Pages

Monday, November 28, 2016

ẤN RỒNG TRIỂU NGUYỄN = HỌA SĨ VIỆT NAM= PHỤ NỮ H'MONG, DAO=CCRĐ

11 chiếc ấn rồng vàng tinh xảo của triều Nguyễn

(Dân trí) - Trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn có hơn 100 chiếc ấn, thường đúc bằng vàng ròng hoặc ngọc quý.
Tại chái đông điện Thái Hòa (Đại Nội Huế) vào ngày 18/5 đã diễn ra triển lãm “Phiên bản ấn vàng triều Nguyễn và văn bản hành chính”. Những chiếc ấn quý y như thật dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân đã cho người xem nhiều bất ngờ.

Trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn, thường đúc bằng vàng, bạc (gọi là kim bảo), chế tác từ ngọc quý (gọi là ngọc tỷ). Dưới thời Nguyễn (1802-1945), thời Gia Long (1802-1820) có 12 chiếc, thời Minh Mạng (1820-1840) có đến 15 chiếc; thời Thiệu Trị (1841-1847) có 10 chiếc; thời Tự Đức (1848-1883) cũng có 15 chiếc, thời Kiến Phúc (1884) và Hàm Nghi (1885) đều chỉ có 1 chiếc; thời Đồng Khánh (1885-1888) có 5 chiếc; thời Thành Thái (1889-1907) có 10 chiếc; thời Khải Định (1916-1924) có 12 chiếc; và thời Bảo Đại (1925-1945) có 8 chiếc.


Các ấn rồng vàng phiên bản 1:1


Về cấu trúc và kiểu dáng, các bảo tỷ nói chung bao gồm 2 phần: thân ấn và quai ấn. Biểu tượng chủ yếu trên ấn là con rồng, chân có năm móng. Trong văn hoá phương Đông, đây là linh vật tượng trưng cho nhà vua, sự chính thống của ngôi vị và quyền lực.

Kim bảo, ngọc tỷ là những báu vật của quốc gia. Điều đáng tiếc là một số chiếc ấn có tính biểu tượng như chiếc ấn Hoàng đế chi bảo đã thất tán tại Cộng hòa Pháp, một số chiếc đã bị đánh cắp và tiêu hủy như chiếc ấn Nam Phương Hoàng hậu chi bảo. Nhưng hiện nay tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam vẫn còn giữ được 85 chiếc ấn bằng vàng, bằng ngọc, bằng bạc của triều Nguyễn.

Nhằm góp phần giúp du khách đến tham quan cố đô Huế ngày nay có cơ hội hình dung về một loại cổ vật đặc biệt, gắn liền với quá trình điều hành và quản lý nhà nước thời quân chủ, nghệ nhân Trần Độ từ làng gốm Bát Tràng đã bỏ công sức làm 11 phiên bản của từ các tiêu bản lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đó là 11 chiếc ấn làm bằng gốm, thếp vàng với tỷ lệ 1/1 y như thật.



Ấn Sắc mệnh chi bảo bằng vàng, nặng ~ 8,3 kg, đúc vào niên hiệu Minh Mạng thứ tám (1827). Sau khi đúc, ấn Sắc mệnh chi bảo được đóng vào các văn bản ban cấp cho văn võ, phong tặng cho thần dân.



Chiếc ấn thuộc dạng lớn nhất với con rồng rất tinh xảo và bệ vệ. Quai rồng cuộn ngồi xổm, đẩu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xòe 9 dải hình ngọn lửa, chân 5 móng.


Ấn Văn lý mật sát bằng vàng 8 tuổi (nặng 6 lạng 9 phân), đúc vào niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên (1886). Ấn này dùng để đóng dùng để đóng vào các chỉ dụ, sớ chương đã có tẩy xóa hoặc thêm vào hoặc những chỗ giáp nhau của hai tờ văn bản quan trọng.


Ấn Bảo Đại thần hàn, vàng 15 lạng, quai hình rồng bay, đầu ngẩng, há miệng, lưng cong vồng, đuôi xòe 5 dải hình ngọn lửa.


Ấn Tự Đức thần hàn bằng vàng (vàng 10 tuổi, 76 lạng, 6 tiền, 5 phân) đúc vào niên hiệu Tự Đức thứ nhất (1848). Đây là ấn của vua Tự Đức, dùng để đóng trên văn từ của vua viết bằng mực son (châu phê hoặc châu bút).Quai hình rồng chầu, 2 chân trước chống, 2 chân sau quỳ, đầu ngẩng, mũi cao, bờm dài, đuôi xoáy.


Ấn Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu chi bảo đúc bằng vàng tuổi 8 năm rưỡi (nặng 86 lạng 4 tiền 8 phân), đúc vào niên hiệu Hàm Nghi nguyên niên (1885). Năm 1883, trong một di chiếu trước khi mất, vua Tự Đức đã tấn tôn Hoàng Thái hậu Từ Dũ là Thái Hoàng Thái hậu. Ấn này do vua Hàm Nghi chỉ thị đúc nhân tổ chức lễ tấn tôn cho Hoàng thái hậu Từ Dũ vào năm 1885. Ấn quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân chùn.


Ấn Từ Minh Huệ hoàng hậu chi bảo bằng bạc mạ vàng, quai hình rồng chạy, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi xòe 5 dải hình ngọn lửa, 4 chân nghiêng



Ấn Hoằng Tông Tuyên hoàng đế chi bảo bằng vàng. Quai rồng tư thế chạy, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi xoắn, sừng bờm vây lưng dài, 4 chân 5 móng tư thế đứng.



Ấn Thánh Tổ Nhân hoàng đế chi bảo bằng vàng đúc vào niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841). Ấn này do vua Thiệu Trị chỉ thị đúc, Thánh Tổ Nhân hoàng đế là miếu hiệu của vua Minh Mạng, ấn này dùng để thờ trong Thế Miếu. Làm bằng vàng 8 tuổi rưỡi, nặng 111 lạng 5 tiền 4 phân. Quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng, đuôi xoáy 6 dải nhọn, chân 5 móng.


Ấn Giản Tông Nghị hoàng đế chi bảo bằng vàng đúc vào niên hiệu Kiến Phúc nguyên niên (1883). Sau khi vua Kiến Phúc băng hà, vua Hàm Nghi chỉ thị đúc ấn này để dâng miếu hiệu, Giản Tông Nghị hoàng đế là miếu hiệu của vua Kiến Phúc, ấn này dùng để thờ trong Thế Miếu. Làm bằng vàng 8 tuổi, nặng 49 lạng 5 tiền 1 phân. Rồng đầu ngẩng, miệng ngậm ngọc, lưng cong, đuôi cuốn, 4 chân chùn.


Ấn Cảnh Tông Thuần hoàng đế chi bảo bằng vàng, đúc vào niên hiệu Thành Thái thứ nhất (1889). Ấn này do vua Thành Thái chỉ thị đúc, Cảnh Tông Thuần hoàng đế là miếu hiệu của vua Đồng Khánh, ấn này dùng để thờ trong Thế Miếu. Quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, mũi cao, sừng và râu dài, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân đứng thăng bằng.



Ấn rất quan trọng là Quốc gia tín bảo bằng vàng đúc vào niên hiệu Gia Long thứ nhất (1802). Ấn này dùng để đóng trên các văn kiện triệu tập các tướng lĩnh, phát động binh lính, trưng binh nhập ngũ cùng một số văn kiện quan trọng khác. Quai hình rồng đứng, đầu quay lại, lưng cong, đuôi cụp lại.


Chiếc ấn này có hình dáng rất đẹp


Sắc phong thời Bảo Đại được đóng bởi ấn vàng dấu đỏ


Hoa Si Viet Nam

Sept. 2014 - Trang Bia

August 2014 - Trang Bia

July 2014 - Trang Bia

Trang Bia - June 2014

May 2014 Trang Bia

April - 2014

March 2014 - Trang Bia

 

Feb 2014 trang bia

 

Jan 2014 - Trang Bia

 

Dec 2013 - Trang Bia

Trang bia - November 2013

Sep - 2013 Trang Bia

August 2013 - Trang Bia

July 2013 Trang Bia

June 2013 - Trang Bia

April 2013 - Trang Bia

March 2013 - Trang Bia

February 2013 - Trang Bia

January 2013 - Trang Bia

December 2012 - Trang Bia

Trang Bia - November 2012

Trang Bia - October 2012

Sept. 2012 Trang Bia

August 2012 - Trang Bia

Trang Bia - June 2012

Trang Bìa May - 2012

 

Trang Bia April / 2012

March - 2012 Trang Bia

Trang Bia - Feb. 15 - 2012

Trang Bia - Jan 15- 2012

Trang Bia - Dec - 15-2011

Trang bia - September 15-2011

Trang Bia - August 15-2011

Trang Bia June - 15 - 2011

Trang Bia May - 15 - 2011

Trang Bia April 15-2011

Trang Bia March - 15 - 2011

Trang Bia February - 15 - 2011

Trang Bia Januay 15-2011

Trang Bia December - 1- 2010

Trang Bia Noveber - 15- 2010

Trang Bia November - 1- 2010

Trang Bia October - 15- 2010

Trang Bia October 1-2010

Trang Bia September - 15- 2010

Trang Bia September - 1- 2010

Trang Bia August - 15 - 2010

Trang Bia August - 1- 2010

Trang Bia July - 15- 2010

Trang Bia July - 1- 2010

Trang Bia June - 15 - 2010

Trang Bia June - 1- 2010

Trang Bia May - 15- 2010

Trang Bia May - 1- 2010

Trang Bia April - 15- 2010

Trang Bia April - 1- 2010

Trang Bia March - 15- 2010

Trang Bia March - 1-2010

Trang Bia February- 15-2010

Trang Bia February- 1-2010

Trang Bia January 15-2010

Trang Bia January 1-2010

Trang Bia December 15-2009

Trang Bia December 1-2009

Trang Bia November 15-09

Trang Bia October 15-09

Trang Bia October 1-2009

Trang Bia September 15-2009

Trang Bia Sept. 1-2009

Trang Bia August 15-2009

Trang Bia August 1-2009

Trang Bia July 15-2009

Trang Bia July 1-2009

Trang Bia June 15-2009

Trang Bia June 1-2009

Trang Bia May 15-2009

Trang Bia May 1-2009

Trang Bia April 15-2009

Trang Bia April 1-2009

Trang Bia March 15-2009

Trang Bia Jan. 1-2009

Trang Bia Dec. 1-2008

Thiep Moi Trien Lam Houston Oct. 10-08

2008 - ViVi Trien Lam Tranh NUDE

Dia Chi Lien Lac

www.hoasivietnam.com
PO Box 2626
Spring Valley, CA 91979
Email: hoasivietnam@gmail.com
 Tiệm sách Phật học miễn phí ở Sài Gòn
***

3h chiều, tiệm sách Phật học của ông Nguyễn Ngọc Cần râm ran tiếng nói cười, người đến mượn, trả sách, sao chép đĩa kinh, có người ngồi bên ly trà nghe chuyện Phật pháp.
Tiệm sách nhỏ tọa lạc ở đường Nguyễn Hữu Cảnh, quận Bình Thạnh, cho đọc và mượn sách Phật miễn phí, không cần giấy tờ biên nhận, không thế tiền. Nhiều khách tới tiệm thắc mắc “Chú không sợ mất hoặc người mượn cố tình không trả thì sao?”. Chủ tiệm cười rất tươi bảo : “Không sao, vô thường mà. Nhất là số sách này tôi đã chọn lọc kỹ, nếu có lỡ mất thì cũng truyền tay được nhiều người khác, tôi chỉ mong có nhiều người đọc càng tốt”.
Ông Cần năm nay 57 tuổi, quê Long An, một người mê sách, mê triết lý đạo Phật. 5 năm trước, ý tưởng lập một nhà sách chuyên sách Phật pháp nhen nhóm khi ông muốn chia sẻ nguồn sách Phật chính thống xuất phát từ thực tế: "Nhiều người muốn tu tập nhưng tìm sai nguồn dẫn đến lãng phí thời gian".
Số tiền dành dụm tuổi già được ông Cần đầu tư vào tiệm sách, săn sóc tiệm như đứa con tinh thần. Ông Cần bảo: “Tiệm sách là niềm vui tuổi già, giúp tôi gặp được nhiều người, chia sẻ được với nhiều người”.


Ông Nguyễn Ngọc Cần mở tiệm sách vì niềm đam mê dành cho sách và Phật học.
Ảnh: Hồng Vân.

Để có nguồn sách hay và quý, ông Cần chăm chỉ đi tìm và cẩn trọng chọn lựa. “Sách nhiều vô kể, khó ở khâu tỉnh táo chọn được sách tốt giữa một rừng sách bạt ngàn". Từ 5 năm nay, hễ nghe đâu có nguồn sách phù hợp, ông Cần không quản đường xa tìm đến thu thập. Vì thế, tiệm sách ngày một lớn hơn cả về số lượng và chất lượng so với những ngày đầu.
Ngoài nguồn sách Phật học, sách văn học của các tác giả uy tín, kinh điển, sách dạy kỹ năng sống được ông chọn lựa kỹ càng và bán với giá giảm 30% giá bìa. Ông giải thích: “Mình có lợi thế là mặt bằng của nhà, không thuê nên bán giá ưu đãi để nhiều người có cơ hội tiếp cận và mua được sách hay”.
Diện tích tầng trệt của căn nhà được trưng dụng làm quầy sách có diện tích khá khiêm tốn, bề ngang vỏn vẹn 3 m2, nhưng người chủ đã rất khéo đóng các kệ để xếp và trưng bày sách dọc theo cầu thang. Hơn 3.000 cuốn sách các loại được trưng bày theo đề mục, tiện lợi cho việc tìm kiếm.
Người đến mượn sách, đọc sách được mời trà và kẹo đậu phộng miễn phí bên những chiếc bàn tre kê thấp. “Bên chén trà, mọi người thoải mái trao đổi chuyện Phật pháp, ngồi thiền và chia sẻ những cuốn sách hay, thân thiết như trong một gia đình lớn”, chị Trương Thúy Hà là khách quen từ hơn một năm nay nói.
Ông Lê Anh Nguyên, 67 tuổi, quận Hóc Môn, TP HCM, vượt một quãng đường xa 30 cây số đến với tiệm sách. Đều đặn nửa tháng một lần ông nhờ con trai chở đến tiệm, mượn sách, sao đĩa về đạo Phật. Ông Nguyên nói: "Bên ngoài đường có tấp nập thế nào, bước vào tiệm sách tự nhiên rũ bỏ hết bon chen, thấy tĩnh tâm, đây là nơi chốn lý tưởng để tìm về với sách''.
Ông Cần mang pháp danh Tuệ Trung, mỗi buổi sáng đều đến công tác tại hội người mù quận Bình Thạnh. Ở trung tâm chỉ có ông sáng mắt nên công việc nơi đây bận bịu và những người khiếm thị rất cần ông. Do vậy quầy sách chỉ mở vào buổi chiều, từ 15h đến 22h mỗi ngày.



Tiệm sách là nơi gắn kết nhiều bạn đọc trong sở thích chung về đạo Phật.
Ảnh: Hồng Vân.


Mong muốn của ông Cần là phổ biến Phật pháp đến càng nhiều người, để những lời dạy của đức Phật được lan truyền rộng hơn. "Tôi mới biết đến đạo Phật 6 năm và cảm nhận triết lý Phật pháp đem đến sự nhẹ nhàng, thanh thản cho tâm hồn trong nhịp sống tất bật hôm nay".
Khánh Ly - Hồng Vân

                                                          BÁNH TRÁNG XỐT ME

Người Sài Gòn hoàn toàn có quyền tự hào về món bánh tráng xốt me bơ vì dù chỉ là thức ăn vặt, nhưng nước xốt của bánh cũng đủ tinh tế để làm say lòng người. 


 

Chúng tôi tìm đến ngôi nhà số 25, nằm nép mình trong con hẻm nhỏ ở quận 4 (TP.HCM). Trước mái hiên, tấm biển vỏn vẹn dòng chữ: “Bánh tráng cuốn - trộn dì Hồng”. Được biết, đây là quán bán bánh tráng xốt me bơ đầu tiên ở Sài Gòn. Quán mở được 5 năm, bán từ 11 giờ đến 23 giờ mỗi ngày. Khách hàng chủ yếu là học sinh, sinh viên.

Đúng với tên gọi, món ăn đặc biệt này gồm hai phần: bánh tráng cuốn và xốt me bơ. Mọi công đoạn từ việc đi chợ, chế biến nguyên liệu cho đến pha nước xốt đều do ông Tám, chủ quán thực hiện. Mỗi ngày, hai cô cháu gái sẽ phụ trách việc cuốn bánh - phần đơn giản nhất của món ăn.

Đầu tiên, bánh tráng mỏng sẽ được làm ướt bằng một tí nước. Sau đó, lần lượt các nguyên liệu: hành phi, khô bò, trứng cút, ruốc khô, đậu phộng sẽ được cho vào làm nhân. Bánh được cuốn tròn lại có kích thước lớn hơn ngón tay cái.






Nguyên liệu bên trong rất hấp dẫn - Ảnh: Hồng Trâm Cái hồn của món ăn này chính là ở nước xốt. Là người gốc Sài Gòn, ông Tám chia sẻ: “Tôi đã đi nhiều nơi, cũng đã từng nếm thử nhiều món từ bò bía, bánh tráng cuốn, bánh tráng trộn… Bởi vậy, tôi mới quyết tâm chế biến loại nước xốt đặc biệt để tạo nên vị đặc trưng cho món ăn của mình”.Không ai ngoài ông Tám được biết thành phần chính và công thức chế tạo thứ nước xốt đặc biệt này. Chỉ biết, khi khách ăn bánh, chủ quán sẽ cho nước xốt vào một hũ nhỏ để chấm kèm. Nước xốt có màu vàng óng và sánh sệt tựa như mật ong. Rồi có cả màu đỏ của ớt xay nhuyễn, hành phi màu nâu kết hợp với sắc trắng của mayonnaise. Mới chỉ nhìn thôi, thực khách cũng đã cảm thấy hấp dẫn.

Cắn vào một miếng, bao nhiêu vị chua, ngọt, cay, mặn… đọng lại ngay đầu lưỡi. Đầu tiên là vị dai của bánh tráng, vị mặn, thơm của trứng, khô bò và ruốc khô. Bạn cũng sẽ thấy mùi thơm của đậu phộng và hành phi. Đâu đó phảng phất cái cay nồng của ớt, mùi hăng tự nhiên của rau răm và vị chua dễ chịu của mayonnaise. Cuối cùng, vị thơm béo của bơ sẽ khiến bạn chỉ muốn nuốt nhanh để còn cắn thêm miếng nữa.




Nước xốt sánh vàng tựa mật ong - Ảnh: Hồng Trâm

Bấy nhiêu vị ở trên cũng đã là quá đủ để tạo nên sức hấp dẫn cho một món ăn vặt bình thường. Thế nhưng, bánh tráng xốt me bơ còn có những điều đặc biệt. Bạn có thể cảm nhận rất rõ vị chua thanh của tắc và xí muội, một chút cay nồng của gừng cộng thêm hương sả và lá chanh xay nhuyễn,… tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một loại nước xốt tròn vị tuyệt hảo.

Ông Tám cho biết: “Để nước xốt ngon, tôi phải đặt người ta làm hành phi riêng. Còn nước xốt, quan trọng nhất là phải canh lửa thật khéo để tạo sự sánh sệt cần thiết”.

Với giá chỉ 1.500 đồng/cuốn, bánh tráng xốt me bơ làm say lòng ngay cả những thực khách khó tính nhất bởi nét tinh tế ẩn đằng sau sự giản đơn.

Hồng Trâm




CƯỚI VỢ NGƯỜI DAO

Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao

Chú rể Tiberghien Frédo (tên Việt Nam là Bình), có quốc tịch Pháp, trong ngày tổ chức lễ cưới. Anh mặc trang phục người Dao và chuẩn bị tiến hành nghi lễ cưới theo phong tục dân tộc.

Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao 
Phu nhân của anh là một cô gái sinh năm 1990, người dân tộc Dao, quê ở thôn Đồng Chằm, xã Vũ Linh, huyện Yên Bình (Yên Bái).


Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao 
Tiberghien Frédo hiện sống và làm việc tại một khu sinh thái thuộc Yên Bình, nhờ đó anh đã quen và yêu cô gái người Dao tên Lý Kiều Xuân.


Đám cưới 3 ngày của ông Tây  với cô vợ trẻ người Dao

Lễ cưới truyền thống được diễn ra trong 3 ngày 2 đêm. Trước khi tổ chức cả nhà trai và nhà gái đã phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm, đồ lễ và ông Mờ, bà Mờ…
Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao 
Frédo khi ra khỏi nhà phải đội một chiếc nón mới mang ý nghĩa che chở, bảo vệ cho chú rể trong suốt chặng đường. Khi đến nơi, đoàn nhà trai không được vào nhà gái ngay mà phải vào nghỉ tại nhà ông đi hỏi cho đến 17h chiều (theo người Dao thì đó là giờ đẹp) sau đó mới bắt đầu đi từ đó sang nhà gái.
Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao


Trước khi sang nhà gái, nhà trai cử một đoàn đi đón dâu với số lượng bắt buộc là 11 người trong đó có trưởng đoàn, chủ hôn, chú rể, phù rể và các nam thanh niên trẻ, khỏe có tài hát đối đáp. y của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao"

Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao


Chú rể mang sang nhà gái lễ vật gồm một vòng tay bằng bạc, trầu cau, muối, chè, bánh dày, hai bó miến, rượu, 8 con cá được cắt bằng giấy. Frédo cũng chùm lên đầu chiếc áo vàng (Gúy vằng) tượng trưng cho những cánh long, phượng che chở. Sau khi xong thủ tục, chú rể mới được bước lên nhà và phải đưa chân trái vào đầu tiên để thầy cúng làm phép rửa chân. 


Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao


Cô dâu Lý Kiều Xuân, mới 24 tuổi. Ở bản cô được coi là lấy chồng muộn. Người phụ nữ Dao này từng tốt nghiệp Cao đẳng Du lịch, trong quá trình làm việc về ngành đã quen và yêu anh chàng người Pháp hơn mình hai giáp. 


Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao

Khi đoàn đón dâu đến chân cầu thang, nhà gái có các cô gái là bạn bè của cô dâu chặn lối để hát đối đáp. Ý của nhà gái nói với đoàn nhà trai là muốn lên nhà thì phải bước qua con dao (mang ý nghĩa là vượt qua mọi chông gai) và uống một ít rượu. Đây là lúc các chàng phù rể phải tìm được những câu hát thật hay để các cô gái mời lên nhà. Trên cầu thang nhà gái lúc này đã có sẵn một mâm lễ vật gồm một khăn mặt, chiếc cân và hai bát nước.
Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao

Người Dao xưa có quan niệm, khi đi lấy chồng thì cô dâu không được để hở mặt ra bởi như thế sẽ mất vía và cô dâu sẽ không gặp may trong suốt cuộc đời.


Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ   người Dao

Tuy nhiên, tại đám cưới của chàng trai Pháp có nhiều cởi mở hơn, lược bỏ khá nhiều phong tục cũ, cô dâu được rước về mà không phải dùng khăn phủ kín đầu và mặt.

 Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao 
Theo phong tục của người Dao thì dù xa hay gần, khi sang đến nhà trai, đoàn nhà gái cũng phải nghỉ lại ở đâu đó rồi đến giờ hoàng đạo (thường là vào khoảng 18h chiều) cô dâu mới được lên nhà trai.
Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao 
Về đến nhà trai, một phù rể ra cầm tay áo của cô dâu dẫn lên cầu thang bởi chú rể không được ra đón và cũng không được nhìn mặt cô dâu cho đến khi các nghi lễ lạy tạ tổ tiên được thực hiện xong.


Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao


Thầy cúng đã chờ sẵn ở cửa và làm phép rửa chân cho cô dâu. Bước chân đầu tiên vào nhà chồng cô dâu phải bước chân phải. Họ cho rằng, có như vậy mới tránh được những điều rủi ro, cô dâu và chú rể mới sống hạnh phúc trăm năm.


Đám cưới 3 ngày của ông Tây với cô vợ trẻ người Dao 
Những người đến dự đều chúc mừng hạnh phúc cho cô dâu, chú rể, tạo nên không khí vui tươi của cả bản làng. Được biết, sau khi cưới vợ được ít ngày, chàng trai người Pháp này sẽ nhập quốc tịch Việt Nam và sống cùng vợ hẳn đến cuối đời tại mảnh đất Yên Bái của Việt Nam. 
Vài nét về chú rể Tiberghien Frédo:


Sinh ra ở Paris, mang trong mình hai dòng máu Pháp và Việt, khi còn trẻ, Frédo là làm nghề chăm sóc, thuần dưỡng ngựa đua và thợ mộc. Nghe mẹ kể nhiều về Việt Nam, anh luôn ấp ủ một ngày được đặt chân tới.
Và đến năm 1994, giấc mơ của anh trở thành hiện thực. Điểm đặt chân đầu tiên của Frédo là Hà Nội. Suốt những ngày lang thang ở các con ngõ tối om, sâu hun hút của phố cổ, anh thấy cuộc sống nơi đây thân thương như thể mình đã gắn bó từ lâu lắm.Trước đó, Frédo từng sống hạnh phúc trong một ngôi nhà nhỏ ven bờ sông Seine thơ mộng nhưng bỗng trở thành kẻ mồ côi vì cha mẹ mất trong một vụ tai nạn. Từ đó, anh sống với bà ngoại và cùng bà đi chu du khắp nước Pháp.Sau những năm dài vòng quanh nước Pháp, anh cùng bà quay về sống ở một nông trại miền Tây. Hàng ngày, Frédo thường rong thuyền trên sông và thả mình vào bầu không khí trong lành, mát rượi. Nhưng tuổi thơ của anh đã trôi qua không êm đềm. Kinh tế gia đình trở nên kém đi vì dịch bệnh cướp mất đàn gia súc, nguồn thu chính của gia đình. Anh buộc phải thôi học để giúp đỡ bà ngoại cùng các anh em của mình chăm lo cuộc sống. 
Tại Hà Nội, Frédo thuê một căn phòng nhỏ nằm bên bờ sông Hồng đoạn qua quận Long Biên (Hà Nội), thêm tiền chi phí cho một khóa học tiếng Việt và tiền mua một chiếc xe máy cũ 5 triệu đồng.Anh đã đi khắp các tỉnh phía Bắc, đến những khu du lịch hoặc những nơi hoang sơ phong cảnh hữu tình... Lúc hết tiền, Frédo nghĩ đến những lần đi du lịch bụi và nảy sinh định làm du lịch để kiếm tiền sinh sống. Anh đã in những mẩu quảng cáo du lịch bụi lên một mảnh giấy và dán những nơi khách nước ngoài thường qua lại. Trong đó anh viết mấy thứ tiếng Việt, Pháp, Anh... Nếu ai có nhu cầu du lịch Việt Nam thì cứ gọi điện thoại cho anh.
Những người nước ngoài khi đến Việt Nam đọc được tờ giấy quảng cáo liền gọi cho Frédo. Mỗi chuyến chở khách du lịch phượt như vậy anh lại thu về vài trăm nghìn đồng đến vài triệu đồng.Thời gian về sau anh xin giấy phép mở một công ty du lịch mang tên Lavie Vu Linh, chuyên tổ chức những chuyến tham quan cho khách du lịch trong và ngoài nước. Năm nay đã gần 50 tuổi và 20 năm lang bạt chưa trở lại Pháp. Frédo bảo, mảnh đất này đã là máu thịt của anh. Với việc vừa cưới được cô vợ người Dao, người đàn ông 48 tuổi sẽ chuyên tâm vào làm ăn và gắn bó với cuộc sống bình yên ở vùng núi rừng Việt Nam
 
Y PHỤC DÂN TỘC THIỂU SỐ



Trong số các dân tộc, người Cơ Tu có lẽ có trang phục độc đáo, nguyên thủy nhất với việc đàn ông mặc khố, hoặc tấm choàng vỏ cây.



Một bộ trang phục cổ truyền của phụ nữ H'mông gồm váy hình nón cụt, xếp nếp, phần mông bó chặt, phần thân váy xòe rộng. Áo có cổ lật ra phía sau gáy. Thắt lưng buông hai dải dài phía sau. Tấm vải che đằng trước váy. Vuông vải che ở phía mông. Khăn quấn đầu. Xà cạp và tấm áo khoác ngoài không có tay, có cổ lật ra phía sau gáy. Hầu hết các họa tiết được thêu, vẽ, chắp vải trên nền vải lanh trắng hoặc vải đỏ, có định hình sẵn là các bộ phận của áo, váy.




Phụ nữ H'mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực. Phụ nữ H'mông Trắng váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau, đội khăn rộng vành. Phụ nữ H'mông Xanh mặc váy ống, nếu đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.



Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Trong bộ y phục của phụ nữ quan trọng nhất là chiếc áo được thiết kế dài đến gần đầu gối. Cổ áo được thiết kế theo hình chữ V có thêu hoa văn. Áo người Dao có hai tà và phần cầu kỳ nhất để làm nên sự độc đáo của chiếc áo là những nét hoa văn được thêu ở phần đuôi áo.



Duy nhất trong cộng đồng người Dao chỉ có người Dao Tiền là mặc váy. Người Dao Tiền rất tự hào về điều đó. Trong trang phục của người Dao Tiền, sự gắn kết giữa trang sức với áo, váy là một nguyên tắc không thể thiếu. Những hạt cườm, hay đồng bạc trắng hay kim loại dùng làm các khuy có đường kính từ 6 đến 7cm, đỉnh nổi bật ở trên áo chàm. Ước tính cả bộ trang sức có khi nặng tới vài kg nhưng không ai nề hà, ngược lại, họ rất thích thú và coi đây là nét riêng, độc đáo.



Nhìn chung người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm nên trang phục của họ màu chủ đạo là màu chàm. Phụ nữ thường chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc. Thắt lưng của phụ nữ Tày là những tấm vải chàm hay đũi dài khoảng hai sải tay làm tăng thêm vẻ duyên dáng. Trên trang phục nam và nữ người Tày, hầu như không có hoa văn trang trí.


Từ trước tới nay, trang phục của người dân tộc Thái có lẽ được ca ngợi nhiều nhất bởi sự đơn giản, duyên dáng và tinh tế, thanh lịch. Một bộ trang phục truyền thống phụ nữ Thái gồm: áo ngắn, áo dài, váy, thắt lưng, khăn piêu, nón, xà cạp, các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay và xà tích. Khăn Piêu là vật dụng không thể thiếu của các cô gái Thái mỗi khi đi ra đường hay trong các dịp hội hè. Chiếc khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, thể hiện sự khéo léo của chủ nhân.



Các nhóm người Thái như Thái Đen, Thái trắng đều có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày nhưng trong đó vẫn nổi bật bản sắc riêng. Phụ nữ Thái Đen thường mặc áo dài xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu kiểu dáng hơn Thái Trắng.



Bộ y phục của người Nùng được cắt may từ vải đen nhuộm chàm, phần lớn chúng không có nhiều hoa văn và đường nét. Cả nam và nữ đều mặc một loại quần cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân. Phụ nữ Nùng mặc áo năm thân màu chàm, áo ngắn đủ che mông, áo được may rất rộng cả phần thân và tay, giúp cho cử động được thoải mái. Chiếc áo của phụ nữ Nùng thông thường được trang trí bằng cách thêm miếng vải khác màu vào cổ tay áo và phía trước ngực, thông thường là vải đen đắp lên áo chàm.




Trong trang phục phụ nữ Mường, họ thường mặc áo ngắn (gọi là pắn) với váy . Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn áo cánh của người Kinh, ống tay dài. Trước kia, áo pắn chỉ có hai màu nâu và trắng nhưng nay, phong phú hơn với đủ loại màu sắc.
Váy của phụ nữ Mường là váy đen dài, đầu váy được trang trí bằng những hoa văn thổ cẩm nổi bật do người con gái Mường tự dệt nên. Chiếc váy còn rất ấn tượng khi cạp váy ôm sát thân, cạp hoa phô trước ngực, thắt lưng xanh, tấm khăn trắng đội đầu và vòng kiềng sáng lóng lánh, tạo nên sự duyên dáng và khéo léo của phụ nữ Mường.


Trong xã hội của người Chăm, mỗi tầng lớp, mỗi chức sắc đều có y phục riêng. Chính vì vậy mà y phục Chăm phong phú và đa dạng. Trong đó, đặc sắc nhất phải nói đến chiếc áo dài của phụ nữ Chăm. Nét đẹp áo dài Chăm kín đáo, kiêu sa. Chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Chăm là áo dài không xẻ tà, mặc chui đầu. Cổ áo thường có hình tròn hoặc hình trái tim. Ở hai bên hông áo có một đường mở ngay eo hông, có hàng khuy bấm hoặc nút dính, khi mặc bó sát eo hông.


Dân tộc có trang phục độc đáo nhất có lẽ phải kể đến người Cơ Tu. Đã có một thời gian rất dài trước đây, người Cơ Tu vùng núi Quảng Nam đã dùng các loại vỏ cây sẵn có trong thiên nhiên để làm vật dụng che thân như tấm choàng, váy, áo... Đến nay, những trang phục độc đáo này vẫn còn xuất hiện trong sinh hoạt hàng ngày, lễ hội của người Cơ Tu tại những xã vùng cao huyện Tây Giang (Quảng Nam)


Trang phục hiện đại của người Cơ Tu vẫn còn ẩn chứa nhiều nét hoang dã của một cư dân sống trên vùng Trường Sơn. Đàn ông hiện vẫn mặc khố. Chiếc khố của đàn ông được bố trí các hoạ tiết đường nét hoa văn thành từng mảng lớn. Với họ, trang phục là cội rễ để hình thành nên một bản sắc văn hoá riêng - Văn hoá Cơ Tu.

Chợ na Lạng Sơn

***
Hoạt động mua bán diễn ra sôi động mỗi buổi sáng tại chợ Đồng Bành (Chi Lăng, Lạng Sơn) - nơi được coi là chợ na lớn nhất miền Bắc.

Chợ Đồng Bành những ngày này tấp nập cảnh mua bán mỗi sáng.
Hàng nghìn người trồng na từ Chi Lăng, Hữu Lũng, Cai Kinh, Hòa Lộc... mang quả thu hoạch được tập trung về đây, tạo nên một khu chợ na kéo dài hơn 1 km bên Quốc lộ 1A đoạn qua thị trấn Chi Lăng.

Từ sáng sớm tới trưa, những chiếc xe ba gác chất đầy na từ Quốc lộ 1A liên tục rẽ vào chợ.

Người bán na tại chợ Đồng Bành đa phần là phụ nữ. Mỗi người thường gánh theo hai thúng nặng khoảng 40kg, bán trong buổi sáng.
Giá na loại thường dao động khoảng 20.000-30.000 đồng mỗi kg. Loại quả to đẹp có giá cao hơn, khoảng 40.000-50.000 đồng.

Chị Son (35 tuổi, ở thị trấn Chi Lăng) cho biết năm nay vườn na nhà chị được ít quả hơn năm ngoái, những bù lại quả to đẹp nên dễ bán.

Na Đồng Bành thơm, ngọt đậm và ít có vị chua vì được trồng trên núi đá. Người dân cho biết, năng suất mùa này thấp hơn năm trước. Nhưng do vùng trồng mở rộng nên sản lượng vẫn tăng cao, khiến giá rẻ hơn.

Quả na mà bà Nguyễn Thị Tị, 58 tuổi đang giới thiệu ở chợ Đồng Bành được gọi là na đầu, bán với giá rất cao, khoảng 70.000-80.000 đồng mỗi kg, dù vị ngon không khác biệt nhiều so với những quả na khác.

Để hái được na, người dân phải mất hàng giờ leo núi đá. Thời gian này đang là mùa mưa khiến cho việc thu hoạch càng thêm vất vả.
Sau hơn một giờ đi bộ từ nhà ở thị trấn Chi Lăng lên nương, chị Hà Thị Hiên, 36 tuổi, bắt tay vào hái na cho đến khi đầy hai sọt (khoảng 40kg) mang về nhà trước khi trời tối.

Việc gánh na xuống núi còn khó khăn hơn nhiều. Chị Đỗ Thị Nuôi (41 tuổi, ở thôn Minh Hõa, Chi Lăng) cố giữ thăng bằng, lần từng nước trên lối mòn dọc theo dốc đá dựng đứng.
Gần một tháng nay, ngày nào chị Nuôi cũng hai lần lên núi hái na để mang ra chợ bán. Trong năm, chị cũng phải vào núi chăm na, thường xuyên tới mức thuộc từng hốc đá trên lối mòn.


Na tại chợ Đồng Bành được lái buôn từ khắp các tỉnh miền Bắc về tận nơi thu mua từ từng người bán rồi mang ra điểm tập kết đóng hàng chuyển đi.

Bà Nguyễn Thị Nhị (60 tuổi, ở Từ Sơn, Bắc Ninh) đã lên Đồng Bành từ rất sớm để chọn mua được na đẹp mang về bán ở chợ gần nhà.
"Na Đồng Bành nổi tiếng thơm ngon nên mang về bán chạy. Cứ hai ngày tôi lại lên đây lấy hàng mới về bán", bác Nhị cho biết.


Na Đồng Bành được đóng vào các thùng xốp có lót lá xanh, giấy báo cẩn thận, rồi được chất lên xe tải để chuyển đi các tỉnh khắp miền Bắc.
Quả na sau khi hái chín rất nhanh, có khi chỉ vài giờ đã chín mềm, nên không thể mang đi các tỉnh quá xa.

Phút nghỉ ngơi của anh Vi Văn Hải (44 tuổi, ở thị trấn Chi Lăng) sau một buổi sáng mệt nhoài với na.
Anh dậy từ 4h sáng lên nương na trên núi hái tổng cộng 1,8 tạ quả mang xuống chợ bán. "Cũng may là bán hết nhanh, nên vất vả chút vẫn vui", anh Hải chia sẻ.


NGỌC ẨN * CCRD

Cải Cách Ruộng Đất xưa và nay 
 
Ngọc Ẩn (Danlambao) - Việt gian CSVN tổ chức triển lãm Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) để khoe thành quả mà bọn chúng đã nhận sai lầm mà tên quỹ đội lốt người Hồ Chí Minh đã đóng kịch khóc nhận lỗi. Nếu bọn Việt gian vẫn triển lãm thành quả CCRĐ thì việc nhận sai lầm, sửa sai chỉ là một màng kịch dùng lừa gạt người dân. Việt gian CSVN nhận sai lầm kiểu gì mà nhà thơ Hữu Loan, Trần Dần là người chống lại CCRĐ vẫn tiếp tục bị trù dập nhiều năm sau khi bọn Việt gian nhận sai lầm? Bọn chúng có thực tâm nhận sai lầm?

CCRĐ do Việt gian thực hiện là một bản copy của Tàu khựa gọi là "thổ địa cải cách" đã xảy ra ở Tàu từ 1946-1949. Bọn Việt gian khi triển lãm CCRĐ trong năm 2014 lại đề ra thời gian từ 1946-1957 nghĩa là Việt gian Hồ Chí Minh hành hạ dân VN còn lâu hơn cả bọn khựa hành hạ dân Tàu. Trong CCRĐ, ngạ quỹ Hồ Chí Minh bắt buộc con chửi cha mẹ và đồng ý giết cha mẹ, vợ giết chồng. Điều này chứng minh việc HCM ra lệnh giết vợ là Nông Thị Xuân là chuyện bình thường đối với hắn.
Có một sự khác biệt rất lớn giữa CCRĐ 1945-1957 và CCRĐ thời 1990-2014. 
Thời xưa thì bần cố nông đấu tố, giết địa chủ để cướp đất vì lúc đó thành phần bần cố nông đa số là cán bộ cộng sản. Thời nay thì địa chủ đấu tố, bỏ tù, giết, cướp đất của bần cố nông chỉ vì đa số địa chủ là cán bộ cộng sản.
Thời xưa thì địa chủ bị bần cố nông ghép tội "bóc lột", "phản quốc" theo Tây, "phản động" chống lại chính quyền. Thời nay địa chủ CSVN "phản quốc" theo Tàu, "bóc lột" nông dân và công nhân, "phản động" chống lại dân. 
Nhưng có một điều khác biệt cực kỳ "vĩ đại" trong CCRĐ 2014, đó là bọn "phản quốc", "bóc lột", "phản động" đang kết tội, bỏ tù cả bần cố nông và người trí thức yêu nước. Bần cố nông thời xưa còn có nhà để ở, bần cố nông thời nay chỉ nằm lề đường hoặc trú ngụ trong vườn hoa Mai Xuân Thưởng mà vẫn không được yên thân với bọn địa chủ cán bộ CSVN cực kỳ gian manh, dã man. 
Địa chủ ngày xưa chỉ làm chủ ruộng vườn mà đã bị bỏ tù, chôn sống hoặc xử bắn. Bọn cán bộ địa chủ CSVN ngày nay làm chủ ruộng vườn, công ty điện lực, công ty xăng dầu, ngân hàng, tất cả đài phát thanh, đài TV, tất cả báo chí, công an, quân đội, biệt thự sang trọng, ô tô đắt tiền. CCRĐ 1945-1957 thì địa chủ chỉ làm chủ vài chục mẫu ruộng vài chục con bò để kéo cày, mướn khoảng trên chục người tá điền để làm ruộng thì bị cán bộ CSVN là bần cố nông chôn sống vì tội "bóc lột". Bọn cán bộ địa chủ ngày nay tài sản gấp ngàn lần địa chủ ngày xưa do "bóc lột" "cướp", "tham nhũng" của bần cố nông. Bọn địa chủ cán bộ CSVN hôm nay làm chủ cả đất nước cho nên bọn chúng bán cả núi rừng, thành phố, biển đảo cho Tàu khựa.
CCRĐ ở miền Bắc, nơi đấu tố lúc nào cũng treo hình Mao Trạch Đông phía trên. Những hình ảnh này đã được Hồ gửi về cho Mao làm bằng chứng là Hồ thái thú đã tuyệt đối khâm chỉ Mao chủ tịch, thế mà Hồ vẫn tuyên bố một cách trâng tráo "không có gì quý hơn độc lập-tự do". Ở miền Nam VN đã có bao giờ tòa án treo hình ông tổng thống Mỹ khi xử án?
Ở miền Nam, chế độ VNCH có chương trình "người cày có ruộng" và ở miền Bắc, chế độ cộng sản có "cải cách ruộng đất". "người cày có ruộng" thì chính quyền miền Nam mua đất từ địa chủ và sau đó phân phát cho người nghèo để giúp đỡ họ trở thành địa chủ trong tương lai mà chẳng có ai bị đấu tố, chẳng có gia đình nào tan nát. Kết quả là cả miền Nam trở nên trù phú và gia đình hạnh phúc. 
Ở miền Bắc thì tên ác quỹ Hồ Chí Minh "CCRĐ" giết địa chủ, cướp của, dùng đấu tranh giai cấp phá hoại tan hoang kinh tế, nền nếp văn hóa dân tộc như con giết cha mẹ, vợ giết chồng. Kết quả cả miền Bắc đói từ địa chủ đến bần cố nông và gia đình ly tán. Bọn cán bộ địa chủ CSVN triển lãm CCRĐ 2014 để thách thức bần cố nông và người trí thức đứng lên lật đổ bọn chúng.

VŨ ĐÔNG HÀ * CỘNG SẢN TÀN SÁT TẬP THỂ

Bản Cáo trạng về Tội Ác Giết Người Tập Thể 1953-1956 của đảng CSVN 
   
Vũ Đông Hà (Danlambao)
I. Bản chất và tên gọi:
Bản chất hành động của đảng CSVN là một cuộc giết người tập thể quy mô, có chủ trương, chính sách dẫn đến thảm họa 172.000 người dân Việt Nam bị tàn sát. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã xảy ra một cuộc "người Việt giết người Việt" ở tầm mức như thế. Đây cũng là một hành vi phạm tội ác chống nhân loại.
Cuộc tàn sát này là một đại kế hoạch có mục tiêu nhất quán, xuyên suốt từ đầu đến cuối:
- Tiêu diệt tầng lớp trí thức, người giàu theo chủ trương đấu tranh giai cấp triệt để của cộng sản quốc tế.
- Thiết lập nền tảng cho chính sách độc tài đảng trị lâu dài - khủng bố người dân và áp đặt nỗi sợ hãi bao trùm lên toàn xã hội, làm tê liệt mọi ý chí phản kháng của quần chúng để duy trì vai trò thống trị tuyệt đối của đảng cộng sản.
Mục tiêu của chính sách này được chỉ đạo bởi khẩu hiệu "Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ".
Mọi chương trình đúng đắn nhằm đem lại ruộng đất công bằng cho nông dân đều có thể thực hiện thành công không rơi một giọt máu. Điển hình là chính sách "Cải Cách Điền Địa" của Việt Nam Cộng Hòa. Ngược lại, "Cải Cách Ruộng Đất" chỉ là phương tiện cho cứu cánh thủ tiêu những người Việt Nam bị xếp vào thành phần trí, phú, địa, hào. "Cải Cách Ruộng Đất" là tên gọi mỹ miều được đảng CSVN sử dụng, kèm theo kết quả cướp được 810.000 hecta ruộng đất từ 172.000 nạn nhân đem chia cho nông dân (nhưng thật sự là lùa hết nông dân miền Bắc vào hợp tác xã theo mô hình Xô Viết) nhằm che giấu bản chất thực sự và đánh tráo tên gọi chính xác dành cho những gì xảy ra trong 3 năm 1953-1956.
Không ai gọi Tội ác Diệt chủng Holocaust"Endlösung der Judenfrage""Final Solution to the Jewish Question", là "Giải Đáp Sau Cùng cho Câu Hỏi về người Do Thái" cho hành động tiêu diệt 5.750.000 người gốc Do Thái như đồ tể Hitler gọi nó. Chúng ta không thể nào gọi Giải Đáp Sau Cùng cho những người Việt Nam trí phú địa hào, cho cuộc tàn sát 172.000 người dân Việt là "Cải Cách Ruộng Đất" như đồ tể Hồ Chí Minh đã đặt tên.
Tên gọi chính xác nhất dành cho những gì đã xảy ra vào những năm 1953-1956 là Holocaust Việt Nam, là Tội Ác Diệt Chủng, là Cuộc Giết Người Tập Thể.
Với bản chất giết người hàng loạt, được thực hiện với một chính sách xuyên suốt từ ban đầu cho nên không có cái gọi là "sai lầm" và "sửa sai". Không thể nào có một cái gọi là "chính sách giết người đúng đắn" để từ đó có vài sai lầm. Và đương nhiên không thể nào có nhiều phần đúng một phần sai trong chính sách giết người tập thể này để có cái gọi là "sửa sai".
II. Tội Ác:
Tàn sát 172.000 người dân vô tội là tội ác diệt chủng. Nhưng tội ác không chỉ nằm ở 172.000 sinh mạng con người bị cướp đi. Bên cạnh hàng trăm ngàn nấm mộ sau bữa tiệc người kéo dài 3 năm của đảng Cộng Sản mang nhãn hiệu Lao Động là hàng triệu người con, người cháu của những nạn nhân đã bị sỉ nhục, đày đọa và đẩy ra ngoài lề cuộc sống.
Trong vòng 3 năm, toàn bộ lòng can đảm của người dân miền Bắc sau cuộc kháng chiến chống Pháp đã bị triệt tiêu. Thay vào đó là nỗi sợ hãi kinh hoàng. Bi kịch người dựng chuyện đấu tố người, người người phải tham gia vào cơn lên đồng tập thể, phải cùng nhau đóng vai quan tòa viết bản án tử hình người lương thiện đã biến cả miền Bắc thành một cộng đồng chỉ biết dối trá để sống còn. Tính tự trọng, lòng nhân ái, tình nghĩa xóm làng của người dân Miền Bắc gần như bị chôn theo 172.000 xác người vào mộ huyệt trong những năm cùng tháng tận 1956.
Kế hoạch giết người tập thể 1953-1956 cũng là phiên bản của cộng sản Việt sao chép từ mô hình "thổ địa cải cách 1946-1949" của Cộng sản Tàu - Mao Trạch Đông. Nó được tiến hành với sự tham gia cố vấn và quyết định trực tiếp của tổng cố vấn Lã Quý Ba, Vi Quốc Hân, Triệu Hiểu Quang. Trong suốt hơn 4000 năm lịch sử, chưa có những tên Việt gian nào đã giết chết chừng ấy đồng bào người Việt theo sự chỉ đạo của ngoại bang.
III. Thủ phạm:
Nếu Hitler là tên tội phạm đứng đầu sổ của cuộc tàn sát 5.750.000 người Do Thái thì Hồ Chí Minh là tên đầu sỏ gây ra cái chết của 172.000 dân Việt. Nếu Heinrich Himmler là một tên SS người Đức, thủ lãnh bấm nút mở tất cả lò hơi ngạt của cái gọi là Giải Pháp Sau Cùng cho người Do Thái thì Trường Chinh là một tên CS người Việt, chỉ huy đội ngũ cuốc xẻng và dao búa để thực hiện Giải Pháp Sau Cùng đối với những người Việt Nam bị liệt vào thành phần trí, phú, địa, hào.
Bên cạnh Hồ Chí Minh - Chủ tịch đảng, Trường Chinh - Tổng Bí Thư đảng, là thành phần lãnh đạo cao cấp của Ban Thường vụ Trung ương: Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt... Đây là bộ đầu não chuẩn bị, sắp xếp, tổ chức và một lòng một dạ nghe lời cố vấn Tàu cộng quyết định mọi mặt. Đây là những thủ phạm gây nên cuộc tàn sát và những tội ác đã nêu trên.
Xếp hàng theo sau tập đoàn sát nhân là tập thể của những kẻ gọi là trí thức, nhà thơ, nhà văn, phóng viên báo chí cộng sản. Đây là đội ngũ ra sức tuyên truyền, xách động, là những cái loa xung trận, biến cả miền Bắc trở thành một một nồi súp-de hừng hực thù hận, điên cuồng cho cuộc lên đồng đấu tố vĩ đại. Đứng đầu đạo quân cổ võ và hoan hô máu đổ đầu rơi, giết, giết nữa đi là Tố Hữu.
IV. Tòng phạm
Tội ác 1953-1956 không dừng lại với những thủ phạm đã "cải cách" ruộng đồng bằng xác người. Kéo dài hơn nửa thế kỷ, đảng cộng sản Việt Nam với nhiều thế hệ đảng viên tiếp nối đã là đồng phạm của tội ác ngày xưa.
69 năm sau khi Adolf Hitler tự kết liễu cuộc đời đầy tội ác của hắn vào ngày 30 tháng 4, 1945 tại Bá Linh, chưa một ai, tổ chức nào, quốc gia nào trên thế giới tổ chức triển lãm "thành tích" của Endlösung. Nhưng có một nơi, có một tập đoàn tự xưng là đỉnh cao trí tuệ, mang trên môi đạo đức của một kẻ tự xưng là cha già dân tộc đã tổ chức triển lãm "thành tích" Endlösung Việt Nam. "Thành tích" nổi trội hơn những tên Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái khác chủng tộc. Ở đó, là nơi triển lãm thành quả vĩ đại của những tên cộng sản tàn sát đồng bào cùng màu da, cùng dòng máu.
Và cũng ở xứ sở đó, đồng hành với tội ác là sự im lặng mang tính đồng lõa của những người mà bề dày cách mạng được tính từ thời khắc búa liềm được nhất lên, viên đạn hận thù giai cấp được bắn vào gáy những người phụ nữ như bà Cát Hanh Long, từ những người mà đến bây giờ vẫn đặt để tên sát nhân Hồ Chí Minh vào bệ thờ cao nhất trong ngôi nhà cộng sản xiêu vẹo mà họ đang muốn chỉnh đốn lại cho giống ngôi nhà ngày xưa của "bác".

Sunday, September 14, 2014

TRẦN MẠNH HẢO * MẸ TÔI TRONG CCRD

Mẹ tôi trong Cải cách ruộng đất
 

Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Năm cải cách ruộng đất ở làng tôi sau tết 1956-1957, là đợt long trời lở đất cuối cùng của cuộc tắm máu, trời rất rét, nạn rận chấy hành hạ dân chúng khủng khiếp hơn bao giờ, có nguy cơ chết vì rận chấy nhiều hơn là chết vì đảng bác xử bắn oan, (xử bắn, đấu tố toàn người tốt, người nghèo bị quy oan do số phần trăm đảng đội áp đặt lên từng làng từng xã). Nếu không có nạn rận chấy năm đau thương khốn khổ tột cùng ấy, có lẽ ba mẹ con tôi đã chết đói (bố tôi đang bị đảng - đội bắt giam tội địa chủ) vì không có hạt gạo nào để nấu cháo...



Các bạn biết tôi hành nghề gì để cứu đói cả nhà trong khi mới chỉ 10 tuổi đầu? Tôi làm nghề bắt rận thuê cho các gia đình cán bộ và gia đình ông bà ông nông dân bần cố vừa được chia của từ gia đình phú nông địa chủ. Chẳng là khi đi qua nhà đứa bạn gái cùng học vỡ lòng - con ông đội trưởng xóm tôi, thấy nó đang ngồi bắt rận, nó hét lên sợ hãi vì rận bám đầy quần áo nhà nó. Thấy tôi đi qua, nó bảo: thằng con địa chủ Hiền kia, mày vào bắt rận giúp tao, tao bảo bố tao cho mày bò gạo về ăn cho khỏi chết đói...


Tôi hăng tiết, bắt rận giúp nó nhanh hơn khỉ, bắt được con nào cũng cho vào miệng cắn cái bép, khiến môi tôi đỏ như ăn trầu. Tôi bắt một buổi sáng hết sạch rận trong đống áo quần hôi như cú của con gái nhà ông cán bộ… Gia đình ông trưởng xóm cho tôi đúng một bò gạo vì công bắt rận tài ba. Tôi mơ ước làm giàu bằng nghề bắt rận. Cầm tí gạo gói trong lá khoai ngứa, đi qua nhà thờ, tôi quỳ xuống làm dấu thánh giá xin với Chúa và Đức Mẹ rằng: con cám ơn Chúa và mẹ Maria, con xin Chúa ban cho làng con, xã con, tỉnh con, nước con mãi mãi tràn ngập rận chấy để con làm giàu bằng nghề bắt rận thuê. Cứ như vậy, thiên tài bắt rận thuê của tôi vang lừng thôn xóm. Ngày nào tôi cũng kiếm được gạo, một hay hai bò (bơ, lon) gạo về nấu cháo cho mẹ và hai em ăn khỏi chết đói...


Hôm đó khoảng gần 12 giờ trưa tôi về nhà sau khi đã được trả công gần hai lon gạo vì bắt rận thuê cho hai gia đình cán bộ thôn thì nghe nhà tôi có biến. Đám người bần cố nông quá đông đúc kéo đến nhà tôi dỡ nhà, dỡ bếp bởi họ được đội cải cách chia cho mọi tài sản trong nhà tôi từ cái thìa cái đũa đến cái bát, cái mân, cái nồi con dao cái thớt...


Tôi khiếp đảm thấy mẹ tôi vừa khóc vừa chửi bọn chúng và hai tay cầm hai con dao bầu nhọn hoắt đang xông vào đâm ông Xoan, ông Chúc (hai ông bần cố nông này được chia cái nhà chính của ông nội tôi đã di cư để lại), hai ông tí chết vì hai nhát dao đâm sẩy của mẹ tôi. Hình như mẹ tôi điên rồi, vừa chửi vừa quyết sống mái với bọn đến dỡ nhà cướp của. Mẹ tôi vừa khóc vừa dứ dứ hai con dao quyết lao vào đâm bọn dỡ nhà, khiến một tên vừa leo lên mái sợ quá đã ngã xuống gãy chân. May mà có mấy người bà con hàng xóm đến hỗ trợ mẹ tôi. Tôi bỏ gói gạo trong lá khoai xuống đất, hai tay cầm hai cục gạch đứng bên mẹ nói: tao thề chết bảo vệ mẹ tao, chúng mày ác Chúa phạt liền đó, thấy chưa, ngã xuống đất gãy chân kìa… Mẹ tôi lên cơn rồi, bà quyết sống chết bảo vệ căn nhà chính mà không đủ sức bảo vệ cái bếp đang bị mấy người bần cố nông khác dỡ mất, phá cướp sạch rồi…


Mẹ tôi vừa khóc vừa múa dao kể rằng: bớ bọn ác nhân kia, bố chồng tao đêm nào cũng đi cất vó, ngày nào cũng ra đồng cày bừa với ông Mục cày thuê cho hai mẫu ruộng sao địa chủ được. Chúng mày cứ xông vào cướp, xông vào dỡ nhà đi, tao sẽ đâm chết hết chúng mày rồi có bị Hồ chủ tịch cắt lưỡi, xẻo vú cũng cam lòng… Nào thằng kia, con kia, leo lên mái nhà thử coi, tao đâm chết ngay thằng Xoan, thằng Chúc liền này…


Lão Xoan, lão Chúc gọi dân quân đến với súng ống lên đạn cạch cạch nghe chết khiếp… Tôi nghĩ phen này chúng nó bắn mẹ mình rồi, hai tay tôi vẫn cầm hai cục gạch chạy đến đứng trước bụng mẹ. May mà có ông Bính bí thư làng (người chuyên làm nghề ăn trộm ăn cắp) đến kịp nói nhỏ vào tai lão Thảnh đội trưởng đội dân quân một lúc thì đội dân quân du kích rút đi… Sau này mới biết ông Bính (người từng mê mẹ tôi khi mẹ chưa lấy bố tôi) nói với dân quân rằng: “Nhà thằng Ký Sinh (ông nội tôi đã di cư) và con là thằng Hiền chồng con điên kia đã nằm trong danh sách sửa sai xuống thành phần…”


Lão Xoan lão Chúc hai tên bần cố nông chuyên ăn trộm thấy tình thế không thể dỡ nhà mang đi được vì sợ con mẹ điên cầm dao đang quyết đâm chúng nếu không có mấy bà con giữ tay can gián, bèn lủi mất… Mẹ tôi gục xuống đống gạch vụn của căn bếp ba gian vừa bị chúng cướp phá dỡ mang đi từ hòn gạch, khóc rồi ngất luôn, không còn thời gian đâu ra ngăn bà Y đang phá cổng nhà tôi lấy gạch…


Chiều đó, mẹ tôi vẫn phải ra đồng bắt cá về cho ba đứa con ăn với cháo do thằng Hảo bắt rận thuê mà có được tí gạo. Khi mẹ về, giỏ cá đã mất, vì bị bọn ông bà ông nông dân chăn trâu cướp mất giỏ cá, lại bị chúng dùng roi trâu quất lên mặt mẹ ba con lươn đỏ như máu bởi mẹ quên khoanh tay cúi chào, bọn trẻ trâu đang cưỡi trâu trên đường theo quy định của đảng – bác – đội rằng: con vợ địa chủ Hiền, con dâu địa chủ đại gian đại ác Ký Sinh đã theo giặc vào Nam kính chào kính lạy ông bà ông nông dân cưỡi trâu ạ…


Chuyện về mẹ tôi còn dài, viết một cuốn tiểu thuyết về bà cũng không hết, kỳ sau xin kể tiếp…

Sài Gòn 14 – 9 – 2014

VỀ BÀI THƠ " ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI " CỦA VĂN CAO



BÀI THƠ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
CỦA VĂN CAO

(Không có trong trong triển lãm CCRĐ)

ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI(*)

Người ta, các đồng chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phả

Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuốn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
 

 Nhạc sĩ Văn Cao
(1956)


Bảo tàng lịch sử quốc gia VN vừa trưng bày triển lãm về Cải cách ruộng đất 1946-1956, để chứng minh là cuộc cải cách đúng đắn vì "dân cày có ruộng". Bây giờ hàng triệu dân cày đâu còn ruộng nữa, thì sao ? Thật trớ trêu cho câu chuyện đang cố vùi đi, lại bới lên như một niềm tự hào ?





Văn Cao (ảnh Nguyễn Đình Toán)
Tôi đã được Nhà thơ - Nhạc sĩ Văn Cao cho công bố bài thơ về Cải cách ruộng đất của ông, Đồng chí của tôi, như một bi kịch mà ông giữ mãi trong sổ tay cho đến khi từ biệt cõi đời...

Giữa quá nhiều bất trắc cuộc đời, tiếng thơ Văn Cao chẳng bao giờ đổi giọng. Chữ nghĩa của ông như được viết ra từ ngòi bút kim cương chứ không phải bút lông bút sắt. Và khi tiến hành chọn bản thảo tập thơ Lá, Văn Cao rất vui lòng ủy thác cho Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo và tôi tuyển chọn. Hầu như ông hoàn toàn yên tâm về việc đó. Ông nói : “ Ba thằng mày bảo được là được ! ”.

Dù là trong thời kì “đổi mới” rất mạnh mẽ, chúng tôi vẫn thấy ông có một bài thơ mà nhà xuất bản khó lòng chấp nhận, đấy là bài Đồng chí của tôi viết năm cải cách ruộng đất (1956). Bài thơ tràn đầy lòng tin vào chủ nghĩa xã hội mà cảnh tỉnh những sai lầm của hiện tại, nó là tiếng lòng thống thiết của người cộng sản bị xử bắn oan gửi tới các đồng chí của mình.

Không trung thực với Đảng, không có lòng can đảm của một đảng viên, không chan chứa một trái tim nhân đạo… không thể viết được một bài thơ rớm máu như thế. Nhưng 30 năm và hơn thế nữa, nó vẫn chỉ là bài thơ của riêng ông. Chúng tôi biết điều đó, và đề nghị ông “để lại”, ông đồng ý ngay. Đầu năm 1995, tôi nhắc lại với ông bài thơ ấy, và thấy đã đến “thời” bài thơ có thể in được rồi, nhưng ông nói sau khi nhấp một ngụm rượu: “ Thôi, cứ để sau khi mình chết rồi in cũng chưa muộn ”. Ngày ông qua đời, tôi bỗng mở sổ tay xem lại bài thơ ấy, và tôi đã khóc.
Nguyễn Trọng Tạo


 
Thứ Năm, ngày 07 tháng 8 năm 2014


ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI

Đặng Huy Văn: “Đồng Chí Của Tôi” là một bài thơ cho đến nay vẫn còn bị cấm in thành sách của nhạc sĩ Văn Cao, tác giả Quốc Ca VN vì nó mô tả chân thực một vụ xử bắn trong CCRĐ. Vụ xử bắn này được diễn ra ngay trên quê hương Hà Tĩnh máu thịt của tôi. Đọc bài thơ lên, nhất định các dư luận viên ăn lương của đảng CS VN sẽ vô cùng phẫn nộ vì cho rằng, nhạc sĩ văn Cao đã bịa ra để nói xấu đảng và bác Hồ chứ chuyện này không có. Nhưng xin thưa các vị, chuyện này đã xẩy ra trước mắt tôi vì người bị bắn trong bài thơ này chính là một bà cô họ của tôi, một người bạn cùng hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Pháp với chú tôi trước đây.


Ngày đó, từ tháng 8 năm 1954 đến tháng 7 năm 1956, chuyện tử hình một cán bộ có công với cuộc kháng chiến chống Pháp tại Hà Tĩnh là một chuyện bình thường. Nhiều cán bộ đảng viên trong kháng chiến chống Pháp như chánh phó chủ tịch xã, chủ tịch huyện và các huyện ủy viên, chủ tịch tỉnh và các tỉnh ủy viên cũng đã bị quy là “Quốc Dân đảng” và bị bắt giam hoặc bị bắn chết một cách dã man như thế. Đó là chưa kể tới hàng ngàn “địa chủ cường hào gian ác” khác của quê tôi cũng đã bị giết chết một cách oan uổng hơn thế. Trung bình, cứ sau một người bị xử bắn là lại có thêm từ 7 đến 10 người khác “ăn theo” bằng hình thức tự tử vì quá sợ hãi.


Ngoài ra, còn có rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ con trên quê tôi đã bị chết đói thê thảm vì chủ trương “không được tiếp tế cho các gia đình địa chủ”nữa... Nên có thể nói CCRĐ là một thành tựu vĩ đại ngoài sự mong đợi của các đồng chí cố vấn Trung Quốc do Mao chủ tịch cử sang để trợ giúp cho sự nghiệp vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh! Cuối cùng nhờ tài trí khôn khéo của chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà tình báo lão luyện, cuối năm 1956, trước quốc dân đồng bào, người đã “thành khẩn” lau nước mắt và xin lỗi toàn thể nhân dân cùng hàng vạn oan hồn CCRĐ đã lỡ phải hi sinh vì cách mạng, mà đất nước ta mới được “độc lập, tự do và hạnh phúc” như ngày nay!

Nhân dịp kỷ niệm tròn 60 năm ngày bác Hồ đã cử các Đội Giảm Tô, CCRĐ cùng đoàn cố vấn Trung Quốc về với quê hương Hà Tĩnh của tôi, tôi xin phép nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo được đăng lại bài thơ này từ trang nhathonguyentrongtao.wordpress.com của anh. Xin được cám ơn anh rất nhiều!


ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI(*)

Người ta, các đồng chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
 
 Nhạc sĩ Văn Cao
(1956)


Hà Nội, 8/8/2014

Đặng Huy Văn



TÌNH ĐỐNG CHÍ CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN

VAN MỘC CƯ SĨ


Khi nghe người Bắc Kỳ di cư kể chuyện đấu tố ngoài Bắc, đa số đồng bào miền Nam không tin. Họ nói bác Hồ yêu nước thương dân đâu làm những việc vô nhân đạo như thế. Rằng bọn di cư nhận tiền Mỹ Ngụy nên tuyên truyền láo khoét. Người ta cả đời hy sinh cho cách mạng đâu có thể làm những việc phản dân, hại nước như thế. Rằng chuyện kể vô lý, ai đời vài sào ruộng mà bị quy là địa chủ rồi đem bắn ư? Chuyện càng phi lý vì cộng sản giết bọn Việt gian chứ sao lại giết đồng chí cộng sản của mình, những đồng chí trung kiên đã vào tù ra khám thời Pháp thuộc, và đã hăng hái tham gia kháng chiến, đã từng lãnh đạo tỉnh, xã, hội Phụ lão cứu quốc, hội Liên Việt?

Nhưng rồi năm tháng, cái kim trong bọc cũng lòi ra nhất là khi bọn Nam Kỳ hồi kết nói mọi việc cho họ hay. Và  sự kiện 1975  đã làm cho  dân Nam kỳ thấy tận mắt mọi sự. Người ta biết rõ cái gian manh, tàn ác của Nguyễn Tất Thành và âm mưu thâm độc của Mao Trạch Đông. Hồ Chí minh dù là người Việt hay người Hoa thì cũng là nô lệ của Trung Cộng, luôn luôn tuân lệnh Trung cộng. Cải Cách Ruộng Đất cũng do lệnh Trung Cộng và Nga Sô. Mọi cách thức tàn ác, gian manh trong CCRD, trong tra tấn tù nhân, trong khủng bố nhân dân đều học từ Trung Cộng và Liên Xô.

Nhưng tại sao người ta lại làm nhiều điều phi lý, mâu thuẫn và hèn hạ  trong CCRD?

- Người cộng sản bị Pháp bắn, theo lời tuyên truyền của Việt cộng  thì hô to cộng sản muôn năm, còn bị cộng sản bắn mà cũng hô cộng sản muôn năm ư?  Pháp bắn hô cộng sản muôn năm,. cộng sản bắn cũng hô cộng sản muôn năm, té ra coi coi cộng sản cũng như thực dân Pháp ư? không phân biệt bạn thù hay sao?
Phải chăng vì sợ cộng sản quá, cộng sản  giết chết  cũng không dám oán than. Đó là bi kịch của người cộng sản mù quáng và sợ hãi!  Võ Nguyên Giáp cũng vì hèn nhát, sợ hãi mà quỳ lạy đàn em, nhục nhã như thế đấy!

 Tôi sẽ phải kêu lên
 Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm


 Một nguyên do khác là  các nạn nhân muốn nói họ chết oan, họ trung thành với đảng, không phản bội đảng, sao đảng lại bắn họ?  Và phải chăng hô như thế là cầu xin cộng sản buông tha cho con cháu họ?

-Tại sao lại gọi những người bắn mình là "đồng chí":
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi

Bọn đấu tố điêu, vu khống các ông,  chúng cầm súng, cầm gươm giết các ông  là bọn nông dân ngu dốt bị cộng sản lợi dụng, bị cộng sản thúc đẩy, bắt buộc.. Bọn đó là đồng chí ư? Kể cả Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... đại ác, đại bịp cũng là   " đồng chí", là " lãnh tụ  "  ư?

-Cộng sản đã phản bội dân tộc, chạy theo Nga, Tàu thi hành các chính sách phản dân hại nước. Cộng sản đã tàn sát các ông , đã coi các ông là " kẻ thù của nhân dân  " , đã xử tử hình, đã bỏ tù các ông, đã đuổi các ông ra khỏi đảng, tại sao các ông còn" cố đấm ăn xôi "?  Thực tế phũ phàng trước mắt,  còn lợi lộc gì, danh vọng gì  mà  các ông vẫn còn trung thành với bọn chúng, vẫn muốn đeo theo bọn chúng? Tại sao không tranh đấu giải phóng bản thân mình, con cháu mình, dân tộc mình khỏi chế độ cộng sản độc tài ? Tại sao tinh thần nô lệ quá nặng như vậy? Tại sao lại trung thành với ác quỷ? Ngu dại một lần  mà chưa tỉnh ngộ sao?

Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên


- Sống trong chế độ cộng sản tàn ác, nghèo khổ như thế mà nhiều người vẫn tin tưởng vào thiên đường cộng sản ư?
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.


XHCN như đã thực hiện ở Nga, Trung cộng và Việt nam thì có gì mà tự hào, khoe khoang  là Của chúng ta ? Các ông thiếu suy nghĩ. Đúng là thấy người sang bắt quàng làm họ.. Ai cùng hàng ngũ với các ông mà các ông vơ vào và vỗ ngực xưng " chúng ta  "? Các ông chết, bị tù, bị cộng sản khinh miệt, căm thù, coi các ông là súc vật, thế mà các ông là tự cho là cùng hàng ngũ với các chiến sĩ cộng sản bách chiến bách thắng ư? Và bọn cộng sản cướp của, giết người và man trá sao  các ông gọi chúng là  " cách mạng "?

- Chết như thế là chết oan ức,  cộng sản cười man rợ trên những cái chết này. Chết oan ức như thế mà cho là vì đảng ư? Đau khổ như thế mà vì đảng  ư?  Cộng sản có coi những cái chết này là  những cái chết có giá trị không? Chắc chắn là không! Sống như ở đia ngục mà vẫn ca tụng  cộng sản,  vẫn còn muốn cho đảng tàn ác dã man này tồn tại muôn năm ư?

Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động

Những hành động  phi lý ngây ngô trên là  do sự chuyên chế và tàn bạo của cộng sản. Bọn  cộng sản đã huấn luyện đảng viên và nhân dân  bằng chính sách sắt máu, nhồi sọ, và khủng bố. . Kết quả họ đã đào tạo nên những nô lệ và con người hèn hạ., mất nhân cách và  óc suy luận.. Một số người kể cả văn nghệ sĩ,  và trí thức  đã biến thành  những con chim non bị mắt rắn độc thôi miên sợ hãi, run rẩy cúi  rạp mình xuống mặc cho rắn độc nuốt chửng!

Ôi!  loài người một số ngu dại quá chừng  !  Văn Cao tháo xiềng xích,  chạy ra đến cửa ngục lại chạy vào, đeo xiềng xich vào cổ, vào chân tay và hô to  nhà tù muôn năm! Văn Cao mà như thế đấy! Đó là bi kịch của Văn Cao, của người Cộng sản và nửa nước Việt nam. Phải là những con người thật sự yêu nước, phải là tinh hoa của dân tộc có ý chí quật cường, có trí óc thông minh  mới sớm ý thức được hiểm họa cộng sản và  cương quyết vùng lên chống cộng sản  như Phan Khôi, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, và các chiến sĩ Quốc gia  Viet Na m...

SƠN TRUNG * MỘT CUỘC BỂ DÂU


 

MỘT CUỘC BỂ DÂU 

SƠN TRUNG

Quân Tây Sơn chiếm kinh đô Phú Xuân rồi bắt các quan văn võ của chúa Nguyễn đem vào rừng giam giữ. Việc giam giữ này rất bí mật, thân nhân của họ và bản thân của họ cũng không biết họ ở đâu, địa phương nào, và rừng nào. Còn các giáo quan các học hiệu phủ huyện trong nước, và viện Quốc tử giám ở kinh đô cũng như các sinh viên, học sinh đều phải học tập ''kinh điển Dao Mác''. Người ta dùng từ ngữ này để nói lên tính chiến đấu của ''cách mạng Tây Sơn'', khác với thứ kinh điển ủy mị và lạc hậu của Nho, Lão, Phật. Ngoài ra từ ngữ này cũng mang tính phổ biến và bình dân, vì ai ai cũng biết, ai ai cũng dùng đến, không phải là một thứ triết lý xa quần chúng, xa nhân dân như là từ bi hỉ xả, nhân nghĩa lễ trí tín, giải thoát, Niết Bàn, Phật tánh, Thanh tĩnh vô vi. ..

Việc học tập này cũng được gọi là cải tạo tư tưởng. Các học viên được nghe các ông Nghệ Tĩnh và Bình Định, Quảng Nam thuyết giáo về Đạo đức cách mạng của Nguyễn Nhạc hoàng đế, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, và trí tuệ đỉnh cao của Nguyễn Lữ. Ngoài ra, các học viên phải nghe giảng về cuộc cách mạng chống phong kiến, bước tiến lịch sử tất yếu của giai cấp vô sản và chính sách xã hội công bằng ''cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo'' của đảng Tây Sơn.

Sau khi nghe các quan lại Tây Sơn giảng huấn, các học viên phải tự kê khai tội lỗi của mình, tố cáo tội ác của chúa Nguyễn và tội các của các bạn đồng liêu. Ai tố cáo nhiều thì được khen là tiến bộ, là đã lột xác, thấm nhuần tư tưởng cách mạng và có hy vọng được tân triều trọng dụng vì tân triều rất khoan dung độ lượng hứa sẽ dùng hết tất cả mọi người, ngoại trừ những kẻ có tội ác với nhân dân. Dù là kẻ có nợ máu với nhân dân, chính phủ sẽ giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, cho họ đứng vào hàng ngũ nhân dân, tất cả theo đảng chung sức lao động , đưa cả nước tiến lên thiên đường chủ nghĩa. Trong mộng tưởng của đám hàng thần lạc quan này, một tương lai rất rực rỡ đang dần đến:

Đường mây rộng thênh thang cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo!
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu!

Lúc bấy giờ một số giáo quan cũ tỏ ra rất nhiệt tình với cách mạng. Họ xun xoe chào đón, tung hô vạn tuế, hàng này đến quét dọn nhà cửa, nhặt rác xung quanh dinh thự, mua bàn ghế, biếu sâm nhung, dâng nem công chả phượng để bồi dưỡng cho các quan ''cách mạng'' đã từng gian khổ trong rừng sâu. Họ ca tụng các chiến sĩ đảng Tây Sơn là anh hùng , trái lại họ chửi họ là hèn nhát vì bao năm đã theo phong kiến, sống sung sướng trong cảnh phồn vinh giả tạo của kinh đô Phú Xuân.

 Trong đám này lưng dẻo hơn cả vũ công, miệng thanh tao ngọt ngào hơn cả những cô đào thương, lại là đa số các giáo quan dạy về Đạo đức học, Triết học Đông Phương và Tứ thư Ngũ kinh. Trong khi đó đa số các giáo quan dạy Sử Địa, Ngoại văn là những môn mà xưa nay bị coi là vong bản, ngoại lai thì tỏ ra là có nhân phẩm hơn cả! Không ngờ thời đại này đã vô tình chứng minh cho quan điểm của ông thầy tuồng ''Tàu Titanic'' là đúng.

Ông này dựng tuồng ''Tàu Titanic'' để kể lại một truyện bi thương đã chìm trong lòng biển cả mà phần quan trọng nhất là đoạn cuối tàu chìm, các sĩ quan Tây dương bình tĩnh lấy phao cho phụ nữ, các nhạc sĩ vẫn chơi đàn dù nước lên đến đầu gối, đến bụng trong khi con cháu Khổng tử và anh em dòng Samurai mặc váy, choàng khăn giả phụ nữ cúi đầu leo lên xuồng thoát nạn! Đấy, ông thầy tuồng này muốn nói: Tụi Tây phương tao rất có đạo đức, rất hiệp nghĩa, rất can đảm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Còn bọn Đông Phương chúng bay nổ rầm rầm, nào nhân nghĩa, lễ trí tín, nào quân tử, trượng phu, và nào là tinh thần võ sĩ đạo, đến lúc cháy nhà mới ra mặt chuột!

Không những ông thầy tuồng này mà Kim Dung tiên sinh cũng chế nhạo đồng bào ông một số là đạo đức giả mà tiêu biểu là Nhạc Bất Quần. Tất cả tác phẩm của Kim Dung nổi bật lên luận đề: Trong những kẻ vỗ ngực xưng chánh phái có rất nhiều thằng đểu giả, gian ác, ngay cả những hòa thượng, những đạo sĩ được mọi người sùng bái, coi như Bắc đẩu,Thái sơn !
Thật vậy, trong ngày Phú Xuân thất thủ, một số văn võ quan nhất nhị phẩm triều đình cũng đã mặc y phục phụ nữ đào thoát ra khỏi xứ! Một số tu sĩ vứt cả từ bi, bác ái, dẫm đạp đàn bà, trẻ con mà chạy thoát cơn lửa thiêu thành Phú Xuân. Và một số sĩ phu ở lại đóng vai hiền nhân quân tử khôn ngoan, khéo léo hoặc làm trí thức yêu nước giác ngộ quỳ lạy các đô đốc Tây Sơn..
Chiêu văn quán là một trường thuộc viện đại học Quốc tử giám. Một vài giáo quan của trường khoảng 70 tuổi, đã viện cớ già yếu xin hưu thoái như Hạo Nhiên tiên sinh, Duy Cần tiên sinh. Duy Cần tiên sinh nghe đâu có người em theo Tây Sơn từ thành Quy Nhơn trở về, nói riêng với anh:

Ở với tụi nó khổ lắm, có ngày mang họa vào thân. Anh liệu mà cao chạy xa bay, đừng dính với hủi!
Duy Cần tiên sinh lúc này già rồi chẳng muốn phiêu lãng chân trời góc biển, vả lại tiên sinh chẳng có con cái gì, không còn vướng mắc, nên nghe lời em hát bài Tạ từ, treo ấn từ quan. Sau tiên sinh giả bệnh tật, khùng điên, ngớ ngẩn, thọ trên 90. Quanh năm tiên sinh ở nhà chẳng đi đâu, ai đến hỏi thăm, tiên sinh nằm rên hừ hừ. Ai mời tiên sinh đi ăn giỗ, nể tình phải đi, nhưng suốt buổi ngồi yên nhắm mắt. Ăn xong gục đầu như chết đến nơi khiến gia chủ lo lắng phải cho người đưa về nhà.
Nghe người ta nói lại, khi về nhà, tiên sinh tỉnh như sáo! Trái lại Giản Dị tiên sinh, tuổi trên 70 , dạy môn Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, đã có sách in nhan đề là Đạo học Đông Phương, viết chung với Nguyễn Hèn Lê tiên sinh, được tân triều cho về nghỉ, khỏi phải đến học tập cải tạo cho khổ thân già , song tiên sinh vẫn van nài, xin được ở lại học tập tiến bộ. Có kẻ nói rằng ông già Ba Tri này đeo theo đám ''tam thập'' nôm na là tụi ''ba mươi '' do Lý Bất Trung tiên sinh cầm đầu ở chốn kinh thành và trong Quốc Tử Giám, là vì hy vọng có địa vị trong những ngày tới (Sau này Lý tiên sinh được đảng cho vào Đại biểu viện làm nghị gật ). Việc Giản Dị tiên sinh hy sinh trường kỳ gian khổ như vậy khiến dư luận có nhiều ý kiến. 
Có người cho rằng tiên sinh thấm nhuần Khổng giáo, nay đem đem thực hành triết lý nhẫn nhục của Phật giáo, và đạo lý thực dụng khôn ngoan của Hàn Tín ''giỏi lạy thì còn, giỏi lòn thì sướng'' . Cũng có kẻ nói tiên sinh có người con bị Tăy Sơn bắt giam, tiên sinh phải thi hành khổ nhục kế, phải tỏ ra tích cực, tiến bộ, đỏ hơn đỏ để cứu con.
 Không biết con trai tiên sinh được tha năm nào, sự hy sinh của tiên sinh có đáng đồng xu cắc bạc nào không, hay ngài chỉ là một ''ngụy quân tử''. Sống cực khổ như vậy mà tiên sinh thọ trên trăm tuổi, kể ra trái tim và các giây thần kinh của tiên sinh có lẽ được đúc bằng thép! Đáng phục! Đáng phục! Trong khi đó, bao người trẻ hơn tiên sinh, sống trong địa ngục, không bị điên cuồng, cao huyết áp, thì cũng đau dạ dày mà chết sớm!

Lúc bấy giờ tại Chiêu Văn quán có cử nhân Đinh Văn Chương là người Thuận Hóa vốn là một trong những giáo quan trẻ tích cực tung hô Nguyễn Nhạc vạn tuế. Quan cử Văn Chương nhà cũng thanh bạch nhưng khéo chạy chọt và luồn cúi từ triều cũ cho đến triều mới. Ông hầu hạ các quan trong trường chưa đủ, ông tranh thủ phục vụ bên ngoài. Ông bán hết tư trang cho đến y phục của vợ để chiêu đãi các tân quan cách mạng, vì vậy mà ông được lưu dụng, và nổi danh chốn kinh đô với biệt danh '' quan cử Quần'' ám chỉ việc ông đã bán quần của vợ để phục vụ cách mạng. Ngoài ra, ông suốt ngày bám theo các quan tân triều báo cáo điều nọ chuyện kia.

Trước đây, thời chúa Nguyễn, sau khi thành Quy Nhơn thất thủ, Võ Tánh tuẩn tiết, Binh bộ thượng thư ra lệnh tổng động viên. Đặc biệt vùng kinh đô Phú Xuân, chúa ra lệnh lập hàng rào phòng thủ. Không muốn đóng cửa trường học và bắt thầy trò ra trận, chúa Nguyễn theo lời tâu của Binh bộ thượng thư, bắt các thầy ở Quốc tử giám ban ngày dạy học, ban đêm thay nhau túc trực, hễ có giặc là sẵn sàng ứng chiến; còn các sinh viên ba tháng hè là vào quân trường tập ắc ê.

 Trong Quốc tử giám lúc bấy giờ có một số võ quan, vốn là thạc sĩ, tiến sĩ vì lệnh động viên mà theo nghiệp binh đao, sau được về Quốc tử giám dạy học. Bộ binh cử vệ úy Văn Khuê người Thuận Hóa cũng là giáo quan của Chiêu Văn quán làm đoàn trưởng đội binh giáo chức, gồm những giáo quan trẻ của trường này, tất cả khoảng mười người, là tân binh cấp bậc binh nhì.
 
Vệ úy Văn Khuê vốn người ngay thẳng, khuôn thước, ở trong nhà binh bao năm nên đã quen nề nếp quân trường. Ông bực mình vì các tân binh dưới quyền ông quan chẳng ra quan, quân chẳng ra quân, rất là lèng phèng, vô kỷ luật, luôn luôn đến trễ hoặc vắng mặt vô lý do, lúc nào cũng khăn đóng áo dài của nho gia, không chịu mặc quân phục của triều đình.

Đã thế, lúc bàn bạc nói năng cứ mày tao chi tớ theo kiểu dân gian, không biết chào kính, thưa gửi theo quân giai, quân cách và quân kỷ. Không lẽ ông bắt các tiến sĩ, thạc sĩ bạn hít đất, nhảy xổm hoặc bỏ vào quân lao! Ngay cả phê bình họ ông cũng không dám. Nếu ông làm vậy, bọn họ sẽ làm thơ, ca dao, hò, vè châm chọc ông thì tai hại không thể lường được. Không phạt được ai, không đánh chửi được ai, ông đành phạt ông vậy.

 Ông phạt ông bằng cách làm đơn xin thôi làm đoàn trưởng. Ngoài ra còn lý do khác, chính Vệ úy Văn Khuê nói ra. Mỗi lần lên Binh bộ hội họp với các Thượng thư, Thái úy, và các đại soái, đô đốc, tổng binh, ông cảm thấy buồn phiền lắm. Buồn phiền vì tụi vệ binh chỉ chào kính các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên, còn chức vệ úy đoàn trưởng, đội trưởng của ông chỉ là thất phẩm, không đáng giá là bao, chúng chỉ chào hỏi lấy lệ! Ngoài ra, các quan trên mặc áo đỏ, áo tía, đi kiệu mười, hoặc mười hai, hai mươi người khiêng, xung quanh có kẻ hầu chạy theo bưng tráp, cầm điếu đóm rất xôm tụ, oai phong, còn ông chỉ mang võ phục đơn giản, đi ngựa, không có lấy một quân hầu.

Tủi thân, tủi phận, ông xin thôi làm đoàn trưởng và được bộ Binh chấp thuận. Bộ binh cử Vệ úy Hồng Sơn Đông cũng là giáo quan trong trường lên làm đoàn trưởng. Vệ úy Hồng Sơn Đông người Đồng Nai nên chịu chơi lắm. Ông cũng mày tao chi tớ với anh em, cũng nhậu nhẹt với anh em, không phân biệt cấp trên, cấp dưới gì cả, ai đi sớm về trưa hoặc bỏ trực, bỏ họp ông chẳng quan tâm. Trường để cho đội Phòng vệ kinh đô một ‘’tổng hành dinh’’, là một phòng giảng dạy, nay lấy tre nứa và cót che lại một góc, chỉ có một cái bàn và vài cái ghế, không có nhân viên, chỉ có một cuốn sổ trên bàn, cứ theo ngày định trước, các tân binh giáo quan đến ngày trực, ngày họp, ký tên vào sổ rồi về.

Thời Văn Khuê làm đoàn trưởng, mỗi năm cũng có vài lần họp, mỗi lần vài phút rồi giải tán. Còn lúc Hồng Sơn Đông làm đoàn trưởng, cả năm không có một cuộc họp, hoặc canh gác gì cả, thậm chí các tân binh giáo quan cũng không thấy khẩu súng tròn hay méo. Ông làm được khoảng một năm thì cái ‘’tổng hành dinh’’ biến mất lúc nào không hay, và ông đem về cho đám giáo quan tân binh một mớ giấy khen thưởng của Binh bộ, nào là có tinh thần chiến đấu, hoàn thành tốt các công tác.. .

 Các giấy khen này được bỏ trên bàn trong phòng giáo quan nhưng không ai lấy đem về, nhân viên văn phòng phải bỏ vào các hộp thư của mỗi người, thế mà cũng chẳng ai nhận lãnh. Sau ngày quân Tây Sơn tiếp quản Quốc Tử giám, các giấy tờ này mất sạch. Nhưng mà cũng chẳng ai chú ý đến vấn đề nhỏ nhặt này vì trong đầu óc mọi người lúc này ai cũng cộm lên kế hoạch ‘’tẩu vi thượng sách ‘’! Sau quân Tây Sơn vào, hỏi trong trường ai là đảng viên ngụy, ai là chiến sĩ thi đua, ai là giáo sư nhân dân, ai là giáo sư ưu tú, ai là biệt phái, ai là mật vụ, ai được khen thưởng của ngụy quyền, thì Văn Chương khai ra, và trình lên các giấy khen thưởng này, thành thử cả đám bị kết tội là tình báo và bị đuổi ra khỏi trường.



Tại kinh đô Phú Xuân lúc này có nhiều trường đại học. Triều đình có Quốc Học viện tức Quốc tử giám, dưới Quốc tử giám có Chiêu Văn quán, Tú Lâm cục, Hoa Văn cục, Tập hiền viện, . .Bên Phật giáo có Vạn Pháp học viện, bên đạo Lão có Tam Thanh học quán, nhưng nhìn chung toàn quốc, từ Bắc chí Nam, Nho, Lão Thích đều suy đồi, đâu cũng thấy yêu ma quỷ quái xuất hiện giữa ban ngày.

Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là nho sĩ, văn võ toàn tài nhưng có tiếng tham nhũng, theo Hoàng Ngũ Phúc đến khi Hoàng Ngũ Phúc mất, mà sau Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh giết, ông bỏ đất Bắc Hà vào Quy Nhơn theo Tây Sơn. Sau đó là Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ich cũng là những kẻ ‘’trốn chúa lộn chồng’’, bất trung bất nghĩa, hết theo Trịnh lại theo Tây Sơn. Nhất là Ngô Thời Nhậm, bị sĩ phu Bắc Hà khinh miệt. Nguyên trước đấy, chúa Trịnh Sâm đã lập Trịnh Khãi làm thế tử, trước khi chết, lại để di chiếu lập Trịnh Cán, con trai Đặng Thị Huệ, tức bà chúa Chè làm thế tử và giao cho Hoàng Đình Bảo phụ chánh.

Thực ra không ai biết là do quyết định của Trịnh Sâm hay xảo kế của Đặng thị Huệ. Trịnh Cán còn nhỏ mà lại lắm bệnh, nên phe họ Trịnh chia làm hai, phe theo Trịnh Khãi, phe theo bà chúa Chè.. Không biết Trịnh Khãi có ý chống cự hay bà bị bà chúa Chè vu oan giá họa, khiến Trịnh Khãi bị giam, các chân tay của Trịnh Khãi bị giết vì tội âm mưu khởi loạn. Bà chúa Chè rất thủ đoạn, dùng Huy quận công Hoàng Đình Bảo làm nơi nương tựa cho mẹ con bà. Hoàng Đình Bảo nắm quyền trong phủ chúa, có quyền vào ra ngày đêm cho nên trong dân gian truyền tụng câu ca:

Ba quân có mắt như mờ,
Để cho Huy quận vào sờ chánh cung.

Bà chúa Chè chơi rất có bài bản. Bà cho quân bắt người rồi lập tòa án xử tội Trịnh Khãi, giao cho Ngô Thời Nhậm thụ lý vụ này. Ngô Thời Nhậm theo phe bà chúa Chè, nhận lệnh Hoàng Đình Bảo kết tội phe Trịnh Khãi khiến các thầy dạy của Trịnh Khải là Nguyễn Khắc Tuân, Chu Xuân Hán tự tử, Nguyễn Khản bị giam. Một số văn võ quan và dân chúng bị họa lây, số nạn nhân lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Ngô Thì Nhiệm được thăng thị lang. Trong khi thân phụ Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Sĩ và các quan ủng hộ Trịnh Khãi thì Ngô Thời Nhậm bỏ nhân nghĩa theo cường quyền, khiến cho Ngô Thời Sĩ đau đớn và tủi hổ nên tự tử.

Dân chúng và sĩ phu kết tội Ngô Thời Nhậm ‘’sát tứ phụ’’, nghĩa là giết bốn cha ( cha và ba bạn của cha, là thúc phụ, bá phụ của Ngô Thời Nhậm). Ngô Thời Nhậm huênh hoang được một thời, đến khi quân Tam Phủ nổi loạn giết Hoàng Đình Bảo, cứu Trịnh Khãi lập ngôi chúa, thì Ngô Thời Nhâm trốn chui, trốn nhủi, sau rủ em rể là Phan Huy Ich bỏ nhà Lê theo Tây Sơn. Về phía Thích giáo, tình hình cũng đen tối. Một số lợi dụng chùa chiền làm cơ sở ẩn náu như Phạm Thái, Trần Quang Ngọc ở chùa Tiêu Sơn để chống Tây Sơn, còn thiền sư Châu Bất Minh, Vô Nhất Hạnh thì đội lốt thầy tu hoạt động cho phe Tây Sơn ở kinh đô.

Ngoài ra, một số đội lốt sư ở chùa để kiếm cơm và trốn lính cho nên trước và sau khi quân Tây Sơn vào Phú Xuân, họ bỏ chùa ra ngoài lấy vợ, nhất là những ông sư tiến sĩ, cử nhân hoặc tú tài như thiền sư Phạm Công Thiến, Phạm Thiên Lôi, thiền sư Nguyên Hồng Đào, . .Phật dạy nhân nào quả nấy thật là đúng. Ai đời trong học viện, các ngài tuyển rất nhiều nữ thư ký đẹp hơn hoa khôi, làm sao mà lòng trần chẳng động?

Bên Đạo giáo, một số đạo sĩ cũng có hành vi đổi trắng thay đen. Trước đây một số trong bọn họ theo Trương Phúc Loan, nay thấy Tây Sơn mạnh, họ bèn quay 180 độ, lên tiếng ủng hộ Tây Sơn, chống Trương Phúc Loan tham nhũng, và kêu gọi hòa bình. Trong số đạo sĩ này có đạo trưởng Thanh Long, chân nhân Văn Thanh, đạo nhân Vô Chân Vô Tín, đạo sĩ Nguyễn Ngọc Lươn, và một số tín đồ như Lý Bất Trung tiên sinh ờ trường Quốc Tử Giám, và nữ kiệt Thanh Thanh ở kinh đô. Lý Bất Trung tiên sinh nghe nói đỗ cử nhân, đuợc làm Đổng Lý văn phòng bộ Lễ đời Trương Phúc Loan, và cũng nhờ thế lực Trương Phúc Loan mà vào Quốc Tử giám.

 Ngoài ra, một số đạo sĩ theo đời lấy vợ. Một số rất thẳng thắn, công khai cởi áo nhà tu như đạo sĩ Lý Tôn Nghiêm ở Quốc tử giám, nhưng cũng có đạo sĩ sau ngày quân Tây Sơn nhập thành mới dẫn vợ và một đàn con ra khoe thành tích đi theo cách mạng, triệt để chống tôn giáo như đạo sĩ Trần Thái Sơn, một danh sư cũng ở Quốc tử giám. Đạo trưởng Thanh Long trước đây quỳ mòn sân tướng phủ Trương Phúc Loan, sau thấy Tây Sơn hùng hậu ngài lên tiếng chống Trương Phúc Loan bóc lột dân chúng. Ngài đã cùng một số bộ hạ mang áo rách, đội nón mê, chống gậy đi ăn mày khắp phố phường để bêu xấu chế độ. Khi quân Tây Sơn vào Phú Xuân, ngài vội vã dâng đạo quán của ngài cho quân Tây Sơn và ra ngoài theo tiếng gọi thiêng liêng.


Tuần đầu học tập kinh điển, các giáo quan cũ mang tâm trạng chán chường bởi vì họ là những kẻ thất trận, mang tâm trạng của một nhà thơ đời trước:

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!

Họ cũng mang nỗi u hoài vì các bạn cũ vắng bóng. Vệ úy Hồng Sơn Đông nghe nói đã bị bắt vì tội làm vệ úy trong Đại Nội. Trưởng giáo Xuân Bảo, người Thuận Hóa, vốn là một đại thần trong triều, bao lần giữ chức Tả thị lang bộ Lễ (tức thứ trưởng sau này) không biết đã đào thoát hay bị giam. Một số vắng mặt có lẽ đã chết, ngồi tù hoặc đã bỏ trốn. Chiêu Văn quán bây giờ thuộc ban quân quản của chế độ mới cai trị. Một số bộ mặt khắc nghiệt, lạnh lùng xuất hiện.

Cũng có một vài giáo quan cũ như Lý Bất Trung, Phạm Trọng Vằn, Lê Thất Thành, Lưu Tất Khôn đứng hầu bên cạnh các đại quan Tây Sơn. Những người này trở thành đội trưởng, đội phó cai quản các học quan và sinh viên Chiêu văn quán. Một hôm các giáo quan đang ngồi trong hội trường bỗng thấy đạo trưởng Thanh Long xuất hiện. Ngài không mang y phục đạo trưởng mà bận quân phục Tây Sơn, chỉ thiếu cái mũ tai bèo trên đầu, nhưng nổi bật với băng đỏ rực rỡ của ban Quân quản trên cánh tay, chen vai thích cánh với các tân quan cách mạng, đi hiên ngang ngoài hành lang.

Thái độ và cử chỉ của ngài, chứng tỏ ngài đã bám dính được với ‘’cách mạng’’. Ngài đã được trọng dụng là phải vì trước đây, ngài đã chống chế độ bằng cách đi ăn mày và trước ngày quân Tây Sơn nhập thành. ngài đã viết văn bản ký tên truyền tay các giáo quan kêu gọi mọi người đừng di tản, hãy ở lại phục vụ ‘’cách mạng’’ xây dựng thiên đường chủ nghĩa. Thời gian học tập này, một đôi khi, các đại quan Tây Sơn triệu tập các học hiệu thuộc viện Quốc Tử giám họp chung, nhưng thường thì các giáo quan các học hiệu được chia thành từng nhóm để học tập và hội thảo chính trị. Một đôi lần, toàn Chiêu Văn quán được họp chung.

Một bữa, toàn trường ngồi nghe thông báo tin tức, không phải là buổi tố khổ, thế mà đạo trưởng Thanh Long lên tiếng tố cáo nguyên Trưởng giáo Xuân Bảo là tay sai thực dân, phong kiến. Ngôn ngữ và thái độ hung hãn của đạo trưởng Thanh Long cho thấy ngài đã nhập vai vô sản tranh đấu. Xưa nay, đạo trưởng Thanh Long rất khôn ngoan và tích cực. Trong triều, ngài có thái sư Trương Phúc Loan đỡ đầu, trong trường có Trưởng giáo Xuân Bảo giúp đỡ nên ngài và phe phái ngài mặc sức tung hoành trong ngoài. Nay đột nhiên, và không cần thiết, ngài lên tiếng tố cáo vắng mặt Trưởng giáo Xuân Bảo làm cho mọi người ngạc nhiên. Lão sư Văn Diêm, là người Thuận Hóa, cũng là nguyên trưởng giáo ở các trường đại học, là em hay anh vợ của Trưởng giáo Xuân Bảo, đứng lên phản đối. Ông nói:

Ông Xuân Bảo đã ra trình diện tân triều và đang học tập cải tạo. Ông có tội hay không có tội, triều đình sẽ quyết định, không việc gì đến ông! Hãy im miệng ông lại đ ồ nịnh thần vô liêm sỉ !

Trước đây, dưới mắt nhiều người, Văn Diêm lão sư chỉ là một ông già hiền lành, ít nói, thuộc loại ‘’gọi dạ bảo vâng’’, nay mới thấy lão sư Văn Diêm cũng có chút khí phách chứ không phải là hèn, chỉ biết im miệng cúi đầu nghe người ta nhục mạ cha anh! Một số tín đồ Đạo giáo, thấy cảnh tượng như thế rất đau lòng. Thời chúa Nguyễn, già Riêm là một ông lão hiền lành và nghiêm nghị, trông coi phòng giáo quan đã mấy đời trưởng giáo, chuyên việc trà nước, và đóng mở các phòng ốc. Sau lão về hưu thì ông Tam vào thế.

Ông Tam vui tính, để vợ con ở Đồng Nai, một mình ở một phòng rộng rãi trong khuôn viên Chiêu Văn quán. Ông Tam thích hút thuốc thuốc lào cho nên một số giáo quan trẻ thường tới đây hút thuốc lào và nói hươu nói vượn, có thể nằm dài sau cơn say. Không khí ở đây tự do hơn là ở phòng khách giáo quan, là nơi để các giáo quan nghỉ ngơi trước và sau giờ dạy. Thấy đạo trưởng Thanh Long tung hoành ngang dọc, ông Tam cũng là một tín đồ đạo tiên, đã lắc đầu, than thở :

Xưa nay tôi cứ tưởng Thanh Long đạo trưởng đạo cao đức trọng, không ngờ nay ngài làm tay sai cho quỷ sa tăng. Mai mốt tôi sẽ xin về quê làm ruộng, không còn muốn ở lại đây nữa. Chúc các thầy ở lại mạnh khoẻ. . . .

Nói xong ông rơm rớm nước mắt.


It lâu sau, chính sách của Tây Sơn đã rõ rệt. Trong chế độ mới không có tư hữu, và không có chỗ cho tôn giáo. Vì vậy các trường Đại, trung, tiểu học vào tay nhà nước, các vị tu hành không được múa may bay nhảy như trước ngoại trừ các bảng hiệu quốc doanh. Thanh Long đạo trưởng và các sư sãi đều ra khỏi đại học. Tài sản nhà chùa, nhà thờ thì triều đình lấy, song người của nhà chùa, nhà thờ thì trả lại cho nhà chùa, nhà thờ! Còn đại học và việc nước là đo tân triều quản lý. Nghe nói người ta tính dẹp hết các trường dạy văn chương trong đó có Chiêu Văn quán. Một thời gian sau, phần lớn giáo quan được lệnh nghỉ việc, riêng một số vì nhu cầu đưọc ở lại. để lập thành đại học Bách hợp . Lại một đoạn sử được sang trang.
 
 
 
 

Saturday, September 13, 2014

BẢN TIN THẾ ĐẠO 20

 
BẢN TIN THẾ ĐẠO 20-1

Baûn Tin soá 20 Ngaøy 13-9-2014
VIỆT NAM - XÃ HỘI -
Bài đăng : Chủ nhật 07 Tháng Chín 2014 -
Việt Nam : Tọa đàm về Kiểm điểm nhân quyền bị chính quyền làm khó
Tọa đàm về UPR ngày 05/09/2014 tại Dòng Chúa Cứu thế, quận 3, TP Hồ Chí Minh.
VRNs - Trọng Thành
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 2
Hôm thứ Sáu 05/09/2014, tại Dòng Chúa Cứu thế, TP Hồ Chí Minh, đã diễn ra cuộc Tọa đàm để phổ biến các kết quả của cơ chế Kiểm điểm định kỳ về nhân quyền toàn cầu (UPR) năm 2014 của Việt Nam, do liên minh ba nhóm xã hội dân sự tổ chức. Nhiều tổ chức xã hội dân sự độc lập Việt Nam và đại diện các sứ quán Hoa Kỳ, Úc, Thụy Sĩ đã tham dự. Khách sạn New World - nơi Tọa đàm dự định tổ chức - buộc phải từ chối thực hiện hợp đồng do chính quyền áp lực. Một số khách mời bị an ninh ngăn cản.
Cuộc Tọa đàm mang tên “UPR Việt Nam : Tiến trình – Tiềm năng và Thực tiễn” do ba tổ chức xã hội dân sự thực hiện : Diễn đàn Xã hội Dân sự, Phong trào Con đường Việt Nam và Văn phòng Công lý-Hòa bình. Đây là tọa đàm đầu tiên về UPR mở ra cho công chúng rộng rãi, kể từ khi Việt Nam hoàn thành cuộc Kiểm điểm lần 2 tại Genève hồi tháng 6/2014.
Diễn giả của Tọa đàm là bốn thành viên của các hiệp hội dân sự đã tham dự các kỳ UPR tại Genève : Tiến sĩ Nguyễn Quang A, ông Phạm Lê Vương Các, ông Bùi Tuấn Lâm, ông Trần Văn Huỳnh (thân phụ tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức).
Gần 50 người tham dự buổi tọa đàm. Ngoài thành viên một số nhóm xã hội dân sự, có Đại sứ Thụy Sĩ, ông Andrei Motyl, đại diện Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ, ông Charles Sellers.
Kiểm điểm định kỳ về nhân quyền toàn cầu (The Unviversal Periodic Review – UPR) là một cơ chế nơi tình trạng nhân quyền tại 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc được xem xét, đánh giá thường xuyên. Ngày 20/06/2014, Việt Nam – với tư cách tân thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc - tuyên bố chấp nhận 182 trên tổng số 227 khuyến nghị do 106 quốc gia đề xuất.
Phổ biến nội dung các cam kết mà chính quyền Việt Nam tuyên bố và giám sát việc thực thi cam kết là một trong các nội dung chủ yếu của cuộc Tọa đàm.
Về ý nghĩa và nội dung cuộc Tọa đàm, sau đây là một số nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Quang A.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A : “… Cuộc tọa đàm này là hoạt động ‘hậu’ UPR của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. Nó nhằm cung cấp thông tin cho các tổ chức xã hội dân sự và công chúng Việt Nam biết về quá trình kiểm định định kỳ phổ quát của Liên Hiệp Quốc như thế nào, diễn tiến trong quá trình vừa qua liên quan đến Việt Nam đã diễn ra thế nào, kết quả ra sao.
Một trong những nghĩa vụ sau UPR là Nhà nước Việt Nam phải tổ chức
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 3
giới thiệu cho công chúng biết. Họ đã không làm những chuyện như thế. Chúng tôi làm với tinh thần rất là xây dựng để giúp cho các tổ chức xã hội dân sự, giúp cho công chúng và cho cả Nhà nước Việt Nam nữa, nhưng họ tìm mọi cách ngăn chặn…
Trong hội thảo, ngoài việc giới thiệu về quy trình của UPR, chúng tôi cũng giành một thời gian tương đối dài, để cho các tổ chức xã hội dân sự và công chúng thảo luận về việc người dân và các tổ chức xã hội dân sự có thể làm được gì trong thời gian tới. Cái trọng tâm tới để thúc đẩy Nhà nước Việt Nam thực hiện tốt 182 khuyến nghị mà chính phủ Việt Nam đã chấp nhận. Thúc đẩy làm sao kể cả các khuyến nghị mà Việt Nam chưa chấp nhận thì cũng phải làm rõ. Công việc này cũng sẽ là việc chuẩn bị cho đợt kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền của Việt Nam sẽ diễn ra vào năm 2018.
Chúng tôi rất muốn tổ chức tiếp những cuộc tương tự như thế, nhưng có thể nhỏ hơn, sâu hơn về những khuyến nghị mà Việt Nam đã chấp nhận, hay/và một số khuyến nghị Việt Nam chưa chấp nhận, để công chúng hiểu rõ hơn.
Chúng tôi rất mong được sự tham gia của chính quyền Việt Nam. Bởi vì, sự hiện diện của chính quyền Việt Nam, bên công an, bên tư pháp, bên ngoại giao, hay bất kể ai ở trong chính quyền, đến tham dự với chúng tôi, để nghe những tiếng nói KHÁC. Tôi nghĩ đây là quá trình mà chúng tôi muốn tiến hành trên tinh thần rất là xây dựng. Có thể là mang tính phê phán, nhưng rất xây dựng, không dùng những lời lẽ thô bỉ, kích động. Tất cả các tổ chức xã hội dân sự, ít ra là ngày hôm qua ở đây đều thấm nhuần những quy định như thế của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Và tôi nghĩ rằng, Việt Nam với tư cách là thành viên Hội đồng Nhân quyền thì bản thân chính quyền cũng phải hành xử đúng theo quy định của Liên Hiệp Quốc.
Chúng tôi rất mong muốn những lần tới sẽ có sự tham dự của các đại diện của Nhà nước Việt Nam.
RFI : Xin ông cho biết nhận xét của ông về hành động của phía chính quyền Việt Nam trong các cam kết nhân quyền, kể từ sau khi Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (UNHRC) thông qua báo cáo của Việt Nam, ngày 20/06/2014, đến nay ?
TS Nguyễn Quang A : Có thể có một nhận xét chung là hầu như không có gì, thậm chí có xu hướng còn tồi đi.
Trước phiên UPR, vào tháng 2/2014, Thủ tướng chính phủ Việt Nam đã có một thông điệp rất được lòng dân, nào là cải cách thể chế, giá trị của dân chủ, pháp quyền, đủ thứ hay, liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền. Nhưng sau tháng 6/2014 vừa rồi, trong cuộc họp kỷ niệm ngày Công an Nhân dân, ông ấy lại nói một điều mà để cho tất cả mọi người hiểu được là phải ngăn chặn hết, chứ không thể để cho những tổ chức ‘như thế’ được thành lập. Mà ông ấy vẫn coi các tổ chức
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 4
xã hội dân sự không do Nhà nước lập ra là các tổ chức thù địch, thế này, thế kia, và yêu cầu công an tìm mọi cách ngăn chặn.
Việc xử bà Bùi Thị Minh Hằng với hai người nữa, rồi việc đàn áp các tổ chức tôn giáo, nhất là chùa Liên Trì, và nhân dịp mùng 2/9 người ta tưởng có ân xá các tù nhân chính trị, nhưng thực ra không thấy gì. Thì có thể thấy là những cam kết liên quan đến nhân quyền Việt Nam không thấy có chuyển biến gì cả. Mà thậm chí Đại sứ quán Úc tổ chức một cuộc hội thảo về vấn đề ‘báo chí phi chính thức’, một điều rất quan trọng vì tự do ngôn luận là một nhân tố không thể thiếu được, nếu muốn nói đến nhân quyền (vì báo chí trong nước dưới sự điều khiển của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ nói những điều hay ho về họ thôi), thì báo Nhân dân có một bài đả lại Đại sứ quán Úc rất kịch liệt, rồi sau đó đả tiếp một cuộc hội thảo của Liên hiệp Châu Âu về UPR hồi tháng 5 vừa rồi.
Tôi nghĩ rằng đây là những hành xử làm cho người nước ngoài và người dân trong nước không hiểu như thế nào cả. Thực sự tôi nghĩ là tình hình tồi đi chứ không được cải thiện.
RFI : Xin ông cho biết phản ứng của những người tham dự cuộc Tọa đàm.
TS Nguyễn Quang A : Cử tọa là đại diện của các tổ chức xã hội dân sự rất là đông. Các tổ chức xã hội dân sự chưa được đăng ký đến tham dự, họ rất hào hứng muốn tìm hiểu những thông tin về UPR. Ngoài chuyện giới thiệu tổng quát, chúng tôi cung cấp cho mỗi người một tập tài liệu giới thiệu kỹ hơn về UPR là gì, quá trình ra sao, và một tập ‘kết quả’ của phiên UPR đối với Việt Nam trong năm 2014 này. Theo nhận xét của riêng tôi, cử tọa đã có phản ứng rất tích cực đối với cuộc hội thảo sáng qua.
RFI : Xin ông cho biết cụ thể, ‘kết quả’ của UPR, được nói đến trong tập tài liệu này, là gì ?
TS Nguyễn Quang A : Chúng tôi giới thiệu là Việt Nam đã trình bày những gì, các nước khuyến nghị những gì, phân ra từng mục, 227 khuyến nghị của các quốc gia đối với Việt Nam, rồi Việt Nam chấp nhận 182 khuyến nghị của các nước thì là những khuyến nghị nào. 45 khuyến nghị bị Việt Nam từ chối là những khuyến nghị nào. Đây là một cái bảng gồm hai danh mục như vậy.
Nói nôm na là cái ‘kết quả’ có thể sờ mó được của quá trình UPR vừa qua... và có một chút phân loại những khuyến nghị này theo các nhóm.
RFI : Xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Quang A.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, cuộc tọa đàm buộc phải chuyển địa điểm tới Dòng Chúa Cứu thế, sau khi Khách sạn New World, một địa điểm rộng rãi mà công chúng có thể dễ dàng tham gia, phải từ chối thực hiện hợp đồng do áp lực của chính quyền địa phương ít ngày trước hội nghị. Nhiều khách mời tham gia Tọa


Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 5
đàm đã bị lực lượng an ninh ngăn cản.
Một số thông tin tham khảo
Vietnam UPR : một website độc lập nhằm cung cấp thông tin về cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và những hoạt động có liên quan của Việt Nam.
Bài « Hậu UPR: Cơ hội hợp tác cho các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam và Chính phủ vì quyền con người », giới thiệu về cuộc Hội thảo “Các cam kết của chính phủ Việt Nam trong kỳ kiểm điểm nhân quyền 2014 và ý nghĩa đối với hoạt động của các tổ chức phi chính phủ Việt Nam” (tổ chức tại Hà Nội, ngày 19/8/2014), theo trang web của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE), một tổ chứcvì quyền của các nhóm thiểu số.
Tuyên bố ủng hộ
Phong trào “Chúng tôi muốn biết”
do Mạng Lưới Blogger VN phát động
Xét rằng
1- Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam luôn tự xưng tụng là “của dân, do dân, vì dân” và luôn tuyên bố: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
2- Nhà cầm quyền này, với toàn thể bộ máy của mình, đang được nuôi sống bằng tiền đóng thuế của nhân dân và tiền bán tài nguyên của đất nước.
3- Họ đã ký nhận Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế, hai Công ước về các quyền dân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội, cũng như đã ban hành một Hiến pháp trong đó (cả 4 văn bản) vừa xác định quyền của nhân vị được biết với tư cách con người và với tư cách công dân, vừa xác định trách nhiệm của nhà cầm quyền trong việc đáp ứng các nhu cầu hiểu biết đó.
4- Trên thực tế, trong hơn 60 năm độc quyền cai trị đất nước, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ đáp ứng với trách nhiệm các nhu cầu hiểu biết của nhân dân trên các lãnh vực dân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội, để nhân dân góp phần phát triển đất nước, xây dựng Tổ quốc.
5- Họ đã có một chính sách ngu dân bằng cách tổ chức một nền giáo dục học đường và giáo dục cộng đồng biến con người thành những thần dân và công cụ cho đảng; tổ chức một nền thông tin bưng bít che giấu, dối trá lọc lừa và vu khống ngụy biện, để đảng Cộng sản nổi lên như một chuẩn mực sự thiện, suối nguồn sự thật và quan tòa
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 6
công lý; tổ chức một nền chính trị loại công dân ra khỏi mọi hoạt động của đảng cầm quyền, mọi vấn đề của đất nước mà công dân có quyền hiểu biết và can dự, để đảng tự do tung hoành hầu nắm chắc mãi mãi quyền lực và quyền lợi.
6- Cái giá của thói vô trách nhiệm và chủ trương bưng bít sự thật đủ mọi khía cạnh này đã làm cho đất nước Việt Nam ở vào hạng cuối thế giới về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, tự do, dân chủ, nhân quyền… và hạng đầu thế giới về tham nhũng, bóc lột, đàn áp và nhất là về nguy cơ bị lân bang Trung Quốc xâm lược mọi mặt.
7- Nguy cơ xâm lược đang lớn dần này phát xuất từ việc đảng và nhà cầm quyền CSVN từ hơn nửa thế kỷ nay, tự mình liên tục quyết định kế sách bang giao hèn nhát bạc nhược với Trung Quốc và hoàn toàn che giấu nhân dân nội dung của các cam kết hay thỏa hiệp bất bình đẳng với họ, khiến đã có vô số tin đồn và suy đoán gây hoang mang và căm phẫn cho dân chúng, nhất là về hội nghị Thành Đô năm 1990 mà công luận cho rằng sẽ dẫn đến nguy cơ mất nước.
Do đó, Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm, Khối Tự do Dân chủ 8406 và Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền tuyên bố:
1- Cùng với nhiều tổ chức xã hội dân sự độc lập và nhiều công dân thao thức về vận nước, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ Phong trào “Chúng tôi muốn biết” do Mạng Lưới Blogger VN phát động.
2- Kêu mời tất cả mọi đồng bào cùng lên tiếng (bằng hình ảnh, khẩu hiệu, bài viết và xuống đường biểu tình nếu cần) để đòi hỏi đảng và nhà cầm quyền phải bạch hóa nội dung mọi hiệp định, mọi cam kết với Trung Quốc là nước ngàn năm nuôi mộng thôn tính đất Việt, trước mắt là nội dung hội nghị Thành Đô.
3- Nếu đảng và nhà cầm quyền CS vẫn ngang ngược coi thường ý dân và tiếp tục giữ im lặng về những vấn đề sinh tử liên hệ tới vận mạng đất nước, họ phải lãnh lấy hoàn toàn trách nhiệm và chớ trách nhân dân mạnh tay hành động để cứu nguy Tổ quốc.
Làm tại Việt Nam ngày 12 tháng 9 năm 2014
- Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
- Khối Tự do Dân chủ 8406: Kỹ sư Đỗ Nam Hải
- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Linh mục Nguyễn Hữu Giải
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 7
Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ
Trần Thanh Châu /sưu tầm
Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này. Nhưng trong cuốn sách “con đường thiên lý” (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.
Người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hòa Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh-Phát-Lan-Xích-Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Rueé Vers L›or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, «Wild West» (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 8
người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah» (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 9
nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: «gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về», Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandìere chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19.
(Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê)
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 10
Nhớ Brodard và La Pagode không ??? -
Một Thoáng Sài Gòn
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 11
TÌM ĐÂU EM - SÀI GÒN
Phạm Thị Minh-Hưng
---------------------
Tôi đi tìm khắp phố SaiGon
Nơi đâu còn dấu vết thân quen
Tìm con đường cũ nơi hò hẹn
Nghe lòng rưng rức nỗi nhớ quên...
Lục tìm trong ký ức cũ mèm
Bao nhiêu suy tưởng mãi liên miên
Mình tôi lạc lõng hoàng hôn vắng
Tìm đâu cho thấy dấu xưa quen
Lòng tôi sao hiu hắt buồn tênh
Mắt môi xưa một thuở lụa mềm
Tôi đi hờ hững chiều vương vấn
Mưa buồn nhòa nhạt bước chênh vênh!
Nào có hiểu gì - Thuở ngây thơ
Yêu Sài Gòn dệt mối tình mơ
Đường tình nắng đẹp bao con phố
Tìm đâu thấy nữa dấu yêu xưa...
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 12
Nhớ Brodard và La Pagode không ?
Một Thoáng Sài Gòn
Tôi như nhiều người không sinh ra tại Sài Gòn nhưng suốt học trình từ tiểu học lên đại học được sống với thủ đô của miền Nam, mà qua tên gọi mỹ miều là «Hòn Ngọc viễn Đông». Tôi suy tư về nguồn gốc các danh từ Sài Gòn và Hòn Ngọc viễn Đông.
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 13
Theo sự truy nguyên, Sài Gòn thuở ban đầu là đất của người Khờ-me, là một làng đánh cá, có tên đầu tiên là Prey Nokor mà Prey là thánh thần (dieu, god) và Nokor là thành phồ hay đô thị (la ville; town, city), mang ý nghĩa là «thành phố thánh thần».
Năm 1862, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, người Pháp đặt tên chính thức là Saigon. Lấy theo cách giải thích vì sao người Pháp gọi là «Saigon» do theo âm ngữ của người Tàu (Thầy Ngòn, Xi Coón) hay Miên ngữ «Prey Nokor». Từ đó Saigon được Việt hóa là Sài Gòn.
Vì là thuộc địa của Pháp, thành phố được Pháp xây dựng rất tối tân, mới lạ, được xem là bậc nhất của vùng Đông Nam Á vào thời bấy giờ. Nên Pháp xem đó là Hòn Ngọc Viễn Đông (la Perle de l›Extrême-Orient, the Pearl of the Far East) hay theo sự ví von của người Pháp là Paris Phương Đông (Paris de l›Orient, Paris in the Orient) để ám chỉ là một thành phố giàu sang, lịch lãm của Pháp ở vùng Đông Nam Á.
Giả thuyết khác như theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ «Lũy Sài Gòn» (theo Hán Nho viết là «Sài Côn»). Đây là lần đầu tiên chữ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán - «Côn» - được dùng thế cho «Gòn». Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn, không phải đợi đến năm 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống.
Dù sao thì Sài Gòn và Hòn Ngọc viễn Đông vẫn là một nơi quyến rũ, ấp ủ con tim bao thế hệ dù là gốc Âu hay Á. Trước khi tôi rời Sài Gòn vì biến cố chính trị 1975, những kỷ niệm lưu luyến với Sài Gòn hay Hòn Ngọc viễn Đông có nhiều lắm. Thời sinh viên thuở ấy sao mà đẹp đẽ trong
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 14
ngắn ngủi, thời gian trôi qua như cái chớp mắt mà nay đã gần 4 thập niên ly hương, nhìn lại thấy mình không còn trẻ của lứa tuổi hai mươi của Sài Gòn mộng mơ, không còn nữa kỷ niệm đêm đêm tản bộ hóng mát dọc theo bờ sông Sài Gòn, hướng mắt về mái nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm từ bến đò, bến bắc, gió thổi mát rượi từ mé sông, không còn nữa kỷ niệm Sài Gòn mưa lãng mạn ta phải luồn lách những vũng nước không tên, trong cái giá lạnh khi lượn xe gắn máy chạy trong cơn mưa rào xối xả từ trời cao mà nước mưa bắn văng tung tóe, Sài Gòn cũng đã chìm khuất vào dĩ vãng xa xôi, rồi khi kỷ niệm trở về chỉ còn lại những nỗi nhớ đáng yêu bằng nước mắt ấm đầy ắp những lưu luyến yêu thương trong tâm tưởng, đôi lúc âm thầm trở về, cơ hồ như Sài Gòn đã sống dậy mãnh liệt trong tiềm thức cũ, mãi mãi theo ta những nhờ nhung không nguôi như bài ca:
«Sài gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà áo em bay theo giọt nắng vàng
Con đường ta đi giòng sông kỷ niệm
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng
Sài gòn bây giờ mưa giăng ngập lối
Hai đứa bên nhau âu yếm không rời
Đôi mắt yêu thương làn môi chờ đợi
Từng đợt mưa rơi.. bối rối bồi hồi
Sài gòn bây giờ lòng ai vương vấn
Mai anh đi rồi còn nhớ em không?
Đôi mắt nai tơ buồn xa vời vợi
Cơn gió vô tình đuổi lá vàng rơi
Sài gòn bây giờ có buồn không em?
Mưa vẫn rơi rơi.. từng giọt êm êm
Suối tóc thơm bay hương tình dịu nhẹ
Ngây ngất dạt dào con phố về đêm»
(Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ
Tác Giả: Võ Tá Hân, Trần Ngọc)
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 15
Ai còn nhớ Sài Gòn ? Sáng nay người bạn gởi youtube link mà bạn tôi ghi chú: «Nhớ Sài Gòn quá nhớ rơi nước mắt». Bạn tôi từ chối về Sài Gòn, anh nhớ Sài Gòn thuở trước 75, Sài Gòn với cái tên mỹ miều của nó, không mang tên xác người áp đặt lên vẻ duyên dáng của nó.
http://m.youtube.com/watch?v=uPBq_6bJ3MY&feature=youtu.be
http://m.youtube.com/watch?v=uPBq_6bJ3MY&feature=youtu.be
Sài Gòn gắn bó với tôi bắt đầu bằng những ngày thơ ngây thành phố như một chốn phồn hoa đô hội, người ta có thể bị choáng ngợp với một đô thị mang dáng vẻ tây phương như người con gái kiều diễm, kiêu sa, đài các, rồi cũng ở một góc nào đó Sài Gòn ủ dột của phố đêm, lầy lội của xóm nghèo, trong nét bình dân của tiếng rao hàng, những con kinh nước đen,...
Nhiều người sống với Sài Gòn, dù mưa hay nắng, ban ngày hay ban đêm, bận rộn tất bật hay nhàn rỗi rong ruổi với phố xá của nó. Thưởng thức những món ngon mà cả nhóm bạn tôi khoái khẩu nào là Mì Cây Nhãn, Mì Chú Hỏa, mì La Cay Nguyễn Tri Phương, hủ tiếu gà cá chợ cũ, hủ tiếu saté Lệ Thanh Chợ Lớn. Lề đường Sàigòn xưa có hàng me Nguyễn Du, có hàng sao cao
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 16
vút khúc Võ Trường Toản, Trưng Vương. Tôi nhớ rõ có những hàng phượng vĩ và hoàng điệp trong sân trường Petrus Ký, Sài Gòn có trường Gia Long với món bò bía, xe đậu xanh đậu đỏ; có trường Luật Khoa trên đường Duy Tân với xe nước dừa uống môi em ngọt; có trường Dược khoa, Văn khoa trên đường Cường Để chạy thẳng xuống bờ sông Sài Gòn có Bến Bạch Đằng,... Sài Gòn có những quán kem, quán cà-fé, quán ăn vỉa hè,… Những sinh hoạt bình dị có quán cơm Bà Cả Đọi, quán Bắc Bà Ba Bủn; để thưởng thức những món Sài Gòn sự khoái khẩu với hệ quả Pavlov cồn cào dạ dầy sau những buổi tan học ngày cũ bạn bè rủ nhau đi ăn hàng Sài Gòn. Tôi nhớ con hẽm kín đáo Casino Sài Gòn nào những bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Cổ Ngư; những gánh hàng rong, những xe bán thức ăn của khu Bàn Cờ, khu Nguyễn Thiện Thuật, Chợ Vườn Chuối, Chùa Kỳ Viên, Chợ Đũi,... xen kẻ trong trí nhớ có nhiều lưu niệm trong ký ức xưa, có những nhà hàng, những điểm hẹn hò như: Passage Eden, Casino Sài Gòn, Mini Rex, La Pagode, Pôle Nord, Givral, Brodard, khu thương xá Tax,... Nhắc đến Sài Gòn có những nơi như Continental, Caravelle, Majestic,… Lề đường Saigòn còn có những gánh hàng rong. Thương nhớ làm sao kỷ niệm Sài Gòn có nước mía Viễn Đông có thịt phá lấu, có gỏi đu đủ gan cháy khô bò, có bánh bột chiên, có món bánh cay gần khu Chùa Chà Và mà nhà văn Thinh Quang nhắc tôi hôm nọ. Những thực khách của những nhà hàng sang trọng theo cung cách kiểu tây phương của Sài Gòn, nhưng rồi chính họ cũng là những giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài Gòn. Đó là những nét đặt thù của Sài Gòn, của người Sài Gòn, hay thuật ngữ phương tây «Saigonais», hoặc “Saigonese”.
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 17
Nhớ Sài Gòn, làm sao quên nỗi những góc phố, những con đường của nơi ấy nhỉ? Năm 1865, Phó đô đốc Pierre Paul Marie de la Grandière (1807 - 1876) đại diện cho chính quyền Pháp tiến hành việc đặt tên cho 26 con đường trên địa bàn của thành phố Sài Gòn mà trước đó chỉ được đánh số thứ tự. Trải qua hơn 300 năm xây dựng và phát triển, Sài Gòn đã có hơn 1.500 con đường lớn, nhỏ và từ lâu các tên đường thay đổi do yếu tố chính trị. Thời Pháp thuộc thì đường Tự Do xưa của ta là đường Catinat; rồi Pháp đặt Charnerta cho tên đường Nguyễn Huệ, Pháp đặt tên đường Mac Mahon ta là Công Lý; và đường Bonard là Lê Lợi; đường Mossard là đường Nguyễn Du; đường mang tên Phó đô đốc HQ Pháp De La Grandlière ta thay bằng tên vua ta đường Gia Long; đường Paul Blanchy tên ta là Hai Bà Trưng), đường Mayer là tên vua ta đường Hiền Vương; và đại lộ Boulevard de la Somme phe ta đặt tên vua, đại lộ Hàm Nghi, nhà tôi ở đường mang tên tây D’Espagne tên ta là vua Lê Thánh Tôn,...
Sau 30/04/1975, sự thay đổi tên đường nghe như mâu thuẫn của nước mắt buồn rơi thương tiếc, sự mới mẻ như là những biểu tượng của sự nghịch lý:
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi lên rồi, mất Tự Do”.
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 18
La Pagode
Những khách sạn thời Pháp thuộc tọa lạc ngay trung tâm Sài Gòn đã là nhân chứng cho bao năm binh biến, vật đổi sao dời. Khách sạn Continental được các kiến trúc sư nổi tiếng của Pháp thiết kế và xây dựng vào năm 1880 và nay là khách sạn lâu đời nhất Việt Nam. Continental từng đón tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng như nhà thơ Nobel của Ấn Độ là Rabindranath Tagore; văn hào Pháp André Malreaux là tác giả của La condition humaine (Thân phận con người 1933), sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-1969); văn hào Anh Graham Greene (tác giả của sách bestseller “The Quiet American” - Người Mỹ Trầm Lặng); cựu tổng thống Pháp Jacques Chirac, và nữ tài tử điện ảnh Catherine Deneuve (thủ diễn trong các phim đoạt giải điện ảnh Indochine, Le Dernier Métro, Belle de Jour),...
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 19
Quán Givral, nhà sách Xuân Thu... phố xưa như nỗi nhớ
của người Sài Gòn, hồn của người Sài Gòn.
Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier. Chủ sau là Mathieu Francini. Ngoài ra, Continental còn có tên là «Radio Catinat», nơi mà giới báo chí truyền thông tụ hội, trao dổi, thu nhặt tin tức thời sự “nóng” nhất, sai có, đúng có.
Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là Cường Để) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân người Tàu giàu có và nổi tiếng nhất nhì Sài Gòn thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (tức chú Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc sư người Pháp.
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 20
Suốt gần 90 năm tuổi của mình, Majestic đã đón tiếp nhiều nhân vật quốc tế, hay chính khách: Tổng thống Pháp Mitterrand, Thái tử Nhật Akishino, Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore, Thái tử Đan Mạch Henrick, Thái tử Anh Andrew, công chúa Thái Lan Maha Chakri Sring Dhorn,...
Các quán cà phê như La Pagode là nơi hội tụ của giới thơ văn, báo chí Sài Gòn một thuở như tụ quán Caffe Trieste nằm trên Vallejo Street (góc đường Grant) hướng bắc của phố San
Francisco, chủ nhân là một người Ý di cư, nhưng quán cà phê nảy là nơi mà giới tao nhân mặc khách, những nghệ sĩ lui tới gặp gỡ nhau, nò là phòng hội của những nhà văn
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 21
Lawrence Ferlinghetti, Alan Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Richard Brautigan, Bob Kaufman, Gregory Corso, Michael McClure, Kenneth Rexroth, Neeli Cherkovski,... nhà thơ nổi tiếng Jack Hirschman, nghệ sĩ Peter Le Blanc, Don Moses và nhiếp ảnh gia giải Pulitzer là Joe Rosenthal, rồi những Jimo Perini, Bill Cosby, Paul Kantner, Liam Mayclem, Joey Reynolds và Mal Sharpe,... Trieste còn là nơi thi sĩ gốc Nga giải Nobel văn chương Joseph Brodsky lui tới trau chuốt thơ của mình. Còn nữa. Rồi ở góc phòng còn phảng phất bóng dáng của nhà đạo diễn nổi danh Francis Ford Coppola ngồi đọc và đánh bóng kịch bản phim “The Godfather” những năm 70.
Paris có Café de Flore, ở ngay ngã Tư của Boulevard Saint-Germain và đường St. Benoit, nơi gặp gỡ ngày xưa của văn và triết gia như André Breton, Françoise Sagan, André Malraux, Francois Mauriac, Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus,...
Cái chung của La Pagode của Sài Gòn, Caffe Trieste của San Francisco hay hay Café de Flore của Paris là những địa điểm tụ họp của giới văn hoá nghệ thuật, những nơi có lịch sử của chính nó.
«Nắng SàiGòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng...»
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 22
Sàigòn có thơ Nguyên Sa, có nhạc Ngô Thụy Miên, hỡi những ai đã từng đi dưới cơn nắng của Sài Gòn, bạn còn nhớ chứ?
Nhà thơ Vũ Uyên Giang cho bài thơ nhớ Sài Gòn xưa, Sài Gòn nhớ nắng, nhớ mưa:
«Nhớ quá Sàigòn của thuở xưa
Ta từ Bưu Điện bước ngang qua
Nhà thờ Đức Mẹ nằm im lặng
Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa
Nhớ đến Sàigon một thuở xưa
Buổi chiều nhạt nắng lại rơi mưa
Gọi thầm khe khẽ tên ai đó
Đất khách trong lòng đang đổ mưa.”
Vũ Uyên Giang
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 23
Sài Gòn qua nỗi nhung nhớ của nhà văn Trần Mộng Tú:
«Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn mưa… Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ.
Sài Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Đã có những bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ. Những giọt nước mắt đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai,với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến tranh.
Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.
Sài Gòn khi đổi chủ chẳng khác nào như một bức tranh bị lật ngược, muốn xem cứ phải cong người, uốn cổ ngược với thân, nên không còn đoán ra được hình ảnh trung thực nguyên thủy của bức tranh.
Sài Gòn bây giờ trở lại, thấy mình trở thành một du khách trên một xứ sở hoàn toàn lạ lẫm. Tôi thương Sài Gòn và thương cho chính mình, đã hư hao một chốn để về.»
Thương xá Tax
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 24
Thi sĩ Phạm Sĩ Trung nhớ Sài Gòn:
«Sài Gòn ơi Sài Gòn
Những con đường thân quen
Hàng cây cao bóng mát
Tình yêu thật êm đềm
Sài Gòn ơi Sài Gòn
Nơi tôi đã lớn lên
Nhớ thương buồn vời vợi
Suốt đời chẳng sao quên»
Ca sĩ Quỳnh Giao hát bài «Nhớ Sài Gòn», sáng tác của Phạm Anh Dũng:
http://nhacso.net/nghe-nhac/nho-sai-gon.WVhQW0pd.html
Nhớ Sài Gòn
Biết đến bao giờ gặp lại người xưa
Thương cho mùa mưa qua thành phố vắng
Lang thang miệt mài năm tháng
Bao nhiêu luyến tiếc xa ngàn
Buồn thương vương lên màu áo ...
Nhớ đến em nhiều này Sài Gòn ơi
Xa xôi ngàn khơi đâu tà áo trắng
Duy Tân im lìm phố vắng
Thương ai cây lá hoang tàn
Người xây giấc mơ hồi hương
Này Sài Gòn yêu thương
Hãy còn đây vấn vương
Nhớ bờ sông nước êm
Ghế đá chốn công viên ....
Và còn nhiều tiếc nhớ
thoáng về trong giấc mơ
Khu đại học hoang phế
Mong ngày đó anh về ...
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 25
Ước đến bao giờ gặp lại người mơ
Đem theo vần thơ lên bờ sông đó
Đêm khuya nghe từng cơn gió
Nơi xa ánh mắt trông chờ
Sài Gòn yêu dấu ngàn năm ....
Khi nghe bài «Em Sài Gòn», của hai nhạc sĩ Nguyên Phan và Minh Tuấn, có thể thính giả đồng thuận là Em Sài Gòn cũng mang ý nghĩa Sài Gòn có em, kỷ niệm vơi đầy có em, hỡi em Sài Gòn:
«Em Sài Gòn, một thời để nhớ để yêu
Em Sài Gòn, một thời hoa bướm nên thơ
Em Gia Long, mắt buồn sầu vương màu áo
Em Trưng Vương, một chiều áo trắng thơ ngây
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 26
Em Sài Gòn, bây giờ dạt trôi nơi đâu
Em Sài Gòn, bây giờ còn mãi cách xa
Hay nay em, đã bước qua cầu
Để lại sông xưa, giọt nắng phai mầu
Để lại sân trường, một thời xanh tuổi mộng mơ”
Sài Gòn có gì vui không em?
Em Sài Gòn, anh nghe thời gian đã qua đi. Trong cái dĩ vãng ấy, anh tìm thấy Sài Gòn trong thi vị, Sài Gòn trong lãng mạn. Sài Gòn mùua hè có tiếng kêu vang, đèo xe giữa mùa lá me bay khi nắng hè chói chan hay lướt đi trong mưa có sự gần gủi của lời tình tự Sài Gòn.
Nhớ Sài Gòn như một thoáng Sài Gòn tươi màu nắng đẹp, một thoáng Sài Gòn hạt mưa rớt rơi, tựa như cô gái ngây thơ ngẩn ngơ trên phố mong chờ, tà áo phất phơ ru ngàn tiếng tơ:
«Một thoáng Sài Gòn tươi màu nắng đẹp
Một thoáng Sài Gòn hạt mưa rớt rơi
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 27
Tựa như cô gái ngây thơ ngẩn ngơ trên phố mong chờ
Tà áo phất phơ ru ngàn tiếng tơ
Đẹp lắm Sài Gòn em về gió lộng
Tà áo nhạt hồng để ai ngóng trông
Thời gian trôi mãi xa xăm suốt bao năm tháng âm thầm
Thành phố đổi thay trong màu mắt ai
Đèn màu thắm ánh sáng rực rỡ đẹp như đôi mắt mong chờ
Những đêm rong chơi đường khuya mãi nên quên đêm về
Sài Gòn ơi đêm nghe còn đó ngàn xưa hôm nay vẫn rộn ràng
Điệu đàn ngân vang trong gió vài nàng tiên nga e ấp xuống trần gian mơ màng
Một thoáng Sài Gòn khung trời lắm mộng
Một thoáng Sài Gòn ngược xuôi phố đông
Người đi xa đã bao năm vẫn nghe thương nhớ trong lòng
Thành phố thướt tha trong tà áo hoa»
Một Thoáng Sài Gòn:
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/mot-thoang-sai-gon-quang-dung.4YxNKyD4Om.html
(Nhạc: Bảo Phúc, Lời: Vũ Tuấn Bảo, Trình bày: Quang Dũng)
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 28
Nhắc lại kỷ niệm một thoáng Sài Gòn, có lẽ nên nhắc thêm bài ca rộn ràng, vui tươi của nhạc sĩ Văn Phụng là bài hát tôn vinh vẻ đẹp của Sài Gòn, hay một Hòn Ngọc Viễn Đông:
«Người ơi Saigon chốn đây
Là Ngọc Viễn Đông
Vốn đã lừng danh
Nắng lên muôn chim đùa hót
Muôn hoa cười đón
Vinh quang ngày mới
Cùng nhau đi tới Saigon
Là nơi du khách dập dồn
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô
Dòng sông chen chúc tàu đò
Ngựa xe buôn bán hẹn hò
Người dân no ấm sống đời tự do».
Ghé Bến Sài Gòn, (Lời Nhạc: Văn Phụng, Trình bày: Hợp ca):
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/ghe-ben-sai-gon-dang-cap-nhat.xaKkBqogdO.html
Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 29
Vẻ đẹp của Sài Gòn khi mường tượng lại Sài Gòn xưa, hay của một thoáng Sài Gòn, xin hãy lắng nghe bài ca của nhạc sĩ Y Vân, mà nhiều người không quên các câu: «Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi!»
«Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai,
Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi !
Ngựa xe như nước trên đường vẫn qua mau
Người ra thăm bến câu chào nói lao xao
Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi !
Lá la la lá la, Lá la la lá la ...
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi!»
Sài Gòn Đẹp Lắm, (Lời Nhạc: Y Vân, Trình bày: Phi Nhung):
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/sai-gon-dep-lam-phi-nhung.lBHsjb3TbgKM.html
Bài viết này xin gởi tặng anh chị Nguyễn Di Trung và Phan Tuyết Nga, chủ nhân của nhà hàng Emerald Bay, Santa Ana, California. (VHLA)


Baûn Tin Theá Ñaïo soá 20 30
  TIN HOT:
ĐÓNG CỬA TRIỂN LÃM CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT ?
Sáng nay 11.9.2014, bà con dân oan Dương Nội đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.
Đoàn người đi bộ đến bảo tàng, đứng trước cổng để xem các thông tin về cuộc triển lãm trưng bày về Cải cách ruộng đất. Lúc đó đã 11h trưa, bảo vệ nói đã hết giờ xem, hẹn bà con đến vào lúc 2h chiều. Bà con Dương Nội tản ra vườn hoa Cổ Tân gần đó để ăn và nghỉ trưa đợi đến giờ vào xem.
2h chiều, bà con vào thăm triển lãm thì lực lượng bảo vệ triển lãm bắt dân cởi áo mới cho vào bảo tàng. Khi bà con cởi áo xong để vào thì họ nói với bà con: Triển lãm Cải cách gặp sự cố về ánh sáng nên tạm đóng cửa.
Được biết, bà con sẽ quyết tâm xem bằng được cuộc triển lãm này.


No comments:

Post a Comment