Pages

Tuesday, August 10, 2010

NGUYỄN QUÝ ĐẠI * TƯỞNG NIỆM TẢN ĐÀ



TƯỞNG NIỆM TẢN ĐÀ
1888‐2009)
Nguyễn Quý Đại
Tiểu sử
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888
(năm Mậu Tý), và mất ngày 7 tháng 6 năm 1939 (năm Kỷ Mão), tại nhà
thuê số 71 đường Cầu Mới, ngày nay 47 Nguyễn Trãi Hà Nội, hưởng thọ
51 tuổi 1. Quê ông làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, Sơn Tây cũ nay là
huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Thân phụ Tản Đà là ông Nguyễn Danh Kế thi
đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ
việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là
người phong lưu thích thơ nhạc, thường lui tới chốn bình khang và quen
với bà Lưu Thị Hiền (Nhữ Thị Nghiêm) là một đào hát tài sắc ở Hàng
Thao. Ông Nguyễn Danh Kế cưới bà làm vợ thứ khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là
người hát hay, có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út trong bốn người con của đời sau.
Tản Đà lên 3 tuổi thì thân phụ từ trần, đời sống gia đình khó khăn, thêm sự bất hoà với gia
đình chồng, bà Nghiêm bỏ nhà trở lại nghề xưa. Tản Đà cùng anh Nguyễn Mạn và 2 chị phải
về ở với anh cùng cha khác mẹ là ông Nguyễn Tài Tích (sinh năm 1864 nối nghiệp cha thi
đỗ Phó bảng) và Nguyễn Cổn. Tản Đà sống theo anh đi các nơi vì ông Tích được bổ nhiệm
làm Đốc học các tỉnh miền Bắc

Thời thơ ấu Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo, 5 tuổi ông học Tam tự Kinh Ấu học ngũ ngôn thi,
Dương tiết,... 6 tuổi học Luận Ngữ, kinh, truyện và chữ Quốc Ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối,
11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích thơ văn, được người anh hết lòng chỉ dẫn nên 14 tuổi đã
thạo các lối văn chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức là trường học thực
nghiệm cải cách của Pháp ở Hà Nội, ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" được các báo ở
Hong Kong đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh
Sơn Tây.

Tản Đà không thành đạt trên đường khoa bảng, thất bại trong tình yêu đã làm ảnh hưởng
suốt cuộc đời của thi nhân, đôi khi ông sống với mộng tưởng, phẫn uất chua cay, tư tưởng
ngông cuồng và yếm thế… Về đường văn học Tản Đà là nhà thơ thuộc phái cựu học như
Phan Khôi, nhưng Phan Khôi với “ Tình Già” đã mở màn cho phong trào thơ mới lãng mạn,
sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ, đó là thời điểm quốc ngữ còn phôi thai,
bắt đầu chuyển mình thay đổi nhanh chóng phổ biến rộng rải trên báo chí bằng thơ và văn
xuôi. Tản Đà giữ một điạ vị quan trọng là nhịp cầu nối liền giữa hai nền văn học cổ điển và
hiện đại đóng góp cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam phát triển mạnh. (về thơ mới trên
Đông Dương Tạp Chí số 40 năm 1914 Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn “Con ve sầu và
Con kiến” của La Fontaine không theo cách của lối thơ cũ, nhưng phải chờ tới Phan Khôi,
thơ mới dần dần lớn mạnh)

2
Con đường sư nghiệp

Năm 1909 (Kỷ Dậu) Tản Đà dự kỳ thi Hương ở Nam Định bị rớt. Ông về nhà ở Phủ Vĩnh
Tường tiếp tục dùi mài kinh sử. Trong thời gian này, ông yêu cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ.
Nếu thi đậu thì vinh quy bái tổ “võng anh đi trước võng nàng theo sau”, Nhưng 3 năm sau
(1912) dự kỳ thi Hậu bổ bị rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp, mùa thu năm ấy ông lại đi
thi Hương cũng thất bại và chuyện tình tan vỡ, người yêu đi lấy chồng.

Ông thất tình chán nản bỏ về Hòa Bình vào dãy Hương Sơn trên ngọn Chùa Tiên, đêm ngày
uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc". Trong thời gian nầy
ông đọc Tân thư, sách của K’ang yu Wei / Khang Hữu Vi (1858-1927) và Liang Ch’i ch’ao /
Lương Khải Siêu 1873-1929) về cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 do Tôn Dật Tiên / Sun
Yat-Sen (1886-1925) khởi xướng lật đổ triều đại Mãn Thanh. Tản Đà còn được người anh rể
Nguyễn Thiện Kế dìu dắt vào con đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện
Tùng Thiện và Phúc Thọ của xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời,
lại là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20,
thường làm thơ đả kích táo bạo bọn quan lại tay sai cho thực dân Pháp.

Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích qua đời. Tản Đà về Vĩnh Phú làm nghề báo, đầu tiên
ông cộng tác với Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) phụ trách mục
"Một lối văn nôm". Đến năm 1915, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một tri
huyện ở Hà Đông. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông Dương tạp chí",
nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Ðông Dương tạp chí phát hành từ năm
(1913-1916) do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, nhằm truyền bá nền giáo dục bách khoa phổ
thông theo văn minh Tây Phương, phát triển chữ quốc ngữ nâng cao dân trí… số đầu tiên
xuất bản vào ngày thứ 5 ngày 15.05.1913 hoạt động được 4 năm. Năm 1916 Nguyễn Khắc
Hiếu lấy bút hiệu Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường
của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp dùng ngòi bút mưu sinh.

Phận nam nhi tang bồng là chí,
Chữ trượng phu ý khí nhường ai.
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.

Cuộc đời Tản Đà với những mối tình đầu trong trắng đam mê một thời, đã vỗ cánh bay cao,
để lại Tản Đà những thương tiếc bâng quơ. Từ sự tan vỡ đó đã mang lại cho ông đau khổ
khôn nguôi, cảm xúc đã làm nên những vần thơ trữ tình
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi, một gánh tình"
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Nhớ mình đứng tựa ánh trăng ta sầu.
Duyên hồ thắm bổng dưng phai lạt,
Mối tơ vương đứt nát tan tành,
3
Tấm riêng, riêng những thẹn mình,
Giữa đường buôn đứt gánh tình như không!
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
(Vô đề)

Mùa thu là mùa của thi ca lãng mạn, các thi nhân thường chọn mùa thu làm thơ soạn nhạc,
mùa thu là một xúc tác cho họ trở về với đời sống thiên nhiên, ca ngợi và vẽ thành những
bức tranh tuyệt mỹ...
Làn cây khuất bóng trăng tà,
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
(Nhớ ai)

Bàn tay con người làm sao giữ được thời gian, thời gian trôi qua lặng lẽ như một giấc mơ.
Để rồi tất cả trở thành một quá khứ xa khơi, ngỡ ngàng vụt mất. Ông sáng tác rất nhiều thơ
với nhiều thể loại, thường diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán cuộc đời…đắm chìm trong
cõi mộng với mối tình cùng người tri kỷ năm xưa.
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi...
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Những mối tình chắp cánh của Thi Nhân đã để lại cho chúng ta một thi tài Tản Đà, mở màn
cho trào lưu lãng mạn sau này (phong trào thơ mới), với những bài thơ ghi dấu sự chuyển
giao giữa hai thời đại.
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi.
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng.
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Những lúc canh gà ba cốc rượu.
Vài khi cánh điệp bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng.
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?
(Giấc mộng con).
Tản Đà ảnh hưởng Nho học từ thuở ấu thơ, nhưng thơ cuả ông ít dùng điển tích, văn
chương của Tản Đà trong sáng giàu khả năng gợi cảm, ông có biệt tài dùng các hư từ điệp
4
từ, âm điệu tiết tấu rất gợi cảm. Bài Tống biệt hành: nào lá đào rải thảm đường đi, suối tiễn,
oanh đưa, ngậm ngùi, bước trần ai, đá mòn, rêu nhạt, nước chảy bao trùm cả không gian và
thời gian... nổi bật tràn đầy tình cảm trong sáng, phối hợp âm sắc, tiết tấu diễn tả bước chân
ngập ngừng của cảnh trần tục và tiên cảnh chia ly
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai.
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh.
Một bước trần ai.
Ước cũ duyên thừa, có thế thôi!.
Ðá mòn, rêu nhạt.
Nước chảy, huê trôi.
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Ðầu non,
Ðường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
Tống biệt hành

Cuộc đời Tản Đà thất bại về công danh và tình yêu, nên bản tính trở thành ngông, yếm thế.
Nghèo nhưng lúc có tiền thì thích phong lưu ăn nhậu, say sưa dù cái say vì nhân thế, vì
cảnh đời. Nhưng đã nói say thì không thể kềm chế được tư cách con người.

Cảnh đời gió gió, mưa mưa,
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu).

Tản Đà hờ hững với công danh, chấp nhận số phận sống với đời trong niềm vui thơ và
rượu, hai thứ đó có thể là một giải thoát con người ra khỏi vòng tục lụy?
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Ðất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Say chẳng biết phen này là mấy,
Nhìn non xanh chẳng thấy lại là say
Quái! Say sao? Say mãi thế này?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh,
5
Thê ngôn túy tửu chân vô ích.
Ngã dục tiêu sầu thả tự do.
Việc trần ai, ai tỉnh, ai lo,
Say lúy túy nhỏ to đều bất kể.
Trời đấy nhỉ! Cái say là sướng thế!
Vợ khuyên chồng, ai dễ đã chừa ngay,
Muốn say lại cứ mà say.
(Lại say)

Nếu con người sống theo chủ nghiã khoái lạc, ăn uống nhậu nhẹt say sưa suốt đời sẽ không
giúp ích được gì cho xã hội, bị người ta chán ghét khinh rẽ, nhưng Tản Đà say rượu với thơ
văn, giọng châm biếm chua cay, tố giác bọn quan lại tham nhũng hối lộ của dân nghèo. Cảm
đề của Tản Đà thời ấy với ngày nay vẩn còn giá trị đối với văn học và lịch sử. Thế kỷ 21
nhưng vấn nạn tham nhũng, hối lộ, bán nước của đảng CSVN chưa chấm dứt …
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn
Mặt sắt còn bia miệng thế gian
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quan nó dễ làm quan
Cũng phường dối nước quân ăn cắp
Cũng lũ tàn dân giống hại dân
Lạnh lẻo hơi sương tòa Tạp chí
Lệ ai giàn giuạ với giang sơn
Cảm đề
Tổ tiên của dân tộc Việt Nam đã bỏ xương máu, dựng nước và giữ nước, mở mang bờ cõi
qua các triều đại Đinh-Lê-Lý-Trần-Nguyễn chống lại các triều đại phong kiến Trung Hoa
giành độc lập sau một ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không thoát khỏi cảnh gần 100 năm bị
thực dân Pháp đô hộ. Tản Đà cũng như mọi người đau lòng trước hoàn cảnh đất nước mất
chủ quyền, dù sống trên giang sơn gấm vóc Việt Nam nhưng làm người dân nô lệ. Vịnh
Bức Dư Đồ Rách in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển
chọn in trong tập Thơ Tản Đà, nói lên tâm trạng, hoàn cảnh nước nhà trong giai đoạn suy
vong, cương thường đạo nghĩa nghìn xưa đảo lộn, bọn tay sai tiếp tay với thực dân ăn hại
của dân.
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười,
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi!
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi!


Đất nước Việt Nam độc lập, nhưng bị bọn bành trướng Trung cộng xâm chiếm biên giới,
6
lãnh hải. Ngư dân bị bọn cướp biển bắn giết, lợi dụng đêm đen dùng tàu lớn ủi chìm tàu
đánh cá, tàu câu mực của ngư dân Việt Nam. Cũng như dư luận ồn ào trong và ngoài nước
về vấn đề khai thác Bauxite ở Tây nguyên làm ảnh hưởng môi trường và an ninh quốc gia.
Bức dư đồ nầy ai sẽ chịu trách nhiệm bồi lại?

Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn Tản Đà, ông còn là một thiên tài dịch thơ Đường. Những
bài thơ lục bát không bị gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào thơ, được nhiều nhà phê
bình văn học như Phạm Văn Diêu cho là hay hơn các bản dịch khác.
Hai câu kết của bài Hoàng hạc lâu :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sâu
Tản Đà không dịch chữ sử nghiã là “xui khiến”, nhưng dịch là “cho” rất hay
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng (xui) cho buồn lòng ai

Tản Đà ảnh hưởng bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai….
Đã trót hở hang khôn khép lại
Lại còn e nỗi chị em ghen
(Hoa sen nở trong đầm)

Hay vịnh cảnh đi chơi chùa
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò
Chốn ấy muốn chơi con mỏi gối
Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho
(Chơi chùa Hương Tích)


Làm báo
Sự nghiệp làm báo của Tản Đà luôn gặp khó khăn! Tờ “Đông Dương tạp Chí “đình bản, Tản
Đà viết cho tờ Nam phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút (1917-1932). Phạm Quỳnh ca ngợi
Khối Tình Con“ nhưng phê bình nặng tác phẩm Giấc mộng con. Tản Đà bỏ Nam Phong
không cộng tác tiếp. Năm 1921 Tản Đà làm chủ bút tạp chí Hữu thanh, nhưng đến năm
1926 báo đình bản. Năm 1922 ông lập “Tản Đà thư điếm” sau đổi lại “Tản Ðà thư cục” với
nhà xuất bản riêng nầy Tản Đà đã xuất bản và tái bản những tác phẩm của ông, ngoài ra
còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố…
7
Tản Đà thích sống với mộng, không có kinh nghiệm làm báo, như một cái nghiệp dĩ đeo
đuổi, chưa dứt được … An Nam tạp chí (1926-1933) phát hành lần đầu ngày 01.7.1926 Tản
Đà làm chủ bút, Ngô Tất Tố thư ký tòa soạn. Tờ An Nam đóng góp tích cực vào sự phát
triển văn học thời cận đại, thể hiện tinh thần yêu nước qua các bài tiểu luận. Nhưng báo luôn
gặp khó khăn về tài chánh đã trải qua ba lần đình bản, chỉ được 48 số vĩnh viễn ngưng hoạt
động Tản Đà đã than thở
Tội nặng nhất trần gian
Là bắt anh Khắc Hiếu
Làm tạp chí "An Nam"
Tản Ðà vào Gia định viết cho báo Thần chung và Ðông Pháp thời báo của ông Diệp văn Kỳ.
Giấc mộng lớn, nhỏ đều bay vào hư không, nên Tản Đà phải sống với nghề dịch thơ Ðường
cho báo Ngày nay, chú thích truyện Kiều, dịch Liêu trai chí dị cho nhà xuất bản Tân Dân.
Năm 1931-1932 Tản Đà bút chiến với nhà văn Phan Khôi (1887-1960) về luận lý Tống Nho,
ông đòi đem Phan Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít. Đối với phong trào thơ mới đang lên,
các tờ báo mới như Phong Hoá của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đem Tản Đà ra phê bình gây
nhiều tranh cãi giữa phe cựu học và tân học. Vào giai đoạn cựu học lùi vào bóng tối lãng
quên, Tản Đà mở trường dạy chữ Hán không có người theo học, mở phòng xem bói cũng
vắng khách, đời sống vất vả, không đủ tiền trả tiền thuê nhà. Ông phải tự trách mình
Khi làm chủ báo, lúc viết mướn
Hai chục năm dư cảnh khôn cùng
Trần gian thước đất vẫn không có
Bút sắt chẳng hơn gì bút long
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ hết cả ngông
(Tiễn ông công lên trời)
hay
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có, cửa nhà thì không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gío trăng..
(thú ăn chơi)

Tết đến năm nay nghĩ cũng buồn
Tiền thì không có nợ đòi luôn
(Tết than việc nhà)

Cuộc đời không phải luôn bình yên hay đẹp như mộng, Tản Đà trải qua nhiều giai đoạn khó
khăn từ tinh thần đến vật chất. Theo lời kể lại người con trưởng của Tản Đà là Nguyễn Khắc
Xương ở Phú thọ nay đã hơn 85 tuổi, đã tập hợp biên soạn những tác phẩm của thân phụ:
8
“lúc ông 17 tuổi thì nhà thơ Tản Đà mất, để lại 7 người con 4 trai và 3 gái với cảnh nghèo
trong nhà không đầy 2 kilo gạo và 10$ lẻ! “
Nhưng đến lúc xuôi tay về bên kia thế giới, thì những người trước đây phê bình chỉ trích Tản
Đà rất nặng lời đã viết những loạt bài tưởng niệm và thương tiếc nhưng đã muộn màng !!
Qua những bài học của người xưa chúng ta thấy điều quan trọng nhất con người sống với
nhau cần phải có cái TỪ TÂM, nên đối xử với nhau tốt đẹp, vì theo luật tạo hoá tất cả sẽ trở
về với cát bụi hư vô.

Tác phẩm của Tản Đà được xuất bản, tiểu thuyết và luận thuyết
Thề non nước
Trần ai tri kỷ (1932)
Giấc mộng lớn. Giấc mộng con (1916)
Giấc mộng con II (1932)
Tản Đà luận văn, Tản Đà văn tập (1932)
Tản Đà xuân sắc (1934)
Khối tình con (1918)
Giáo khoa: Lên sáu(1919), Lên tám(1920), Đài gương truyện, Quốc sử huấn mông,(1924) Ðàn bà
Tàu (dịch liệt nữ truyện) , Còn chơi (1921)
Tuồng chèo: Tây Thi, Tỳ bà Hành, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai
Dịch thuật. Đại học, Đường Thi, Liêu Trai Chí Dị
Khảo cứu Truyện Kiều chú giải ….

Thơ văn Tản Đà trước 1975 đã đưa vào chương trình giáo dục Đại Học Văn Khoa và Trung
học của miền Nam tự do. Tản Đà đã đóng góp vào kho tàng văn chương Việt Nam thật
phong phú, thơ Tản Đà phác họa cái đẹp lãng mạn đa tình, hoà hợp giữa thiên nhiên màu
sắc, âm thanh và cảm xúc, là những đóa hoa rực rỡ hương sắc, dù thời gian trôi qua không
dừng lại nhưng hương sắc thơ Tản Đà không bao giờ phai tàn trong văn học Việt Nam. Thơ
Tản Đà luôn bày tỏ nỗi niềm ưu ái đối với quốc gia và dân tộc.


___

Tài liệu tham khảo
Việt Nam Thi Nhân tiền Chiến của Nguyễn Tấn Long
Tự điển Nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Quyết Tháng NXB Văn hoá
Thơ Tản Đà những lời bình luận NXB văn hoá Thông tin 2003
1 Ngày sinh của Tản Đà nhiều tài liệu khác viết ông sinh năm 1889 (?

No comments:

Post a Comment