Pages

Monday, November 28, 2016

MARX = PHIM VÕ NGUYÊN GIÁP=KHMER ĐÒI NAM BỘ=

NGUYỄN VĂN TUẤN * TƯỢNG ĐÀI SỤP ĐỔ

19-09-2014

Các tượng đài XHCN dần dần bị sụp đổ

Nguyễn Văn Tuấn/FB Nguyen Tuan
Đọc trên RFI thấy có tin chính quyền Hungary đã quyết định hạ tượng Karl Marx ở khuôn viên đại học Corvinus (1). Thế là 25 năm sau ngày XHCN suy sụp, bức tượng của ông tổ XHCN bị hạ bệ theo cái chủ thuyết của ông luôn. Thật ra, không chỉ Marx, các tượng đài của những người cộng sản "tay tổ" như Lenin, Stalin đều đã bị hạ từ lâu.

Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ một thời gian, hàng ngàn người tụ tập ở quảng trường Dushanbe (thủ đô của Tajikistan), và họ kéo sập tượng Lenin. Có người còn cực đoan đến đập sao cho đầu của tượng bị văng ra khỏi thân tượng. 
Cách đây không lâu, người dân Ukraina quyết định hạ tượng của Lenin, nhưng cách họ làm rất ư là bạo lực. Họ dùng xe cần cẩu kéo sập tượng. Khi tượng bị ngã, người dân tức giận không chịu tha mà còn lấy búa đập bức tượng. Tượng Stalin thì thê thảm hơn, vì bị cho nổ tung luôn. Những hành động đó có thể xem là quá khích, nhưng nó phản ảnh sự oán hận quá lâu và quá sâu sắc của người dân.

Năm 2012, Mông cổ quyết định hạ tượng Lenin (3). Lí do hạ bệ Lenin là vì, theo ông Thị Trưởng Bat-Uul Erdene, ông là người đề xướng cái chủ nghĩa đã giết chết gần 100 triệu người trên thế giới. Chẳng biết ông lấy con số này ở đâu, nhưng ông nói trước công chúng như thế. Bức tượng Lenin được đem đi đấu giá, với cái giá khởi điểm chỉ 300 USD! Sau Mông Cổ là Ukraina cũng giật sập tượng Lenin ở thành phố Kiev vào cuối năm 2013 (4).

Không chỉ giật sập tượng, nhiều nước Đông Âu và vùng Baltic còn cấm những biểu tượng cộng sản như búa liềm, ngôi sao năm cạnh xuất hiện nơi công cộng. Các biểu tượng đó cùng với huy hiệu SS được xem là biểu tượng của chế độ độc tài, và Hungary có luật cấm trưng bày những biểu tượng ở nơi công cộng (5). Luật này có thời bị phê phán là vi phạm nhân quyền. Nhưng sau Hungary, Ba Lan cũng cấm các biểu tượng cộng sản nơi công cộng.

Ở vài nơi, người cộng sản có thói quen đổi tên thành phố khi cách mạng của họ thành công. Trước đây, họ đổi tên thành phố Saint Petersburg thành tên của Lenin (Leningrad). Nhưng cái gì của Cesar phải trả về cho ổng: Năm 1991, chính quyền Nga đã quyết định xoá tên thành phố Leningrad và trả lại cái tên cũ là Saint Petersburg.

Điều trớ trêu là tượng đài của những người như Lenin, Stalin, Marx vẫn còn có hàng triệu người tôn sùng ở Á châu, dù những kẻ tôn sùng chẳng có liên quan văn hoá hay dân tộc gì với họ.

----

TIN THẾ GIỚI

 

Scotland : Phe nói « không » với độc lập chiến thắng

media 
Phe nói "không" với độc lập vui mừng thắng lợi trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 18/09/2014REUTERS/Dylan Martinez
Theo kết quả chính thức công bố sáng nay 19/09/2014 sau khi toàn bộ phiếu bầu tại 32 đơn vị bầu cử tại Scotland được kiểm xong, phe không đòi độc lập thắng với 55,3% số phiếu trong lúc phe đòi độc lập chỉ giành được 44,70%. Scotland như vậy đã quyết định không « chia tay » với người láng giềng phía Nam Anh Quốc trong một cuộc trưng cầu dân ý với tỷ lệ tham gia đạt mức kỷ lục 84,6% trên tổng số 4 triệu cử tri.
Giới phân tích đã ghi nhận một số nét đặc biệt là các thành phố và các vùng hầu như ‘kình nhau’. Nếu tại thủ phủ Edimbourg, phe không muốn độc lập thắng với 61% số phiếu thì tại thành phố đông dân cư nhất Scotland, Glasgow, phe đòi độc lập lại thắng với 53,3%.
Tại Aberdeen, thành phố lớn thứ 3 của Sclotland thì phe ‘không’ cũng thắng với 58,6%. Thủ tướng Scotland Alex Salmond chủ trương độc lập đã không tiếc công sức vận động và đã đi bỏ phiếu tại đây vào hôm qua.
Tuy nhiên, dù bị thất vọng, nhưng phe muốn độc lập cũng được an ủi : họ đã giành được từ các đảng lớn chiếm đa số ở Nghị viện Vương Quốc Anh lời hứa dành cho Scotland quyền tự trị tài chính rộng lớn hơn. Một nhà quan sát cho là rốt cuộc thất bại của phe muốn độc lập chỉ là thất bại nửa vời, vì Scotland sẽ có được những quyền hạn mới.

Ngay sau khi kết quả được công bố Thủ tướng Anh David Cameron cho biết sẽ tăng thêm quyền hạn cho Scotland cùng 3 vùng khác của vương Quốc. Ông đã cam kết cải tổ Hiến pháp sâu rộng sau cuộc trưng cầu dân ý ở Scotland, để nhanh chóng trao thêm quyền hạn rộng lớn hơn cho cả 4 vùng của Vương Quốc Anh : Scotland, Anh, Wales và Bắc Ireland, đặc biệt là trong lãnh vực thuế, ngân sách và hệ thống bảo hiểm xã hội.

Thủ tướng Anh xác định rằng cho là ông đã « nghe thấy » nguyện vọng của người Scotland.
Phản ứng trước kết quả cuộc trưng cầu dân ý về nền độc lập của Scotland, Chủ tịch Nghị viện Châu Âu Martin Schulz cho biết là ông cảm thấy « nhẹ nhõm » và đánh giá rằng đó là một tiến trình dân chủ ở Vương Quốc Anh, cuộc trưng cầu ở Scotland đã đuợc Luân Đôn công nhận.
Theo ông Schulz, nếu Scotland được quyền tự quyết rộng lớn hơn trên các mặt kinh tế, tài chính và vẫn đứng trong Vương quốc, sự kiện đó có thể làm gương cho các vùng khác ở Châu Âu, như Tây Ban Nha chẳng hạn.
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20140919-trung-cau-dan-y-scotland-doc-lap/

Phim ca ngợi Tướng Giáp hủy chiếu 'vì ế'

Cập nhật: 10:08 GMT - thứ sáu, 19 tháng 9, 2014

Poster phim 'Sống cùng lịch sử'
Một bộ phim được thực hiện để ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp được nhà nước Việt Nam đầu tư đến 21 tỷ đồng đã phải ngưng chiếu vì không bán được vé.
Bộ phim 'Sống cùng lịch sử' của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân có nội dung nói về ba thanh niên trẻ tình cờ 'mơ thấy' mình hóa thân thành những công binh kéo pháo, đào hầm của quân đội Bắc Việt trong cuộc chiến 56 ngày đêm, theo báo điện tử VnExpress.
Tuy nhiên, tại Hà Nội, hai rạp phim duy nhất công chiếu phim này từ hôm 2/9 là Trung tâm Chiếu phim Quốc gia và rạp Kim Đồng đã phải hủy các buổi chiếu vì "số lượng khán giả tới xem chỉ từ 2 đến 3 người", báo này cho biết thêm.
BBC Tiếng Việt đã liên hệ với đạo diễn Nguyễn Thanh Vân hôm 19/09, tuy nhiên ông nói chưa tiện trả lời trong thời điểm này, do cảm thấy "khá mệt mỏi".
Khi BBC yêu cầu được nói chuyện với nhà sản xuất hoặc phát ngôn viên đại diện, đạo diễn cho biết đoàn làm phim đã "tản mát" mỗi người một nơi, "rất khó gọi".
Trong một bài viết hồi tháng 6, báo Nhân Dân cho biết 'Sống cùng lịch sử' có đoàn làm phim thường trực 92 người, lúc cao điểm lên đến gần 300 người, được quay tại Hòa Bình, bản Then, dãy núi Tà Phì Láng, Phìn Hồ, và các địa điểm lịch sử khác ở thành phố Điện Biên.
Bộ phim có những cảnh tái hiện lại "những cái chết xả thân anh dũng của Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn" dù không nêu rõ tên các nhân vật này, báo này cho biết.
Cũng theo Nhân Dân, trong phim còn có cảnh "ba bạn trẻ hòa vào dòng người xếp hàng đi qua quảng trường Lăng Bác để đến ngôi nhà 30 Hoàng Diệu viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Báo này cho biết cảnh viếng tướng Giáp là "một cảnh quay thực tế" hôm 10/10 năm ngoái và "toàn bộ các cảnh khóc là diễn viên khóc thật sự, nhập vai đến mức quên mình đang diễn".

Nguyên nhân thất bại?

"Chúng ta nên cảm thấy tức giận, bởi 21 tỷ đồng ấy là thuế của chính chúng ta và sẽ không bao giờ được thu hồi lại"
Ốc Bươu Vàng, BBC Vietnamese Facebook
VnExpress hôm 19/9 dẫn lời đạo diễn Nguyễn Thanh Vân cho biết nhóm làm phim của ông đã liên lạc với các rạp nhà nước và tư nhân, nhưng "không phải rạp tư nhân nào cũng đồng ý" trình chiếu bộ phim do e ngại về "bài toán kinh doanh".
Ông cũng cho biết đợt chiếu vừa qua là để mừng lễ 2/9 chứ không phải phát hành quy mô toàn quốc.
Bên cạnh đó, VnExpress cũng cho biết đại diện của một số nhà phát hành và hệ thống rạp lớn tại Hà Nội và TP HCM đều khẳng định không nhận được bất kỳ lời đề nghị hợp tác phát hành, quảng bá hay đề xuất trình chiếu nào từ phía đoàn phim của đạo diễn Thanh Vân.
Trang Facebook quảng bá bộ phim tính đến ngày 19/9 chỉ có 102 lượt thích (likes).
Trong phần bình luận trên các báo mạng lớn trong nước, nhiều độc giả nói họ không được biết về bộ phim này cho đến khi tin về quyết định hủy chiếu được loan tải.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến trên mạng xã hội cũng nêu những lý do khác khiến họ không tiếp đón bộ phim theo như mong đợi của nhà sản xuất.
Bình luận được nhiều lượt thích nhất của độc giả nick Louis H-Navy trên trang Facebook của VnExpress viết:
"Người ta đâu có làm phim, người ta chỉ cố rút được càng nhiều tiền thuế càng tốt. Sau đó Đảng và Nhà Nước rút kinh nghiệm, Quốc Hội phê và tự phê, sau cùng dân ta tự hào đang sống trong thiên đường Xã hội Chủ nghĩa! Thế thôi."
Một nick với tên Bảo Minh chia sẻ trên Facebook: "Vấn đề không nằm ở chỗ phim nhà nước hay tư nhân sản xuất mà là: làm phim về lịch sử nếu ko trung thực với lịch sử thì sẽ tiếp tục thất bại và khán giả hờ hững."
Nick Facebook Đào Tuấn thì viết: "21 tỷ đồng tiền ông cụ được dùng để làm phim “Sống cùng lịch sử”, và đây là tiền thuế của dân ... Cả một tuần không một người dân nào đến mua dù chỉ một vé".
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/09/140919_dienbienphu_movie.shtml

TPP: cơ hội cạn dần cho Việt Nam?

Cập nhật: 07:27 GMT - thứ tư, 17 tháng 9, 2014

TPP cũng được ông John McCain nhắc đến khi đến Hà Nội vào tháng Tám
Dù “đã rút ngắn khoảng cách”, nhưng như tựa đề một cuốn tiểu thuyết ra đời ở Việt Nam sau năm 1975, chuyến viễn du đến TPP của Hà Nội vẫn còn “những khoảng cách còn lại”, sau cuộc đàm phán kéo dài suốt mười ngày đầu tháng 9/2014 tại thủ phủ “ngàn năm văn hiến”.

“Những khoảng cách còn lại”

“Những khoảng cách còn lại” vẫn luôn là cụm từ mang nghĩa bóng bẩy được một số tờ báo nhà nước ru mị người dân và cũng tự an ủi mình suốt từ quý 3 năm 2013 - khi Tổng thống Barack Obama hứa hẹn “sẽ cố gắng kết thúc sớm nhất” - cho đến nay, liên quan đến giấc mơ có một chỗ đứng trong bàn tiệc TPP để có thể tưởng tượng “tăng GDP Việt Nam đến 30%”.
Song điều oái oăm là thời và thế của ngay cả bản thân tổng thống Mỹ dường như đã thuộc về dĩ vãng. Trong khi đang phải cố gắng vật lộn với cơn suy giảm tỷ lệ ủng hộ rơi xuống ngưỡng tâm lý 50%, Tổng thống Barack Obama còn không thể tự quyết định về quy chế “fast track" (quyền đàm phán nhanh) cho TPP. Thứ quyền mặc định này hiện thời đang nằm trong tay Hạ nghị viện Hoa Kỳ, khiến cho ưu thế dẫn điểm của người đứng đầu hành pháp trước Quốc hội Hoa Kỳ đang trở nên mờ nhạt nhất kể từ thời điểm nhậm chức lần thứ nhất của ông vào đầu năm 2008.
Giờ đây, nhiều người đã hiểu ra một sự khác biệt đủ rộng giữa Quốc hội và Bộ ngoại giao Mỹ. Dù các chuyến ngoại giao con thoi của Ngoại trưởng John Kerry vào cuối năm 2013 và nữ thứ trưởng bộ này là Wendy Sherman đến Hà Nội vào tháng 3/2014 mang dụng ý muốn thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán TPP - nhân quyền, nhưng cú dẫn điểm gần nhất lại thuộc về một cựu chiến binh Việt Nam: ngài thượng nghị sĩ John McCain.
Chuyến công du Hà Nội đột ngột của McCain vào tháng 8/2014 đã như một hàm ý hiển hiện nhất về quyền lực nằm trong tay ai: không hẳn Chính phủ, mà chính Quốc hội Hoa Kỳ mới là nhân tố biểu quyết có tính quyết định để Nhà nước Việt Nam có được mua vũ khí sát thương và tham dự vào buổi tiệc đứng TPP hay không.

Chưa “đặc xá” nếu không “đặc cách”


Giới lãnh đạo Việt Nam đã nhiều lần vận động Mỹ nhanh chóng kết thúc đàm phán TPP
Hẳn khía cạnh nhân quyền - như một “nhắn nhủ” của John McCain với “tứ trụ” Việt Nam - đã trở thành nguyên cớ chính, góp một phần không nhỏ vào kết quả đàm phán mịt mùng về TPP vừa qua tại Hà Nội. Đơn giản là trong khi Trưởng đàm phán của Hoa Kỳ về TPP, bà Barbara Weisel, loan báo “có tiến bộ sau vòng đàm phán mới đây”, giới quan sát vẫn thừa sức nhận ra nhân quyền còn là một rào cản lớn đối với ngưỡng cửa TPP của Việt Nam.
Cũng đơn giản là trái ngược với tin đồn và niềm hy vọng của không ít người trong giới hoạt động dân chủ ở Việt Nam, dịp Quốc khánh 2/9 vừa qua và cho đến cả hiện thời vẫn chưa nhận ra bóng dáng một tù nhân chính trị nào được Nhà nước “đặc xá” khỏi bốn bức tường kín mít trại giam.
Cho dù tiếng nói của các cơ quan hành chính Việt Nam và Hoa Kỳ có vẻ khá đồng thanh về “những tiến bộ đáng kể” trong các nội dung quan trọng như doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, đầu tư, quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham nhũng sau đàm phán TPP, nhưng nếu không có thêm các tiểu mục về tự do lập hội, công đoàn độc lập và trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân chính trị thì TPP vẫn thuần túy là một bông hồng đầy gai sắc dành cho giới bảo thủ Hà Nội.
“TPP tới nay vẫn chưa hoàn tất các cuộc đàm phán và có nhiều điều kiện Việt Nam chưa đạt được. Đấy là lý do chính vì sao đợt 2/9 này chưa có tù nhân lương tâm nào quan trọng được nhắc đến là thả và cũng không có một công bố gì” - ông Đoàn Viết Hoạt, người được vinh danh Giải thưởng Nhân quyền Robert F. Kennedy 1995, lý giải ngắn gọn về câu chuyện lê thê trên.

Nhân quyền vẫn là một yêu cầu chủ chốt của Mỹ đối với Việt Nam trong đàm phán TPP
Nhận định của người từng bị Hà Nội tuyên án tù 20 năm vì các hoạt động cổ súy dân chủ đang tỏ ra có cơ sở và còn phần nào chắc chắn. Ít nhất đã có một tù nhân lương tâm nổi bật là Điếu Cày Nguyễn Văn Hải được xác định nằm trong diện đặc xá 2/9 vừa qua. Hiện tượng ông Hải được gọi điện thoại về nhà trong 5 phút, với khá nhiều thông tin “đặc biệt nhạy cảm” mà không bị cán bộ quản giáo cắt cúp lần nào, cũng cho thấy triển vọng ông ra tù trước thời gian thụ án đến hàng chục năm không còn là điều mộng tưởng.
Danh sách những tù nhân chính trị nổi bật có thể được “đặc xá” là khoảng 20 người, được phía Mỹ chuyển cho Hà Nội với yêu cầu “trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện”.
Tuy thế, mọi chuyện ở Việt Nam không biết đâu mà lường, nhất là trong chính trị và nền “ngoại giao con tin”. Hà Nội trước nay lại quá thường bị chỉ trích về việc dùng tù nhân lương tâm để mặc cả, đổi chác quyền lợi trong các cuộc thương lượng gia nhập sân chơi quốc tế.
Nếu đàm phán TPP tại Hà Nội vào đầu tháng 9/2014 “thành công tốt đẹp” theo cách Nhà nước Việt Nam được Hoa Kỳ và các nước chủ chốt trong TPP xét “đặc cách” gia nhập hiệp định này, dù còn lâu Việt Nam mới thỏa mãn được những điều kiện quan yếu về “quy chế kinh tế thị trường”, chuyển đổi nguồn nguyên liệu nhập khẩu hay sở hữu trí tuệ…, hẳn nhiên người đời đã chứng kiến một loạt tù nhân lương tâm được trả tự do mà không cần “nhân dịp” Quốc khánh 2/9 nữa.
Nhưng rõ ràng đến giờ này, kết quả TPP cho Việt Nam vẫn tiếp tục mờ mịt như 19 vòng đàm phán trước. Lý do muôn thuở vẫn là những bất đồng giữa hai “đại gia” là Mỹ và Nhật. Nhưng điều ẩn giấu bên trong lại luôn là việc các "đại gia" này chưa nhận ra một tấm lòng “thành tâm” đáng kể nào từ phía Hà Nội, cho dù những chuyến ngoại giao và vận động con thoi đã diễn ra và cũng có thể đã tồn tại một thỏa thuận Việt - Mỹ lặng lẽ.

Điếu Cày Nguyễn Văn Hải vẫn chưa được thả ra sớm như mong đợi
Tình thế trên đang dẫn đến triển vọng u tối nhất là không có gì bảo đảm rằng Hà Nội sẽ thả người, cho dù thời gian và cơ hội để lọt vào TPP chỉ còn rất ít trong quý cuối năm 2014.

Chút cơ hội cuối cùng

Tất nhiên, vào thời gian cuối năm 2014 vẫn còn một vòng đàm phán TPP nữa - cơ hội cuối cùng của Nhà nước Việt Nam. Trong thời gian từ đây đến đó, có thể diễn ra một số đàm phán riêng lẻ của các quan chức Hoa Kỳ với giới chức Hà Nội, và do đó vẫn còn cơ may cho những chính khách nào muốn thể hiện tình cảm “hồi tâm”.
Trong bối cảnh đầy thách đố ấy, sự kiện mang tính an ủi đột biến cho giới bảo thủ Hà Nội là ngày 11/9/2014, Tòa Thánh Vatican ra thông cáo cho biết họ mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, trong khuôn khổ những nỗ lực tăng cường quan hệ với châu Á.
Sự kiện trên được xem là liên quan mật thiết đến chủ đề nhân quyền, trong đó có quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Cần nhắc lại, Hà Nội đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Toà thánh vào năm 1975. Kể từ năm 2007, hai bên đã “nỗ lực làm việc để tiến tới một mối quan hệ nồng ấm hơn”.
Mọi chuyện đều có vẻ khá logic với nhau, và dường như giữa Vatican và Nhà nước Việt Nam đã có một thỏa thuận thầm kín trước công bố “tái lập bang giao” mới đây. Cách đây hai tháng, tờ Vatican Insider đã có bài viết trích dẫn phát biểu của Tổng giám mục Sài Gòn Bùi Văn Đọc tại Roma cho biết cơ cấu của một đại học Công giáo có thể sẵn sàng trong vòng một năm tới.
Cũng cần nhắc lại, mối quan hệ “nồng ấm hơn” giữa Nhà nước Việt Nam và Tòa thánh được khởi động vào đầu tháng Giêng năm 2013 với chuyến "hành hương" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Vatican. Người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam đã được Đức Giáo hoàng Benedict XVI tiếp đón bằng nghi thức dành cho nguyên thủ quốc gia.

Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ gia nhập TPP?
Thế nhưng Chính phủ Việt Nam lại thường xuyên bị các quốc gia phương Tây chỉ trích là vi phạm tự do tôn giáo. Năm 2012, Việt Nam đã mang 14 người, đa phần theo Công giáo và Tin Lành, ra xử tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.
Ngay cả sau chuyến công du Vatican của ông Nguyễn Phú Trọng, ở Nghệ An vẫn nổ ra vụ giáo xứ Mỹ Yên 2013 mà bị xem là xâm hại tự do tôn giáo ghê gớm.
Giờ đây, tin tức về một đại học do một tôn giáo như Công giáo tại Việt Nam được phép thành lập khiến cho nhiều người tỏ ra hy vọng như một phép thử quan trọng về sự cởi mở hơn của Hà Nội đối với tự do tôn giáo. Thế nhưng như một quy luật, ở Việt Nam không có gì được coi là nhanh gọn, trừ tham nhũng và những gì thuộc về lợi ích.
Mọi việc vẫn còn phải chờ ở phía trước, và thời gian sẽ trả lời.
Chỉ có điều, thời gian đã quá gấp gáp. Nếu đến tháng 11 năm nay mà giới bảo thủ Hà Nội không kiến tạo được một chút phảng phất trên gương mặt nhân quyền và do đó không thể “hoàn tất TPP” như mong ước của Tổng thống Mỹ, Quốc hội Hoa Kỳ sẽ bắt đầu cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, tiến tới chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2016. Khi đó, đương nhiên sẽ chẳng còn mấy khuôn mặt nghị sĩ lưu tâm đến việc “đặc cách” cho Việt Nam vào TPP hay được mua vũ khí sát thương.
Chỉ còn hơn một năm rưỡi trước Đại hội Đảng 12, Bộ chính trị Việt Nam đang “tiến nhanh, tiến mạnh” và có thể cả “tiến vững chắc” đến quyết định bỏ lỡ một ít cơ hội cuối cùng để nhận được cứu cánh kinh tế.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do tại thành phố Hồ Chí Minh.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/09/140917_tpp_chance_missed.shtml


Người Khmer Krom đòi Nam Bộ là 'vô lý'

Cập nhật: 13:57 GMT - thứ tư, 17 tháng 9, 2014
Trong khoảng thời gian gần đây, cộng đồng người Khmer Krom tại Campuchia đã liên tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước sứ quán Việt Nam phản đối chính sách đất đai của Việt Nam.
Nguyên do của những cuộc xuống đường này là phát biểu của ông Trần Văn Thông, tham tán sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh, nói rằng miền đất Nam Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao lại cho Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 09/09/2014, ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia, cho biết :
"Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn gửi thông điệp tới chính phủ Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, không được can thiệp vào công chuyện của chúng tôi.
Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người Khmer, hoặc là họ cố tình muốn quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ lâu.
Đất đai Kampuchea Krom là của chúng tôi, và bị người Pháp giao cho người Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch sử, tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can thiệp vào chính trị của các quốc gia khác".
Với tất cả sự trân trọng và lòng kính mến, người ta thực sự không hiểu ông Thach Setha muốn nói gì.

Yêu sách của Khmer Krom

"Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam"
Ông Thach Setha
Yêu sách của ông Thach Setha, một trong những người lãnh đạo cuộc biểu tình đồng thời là một nhà hoạt động thuộc đảng Cứu quốc của chính trị gia Sam Rainsy và cựu Thượng nghị sĩ trong Quốc hội Campuchia, gồm ba vế: đất đai và chủ quyền ; lịch sử Kampuchea Krom và yêu cầu không can thiệp vào chính trị của một quốc gia khác.
Cụ thể hơn, ông Thach Setha muốn "phía Việt Nam chính thức công khai xin lỗi người Khmer Krom và công nhận lịch sử của chúng tôi bằng văn bản" và yêu cầu : "không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác của khối ASEAN".
Để làm áp lực, ông Thach Setha đe dọa:
"Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ phía Việt Nam thì đầu tháng 10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi. Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam".

Thấy gì qua phát biểu này?

Những yêu sách của ông Thach Setha phần lớn dựa trên tài liệu của Cộng đồng người Khmer Krom phổ biến trên mạng (https://vi-vn.KhmerKromNews), theo đó :
Về đất đai và chủ quyền, "Kampuchea Krom, nguyên là một phần của Vương quốc Kampuchea ở phía đông, hiện nay nằm dưới sự quản lý của chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Về lịch sử Kampuchea Krom, "Kampuchea Krom bị Thực dân Pháp cắt khỏi lãnh thổ Kampuchea và cho xác (!) nhập vào lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý của chính quyền Việt Nam bằng văn bản số 49-733, ký ngày 04 tháng 6 năm 1949 ở Thành phố Toulon, Tỉnh Var, nước Pháp".
Lãnh đạo Campuchia thường dựa vào TQ để bài Việt Nam
Về danh xưng : "Vào thời đó, vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Kampuchea Ngập Nước hay Kampuchea Krom (Kampuchea Hạ), và còn được gọi là Đồng bằng Châu thổ sông Mekong (Mekong Delta). Dưới thời Thực dân Pháp quản lý Đông Dương (Indochina), vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Basse Cochinchine (Cô-săng-sin Hạ)", với 68 965 km2.
Về dân số : "Nếu căn cứ vào số liệu thống kê dân số theo từng địa phương của Mặt trân Giải phóng Kampuchea Krom tiến hành vào năm 1968 thực hiện trên 21 tỉnh - thành của Kampuchea Krom và thực hiện phương thức tính 20 năm thì cho đến tháng 1 năm 2005, dân số người Khmer ước khoảng 14 571 000 (Mười bốn triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn) người".

Sự thật là thế nào?

Người Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ miền Nam. Cách tiếp cận này tuy hợp lý nhưng không đúng. Hợp lý vì những nhóm dân cư bản địa đầu tiên trên vùng đất này là con cháu những người Khmer trốn chạy các cuộc vây bắt nô lệ để xây dựng đền đài quanh khu vực Seam Reap và Battambang từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, và sau đó là những cuộc nội chiến hay tấn công của người Thái từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18.
Nhưng không đúng vì các vương triều Khmer chưa bao giờ làm chủ khu vực đồng bằng sông Cửu Long như thường tuyên bố.
"Có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó"
Nhắc lại, đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, là một đế quốc lục địa. Các trung tâm chính trị và tôn giáo được thiết lập :
- về phía tây, quanh khu vực phía bắc hồ Tonlé Sap (Battambang, Siem Reap), sông Chao Phraya và lưu vực hai sông Menam và Irrawaddy, mà những đền đại nổi tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom được xếp vào di dản nhân loại ;
- về phía đông, từ vùng trung lưu sông Mekong (Kompong Cham) tới khu vực phía nam hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), Longvek, Udong, Kampong Cham và Banteay Prey Nokor (Gia Định). Sau khi đế quốc Angkor bị Xiêm La xóa tên, năm 1439 vua Ponhea Yat bỏ chạy về Wat Phnom Daun Penh (Phnom Penh) và thành lập kinh đô.
- Vùng phía nam (đồng bằng châu thổ sông Cửu Long), cho đến nay chưa tìm thấy dấu ấn cai trị của vuơng triều Khmer.

Những lý cớ chống Việt Nam

Lý cớ đầu tiên là đất đai. Tổ chức Khmer Krom không ngừng tố cáo Việt Nam chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long của người Khmer. Củng cố lý cớ này là sự hiện diện của khoảng 500 đền đài Khmer trên khắp châu thổ. Đây là vấn đề rất được bàn cãi của những chuyên viên và những nhà nghiên cứu lịch sử, vì sự thật không hẳn như vậy.

Về điểm này tưởng cũng nên nhắc lại một vài dữ kiện địa lý-lịch sử. Cách đây hơn 300 năm, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng sình lầy hoang dại, đầy muỗi mồng và rắn độc nên ít người dám đến sinh cư lập nghiệp, trừ khi bị bắt buộc như những người trốn chạy những cuộc ruồng bắt nô lệ thời đế quốc Angkor.
Những người này sống tập trung trên những vùng đất cao để tránh lụt lội, gọi là giồng, và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không có tư liệu nào trong Văn khố hoàng gia Khmer (Chroniques royales khmères) nhắc đến sự triều cống của những nhóm dân cư sinh sống trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (Mekong).
"Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và tổ chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy "
Trong thế kỷ 17, nội chiến và tranh chấp nội bộ giữa các vương tôn buộc những phe tranh chấp tìm sự hỗ trợ của những thế lực mạnh hơn để triệt hạ đối thủ hay để được bảo vệ. Đó là trường hợp của vua Jayajettha II (1619-1627) kết nghĩa với chúa Nguyễn để được tiếp cứu khi bị Xiêm La tấn công. Bù lại, Jayajettha II nhượng cho Sãi vương quyền khai thác lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm nơi thu mua và vận chuyển thực phẩm ra miền Trung. Sau nhiều lần đánh bật quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp trong những năm 1622-1623, việc thu hồi hai nhượng địa Prei Nokor và Kompong Trabei không còn đặt ra nữa, vì vua Khmer rất cần sự hiện diện của quân Việt trên lãnh thổ của mình.
Phải chờ đến năm 1679, khi hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên) cùng với hai phó tướng Hoàng Tiến và Trần An Bình, với hơn 3.000 quân và 50 chiến thuyền, xin tị nạn và được chúa Nguyễn cho vào khai thác những vùng đất hoang miền Đông Nam Bộ. Tại đây người Minh Hương đã cùng những di dân Việt khẩn hoang, xây nhà, lập chợ, dựng đình. Với thời gian, những khu đất mới này trở nên trù phú và thu hút đông đảo di dân khác tới, kể cả người Khmer trong nội địa. Năm 1698, vùng đất Sài Gòn - Gia Định, tức miền Tây Nam Bộ, chính thức được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền.
Năm 1671, một quan nhân nhà Minh khác tên Mạc Cửu cùng với 400 người đổ bộ lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần phục vương triều Khmer. Năm 1681, vua Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng đất dọc bờ biển phía nam Campuchia ngày nay, gọi là Căn Khẩu, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của hải tặc. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và không được vua Khmer hỗ trợ, năm 1724 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng đất Căn Khẩu đổi tên thành Long Hồ dinh, sau này là Hà Tiên. Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp các vua Khmer đánh trả quân thù để bảo vệ ngôi báu, sau mỗi chiến công các vua Khmer trao tặng đất đai để tưởng thưởng. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức được sát nhập vào lành thổ nhà Nguyễn.
Những giải thích dài dòng này để nói lên một sự thật các triều vương Khmer không hề quan tâm đến vùng đất sình lầy đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, khi có cơ hội là sẵn sàng trao tặng cho những người đã giúp họ giữ được ngôi báu. Dựa vào yếu tố này, có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó.


'Người ta thực sự không hiểu ông Thach Setha muốn nói gì'
Lý cớ thứ hai là pháp lý. Dưới thời bảo hộ Pháp (1863-1953), các vị vua Khmer đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền Đông Dương, tướng de La Grandière, năm 1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau đó năm 1874 chứ không phải các vua Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía nam, mà người Pháp gọi là Cochinchine (miền Nam Việt Nam).

Văn bản pháp lý nào?

Tài liệu chủ quyền pháp lý mà Tổ chức Khmer Krom dựa vào là "Luật số 49-733 ban hành ngày 04/06/1949 về việc thay đổi quy chế vùng đất Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên hiệp Pháp (Union française)", theo đó lãnh thổ Nam Kỳ được sát nhập vào lãnh thổ Liên hiệp Việt Nam và không còn là lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp.
Qua luật này, tổ chức Khmer Krom trách Pháp đã không trao trả Nam Kỳ cho vua Khmer, do đó mỗi năm cứ đến ngày 04/06 họ tổ chức xuống đường biểu tình đòi Việt Nam trả lại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long cho Campuchia. Tất cả mọi phương tiện đều được áp dụng, kể cả bạo loạn, trong mục đích tuyên truyền rằng “chính quyền Việt Nam đàn áp sư sãi và tôn giáo”.
Để gây hận thù dân tộc, tổ chức Khmer Krom còn dựng đứng những tội ác "ghê rợn" của các chính quyền Việt Nam để tố cáo trước dư luận thế giới như : thiêu sống 10.000 người Khmer năm 1945, giết rồi thả hàng ngàn xác người Khmer trôi sông từ 1976 đến 1979, tàn sát hàng ngàn người Khmer tại Trà Vinh và Vĩnh Long từ 1980 đến 1990.. với hy vọng được thế giới hỗ trợ và làm áp lực với Việt Nam trả lại miền Nam cho họ.
Lý cớ thứ ba là chính trị. Quan sát kỹ, những cuộc biểu tình chống Việt Nam chỉ mạnh lên trước những cuộc bầu cử Quốc hội. Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Hiện nay, tổ chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy do ông Sam Rainsy lãnh đạo. Sam Rainsy hiện nay là đối thủ chính trị chính của đương kim Thủ tướng Hun Sen.

Hai phái Sam Rainsy và Hun Sen nay đã hợp tác 
Cho đến một ngày gần đây, dưới sự kích động của đảng Sam Rainsy, chống Việt Nam hiện nay không còn là một chiêu bài tranh cử nữa mà là một chính sách kỳ thị chủng tộc rõ ràng. Để tránh bị mang tiếng thân Việt Nam, nghĩa là chư hầu, Đảng Nhân dân Campuchia của đương kim Thủ tướng Hun Sen còn đi xa hơn khi ban hành những luật lệ siết chặt nhập cư, hạn chế sự đi lại của người Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia và trục xuất những người Việt nhập cư bất hợp pháp. Một cách tiệm tiến, chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Kher đang hình thành mà đối tượng là cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh thổ Campuchia, an ninh của họ đang bị đe dọa.
Thêm vào đó, lãnh tụ đảng Sam Rainsy còn khơi động sự thù hận giữa Việt Nam và Trung Quốc bằng cách đề cao những hành vi ức hiếp Việt Nam của Trung Quốc trên Biển Đông và dành cho người Trung Quốc những ưu đãi về đầu tư cũng như về kinh tế tài chính để loại thương nhân Việt Nam ra khỏi thị trường Campuchia, hay đưa xuống hàng thứ yếu, nghĩa là phải dưới người Khmer.

Tại sao đi đến tình trạng này?

Có nhiều lý giải, nhưng giải thích chính vẫn là các dân tộc Đông Dương là nạn nhân của chính sách chia để trị của người Pháp trong suốt thời gian đô hộ và bảo hộ.
Chế độ thực dân Pháp là thủ phạm kích thích sự thù ghét người Việt Nam của những dân tộc khác. Đọc lại những tài liệu và sử sách viết về người Việt Nam, không một tác giả người Pháp nào không nói Việt Nam là một dân tộc bành trướng, lịch sử Việt Nam là lịch sử thôn tính những dân tộc yếu kém hơn. Họ viện dẫn kinh nghiệm mất đất và mất văn hóa của người Chăm, người Khmer Nam Bộ, người Thượng trên Tây Nguyên...
Dưới thời Pháp thuộc, Đông Dương bị chia thành 5 vùng, trong đó Việt Nam bị cắt ra làm ba miền (Bắc Trung Nam) để hạn chế người miền này tiếp xúc với người miền kia, và họ đã phần nào thành công. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, sự hợp tác giữa các dân tộc Đông Dương đã rất khó khăn và phải trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giải quyết sự thống nhất. Vấn đề tồn đọng còn lại là xây dựng niềm tin giữa các dân tộc và giữa người Việt Nam với nhau.
Nếu chịu khó quan sát, tâm lý bài Việt Nam thường xuất phát từ những cấp lãnh đạo hay trí thức do Pháp đào tạo : Sihanouk, Pol Pot, Sam Rainsy, Sarin Chhak...

Campuchia viện dẫn ra các tài liệu của Pháp để nêu yêu sách lãnh thổ
Đầu tàu của chính sách bài Việt là quốc vương Norodom Sihanouk, đứa con tinh thần của chế độ thực dân Pháp. Từ lúc còn tấm bé ông đã được người Pháp nuôi dưỡng và đã hấp thụ tất cả những gì mà người Pháp muốn truyền bá : chống Việt Nam. Trong suốt thời gian trị vì, không hiểu vì lý do gì nhà vua Sihanouk đã liên tục chống phá trực tiếp hay gián tiếp các chính quyền miền Nam Việt Nam, và chính quyền cộng sản Việt Nam sau 1975. Nhà vua sẵn sàng liên minh hay ủng hộ với mọi phe phái, kể cả Khmer Đỏ, để chống Việt Nam.
Sihanouk còn đào tạo ra được một thế hệ bài Việt tiếp nối, đặc biệt là Sarin Chhak, tác giả "Những vùng biên giới của Cambodge" năm 1965. Dựa theo tài liệu này, đầu năm 1967, Sihanouk chính thức công bố khu vực biên giới Campuchia-Việt Nam, theo đó tỉnh Đắc Lắc, toàn khu hữu ngạn sông Bé đến Thủ Dầu Một, toàn bộ tỉnh Tây Ninh và Long An và vùng đất phía tây thị xã Hà Tiên thuộc Campuchia. Những phe nhóm Khmer chống Việt Nam khác cũng đã sử dụng bản đồ này để tố cáo chính quyền Hun Sen ký những hiệp định về vùng nước lịch sử ký với Việt Nam năm 1982 và hiệp ước biên giới đất liền tháng 10/1985 bất lợi cho nhân dân Campuchia.
Nội dung những văn bản bản này thật ra không khác gì với những văn bản đã ký với Pháp trước đó: vùng biên giới đất liền ghi lại tỉ mỉ hơn làn ranh đã có dưới thời Pháp thuộc; trên biển hai bên giữ nguyên làn ranh Brévié đã có từ năm 1939. Thật ra vấn đề không phải được hay mất đất và biển mà chỉ giản dị là tâm lý bài Việt Nam đang lên cao trong sinh hoạt của những tổ chức chính trị đối lập với chính quyền Hun Sen. Cũng nên lưu ý trong những văn bản này, Điều cuối cùng ghi: "Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm căn cứ".

Giải thích thứ hai là sự trù phú của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Nếu đồng bằng này là một vùng đất nghèo nàn như dãy Cardamones phía tây, chắc không người Khmer nào muốn đòi lại. Ước muốn sở hữu vùng đất trù phú là lẽ thường tình của người đời, nhưng sự phát triển và giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long không phải tự nhiên mà có. Đó là công lao của người Minh Hương và di dân Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến nay. Trong suốt thời gian đó, cộng đồng người Khmer vui hưởng cuộc sống bình yên, những chùa chiền lớn, "wat" theo văn hóa Xiêm La. Trong những sinh hoạt khác, cộng đồng người Khmer đứng bên lề những tranh chấp và sinh hoạt chính trị.
"Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương Angkor"
Có một điều khó hiểu là dân số người Khmer sinh sống tại Việt Nam hiện nay khoảng 1,4 triệu người (2011), nhưng tài liệu của Khmer Krom cho biết là trên 14 triệu người (2005), nghĩa là gấp 10 lần và ngang bằng tổng dân số Campuchia (15,14 triệu người năm 2013). Thật ra dựa vào yếu tố lịch sử để đòi lại đất chỉ là lý cớ, sự giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mới là động cơ chính. Tổ chức Khmer Krom không phải là người trồng cây ăn trái nhưng muốn thu tóm mọi hoa lợi vào tay mình, chỉ giản dị là vậy.
Giải thích thứ ba là yếu tố văn hóa. Tại sao người Khmer dễ ghét người Việt Nam hơn người Thái, mặc dù tất cả những tai họa chính của dân tộc Khmer đều do người Thái gây ra? Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương Angkor. Chính sách cai trị của người Thái chắc chắn phải rất hung bạo để ký ức về triều đại Angkor bị xóa hẳn trong tâm trí người Khmer trong suốt hơn 400 năm (1431-1861).
Chính người Thái đã góp phần làm hao kiệt di sản văn hóa của người Khmer, phần lớn những di tích của nền văn minh Angkor được giới buôn lậu đưa qua Thái bán. Cho tới một ngày gần đây, người Thái còn muốn chiếm di tích Preah Vihear của người Khmer. Trong Thế chiến II, quân Pháp đã rất phải cực nhọc mới xua đuổi quân Thái ra khỏi Battambang và Seam Reap. Cũng chính người Thái đã cho Khmer Đỏ lập căn cứ trên lãnh thổ của mình để chống lại chính quyền Phnom Penh từ 1979 đến 1989. Có điều lạ là không người Khmer nào tỏ ra thù ghét người Thái.

Người mang ơn thường quay ngược khí giới chống lại Việt Nam

Với người Việt Nam thì ngược lại, làm ơn đôi khi còn mang họa. Mỗi khi bị đe dọa, người Khmer nhờ cậy người Việt Nam vào giúp đỡ. Khi kẻ thù bị đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ, những người mang ơn thường quay ngược khí giới chống lại Việt Nam. Có cái gì không bình thường trong cách cư xử này.
Có lẽ người Khmer thuộc văn hóa Ấn Độ nên chỉ thích giao lưu với người cùng văn hóa (cũng như Việt Nam với Trung Quốc), Việt Nam thuộc văn hóa Trung Hoa nên rất khó hiểu nhau và hợp tác. Nắm được lý giải này mới hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam đã bỏ mạng để bảo vệ người Khmer, nhưng công lao này thường hay quên lãng và đôi khi còn bị hiểu lầm. Khi rút quân khỏi Campuchia, hài cốt nhưng người lính Việt Nam đều được mang về nước vì sợ bị phá hoại. Hành trình thông cảm lẫn nhau có lẽ còn khá dài.
Nhưng cho dù có thế nào đi nữa, hai dân tộc Campuchia và Việt Nam buộc phải đi với nhau suốt đoạn đường dài còn lại. Không quốc gia nào chọn láng giềng, chúng ta phải tìm cách sống chung với nhau trong khôn ngoan và hòa bình. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chính sách bài Việt Nam có thể thỏa mãn kết quả của những cuộc tranh cử nhưng chỉ mang lại tiêu cực và không giải quyết được quan hệ giữa hai dân tộc.
Người ta chỉ gặt những gì được gieo trồng, do đó phải cẩn thận. Giải pháp hay nhất để hóa giải tâm lý hận thù là tìm cách đối thoại với nhau trong tinh thần tương kính, và nhất là tránh không bị chi phối bởi những định kiến.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tiến sỹ Nguyễn Văn Huy từ Paris, Pháp.Diễn đàn BBC Tiếng Việt mong nhận được các ý kiến khác nhau về chủ đề này, gồm cả các quan điểm phản bác lại tác giả đã đăng.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh sắp thăm Hoa Kỳ

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bắt tay với Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong chuyến thăm Việt Nam của ông Kerry tháng 12 năm 2013.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bắt tay với Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong chuyến thăm Việt Nam của ông Kerry tháng 12 năm 2013.
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sẽ đi thăm Washington vào đầu tháng 10 sắp tới để tham khảo ý kiến với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS) nói các cuộc họp giữa hai vị Ngoại trưởng là một diễn đàn để đề ra những bước cụ thể và đào sâu hơn quan hệ đối tác toàn diện đã được loan báo khi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đến thăm Tòa Bạch Ốc vào tháng Bảy năm 2013.

Trong một bài viết đăng trên trang web của CSIS hôm 18 tháng 9, ông Ernest Bower, một chuyên gia về các vấn đề Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS), nói rằng ngày nay, các nhà làm chính sách Mỹ coi Việt Nam là một đối tác có tiềm năng trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương. Ông cho rằng trong một khu vực rất năng động và đang thay đổi nhanh chóng, các lợi ích của Washington và Hà Nội đang ngày càng hội tụ về một điểm, trong bối cảnh hai nước chia chung một số lợi ích địa chính trị, và lợi ích kinh tế. Những hành động gây hấn của Trung Quốc là một yếu tố góp phần trong những tính toán của Việt Nam về liệu nước này có nên xích lại gần Hoa Kỳ, và xích lại nước cựu thù này theo tốc độ như thế nào.

Năm tới, 2015, hai nước sẽ kỷ niệm 20 năm từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhau hồi năm 1995, sau một cuộc chiến tranh kéo dài và nhiều cay đắng. CSIS cho rằng các điều kiện hiện nay đã chín muồi để lãnh đạo hai nước đề ra những bước cụ thể để hoàn toàn bình thường hóa các quan hệ song phương, dựa trên sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế đề nghị hai nước hãy đề ra những bước cụ thể, để tạo điều kiện cho một chuyến đi của Tổng Thống Barack Obama tới thăm Việt Nam trong năm tới, để đánh dấu kỷ niệm 20 năm ngày hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhau, có lẽ vào dịp hội nghị thượng đỉnh an ninh và kinh tế thường niên sẽ được tổ chức ở Malaysia và Philippines vào tháng 11, 2015.

http://www.voatiengviet.com/content/pho-thu-tuong-bo-truong-ngoai-giao-pham-binh-minh-sap-tham-hoa-ky/2456168.html

HOÀNG NGỌC TUẤN * HỌC CHÍNH TRỊ

Tôi đã "tự giải trí" trong khi học "chính trị Mác-Lênin" như thế nào

Cách đây gần 40 năm, lúc tôi từ vùng kinh tế mới Phú Nhơn nhảy vào trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang để tránh "nghĩa vụ quân sự", thì có một môn học mà tôi thấy dễ nhất nhưng chán nhất, đó là môn "Chính trị Mác-Lênin".
Khác hẳn với môn Triết học hóc búa mà tôi đã học ở lớp 12C trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang và ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước 1975, môn "Chính trị Mác-Lênin" này quá dễ, vì chỉ cần lải nhải đúng theo những gì in trong sách giáo khoa chính trị Mác-Lênin và đúng theo những gì ông thầy giảng trong lớp, là lấy điểm 10/10. Nghĩa là chỉ cần làm một con vẹt, chẳng phải mất công suy nghĩ gì cả. Nhưng vì môn này quá chán, nên đôi khi tôi đã kiếm cách để "tự giải trí".
Có một lần tôi đã "tự giải trí" một cách rất thú vị mà tôi xin kể lại đây cho các bạn đọc chơi.
Lần đó, mỗi "giáo sinh" trong lớp Văn của chúng tôi phải viết một bài luận "phê phán tư tưởng triết học tư sản phản động của phương Tây và những ảnh hưởng độc hại của nó..."
Vừa đọc xong cái đề luận, tôi cảm thấy hết sức khoái trá vì đây là một cơ hội thú vị để tôi "tự giải trí". Tôi biết rất rõ rằng ông thầy dạy môn "Chính trị Mác-Lênin" chẳng hề biết một chút tiếng Pháp hay tiếng Anh nào cả, cũng chẳng hề được đọc bất cứ một cuốn sách triết học phương Tây nào cả, vì trong những bài giảng của ông, ông chỉ nói loanh quanh lải nhải những luận điệu chống "tư bản giãy chết" theo kiểu sách giáo khoa chính trị Mác-Lênin của nhà nước. Ông là một bộ đội phục viên, và ông vẫn luôn luôn mặc áo trắng với chiếc quần bộ đội bạc phếch khi đến lớp. Khi bước ra khỏi lớp, ông đội chiếc mũ cối lên và bước đi với dáng điệu nghiêm chỉnh. Ông là một tín đồ Cộng Sản thuần thành. Lúc đó là năm 1977, nhưng ông còn vẫn thích say sưa kể đi kể lại chuyện "Đại Nguyên Soái Xít-ta-lin giải phóng châu Âu" cho học trò nghe, và lần nào đến đoạn ông nói "... trên trời cơ man là máy bay, dưới đất cơ man là xe tăng và đại pháo..." thì ông cũng rơm rớm nước mắt xúc động, mặc dù câu chuyện ấy là câu chuyện ông đọc được trong một cuốn sách tuyên truyền láo khoét nào đó mà suốt đời ông vẫn tin là sự thật.
Tôi ra quán cà-phê ngồi hút thuốc và ngẫm nghĩ xem mình nên bịa ra những câu ngớ ngẩn nào để nhét vào mồm của Nietzsche, Heidegger, Camus, Sartre, Kierkegaard, Jasper... cho vui. Thế rồi tôi lấy ra một miếng giấy và sáng tác một loạt những câu ngớ ngẩn, rồi tôi dịch những câu đó ra tiếng Pháp hay tiếng Anh tuỳ hứng...
Đêm đó, tôi về phòng ngồi viết một mạch vô cùng khoái trá. Hết đoạn này đến đoạn khác, tôi ra sức nhét những câu ngớ ngẩn (có mở ngoặc, ghi thêm "nguyên văn" tiếng Anh hay tiếng Pháp, và đóng ngoặc, ra vẻ như có tra cứu và trích dẫn rất ư là chính xác!). Cuối mỗi trang, tôi còn có phần cước chú, trong đó tôi ghi đầy đủ "xuất xứ" của những cuốn sách "triết học" mà tôi phịa ra cả nhan đề, tên nhà xuất bản, năm xuất bản, và cả số trang nữa! Cuối bài luận lại còn có cả "thư mục tham khảo" liệt kê một loạt sách triết học phương Tây... bịa.
Trong khi viết, thỉnh thoảng tôi đọc lại một đoạn và không nhịn được cười. Chẳng hạn, có một đoạn tôi đã viết đại khái thế này: {{Trong cuốn "Giai Cấp Tư Sản và Vai Trò Xã Hội của Nó" (The Bourgeoisie and Its Social Role), Merleau-Ponty tuyên bố rằng: "Giai cấp tư sản là kẻ xứng đáng làm chủ xã hội vì nó nắm hầu hết tài sản của xã hội." (The bourgeoisie is worthy the master of the society because it possesses almost all the society's wealth).}} Rồi tôi ra sức nhại theo thứ ngôn ngữ tuyên truyền kiểu Cộng Sản để phê phán cái mệnh đề nhảm nhí đó và kết án Merleau-Ponty là "một nhà tư tưởng cực kỳ phản động của giai cấp bóc lột", vân vân.
Tất nhiên, Merleau-Ponty chẳng bao giờ viết cuốn sách mang tên "The Bourgeoisie and Its Social Role" và ông cũng chẳng bao giờ tuyên bố một câu ngớ ngẩn như vậy. Cũng như Nietzsche, Heidegger, Camus, Sartre, Kierkegaard, Jasper chẳng bao giờ viết những câu ngớ ngẩn mà tôi đã "trích dẫn" hàng loạt trong bài luận của tôi. Tất cả chỉ là trò chơi "tự giải trí" của tôi, nhưng tôi tin rằng ông thầy dạy môn "Chính trị Mác-Lênin" sẽ tin như điếu đổ.
Và đúng như vậy, bài luận của tôi đã được điểm 10/10 với lời khen nồng nhiệt của ông thầy. Sau đó, ông thầy còn rủ tôi về phòng trọ của ông (trong khuôn viên nhà trường) để uống nước trà. Ông thầy nói: "Em đã nhận định và phê phán rất sắc sảo về tư tưởng triết học tư sản phản động của phương Tây. Thầy xem những đoạn trích dẫn và thư mục tham khảo của em, thầy thấy em đã đọc rất nhiều sách triết phương Tây... Thầy ở ngoài Bắc nên không có cơ hội để đọc những sách như vậy..."
Tôi biết ông không đọc được ngoại ngữ, và tất nhiên cái "thư mục tham khảo" của tôi toàn là sách bịa, nhưng tôi nói tỉnh bơ: "Nếu thầy thích đọc thì em sẽ mang những cuốn đó đến cho thầy đọc..."
Ông thầy nói: "Không, thầy không biết đọc tiếng nước ngoài. Em rất giỏi tiếng nước ngoài như thế thì mai sau em sẽ có nhiều điều kiện để nghiên cứu sâu rộng. Để thầy nói chuyện với các cán bộ Đoàn và đề nghị họ đưa em vào cảm tình Đoàn..."
Tiếc thay, trước khi tôi được vào cảm tình Đoàn thì tôi đã lén đi vượt biển, và thất bại, và... vào tù.

Friday, September 19, 2014

TƯỞNG NĂNG TIẾN * MỘT CHÚT HIỂU LẦM

Một Chút Hiểu Lầm

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa rằng người đó đã có một khối tài sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị.  
Milovan DjilasGiai Cấp Mới
 
Thời gian gần đây, gần như là hằng đêm tôi đều mơ thấy mình vẫn đang sống trong một khung cảnh nào đó – ở Việt Nam. Cứ như thể là tôi chưa bao giờ rời khỏi đất nước này, dù chỉ một ngày.
 
Khỏi cần phải đọc Freud hay Jung gì ráo trọi, tôi cũng biết được rằng tự tiềm thức của mình đang có một thôi thúc khác – khác với sự chọn của ý thức từ bấy lâu nay – tuy sâu kín nhưng mạnh mẽ, cái sức mạnh của một định luật tự nhiên: lá rụng về cội! Nhờ thế, tôi (chợt) hiểu tại sao hai ông Phạm Duy và Nguyễn Cao Kỳ nằng nặc phải trở lại cố hương bằng mọi giá – kể cả cái giá phải “hy sinh” luôn tính tự trọng (tối thiểu) và lòng liêm sỉ.
 
Thường dân cỡ tui thì đi mới khó, chớ về thì dễ ợt. Chả sợ điều tiếng chi, và cũng khỏi ngại chuyện mấy chú công an canh chừng hay thăm hỏi gì. Chỉ ngặt có chút xíu (xiu) là tôi không biết rồi sẽ làm sao để mưu sinh, ở quê nhà.
 
Già cũng phải sống chớ bộ, cũng phải có nơi ăn chốn ở, phương tiện đi lại, và chăm sóc y tế tối thiểu – khi cần. Mà tui thì suốt đời không có đồng xu dính túi (tiền vừa tới tay là tui đã sài liền, hoặc cho mẹ nó rồi) nghề nghiệp thực dụng để có thể kiếm việc ở V.N cũng không luôn, còn thân bằng quyến thuộc thì toàn là những người khốn khó và thuộc thành phần... phản động không hà!
 
Mà cố hương (than ơi!) cho dù ở góc bể chân trời, hay châu lục nào chăng nữa thì cũng đều chia chung một định luật bất thành văn: không đâu, và không ai, hân hoan đón chào những kẻ trở lại với ... hai bàn tay trắng. Thôi thì đành bỏ xác quê người, chớ về làm chi/cho má nó khi.
  
Tôi đã có dự tính nhẩy cầu Golden Gate thì có  tin vui giữa giờ tuyệt vọng, từ một giới chức cao cấp ở Việt Nam – Bộ Trưởng Chủ Nhiệm Ủy Ban Dân Tộc Giàng Seo Phử. Ông vừa hân hoan cho biết: “Bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao.”  
 
Bán ngày không đủ phải tranh thủ bán ban đêm.
Ảnh và chú thích: Uyên Nguyên, RFA
 
Bán tin, bán nghi, tôi liền vào net tìm hiểu thêm và biết được rằng hiện nay (ở Việt Nam) bán vé số được coi là một nghề nghiệp đàng hoàng tử tế, của một giới người riêng biệt, không những có “thu nhập cao” mà còn có nhiều chuyện may mắn bất ngờ và rất thú vị nữa kià – theo như tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:
 
Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại.
Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức - hành nghề chạy xe ba gác - nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.
 
Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.
 
Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.
 
Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.
 
Theo tìm hiểu của Dân Việt, vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.
Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số.
 
Đoạn văn thượng dẫn có hai hạn từ mà tôi tự ý cho in đậm: “đồng nghiệp” và “phương án.” Chị Phạm Thị Lành là một con người cao cả, đã đành, và cái nghề bán vé số số hiện nay cũng đã tạo nên một giới người vô cùng cao qúi theo như ngôn ngữ đương đại của giới truyền thông hiện nay – ở Việt Nam – như vừa trích dẫn!
 
Họ “lập phương án” đi bán vé số đàng hoàng, chớ không phải bạ đâu làm đó đâu nha.  Họ cũng  gọi nhau là “đồng nghiệp” nữa đó (lịch sự hết biết luôn) nghe cứ y như cái cung cách xưng hô (qúi phái) của qúi vị bác sĩ hay luật sư ở giữa toà, hoặc ở giảng đường của trường đai học y khoa vậy.
Thiệt là quá đã, và ... quá đáng!
  
Rõ ràng là cách mạng Việt Nam đã tạo ra thêm một ... Giai Cấp Mới (nữa). Khác với giai cấp mới đỏ au – phát sinh cùng thời – những người bán vé số hôm nay dù hành nghề có “phương án” (cẩn thận) và vẫn thường gọi nhau là đồng nghiệp (tử tế) nhưng họ lại rất đen đủi, lam lũ và đông đảo hơn mức cần thiết rất nhiều.
 
Nếu đã có lúc dân Việt cứ bước ra ngõ là gặp anh hùng thì nay họ lại gặp những người chào mời vé số, theo như tường trình của  thông tín viên RFA:
 
Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.
 
Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận...Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng.
 
Trẻ em bán vé số thay vì đến trường học.
Ảnh và chú thích: Uyên Nguyên, RFA
 
Với mức thu nhập bình quân mỗi ngày từ vài chục ngàn đồng cho đến một trăm ngàn đồng. Mức một trăm ngàn đồng là mức may mắn của người bán vé, hiếm khi họ kiếm được số tiền lãi này, vì để có nó, người bán phải bán được 100 tấm vé giá 10 ngàn đồng cho một ngày. Nhưng đây là con số rất khó đạt được, chỉ có những người bán vé cho ngày mai ngay trong buổi chiều hôm nay mới có cơ may kiếm được số lượng này.
 
Nghĩa là buổi sáng, họ thức dậy lúc 5h, ăn uống qua loa và lên đường, lang thang hết quán cà phê này sáng quán ăn nọ để chào mời vé số, 4 giờ chiều trả vé, lấy tiếp vé ngày mai đi bán cho đến 9 giờ tối. Đương nhiên, để kiếm được chén cơm, manh áo, họ phải chấp nhận sự khó chịu, thậm chí những lời thóa mạ của khách vì bị quấy rầy, mời mọc trong lúc đang ăn. Nhưng nếu nhìn kĩ, người bán vé số cũng không có cơ hội mời chào khác ngoài việc đi từ bàn ăn này đến bàn ăn khác hoặc từ bàn cà phê này đến bàn cà phê khác để mời.
 
Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận, chi phí in ấn một tờ vé số không bao giờ vượt tới mức giá 500 đồng, chi phí trả cho người phát hành vé số, từ đại lý cấp 1 cho đến người bán là 1.300 đồng, trong đó, đại lý được hưởng 3% trên giá vé số, người bán được hưởng 10%. Như vậy, tổng số tiền lãi công ty nhận trên một tờ vé số sẽ là 8.200 đồng. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng, khấu trừ 13%, con số còn lại vẫn ở mức 492 triệu đồng.
 
Riêng về khoản tiền thuế đóng cho ngân sách nhà nước, con số này không ổn định và cũng không minh bạch do sự co giãn giữa mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền và chỉ số thuế qui định đã được phù phép cho nhỏ lại… Cũng chính vì lẽ này, phần đông nhân viên và ban bệ trong ngành xổ số kiến thiết đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước.
 
Tôi e rằng mình, cùng nhiều người khác, đã hiểu lầm câu nói (“bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao”) của ông Giàng Seo Phử. Khi phát biểu như trên, ông Bộ Trưởng chỉ có ý muốn đề cập đến những đại lý bán vé số của những người có “mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền” thôi. Họ cũng “đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước” hết trơn hết trọi. Chớ đâu phải là cái thứ thường dân dấm dớ, cỡ  tui,  cha nội!
 
 
Thiệt là một sự hiểu lầm tai hại, chết người, chớ không phải giỡn. Mà đời về chiều, và đã đến nước này rồi thì tui cũng đành phải chết thôi. Thôi thì nhẩy mẹ nó xuống cầu Golden Gate, ở San Francisco, chết quách cho rồi. Chớ lặn lội về tới cố hương rồi đi chào mời vé số – từ  5 giờ sáng đến 9 giờ tối – chỉ để kiếm được vài ba Mỹ Kim thì chắc chỉ chừng hai ngày sau là tui sẽ nhẩy cầu Rồng, hay cầu Bình Lợi thôi hà.
 
 

NGÔ VĂN TAO * KARL MARX


NGÔ VĂN TAO


Ngô Văn Tao
Nguồn: Gió-O


Something is rotten in the state of Danmark
The time is out of joint. O cursed spite
That ever I was born to set it right

(Shakespeare “Hamlet”)

Vương quốc này có gì thối nát
Thời bất ổn. Ôi! nghiệt ngã và oan trái
Tôi phải sống và lập chính đạo


Tháng 4 năm 1993, ở một đại học Hoa Kỳ có cuộc hội thảo với đề tài: Chủ nghĩa Marxit đi về đâu? (Whither Marxism?). Jacques Derrida (1930-2004) trình bày trong hai buổi một thuyết trình: Những bóng ma của Marx (Spectres de Marx, edit. Galilée-Paris 1993).


“Những bóng ma của Marx” là một thảo luận chứ không phải là một văn bản luận đề học thuyết có hệ thống chặt chẽ. Mà thật, J.Derrida là triết gia nhưng là triết gia theo truyền thống Heidegger. Vấn đề của tư tưởng gia, theo Heidegger, không phải là đưa ra một thuyết lý hay một giáo điều mà xác định nhân sinh là “thử tại” (Dasein=Being), “trong cõi hiện hữu với bốn chân trời luôn luôn di động”. Tỉ như đối với nhà thơ Bùi Giáng, cái cõi đó là vũ trụ thi ca và ngôn từ.
 
 Còn đối với J.Derrida, nổi danh với ý niệm giải cấu (déconstruction), trong thế giới hiện hữu mà ở đó ta thử tại, không có gì là một tổng thể cố định, chúng ta phải biết cảm nhận tất cả là những tổng thể bản chất hỗn hợp (brownien) mà chúng ta luôn luôn giải thể và với ý thức tái cấu tạo. Và như thế ngay khi ta suy tư trên một vấn đề hiện sinh nào đó, nên những văn bản của J.Derrida đều là những ý tưởng tạp hợp đột phá, buộc người đọc phải tự tạo một hệ thống suy luận để không rơi vào mê đồ, cái mê đồ của thế giới tư duy nhân sinh thực tại.

Những bóng ma? Bóng ma Liễu Trai, bóng ma linh hồn người đã chết? Cuộc hội thảo nói trên với đề tài: Chủ nghĩa Marxit đi về đâu?, thật hàm ý, sau cuộc đổ vỡ ở Đông Âu, sự cáo chung của Xã Hội Chủ Nghĩa; J.Derrida thấy cần phải nói tới bản Tuyên Ngôn Của Cộng Sản (le manifeste du communisme), Cộng Sản Đệ Nhất Quốc Tế, mà Friedrich Engels và Karl Marx soạn năm 1848, trong đó có câu: “Trên Lục Địa Âu Châu này, một bóng ma đã tới phủ đầy, bóng ma Cộng Sản!” (Ein Gespent geht um in Europa – das Gespent des Kommunismus!). Vậy bóng ma đây là một sự ám ảnh, một linh tính khắc khoải chờ đợi, dù rằng mỗi khi ta nói tới bóng ma là ta nghĩ tới một cái gì quá cố trở về vật vờ trước nhãn quan, trong tiềm thức.

J.Derrida nói đến bóng ma, không phải để bàn luận về “những ám ảnh áp chế”, như trong phân tâm học freudian, mà trước hết nhìn lại khái niệm thời gian, sự liên tục quá khứ, hiện tại, tương lai. Đặc biệt hiện tại đang sống (le présent vivant), sự liên đới giữa quá khứ và tương lai, hàm chứa trong cái bây giờ những gì đã qua, bóng ma của những hiện tượng, cùng với những gì sẽ đến, không biết nội dung ra sao nhưng hiện đấy.

Nhưng có thể nói trong nhân sinh văn hóa của con người hiện đại, cái “bây giờ” chỉ là “ngày mai”, ngày mai của đồng tiền, của tiện nghi, ngày mai triển khai cơ giới, súng đạn tân tiến…ngày mai của những cái biết. Con người hiện đại không cần đến quá khứ, chỉ cần đến trí nhớ của những bộ óc điện tử (computers). Chúng ta không nghĩ về quá khứ, chúng ta biết rất nhiều, ghi nhớ tất cả với bộ óc điện tử, tưởng lúc nào cần cũng có thể lôi ra những tư liệu để thiết kế tối ưu những công trình cho ngày mai, ngày mai này con người sống lâu hơn, điều kiện vật chất luôn luôn cải tiến, không ưu phiền thiếu thốn…Với sự khống chế của khoa học và kỹ thuật, con người hầu như chỉ biết sống với siêu hình học, siêu hình học của cái biết khoa học, của khả năng kỹ thuật. Tâm thức toàn khối là hướng về ngày mai, ngày mai huy hoàng mà loài người sẽ đi chinh phục những vì sao, chúa tể cả vũ trụ…


Siêu hình học “ngày mai huy hoàng” thâm nhập vào tư duy của đại chúng, trong chính trị cũng như trong cuộc sống mỗi ngày. Nhưng đó chỉ có thể là sự phiến diện của tâm linh trí tuệ, một sự kiện của “thời gian trật bản lề”(the time is out of joint), với cái “bây giờ” là một cánh cửa gẫy chỉ cho phép đi về tương lai. Thời gian thật phải là giòng sông, con người trôi theo giòng nhưng luôn luôn bồng bềnh giữa xoáy lốc, long đong xuôi ngược giữa tương lai và ý niệm của những gì minh đã sống. Tất cả những gì mà người ta làm được cho sự hiện thành của con người, phải là những nhớ nhung, những hồi tưởng quá khứ, cùng một lúc hướng về tương lai phủ đầy bởi những khắc khoải, những nghi vấn và mang mang những hứa hẹn, những hoài bão không cùng vô định.

J.Derrida nghĩ làm người phải là con người tổng thể trong giòng thời gian, tổng thể như “người trí thức Âu Châu”, người trí thức mà Paul Valéry xác định: “người trí thức Âu Châu có Kant đến trước Hegel, có Hegel đến trước Marx, có Marx đến trước bản thân”. Vậy con người tổng thể phải là con người lịch sử, lịch sử của một dân tộc, của một nền văn học, của một giòng tư tưởng. “Người trí thức Âu Châu” , giòng văn học tư tưởng Âu Châu, mang mãi gia tài thừa kế, những suy tư của Kant, ý niệm “vật tự thân, Tự do, Đạo đức”, những luận trình của Hegel, phạm trù khái niệm và biện chứng pháp, “sự thật chỉ là một cuộc truy hoan mà các tân khách đều say mềm không đứng vững”…Còn Karl Marx? Đó là đề tài J.Derrida thấy cần phải thuyết trình.


Tuy nhiên, J.Derrida không luận trình theo kiểu kinh viện trường quy rằng ta phải thừa hưởng thế nào gia tài để lại của Karl Marx. Bản thuyết trình của J.Derrida là gồm những ý tưởng phức tạp đột phá, rối ren đan kết. Đặc biệt nói tới những bóng ma của Marx, bản thuyết trình của J.Derrida trước hết là một cái nhìn lịch sử, thời gian hiện tại và tương lai đang sống, và cả tương lai xa xôi với những lời hứa và mệnh lệnh. Một phần nào là cái nhìn luận chiến vào thời cuộc thế giới, đưa ra một lập trường chính trị nhân sinh.

Cuộc hội thảo: “Chủ nghĩa Marxit đi về đâu?”, tháng 4/1993, là để cùng nhận định sự xụp đổ của những chính thể chuyên chế xã hội chủ nghĩa Liên Xô và ở Đông Âu, sự cáo chung của xã hội chủ nghĩa Marxit, nền móng của những chính thể đó, và rằng nếu xã hội chủ nghĩa Marxit còn độc tôn ở những nước như Trung Hoa hay Việt Nam thì chỉ là một thứ xã hội chủ nghĩa Marxit đã bị “giải tỏa” (perestoika) hay đã bị tha hóa trong “đổi mới”. Nhưng không phải vì thế, J.Derrida vội nhấn mạnh, mà chúng ta có thể theo Francis Fukuyama (tác giả của quyển xã luận văn: The end of history and the last man”) kết luận rằng chúng ta đương đi đến sự cáo chung của lịch sử, trong cái nghĩa nhân loại, con người xã hội chung cục, chỉ còn biết đi tới “xã hội tự do dân chủ”(?); tiến tới xã hội tự do dân chủ âu tây, như tiến tới “miền đất hứa của thời hậu thế của chúa Cứu Thế”.


Tự do dân chủ, ngọn cờ chiêu bài của những nước tư bản Âu Mỹ, người dân phải có quyền bằng lá phiếu tự chọn những người thay mặt mình điều khiển đời sống xã hội, tổng thống, thủ tướng, quốc hội, hội đồng nhân dân xã và huyện…Nhưng cái quyền tự do có thật được thực hành trên thế gian? Không nói gì ở Trung Quốc hay ở Việt nam, có quốc hội, có hội đồng nhân dân, nhưng công khai dưới độc tài đảng trị cộng với những hỏa đầu bè phái, mà ngay ở Mỹ Quốc, mệnh danh tiền phong dân chủ, chúng ta không thể quên sức mạnh đen tối của hệ thống máy móc truyền thông, những guồng máy nằm trong tay những tập đoàn tài phiệt, công ty sản xuất vũ khí, những chủ dầu mỏ ở Trung Đông…Những bè phái, những guồng máy nhũng loạn, gian lận méo mó ước vọng chân chính của người dân. Nguyên nhân bất tận hung triệu của thời bất ổn trong những cái tương lai hiện tại.

J.Derrida luận chứng lời phản biện trên. J.Derrida thấy cần phải xác định chúng ta đã thừa hưởng gì, những bóng ma của Marx để chúng ta có thể trung trực phê phán và giải cấu thực tại xã hội, thế giới và lịch sử. Năm 1993, có sự cáo chung của Xã hội Chủ nghĩa Marxit, thì là sự cáo chung của chủ nghĩa giáo điều tập đoàn bè phái đảng trị chuyên chế đã xụp đổ ở Đông Âu. Cái chủ nghĩa khô cứng phi nhân tính, mà chắc chắn Marx phủ nhận, mang thảm họa cho nhân loại với Staline tàn bạo, với Pol Pot điên rồ giết hại dân tộc của chính mình, với Mao Trạch Đông thần thánh hóa hung bạo của phong trào “quyển sách đỏ”. Karl Marx không phải là Marx của chủ nghĩa đó. Karl Marx là nền tảng triết lý đưa chúng ta nhìn ra cái “hố thẳm của xã hội con người” (cf. Michel Henry, triết gia người Pháp). J.Derrida nói lên những bóng ma, những bóng ma mà theo Marx nằm ngay cả trong xã hội dân chủ tư bản: bóng ma của đồng tiền, bóng ma của hàng hóa thị trường, bóng ma của những nhu cầu nhân gian càng ngày càng lớn phủ đầy xã hội tư bản và làm điên đảo lịch sử.


Karl Marx (1818-1883) đã không sống để thấy cái hưng thịnh của xã hội tư bản, cùng những thành tựu hầu như bất tận của khoa học kỹ thuật. Chắc chắn K.Marx có những nhận định lỗi thời về xã hội và thế giới – sự đấu tranh giai cấp trong bối cảnh kinh tế hiện tại không còn là động cơ lịch sử. Nhưng J.Derrida nhấn mạnh, tinh thần của Marx –“cái hồn ma triết lý”- vẫn ở bên chúng ta để cùng biết triệt để giải cấu hay phản biện. Đi theo bóng của K.Marx, ta luôn luôn có ý niệm hiển nhiên, mọi sự đều mang sẵn mầm ung độc, tha hóa và suy đồi, không bao giờ có sự cáo chung của lịch sử, con ma cách mạng tuyệt nhiên ẩn chìm đâu đó sẵn sàng đột phát giải tỏa những mâu thuẫn của thực tại (cơn xoay lốc của Hegel trong phạm trù của khái niệm và biện chứng pháp). Và ta nên ghi nhớ rằng K.Marx không ngừng tuyên dương tinh thần khoa học của khoa học, can đảm phản biện đến tận cùng, không dùng những sáo ngữ nhàm chán, những mặt nạ, những bóng che vĩ nhân giấy bồi, để che đậy những sai lầm, những phản bội, những mâu thuẫn, đẩy tất cả vào tủ kín đồ thải dù vẫn biết rằng những tội lỗi, những phản bội, những tội ác sẽ không tan biến, rồi sẽ trở về cho sự diệt vong (lịch sử) của chính mình và của bè đảng mình.
 
J.Derrida xác định phải là một tín đồ của một Phúc âm mới, che dấu một siêu hình học thần bí Do-Thái-Cơ-Đốc đạo kín nào để tin rằng trong thế kỷ thứ 21 này, thế giới sẽ hòa đồng đi tới xã hội tư bản toàn thịnh, hội nhập tự do kinh tế toàn cầu, chia chung một dân chủ chủ nghĩa, một nhân bản chủ nghĩa khoa học kỹ thuật máy móc cơ giới.. Đó là sự mù quáng phủ nhận “những bóng ma của Marx” và điên loạn chìm trong những áp chế của tiềm thức, không nhìn nhận ra sự tao loạn của lịch sử hiện tại (“Chủ nghĩa khủng bố” . Chiến tranh tôn giáo. Nhà nước Do Thái ở Palestine và Đế quốc kỳ thị chủng tộc…) Phải làm sao, có thể nghĩ rằng chúng ta tới sự cáo chung của lịch sử, tới thời con người chung cục với những nhu cầu tăng tiến và đồng đều thỏa mãn?


J.Derrida nghĩ rằng cuộc hội thảo tháng 4 năm 1993 đúng ra phải có đề tài: “Thế giới đi về đâu?” , “Nhân loại đi về đâu?”. Thế giới đang đi tới thời xao động, cục diện địa lý đổi thay, xác nhận lại thế nào là nhân quyền và thế nào là chính nghĩa. Hay là chúng ta tất cả cùng đi vào thế giới hư vô của những người Anh Cả (the Big Brothers), đầu óc máy móc điện tử nắm trong tay hệ thống tuyên truyền thông tin đại chúng chỉ đạo từng giây từng phút tư duy của mỗi người. Đặt câu hỏi và suy luận, cũng là trở về suy ngẫm trên gia tài mà chúng ta thừa kế từ Karl Marx: những bóng ma của Marx! Vấn đề không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa Marxit, mà là bây giờ hơn bao giờ hết trước sự phá sản của giáo điều chính trị mệnh danh Marxit, những triết gia, những nhà nghiên cứu học giả phải đọc lại Marx, đúng theo ý niệm praxis của Marx , giải cấu với ngôn ngữ thích ứng với thời hiện đại…”Triết gia tìm hiểu xã hội, vấn đề chính yếu cũng là vạch ra những lệch lạc bất tất của xã hội xung quanh…Thuốc phiện làm ngu muội người dân, chính là những giáo điều khô cứng, đường lối chinh trị độc tài phiến diện một chiều”
 
Tháng 3/2012

N.V.T.
__________


[*] Bài thảo luận của J.Derrida :Spectres de Marx, Nhà xuât bản Chinh Trị Quốc Gia, Tổng Cục II Bộ Quốc Phòng-Việt Nam đã phát hành bản dịch ra tiếng Việt, năm 1994. Tiện dịp, cũng có những cuộc hội thảo (của Đảng Cộng sản Việt Nam) dưới nhan đề: Chống diễn biến hòa binh!, tiếp thu từ J.Derrida duy nhất một câu: “Không có tương lai nếu không có Marx, không có di sản của Marx” .


Bài tản văn trên côt yếu trích lược từ bài tản văn “Những bóng ma của Marx” ký tên Cao Tôn đã đưa lên mạng Talawas.org vào năm 2005.


Bài tản văn này mong có phần II, tương đối trường quy hơn, chủ trương nêu được rõ thêm nên tìm hiểu Marx sao trong hiện thành lịch sử xã hội hiện tại.


Những bóng ma của Marx II
http://www.gio-o.com/NgoVanTao/NgoVanTaoBongMaMarx.htm


Trong năm 2011, nhật báo thời sự văn học và chính trị Le Monde (Paris-France) xuât bản đặc san “Hors Série-Le Monde: Karl Marx”. Tuy chỉ là một đặc san hơn một trăm trang giấy, nhưng xác định một cái nhìn tổng quát và rât hiện đại, lược trình cuộc đời của Karl Marx (1818-1883), trích lược nguyên văn những ý tưởng cốt yếu duy vật khoa học lịch sử biện chứng và chủ động cách mạng xã hội cộng sản của K.Marx. Đặc biệt nhất cùng với những lời phản biện và thảo luận của Jean Jaurès (1859-1914), lãnh tụ công đoàn và đảng xã hội Pháp (parti socialiste), của François Holland, ứng cử viên sáng giá của đảng xã hội cho cuộc bầu cử tổng thống Pháp năm 2012, cùng những lời bàn của nhiều tư tưởng, triết gia nhân văn xã hội như Louis Althuser (1918-1990), Jacques Derrida (1930-2004), Cornelius Castoriadis (1922-1997)……Những tư tưởng, triết gia đã chìm đắm trong những xã luận của Marx, nhưng phản biện thích ứng sao trong sự hiện thành lịch sử thế giới hiện đại.

Bài tản mạn dưới đây của tôi là những lời riêng tư “thông diễn giải” qua đặc san này.

“Lao động vô sản thế giới hãy đoàn kết!”. Cho một cuộc cách mạng không biên giới, phá vỡ ách thống trị tàn bạo hút máu của thực dân tư bản thuộc địa, đập tan chế độ tư bản tha hóa sức lao động của con người. Thanh niên vô sản lao động mồ hôi nước mắt, đặc biệt như ở Việt Nam còn lầm than nhục nhằn với thực dân đế quốc Pháp, tất nhiên rung động trước lời kêu gọi đó, lời kêu gọi của Đệ Tam Quốc Tế (đảng cộng sản quốc tế chủ nghĩa Marxit-Leninit-Stalinit circa 1917-1950), của những đảng cộng sản thế giới. Lời kêu gọi với lời hứa hẹn một ngày mai sán lạng, ngày mai của xã hội cộng sản, “không một ai bị trói buộc lao động, mọi người đều hoạt động đóng góp sản xuât theo sở thích; xã hội sẽ tự động phân phối sự thu hoặc của mọi người để cho ta mỗi người có thể hôm nay làm việc này ngày mai làm việc khác, đi săn buổi sáng, đi câu buổi trưa, chăn nuôi buổi chiều, tối về sau bữa cơm nhàn rỗi ngồi bàn luận chuyện trời đất, không một ai bắt buộc phải làm thợ săn, ngư dân, mục đồng hay nhà văn cạo giấy.” (K.Marx – (Tư tưởng lý thuyết của dân Đức) Idéologie Allemande , Edit. Gallimard 1994, page 318-321)

Lời kêu gọi cùng cái ngày mai sán lạng không tưởng đó vang vọng đến từ K.Marx, tư tưởng gia của Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản Đảng ( với Engels là tác giả bản Tuyên ngôn “Le manifeste du communisme – Marx & Engels, 1848” ). Để chứng thực cho cuộc cách mạng hoàn vũ cộng sản chủ nghĩa tương lai, K.Marx tận tụy cả đời tìm đặt ra lý thuyết cơ bản xã hội và nhân sinh dẫn dắt tầng lớp lao động vô sản của thế giới tranh đấu thoát khỏi hố thẳm đen tối của chế độ chính trị kinh tế tư bản.

K.Marx trước hết là triết gia, đã từng là “thanh niên Hegel-ian” (Les jeunes Hegeliens), theo lý thuyết khoa học biện chứng của Hegel nhưng không chấp nhận khía cạnh duy tâm trong tư tưởng của Hegel, trọng thị sự hiện thành của con người với lý tính siêu thoát, có tôn giáo, có hoài bão nghệ thuật. Quan niệm nhân sinh của K.Marx chủ yếu là duy vật. Con người có tư duy, bản chất trước hết là con người của xã hội, của đời sống cộng đồng. Sự hiện thành của con người là hiện thành trong điều kiện vật chất, lao động để giải đáp những nhu cầu vật chất sinh lý tồn tại, hiện thành trong khuôn khổ tập quán và hệ thống trật tự của xã hội mình. Chính tôn giáo thịnh hành cũng chỉ là một hệ thống điều chỉnh nếp sống của mọi người, cho ta cái cảm giác bình đẳng thân ái trong xã hội (ai ai cũng là con chiên trước Thượng Đế). Tuy nhiên, xã hội của con người luôn luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn, những lệch lạc bất tất, người hại người, người bóc lột người. Nên K.Marx nói lên tiêu chỉ nổi tiếng: “triết gia xưa nay chỉ lo diễn giải thế giới, nhưng vấn đề của chúng ta là phải luôn luôn cải thiện xã hội mình”.

Chính tiêu chỉ này đã ám ảnh nhiều nghệ sĩ và tư tưởng gia thế giới vào nửa đầu thế kỷ thứ hai mươi khi theo K.Marx còn tin tưởng ở lý thuyết có sức lôi cuốn mang công lý tới cho xã hội. K.Marx, trong thời ông, vào nửa cuối thế kỷ thứ mười chín, thì nhận ra chế độ tư bản, phát triển kỹ nghệ, tiềm ẩn lệch lạc, tha hóa bản chất con người. Lý thuyết của K.Marx là vạch ra ở những xí nghiệp lan tràn, người công nhân chỉ còn là một phần trong hệ thống cơ giới sản xuất, sự lao động của họ bị tha hóa mất bản chất nhân tính ( tư liệu sản suất có lợi gì trực tiếp cho bản thân, cho người quen?), chỉ còn là một động cơ với giá trị thương mại, thực tại vật chất mang lại lợi nhuận (la plus-value) cho chủ xí nghiệp. 
Và ngay cả những người tư bản, những ông chủ của cơ sở sản xuất, cũng tha hóa, họ cốt yếu bận tâm duy nhất một điều là tìm lợi nhuận, sản xuất thật nhiều hàng hóa để tung bán ra trong thị trường. Một chế độ tha hóa con người, tiềm ẩn mâu thuẫn giữa công nhân và tư bản, mâu thuẫn ngay trong nội bộ tầng lớp tư bản đưa đến phá giá thị trường với sự sản xuất tham lam quá độ. Chế độ tư bản rồi đây bắt buộc phải suy thoái. Giai cấp công nhân vô sản càng ngày càng đông, càng bị bóc lột sẽ là sức mạnh để cách mạng cải tổ cái chế độ xã hội hủ lậu này. Giai cấp công nhân vô sản lớn mạnh sẽ đứng lên, công cộng hóa mọi cơ sở sản xuất, tổ chức lại xã hội sao cho chúng ta tới ước mơ lãng mạn, “một xã hội mà mọi người sẽ lao động đóng góp tùy theo bản năng, tiếp thu đầy đủ cho nhu cầu vật chất tất yếu của mình”.

Đệ nhất quốc tế cộng sản đảng, mà Marx-Engels viết bản tuyên ngôn, chính là đảng muốn cùng giai cấp lao động vô sản đảm nhận sứ mạng. Một cuộc cách mạng với sự hiện thành của giai cấp lao động vô sản đa số trong quần chúng và chính tầng lớp tư bản tự nó cùng chế độ của họ tiềm ẩn sự suy thoái. Tuy nhiên, K.Marx thừa biết sự lệch lạc bất tất trong đời sống, nên K.Marx nhắc nhở praxis, hành động và trưởng thành thực tiễn mà chúng ta phải có trong cách mạng để thích ứng với hiện tượng xã hội tức thời. K.Marx nhân đó cũng biết khó mà có thể quy định xã hội cộng sản tổ chức sao để cho chúng ta đạt tới ước mơ lãng mạn.
 Tổ chức sao cái xã hội cộng sản của ngày mai? K. Marx chỉ có thể mơ hồ nuối tiếc và nhắc tới Công Xã Paris (1871), cách mạng tồn tại không đầy hai tháng mà bị tiêu diệt ngay trong máu lửa, “một công xã có hội đồng nhân dân, được toàn dân chọn lọc nhưng có thể bị quần chúng sa thải, để tổ chức công xã, vừa lập pháp và vừa hành chính…Chức vụ công an là chức vụ phi chính trị, trách nhiệm duy nhất trước hội đồng nhân dân…
Tât cả những ai trong hội đồng hay được trao trách nhiệm hành chính nào sẽ được chọn lọc hữu hạn với lương bổng như một công nhân lao động…K.Marx thừa biết con đường chính trị cách mạng cộng sản không là con đường cái được vạch rõ ra cho xã hội. Hàng ngàn trang sách của K.Marx, xã hội học, kinh tế học, nhân sinh lý thuyết, cốt yếu là những trang chính trị đấu tranh, với những quy định hữu hạn (theo thuyết duy tâm của Hegel!!), tự nó có mâu thuẫn, có giá trị chỉ tức thời, không tránh được những kẻ khác thi nhau diễn giải với những lập trường đối nghịch, phản bội ngay cả chính ông; K.Marx đã từng thổ lộ với Engels một câu nổi tiếng: “họ thi nhau bình luận; nhưng tôi biết tôi không là marxit “ (không phải là marxit trong sự diễn giải lý thuyết của mọi người- nvt).

Có lời đàm luận nguyên văn sau đây của triết gia Cornelius Castoriadus (1922-1997), năm 1975 trong đêm cùng phá sản của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản Marxit-Leninit-Stalinit (với sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa ở những nước Đông Âu):


“Chúng ta đang sống đây, sau bình minh hứa hẹn để tới ngày chỉ đầy khó khăn nghi vấn! Những công đoàn ( của giai cấp công nhân vô sản) khắp nơi trên thế giới trở nên hành chánh quan liêu (bureaucratisé) không một chút gì triển vọng đóng góp cho xã hội của con người ngày mai…Một hành chánh quan liêu ngay ở những nước mệnh danh xã hội chủ nghĩa Maxit-Leninit, mang chủ nghĩa Marxit ra làm bình phong cho những chính thể “giáo điều vụ giai cấp lao động trên giấy tờ” nhưng thật sự tàn bạo ức hiếp và sự tha hóa con người vẫn nguyên đó…Chủ nghĩa xã hội Marxit đã chết rồi, như một động cơ chính trị xã hội không còn ý nghĩa gì bởi quá nhiều lý lẽ”.

“Tôi không là marxit!”, lời nói đó của K.Marx như tiên đoán lý thuyết của ông sẽ tha hóa trong giòng lịch sử. Theo C.Castoriadus, sự tha hóa tai hại nhất chính là các tư tưởng gia chính quy cộng sản (những đảng viên) chỉ biết nghĩ theo K.Marx một cách giáo điều sơ cứng “biện chứng duy vật lịch sử”, từ cái nhìn phản biện chế độ tư bản xưa của K.Marx đưa ra quan niệm sơ đồ chính trị, kinh tế lịch sử như một hiện tượng khoa học vật chất trong sự hiện thành của nó, phát triển theo những quy luật kỹ thuật khách quan.

Chính quan niệm này coi như là tuyệt đối chính xác, đưa đến sự hiện thành một đội ngũ lãnh đạo quan liêu, tự nhận mình là chuyên gia bác học chính trị kinh tế xã hội, thực hành những quy luật của xã hội, những quy luật tât yếu và duy nhất ôm mang chính nghĩa và lẽ phải.. Một đội ngũ tự đại, tự kiêu, không còn nhân tính, phủ nhận sự hữu hạn của chính mình, chính mình trong cái phận làm người. Một đội ngũ không chấp nhận có thể nhầm lẫn, trở nên giả dối, giả dối với cả chính mình; chỉ biết giáo điều không chấp nhận phản biện, trở nên độc tài tàn bạo (Staline, Pol Pot, “phong trào quyển sách đỏ của Mao Trạch Đông”, “thảm họa cải cách ruộng đất và vụ án nhân văn giai phẩm ở Việt Nam” ).

Những hiện tượng lệch lạc bất tất đó, chính nó đã làm xã hội chủ nghĩa Đông Âu xụp đổ, xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và ở Việt Nam phải thay hình đổi dạng, đổi mới nền kinh tế lạc hậu sơ cứng “bao cấp xã hội chủ nghĩa’’ ( phủ nhận sự tự do tối thiểu của con người, điều hòa nhu cầu và tư liệu vật chất như mang nải chuối ra chợ bán, mang áo cũ ra mời mua) và gia nhập nền kinh tế thị trường tự do tư bản, nhưng tiếc rằng dưới sự quản trị của tập đoàn xã hội quan cũ bè phái hỏa đầu.

Sư thật là “biện chứng pháp duy vật khoa học lịch sử” của K.Marx, tự nó không có ý nghĩa! Lịch sử chuyển biến không phải hoàn toàn qua những đòi hỏi kinh tế, qua những mâu thuẫn đấu tranh quyền lợi vật chất. Nó cũng là sự chuyển biến qua những lệch lạc bất tất duy tâm, lý tính của con người, chiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ ảo vọng tàn bạo dã man của tập đoàn phát xit Hitler, sự xung đột ở Trung Đông hiện nay bắt nguồn một phần từ chủ nghĩa toàn thống Do Thái (le fondamentalisme juif)….


Xã luận đấu tranh chính trị của K.Marx, lý thuyết khoa học duy vật biện chứng Marxit, đã viết ra trong tình trạng xã hội kinh tế của Âu Châu, với sự triển khai kỹ nghệ hóa ở nửa cuối thế kỷ thứ 19. Hơn một thế kỷ sau, tình trạng hoàn toàn thay đổi, kinh tế đột phá với khoa học kỹ thuật ngoài sự tiên đoán của K.Marx. Ở Âu Mỹ, những nước tiền phong kỹ thuật, giai cấp lao động cũng theo đà trở nên trung lưu tiểu tư sản (bourgeois!). Không còn lao động dây chuyền mồ hôi nước mắt mà là công nhân kỹ thuật, là nhân viên dịch vụ, trọng thị quyền tư hữu (the american dream!), như là bản chất ngàn xưa của con người. Trọng thị sự tự do sáng tạo của mỗi người, dù có thể chỉ trong cái thế giới hiện sinh nhỏ bé của riêng mình, cái tự do sáng tạo ngoài ra chính là động cơ cho sự đột phá khoa học và kỹ thuật. Ở những nước tiền phong đó, tư bản chủ nghĩa trở nên là lẽ sống, Ai cũng có sổ tiết kiệm, quỹ hưu bổng đầu tư trong chứng khoán của những công ty kỹ nghệ hay tài chính. Giai cấp vô sản, trong cái nghĩa Marxit, không còn là tập thể cốt yếu, nếu có, trong xã hội. Hiện tượng đấu tranh giai cấp không còn có trong xã hội.


Lịch sử không bao giờ vào chung cục! Luôn luôn có những xung đột ngay trong tình trạng vĩ mô giữa người và người, bè phái tài phiệt nhũng loạn thế giới, tham ô chức quyền (những lãnh tụ độc tài tàn bạo) đưa đến nội loạn quốc gia, những lệch lạc bất tất nhân sinh của bản chất làm người trong xã hội..…Hội đồng quốc tế (Organisation des Nations Unies) là một tiến bộ văn minh, nhưng không sao xóa bỏ được sự chênh lệch giữa nước giàu và nghèo (những nước nghèo vẫn là hậu cần để đóng góp tài nguyên, lao động hạ tầng). Hơn nữa văn minh dân chủ tự do thương mại và tài chính kỹ thuật đến đâu vẫn tiềm tàng mâu thuẫn, như sự khống chế của tập đoàn tài phiệt do thái, sự thành lập nước do thái Israel cùng chủ nghĩa toàn thống do thái, gián tiếp làm bàn đạp để tuy trì mỏ dầu ở Trung Đông, hợp với quyền lợi của những công ty tư bản Âu Mỹ.
 Sự hưng thịnh bá quyền đó bắt buộc phải mang đến sự phản kháng, chủ nghĩa khủng bố với chủ nghĩa toàn thống hồi giáo (le terrorisme et le fondamentalisme musulman). Sự phản kháng nhất định phải có, như Marx có thể nhận định qua lý thuyết biện chứng pháp. Cũng như sự hưng thịnh giàu sang tư liệu vât chất càng ngày càng phải tăng tiến (la surproduction commerciale) với sự đột phá không ngừng của khoa học và kỹ thuật, mang theo nguy cơ thảm họa môi trường (cùng những trái bom nguyên tử, trong nghĩa bóng và nghĩa đen lủng lẳng trên đầu nhân loại), mang đến những thiên tai ngoài tầm dự đoán. Tất cả rồi đây sẽ tan hoang, đưa nhân loại trở về thời tiền sử chăng?


Lý thuyết Marxit, xã hội học và kinh tế luận, không còn ý nghĩa tức thời. Thật ra càng ngày chúng ta càng nhận ra sự hữu hạn của mọi lý thuyết nhân sinh xã hội; “hậu hiện đại” và “hiện tượng học” là tư duy của thời hiện đại, không chấp nhận “đại ngôn tự sự lý thuyết” (la fin des grands récits théoriques). Nhưng giấc mơ lãng mạn của Marx vẫn còn đó; dù cái xã hội hoàn mỹ “mọi người đóng góp theo bản năng và đồng đều hưởng thụ” chỉ là một viễn cảnh không bao giờ tới.

Xã hội chủ nghĩa Marxit đã viết lên những trang sử, một thời hăng say lãng mạn một thời tàn bạo đen tối đẫm máu, và dưới một hình thức mơ hồ nào đó còn là giáo điều ý thức hệ của hai ba quốc gia trên thế giới, nên vẫn phải là một lý thuyết cần diễn giải hay đúng hơn giải cấu (J.Derrida), Đặc biệt nhất, K.Marx là nhân vật điển hình, triết gia tận tụi cả đời tìm những lý lẽ để tranh đấu cải thiện xã hội. Hoàn thiện xã hội để không một tập đoàn tham ô nào lợi dụng người dân, để trong xã hội giá trị con người là chính, sự bình đằng và sự tương hữu xã hội trong cộng đồng nhân loại là cứu cánh. K.Marx sẽ luôn luôn là thần tượng nhắc nhở nhân loại phải hòa đồng, chung sức cho loài người vượt qua những thảm họa thiên tai (sự phá hoại môi trường), những lệch lạc bất tất của lịch sử ( nguy cơ lệch lạc chính trị đưa đến nghèo nàn đói khát, nguy cơ chiến tranh với những sự mù quáng bá quyền).


Tháng 4/2012

Ngô Văn Tao

ttp://www.gio-o.com/NgoVanTao.html

Thursday, September 18, 2014

KÍNH HÒA * CHỦ NGHĨA MARX

Phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam hiện nay

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-08-18
000_Hkg2678165.jpg
Công nhân đô thị chăm sóc công viên Lê Nin ở Hà Nội.
AFP photo


Một trong những khía cạnh mà những người tham dự hội thảo nhan đề “Thoát Trung” ở Hà Nội vừa qua đề cập tới là chủ nghĩa cộng sản, cũng như những biến thái của nó là chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao. Mặc dù trong hội thảo này, tranh luận về văn hóa được đưa lên hàng đầu nhưng không tránh khỏi những bàn luận về chính trị xoay quanh ba thứ chủ nghĩa vừa nêu.
Điều trớ trêu là ngay giữa lòng Hà Nội, dưới câu khẩu hiểu ca tụng chủ nghĩa cộng sản và các nhà lý luận của nó như Marx, Engels, Lenin, người ta công khai thách thức tính đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản.

Sự thách thức chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam có lịch sử dài lâu chứ không phải mới đây, từ những ngày đầu tiên chủ nghĩa này bám rễ vào Việt Nam. Sự thách thức đó vẫn tồn tại trong lúc chủ nghĩa này lên đến đỉnh điểm hùng mạnh nhất. Và khi hệ thống cộng sản đổ vỡ khắp nơi, cộng với bùng nổ của công nghệ thông tin thì sự thách thức đó ngày càng lớn.
Một trong những người thách thức chủ nghĩa cộng sản ngay trước khi đảng cộng sản chấp nhận nền kinh tế thị trường là tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người học hành và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản. Trước cuộc hội thảo ở Hà Nội trong tháng tám này, cũng có một cuộc hội thảo khác tương tự, ông Hà Sĩ Phu nói với chúng tôi sau cuộc hội thảo ấy rằng vấn đề chung của cả hai dân tộc Việt và Hoa là chủ nghĩa cộng sản.

Năm 2013 chủ nghĩa cộng sản chứng kiến một thách thức lớn là 72 nhân sĩ trí thức gửi kiến nghị đòi bỏ điều bốn trong Hiến pháp quốc gia về sự độc tôn của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.
Tháng bảy 2014 đến lượt 61 đảng viên hiện vẫn còn sinh hoạt đảng kiến nghị kêu gọi từ bỏ chế độ toàn trị.
Cũng trong tháng bảy 2014, luật sư Nguyễn Đăng Trừng tại Sài Gòn bị khai trừ ra khỏi đảng. Lý do được nhiều người nói đến chính là việc luật sư Trừng không đồng ý sự can thiệp quá nhiều của đảng bộ TP HCM vào công việc của đòan luật sư Thành phố HCM.

Con đường đến Việt Nam của CNCS
Chủ nghĩa cộng sản đến Việt Nam với lý do làm phương tiện cho việc đòi độc lập. Lý do lớn này làm cho ngay chính những đảng viên cộng sản không coi trọng phương diện ý thức hệ của nó bằng những vấn đề thực tế. Ông Trần Đức Nguyên, từng là thư ký của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nới với chúng tôi sau khi ký tên vào bản kiến nghị 61:
Cái việc mà đưa ra yêu cầu sửa đổi chế độ toàn trị thì đã nói từ thời kiến nghị 72 rồi. Sau đó có những ý kiến đã nói rõ là đất nước phải chuyển từ chế độ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Và như thế là không đụng đến những vấn đề về chữ nghĩa. Cái đó là cái thực trạng thì cần phải thay đổi.
Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.
- Nhà văn Thùy Linh
Trên con đường đến Việt Nam nói riêng và đến châu Á nói chung chủ nghĩa cộng sản đã gặp phải một thực trạng mà nhiều người cho là thuận lợi để phát triển, đó chính là khía cạnh chuyên chế của ý tưởng xã hội Khổng Giáo.  Nhà văn Thùy Linh, từ Hà Nội nói với Mặc Lâm của đài RFA, sau hội thảo “Thoát Trung” trong tháng tám:
Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.”
 
Phản hồi của ĐCS và ảnh hưởng của sự thách thức
Sau khi kiến nghị 72 ra đời hồi năm 2013, đảng cộng sản im lặng một thời gian rồi lên tiếng chỉ trích những người đưa kiến nghị 72 là chống lại sự cai trị của đảng. Hiến pháp Việt nam sửa đổi 2013 vẫn duy trì đảng cộng sản và ý thức hệ của nó ở vị trí độc tôn.
Sau khi ký kiến nghị 61, Giáo sư Tương lai nói rằng ông chờ đợi sự phản hồi của đảng. Từ đó đến thời điểm chúng tôi hoàn thành bài viết này thời gian đã hơn một tháng, người ta chưa thấy truyền thông của đảng cộng sản lên tiếng. Còn ông Hà Sĩ Phu thì nói rằng đảng cộng sản cũng sẽ bỏ ngoài tai kiến nghị 61:
Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào. Bởi vì cái lập trường của đảng thì quá rõ rồi, vì đối với đảng cộng sản chân lý là vô nghĩa, lòng tốt là vô nghĩa, đặt trên bàn của họ chỉ là lợi ích.”
Tuy nhiên cũng có người, như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng người theo dõi sát chính trị Việt nam cho rằng mặc dù có thể không được lắng nghe, nhưng những kiến nghị như thế là rất tốt. Nhà văn Phạm Đình Trọng thì hy vọng tác động của kiến nghị 61 đến các đảng viên của chính đảng cộng sản:
Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào.
- TS. Hà Sĩ Phu
Cái kiến nghị này là văn bản chính thức của một số đảng viên, họ đã dứt khoát lên tiếng đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa cộng sản. Đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx tức là cái lõi lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Đây là một tiếng nói rất rõ ràng. Còn lại là những người kiếm lợi từ chủ nghĩa cộng sản, những người bất tài, kém cỏi, và nhờ có chủ nghĩa cộng sản họ mới có vị trí như thế, thì họ sẽ cố duy trì, nhưng đây là một đợt tấn công mạnh mẽ vào cái thành trì bảo thủ ấy.”
Những lời phát biểu này thể hiện rằng sự thách thức chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam theo năm tháng đã chuyển từ sự thách thức trên phương diện ý thức hệ sang sự thách thức về quyền lực và quyền lợi không còn mang màu ý thức hệ nữa. Chỉ trích ý thức hệ vẫn có thể diễn ra một cách công khai khi mà nó chưa xuống đường để đụng chạm tới quyền lợi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều này được thấy rõ trong một tương quan so sánh sau đây: chỉ sau hội thảo “Thoát Trung” vài ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với lực lượng công an đã nhắc đến thế lực thù địch và sự chuyển hóa chính trị nguy hiểm cho chế độ. Tuy nhiên trước đó, trong hội trường diễn ra hội thảo “Thoát Trung” nhiều người nêu lên sự không đúng đắn của chủ nghĩa Marx ngay dưới chân dung ông.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/critic-communism-in-vn-today-kh-08182014135919.html

Wednesday, September 17, 2014

NGUYỄN ANH THI * ĐI DU HỌC

 
Ước gì con không phải đi du học!!! 

Tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất tiễn con đi Mỹ du học vào năm ngoái mà lòng nặng trĩu nỗi buồn. Sân bay đông nghẹt. Nhìn những em bé chỉ 15, 16 tuổi như con tôi một mình đẩy hành lý vào làm thủ tục ở sân bay mà rớt nước mắt.

Chuyến bay kéo dài 24 giờ đồng hồ, bao gồm cả transit ở Nhật Bản. Gia đình tôi chỉ còn biết cầu trời khấn Phật để mong bình an. Và tôi cũng như biết bao gia đình phải chờ đợi một năm học thì con mới về nghỉ hè. Không có gì có thể tả hết nỗi khổ của những người làm cha mẹ xa con. Cũng không có gì có thể nói hết về sự gian nan vất vả khi cha mẹ lao động cực nhọc kiếm tiền học phí cho con đi du học. Bởi cho một đứa con đi học xa nhà cần cả một tinh thần thép và một khả năng tài chính đủ mạnh. Cũng như chính đứa bé đó muốn thành công cũng phải vượt qua những thách thức không dễ dàng ở nơi chúng chưa bao giờ biết đến, trong môi trường học tập và cạnh tranh quốc tế. 


image
Note: hình trong bài viết này là minh họa


Nhưng vì sao gia đình tôi và biết bao gia đình khác đã lựa chọn con đường này? Có lẽ vì chúng tôi muốn thoát ra khỏi nỗi lo lắng và buồn bực đã nặng trĩu trong lòng nhiều năm qua.

Nếu ta cùng ra đường buổi sáng, buổi trưa và chiều ở TP HCM, có thể thấy cảnh từng gia đình đang gồng gánh chở con đi học. Con tôi cũng đã từng như vậy. Những đứa bé kể từ lớp 1 đã phải dậy rất sớm, độ 5h30-6h. Sau đó, chúng phải ăn vội vàng một gói xôi hay một gói bánh mì sau lưng cha mẹ. Người cha hay người mẹ vừa luồn lách giữa đám đông nghẹt khói bụi, vừa thúc con ăn cho mau. Con đến trường tất bật và sau đó bắt đầu một ngày học ba ca. Cả sáng, chiều và tối, từ học chính khóa đến học thêm nếm. Giờ làm việc của một đứa bé thành ra từ 6h sáng đến 10h đêm. Không biết đến thể dục, thể thao, không có hoạt động xã hội nào ngoài học và học. Và các bữa ăn của các cháu hầu như là ở ngoài đường hay ở trường học mà hầu hết có thể thấy là thiếu cân bằng dinh dưỡng.

Tất cả như một guồng quay rất đều và rất tệ. Nếu không ở trong guồng này, các cháu sẽ văng ra ngoài và không thể theo kịp cách dạy, cách học của trường lớp ngày nay. Không chỉ các cháu mà chính tôi cũng sợ hãi guồng quay này. Và hàng chục năm qua, ngày nào tôi cũng tự hỏi khi nào thì nó kết thúc? Nó chỉ có thể kết thúc khi tôi đủ khả năng cho con đi du học và con tôi có học bổng.
Nào ta hãy cùng đọc báo mỗi sáng. Hầu như tháng nào, thậm chí chỉ cách nhau vài ngày lại thấy một sáng kiến, một thay đổi không lớn thì cũng cỡ vừa ảnh hưởng đến mọi cấp học từ Bộ Giáo dục hay Sở Giáo dục địa phương. Kế đó, nhà trường và thày cô lại triệu hồi cha mẹ tới để phổ biến về những thay đổi. Còn cha mẹ và con cái thì nỗ lực xoay như chong chóng quanh những thay đổi đó. Mỗi thay đổi đều kèm theo tiền bạc, thời gian và công sức. Đến nỗi khi mỗi đứa con tôi qua từng cấp học, chúng tôi chỉ còn biết cầu mong làm sao để giữa lúc nước sôi lửa bỏng để cạnh tranh vào học một trường tốt hơn thì không xảy ra thay đổi gì khiến cả con lẫn cha mẹ đều trở tay không kịp.

image 



Bởi những thay đổi này làm gì có kế hoạch, có tiến trình gì cụ thể, dường như hứng lên là có một sáng kiến mới. Những chuyện vô lý này chỉ không còn là nỗi lo sợ với gia đình tôi khi con tôi đi du học mà thôi.
Cùng sống và trò chuyện với con thường xuyên, tôi có thể cảm thấy một nỗi buồn khi thấy dường như đánh mất sự trong trẻo của trẻ con bởi những gì chúng đang phải tiếp xúc hằng ngày. Vào ngày lễ, nếu tôi chưa kịp mua quà bánh mang tới biếu cô giáo, cháu rất lo lắng. Cháu nói ở trường các bạn đều mang quà cho cô mà sao mẹ chưa mua. Nếu bị điểm xấu đầu năm, cháu cũng tâm sự rằng các bạn nói thày cô đang “đánh điểm xuống”. Chỉ cần đánh xuống vài điểm nữa là hết tháng 9 hay cùng lắm tháng 10, cả lớp sẽ phải đi học thêm. Nếu không thì không tài nào có điểm tốt. Con tôi cũng nói ở lớp có cha mẹ một số bạn là Mạnh Thường Quân, vì vậy nên cô cũng có những ưu tiên nhất định cho các bạn hơn là những đứa bình thường…

image



Và mỗi kỳ họp phụ huynh chỉ còn là dịp để đóng tiền hội phí ngất ngưởng. Hóa ra những chuyện tiêu cực ở trường học đã biến những đứa bé thành lọc lõi và tìm ra cách đề phòng để sống sót. Và điều này chỉ thực sự chấm dứt khi con tôi đi du học mà thôi.
Vậy rút cuộc, chúng tôi phải cho con đi du học để làm gì? Chỉ để con cái chúng tôi thực sự được là một đứa trẻ con và học hành trong môi trường công bằng và cởi mở, được sinh hoạt xã hội và phát huy năng khiếu thực sự, trong sự ổn định của chiến lược giáo dục cũng như sự chăm sóc tử tế của thày cô giáo. Đó là nền tảng quan trọng nhất cho những đứa bé trở thành người hữu ích mai này.
Trong suốt một năm con tôi ở Mỹ, lần đầu tiên tôi cảm thấy cháu là trẻ con. Ngày nào cháu cũng có một giờ tập thể thao và một giờ học nghệ thuật. Ngoài giờ học, trường có rất nhiều câu lạc bộ thú vị cho các cháu tham gia vui chơi, từ diễn kịch, ca hát, tham gia mọi môn thể thao, làm robot cho đến ẩm thực… Cháu được dạy rất nhiều kỹ năng sống, từ tập luyện để trong mọi thời tiết để nâng cao sức khỏe, sơ cấp cứu, dạy chi tiêu và quản lý tài chính cá nhân đến kỹ năng lãnh đạo và làm việc nhóm…




Suốt một năm, dưới sự quản lý của trường, cháu đi ngủ đúng giờ và không hề chơi game hay vào các website không phù hợp. Thay vì học 13-14 môn học, các cháu chỉ học 4-5 môn trong một năm và học rất chuyên sâu. Vì học nội trú, các thày cô chăm sóc ở bên con tôi từ 6h sáng đến 11h đêm. Còn các thày cô dạy chuyên môn thì sẵn sàng chào đón cháu ở văn phòng riêng khi cần và tận tâm chỉ dạy cháu học hành đến nơi đến chốn. Cháu luôn nói với gia đình là mọi người xung quanh rất tốt và thân thiện, con cảm thấy vui vẻ và thoải mái. Và hết năm, cháu đạt kết quả dẫn đầu khối lớp của mình ở trường.


image

Nếu giáo dục nước nhà ổn định và phát triển thì không gì bằng là con học gần nhà, vừa đỡ tốn kém tiền của gia đình, xã hội mà ít rủi ro. Mỗi gia đình cho con đi du học đều đứng giữa lằn ranh mong manh của hy vọng vào hiệu quả sau du học và những rủi ro có thể xảy ra. Nhưng cuối cùng, họ đành ra quyết định cho con đi như một việc chẳng đặng đừng. Và những quyết định như vậy vẫn còn tiếp diễn, một khi việc dạy và học ở trong nước chưa thoát khỏi mớ bòng bong.

Là một người mẹ, tôi ước gì con tôi không phải đi du học.
Nguyễn Anh Thi

MAI NGUYỄN * ĐÁ NÁT VÀNG PHAI

 

ĐÁ NÁT VÀNG PHAI
Thẹn mình đá nát vàng phai (Kiều)


Giữa năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa ra Bắc, cùng với các thành phần "ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị, Bộ Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy – toàn thứ dữ dằn dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm tàu chở than, nguyên là của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông Hương. Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người nằm rũ liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến được cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang.
 
Nước uống và lương khô được thòng dây xuống, y như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đã xem đâu rồi. Hai ngày sau cập bến Hải Phòng. Xe lửa và molotova bít bùng dàn chào sẵn để rước về các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao Kay... Bạn bè lạc nhau từ đây. Nguyễn đi Hoàng Liên Sơn. Cửa toa đóng kín, khiến hai ông trung tá chết ngộp, xác vứt bên đường. Ngồi xe hơi thì bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc kỳ tốc váy chửi rủa tục tằn, với sự đồng lõa của bọn cán bộ.


Hoàng Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng, lên núi đốn tre, chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử thấy tê buốt – như môi hôn phút chia lìa vội vã. Những đêm lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên đường lao động, Nguyễn gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà bị "gom bi" đầy đủ. Nhìn nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ: "Các anh có mà chạy đằng giời!"



Thỉnh thoảng lên núi Nguyễn và đồng tổ đội gặp một nhóm Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, đang lao động tự giác, không có vệ binh canh giữ. Họ nhìn đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc đầu thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức, lớn giọng:“ĐM, mấy cha làm ăn, đánh đấm thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ?” "Cả lũ" im lặng, xấu hổ, nghe xót xa bởi lời trách móc không sai. Nói thế, nhưng khi thấy bọn Nguyễn lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận tình, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung quốc.


Sức khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lão – còn gọi là đội "sứt cán gãy gọng." Vì còn trẻ và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân, ngày ngày phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, "có chất lượng" giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước tưới rau. Lúc đầu thấy hãi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền để mất đi cảm giác, ý niệm, nhìn nhưng chẳng biết đó là gì nữa. Hết phân bắc đến phân chuồng (trâu bò), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).

 

Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy Cảnh sát già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng Bình, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy” như sau:


“Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng... Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy... Thật là mất dạy hết sức!”,v.v...



Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri, như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi phòng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.



Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, ở chung với tù hình sự, loại "đầu gấu" chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dãy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông thổi kèn mở đường, đàn bà gồng gánh theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như, Nguyễn chỉ còn nhớ, Thảo Trường, Văn Quang và Phan Lạc Phúc.
Có nhị vị cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung tá Đặng Bình Minh, phi đoàn trưởng trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, đeo kính trắng, tôi quên tên. Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, bắt đầu thấm đòn độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để chế ngự ý chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.
Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những thằng Ăng Ten, Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm khổ đồng đội còn hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K, cách nhau trung bình năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài Gòn ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng đường thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp –có đứa chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.
Tại Vĩnh Phú, có anh bạn trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy phòng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:
- Xin cán bộ cho biết quý danh.
Tên nọ không hiểu "quý danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:
- Anh vi phạm lội qui. Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình.

- Giờ lày mà còn ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng...
Còn Nguyễn về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu bò. Nước bùn đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, thò chân xuống thấy ghê rợn – làm chàng nhớ những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới địa ngục mà thi hào Dante phải vượt qua với Virgile, trong La divina Commedia. Ba hôm sau, một số đội viên – có Ðại úy Cảnh sát Phạm Bá Ðiềm, bạn thân từ Sơn La – lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót rụng dần lông chân. Phải mất thêm vài mạng nữa, đội mới có lệnh "giải thể."

Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội Rau Xanh, như hồi ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón kiêm chuyên viên tưới là phi công Air Vietnam Nguyễn Hữu Trí, trung tá biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng hình dáng, nên chàng tin lắm. Chim bằng gãy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải lao ngước nhìn lên cao, uất ức, thở dài.




Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng "bò lục" (tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt –nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều trò vui do tù sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay.
Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói lớn:
- Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?
Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm rãi nói, giọng xúc động:
- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. Còn anh thế nào, có bệnh hoạn gì không? Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.
Nguyễn cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính mình. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi tên một thời yêu thương và thù hận tưởng đã chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời vì ông chợt hiện về nguyên vẹn. Như mới hôm qua...



Sài Gòn, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nhìn từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tròng, những chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng Trịnh Công Sơn hớn hở ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối vòng tay lớn, và chạy tới chạy lui dò la tin tức người thân, bạn bè ai còn ai thoát, tôi tìm được địa chỉ của Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và đạp xe đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia Hưng và Nguyễn Dự, bất ngờ gặp lại trên đường. 
Phu nhân và cô con gái, vì quen mặt hồi ở Ðà Lạt, tiếp tôi không e dè. Ðại tá Quỳnh ra phòng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi săng đan.

 


Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhã, lịch sự cố hữu. Chúng tôi không nói gì nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận dày vò, tự trách đã vụng suy, khí khái hão, không nghe lời cô em tiếp viên đưa gia đình lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, khiến tất cả đành phải ở lại, một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước kia đã chịu ơn ba mẹ tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ tội. Còn Ðại tá Quỳnh, tôi không biết ông đang tiếc gì, nghĩ gì, vì suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:
- Không thể ngờ nhanh như thế!


Ðâu phải một mình ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn Minh, tên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội, và bọn "hàng thần lơ láo" tại dinh Ðộc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một tên trí thức cơ hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở trường Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đã thề thốt ở lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra được hạm đội Mỹ. 
Không thể ngờ nhanh như thế! Tôi chỉ biết gật đầu, đồng ý với ông. Cuối cùng, tôi cất tiếng hỏi:
- Ðại tá có ý định sẽ làm gì ?


Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:
- Tôi chưa biết sẽ phải làm gì. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận những gì tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.




Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua những lời chậm rãi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe quen từ đâu rồi bỗng mang một ý nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ. Những lời đã theo tôi suốt tám năm đày ải, và cùng với hình ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong “Terre des hommes” của Saint-Exupéry học lúc trẻ, đã khích lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục sống còn. Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:
- Có một điều Ðại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao tôi sẽ không bao giờ quên Ðại tá và những gì Ðại tá đã làm cho tất cả chúng tôi.
Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết, đã làm tôi thấy yêu thích và kiêu hãnh với đời quân ngũ bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh  trách nhiệm cao độ –quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù ông có một người con rể là đại tá không quân Mỹ và đủ phương tiện để tẩu thoát một mình như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đã tranh nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống.

 Quả vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan Ðình Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Ðại học CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu và phòng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh nước. Tôi không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi, thật buồn bã của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng:
- Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!

... Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi trình diện "cải tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ quan Ðại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng, chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, tôi mò sang đội của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức. Có cái gì uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm giận còn hơn bị tình phụ. Nhưng không biết tức ai. Lãnh đạo hèn nhát đã cao bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản thì chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu chuyện, chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng thở dài, ngán ngẩm. 
Tôi còn gượng chọc Hoàng:
- Ức Trai hay Ức Gái gì rồi cũng chui vô rọ hết!


Tại Long Giao, lúc ấy, tôi ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân y. Cả tổ, vì tự ái, tự trọng, không ai than vãn về chuyện ăn uống, đói khát trong tù, kể cả sau này khi viết hồi ký. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu thì thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc, và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:
- Địt cụ, đau như hoạn, tức như bò đá!
Bên dãy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá văn hóa vụ trưởng của trường. Những lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ, rồi lắc đầu nói, giọng Quảng lai Huế rất ”trademark” của ông:
- Cháng gướm (chán gớm)!


Trong câu chuyện, anh em thường hỏi về Ðại tá Chỉ huy trưởng. Không ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đã chết. Hoặc đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ tâm vì dĩ vãng, cứ ám ảnh mãi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng con phố chìm trong sương mờ che khuất đường về...

Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo hon. Người gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nhìn lại hình hài mình, chàng thấy đâu hơn gì. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời rã cả khung trời yêu thương Ðà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc còn thơm hương mimosa, có tình yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Ðại tá Quỳnh uy nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay còn đâu! Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đã trở thành thảm hại đến thế ư? Ông mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật to bằng mực tím. Thấy không ai để ý Nguyễn bèn hỏi rất khẽ:
- Ðại tá nghĩ sẽ có ngày về không?

Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ý lắm mới nghe lọt hết. Và trả lời nhanh, chắc ngại bọn ăng-ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:
- Tôi nghĩ là rất khó lòng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Ðiều quan trọng là anh gắng giữ gìn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi lời thăm!
Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:
- Bác được thư gia đình thường chứ?

Ðại tá Quỳnh chưa kịp đáp thì hắn đã gay gắt bảo Nguyễn, giọng trọ trẹ:
- Tôi lưu ý anh, không được quan hệ với các anh đại tá.
Chàng phản pháo liền:
- Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được miễn!
Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:
- Tôi ở trong ban Trật Tự. Ðề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa "yêu cầu") anh chấm dứt quan hệ linh tinh.
Chàng quay sang Ðại tá Quỳnh :
-Thôi xin từ giã bác, chúc bác mạnh khỏe, bình an trong năm mới.
Rồi nhìn thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Nguyễn gặp Ðại tá Quỳnh được một tháng thì hai đội bò lục –đội trưởng là Lê Ðình Luân và Dương Hiếu Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù.


Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu được phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi, như lúc nhỏ tôi từ Sài Gòn về quê Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá, tội con quá! Mẹ bạc gần nửa mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi "mệt nghỉ" rồi lo tìm đường cho con vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp lời, trừ Thể Trân ra riêng, vì cả nhà bị chúng nó theo dõi sát nút.

Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa phòng tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong những vở kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu, phụ họa:
- Nhà mình tịch thu được chúng nó trả một nửa, nửa kia làm trụ sở thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến được Mã Lai với chồng con.


Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng hai quả trứng vịt lộn trong kỳ thi ở trường Chiến Tranh Chính Trị và ông Ðại tá chỉ huy trưởng hiền từ của anh. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, cầu khẩn, lúc nào cũng hào hùng, kiêu hãnh, giống như con chó sói bị thương trong bài "La mort du loup" của Vigny mình học năm nào đó... Anh nhớ không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại còn bị ba mắng cho nữa...
Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em? Và đổi đề tài:

- Kha bây giờ ra sao? Có khoẻ không em?
Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới tôi hai lớp tại Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới thì mất nước. Vì Bội Trân ở lại, Kha cũng không đi.
Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nhìn ra sân. Bầu trời thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em thì thầm:
- Mẹ và em đã ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều... Em sẽ chờ anh ấy, bao lâu cũng được.
Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:
- Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em đưa gia đình...
Mẹ ngắt lời:
- Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến nữa.

Bội Trân tiếp:
- Nhưng có thế này em mới được về "phục viên" ở hẳn với ba mẹ chứ! Em vẫn thương anh và hãnh diện vì anh.
Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin tôi chờ mà ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ý, lúc mẹ quay qua tiếp một bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và khẽ nói:
- Lệ Ngà đã lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ!
Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:
- Hai năm là còn khá thủy chung đấy chứ em!

Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ vì đã chuẩn bị đón nhận sự thật quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đã nhận được thư vợ xin anh cho phép "bước thêm một bước nữa" và ký vào tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên được giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: "Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh." Tôi không được như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng.
Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên thanh và dòng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất phất qua những đồi thông, em hát nho nhỏ bài “Le jour où la pluie viendra... Ngày mà mưa đến, sẽ có bao nhiêu là giọt kim cương cho tình ta...” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em trong quán L’eau Vive và bản "Appassionata" trên phím dương cầm thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người tình về. Những vòng tay cuống quýt tìm nhau trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nhìn Bội Trân không nói. Ðâu phải tình cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.
Em tiếp, giọng buồn rưng rưng:

- Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Ðến gặp em, lần đầu tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng không nói một lời gì về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em không nhận gì hết... Em biết tính anh quá mà!
Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo ý nghĩ riêng...
Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt, lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:

- Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Ðừng tuyệt vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin Chúa và Ðức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Em thương anh.


Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu chàng phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Ðào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có Ðại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:

- Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!
Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết. Một anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau muống, và củ riềng –mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng "hồ hởi" ăn, trừ Ðại đức Long. Ông đi tìm Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù quanh năm ai cũng thiếu chất thịt và ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:
- Tôi còn tu. Anh ăn giùm cho!


Một hôm, đội được điều động làm công tác "đột xuất" (bất ngờ) là ra "nghĩa địa", tức một bãi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các anh em đã nằm xuống. Nguyễn đếm gần hai trăm mộ –kỳ thực chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng.
Có Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Ðại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ trại Sơn La, Trung tá Ðặng Bình Minh –cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp, mới thăm anh vài ngày trước, từ Hà Nội trở lại thăm tiếp khi anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa giẫy cỏ vừa thầm khấn các anh phù hộ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với gia đình. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy. Thì ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến thăm trại.

Cuối năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội trường và khu gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn rất mừng được thấy lại Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ chàng và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp vừa tròn mười tám. Chàng soạn một ít bánh mì khô, đường và mì gói, mấy viên thuốc cảm, bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến phía các "bò lục", gặp Ðại tá Quỳnh trao cho ông, nói:

- Tôi mới được thăm, xin biếu Ðại tá.
Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng Nguyễn đang đánh vữa thì đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho chàng đến sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương khô đủ loại. Thằng vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:
- Quà với cáp linh tinh!

Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một trung sĩ công an còn trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi nhỏ:
- Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi mới sinh bị phù (thủng) nặng.
Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt nhìn nhau, không đáp, sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:
- Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào đây xem.
Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo anh ta, còn Bảnh ở lại canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con chuột. Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.

Hai anh chàng phân vân mãi. Ðối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đã được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đã được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào rồi. Cuối cùng, động lòng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng bốn mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đã quá hạn, nhưng không còn gì hơn, và một hộp sữa đậc cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội tiến ra, nhìn trước nhìn sau, bảo:
- Cảm ơn hai anh, hôm nay em đã đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm...

Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc, đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù chàng dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái từ các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo vòng, lắc lư múa theo bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo, trông xa, và vì vắng đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Ðội được lệnh trình diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho Nguyễn vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:

- Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!
Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:
- Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà... mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh nếu náo thật!

Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:
- Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!
Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao, chỉ tay về phía ông trung tá nhà văn trọng tuổi, bút danh Ký giả Lô Răng, đóng vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:
- Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân thọt! Anh có ý đồ phải không?
Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, Nguyễn mới nhìn kỹ ông kịch sĩ xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng.
Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về đội xây, đánh vữa trở lại với Ðào văn Bảnh.

Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rõ. Nguyễn ngồi trong hàng nhìn theo bóng Ðại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Ðại đức Long và cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, chàng nghĩ khó còn gặp lại nhau, và tự dưng lòng nao nao như mất người thân thuộc.

Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm nuôi cung cấp. Thời gian này, Nguyễn được nhóm thân hữu đặt biệt danh "bình luận gia tin tức quốc tế". Một cách thành thật, tự tin, chàng phân tích theo chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ khác xa. Bọn cán bộ hình như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách, trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản động". Những giàn ăng-ten bị bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi còn gì! Ðau khổ đã thành thói quen.
Nhớ vợ thương con cũng đã chìm sâu vào tận cuối hồn. Không còn những anh đêm khuya khóc rưng rức trong chăn của thời gian đầu xa gia đình êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản kháng, dưới hình thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả khùng chửi xéo chế độ. Hoặc còn đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị biệt giam và hành hạ dã man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh –nói ngọng, chữ tr thành t, chữ lthành n– rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa chàng lánh mặt.

Trong buồng giam có một anh chuyên "chiếu phim", tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh, thay nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ thứ chuyện, từ Cô gái Ðồ Long đến La valse dans l’ombre quaThần điêu đại hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lý, xuất thân trường Ðại học CTCT, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lý ca một hơi hơn một chục bản tình lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên mới lớn, nghệt cổ ra nghe, thậm chí còn bảo "anh lào đó hát nại" vài câu...

Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này kẻ trước người sau đã đến bến bờ tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay viết thư thăm hỏi. Đại úy Hoàng Bá Linh, Thiếu tá Lê Ân, Trung tá Đào Văn Bảnh đã mất sau khi ra khỏi tù, trong những hoàn cảnh khác nhau. Phi công Nguyễn Hữu Trí không rõ trôi dạt phương nào, cũng như cha Trần Thanh Cao và thầy Nguyễn Long. Mẹ tôi, đã ngoài tám mươi, vẫn còn nơi quê nhà, ở với Huyền Trân và chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt.
Những người em "cải tạo" về, lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu dòng kín, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và tình yêu mật đắng. Còn tôi, sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách mướp, đã bắt tay được với hạnh phúc – nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực òa vỡ mỗi lần ở đầu dây tiếng mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc Ðại tá Quỳnh từ Florida, vang lên.

Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân nhắc Nguyễn nên tha thứ, tha thứ, tha thứ, và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa đã gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền Việt Cộng, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Ðó là một bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế, đã dìm cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi năm, và bây giờ lại còn đốn mạt dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Cộng, mối họa muôn đời của dân tộc. Hận thù, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt, kêu gào hòa giải hòa hợp. Vì chàng vẫn tin –theo như lời viên đại tướng tổng tài La Mã nói với Ben-Hur lúc còn là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben-Hur– rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta sống còn ■

Portland, cho Mùa Quốc Hận 2013

Mai Nguyen

TIN THẾ GIỚI

Mỹ tiếp tục thách thức Trung Quốc ở biển Đông

Việt Hà, phóng viên RFA
2014-09-16
In trang này Phần âm thanh Tải xuống âm thanh Đô đốc Jonathan Greenert, Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ tại Pentagon hôm 11/9/2014.
AFP photo
Hoa Kỳ mới đây tiết lộ thông tin cho biết Malaysia đã đề nghị Mỹ sử dụng một trong các căn cứ không quân của nước này để thực hiện các chuyến bay do thám ở khu vực biển Đông. Khả năng máy bay do thám của Mỹ bay ở vùng biển Đông tạo thách thức ra sao trước những hành động lấn lướt gần đây của Trung Quốc?
Thông tin mới đây về việc Malaysia cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn cứ không quân của nước này để thực hiện các chuyến bay do thám ở biển Đông có thể nói là một động thái hiếm hoi của Malaysia liên quan đến vấn đề tranh chấp biển Đông với Trung Quốc và theo một số chuyên gia thì đây có thể là một thách thức mới với Trung Quốc ở biển Đông.
Mỹ gia tăng sự hiện diện
Hôm 8 tháng 9, tại một diễn đàn quân sự ở Washington DC, đô đốc Jonathan Greenert, Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ cho biết Malaysia mới đây đã đề nghị cho phép Mỹ sử dụng một căn cứ không quân của nước này để thực hiện các chuyến bay do thám bằng máy bay P-8 Poseidon ra biển Đông. Giải thích về động thái mới này, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, thuộc trường đại học George Mason, Hoa Kỳ nhận định.
Thứ nhất là Trung Quốc càng ngày càng hành xử hung hăng hơn. Thứ hai nữa là  máy bay vừa rồi của Mỹ bị máy bay Trung Quốc xách nhiễu, thì Mỹ không chấp nhận, vì Mỹ muốn kiểm soát, muốn biết các động thái của Trung Quốc, các động thái quân sự của Trung Quốc vì Mỹ không tin Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc không minh bạch. Mỹ xác nhận với Trung Quốc là sẽ tiếp tục làm như vậy. 
Tuyên bố mới của đô đốc hải quân Hoa Kỳ Jonathan Greenert được đưa ra chỉ một ngày trước khi Phó Chủ tịch quân ủy Trung ương Trung Quốc PHạm Trường Long cảnh báo Cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Susan Rice rằng Mỹ nên ngừng ngay các chuyến bay do thám gần bằng máy bay P-8 Poseidon trên vùng biển Đông và gần bờ biển Trung Quốc.
Hồi tháng trước, một chiếc chiến đấu cơ của Trung Quốc đã bay gần sát một chiếc P-8 ở ngoài khơi đảo Hải Nam. Hai chiếc máy bay chỉ bay cách nhau khoảng 30 feet và gần đụng nhau.
Mặc dù thông tin mới chưa được phía Malaysia chính thức xác nhận, nhưng theo đánh giá của giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, thông tin này là khả tín vì nó được xác nhận bởi đô đốc hải quân Hoa Kỳ và nó phù hợp với những hành động gần đây của Mỹ trong việc tăng cường sự hiện diện ở biển Đông.
Ít lâu nay Mỹ đã nói là thứ nhất là củng cố đồng minh, thứ hai là tăng cường quan hệ quân sự với các đối tác, Mỹ đã ký hiệp ước sử dụng các căn cứ cơ sở nếu cần và Mỹ đang làm dần dần và trong trường hợp của Malaysia như thế này cũng là trong trường hợp sử dụng cơ sở để làm phòng thủ chung.
Mới đây, nhân chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tới Philippines, nước cũng đang có tranh chấp chủ quyền gay gắt với Trung Quốc ở biển Đông, Hoa Kỳ và Philippines đã ký thỏa thuận theo đó Philippines cho phép gia tăng sự có mặt của quân đội Mỹ tại Philippines.
Báo New York Times hôm 13 tháng 9 trích lời một nhà ngoại giao châu Á giấu tên cho biết Malaysia và Mỹ đang thảo luận việc cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn cứ không quân ở bang Sabah miền đông bắc nước này.
Ngoài ra, theo Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, việc máy bay Mỹ được sử dụng căn cứ không quân của Malaysia để thực hiện các chuyến bay do thám ngoài biển Đông cũng có thể coi là một hành động chặn trước khả năng Trung Quốc cho thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông như đã làm ở biển Hoa Đông hồi cuối năm ngoái.
Malaysia có quyền lợi gì?
Malaysia là nước đòi chủ quyền một phần trên biển Đông. Tuy nhiên, khác với Philippines và Việt Nam, Malaysia những năm qua không trực tiếp đối đầu với Trung Quốc trong các tranh chấp ở khu vực. Điều này xuất phát từ mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa Malaysia và Trung Quốc. Malaysia là thành viên ASEAN đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc kể từ năm 1974. Malaysia cũng là nước thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc. Kể từ năm 2010, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Malasyai. Thương mại hai chiều vào năm 2012 vào khoảng 55 tỷ đô la.
Trung Quốc dường như cũng khá nhẹ tay với Malaysia khi không có những hành động gây khó khăn nào đối với việc thăm dò dầu khí của tập đoàn dầu khí quốc doanh Malaysia là Petronas ngay trong vùng lưỡi bò, hay đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên biển Đông.
Có tin là Trung Quốc đang xây đá ngầm thành đảo nên tất cả các nước đều có nhu cầu quan sát hành động của Trung Quốc để có đối phó kịp thời.
- Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng
Tuy nhiên, Malaysia cũng không hoàn toàn ngoại lệ trước những hành động đòi chủ quyền gay gắt của Trung Quốc ở biển Đông và nước này cũng có phản ứng nhất định. Bằng chứng là vào tháng 5 năm 2009, Malaysia đã cùng với Việt Nam nộp lên Ủy ban về Ranh giới và thềm lục địa của Liên hiệp quốc báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước. Trung Quốc ngay sau đó đã lên tiếng phản đối. Đại diện thường trực của Trung quốc tại Liên hiệp quốc sau đó đã gửi công hàm cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon, yêu cầu Ủy ban không xem xét hồ sơ của Việt nam và Malaysia.
Gần đây nhất, hôm 26 tháng giêng, Trung Quốc cho biết ba tàu chiến của nước này đã đi tuần tra gần bãi James Shoal, phía nam quần đảo Trường Sa, cách bờ biển của Malaysia khoảng 50 hải lý. Các thủy thủ trên tàu Trung Quốc không những thế còn tổ chức lễ thề bảo vệ chủ quyền đối với bãi này.
Báo New York Times hôm 13 tháng 9 trích lời chuyên gia Đông Nam Á, Ernie Bower thuộc Trung Tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế ở Washington DC cho rằng Trung Quốc đã khiến Malaysia ngạc nhiên khi đưa tầu chiến vào vùng biển của nước này và đe dọa hoạt động khai thác dầu ngoài khơi của Malaysia.
Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, những hành động gây hấn gần đây của Trung Quốc trên biển Đông như việc đắp các bãi đã ngầm thành đảo như cáo buộc của Philippines, hay hạ đặt giàn khoan dầu HD 981 ngoài khơi Việt Nam đã khiến Malaysia phải lo ngại và thay đổi phần nào cách tiếp cận của mình với Trung Quốc.
Có tin là Trung Quốc đang xây đá ngầm thành đảo nên tất cả các nước đều có nhu cầu quan sát hành động của Trung Quốc để có đối phó kịp thời. Thì đây là dịp Malaysia cho phép làm chuyện đó… hành động gần đây nhất là giàn khoan làm họ rất quan tâm… Malaysia cũng có quyền lợi để biết tin tức về hành động của Trung Quốc ở vùng biển Đông.
Hành động mới của Malaysia dù chưa thể nói có thể làm thay đổi những hành động gây hấn liên tục gần đây của Trung Quốc ngoài biển Đông, theo đánh giá của giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nhưng điều này, mặt khác, cũng cho thấy một số quốc gia Đông Nam Á đang từ từ bỏ bớt ‘sự tự kiềm chế’ của mình với Trung Quốc để tăng cường hợp tác với Mỹ vì quyền lợi quốc phòng của họ.

 HRW công bố phúc trình về nạn bạo hành của công an VN
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-09-16
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Gia đình ông Trịnh Xuân Tùng (bên phải, mẹ Nguyễn Thị Cúc, vợ Nguyễn Thị Miền bên trái và con gái Trịnh Kim Tiến cầm ảnh) bên ngoài tòa án, ngày 17/7/2012
Gia đình ông Trịnh Xuân Tùng (bên phải, mẹ Nguyễn Thị Cúc, vợ Nguyễn Thị Miền bên trái và con gái Trịnh Kim Tiến cầm ảnh) bên ngoài tòa án, ngày 17/7/2012
Source HRW/Danlambao


Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch hôm nay 16 tháng 9 công bố phúc trình về tình trạng người dân bị chết và bị thương khi bị công an giam giữ.
Gia Minh tham dự buổi công bố tại Bangkok và gửi về bài tường trình sau đây.
Công bất an: Những vụ tử vong khi bị tạm giam, giữ và vấn nạn công an bạo hành tại Việt Nam’ là tựa của phúc trình dày 23 trang bằng tiếng Việt và 96 trang tiếng Anh mà Human Rights Watch chính thức công bố vào sáng ngày 16 tháng 9.
Ông Phil Robertson, phó giám đốc khu vực Châu Á của của Human Rights Watch, phát biểu mở đầu cuộc họp công bố phúc trình như sau:
Đại ý theo ông này thì Human Rights Watch từng có nhiều báo cáo liên quan đến Việt Nam; tuy nhiên những báo cáo lâu nay thường đề cập đến trường hợp của những người công khai đấu tranh cho dân chủ - nhân quyền tại Việt Nam. Họ là những người dám chính thức nói lên chính kiến của họ. Còn báo cáo về tình trạng tử vong và chấn thương khi bị công an giam giữ là phổ biến tại Việt Nam là một phúc trình tập trung vào cái mà ông này gọi là ‘hậu trường sân khấu’ mà nhiều tầng lớp khác nhau tại Việt Nam phải gánh chịu.
Phúc trình của Human Rights Watch nêu ra những trường hợp được cho là điển hình về nạn bạo hành của công an khiến người bị giam giữ phải chết hay chấn thương nặng
Theo lời của ông Phil Robertson thì nạn công an lạm quyền đánh chết, gây chấn thương, bệnh tật cho người dân tại Việt Nam là một cuộc khủng hoảng về nhân quyền.
Phúc trình của Human Rights Watch nêu ra những trường hợp được cho là điển hình về nạn bạo hành của công an khiến người bị giam giữ phải chết hay chấn thương nặng xảy ra trong khoảng thời gian 4 năm từ tháng 8 năm 2008 đến tháng 7 năm nay.
Những vụ này được ghi nhận tại 44 trên 58 tỉnh dọc khắp Việt Nam, trong đó có năm thành phố lớn.
Theo thông báo của đại diện Human Rights Watch thì phương pháp thu thập thông tin về những trường hợp công dân Việt Nam bị bạo hành ghi nhận trong thời gian bốn năm qua như vừa nêu được thực hiện dựa vào kết quả tập hợp và phân tích thông tin từ những cơ quan truyền thông ‘lề phải’ trong nước. Bên cạnh đó là những tin bài từ các trang mạng xã hội như blog, báo ‘lề trái’, cũng như của các hãng thông tấn nước ngoài, trong đó có các đài phát thanh quốc tế tiếng Việt như BBC, VOA, RFA, RFI…
Chị Trần Thị Tâm vợ anh Ngô Thanh Kiều cùng 2 con gái, bé Ngô Thị Thanh Thảo (8 tuổi) và Ngô Thị Kim Oanh (2 tuổi) tại phiên tòa ngày 10-3. Anh Ngô Thanh Kiều đã bị đánh đến chết tại trụ sở công an Tuy Hòa
Chị Trần Thị Tâm vợ anh Ngô Thanh Kiều cùng 2 con gái, bé Ngô Thị Thanh Thảo (8 tuổi) và Ngô Thị Kim Oanh (2 tuổi) tại phiên tòa ngày 10-3. Anh Ngô Thanh Kiều đã bị đánh đến chết tại trụ sở công an Tuy Hòa
Trong số những vụ việc được nêu ra trong phúc trình của Human Rights Watch có những sự vụ chưa hề được công bố bằng tiếng Anh. Human Rights Watch cho biết cũng có tiến hành nghiên cứu tại Việt Nam nhưng quyết định không phỏng vấn những nạn nhân còn sống và nhân chứng vì theo Human Rights Watch làm như thế thì chắc chắn đưa đến hậu quả những người trong cuộc đó sẽ bị trả thù.
Trong số những trường hợp được nêu ra trong phúc trình của Human Rights Watch có 14 trường hợp chết khi bị giam giữ được công an thừa nhận là do nhân viên công lực bạo hành mà ra; có 4 trường hợp chết khi bị giam giữ mà không giải thích được nguyên nhân; 6 trường hợp chết mà công an nói nạn nhân tự tử tại đồn công an; 4 trường hợp công an giải thích chết vì bệnh.
Phúc trình của HRW có 14 trường hợp chết khi bị giam giữ được công an thừa nhận là do nhân viên công lực bạo hành mà ra; có 4 trường hợp chết khi bị giam giữ mà không giải thích được nguyên nhân; 6 trường hợp chết mà công an nói nạn nhân tự tử tại đồn công an; 4 trường hợp công an giải thích chết vì bệnh
Bên cạnh đó là 11 trường hợp bị chấn thương bởi sự lạm quyền của công an; ngoài ra còn có trường hợp một trẻ em 11 tuổi do nghi ăn cắp tiền đưa đến công an và công an đánh đập em này.
Ông Phil Robertson cho biết những thủ phạm là công an làm chết người, gây thương tích cho người bị giam giữ không bị trừng phạt đúng mức.
Trong báo cáo nêu rõ nhiều trường hợp được chính thức thừa nhận là bạo hành, những công an liên quan chỉ bị kỷ luật nội bộ nhẹ nhàng, như phê bình hoặc khiển trách. Trường hợp hạ cấp, thuyên chuyển hay buộc ra khỏi ngành đối với những công an vi phạm như thế là hiếm. Biện pháp truy tố và kết án đối với những đối tượng công an vị phạm như thế lại càng hiếm hơn. Theo Human Rights Watch, trong trường hợp bị khởi tố và kết án, công an vi phạm dường như cũng nhận được những mức án nhẹ hay án treo.
Một trường hợp được nêu lên là công an liên quan không những không bị kỷ luật mà lại còn được lên chức như trường hợp phó công an xã Nguyễn Hữu Khoa ở La Phù, huyện Hoài Đức, Hà Nội dù bị tố cáo đánh đập một tài xế xe tải vào tháng 7 năm 2010, đến tháng 12 được thăng cấp trưởng công an xã.
Trước vấn nạn công an bạo hành với những trường hợp cụ thể được nêu ra như thế, Human Rights Watch, đưa ra những đề nghị cụ thể đối với chính quyền và các ngành chức năng nhằm chấm dứt tình trạng đó.
Trước hết đối với chính phủ phải chính thức tuyên bố nghiêm trị những viên chức sử dụng các hình thức tra tấn, đánh đập hay ngược đãi trong quá trình tạm giam, tạm giữ.
Những biện pháp như yêu cầu người bị câu lưu viết cái gọi là ‘bản cam kết tự nguyện ở lại trụ sở công an’ hay ‘biên bản không bị công an đánh’ phải hủy bỏ.
Human Rights Watch kêu gọi chính quyền Việt Nam tiến hành thành lập một ủy ban độc lập về khiếu tố đối với ngành công an. Ủy ban này chuyên tiếp nhận khiếu của của người dân và giám sát bộ phận ‘thanh tra nội bộ’ của công an.
Khi có những khiếu tố liên quan đến công an bạo hành phải nhanh chóng tiến hành điều tra một cách công tâm. Khi đã có bằng chứng thể hiện hành vi bạo hành thì phải có biện pháp mạnh.
Phúc trình của HRW cũng kêu gọi chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế quan tâm đến tình hình nhân quyền tại VN, cũng như đang trài trợ cho VN cải cách luật pháp phải có tiếng nói đồng loạt, tạo sức ép buộc chính quyền Hà Nội có hành động nhằm chấm dứt nạn bạo hành của công an
Quốc hội Việt Nam phải phê chuẩn Công ước Liên hiệp quốc về Chống Tra tấn càng sớm càng tốt.
Những người bị bắt giữ phải được phép tiếp xúc ngay với luật sư mà không bị cản trở. Đây là biện pháp giúp giảm thiểu nguy cơ bị công an bạo hành trong quá trình thẩm vấn.
Ông Phil Robertson cho rằng công an cấp xã tại Việt Nam không được đào tạo đến nơi đến chốn, hoặc chẳng được đào tạo gì nên thường có những hành vi bạo hành, lạm quyền đối với công dân. Do đó cần phải có chương trình huấn luyện tốt hơn cho đối tượng này.
Đối với báo chí, Human Rights Watch đề nghị cơ quan chức năng phải để truyền thông làm công việc điều tra và đưa tin về những vụ lạm quyền của cơ quan công quyền. Theo ông Phil Robertson thì báo chí độc lập có thể giúp đưa ra ánh sáng những vụ việc dễ bị ỉm đi. Tự do ngôn luận cần được tôn trọng.
Phúc trình của Human Rights Watch cũng kêu gọi chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam, cũng như đang trài trợ cho Việt Nam cải cách luật pháp phải có tiếng nói đồng loạt, tạo sức ép buộc chính quyền Hà Nội có hành động nhằm chấm dứt nạn bạo hành của công an.
Đại diện của Human Rights Watch cho biết trong quá trình tiến hành phúc trình về nạn bạo hành của công an, tổ chức này có viết thư cho Hà Nội để trình bày vấn đề nhưng không nhận được phúc đáp.
Trong trao đổi với RFA, ông Phil Robertson cũng cho biết trước khi công bố phúc trình chừng một tuần, ông này có xin thị thực nhập cảnh vào Việt Nam để gặp các giới chức ngoại giao tại Hà Nội; nhưng đại sứ quán Việt Nam tại Bangkok từ chối không cấp visa cho ông mà không nêu lý do.
Thứ ba, 16/09/2014
Xem

Các công ty Mỹ quan ngại về cuộc trấn áp chống độc quyền của TQ

Chi nhánh Microsoft tại Bắc Kinh, Trung Quốc
Chi nhánh Microsoft tại Bắc Kinh, Trung Quốc
Ye Fan

Một cuộc trấn áp chống độc quyền liên quan đến các công ty nước ngoài ở Trung Quốc đã gây ra quan ngại trong cộng đồng doanh nghiệp Mỹ. Hiện chưa rõ vấn đề này sẽ diễn ra như thế nào trong những tháng tới.
Trong những tháng gần đây, chính quyền Trung Quốc đã điều tra Microsoft, Qualcomm, Daimler và hàng chục hãng sản xuất phụ tùng xe của Nhật và áp mức phạt thuế nặng, làm dấy lên quan ngại là những công ty ngoại quốc đang bị nhắm làm mục tiêu.
Phòng Thương mại Mỹ cáo buộc điều này vi phạm hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới và cơ quan này có ý định kêu gọi chính phủ Mỹ khiếu kiện.
Phó chủ tịch của Trung tâm Hợp tác Điều tiết Toàn cầu của Phòng thương mại, ông Sean Heather, nói với đài VOA vào tuần này rằng các công ty bị các cơ quan quản lý Trung Quốc để ý tới đã bị áp lực phải “thú nhận phạm tội.”
Một nhà nghiên cứu trước đây của Hội đồng Kinh doanh và Công nghiệp Mỹ, ông Alan Tonelson, nói các công ty nuớc ngoài lo ngại không có cách gì thực tế để bảo vệ mình tại các tòa án Trung Quốc:
“Điều này hoàn toàn phụ thuộc, một lần nữa không phải là một điều luật hay quy định về một số điều kiện kỹ thuật bị vi phạm, nhưng nó sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào việc liệu công ty nước ngoài đó có thể thuyết phục được Đảng Cộng sản Trung Quốc bỏ qua chuyện đó, việc bỏ khiếu nại thực ra có ích lợi về kinh tế cho Trung Quốc hơn là theo đuổi nó.”
Phòng Thương mại cho biết “thực hiện phân biệt đối xử” của luật chống độc quyền Trung Quốc có phần chắc vi phạm cam kết của Bắc Kinh đồng ý khi gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới.
Nhưng chủ tịch của Hội đồng Ngoại thương Quốc gia ở Washington, ông William Reinsch, nói khiếu nại có phần chắc chỉ xảy ra nếu Hoa Kỳ nghĩ sẽ thắng:
“Nếu bạn nhìn vào các kết quả của nhiều vụ kiện thì có một khuynh huớng là phía khiếu kiện sẽ thắng. Và như tôi nói, điều đó có thể là bởi vì mọi người không khiếu nại trừ phi họ dám chắc về trường hợp của mình. Do đó nếu cuối cùng Hoa Kỳ khiếu nại, tôi lạc quan là họ sẽ thắng.”
Không có quốc gia nào từng có thỉnh cầu tương tự với Tổ chức Thương mại Thế giới.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường tuần này đã làm dịu mối lo sợ của các công ty đa quốc gia là các cuộc điều tra của Bắc Kinh đang nhắm vào các công ty nước ngoài, tái khẳng định với họ rằng việc tiếp cận thị trường Trung Quốc sẽ được nới lỏng hơn nữa. Ông nhấn mạnh rằng chỉ có khoảng 10% các công ty bị điều tra là công ty nước ngoài.
Trong những tháng gần đây, Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia của Trung Quốc đồng thời cũng điều tra các hãng sản xuất phụ tùng nội địa và các công ty bảo hiểm.

Người giàu Trung Quốc mơ cho con cái sống ở nơi khác

media 
Cứ trên 2 người giàu nhất là có 1 người muốn rời khỏi Trung Quốc - REUTERS /Carlos Barria
Những người « siêu giầu » mới của Trung Quốc ngày càng khó thích nghi với bầu không khí của đất nước mình. Theo một nghiên cứu do ngân hàng Barclays thực hiện, gần một nửa trong số họ có ý định rời Trung Quốc trong vòng 5 năm tới, chủ yếu là để tạo môi trường giáo dục và việc làm tốt hơn cho con em mình.
Theo nghiên cứu trên của ngân hàng Barclays, từ nay tới năm 2019, 47% những người Trung Quốc giàu nhất muốn rời khỏi đất nước mình, trong khi đó chỉ có 16% người giàu Hồng Kông hay 20% người giàu nhất Singapore có ý định này.

Một người Trung Quốc làm việc trong lĩnh vực bất động sản cho biết : « Trên thực tế, phần lớn những người giàu nhất Trung Quốc hiện nay kiếm tiền được là nhờ bất động sản. Họ phải ở gần công việc của mình. Vì thế, một số người sẽ phải từ bỏ ý tưởng định cư quá xa ».

Trong số những người giàu muốn rời Trung Quốc : 78% muốn cho con cái của mình được hưởng một nền giáo dục và môi trường làm việc tốt hơn ; 73% muốn tìm thời cơ tốt hơn cho việc kinh doanh và an ninh hơn ; 18% muốn đi để được hưởng chế độ y tế tốt hơn. Vẫn theo nghiên cứu của Baclays, 30% thích sang định cư tại Hồng Kông, địa điểm ưa thích thứ hai là Canada, chiếm 23%.
Số lượng tỉ phú đô la Trung Quốc ngày càng tăng : năm ngoái có thêm 3,7% tỉ phú mới theo nghiên cứu của nhà xuất bản Hurun chuyên xếp loại các cơ nghiệp Trung Quốc. Trong vòng ba năm tới, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ có khoảng 1,21 triệu triệu phú và 73 000 người « siêu giầu » với khối lượng tài sản của mỗi người vượt ngưỡng 16 triệu đô la.

 Thứ ba, 16/09/2014

Nghiên cứu: Gần phân nửa người giàu Trung Quốc muốn rời nước

Gần một nửa số người giàu Trung Quốc dự định sẽ dọn đến nước khác sinh sống trong vòng 5 năm tới, theo một cuộc khảo sát mới của công ty quản lý tài sản và đầu tư Barclays.
Kết quả cuộc khảo sát hơn 2.000 cá nhân có tài sản ròng cao với tổng trị giá hơn 1,5 tỉ USD cho thấy 47% số người Trung Quốc được hỏi nói họ muốn dọn đi, so với mức trung bình toàn cầu là 29%.
Những lý do hàng đầu mà người Trung Quốc đưa ra là cơ hội giáo dục và việc làm tốt hơn cho con cái (78%), ổn định kinh tế và khí hậu trong lành (73%), và chăm sóc y tế và dịch vụ xã hội tốt hơn (18%). Hong Kong là điểm đến hàng đầu, kế đến là Canada.
Sau Trung Quốc, Singapore là nước thứ hai có nhiều người giàu mong muốn rời đi nhất. Người giàu ở Ấn Độ và Mỹ gắn bó với đất nước của mình nhất, chỉ có 5% và 6% số người được hỏi nói rằng họ sẽ di dời.
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng là điểm đến hàng đầu cho những người giàu Singapore, với 30% nói rằng họ muốn chuyển đến sống ở Trung Quốc.
Đến cuối năm 2014, châu Á sẽ trở thành thị trường lớn nhất khu vực về số lượng triệu phú. Barlays nói rằng châu Á đã sản sinh ra một thế hệ những người giàu muốn mình và con cái được hưởng nền giáo dục nước ngoài.
Tính di động xã hội cao hơn cũng khiến những cá nhân giàu có chịu dành tiền để hiến tặng khắp thế giới. Đầu tháng này, gia đình ông Gerald Chan, một nhà đầu tư Hong Kong từng theo học ở Đại học Harvard, đã hiến tặng 350 triệu USD cho Trường Y tế Công của Harvard, khoản quyên góp lớn nhất trong lịch sử 378 năm của trường đại học này.
Báo cáo của Barclays cũng cho biết đại đa số người được khảo sát, từng sống ở nhiều nước khác nhau trong cuộc đời họ, về hưu tại nước mà họ sinh ra. Dù thành công về kinh tế là động lực chính cho những người giàu có trong phần lớn quãng đời, cảm xúc và tâm lý là yếu tố chi phối trong giai đoạn sau của cuộc đời, báo cáo cho biết.
Nguồn: wealth.barclays.com, WSJ


No comments:

Post a Comment