Pages

Sunday, November 13, 2011

TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * TRUNG CỘNG


TRUNG QUỐC LÀ TỘI PHẠM KHỦNG HOẢNG TÀI CHÁNH/KINH TẾ

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế Geneva, 10.11.2011.
Web: http://VietTUDAN.net

Khủng hoảng Tài chánh 2008 là từ Nợ Tư làm giới Tài chánh mất vốn nhiều, thậm chí có Ngân Hàng như Lehman Brothers sạt nghiệp. Nhà nước phải cứu giới Tài chánh và từ đó mang một phần hệ quả cho Khủng hoảng Tài chánh NỢ CÔNG 2011 từ Hoa kỳ đến Liên Au.

Khủng hoảng Tài chánh của Vùng Euro và Liên Âu từ 26.10.2011 đến nay đang ở thời kỳ phát hiện cao độ từ Tài chánh, Tiền tệ đến Chính trị. Hy Lạp bên bờ phá sản với trái bom Referendum, rồi Giáo sư Tiến sĩ Papandreou tuyên bố từ chức trong hỗn loạn Chính trị tại xứ này. Ý-đại-lợi cũng đang ở bên lề vỡ nợ buộc Tỉ phú Berlusconi phải hứa từ chức. Thủ tướng Tây Ban Nha, trước nợ công trầm trọng và thất nghiệp cao, nên phải chấp nhận giải quyết bầu phiếu ngày 20.11.2011 và hứa không ra tranh cử nữa.

Chính nước Pháp cũng phải vội vàng tuyên bố chương trình thắt lưng buộc bụng khắt khe nhằm tránh thẩm định của các Tổ chức Định mức Tín dụng làm mất cấp AAA. Người ta đang giả thiết Hy Lạp và Ý có thể bỏ vùng Euro và như vậy hệ quả Domino có thể đưa đến TỰ NỔ (Implosion) vùng Euro.

Cũng chính trong lúc sôi bỏng Khủng hoảng Tài chánh và Chính trị này của Âu châu, lại có cuộc Họp G20 tại Cannes Pháp. TT.Sarkozy dùng cuộc Họp này để lấy điểm Quốc tế cho tranh cử năm 2012 vì đối với quốc nội Pháp, ông chưa làm được gì đáng kể nên sự tín nhiệm người Pháp vào Ông đã xuống thấp. TT.Obama, cũng tham dự G20, nhưng không hào hứng cho lắm vì Ông hiểu rằng số phận của Ông cho tranh cử năm 2012 cũng tùy thuộc Kinh tế mà nợ công và thất nghiệp Hoa kỳ đang là yếu tố chính quyết định.


Chúng tôi tóm tắt tình hình Khủng hoảng sôi bỏng Tài chánh/Kinh tế và Chính trị như trên bởi vì những Dự phóng hệ quả còn phải chờ đợi phân tích vào chi tiết rất phức tạp trong những thời gian kế tiếp.
Trong khi theo rõi sự sôi bỏng Khủng hoảng Tài chánh, Kinh tế và Chính trị tại Hoa kỳ, nhất là Âu châu, chúng tôi đọc được những yếu tố cho thấy triệu chứng Thế giới đang đi đến một cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế Thực (Récession de l’Economie réelle), tương tự như cuộc Đại Khủng Hoảng năm 1929-30 , mà nguồn gốc đến từ Trung quốc.

Chúng tôi muốn trình bầy trong bài này những điểm chính cho dự phóng một cuộc Đại Khủng Hoảng mà Trung quốc là nguồn gốc qua những khía cạnh sau đây:
=> Khủng hoảng do Sản xuất quá đáng làm cơn xoáy thụt giá => Trung quốc Sản xuất quá đáng và ích kỷ tích lùy vốn tồn đọng => Những biện pháp khởi công phục hồi Kinh tế


Khủng hoảng do Sản xuất quá đáng làm cơn xoáy thụt giá

Thời tiền 1929-30, Tây phương quá hồ hởi với Kỹ nghệ hóa bằng Máy Nổ, đã sản xuất quá nhiều (Surproduction) mà không kể đến Mãi lực Tiêu thụ để đến nỗi Cơn xoáy Thụt giá (Spirale Déflationniste) xẩy ra làm cho phía Sản xuất phá sản và buộc lòng phải hủy bỏ Hàng hóa để nâng Giá lên. Thực vậy, nếu không phá huỷ hàng hóa đã sản xuất, thì phía CUNG vẫn cao hơn phía CẦU làm cho Giá bán vẫn tiếp tục thụt xuống. Gía tiếp tục thụt xuống thì không có Lợi nhuận nên phải thải thợ, thậm chí đóng cửa xí nghiệp. Thất nghiệp tràn lan càng làm cho Mãi lực xuống giốc và và Giá bán càng thụt xuống. Tại hai Thị trường Hoa kỳ và các nước Liên Au ngày nay, Mãi lực từ Tư nhân đến Nhà nước kiệt quệ vì hai cuộc Khủng hoảng NỢ TƯ năm 2008 và NỢ CÔNG năm 2011.


Mãi lực kiệt quệ có nghĩa là phía CẦU giảm và buộc lòng Giá bán trên Thị trường phải đi theo chiều thụt xuống. Thông tin báo chí trong giai đoạn này đã cho thấy phía CẦU hàng hóa và dịch vụ đang hạ xuống. Lấy một số tỉ dụ:
* Thống kê công khai Trung quốc đã cho thấy lượng xuất cảng TQ quốc trong tháng 10 hạ xuống 30%. Thị trường Nhà cửa Trung quốc xuống giá trầm trọng. Trung quốc cũng cho biết đà Lạm phát đang hạ dần. Điều này có nghĩa là dân chúng không hồ hởi chi tiêu làm tăng Lạm phát như trước nữa. Đó là phản ứng của dân chúng vì thiếu Mãi lực tiêu thụ. *

Cũng trong tháng 10 vừa qua, Đức cũng tuyên bố việc ngưng trệ sản xuất vì lượng CẦU nước ngoài giảm. Chính Thụy sĩ cũng cho Thống kê cho thấy việc thải thợ tăng lên do giảm sản xuất.
* Thống kê nghiên cứu về du lịch sang Luân đôn nhân Thế vận Hội năm 2011 ước lượng rằng số du lịch sẽ giảm tới 60%. Đó là những tỉ dụ cho thấy ảnh hưởng của Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế làm Mãi lực Tiêu thụ giảm hẳn xuống. Chúng ta có thể đang bắt đầu Cơn xoáy Thụt giá (Spirale Déflationniste)


Trung quốc Sản xuất quá đáng và ích kỷ tích lùy vốn tồn đọng

Trong những thập niên, nhất là sau khi vào được WTO / OMC, Trung quốc như “say máu “ sản xuất và xuất cảng tràn lan hàng Made in China ra Thế giới, nhất là hai Thị trường Hoa kỳ và Liên Au. Tối thiểu trong 10 năm trướng vào WTO / OMC, Trung quốc đã sử dụng những biện pháp đại hạ giá gian giảo để moi móc Mãi lực của Hoa kỳ và Liên Au tiêu xài xả láng:



(i) Thu Mãi lực của Hoa kỳ và Liên Au

* Hạ giá thành hàng hóa bằng một quyền lực Chính trị độc tài bắt ép nhân lực Trung quốc phải nhận lương “ăn cháo với muối “. Khối dân nghèo nội địa chết đói buộc phải nhận đồng lương ăn cháo để sống. Việc này có sự cấu kết của Tư bản Đen từ Mỹ, Âu châu, Nhật, Nam Hàn, thậm chí cả Chệt Đài Loan. Tư bản Đen cấu kết với độc tài Chính trị để bóc lột nhân lực Trung quốc và làm cho độc tài TQ trở thành Tư bản Đỏ. * Cũng Độc tài Chính trị Trung quốc sử dụng Tỷ giá đồng Yuan thấp đối với Dollar và Euro để giảm giá hàng xuất cảng thêm một lần nữa. Thái độ cố chấp gian giảo này vẫn tiếp tục và còn tiếp nữa dù với những lời hứa suông khi mỗi lần Trung quốc bị công kích. * Ngoài việc giảm giá thành bằng lương ăn cháo của công nhân và thủ thuật giữ Tỷ giá đồng Yuan thấp, họ còn dùng những chất liệu rởm để sản xuất hàng bán ra. Đây là những hàng giả và độc hại. Đây cũng là chủ đích hạ giá hàng của Trung quốc


.
(ii) Ngăn cản Hoa kỳ và Liên Âu thu lại Mãi lực từ Trung quốc

Trung quốc sản xuất tràn lan hàng hóa hạ giá và thu vào tối đa Mãi lực từ Hoa kỳ và Liên Aâu. Số thu vào ấy lại không được tiêu ra theo luật lưu hành Tài chánh của Kinh tế, mà Trung quốc tích lũy kỹ làm Dự trữ vốn ngoại tệ. Hoa kỳ và Liên Au sở dĩ để dễ dàng cho Trung quốc bán hàng thu lấy Mãi lực vì Hoa kỳ và Liên Âu “mơ mộng “ sẽ xuất cảng hàng hóa kỹ nghệ sang khối người khổng lồ Trung quốc để thu lại Mãi lực. Nhưng Hoa kỳ và Liên Au chỉ “mơ mộng“ vì đồng tiền mà Tư bản đỏ Trung quốc đã cất giữ, thì họ cất kỹ lắm không nhả ra:
*

Một đàng đối những hàng Kỹ nghệ cao cấp, Trung quốc chỉ muốn cho “Gián điệp “ Kinh tế đi ăn cắp mẫu và kỹ thuật để họ tự sản xuất lấy.
* Một đàng Tư bản Đỏ Trung quốc không nâng cấp Mãi lực cho dân chúng Trung quốc để Hoa kỳ và Liên Âu có thể bán hàng hóa cho dân Trung quốc mà thu mãi lực lại được. Quan điểm làm Kinh tế của Tư bản Đỏ Trung quốc không giống Tây phương. Henry FORD đã nói : “Tôi trả lương cao cho Công nhân để họ có Tiền mua xe hơi mà tôi sản xuất “. Đó là quy luật làm ăn lâu dài. Thực vậy để Henry FORD có thể sản xuất xe hơi lâu dài, thì phải nâng đỡ Mãi lực của người Tiêu thụ xe hơi để hai bên cùng sống chung lâu dài với nhau.

Nhưng Kinh tế của Tư bản Đỏ là đoản hạn, chộp giựt trong thời gian họ còn tại chức có quyền thu vét tiền bạc, chứ không tuân thủ quy luật Kinh tế làm ăn lâu dài với nhau.
Tư bản Đỏ Trung quốc đã sản xuất xả láng và tích lũy Tiền bạc tạo thành một số vốn mà Giáo sư Don PATINKIN, cựu Khoa trưởng Khoa Kinh tế Đại học Tel-Aviv gọi là “Encaise Oisive“ (Quỹ tích lũy ứ đọng).

Năm 1969, tôi viết một Tập nghiên cứu để trình nộp cho Đại học ở Thụy sĩ, gọi là Mémoire de Licence với đầu đề ENCAISSE OISIVE de DON PATINKIN. Việc tích lũy Vốn ứ đọng này làm ngưng trệ lưu hành vốn của Kinh tế. Vốn lưu hành trên Thế giới như dòng nước sông luôn luôn chảy vòng trong một Chu kỳ. Ở một giai đoạn nào nó, mình dùng Vốn để làm Kinh tế, thì phải thả ra cho dòng nước sông để người khác có thể dùng được.

Khi mình đào một cái ao cho dòng nước sông chảy vào, rồi đắp đập xây cống giữ chặt lấy nước trong ao cho mình, thì dòng nước sông sẽ cạn dần và người khác khan hiếm nước sông.
Con số USD.3200 tỉ mà Trung quốc giữ kỹ hiện nay như nước trong ao tù, chính là Encaisse Oisive làm cho dân Hoa kỳ và Liên Au cũng như những quốc gia của Tây phương phải thiếu Vốn. Vì vậy: => Việc Trung quốc Sản xuất tràn lan và xuất cảng xả láng đang tạo ra tình trạng SURPRODUCTION giống như thời kỳ trước Đại Khủng hoảng Kinh tế những năm 1929-30.

=> Việc tồn trữ Encaisse Oisive của Trung quốc khiến Mãi lực dân Hoa kỳ và Liên Âu kiệt quệ với NỢ CÔNG, NỢ TƯ chồng chất, nên phía CẦU hàng hoá và dịch vụ thụt xuống sẽ tạo SPIRALE DEFLATIONNISTE (Xoáy thụt giá) giống như thời kỳ Đại Khủng hoảng 1929-30. Giữa THẶNG DƯ và NỢ NẦN, có những liên hệ nhân quả hỗ tương. Kinh tế gia Martin WOLF, trước đây là Giám đốc World Bank tại Ấn Độ và hiện nay là Bình luận gia trưởng của Báo Financial Times đã viết về tình hình dư vốn của Trung quốc và thiếu vốn của Hoa kỳ và Liên Au như sau:

“Les excédents des uns dépendent de la capacité des autres à s’endetter. Créanciers et Débiteurs sont líes les uns aux autres comme des siamois..”(Những thặng dư của những người này tùy thuộc vào khả năng của những người kia vay mượn. Các Chủ nợ và các Con nợ gắn liền với nhau như những đứa trẻ sinh ra bị nối liên thân xác.) (Le Monde 8.11.2011, page 2) Trung quốc là nguồn gốc làm phát sinh Khủng hoảng Nợ nần và Thất nghiệp hiện nay. Cái Khủng hoảng của Con nợ sẽ trở ngược lại phá hoại Kinh tế của Chủ nợ Trung quốc vậy.


Những biện pháp khởi công phục hồi Kinh tế

Trước cảnh Khủng hoảng Nợ nần, Suy thoái Kinh tế và Thất nghiệp hiện nay của Hoa kỳ và Liên Âu, người ta không dám nghĩ tới Độ Phát triển Kinh tế cao để hồ hởi nữa, nhưng nghĩ đến những biện pháp khiêm tốn để có thể khởi công Kinh tế. Người ta nghĩ đến những biện pháp sau đây: 1) Biện pháp thứ nhất : Ngăn cản không cho hàng hóa Trung quốc xâm nhập Hoa kỳ và Liên Au để tiếp tục làm giảm Mãi lực của hai Thị trường này nữa. Đây là những biện pháp Che chở Mậu địch (Protectionnisme commercial) được coi như tự bảo vệ Mãi lực của dân mình.

2) Biện pháp thứ hai : Chính Hoa kỳ và Liên Au đi bước đầu khiêm tốn phát triển là đưa những hàng hóa thường dùng của đại chúng từ Trung quốc về sản xuất tại Hoa kỳ và Liên Âu. Việc làm này một mặt tạo công ăn việc làm, tạo bước phát triển và cũng là làm tăng Mãi lực cho dân mình, và một mặt đừng để thất thoát Mãi lực vì hàng Trung quốc.

3) Biện pháp thứ ba: Chế tài những đại Công ty Liên quốc gia đã sản xuất hàng từ Trung quốc bằng cách lấy thuế cao lên đối với những đại Công ty này đã lợi dụng Mãi lực Hoa kỳ và Liên Au để thu vào lợi nhuận cao do chênh lệch Giá thành sản xuất hạ tại Trung quốc và Giá bán cao tại hai Thị trường Hoa kỳ và Liên Au.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế Geneva, 10.11.2011. Web: http://VietTUDAN.net


No comments:

Post a Comment