* Sinh năm 1921, tại Hưng Yên, Việt Nam; mất năm 2003 tạị California, Hoa Kỳ.
* Học tại Trung Học Khải Định, Huế (1936-1943) rồi Trường Đại Học Luật Hà Nội cho tới năm 1945.
* Xuất ngoại: Học Đại Học Sorbonne, Paris, đậu Cử nhân Văn Chương năm 1950, và Tiến Sĩ Văn Chương Quốc Gia (Doctorat D’Etat) năm 1955.
* Tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Quốc Tế Học thuộc Đại Học Luật Khoa Paris (Institut des Hautes Études Internationales de la Faculté de Droit), Paris, 1952.
* Tốt nghiệp Trung Tâm Âu Châu Học thuộc Đại Học Nancy (Centre D’Etude Européennes, Université de Nancy) Pháp quốc, 1957.
* Về nước năm 1957, gia nhập ban giảng huấn Đại Học Văn Khoa Saigon, phụ trách các môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt Nam. Đồng thời cũng giảng dậy tại Đại Học Sư Phạm Saigon, Học Viện Quốc Gia Hành chính và Viện Đại Học Huế.
* Được bầu làm Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon từ 1965 đến 1969.
* Giáo sư biệt thỉnh về văn chương Pháp và văn chương, văn hoá Việt Nam tại Southern Illinois University trong thời gian 1970-1974.
* Thành viên của Ủy Ban điển chế văn tự và Ủy Ban soạn thảo từ điển Bách khoa Việt Nam (1968-1970). Thành viên Hội Đồng Viện Đại Học Saigon từ 1958 đến 1970. Được tưởng thưởng Văn Hoá Giáo Dục Bội Tinh (1968).
* Thành viên của các hiệp hội văn hoá giáo dục tại quốc ngoại và quốc nội: Modern Languages Association từ 1971, Association of American University Professors từ 1973, Association for Asian Studies từ 1971, American Oriental Society từ 1973, Societé des Etudes Indochinoises (1961-1970), Hội Việt Nam liên lạc Văn hoá Á châu (1958-1961).
* Đã dự một số hội nghị về văn hoá giáo dục ở trong và ngoài nước: Nhật (Đại Học Keio, 1960), Ấn độ (New Delhi, 1965), Đài Loan (Đài bắc, Việt Trung Hoa học, 1969). Tham quan một số Đại học Đại Hàn (1967) và Hoa Kỳ (1966 và 1968).
* Khai đường mở lối cho Viện Việt Học: Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã được Hội Đồng Viện Việt Học mời vào Ban Cố Vấn từ ngày thành lập Viện, 26 tháng 2, năm 2000 và được mời làm Viện Trưởng Viện Việt Học (2001-2003), California.
HOẠT ĐỘNG VĂN NGHỆ
* Cộng tác với các tạp chí Gió Mới và Tiền Phong (1945-1946) tại Hà Nội.
* Chủ trương tạp chí văn nghệ Thế Kỷ 20 tại Sàigòn, 1960.
* Viết cho các tạp chí văn nghệ với bút hiệu Trần Hồng Châu: Trước 1975, tại Sàigòn: Văn, Vấn Đề, Thế K ỷ 20. Sau 1975, tại hải ngoại: V ăn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Khởi Hành.
SÁCH TIỂU SỬ DANH NHÂN
Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã được nói đến trong các sách Who’s Who in the World, Men of Achievement, International Book of Honor, và International Who’s Who in Asian Studies.
TÁC PHẨM
* Le Japon et le Traité de Paix (Nhật Bản và Hoà Ước), Paris, 1952.
* Le Roman Vietnamien au 18e et 19e Siècle (Tiểu Thuyết Việt Nam Thế Kỷ 18 và 19), Paris, 1955.
* Les Relations Américano-japonaises depuis 1951 (Quan hệ Nhật-Mỹ từ 1951), Paris, 1957.
* Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hoá Giáo Dục, (biên khảo, phê bình), Lửa Thiêng, Saigon, 1970.
* Thành Phố Trong Hồi Tưởng (tùy bút), An Tiêm, Los Angeles,1991.
* Nửa Khuya Giấy Trắng (thơ), Thanh Văn, Los Angeles, 1992.
* Nhớ Đất Thương Trời (thơ), Thế Kỷ, Los Angeles, 1995.
* Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây (thơ) Văn Học, Los Angeles, 1999.
* Dăm Ba Điều Nghĩ về Văn Học Nghệ Thuật (tiểu luận), Văn Nghệ, 2001.
* Vietnam Culture Series (Series Editor), Việt-Học Publishing, 2001-2003
* Để Tưởng Nhớ Nguyễn Du (thơ), Viện Việt Học, 2002
* Suối Tím (thơ), Văn Nghệ, 2003
* Tuyển tập Trần Hồng Châu (thơ, tùy bút, tiểu luận), Viện Việt Học, 2004.
BÀI BÁO
Trần Hồng Châu, Lê Văn. “Đại Học Văn Khoa Saigon”, Dòng Việt, số 6,7,9 (2000-2003)
Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch là tác giả nhiều bài biên khảo và phê bình trong các tạp chí như Đại Học, Văn hoá Á châu, Quê Hương, Nguyệt san Văn hoá, Luận Đàm, Văn Khoa, Dòng Việt.
ABOUT THE AUTHOR
Professor Nguyễn Khắc Hoạch was born on May 15, 1921 in Hưng Yên, Vietnam. He earned the Licence ès Lettres in Paris in 1950, the Doctorat ès Lettres (Doctorat d'Etat) at La Sorborne (Paris 1955), the Diplome de l'Institut des Hautes Etudes Internationales de la Faculte de Droit (Paris 1952), and the Diplome du Centre d'Etudes Européennes, University of Nancy (1957). Currently involved in poetic writing and in research on comparative literature. Professor Nguyen has taught French, Vietnamese, and comparative literature at the University of Saigon since 1957. He has also been Dean of the Faculty of Letters of Saigon (1965-1969), a visiting professor of French and Vietnamese literature at Southern Illinois University (Carbondale, Illinois) from 1970 to 1974, and editor of XXth Century, a literary review (1960). Professionally affiliated with the Modern Languages Association (since 1971), the Association of American University Professors (since 1973), the Association for Asian Studies (since 1971), and the American Oriental Society (since 1973). Professor Nguyen was a member of the University Senate at the University of Saigon (1958-1970), Executive Committee member and staff member of the Committee for the Vietnamese Encyclopedia (1968-1970), and a member of the Societé des Études Indochinoises (1961-1970).
In recognition of his achievements, Professor Nguyen was awarded the Culture and Education Medal in 1968. The author of four volumes of poetry (pen name Trần Hồng Châu), many articles in cultural journals, and of books entitled Le Roman Vietnamien aux 18e et 19e Siecles (1955), Le Japon et le Traite de Paix (1952), Les Relations Américano-japonaises depuis 1951, Education and Cultures in Vietnam (1970), Thành Phố Trong Hồi Tưởng (1991), Nửa Khuya Giấy Trắng (1992), Nhớ Đất Thương Trời (1995), Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây (1999), Dăm Ba Điều Nghĩ về Văn Học Nghệ Thuật (2001), Vietnam Culture Series (2001-2003), Để Tưởng Nhớ Nguyễn Du (2002), Suối Tím (2003), and Tuyển tập Trần Hồng Châu (2004).
Professor Nguyễn Khắc Hoạch is featured in several biographical references, including Who's Who in the World, Men of Achievement, and International Who's Who in Asian Studies.
The late professor Nguyễn Khắc Hoạch passed away peacefully in December 2003 in Fountain Valley, California.
From International Book of Honor (American Biographical Institute, Raleigh, NC)
Sign in Recent Site Activity Terms Report Abuse Print page | Powered by Google Sites
Nửa khuya giấy trắng
Mênh mông sầu gợn mẫu đơn
Nửa khuya giấy trắng tủi hờn tuyết trinh
Vắng em nương bóng tạc hình
Rưng rưng lệ sáp bên mình cô miên
Gió về tám hướng ưu phiền
Ðìu hiu tuyết phủ mấy miền tình thơ
Trắng đêm hồn nhỏ bơ vơ
Lênh đênh suối cảm đợi chờ hoa tiên
Vắng em hồn mộng đỗ quyên
Nước non hiu hắt tiếng huyền bâng khuâng
Ly tao dòng cạn khơi vần
Mưa đan đan mãi giọt nhầu ý thơ
Cỏ vong ưu khói lam mờ
Nửa ly mai lộ nguyệt hờ tắm suông
Bút say vọng tưởng dòng Tương
Mực say ảo mộng lạc đường héo hon
Ngỡ ngàng giấy trắng lòng son
Tuyết rơi rơi mãi gói tròn thương đau.
Chỉ còn nụ cười em
Một bóng ta một mình
Ðèn khuya mờ giấy trắng
Tấc lòng người xưa
Trăn trở hôm nay
Quá khứ ngàn cân
Trùng điệp vẫn vòng vây
Tương lai mịt mờ
Ðường hầm không lối sáng
Ðời khép kín
Trắng đôi tay
Hồn ngắt lạnh
Chỉ còn nụ cười em
Bình minh rực rỡ
Ngoài chân trời cuộc sống
Không sắc, không vị
Không một thanh âm
Chỉ còn nụ cười em
Mỗi buổi sớm em mời anh
Chén trà xanh đầu ngày!
Áo biếc mùa xưa
Lạc bước phiếm du mùa lửa đỏ
Cố đô ly loạn khói mờ say
Ai đi chập chờn trong nắng biếc
Mái nhạt đền xưa ẩn bóng mây
Hành lang rêu phủ sầu hoa sứ
Áo vân phong gấm nhớ kinh thành
Mắt biếc hồn trao môi thần động
Ý thu khắc khoải mộng khôn đành
Ai về ngất ngưởng hương men đắng
Tám hướng cửa ô say mềm say
Ngõ về gác trọ nửa vầng trăng
Lung linh gió biếc gợn ưu phiền
Ai về mờ nhạt mơ Tình sử
Chơi vơi lửa sáp vờn yêu nữ
Ðiệu biếc hồn trinh thơ nở muộn
Trắng đêm ôm mộng trắng da ngà
Một góc thế kỷ nhiều nhung nhớ
Áo biếc mùa xưa sương khói phủ
Hương sen lãng đãng vương niềm tục
Bến mê tiềm thức vẫn về chơi
Liêu trai mộng biếc xa vời
Thiên thu nửa gối đất trời phút giây.
Cỏ vong ưu
Cỏ vong ưu cỏ tương tư
Thơ say mộng ảo lòng từ bến mê
Bên sông mưa tuyết não nề
Trăng khuya sầu tủi nghiêng về bình minh
Ai đi trong kiếp hóa sinh
Phù du rủ cánh bên mình héo hon
Ai đi mấy độ trăng tròn
Một ta đất trích mỏi mòn áo xanh
Khói lam xây ngất trường thành
Ðốt bao nhiêu cỏ cho vành môi se
Rượu mơ một đấu cay sè
Say bao nhiêu chuyến vẫn thề chưa say
Khói lam tuyệt đỉnh chân mây
Sầu lên đôi mắt vơi đầy lả lơi
Một ta một bóng một đời
Ta đi bóng mãi chẳng rời xác ve
Xót xa mấy thuở đê mê
Bướm bay cửa động lời thề nhân gian
Lênh đênh bọt biển tuần hoàn
Chiêm bao mộng triệu vô vàn lệ châu
Kim đâm vào thịt thì đau...
Mờ xưa kỷ niệm ban đầu còn dư
Cỏ vong ưu cỏ tương tư
Thơ say mộng ảo lòng từ bến mê
Trắng đêm đỏ lửa sơn khê
Khói lam tuyệt đỉnh đi về hư vô.
Nghĩa trang Westminster gặp bạn cũ
Bạn cũ tìm thấy lại
(Nửa thế kỷ
Một đại dương)
Tuổi đời chồng chất chín đợt phù đồ
Sợi bạc phơ
Phất bụi trần
Ngàn trắng
Bướm hoa lau
Ngàn năm mây trắng
Trùm lấp nghĩa trang
Trắng tay cuộc đời!
Sao cỏ vẫn xanh
Trên thân chết lạnh
Sao môi con gái vẫn hồng
Ôm bó hoa vẫn vòng lửa bỏng
Ta hờn
Màu xanh sắc đỏ
Ta hờn
Búp nhỏ bướm non
Nơi còn nguyên si
Chiếc bánh cuộc đời
Ta đang đi về cửa mồ bỏ ngõ
Bước chân cùm nặng
Kỷ niệm ngàn cân
Người thiếu phụ gục đầu
Bia mộ rưng rưng
Hóa thạch khăn sô
Vai gầy rung lên
Không đỡ nổi trời đông xám chết
Không đỡ nổi nỗi đau đi thẳng vào tâm thất!
Ta đứng ngây tượng đá
Ðời vỡ tan từng mảng lưu vong
Chân trời xa
Có trở lại hòn đất, ngọn cỏ
Cuống nhau?
Ðời vàng vọt
Thiếu quê hương!
Không, ta chưa muốn chào vĩnh biệt!
Chưa cạn hết đáy ly ân ái
Chưa quặn hết niềm đau sông núi
Chưa nói hết lời thơ hằng cửu
Không, ta chưa muốn chào vĩnh biệt!
Không gian hiển hiện
Trắng bạc nghĩa trang
Trắng hồn cô lữ
Bạn ơi, mặc lá vàng rơi!
Tình thu
Thu về lòng hiu hắt
Vàng thu chân trời rụng
Gió lùa phên dậu đổ
Tê buốt nửa tuổi đời
Sương rơi buồn đôi lứa
Áo vàng rừng phong thưa
Hồng nhan vội thiên di
Cánh bướm chập chờn mơ
Tóc rối liễu bên cầu
Tóc thề liễu bên song
Thiếu nữ nghiêng thuyền mắt
Xanh biếc hồn núi sông
Mây thu về vô tận
Tình người cũng phân vân
Hồ thu nước võ vàng
Sen tàn chợt bâng khuâng
Ly bôi bên quán khách
Ngày say ánh tà huy
Sông thu bừng khói sóng
Hay sầu dâng trong lòng
Tuyết phủ mầu quan tái
Chân mây có u hoài?
Gửi người trong cánh cửa
Tiếng địch liễu chương đài
Trăng thu về muôn hướng
Trăng thu khóc đoạn trường
Cung hồ say lữ khách
Tri kỷ vị thùy thương
Ðêm nay trên lầu vắng
Nửa trời sao vằng vặc
Mắt say lồng men đắng
Ai rũ sạch buồn thu?
Ai mê đời kiều mị
Ngời sáng ánh kim thi
Ðất trời có mênh mông?
Tình thu chuyện thần kỳ...
Bướm trắng
Sông xanh xanh, sông chở đầy ân ái
Trường hồng hồng, trường mang mãi tình non
Quá gần nhau sao vẫn nhiều quan ải
Mấy mươi lớp phù kiều dáng mắt em!
Chủ nhật đây nắn nót chữ thơ hồng
Lòng phơi phới hội mở gió như nhung
Ghé Thiên thai anh trao tình thứ nhất
Tay ghi dòng nhật ký buổi tương phùng
Áo trắng xưa bướm cũ còn vương vấn
Ðêm thao thức hồn chĩu nặng buồn thơ
Mộng mơ anh say say mầu hồng phấn
Tóc huyền châu trong khuôn cửa trường bên
Bờ sông thơ gió vương tình bướm trắng
Em đi nhanh nón nhỏ gót hồng son
Bỗng hoa lá chập chờn trong vắng lặng
Hồn bâng khuâng rực rỡ ánh lưu ly
Bước ngập ngừng vân vi mi chớp nhẹ
Tình mang mang hò hẹn mái đò xưa
Mộng thanh xuân tuổi ngọc về đây nhé
Về đây nhé bướm trắng mộng thanh xuân!
Trần Hồng Châu
biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hồ khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ...
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông!
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau ?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh ?
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!
mắt loạn thị
đầu hoang tưởng
nhãn ngư, ngư nhãn
điệu hồ khoan, ơ hờ!
ta đã đi đến tận cùng của chịu đựng
đi! cho ta nắm bàn tay tuyệt diệu
cho ta vào lòng biển sâu
vào giấc ngủ vô thường...
dưới sâu vẫn vô vàn cánh bay
dằng dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiêp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc ?
Trần Hồng Châu
( Nhớ Đất Thương Trời )
Trần Hồng Châu
Næm tháng qua, nhÜ nܧc chäy dܧi cÀu Khánh H¶i, nhÜ mây bay trên 18 thôn vÜ©n trÀu, tôi vÅn không h‰t ngåc nhiên, xúc Ƕng ljn thäng thÓt, m‡i khi mây Sàigòn bûa vây, t§i tÃp, hay khi n¡ng Sàigon nung nÃu ljn rùng mình cä m¶t bÀu khí quy‹n siêu th¿c, vàng ánh nhu tranh Van Gogh v§i cái chói chang bÕng lºa cûz trÜa hè Çúng ng†. M‡i khi hoa mai bØng nª ª Minh Phøng hay khi con Çò Thû Thiêm Çûng ÇÌnh b¡c cÀu cho nh»ng Sâm ThÜÖng th©i Çåi. M‡i khi sông Nhà Bè bÒn chÒn nܧc chäy chia Çôi hay khi tÃm lòng son cûa nh»ng trái dÜa Hà Tiên b¢ng ng†c thåch dÜ®c giãi bày trên lŠ ÇÜ©ng Çi vŠ cÀu Ông Lãnh trong nh»ng ngày ÇÀu xuân.
DÜa ÇÕ, mai vàng. . . Nh§ låi không khí T‰t, gÀn gÛi cÛng nhÜ xa v¡ng, g¡n liŠn v§i hai màu tÜ®ng trÜng Çang dàn träi trên ÇÜ©ng phÓ Sàigon. ñÕ, vàng. Máu ÇÕ, da vàng.. ., Çi‹m xác minh cÛng nhÜ nhÆn diŒn cûa lÎch sº và giÓng nòi. Vàng, son. . . s¡c màu cûa nh»ng cung ÇiŒn tâm hÒn và š thÙc nghŒ thuÆt.
Trái dÜa là chÙng tích bình minh dân t¶c v§i sÙc sÓng månh và lòng tin yêu,låc quan không gì lay chuy‹n n°i cûa th©i d¿ng nܧc. Cành mai thanh tao, thân hình uÓn lÜ®n, ÇÖn sÖ và khÕe. VØa kh¡c kh° Çåm båc, vØa r¿c r« ,lãng mån. Nói lên khí phách ngÜ©i quân tº " th‰ gia thanh båch tÌ sÖn mai,"m¶t mình ÇÜÖng ÇÀu v§i cái Ça sÓ, có khi a dua, sai lÀm, phi lš. Nói lên cÓt cách nghŒ sï, có th‹ cÜÖng nhu, ÇÆm nhåt, ª nh»ng th©i và không gian khác nhau, nhÜng luôn bäo vŒ ÇÜ®c sinh mŒnh tinh thÀn cûa mình trong tÜ th‰ m¡t sáng, ÇÀu ngûng cao.
Hai s8ác ÇÕ vàng nª r¶ trên ÇÜ©ng phÓ Çô thành có nghïa là mùa xuân Çã t§i, không m¶t lÀn l« hËn. CÛng nhÜ ti‰t ÇiŒu và š l©i nh»ng bài thÖ xuân tØng vÜ®t qua trÜ©ng thành cûa th©i gian và quên lãng. Xuân giang hoa nguyŒt då hay Xuân nhÆt khªi ngôn chí. . .
DÜa ÇÕ ,mai vàng trên ÇÜ©ng NguyÍn Væn H†c và TrÀn HÜng ñåo. Xuân vŠ Çúng chu kÿ, chính xác nhÜ m¶t ÇÎnh lš toán h†c. ñÒng th©i cÛng biŒn minh cho m¶t nhÆn ÇÎnh tâm lš: s8ác màu, âm thanh thÜ©ng quÃn quít, Çan xen nhau trong m¶t t°ng th‹ hÒi tܪng Ça dång.Quá khÙ thÜ©ng trª vŠ trên ÇÌnh tr©i âm và sæc . Vì Çó là hai chÃt xúc tác, khÖi Ƕng, g®i nh§. . . Là tÓ chÃt không th‹ thi‰u ÇÜ®c cûa bän th‹ cái Çã qua, dù ª th©i Çi‹m nào.
Mùa xuân Çã trª vŠ v§i dÜa ÇÕ, mai vàng và ti‰ng ngâm thÖ HÒ ñiŒp, giai ÇiŒu muôn màu, âm vang trên suÓt chiŠu dài phÓ phÜ©ng Sài gòn.
NhÜng vÅn nhiŠu nhÃt là cúc,hÒng và lan, nh»ng n» hoàng cûa h¶i hoa, cûa mùa xuân bÃt tÆn.Cúc vàng, cúc tr¡ng.. .Çi tØ kim cúc bé nhÕ Ç‰n Çåi Çóa b©i b©i tóc rÓi. TØ tr¡ng Çøc, vàng nhåt, hoàng anh cûa NguyÍn Du trong nh»ng ngày Kinh B¡c, bŒnh hoån và mai danh Än tích, ljn vàng cam, sÖn mài , cûa nh»ng cánh vån th† ngoåi thành L¶c Uy‹n mà có lë Thích Ca Çã tØng yêu m‰n trong nh»ng bu°i chiŠu thuy‰t pháp.
HÒng nhung, hÒng qu‰.. . tÃt cä s¡c tÓ ÇÆm nhåt cûa màu hÒng Çi tØ hÒng tÀm xuân ljn huy‰t dø ÇÕ tía. NhÜ s¡c tÓ ÇÆm nhåt cûa nh»ng thÕi son khác nhau Çã lÀn lÜ®t Çi trên môi, tØ thuª ngÜ©i gái dÆy thì khªi ÇÀu bi‰t làm dáng t§i nh»ng ngày " mùa thu thi‰u phø" ÇÀy ngÆm ngùi và hÒi tܪng.
Lan là vÜÖng giä chi hoa. ñÎa lan. Phong lan. Y‹u ÇiŒu. Mänh mai. Cánh bܧm vàng phÖi ph§i. Håc ÇÒng n¶i nhªn nhÖ. Chi‰c hài vân Çong ÇÜa g®i mùa xÜa cÛ. M¶t di‹m hÒng. Vài bông ng†c tr¡ng rung rinh trܧc gió xuân ng†t ngào nhÜ nºa tÌnh, nºa say. Th‰ gi§i cûa lan là m¶t th‰ gi§i mŠm måi, gÀn nhÜ y‰u lä, nhåt nhòa, thoang thoäng. HÜÖng s¡c, hình hài, âm thanh tܪng nhÜ có,nhÜ không. Th‰ gi§i Ãn tÜ®ng cûa bu°i chiŠu Monet, vàng sáng Pissaro và làn da Renoir,thÃp thoáng, m© äo, bÃp bênh, có lë cÛng chÌ Çܧc xây d¿ng b¢ng nh»ng tÓ chÃt Çó thôi.
Trong bi‹n hoa NguyÍn HuŒ ngÜòi và hoa dÜ©ng nhÜ cùng chung m¶t š thÙc vŠ th©i gian. M†i chuyŒn ÇŠu là phù du, hÜ äo, s§m nª tÓi tàn. Hãy sÓng v§i hiŒn tåi, v§i nh»ng gì hiŒn h»u nhÃt trong phút giây hiŒn h»u cûa hôm nay!
Có nh»ng c¥p v® chÒng Çi xem hoa nhÜ m¶t nghi lÍ cuÓi næm không th‹ thi‰u Çu®c. ñ‹ nh§ k› niŒm m¶t ch® t‰t xÜa. ñ‹ tìm låi trong rØng hoa niŠm yêu Ç©i và sÙc sÓng cÀn phäi có trܧc l§p Üu tÜ Çang ló dång ª chân tr©i.Có nh»ng ngÜ©i tình bé nhÕ, ngÒi bên nhau,l¥ng lë ng¡t và ljm tØng cánh hoa cúc vàng. Dò hÕi vŠ tÜÖng lai, ÇÀu næm theo truyŠn thÓng nhân gian? Hay suy nghï vŠ ki‰p mong manh Ç‹ bàng hoàng lo s®, rÒi quy‰t tâm buÒm lái Çi ngÜ®c låi giòng sông ÇÎnh mŒnh ?
Có nh»ng chàng trai Çi ch® hoa v§i tân hÒn nghŒ sï vÜ®t th©i gian và không gian. NiŠm hoài c° ch®t nhÜ sóng bi‹n tràn lan.. . Không bi‰t Thæng Long xÜa vào nh»ng Çêm ch® hoa ngày T‰t ra sao? Trong khuôn viên Væn mi‰u l¶c xuân nõn nà ció tr° låi nhiŠu không ? Ngoài cºa Kim mã trai thanh gái lÎch ch¡c phäi có hÖn m¶t cu¶c hËn hò ÇÀu xuân. Nh»ng bu°i khán hoa và bình thÖ xuân trên sóng nܧc Tây hÒ tܪng nhÜ vÅn còn Ç‹ låi dÜ âm và phong vÎ cûa ngày xa xÜa khi Lê Quš ñôn hay NguyÍn NghiÍm tØ nh»ng phi‰n trÃn xa xôi trª låi thæm cÓ Çô và các bån vong niên m‡i Ƕ xuân vŠ. . .
Êm ái chiŠu xuân ljn khán Çài,
Lâng lâng ch£ng g®n chút trÀn ai.
RÒi nh»ng h¶i chùa ÇÀu xuân n»a chÙ! ñâu rÒi nh»ng Ng†c hÒ và Quäng Vân Çình nh»ng Tiên du và PhÆt tích, nh»ng cành mÅu ÇÖn và tranh tÓ n» CÀu Çông ? Có lë trong lòng thanh niên Sài gòn gi»a ch® hoa vÅn còn phäng phÃt Çâu dây nhiŠu k› niŒm ÇËp. K› niŒm nh»ng kÿ ng¶ và kÿ tích trong Çó hoa thÜ©ng gÀn gÛi ngÜ©i, g¡n bó v§i ngÜ©i.
ñêm khuya trên phÓ v¡ng. Ch® tàn. Nh»ng xe lam cuÓi cùng Çã ÇÜa vŠ Bình triŒu, Phú xuân mÃy chÆu hoa còn sót låi. Hoa l« th©i, ràu rÀu, chÜa nª r©i ch® hoa vì còn ngÆm ngùi" nh§ nÖ kÿ ng¶."
Gió lånh thêm. ñêm trª nên hoang liêu. Nh»ng cành hoa ch‰t n¢m la liŒt trong lòng ÇÜ©ng, bÖ vÖ, låc lÕng. Båc mŒnh cÀm chung oán hÆn trÜ©ng.
Có ai nhÕ m¶t gi†t lŒ thÜÖng vay ? Có phäi Çây là oan hÒn nh»ng vong n» mà không m¶t bài thÖ Çoån mŒnh, không m¶t trang Liêu trai nào có th‹ giäi tÕa h‰t n°i u Än, niŠm thÜong Çau cûa ki‰p ngÜ©i và ki‰p hoa mãi mãi Ç¡m chìm trong vòng trÀn løy.
No comments:
Post a Comment