Pages

Saturday, October 29, 2016

DAVID THIÊN NGỌC = VÕ NGUYÊN GIÁP =NGUYỄN CHÍ THIỆN

DAVID THIỆN NGỌC * NGƯỜI CỘNG SẢN



Đi tìm người cộng sản chân chính.

David Thiện Ngọc

Người xưa thường nói " Ngậm ngải tìm trầm" để chỉ cái quí hiếm của loài trầm mà nó thường tiềm ẩn chốn rừng thiêng nước độc khó mà tìm ra, cho nên phải dùng đến phép thuật, bùa chú..."ngải" (một loại bùa phép, mê tín trong dân gian ngày xưa) mới mong tìm đươ.c. Bởi có một điều rằng trầm là một loài quí hiếm, có công dụng để bào chế ra những phương thuốc đặc trị có ích cho con người. Hơn nữa nó tỏa mùi thơm đặc biệt khi đốt lên mà trong dân gian còn tin rằng mùi hương trầm có thể xua đuổi được tà ma quỉ ám...do đó người xưa mới ngậm ngải tìm trầm là thế.

Với lời ẩn dụ trên để chỉ cho sự khó khăn, hiếm có khi ta bới tìm trong đám bùi nhùi, bùn nhơ CSVN một người CS chân chính. Ở đây nó có một sự khập khiểng rằng, trầm cho dù là khó tìm ra nên phải "ngậm ngải", nhưng khi đã có được thì đó là vật quí giá có ích cho con người. Còn khó khăn để tìm một người CS chân chính nếu có được chăng thì cũng chưa chắc là hữu dụng cho cộng đồng dân tộc, cho xã hô.i. Do đó ta cần có nên chăng để phải cất công sàng lọc và kiếm tìm?

Bởi lẽ từ xưa đến nay trên toàn thế giới ai ai cũng rõ CS với phương châm là dối trá, bạo quyền là cương lĩnh và cướp đoạt là tôn chỉ mục đích. Lấy những thứ đó làm phương tiện và lấy hoang đường làm cứu cánh...mơ tưởng xa vời về một XHCN, CSCN, thế giới đại đồng xóa bỏ biên cương, ranh giới, mọi giá trị, mà nơi đó không còn người bóc lột người, làm việc tùy sức nhưng ăn tiêu thì tùy cần...cần cái gì có cái đó. Cái lý thuyết suông, ảo tưởng này từ ông tổ Mác-Lê đến những vị gọi là triết gia, lý luận cao cấp đến tên đảng viên xoàng nơi hè phố, góc ruộng nông thôn đã có ai là hiểu được và nói được câu nào từ giảng đường, hội trường đến bờ ruộng để chứng minh cho học thuyết đó? mà cái sự cần của người CS thật vô biên. Nào xe hơi, biệt thự, Đô La...chân dài bát ngát xa hoa...do đó chúng tận dụng triệt để những phương tiện kể trên để bằng mọi cách đạt đến đích cuối cùng của cứu cánh. Để rồi chúng trượt dài trên "hư lộ", quyết bám lấy những phương tiện nêu trên mà bảo vệ những thành quả có được trên bước đường bóc lô.t. Chúng luôn run sợ cho sự tồn vong của lâu đài đồ sộ xây dựng bằng máu xương của nhân dân trên nền cát, trên nền tảng là sự dối lừa và vô đa.o.

Chúng ta không thể hời hợt, dễ giải và cả tin...cũng chính từ những lòng tin chân chất đó mà cả thế kỷ qua dân tộc VN đắm chìm trong tăm tối, khổ đau mà không một bút giấy nào có thể lột tả ra cho hết đươ.c. Ngược lại đối với người CS luôn tiềm ẩn sự dối lừa, xảo trá và mưu ma chước quỉ.

Trên con đường phục hưng đất nước, sắp xếp lại trật tự đạo đức xã hội, lập nên nền chính trị, thể chế chính danh,hoàn mỹ hơn và thực sự là tiếng nói là tấm lòng của muôn dân ký thác...tất nhiên có muôn vàn khó khăn và trở lực, cạm bẩy cũng không loại trừ. Tuy nhiên để cho công cuộc thay da đổi thịt trên thân thể Mẹ VN thành tựu, đồng thời đem lại hạnh phúc trường tồn cho dân tộc thì cái điều căn bản đầu tiên để hướng cho hoạt động đi không chệch hướng chính là "Đa nguyên chính trị". Có được đa nguyên chính trị rồi thì chúng ta mới bước tới những bước tiếp theo. Nơi đây tôi xin mạo muội nói sơ qua về hai chữ "Đa nguyên".

"Đa nguyên " ( ngoài chính trị ra, thuật ngữ đa nguyên cũng được dùng với một số nghĩa khác trong ngữ cảnh tôn giáo, kinh tế và triết học...) luôn đồng hành với Dân Chủ, Nhân Quyền, nó là 3 ngọn đuốc sáng soi cho con đường mà mọi dân tộc bước đi để xây dựng một xã hội nhân bản và phồn vinh. Không phải đến gần đây từ "đa nguyên" mới xuất hiện để đối kháng lại với "đơn nguyên" của chế độ độc tài, độc trị mà CS áp đặt trên các nước bị nhuộm đỏ...mà nó đã có từ giữa thế kỷ thứ 4 sau công nguyên để lập nên những giá trị làm nền tảng cho những cộng đồng xã hội ngoại KiTô giáo sống thích nghi, sinh tồn trong xã hội mà lúc bấy giờ là thời hoàng kim của xã hội KiTô giáo. Chính những giá trị tinh thần của cộng đồng xã hội ngoại Ky Tô đó đã khiến cho những vị đứng đầu Giáo Hội Ki Tô đầy quyền lực chấp nhận cho một sự thỏa hiệp, một sự hòa mình sống chung với nền văn hóa đặc thù của xã hội ngoài Ki Tô tương phản với Ki Tô Giáo ( có thể gọi là đối lập) một cách hòa bình. Những giá trị đó là "Đa nguyên". Từ đó qua hàng thế kỷ xã hội đa nguyên phát triển không ngừng trong xã hội Châu Âu với phương châm "Tương đồng trong dị biệt". Sau này triết gia Pierre Abelard (1079-1142) đã nói rõ nguyên lý này rằng : " Diversa non Adversa"(tương phản nhưng không là địch thủ) và từ đó "Đơn nguyên" Ki Tô Giáo đã trở thành "Đa nguyên".

Khái niệm về "Đa nguyên" đã được các nhà chính trị, văn hào như Benjamin Constant, Alexis de Tocqueville tôn vinh như một con đường sáng để đem lại an lành, hòa bình cho xã hô.i.

Còn Nietzche thì cho rằng Đa nguyên bắt nguồn từ Đa Thần Giáo, việc tạo tác các thần linh cùng các vị Anh Hùng cùng những sự vật phản ánh bản năng phóng khoáng, đa dạng của tư tưởng con người và nó cũng là khát vọng của bản ngã, của mọi con người, của mọi tầng lớp trong xã hô.i.

William James thì cho rằng Đa Thần biểu hiện tính chất "Đa nguyên" của vũ trụ, là tổng hợp những hình thái và nguyên lý bao trùm vũ trụ.

Theo Aristote thì con người có 2 động cơ chính là quyền sở hữu và cảm tình. Hai yếu tố này không có vị trí trong xã hội "Đơn nguyên" khép kín của Platon, Hegel, Marx. Xã hội đa nguyên rộng mở trái ngược với xã hội đơn nguyên khép kín (CSCN) xem sự tự do, sở hữu cá nhân từ vật chất đến tinh thần đều là những trở lực, là thù địch với thể chế đơn nguyên độc trị.

Còn rất nhiều các triết gia, chính trị gia nổi tiếng nói về đa nguyên nữa nhưng tựu chung lại tất cả đều cùng một tư duy về đa nguyên là sự gắn kết không thể tách rời của sự sống (muôn loài) với thiên nhiên, vũ trụ luôn đa dạng muôn chiều...qua đó đa nguyên bao trùm, chất chứa tinh thần thực tiễn, đối nghịch lại với mơ hồ ảo tưởng. Đồng thời Đa nguyên song hành với phương pháp luận thực nghiệm (Pragmatisme). Có một điều ta thấy "Đa nguyên" nó gần gũi với xã hội VN hiện nay là nó "chấp nhận đối thoại", chấp nhận ý tưởng phát kiến của cá nhân không phân biệt dân tộc, tôn giáo hay quốc gia nào và nâng cao sự khiêm tốn, tự trọng, khách quan và bao dung. Đó là nền tảng của đạo đức muôn đời.

Nói tóm lại, với những nhận xét và lý luận của các triết gia, chính trị gia trên thế giới xưa nay thì ta có thể nói rằng xã hội đa nguyên là một xã hội rộng mở, nhân văn, đa diện...trái ngược với xã hội đơn nguyên, khóa chặt, độc tài thiển cận mà Platon, Hegel, Marx đã đề cao.

Từ xa xưa cũng chính cái ý tưởng của xã hội đa nguyên là nguyên nhân cho sự tan rã của các xã hội đơn nguyên khép kín mang hình thái bộ lạc, lạc hậu thiếu nhân bản và nhân văn. Cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước với sự sụp đổ của bức tường Berlin, hệ thống CNXH ở LX và Đông Âu cũng không là ngoại lệ.

Trở lại với tình hình chính trị xã hội VN thì con đường "Đa nguyên" không thể thiếu. Duy nhứt một điều dễ hiểu là Đa NguyênĐân Chủ-Nhân Quyền là ba yếu tố không thể tách rời trong một thể chế xã hội văn minh. Hơn thế nữa, một thể chế đa nguyên là thể chế của một chính quyền "pháp trị", sự quan hệ giữa người dân với chính quyền trên nền tảng pháp luật, nơi này pháp lý và vũ lực là hai gam màu tương phản với nhau. Trong đó "Tam quyền phân lập" rõ ràng, và nơi đó người dân tư tạo cho mình một khoảng trời riêng, tự quyết mà không bị áp đặt, bắt buộc hay định hướng một điều gì trên mọi phương diện, mọi hình thức.

Trong thế nước hiện nay-Lò lửa nhân quyền, tư do, dân chủ đang phừng phực cháy. Những nhà yêu nước, dân chủ của chúng ta phải có một cương lĩnh, lập trường, lập luận sáng suốt và dứt khoát. Lúc này là lúc mà kẻ xấu, kẻ cơ hội nhập nhằng thừa nước đục thả câu và vàng thau lẫn lô.n. Nơi đây tôi cũng không khiêng cưỡng với cực đoan, đố kỵ. Không tuyệt đối phải quá quan trọng về quá khứ để làm nền tảng, chất liệu mà viết nên trang sử ngày nay và làm tiền lệ cho mai sau. Tuy nhiên những vết hằn trên thân thể Mẹ VN quá đậm sâu và bị gây nên bởi cường quyền CS, bởi một bầy đàn mà nói theo dân gian là "Ngu mà lỳ" cộng thêm là một học thuyết phi nhân vô đa.o. Lấy lừa dối làm phương châm, bạo quyền làm vũ khí để thâu tóm mọi giá trị từ vật chất đến tinh thần của dân tộc VN về cho một băng nhóm, cá nhân...những việc này "Tôi không nhắc lại" (xin lỗi y-tá 3X) vì nói nữa hơi nhàm, ai cũng đã rõ.

Theo như tôi đã dẫn chứng ở trên về xã hội đa nguyên-trong đó phương châm "Tương đồng trong dị biệt" để thích nghi, sinh tồn và sống chung cùng đối lập mà áp dụng cho xã hội VN thì e rằng có nhiều điều cần suy nghĩ. Chính trong những năm 60s của thế kỷ trước, lãnh đạo đảng CSLX Khrushchev đã có đường lối bác bỏ tư tưởng sùng bái cá nhân (I.V.Stalin) và sống hòa bình với thế giới Tư Bản. Đường lối này Mao trạch Đông gọi là "chủ nghĩa xét lại". Ở VN Gs Hoàng minh Chính một lý luận gia cao cấp, giám đốc học viện Marx-Lenin đã ủng hộ tư tưởng, đường lối này và chủ trương sống chung hòa bình cùng nhân dân Miền Nam, chính phủ VNCH. Cuối cùng cả nhóm theo chủ trương của Gs Hoàng minh Chính đều bị họa với con số khoảng 300 người trong đó có 30 người là nhân vật cao cấp (theo Journal of cold war History tháng 11/2005). Số thì bị bắt tù đày, số bị khai trừ ra khỏi đảng, giam lỏng và một số nữa phải tỵ nạn chính trị ở LX. Gs Hoàng minh Chính phải chịu kinh qua 3 lần tù đày, giam giữ tổng cộng gần 20 năm.

Ông Trần xuân Bách-Ủy viên BCT TƯ đảng CSVN lúc tại vi.-với tầm nhìn bao quát và muốn có một thể chế Đa Nguyên để xã hội tốt đẹp hơn và cuối cùng ông T.X.B đón nhận một hậu quả như thế nào thì ta đã rõ.

Trung tướng Trần Độ khi còn đang tại vị là một đảng viên cao cấp đảng CSVN. Ông đã nhìn xa trông rộng và thấy được sự sai lầm, xấu xa của đảng có thể đe dọa sự tồn vong của đảng và của xã hội, ông đã có tiếng nói " Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị, kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hóa ruổng nát, tắc tị không những của cơ thể xã hội mà của cơ thể đảng nữạ". Theo ông " Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng. Nơi đây ông không hề chống đảng hay có một khuynh hướng chính trị đối lập mà muốn đảng trong sáng, mạnh mẽ hơn lên.

Chính những lời khẳng khái và ý chí này lại trở thành mũi tên bắn thẳng vào tim của chế độ, của đảng CSVN. Với sự bảo thủ và ác tâm của tập đoàn chóp bu CSVN, do đó ông đã bị khai trừ ra khỏi đảng CSVN ngày 4/1/1999 khi vừa tròn 58 tuổi đảng và sau đó cuộc đời ông phải gánh chịu và nhận lấy bao sự phủ phàng, oan khuất gây ra từ phía đảng và đến ngày cuối của đời ông, ngay trong đám tang của ông mà đảng cũng không buông tha cho một người gọi là "Đại công thần" của đảng chỉ vì có tư tưởng cách tân, muốn cho đảng mạnh mẽ, trong sáng hơn lên và cho xã hội đẹp tươi mà phải chịu cảnh nghiệt ngã. Nói như thế qua 3 dẫn chứng trên thì ta đã thấy rõ cái "Ngu mà lỳ" của CSVN như thế nào?

Ngày nay đứng trước tình hình đất nước-Thành lập các đảng mới, thực hiện "Đa nguyên", đa đảng đối lập với đảng CSVN, công khai đấu tranh tích cực, cạnh tranh lành mạnh, trong sáng rõ ràng, sòng phẳng trên vũ đài chính trị là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên như phần đầu tôi đã nói-CS xây dựng lâu đài đồ sộ trên nền cát, do đó luồng gió Đa NguyênĐân Chủ-Nhân Quyền có cơ nguy sẽ làm sụp đổ lâu đài đó cho nên nó là thế lực thù địch của CSVN. Như ai cũng biết CS thâm độc, mưu ma chước quỉ, đê hèn...không việc gì là không thể làm đươ.c. Bản chất của người CS từ trong máu khó mà tẩy sa.ch. Tuy nhiên trong thời gian qua cũng có không ít cán bộ đảng viên CSVN đã nhận ra tội lỗi của mình gây ra trong quá khứ và con đường đi theo là sai lầm và gây tác hại cho đất nước, cho nhân dân và đã cương quyết đoạn tuyệt với CS, với cái ác mà trở về với nhân dân. Những người này cần được chúng ta tôn tro.ng.

Ngược lại với những con người CS đương quyền và gọi là "trung kiên" với ý thức hệ thì hai chữ chân chính khó mà tìm ra trên thân thể họ. Trước cơn bão nhân quyền, đảng CSVN không thể ngồi yên chờ sụp đổ mà sẽ bày ra những trò xảo thuật ma quái hạ đẳng vốn có để che mắt cộng đồng thế giới hòng khỏi bị loại ra khỏi sân chơi quốc tế. Đồng thời để xì hơi quả khinh khí cầu Nhân Quyền đang căng thẳng ở VN mà thế giới đang gây áp lư.c.

Một đảng mớiđdảng DCXH hay đảng X,Y,Z nào đó sẽ được tung ra với bàn tay lông lá của loài khỉ, vượn được nối dài từ động Ba Đình là không thể loại trừ. Những đảng viên CSVN tự hào là kiên trung (với tà giáo) với hơn 40-50 tuổi đảng vẫn tự hào có nhiều thành tích và chức vụ trong cái guồng máy tà quyền phản dân hại nước, vẫn xem nhân dân Miền Nam VN là thù địch...vẫn không thấy hạt cơm của nhân dân Miền Nam nuôi mình sống và lớn lên nơi cống rãnh, gầm giường núp trốn!!!(đúng thực tế) đồng thời dạy cho mình có con chữ để rồi theo tà quyền sát hại nhân dân. Ngay trong thời điểm này lại đứng lên nói tiếng nói như là của nhân dân, về với nhân dân và có lời giống như hạch sách CS một cách gọi là...để che mắt mọi người. Tại sao mình kêu gọi đ/c đồng đội của mình quay mặt với đảng CSVN mà bản thân mình không dám công khai, thẳng thắn vứt đi những gì mà đảng đã trao cho trong cái ngày "Không cờ, không quạt" thuở đó, của một thời "cùng anh em đứng lên phất cao ngọn cờ" đồng thời " xin nằm xuống cho quê hương" ?. Trong nhân dân chắc cũng không ít người nhìn thấy cái giả dối lộ liễu hay có khi cũng làm "khổ nhục kế" trong lúc đang thập tử nhất sinh của người CS kiên trung.

Còn các ông đã từng ở vị trí chóp bu, UV BCT đảng CSVN, từng một thời ngồi ở đỉnh cao cầm vận nước sao lúc đó không có một lời phản biện như Gs H.M.Chính, Tr.T.T.Độ, T.x.Bách, Lê hồng Hà, Nguyễn hà Phan...khi đang tại vị? mà đến khi bị thất sủng về với đồng ruộng bãi bờ lại trở cờ theo gió mà nói lên những lời không đúng như trong trái tim của mình? của người CS???

Tại sao các vị ăn cơm Quốc Gia ngày xưa mà làm tay sai cho CS hơn 40 năm qua không một lời trung thực theo đạo lý đã học nơi giảng đường các trường ĐH Sài Gòn mà đến khi bị sự ghẻ lạnh của chế độ, vứt bỏ mình bên lề cuộc chơi mới dám có một chút hơi hám, ho hen cho thế sự?. Giả dụ như những lời hiện nay của các vị là thực tâm không là giả dối, không là cò mồi, tay sai...quyết tâm về với nhân dân chối bỏ tà quyền. Thì tôi xin hỏi các vị nếu như CSVN vẫn trọng dụng các vị, trao cho các vị quyền cao chức trọng, những chiếc ghế mà bạc vàng Đô La tuôn chảy vào túi tham như nước sông Sài Gòn, như cống rãnh ngày xưa các vị ngụp lặn, ẩn mình thì các vị có nói lên những lời "tính sổ" trên giường bệnh và những lời hô hào "bỏ đảng" như hiện nay đang nói hay không? Tôi cam chắc 100% là "Never" mà ngược lại các vị còn tích cực cùng tà quyền đàn áp, bóc lột dân lành, bòn rút nguyên khí Quốc Gia.

Thế sự mỗi ngày mỗi khác-Mây trời còn đổi màu theo tiết mùa, mưa nắng thì bầu trời nơi vũ đài chính trị VN cũng luôn thay đổi. Các vị múa may gì thì múa, các con buôn chính trị mua bán đổi trao gì thì trao đổi, lũ ca-ve đảng phái ngâm nga gì thì cứ ngâm...nhưng có điều các vị nên nhớ rõ rằng nhân dân VN không còn ngây thơ để bị gạt lừa như trước nữa. Thế hệ trẻ VN ngày nay thông minh, kiên cường, bất khuất chứ không vô cảm, ngủ mê như các vị tưởng. Với không gian Internet rộng mở...Nhân dân và tuổi trẻ VN sẽ có đủ sáng suốt, nhận định, phán xét những diễn biến trên vũ đài chính trị đầy phức tạp này. Những Phương Uyên, Nguyên Kha, Minh Hạnh, Phong Tần, Thanh Nghiên, Hoàng Vi, Thục Vy, Duy Thức, Việt Khang...v.v...Quí vị khi đứng trước những Anh Thư Tuấn kiệt này quí vị có lấy làm hổ thẹn? Nếu như ngày xưa các vị thức tỉnh ngay trong những buổi ban đầu theo cáo hồ gây tội ác, hay ít ra cũng vài ba chục năm về trước các vị nhận rõ con đường lầm lạc của mình mà hối lỗi với nhân dân thì ngày nay tiếng gọi, hô hào của các vị cho dù là nhỏ bé nhưng tôi tin sẽ nặng ngàn cân.

Riêng phần tôi, tôi luôn ủng hộ một đảng phái nào của các Anh Thư, Tuấn Kiệt, những nhà dân chủ VN đã và đang đổ xương máu cho nền Độc LâpĐân Chủ-Nhân Quyền Việt Nam

David Thiên Ngọc

TRẦN HỒNG TÂM * ĐIẾU VĂN VĨNH BIỆT ĐẠI TƯỚNG



ĐIẾU VĂN CỦA CỰU CHIẾN BINH CHO VÕ NGUYÊN GIÁP

Cựu Bộ Đôi Trần Hồng Tâm từ: Việt Nam

18:27_11.10.2013

Vĩnh biệt huyền thoại.
Nhìn dòng người xếp hàng chờ viếng Ông trên đường phố Hà Nội, gợi tôi nhớ đến hình ảnh người dân Bắc Hàn than khóc trong tuyết lạnh trên đường phố Bình Nhưỡng để chia tay với vị lãnh tụ kính yêu Kim Chính Nhật.

Tôi lớn lên ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đến tuổi đi bộ thì cuộc nội chiến đẫm máu Bắc – Nam kết thúc. Nhưng bất hạnh thay, chiến tranh vẫn không buông tha đất nước này. Thế hệ chúng tôi phải tham dự vào một cuộc chiến kế tiếp nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đảng gọi chúng tôi là “Quân tình nguyện”. Thế giới gọi chúng tôi là “Quân xâm lược”. Bốn năm trong đội quân do Ông chỉ huy, là khoảng thời gian đủ dài để tôi suy ngẫm về sự tàn bạo của chiến tranh và những trò đùa trên số phận con người.

Với tôi, cái lòng chảo Điện Biên chỉ là một vạc dầu oan nghiệt u mê, ấu trĩ, cuồng tín. Tôi sẽ gọi Ông là thánh nếu ông giành độc lập mà không cần phải có một Điện Biên Phủ hung tàn. Nhìn sang những quốc gia lân cận Ấn Độ, Miến Điện, Malasia, Singapor, Indonesia, người ta cũng giành độc lập mà không cần nhiều xương máu như Ông.

Bao nhiêu thế hệ trai làng quê tôi ra đi không trở lại. Có gia đình chết đến tám người con trai. Tuổi thơ của tôi ngập ngụa trong sợ hãi đớn đau, oán giận, khóc than. Nỗi kinh hoàng cứ ập đến mỗi gia đình hằng đêm khi nghe tin người thân của mình đã chết.Tôi căm ghét chiến tranh. Nhưng chiến tranh lại cứ liên miên.“Năm năm, mười năm, hai mươi năm, hoặc lâu hơn nữa…” Đất nước hoang tàn. Còn đâu là đời người, còn đâu là nòi going.

Diễn văn nhận chức của Obama có nhắc đến Khe Sanh như một niềm tự hào về sự chiến đấu ngoan cường và lòng quả cảm của người Mỹ. Tết Mậu thân cũng không đủ bằng chứng người Mỹ đã thua trong trận đánh đẫm máu này. Người Mỹ đã nhận ra sự tàn khốc của cuộc chiến. Họ hy sinh lòng kiêu hãnh để cứu vớt mạng người. Đó là một quyết định khôn ngoan và nhân đạo. Lòng nhân đạo không chỉ giành cho những công dân Mỹ, mà cho cả chúng ta. Nếu họ không làm như vậy, thì có lẽ tôi sẽ không còn ngồi đây viết những dòng này.

Tôi đã học, đọc nhiều về thiên tài quân sự của Ông, nhưng có một câu hỏi đến nay tôi vẫn không tìm thấy câu trả lời. Năm giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, người Tầu đã dùng đến 15 quân đoàn, tấn công ồ ạt trên toàn tuyến biên giới có chiều dài khoảng 1500 km, xấp xỉ với khoảng cách từ Hà Nội đến Sài Gòn, nhưng Ông không hay biết gì. Phải chăng đó là một sỉ nhục của ngành tình báo do Ông lãnh đạo. Phải chăng đó là một sai lầm của Tổng tư lệnh mà Ông đang nắm giữ.

Ông rời quân ngũ, rời trận mạc đã lâu, vậy mà càng về già Ông càng hay mặc quân phục rất chỉnh tề, thậm chí nằm trên giường bệnh cũng mang quân hàm. Cả nước này, ai không biết Ông là tướng. Nhìn lon đại tướng bốn sao ông mang trên vai áo, nhìn những huân chương ông mang đầy ngực, tôi thấy hơi lố bịch và tàn nhẫn. Bởi những huân huy chương kia đồng nghĩa với giết chóc, máu lửa, tử khí, oan hồn.

Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử. Liệu vong linh của những người đã chết có cho Ông được bình yên nơi chín suối.

Nhiều người rất mãn nguyện và nở mày nở mặt vì đám tang của Ông được đảng tổ chức trọng thị. Từng sợi tóc của Ông được chẻ làm tư để ca ngợi. Quan tài của Ông lung linh qua những khải hoàn môn. Nhưng những người dân nước Việt được ông giải phóng vẫn đang vùng vẫy trong lầm than, oan ức, bất công, tủi nhục, đói nghèo.

Tôi đốt nén nhang lòng vĩnh biệt Ông.
Vĩnh biệt những chiến công thật ra chỉ là huyền thoại.
Cựu Bộ Đôi Trần Hồng Tâm

Monday, October 14, 2013

THỤY KHUÊ * NGUYỄN CHÍ THIỆN

Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa Ngục
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa Ngục

Thụy Khuê
Hoa địa ngục là một hành trình thơ, là một hành trình sống. Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc. Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.

Năm 1979, một tập thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả, chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã đem tác phẩm của mình "ném vào" toà đại sứ Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Hoa địa ngục, khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy vực[1], Quê hương tù ngục[2], v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa địa ngục do tác giả chọn. 
Hoa địa ngục hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông còn sống. 
Bởi nhiều lý do, nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng người Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến "bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu, phần đông không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ cực hữu, sử dụng ông như một vũ khí, một viên đạn trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối cùng chỉ còn lại một số ít người trung thành với thi ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt hành trình lâm nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ ông trong im lặng. 
Những thành kiến cả yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này đã tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực đoan, quá khích, đi ra ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí Thiện. 
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đã thở thành sự thật. 
Năm 1960, ở tuổi 21, vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án hai năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.
Năm 1966, bị tình nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11 năm, 1977 được thả.
Năm 1979 đến toà đại sứ Anh gửi hay "ném" tập thơ Hoa địa ngục, bị bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.
Trước sau tổng cộng 27 năm.
Ngày 28/10/1991, Nguyễn Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự thành thật đã qua đời dưới một thế quyền mà sự giả trá đã trở thành quốc sách. 
Sự thành thật nguyên thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho người nghe, người đọc trong các xã hội "tân tiến" phải ngạc nhiên vì chất men "quê mùa" còn sót lại trong con "người rừng" đã trải gần ba mươi năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới "văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền sử. 
Làm thơ khi bắt gặp một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh lòng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể chuyện bằng thơ. Thơ ông gần với lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục. 
Hoa địa ngục là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời trong xã hội cộng sản
Người ta trách thơ ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? Còn kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ? Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng, ghi lại những đớn đau gào thét trong thịt da tâm não. 
Bản thảo Hoa địa ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự, không theo thời gian, mà cũng không theo chủ đề, các bản in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài. 
Lối in vội này, in tất cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều. Biết bao nhà thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ dở hoặc những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần. Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ. 
Vậy điểm đầu tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí Thiện: Thân phận con người trong xã hội toàn trị
Nguyễn Chí Thiện là nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân đến tư tưởng. Hoa địa ngục vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình sống.Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc. 
Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn. 
Hoa địa ngục là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà bình, độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng sáng tác bài Mắt em, thơ tình, có lẽ là bài thơ đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái "thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu rung động trước đôi mắt thuyền[3]. Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong tình yêu thứ nhất: 
Mắt em mềm mại con đò
Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu
Mắt em trong mát giòng sâu
Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một vườn hoa
Vắng anh, thắm nở chói loà sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957) 
Người thanh niên 18 tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn còn mộng đôi mắt thuyền của Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài các "đóng nghiêm" trong khung cửa của Thâm Tâm TTKH. 
Một năm sau, 1958, thơ đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm "giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn: 
Quanh hồ liễu rủ
Giữa hồ tháp đứng âm u
Đền Ngọc Sơn không hương khói lạnh lùng
Cầu Thê Húc nằm nghe lá rụng...
Đâu những bác thầy tầu, thầy cúng
Những bà già đi lễ năm xưa?
Cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùa
Lẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958) 
Lại một năm nữa trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá. Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài, lan tới núi rừng, tới thượng du, tới những bản xa nơi địa đầu hoang dã: 
Vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếu
Rừng ngả dần mầu hiểm bí, âm u
Gió đìu hiu thoang thoảng lạnh hơi chiều
Sương ẩm ướt bắt đầu rơi phủ
Trong lặng vắng vút ngân dài tiếng hú
Vài cánh chim lạc lõng vội bay về
Lời tối tăm vang dậy bốn bề
Tiếng ếch nhái côn trùng trong cỏ nước
Người lữ khách giật mình chân rảo bước
Bàn mường xa có kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959) 
Nhưng 1959 cũng là năm người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn xã hội, nhìn con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được thực dân Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ búa liềm, liệm dần cuộc đời thực tại trong bốn bức tường độc tài của một người, một đảng. 
Nguyễn Chí Thiện bắt đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng thời cũng là ý thức của chính mình, lần đầu tiên tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm sau những bức bình phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo: 
Tôi thường đi qua phố
Có anh chàng mù, mắt như hai cái lỗ
Kính chẳng đeo, mồm thời xệch méo
Ngậm vào tiêu, cổ nổi gân lên
Dốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rên
Mấy bài hát lăng nhăng ca ngợi Đảng
Đã mang lại ấm no và ánh sáng!
Một buổi sớm anh như choáng váng
Gục xuống đường, tiêu rớt sang bên
Tôi vội vàng chạy lại đỡ anh lên
Anh chỉ khẽ rên: Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959) 
Năm 1959 đối với Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức. Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng. Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến hết tuổi trẻ. 
Năm 1960, lại một bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa viết Nhật đầu hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì đến chính trị Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà, lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền". Người con trai 20 tuổi, bị giam vì trót dậy học trò sự thực, chưa tiên đoán được những gì sẽ đến trong tương lai: 
Nửa đời thân thế long đong
Nhà thương tù ngục xoay vòng tuổi xuân
Một năm thổ huyết hai lần
Mười năm cấm cố tiêu dần thịt da
Rừng hoang biên giới mưa sa
Hoẵng kêu nấc gịong xa xa trên ngàn
Chăn đơn khôn ấm nỗi hàn
Co lên đất tấm thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974) 
1961, nẩy sinh một Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã thôi lãng mạn, đã từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh: 
Có những chiều mưa buồn lạnh cóng
Giữa bùn trơn tê tím xương da
Chống cuốc nhìn rừng núi bao la
Trong bụi nước mờ mờ lẩn bóng...
Có những chiều mặt trời như lửa bỏng
Giọt mồ hôi mờ xót con ngươi
Đặt gánh phân nhìn bốn phía đất trời
Rừng núi đứng im lìm trong nắng loá
Có những chiều thịt gân rời rã
... (Có những chiều, 1961)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ nhân chứng
Từ đây, Nguyễn Chí Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản. Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đã quắc lên. 
Ở tuổi 23, ông viết bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về trước, nay đã có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt, vung lên: 
Chúng tôi sống giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong mấy dẫy nhà tranh
Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp sống của con người
Của trâu, chó? So làm sao, quá khó!
Làm kiệt lực, nếu không giây trói đó
Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy cứ coi chừng
Xà lim tối, chân cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền miên đói khát
Đánh liều xơi tất cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng
Chưa có một thứ gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang
Đảng cất giấu dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn vừa khốn nạn, gian ngoa
Biết bao người chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả những loài bọ rết
Vì thuốc men, trò bịp khôi hài
Chế độ tù bóc lột một không hai
Biết bao cảnh, bao tình quằn quại
Có những kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y tế dữ hơn phòng mật thám!
Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma
...
Có những buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công an lục soát toàn thân
Thu đốt cả vật tối cần- miếng dẻ!
Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên đường cụ hứa như thế kia a?
... (Chúng tôi sống, 1962) 
Chúng tôi sống, 1962, là một bản cáo trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù nhân chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết, chưa bao giờ được công bố.
Chúng tôi sống làbức tranh hiện thực rỏ máu. Sự thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người còn chưa hết say chiến thắng Điện Biên, còn đang hướng về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn "phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải 40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này thành tiểu thuyết. 
Nguyễn Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì vậy mà ông đã không được đánh giá đúng mức, bởi trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí Thiện. 
Chúng tôi sống nói lên sức sống mãnh liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao có sự trở mình của một ngòi bút bẩm sinh vốn nhu mì, nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao một thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại sau 27 năm tù. 
Trong số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện rõ nét, bởi anh là một nhà thơ,  dám nghĩ, dám ghi lại ngoại cảnh và tâm cảnh của mình. Anh bắt đầu đầu đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung: 
Trời u ám, cây hay là xương xám?
Mây đục mờ, hay vải liệm mầu tang?
Gió đìu hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?
Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ ngước trông non nước mịt mù
Và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (Trời u ám, 1962) 
Kể từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai trò nhân chứng của mình. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi lại trong đầu từng cảnh sắc, từng hình ảnh, từng chi tiết nhỏ nhoi: 
Đêm rừng, rả rích mưa, phòng dột
Ôm gối ngồi run lạnh nhìn nhau
Chấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu
Thùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt
Đêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm rừng rả rích, 1962) 
Mỗi trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp người kinh hoàng đến thế: 
Trời mưa tầm tã đêm qua
Sáng nay lạc rỡ còn pha trộn bùn
Sá gì bệnh sán, bệnh giun!
Dịp may hiếm có, tùn tùn nuốt nhai
Tôi nghe rào rạo bên tai
Một nhân lạc phải trộn hai nhân bùn (Trời mưa tầm tã, 1962) 
Cái đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa, không còn trọn khối nữa, mà nó đã hoá thân, hóa chất, nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn nuốt nhai, rào rạo bên tai, một nhân lạc trộn hai nhân bùn. Nó đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ chậm mà chắc. 
Vẫn chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả: 
Toán tôi rỡ lạc ngoài đồng
Có ông quản giáo ngồi trông đàng hoàng
Thừa cơ quản giáo trông ngang
Một anh tranh thủ vội vàng nuốt nhai
Vài nhân lạc cả vỏ ngoài
Quả tang! Báng súng nện hoài không thôi!
Mồm anh toé máu, vều môi. (Toán tôi rỡ lạc, 1963) 
Chưa có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói vừa bị đánh. 
Nhưng sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài, càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt hệ thần kinh người đọc.
Thơ Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời, cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ bình thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn trong những con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất ngờ. 
Cũng năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ lãng mạn pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên ngôi, người thanh niên 24 tuổi, sau ba năm tù tội, đã nghiền tan cái lãng mạng của thời mình trong những dòng thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm mình mẩy, những vần thơ run sợ thất thần trên đường lên máy chém: 
Khi ta tới mặt trời đã nguội
Gió mùa thu trở gió may cào
Những mầm non khô cứng tế bào
Mau thay sắc mang mầu xanh rớt
Và mặt đất hoá thành mặt thớt
Và con người con cá thiu ươn
Khắp nơi nơi nhung nhúc loài lươn
Loài giun đất không quằn khi dẫm
Tình mộng đã vùi chôn một nấm
Hận thù trơ trọi sống mồ côi
Những vần thơ lãng mạn câm rồi
Còn rỏ xuống một dòng đỏ sẫm (Khi ta tới, 1963) 
Những vần thơ lãng mạn câm rồi -chính là thơ bị trảm tấu, thơ bị tử hình- là đỉnh cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ thần kinh, rút dần xương tuỷ: 
Mầu thời gian đã chuyển về sắc xám
Vị thời gian đã ngả tới mùi thiu
Nửa trang đời dập, xoá, tẩy còn lưu
Và còn đó nửa trang dài lạnh trắng...
Tim trúng độc hóa ra bầu mật đắng
Hệ thần kinh một mớ chỉ xù lông
Nửa trang đời không một chữ nào trông
Thành nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng...
...
Dông gió hết bơ phờ trong quạnh vắng
Cảnh hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu
Nửa trang đời thâm tím với bầm biêu
Lòng dột nát, nửa trang đành bỏ trắng? (Mầu thời gian, 1963) 
Đã xa rồi cái buổi "mầu thời gian xanh xanh" của Đoàn Phú Tứ. Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám, nó đã ngả mùi thiu, nó là trái tim trúng đạn, nó là hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa trang đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đã chết... nó là mầu tuyệt vọng của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng của thời gian, là sự hấp hối của một người em tập kết: 
Những manh áo vải
Tả tơi
Vật vã
Vào thịt da...
Em có lạnh lắm không?
Mưa gió mênh mông
Thung lũng sũng nước bùn
Bệnh xá mối đùn, ẩm mốc
Những khuôn mặt xanh vàng gầy rộc
Nhìn nhau, đờ đẫn không lời
Nhát nhát em ho
Từng miếng phổi tung rời
Bọt sùi, đỏ thắm!
Em chắc oán đời em nhiều lắm
Oán con tầu tập kết Ba Lan
Trên sóng năm nào
Đảo chao
Đưa em rời miền Nam chói nắng...
...
Sáng nay em không trống không kèn
Giã từ cuộc sống
Xác em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh gặp em, 1965)
Toàn bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa tử trong trận đồ bát quái không tìm được lối ra. Bên cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu:
Trông trâu mà khiếp cho trâu
Lở loang, tanh loét, sắc mầu nhở nham
Lệnh ban giám thị nhà giam
Mừng ngày quốc khánh cho làm thịt ăn
Tù nhân tính toán băn khoăn
Bốn mươi cân thịt, người ăn một nghìn! (Trông trâu mà, 1967)
Trong bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi người tù được hưởng 40g thịt trâu chết bệnh. Chưa có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh loét; bên cạnh một nghìn xác tù hom hem; bên cạnh bữa tiệc quốc khánh quái đản, lại là một chân dung người: 
Bác nằm liền sát cầu tiêu
Mùi phân nước giải sớm chiều nồng hôi
Bác ơi, bác sắp chết rồi
Bác không còn sức để ngồi được lên
Bác nằm thoi thóp khẽ rên
Bát cơm ngô, bát rau dền đặt bên
Bác thèm một miếng đường phèn
Nhà giam Cộng sản bác quên bác tù
Trưa nay cái chết lù lù
Tới khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu! (Ốm đau không thuốc, 1968) 
Cuối cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Người hấp hối và thần chết trò chuyện với nhau trong không gian âm dương giao kết, buốt lạnh: 
Nhìn thần chết hiện lên dần từng bước
Thân tù cao không có lực xô lùi
Anh chết oan, chết thảm, chết dập vùi
Hồn khổ não không thể nào siêu thoát
Đêm đêm hiện về đây lạnh toát
Bộ đồ đen, bụng phù trướng, bước đi
Anh ngước nhìn tôi, ra hiệu, chẳng nói gì
Mặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc
...
Thế đủ rồi, tôi hiểu, hãy nên lui
Thể xác anh chuột khoét đã chôn vùi
Hồn anh hãy về vui nơi cực lạc
Lưu luyến chi đời tù lao đói rạc
Sống đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâu
Chết như anh, hết khổ có chi sầu
... (Nhìn thần chết, 1968) 
Trong nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế, bức nọ để cạnh bức kia, thành cuộc triển lãm một quần hội nửa người, nửa thú, đang sống mà đã chết. Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân chia giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại biên, trên sông lú, người và vật cùng bị giam trong một không gian kín, chết sống giao thoa. Cái đói là bát cháo lú khiến người tù quên mình khi trước đã từng là một con người: 
Suất cơm tôi một hôm đánh đổ
Tôi còn đương đau khổ nhìn theo
Thì nhanh như một đàn heo
Bốn, năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau
Bốc ăn một lúc sạch làu
Miếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau! (Suất cơm tôi, 1966) 
Trên bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn tại như một vong hồn: 
Tôi đương sống, nhưng từ lâu đã chết
Chết trong tim, trong óc, chết tâm hồn
Cố đào lên bao thứ sớm vùi chôn
Song chúng đã xông mùi, tan rữa hết (Đoản thơ, 2) 
Kẻ nhận định thơ mình đúng nhất cũng lại là tác giả. Mười năm sau khi vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện "nhận định" thơ mình: 
Thơ của tôi không phải là thơ
Mà là tiếng cuộc đời nức nở
Tiếng của nhà giam ngòm đen khép mở
Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ
Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ
Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ
Tiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sở
Tiếng dạ dầy đói lả bóp bâng quơ
Tiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơ
Tiếng bất lực trước muôn ngàn xụp lở
Toàn tiếng của cuộc đời sống dở
Và chết thời cũng dở, phải đâu thơ! (Thơ của tôi, 1970) 
Năm năm sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nhì định nghiã thơ mình, khốc liệt hơn: 
Thơ của tôi không có gì là đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao
Thơ của tôi không có gì cao
Như chết chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng
Nó thực như tù, như đói, như đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ (Thơ của tôi, 1975) 
Không còn gì để bàn trước những lời thơ như thế. Quá khích ư? Đúng là quá khích. Nhưng có gì quá khích hơn bị tù vì tội nói thực? Có gì quá khích hơn sự đọa đầy đến chết vì tư tưởng? Không có gì để khen chê trước những lời thơ như thế. Không có gì liên quan tới nghệ thuật trước những lời thơ như thế. Không có gì hàm súc, không có gì ngụ ẩn trong những lời thơ như thế. Phê bình đành chịu. Phê bình đành gác bút. Có lần J.P. Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn nôn của tôi không có nghiã lý gì. Chúng ta bảo: trước những dòng thơ tù như thế, mọi khen chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiã. Phê bình đành á khẩu. 
Trước mắt tôi, mặt trời hấp hối
Sau lưng tôi, bóng tối mịt mùng
Bên phải tôi, tù ngục chập chùng
Còn bên trái, súng nhằm tim chắn lối! (Đoản thơ, 152) 
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ trào phúng 
Nhưng thơ Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có đớn đau và xác chết, ông còn có những bài thơ trào phúng vẽ chân dung lãnh tụ rất có duyên: 
- Về bác Mao: 
Bác Mao cân nặng tạ hai
Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm
Người dân Trung Quốc thì thầm:
"Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản thơ, 126) 
- Về bác Hồ:
 Bác Hồ rồi lại bác Tôn!
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác mầu hồng
Nước da các cháu nhi đồng mầu xanh... (Bác Hồ rồi lại) 
- Lại về bác Hồ: 
Bác Hồ tới thăm thiếu nhi
Bác cười bác hỏi chi li ngọn ngành
Việc ăn ở, việc học hành
Lao động bác dặn chấp hành tốt, nhanh
Kẹo bánh bác hứa để dành
Chủ nghiã xã hội hoàn thành sẽ cho!
Thiếu nhi khăn đỏ cổ cò
Vỗ tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác Hồ tới thăm, 1967) 
- Về học thuyết Mác: 
Học thuyết Mác, này đây sọt rác
Xét lại làm gì, tốt nhất vất nó đi
Sử sách sau này đỡ mất công ghi
Thêm quá nhiều trang xám xì tội ác (Đoản thơ, 169) 
- Về thiên đường Mác: 
Thiên đường cụ Mác dân mơ
Tỉnh ra tài sản bị vơ nhẵn rồi
Chỉ còn lại chút mồ hôi
Đổ ra vì sợ, vì nuôi Đảng rồ! (Đoản thơ, 180) 
Vẽ chân dung các đại lãnh tụ như thế không phải dễ. Đó là lối thơ dân gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ hóm hỉnh. Tính chất hóm này những ai đã từng nghe Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về một lối thoát, dù rất bé, về phiá mặt trời: ông là người của niềm vui, của lạc quan. Ông thích cười nhưng cuộc đời đã làm môi ông chụm lại che kín hàm răng. Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi, nhạo báng, thách thức, chơi khăm, những thế quyền, những bạo lực.  
Bị tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết vì tuyệt vọng. 
Bên cạnh tiếng cười, thơ ông là một cõi mênh mông lệ, cõi nước mắt trong vắt như thủy tinh: 
Trong muôn dòng trái đất tuôn đi
Dòng trong nhất là dòng nước mắt (Lệ, 1971)  
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ thời thế 
Trong tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không gian cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân, mùa hy vọng cũng chịu cực hình như người tù phạm: 
Bốn bức rào nứa
Cứa vào mùa xuân
Một cách bất nhân
Mùa xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48) 
Không gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời tiết của đất nước. Nhưng người tù không được biết gì về thời thế, về chiến tranh, về tình cảnh dân tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù cảm nhận thời thế gián tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ. Khi đất nước bị suy vong, khi con người bị trấn áp, cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như một lời cảnh giác: 
Đêm bão giật, lửa loè muôn tiếng sét
Nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm
Nước từ trời cao đổ xuống ầm ầm
Cả rừng núi lồng lên gầm quát thét (Đoản thơ, 95) 
Trước cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí Thiện đã hiểu tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính mình, người mình, về chuyện nước non tan tác: 
Giận thân rồi lại giận đời
Giận thời chuyên chính, giận người hèn ngu
Giận trời, giận đất âm u
Giận sông, giận núi quân thù dọc ngang (Đoản thơ, 140) 
Nguyễn Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh, nhưng chắc ông đã hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những câu thơ sau đây đánh dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một mối cộng sản: 
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn (Vì ấu trĩ, 1975) 
Và trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ý định lật đổ định mệnh của mình và của dân tộc. Ý chí sắt đá ấy toát thành những lời thơ vũ bão, đặc dị, khác thường: 
Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử (Trong bóng đêm, 1976) 
Sau này, khi chế độ toàn trị chỉ còn là quá khứ, những Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc Tấn... sẽ trở thành chứng nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực tiếp, thành thực về vùng đồng lầy, viết bằng những từ trần trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX: 
Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thầy, phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềng
Hoạ, phúc toàn quyền của đảng (Đồng lầy, 1972) 
Không ai kêu nổi một lời
Mồm dân Đảng khoá đã mười mấy năm (Gửi Bertrand Russell, 1968) 
Lời thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự thật.
Bài Đồng lầy là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện đã sống, một cõi đồng lầy với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch nhái lên làm chủ và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cõi mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà thơ lại phải quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm trong ám khí đồng lầy
Trời cao biển rộng có cũng như không!
Một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi nhơn nhơn từng đàn vang động
Những con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng!
Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy lau còm cõi đứng chen
Hơi có gió là cúi đầu rạp hết
Bát ngát xung quanh một mầu khô chết (Đồng lầy) 
Cả đoạn thơ trên bị một tiếng quạ đêm rỏ xuống đồng làm tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ thần tình, chua xót, một chữ rỏ xác định phong cách thơ. 
Đồng lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc đời Nguyễn Chí Thiện, từ tuổi hai mươi, đầy tin tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa thu: 
"Mơ ước
Đợi chờ
Vĩ đại...
Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ,
Tô thắm mầu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng (Đồng lầy) 
Lời thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang sắc hiện đại của Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt. Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm hơn các bậc đàn anh, vì ông ra đời sau, và cũng chấm dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi ông đã nhìn thấy trước sự thật: Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường-  kéo theo một chuỗi dài rùng rợn: 
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng 
Lời thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.
Thơ mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản cách mạng.
Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách mạng mùa thu. Ông đã nhận ra trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du nhập chính sách đấu tranh giai cấp (của Mác, qua lăng kính Mao, vào đất Việt) là một dòng lũ, bùn, cuốn trôi tổ quốc: 
Một mùa thu nước lũ
Trở thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp sóng hồng man dại
Chìm trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ, mồ hôi, rớt rãi
Đi về ai nhận ra ai!
Khiếp sợ, sững sờ, tê dại!
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy) 
Chỉ có Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như thế. Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960. Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm 1970 gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. Tình cờ chăng? Phùng và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?  
Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác
Đảng lùa đi, tan tác, thương vong
Mái ngói, mái gianh, lệ thảm ròng ròng
Nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Đảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng
Dân đen tay trắng cam đành
Từ núi rừng hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Mầu áo vàng cảnh sát
Tràn lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!
Cuộc sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh
Bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại
Cái cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng lầy, 1972) 
Đồng lầy là một bài thơ thời thế, bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng sản và kết án chiến tranh. Đồng lầy cũng là một bài diễn ca trong phong cách Hà Thành chính khí ca, Đại Nam quốc sử diễn ca... Sau này, khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh giá bản trường ca này một cách công bình hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ là một bài thơ cần phải đọc để tìm hiểu thời đại này. 
Bài Con tầu rêu, là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư tưởng.
Dùng Con tầu rêu Nguyễn Chí Thiện muốn mượn hình ảnh con tầu say (bateau ivre) của Rimbaud, để chỉ những con tầu tự do, hay sự tự do của chính mình. Thơ buồn bã như một lời tâm sự: 
Con tầu say như ních chật không gian
Giữa mùa điên không biết lực điêu tàn
Xô vỡ vụn nơi ngời băng tuyết loá
Trong trắng xoá những ngày mưa tầm tã
Con tầu đau vật vã trước bờ xanh
Phiá mờ xa thôn xóm đứng yên lành
Thân tầu đã tan tành trên mũi đá.
Cay đắng quá những bến nghèo tàn tạ
Đón trông tầu lui tới, đứng buồn thiu
Khi tầu tôi men đến cũng dập dìu
Gây sóng gió đắm dìm cho nhục nhã
Ôi tiếp tới nước triều dâng vật vã
Con tầu run chưa tiến đã chờn lui
Đành một mai nơi đáy nước rêu vùi
Làm chỗ ở cho tôm, sò, ốc, cá
Tôi đã biết những đêm dài dòng dã
Con tầu câm trôi giữa đám trăng sao
Biết dừng đâu, không bóng hải cảng nào
Ra tín hiệu đón con tầu buồn bã
Tôi đã biết những bình minh đói lả
Biến sang mầu loang tím của chiều hoang
Con tầu đi, sức kiệt, lệ dòng hàng
Thương xót những mảnh tầu trôi vạn ngả... (Con tầu rêu, 1965) 
Niềm tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự do đã dấy lên rất sớm, từ thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.
Con tầu tự do trong tim người tù trẻ phóng đi tìm một bến bờ, tìm sự đồng thanh tương ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một mình. Nó đã mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến cả các bến nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng dìm cho tầu chìm, dường như trên mảnh đất này, tự do là yếu tố đã bị yểm, bị mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm, người ta không cần dùng đến. 
Tất cả những đắng cay của con tầu rêu, chìm dưới đáy biển, vận vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa địa ngục.
Không ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiã đúng thơ ông bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi chép lại như lời kết của chính tác giả về đời mình, về tự do và về thân phận dân tộc: 
Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Toàn bộ thơ tôi nặng nề cay cực
Không một sắc mầu mang khí lực xanh tươi
Vần điệu nghe như quỷ khóc ma cười
Do sáng tạo tận cùng sâu đáy vực (Đoản thơ, 112, 113) 
Nguyễn Chí Thiện đã chết. Một cái chết đột ngột, không ai ngờ, trừ "tác giả". Một cái chết nhanh, trần trụi, phanh phui sự thực như thơ ông: Cái chết đứng của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá, trong một ngoại hình gần như vô bệnh. 
Cái chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến dịch "Nguyễn Chí Thiện thật giả, giả thật" nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong vòng nhiều năm, dường muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn ác không kém gì 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống dưới xã hội tự do, những kẻ tạm gọi là "đồng hội, đồng thuyền".
Khi Hồ Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa đánh, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử".
Đấy là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, còn trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng?
Sự lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người. Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng lựa chọn tiếng nào hữu tình, hữu lý; tiếng nào phản, ngụy, trắc, gian.
Trong muôn ngàn tiếng muốn tìm ra
Tiếng nào thiết tha
Tiếng nào trung thực
Hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực (Đoản thơ, 114)
Chúc thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát, tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống dài, sống mãi:
Song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sống
Âm thầm đưa tư tưởng sang sông
Qua muôn trùng hệ thống xiềng gông
Đang ra sức dựng thay cầu cống
Thoát khỏi đầu là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971)

Thụy Khuê
Paris tháng 6-8/2013

[1] DoỦy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in tại Washington DC, 1980.
[2] Do Phong trào thanh niên hành động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.
[3] Mắt thuyền: chữ của Lưu Trọng Lư.


VIỆT NAM LỊCH SỬ VÀ XÃ HỘI

  

  Việt Nam: Người dân ở Hòa Bình bắt trói 6 cán bộ để phản đối về môi trường

Tấm ảnh lưu truyền trên mạng ngày 10/10/2013 cho thấy cảnh công an bị dân bắt trói ở Hòa Bình.
Tấm ảnh lưu truyền trên mạng ngày 10/10/2013 cho thấy cảnh công an bị dân bắt trói ở Hòa Bình.
DR

Thụy My
Từ hôm qua 10/10/2013 cư dân mạng Việt Nam đã xôn xao vì một tấm ảnh chụp một số công an viên mặc sắc phục bị người dân bắt trói ở tỉnh Hòa Bình, mà nhiều người cho là ngụy tạo. Nhưng sau đó Bộ Công an đã xác nhận việc này, và theo báo chí trong nước, thì nguyên do ban đầu là vì người dân phản đối đào đãi vàng trái phép trên sông Bôi.

Vụ này xảy ra vào tối 8/10 tại thôn Bôi Câu, xã Kim Bôi, huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình, khi nhiều người dân xông vào bắt trói sáu cán bộ, trong đó có ba cảnh sát môi trường, ba công an huyện và một cán bộ Phòng Tài nguyên Môi trường huyện.

Ông Bùi Đức Thanh tại Hoà Bình
11/10/2013
Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại viễn liên, ông Bùi Đức Thanh, Chánh văn phòng Ủy ban huyện Kim Bôi giải thích sự việc:
Trên dòng sông Bôi có rất nhiều bãi cát sỏi, nhưng muốn khai thác thì phải xin phép chính quyền. Có một số công ty vào khai thác cát sỏi trên dòng sông Bôi - nơi đây có vàng trôi nổi, vàng nhẹ thôi – thì các công ty đó đặt máng tuyển khai thác để tận thu lấy vàng luôn, còn cát sỏi để làm đường giao thông nông thôn, tức là đổ bê tông mặt đường.
Một số người dân thấy khai thác cát sỏi trái phép thì họ ra bắt, thu giữ máy, và định bắt cả chính quyền của thôn đó. Nhưng sau đó được tin như vậy thì công an và các lực lượng khác xuống nắm tình hình để giải quyết. Thế là một số phần tử quá khích ban đêm đã có uống rượu, bắt giữ cả công an huyện. Sau khi được thuyết phục thì họ đã thả công an ra.
Ngày hôm sau, Ủy ban nhân dân huyện đã họp dân để nghe những kiến nghị của dân. Tổ công tác của huyện hiện nay đang xác minh làm rõ những vấn đề của dân đang kiến nghị với chính quyền.
Cụ thể, một số việc cần làm rõ là ai cho phép khai thác khoáng sản ? Những vi phạm cần phải bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Đối với những người quá khích có vi phạm thì phải xử lý theo đúng các quy định của pháp luật hiện nay.
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131011-viet-nam-nguoi-dan-o-hoa-binh-bat-troi-6-can-bo-de-phan-doi-ve-moi-truong

 

 Paris chuẩn bị triển lãm « Một thế kỷ Pháp tại Đông Dương »

(musee-armee.fr)
(musee-armee.fr)

Thụy My
Cuộc triển lãm quy mô mang tên « Đông Dương, miền đất và con người 1856-1956 » sẽ được khai mạc vào thứ Tư 16/10/2013 và kéo dài đến 26/01/2014 tại Bảo tàng Quân đội ở Paris. Một trăm năm lịch sử hiện diện của Pháp tại Đông Dương được vẽ lại ở đây, từ những sĩ quan hải quân đầu tiên ngược dòng sông Mêkông vào giữa thế kỷ 19, cho đến sự kiện Điện Biên Phủ thất thủ.

Gần 400 hiện vật, từ trang phục, bản rập, tài liệu lưu trữ, phim, vũ khí…được đưa về từ Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Quai Branly và kho lưu trữ của lãnh thổ hải ngoại Pháp, trưng bày trên diện tích 600 m2, làm sống lại thời kỳ Pháp đô hộ Đông Dương. 
Triển lãm giới thiệu hình ảnh không chỉ những người lính và sĩ quan viễn chinh, các nhà dân tộc học, địa lý học Pháp, mà cả các chiến binh Đông Dương chiến đấu chống lại quân Pháp, và những người lính Việt Minh cuối cùng đã đè bẹp lực lượng Pháp vào tháng 5/1954 trong trận đánh Điện Biên Phủ. 
Tướng Christian Baptiste, giám đốc Bảo tàng Quân đội nhấn mạnh : « Bảo tàng không muốn đóng vai trò luật sư hay công tố, mà chỉ trình bày tất cả, với phương pháp giải thích và minh họa một cách khoa học » về những thời kỳ đôi khi khủng khiếp của lịch sử thuộc địa. 
Ban đầu, chính phủ Pháp muốn đặt chân vào châu Á để mở ra thị trường Trung Hoa, chống lại ảnh hưởng của Anh. Hai bộ triều phục lộng lẫy bằng lụa thêu của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tượng trưng cho cuộc kháng chiến của người dân Việt trước cuộc xâm lăng của Pháp. Lúc đầu còn do dự, nhưng sau Hoàng đế Napoléon đệ tam đã xuôi theo ý định chiếm đóng thuộc địa. 
Những tấm bản đồ đầu tiên của thung lũng Mêkông và các vùng biên minh họa nhiều thập kỷ hiện diện. Sau quân đội, đến lượt các nhà truyền giáo và công chức, phụ trách quản lý và khai thác mảnh đất thuộc địa. Những bộ quân phục và vũ khí nhắc nhở rằng hàng chục ngàn tay súng Đông Dương đã chiến đấu tại Pháp và châu Âu trong hai cuộc đại chiến thế giới. 
Christophe Bertrand, một trong những người chịu trách nhiệm triển lãm nhận xét : « Sau năm 1945, chiến tranh Đông Dương không còn là một cuộc chiến thuộc địa cổ điển, mà trong khuôn khổ chiến tranh lạnh ». 
Tại Pháp, người ta nói về một cuộc « chiến tranh bẩn thỉu ». Một tấm áp-phích của đảng Cộng sản Pháp vào thời đó, được chưng trong gian cuối triển lãm, kêu gọi chấm dứt tình trạng thù địch : « Đã quá đủ tang tóc, đã quá nhiều tiền bạc bị lãng phí ».

Cuộc phiêu lưu trở thành thảm họa đối với mấy ngàn người lính Pháp sống sót sau trận Điện Biên Phủ. Những dạng hình ốm đói nằm dài trên những chiếc băng-ca, được ghi lại trong những thước phim lưu trữ của quân đội và vài chục tấm ảnh minh chứng cho giai đoạn này.
Ở gian cuối triển lãm, một bức ảnh đen trắng khổ thật to nhắc lại rằng hồi kết của cuộc chiến Đông Dương đánh dấu sự khởi đầu của chiến tranh Việt Nam, những người lính Mỹ thay chân lính Pháp.
Cuộc triển lãm của Bảo tàng Quân đội mở đầu cho « Mùa Đông Dương », có sự tham gia của Bảo tàng Guimet ở Paris và Bảo tàng Thập niên 30 ở Boulogne-Billancourt.
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131012-paris-chuan-bi-trien-lam-%C2%AB-mot-the-ky-phap-tai-dong-duong-%C2%BB

  Phỏng vấn đại sứ Pháp về hồi ký « La Marseillaise của Tướng Giáp »

RFI
« Bài La Marseillaise của Tướng Giáp », đó là tựa cuốn hồi ký của ông Claude Blanchemaison về thời kỳ ông làm đại sứ Cộng hòa Pháp tại Việt Nam, từ 1989 đến 1995. Cuốn sách ra mắt bạn đọc trong những ngày tới. Vào đúng ngày Việt Nam tổ chức quốc tang cho Tướng Giáp, RFI phỏng vấn cựu đại sứ Pháp.

- Chào ông Blanchemasion, ông đã từng là đại sứ Pháp tại Việt Nam và là tác giả cuốn Hồi ký nói về Tướng Giáp, tựa đề « Bài La Marsaillaise của tướng Giáp ». Ông viết là ông có ấn tượng mạnh trong lần đầu gặp Tướng Giáp ? Phải chăng bởi vì đó là một nhân vật lịch sử nổi tiếng, một nhà quân sự tài ba ?
Vâng đó là một nhân vật thần bí của thế kỷ XX và ông vừa mới qua đời cách nay vài ngày. Riêng mình ông đã viết lên nhiều chương sử. Ông là hiện thân cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất Việt Nam.
Tôi đến Việt Nam đảm nhiệm chức đại sứ Pháp vào tháng Ba 1989. Tướng Giáp lúc đó là Phó Thủ tướng và tôi đã nhanh chóng gặp ông, bởi vì tôi tới gặp các thành viên của chính phủ Việt Nam. Đúng là khi thấy tôi tương đối xúc động, Tướng Giáp đã tìm cách làm cho tôi thoải mái. Ông nói tiếng Pháp một cách hoàn hảo. Ông nói đến Victor Hugo, các nhà văn cổ điển Pháp. Ông cũng tìm cách tỏ ra thân mật, dễ gần. Ông muốn thể hiện tinh thần cởi mở. Đó là thời kỳ chính phủ Việt Nam tiến hành « đổi mới », mở cửa về kinh tế. Ông mong muốn các doanh nghiệp Châu Âu, nhất là Pháp, tới Việt Nam.
- Lúc đó, Tướng Giáp có nói gì về chiến lược quân sự, về vai trò của ông với tư cách là một chiến binh ?
Có chứ, nhưng không phải trong lần gặp đầu tiên. Tôi đã gặp Tướng Giáp nhiều lần trong 4 năm là đại sứ tại Việt Nam, bởi vì tôi đi cùng với nhiều nhiều chính trị gia, nhà báo đến gặp ông. Và đúng là khi được hỏi về trận Điện Biên Phủ, Tướng Giáp nói rằng, thực ra, kế hoạch quân sự của Tướng Navarre tương đối tốt, bởi vì, kế hoạch này giống như con nhím, có hỏa lực rất mạnh và nếu như đối phương mở các đợt tấn công ồ ạt, liên tục, có phần nào theo như lời khuyên của một số cố vấn quân sự Trung Quốc, như đã từng làm tại Triều Tiên, chắc chắn là đối phương sẽ bị nghiền nát tại Điện Biên Phủ.
Thế nhưng, Tướng Giáp áp dụng một chiến thuật hơi khác một chút, chiến thuật dùng giao thông hào, đường hầm để tiếp cận và đương nhiên, kết hợp với việc dùng hỏa lực pháo binh. Việc sử dụng pháo binh gây ngạc nhiên, vì ông đã thành công trong việc đưa các khẩu pháo, do Trung Quốc sản xuất, lên các đỉnh núi vây quanh Điện Biên Phủ.
- Tướng Giáp được tôn kính tại Việt Nam và kẻ thù kính nể, vì đó là một thiên tài quân sự. Nhưng sau sự nghiệp quân sự, Tướng Giáp chưa bao giờ là chính trị gia hàng đầu tại Việt Nam. Tại sao lại như vậy ?
Ông đúng là một thiên tài quân sự và tôi xin nói thêm là Tướng Giáp không hề theo học một trường đào tạo quân sự nào cả. Ông đọc rất nhiều, biết rất rõ các chiến dịch quân sự của Napoléon mà ông gọi là Bonaparte. Ông cũng đọc Clovis và đương nhiên là sách của các chiến lược gia Trung Hoa. Ông biết rõ lịch sử quan hệ Trung-Việt.
Khi tôi gặp Tướng Giáp vào năm 1989, ông là Phó Thủ tướng phụ trách khoa học kỹ thuật. Như vậy, ông có một vai trò lãnh đạo. Lúc đó, ông không còn là ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1982, ông không được bầu lại, nhưng ông vẫn là thành viên Chính phủ, giữ chức Phó Thủ tướng cho đến cuối năm 1991. Như vậy, trong hai năm đầu nhiệm kỳ của tôi, Tướng Giáp vẫn có vai trò chính trị, nhưng không phải trong nhóm lãnh đạo cao nhất, không phải là ủy viên Bộ Chính trị.
Vậy tại sao ông không có vị trí cao hơn trong chính quyền ? Trước hết, ông đã cao tuổi. Khi tôi gặp ông lần đầu, ông vẫn còn sắc sảo nhưng đã 78 tuổi. Mặt khác, cũng có những phe phái khác nhau trong chính quyền và phe mạnh hơn đã gạt ông ra khỏi trung tâm quyền lực.

- Nhưng phải chăng Tướng Giáp vẫn có một vai trò quan trọng, ở hậu trường, ông đã có một số chuyến công du nước ngoài để phục vụ chế độ ?
Đương nhiên, ông vẫn có vai trò quan trọng. Ông đã gặp rất nhiều khách quốc tế. Ngay cả sau này, khi tôi rời Việt Nam vào năm 1995, Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Năm 1995, Tướng Giáp đã tiếp McNamara. Ông này tới Việt Nam để thảo luận với Tướng Giáp một số chi tiết cụ thể trong lịch sử chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.

- Sách của ông có tựa : Bài ca La Marseillaise của Tướng Giáp, phần nào có vẻ mang tính khiêu khích và gắn liền với một sự kiện xẩy ra ít lâu, sau khi ông đến làm đại sứ : Đó là lễ kỷ niệm 200 năm cuộc Cách mạng Pháp, 14/07/1989 ?
Đúng vậy, 14/07/1989. Đương nhiên, tất cả các sứ quán Pháp ở nước ngoài đều tổ chức nhiều hoạt động để chào mừng ngày Quốc khánh và đặc biệt là kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp.
Vài giờ trước khi tiếp khách tại sứ quán Pháp, tôi nhận được điện thoại từ Bộ Ngoại giao Việt Nam cho tôi biết và làm tôi ngạc nhiên, là Tướng Giáp – Phó Thủ tướng - đã quyết định đến dự lễ Quốc khánh. Đương nhiên, ông được mời vì ông là thành viên Chính phủ. Ông đã tới sứ quán vào khoảng sáu giờ tối, trên chiếc xe Volga mầu đen. Ông mặc dân sự. Đây là điều không bình thường bởi vì người ta thường thấy ông trong bộ quân phục. Ông cùng phu nhân đến sứ quán Pháp. Tôi đã tiếp Tướng Giáp trong nhà riêng của đại sứ. Ông nói đến các nhà văn Pháp, hỏi mượn một vài quyển sách. Ông cho biết là khó có được các sách mới. Thế rồi, chúng tôi ra khu vườn của sứ quán, nơi có các khách mời khác, gần 2000 người, dưới cái nóng của mùa hè.
Theo thông lệ, quốc ca hai nước nổi lên. Lúc đó, Tướng Giáp nói khẽ với tôi là ông rất thích bài La Marsaillaise, vì đó là một bài ca cách mạng. Sau đó, quả thực là tôi nghe thấy ông hát phần điệp khúc của bài La Marseillaise. Đó là điều ngạc nhiên. http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131014-phong-van-dai-su-phap-cblanchemaison-ve-hoi-ky-%C2%AB-la-marseillaise-cua-tuong-giap-%C2%BB
 

Kinh nghiệm quy hoạch của Pháp trong dự án khu đô thị Thủ Thiêm
NEXT
Nghe
Thêm vào danh mục của tôi
Tải về
Embed
Dự án quy hoạch công viên bờ sông  Thủ Thiêm
Dự án quy hoạch công viên bờ sông Thủ Thiêm
Deso
Thanh Phương
Vào cuối năm nay, cơ quan thương mại của Pháp Ubifrance, chuyên trợ giúp cho các doanh nghiệp Pháp trong việc tìm kiếm khách hàng và đối tác ở các nước, sẽ tổ chức một cuộc hội thảo chủ đề “ Các kiến trúc sư Pháp ở Việt Nam”.
Với một dân số tiếp tục tăng đều đặn và với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, Việt Nam đang có nhu cầu xây dựng rất lớn, với nhiều dự án xây các khu nhà ở, trung tâm thương mại, bệnh viện, khách sạn, ... . Việt Nam cũng là một quốc gia mang nhiều dấu ấn kiến trúc của Pháp và hiện nay các kiến trúc sư Pháp cũng tham gia rất nhiều vào các công trình lớn, như dự án tuyến đường sắt đô thị ở Hà Nội ( Tư vấn lập dự án tuyến Nhổn - ga Hà Nội là công ty tư vấn Systra của Pháp ), hay khu đô thị mới Thủ Thiêm ở Sài Gòn.

Đặc biệt các kiến trúc sư Pháp mang lại cho Việt Nam những kinh nghiệm rất cần thiết về mặt kiến trúc và thiết kế đô thị mang tính bền vững, vốn vẫn được quốc tế đánh giá rất cao.
Một trong những công ty Pháp tham gia vào công trình khu đô thị mới Thủ Thiêm là công ty kiến trúc DeSo. Công ty này được thành lập năm 2005 và đã bắt đầu có mặt ở Việt Nam từ tháng 4 năm 2008. Đây cũng là thời điểm mà công ty tham dự và đoạt giải nhất cuộc thi Ý tưởng quy họach Quảng trường Trung tâm Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại công ty đang phối hợp với Ban Quản lý Thủ Thiêm và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm hoàn tất kế hoạch chi tiết xây dựng Quảng trường Trung tâm và Công viên bờ sông tại khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn kiến trúc sư Nguyễn Khánh Duy, trưởng văn phòng kiến trúc MSNk và cũng là một trong những cộng sự viên của công ty Deso:
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131014-kinh-nghiem-quy-hoach-cua-phap-trong-du-an-khu-do-thi-thu-thiem


Cuộc sống trong khu 'ổ chuột' ở Sài Gòn


Theo VnExpress - | 12/12/2012 10:59

Việc làm không ổn định, cuộc sống cơ cực tồn tại nhiều năm nay khiến người dân sống ven sông ở quận 8, TP.HCM không biết đến bao giờ mới có thể thay đổi.

Những ngôi nhà tạm bợ tồn tại hàng chục năm nay. Phần lớn cư dân ở đây là lao động nghèo, người không có hộ khẩu hoặc từ các vùng khác đến.
Chưa đến tuổi đi học nên bé Hoàng Phúc (3 tuổi, cháu ngoại bà Vui) chỉ loanh quanh trong nhà với bà và mẹ.
http://soha.vn/xa-hoi/cuoc-song-trong-khu-o-chuot-o-sai-gon-20121212105337427.htm

No comments:

Post a Comment