châu không bị bắt (VNPTS, Chương 4, tr. 463)
  6. ^ Mục từ Phan Bội Châu trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam.
  7. ^ a b Theo một số nhà nghiên cứu, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt được là do có người mật báo. Danh tính của người mật báo được xác định khác nhau.
    • Theo Vĩnh Sính trong "Mối liên hệ giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, 1924-1925 – giới thiệu tài liệu mới phát hiện" thì: "Trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu quy cho Nguyễn Thượng Huyền, người được ông 'nuôi dưỡng' ở Hàng Châu, tội mật báo với Pháp 'thời khắc đi đường và hành động' của Phan để họ bắt cóc ông ở ga Thượng Hải. Trong khi đó, Kì Ngoại hầu Cường Để, trong hồi kí, lại quy cho Lâm Đức Thụ là người chủ mưu." (Vĩnh Sính: Sđd, tr. 242). Lâm Đức Thụ sau này bị tố cáo là làm mật thám cho Pháp.
    • Theo Mạc Định Hoàng Văn Chí, trong Từ Thực Dân Đến Cộng Sản (TTDĐCS), thì người đó là Nguyễn Ái Quốc. (Mạc Định Hoàng Văn Chí: Sđd, tr. 38).
    • Theo Joseph Buttinger, "A Dragon Embattled" (New York: Praeger, 1967)Tập 1, của Joseph Buttinger. Ông này khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc nhận 150.000 đồng bạc Đông dương từ Pháp và bán cụ Phan.
    • Sophie Quinn-Judge trong luận án "Nguyen Ai Quoc, The Comintern and The Vietnamese Communist mouvement 1919-1941" lại phủ nhận thông tin này. (Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 80-81)
    • William J. Duiker, giáo sư sử học Đại học Penn State, trong cuốn sách "Ho Chi Minh: A Life" (2001) cho rằng những bằng chứng được đưa ra để chống lại Nguyễn Ái Quốc không có gì thuyết phục. Theo nghiên cứu của ông, tài liệu văn khố của Pháp cho thấy có thể Nguyễn Thượng Huyền là người đã phản bội Phan Bội Châu
  8. ^ a b Phan Bội Châu - Trang Web thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo

  • Một phần của bài này được trích dịch từ tài liệu A Country Study: Vietnam của Thư viện Quốc hội của Hoa Kì, thuộc phạm vi công cộng. [2]
  • GS Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử (VNPTS), nxb Đại Nam, Sài Gòn, 1961
  • Mạc Định Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, nxb Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964
  • Vĩnh Sính, Mối liên hệ giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, 1924-1925 – giới thiệu tài liệu mới phát hiện, trong Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ, Tp Hồ Chí Minh, 2001.
  • Sophie Quinn-Judge, Nguyen Ai Quoc, The Comintern and the Vietnamese Communist Movement (1919-1941), trong HO CHI MINH The missing years, The University of California Press, California, 2002.
  • Gia Phả Họ Phan, Phần Thứ Hai, Chương V-03, [3]

Liên kết ngoài






*

No comments:

Post a Comment