Pages

Saturday, November 26, 2016

THÀNH NHÀ HỒ -LÊ MỘNG NGUYÊN - NỮ SINH HUẾ

LÊ QUANG VINH * THÀNH NHÀ HỒ



THÀNH NHÀ HỒ - CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ CỦA TƯ DUY ÍCH KỶ, THIỂN CẬN – DẪN TỚI THẢM HỌA NƯỚC MẤT, NHÀ TAN - ĐANG RẤT "THỜI SỰ"!?


Lê Quang Vinh


"THÀNH NHÀ HỒ - CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ CỦA TƯ DUY ÍCH KỶ, NGU NGỐC VÀ THIỂN CẬN – DẪN TỚI THẢM HỌA MẤT NƯỚC"; hẳn còn giá trị thời sự cho mỗi người dân và chính quyền Việt Nam trong giai đoạn lịch sử hiện nay. Chúng ta đừng gồng mình, dồn sức xây dựng những công trình ngàn tỷ, nhiều ngàn tỷ cốt chỉ thỏa mãn lòng khát khao lập những "kỷ lục" do sĩ diện hão huyền, kém hiểu biết. Những công trình như vậy chỉ béo bọn tham nhũng; nhưng thật vô ích đối với nhân dân. Bởi công trình càng to, càng nhiều tiền thì cơ hội tham nhũng càng lớn. Không ít chính quyền nhiều nơi, đã tinh ranh lừa mị, lôi kéo "nhân dân" vào cuộc để làm "bình phong" bằng các chiêu thức (mòn sáo) như: "Theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân", theo đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền công đáp nghĩa"; để "phát triển văn hóa du lịch, cải thiện và mở mang đời sống xã hội tại địa phương hiện đang rất nghèo nàn", vân vân và vv...CỐT ĐỂ TRỤC LỢI!


Cổng Nam thành nhà Hồ, đây là cổng chính, lớn nhất dẫn vào Hoàng thành.


Đôi rồng đá bị mất đầu hiện được đặt ở trung tâm tòa thành. Hai con rồng nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Ảnh: Lê Hoàng.

Lê Quang Vinh


Trong lịch sử dân tộc, những nhân vật tài ba lỗi lạc, kiệt xuất như Vua Hồ Quý Ly - 黎季犛 (1336 – 1407) không nhiều. Ông còn được coi là “Nhà cải cách” phi thường của mấy chục năm cuối thế kỷ XIV cùng những năm đầu tiên của thế kỷ XV; cũng là Nhà văn hóa - Nhà thơ lớn để lại cho hậu thế nhiều tuyệt tác văn - thi ca giá trị đến ngày nay và chắc chắn mai sau nữa. Thế nhưng những gì còn lại của ngôi thành khá kỳ vĩ bằng đá nguyên khối - Thành Nhà Hồ, lại là "dấu tích" của nguyên cớ dẫn tới thảm họa mất nước. 

Chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” của Nhà Minh là "thực tiễn" (bi kịch) do Hồ Quý Ly tiếm quyền Nhà Trần gây ra; bởi ông đã dồn sức dân sức nước, mọi nguồn lực kinh tế mấy trăm năm Nhà Trần tích cóp được để xây dựng kinh đô mới (Thành Nhà Hồ) khiến cơ sở vật chất, tiền của quốc gia cùng bộ máy (chính quyền) Nhà nước phong kiến rệu rã, kiệt quệ, lòng dân oán thán, không còn sức lực đâu nữa để chống chọi lại họa xâm lăng đang tới gần và thực tế đã diễn ra ngay sau đó.


*****
Cách đây mấy năm, nhân UNESCO công nhận thành Nhà Hồ là "Di sản văn hóa thế giới”, một văn bản mang tên “DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI” của Trung tâm Thông tin Du lịch (Tổng cục Du lịch Việt Nam), có viết:
“Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã  Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407. 

Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.


Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới”.
Sự ghi nhận này của Ủy ban Di sản thế giới - UNESCO, thực chất là sự tôn vinh hàng vạn, thậm chí hàng triệu sinh linh người Việt – những người lính, nông phu, những thợ thủ công của nghề đá (chủ yếu tại địa phương) và nhiều nghề khác nữa của cả nước; những trí thức và quan lại trực tiếp xây dựng lên công trình này. Đó là “Nhân dân - Bách tính”!

Nhưng với lịc sử dân tộc, thì thật trớ trêu; công trình có quy mô cùng sự tốn kém thuộc loại lớn bậc nhất của các triều đại phong kiến, nhưng có tuổi khai thác (sử dụng) lại ngắn nhất, sớm tiêu vong theo chế độ (triều đại) Nhà Hồ. Thực chất công năng cùng tác dụng của ngôi thành và kinh đô mới này, chỉ tồn tại có mấy năm (từ 1398 đến 1407); để rồi suốt 6 thế kỷ nay là bỏ không, hoang phế theo thời gian...


*****
Nguyên nhân của bi kịch lịch sử này?
Thứ nhất: đó là sự ích kỷ, hẹp hòi – bây giờ chúng ta gọi là “địa phương chủ nghĩa”, "bản vị" của những toan tính do âm mưu tiếm quyền từ lâu ở Hồ Quý Ly. Sử cũ chép: “Lúc bấy giờ Hồ qúy Ly giữ chức "Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự", tước "Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương", cương vị "Tể tướng", nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Ông đã sai và cắt cử người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo thành là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn).

 Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long - Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên "Tây Đô", nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới”.


Nếu Hồ Quý Ly không phải “chính quê” ở huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa thì ông đã không bao giờ làm cái chuyện tày đình, ngược với “thiên thời, địa lợi và nhân hòa” như vậy. Chính “ngược” nên bản thân ông, cùng chính quyền và mọi thứ (kể cả những thành quả rất “cách mạng” của Đại thần Hồ Quý Ly suốt mấy chục năm, ông đã đưa hết tài năng phù giúp Nhà Trần) đều bị kẻ thù xâm lược là Nhà Minh dễ dàng đè bẹp, sau đó bão táp lịch sử cũng cuốn phăng một cách không thương tiếc. Bằng chứng là Lê Lợi, sau khi khôi phục lại được giang sơn rồi dựng xây nền độc lập cho nước nhà – cũng cùng quê hương Thanh Hóa, nhưng ông không làm những chuyện như Hồ Quý Ly; cũng không hề “tận dụng” thành quách (mọi cơ sở vật chất của “kinh thành” đang rất mới và kiên cố này) mà nhà Hồ đã tạo dựng ngay trên chính quê hương mình. Đời sau của Hoàng đế Lê Lợi chỉ xây dựng “Sơn lăng” ở Lam Sơn cho các vua Lê quy tiên thôi (theo phong tục “lá rụng về cội”).


Thứ hai: Hồ Quý Ly đã tư duy “ngu ngốc" và "thiển cận” trước họa xâm lăng. Nhà Minh là nhà nước phong kiến hùng mạnh, luôn có mưu đồ xâm lược nước ta chính trong giai đoạn Hồ Quý Ly – thực tế đang “chấp chính” cho Nhà Trần; mọi quyền bính và nguồn lực đất nước nằm gọn trong tay ông. Thế nhưng các “giác quan" của viên “Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự", tước "Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương", cương vị "Tể tướng” này lại tập trung vào chuyện tìm trăm phương ngàn kế vô cùng xảo quyệt để tiếm quyền vua Trần; điều này đã dẫn dắt mọi hành động sai lầm có tính liên hoàn của Hồ Quý Ly – điển hình là dồn mọi nguần lực của đất nước xây lên ngôi thành và “kinh đô” mới – Thành Nhà Hồ. Thành công của cá nhân Hồ Quý Ly chính là mầm móng ngay sau đó đẩy cả dân tộc chuốc lấy họa mất nước, bản thân cha con ông bị quân Minh bắt sống, tiêu diệt.

Sử chép: “Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: Đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho Hoàng Hối Khanh chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói: "Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi."


Năm 1406, lấy cớ "Phù Trần diệt Hồ", nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 20 vạn quân sang đánh Đại Ngu.
Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (ngày 20 tháng 1 năm 1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22 tháng 1 năm 1407, quân nhà Minh tràn xuống chiếm cố đô Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo các thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.


Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu:
"Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn."

Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi(1407). Có thuyết nói ông bị nhà Minh sát hại khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh), có thuyết lại nói ông bị đày làm lính ở Quảng Tây và mất sau đó vài năm.
Nhà Hồ trị vì đất nước từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Đinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ”.


*****
"THÀNH NHÀ HỒ - CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ CỦA TƯ DUY ÍCH KỶ, NGU NGỐC VÀ THIỂN CẬN – DẪN TỚI THẢM HỌA MẤT NƯỚC"; hẳn còn giá trị thời sự cho mỗi người dân và chính quyền Việt Nam trong giai đoạn lịch sử hiện nay. Chúng ta đừng gồng mình, dồn sức xây dựng những công trình ngàn tỷ, nhiều ngàn tỷ cốt chỉ thỏa mãn lòng khát khao lập những "kỷ lục" do sĩ diện hão huyền, kém hiểu biết.

 Những công trình như vậy chỉ béo bọn tham nhũng; nhưng thật vô ích đối với nhân dân. Bởi công trình càng to, càng nhiều tiền thì cơ hội tham nhũng càng lớn. Không ít chính quyền nhiều nơi, đã tinh ranh lừa mị, lôi kéo "nhân dân" vào cuộc để làm "bình phong" bằng các chiêu thức (mòn sáo) như: "Theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân", theo đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền công đáp nghĩa"; để "phát triển văn hóa du lịch, cải thiện và mở mang đời sống xã hội tại địa phương hiện đang rất nghèo nàn", vân vân và vv...

Có thể liệt kê được nhiều công trình...mất lòng dân; mất cả trăm tỷ, ngàn tỷ công quỷ rồi...
16 giờ 28’ – ngày 10/6/2016
(Tròn một tháng BS Xuân Hương sang Anh cùng các con cháu).
LQV


*****

Nhà thơ HỒ QUÝ LY

Hồ Quý Ly là một vua có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong các tác phẩm của ông, có những bài thơ sáng tác dùng vào việc cai trị và đối ngoại.

Khi còn là một đại quan nhà Trần, trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, Hồ Quý Ly đã cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:

烏臺久矣噤無聲
頓使朝庭風憲輕
借問子澄懦中尉
書生何事負平生

Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh
Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh

Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!


Ông còn có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân - Trần Thuận Tông[24]) như sau:

前有庸暗君
昏德及靈德
何不早安排
徒使勞人力

Tiền hữu dung ám quân
Hôn Đức cập Linh Đức
Hà bất tảo an bài
Đồ sử lao nhân lực

Được Tuấn Nghi dịch là:

Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!


Ông là vị Hoàng đế Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa của người Việt, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "Vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.

Khi đã bị nhà Minh bắt giữ, ông đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam bằng một bài thơ:

欲問安南事
安南風俗淳
衣冠唐制度
禮樂漢君臣
玉瓮開新酒
金刀斫細鱗
年年二三月
桃李一般春

Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan Đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ngọc ủng khai tân tửu
Kim đao chước tế lân
Niên niên nhị tam nguyệt
Đào lí nhất ban xuân

An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Y quan chẳng kém Đường
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Bình ngọc rượu lừng hương
Dao vàng cá nhỏ vẩy
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vườn

Giai thoại[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Kiên biều tập của Chử Nhân Hoạch soạn đời nhà Thanh có chép một giai thoại lạ lùng về Hồ Quý Ly, được Lê Quý Đôn dẫn lại trong Kiến văn tiểu lục.

Con cháu họ Trần làm vua nước Giao Chỉ, lúc ấy có người ở Giang Tây là Lê Quý Ly, khi còn bé sang nước ấy buôn bán, ở thuyền lên bờ, thấy trên bãi cát có câu rằng:

Quảng Hàn cung lý nhất chi mai.

(Một cành mai trong cung Quảng Hàn)
Sau Quý Ly mon men được làm quan. Một hôm vua Trần nghỉ mát ở điện Thanh Thử, sân điện có hàng ngàn cây quế, nhà vua ra câu đối rằng:

Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
(Ngàn gốc quế trước điện Thanh Thử)

Bầy tôi chưa ai kịp đối. Quý Ly nhớ lại câu đã trông thấy trên bãi cát khi trước, liền đem câu ấy đối lại. Nhà vua giật mình, nói "Sao nhà ngươi biết được việc trong cung của ta ?". Quý Ly cứ tình thực tâu bày. Nhà vua nói "Đấy là số trời". Bởi vì nhà vua có một cô con gái tên là Nhất Chi Mai, dựng cung Quảng Hàn để cho ở. Nhân câu đối ấy, nhà vua liền đem cô gái này gả cho Quý Ly.

Hồ Quý Ly đã viết các tác phẩm sau:
Quốc ngữ thi nghĩa (viết về chủ đề giáo dục, nay đã thất truyền)
Minh đạo lục (sách lý thuyết, 14 thiên, nay đã thất truyền)


GS. NGUYỄN ĐĂNG TRÚC * NS. LÊ MỘNG NGUYÊN

LÊ MỘNG NGUYÊN
Vọng về lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa


Tùy Bút của Gs NGUYỄN ĐĂNG TRÚC



Attachment: Hi`nh Nha.c Si~ Le^ Mo^.ng Nguye^n (ba`i go^'c)




Hình Nhạc Sĩ/GS Lê Mộng Nguyên

Giáo sư Trần-Văn-Cảnh và nhà văn Đỗ Bình ở Paris đề nghị tôi viết vài hàng giới thiệu về nhà văn Lê Mộng Nguyên để đưa vào Tuyển tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris.
Thực ra viết về Lê Mộng Nguyên, có quá nhiều để viết. Những dòng chữ dưới đây chỉ là những chấm phá về những ngày có duyên được quen biết nhà văn tiền bối nầy.
Chưa đến tuổi vào đại học, người thanh niên xứ Huế đầy tài năng Lê Mộng Nguyên đã được dân chúng biết đến qua những ca khúc Xuân Tươi (1945) Vó Ngựa Giang Hồ, Mừng Khánh Đản - Rằm Tháng Tư, Một Chiều Thương Nhớ, Chiều Thu (1948), Vó Ngựa Giang Hồ (1948), Hoàng Hoa Thôn, Nhớ Huế, Bài Thơ Huế, Cô Gái Huế, Đôi Mắt Nhung, Về Chơi Thôn Vỹ, Mỵ Châu Trọng Thủy, Mơ Đà Lạt, Ly Hương (1950)… Xuân Tha Hương,Thu Trên Sông Seine, Thu Sầu, Tôi Sợ Chiều Thu, Chiều Vàng Năm Xưa, Em Có Về Làng Xưa, Giao Mùa, Việt Nam Thắm Tươi, Người Thơ Năm Cũ, Xa Rời Quê Hương… Nhưng hơn hết tình ca Trăng Mờ Bên Suối (13 -11-1949) là bản nhạc đã đi vào Đại Ký Ức thi ca của người dân việt.
Rời Việt-Nam đi du học ở Pháp năm 1950, chàng thanh niên nghệ sĩ nầy từng dự định ghi danh học ngành âm nhạc tại Conservatoire national supérieur de musique ở Paris, phản ảnh ước mơ của không ít người thanh niên Huế lúc bấy giờ (1), nhưng số phận đã đưa du học sinh nầy đến ghế trường Luật. Xa quê từ dạo ấy cho đến nay trên 65 năm, sáng tác âm nhạc của Lê Mộng Nguyên là tiếng vọng nhớ nước, nhớ non, nhớ nhà như lời của thi sĩ tiền bối đồng hương Sảng Đình Nguyễn Văn Thích có lần đã nhắn nhủ giới trẻ Việt Nam : Lá Thư Cho Mẹ, Sông Seine - Bao giờ Ta Về Nước Nam ? (1951), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương (1981), Quê Tôi (1991), Kiếp Giang Hồ (1992), và tiếp đó : Tìm Lại Ngày Xưa, Thề Non Nước, Lời Cuối Của Anh, Quốc Hận 30 Năm
Qua vô số tác phẩm âm nhạc mà danh mục trên chỉ là tượng trưng, có thể nhận ra rằng cảm hứng âm nhạc của Lê Mộng Nguyên trào vọt lên từ nguồn thi ca đến từ bờ bên kia theo lối nói của nhà Phật. Thật ra, nguồn thi ca đó đã được gợi lên một cách cô động nơi lời thơ nầy của chính tác giả trong tuyệt phẩm "Trăng Mờ Bên Suối" : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Nhưng, Lê Mộng Nguyên được giới thức giả, người trên thế giới cũng như đồng bào, biết đến nhiều, không phải vì các học vị bằng cấp hay chức vụ xã hội :
(Lê Mộng Nguyên đã tốt nghiệp tiến sĩ quốc gia luật khoa về ban công pháp với luận án "Giai cấp xã hội và phong trào chính trị tại Việt-nam từ 1919 đến 1939" ( luận án được Giải Thưởng Luận Án Đại Học Paris 1963), đã từng là giám đốc nghiên cứu và giáo sư công pháp quốc tế tại đại học Paris, luật sư Tòa Thượng Thẩm Paris , chuyên gia về các định chế Pháp và quốc tế, những vấn đề Đông Nam Á và đặc biệt là Việt-nam…, và là thành viên Hàn Lâm Viện Khoa học Pháp Quốc Hải Ngoại…)
mà là vì giá trị của những biên khảo hàn lâm, những kiến thức uyên bác, những nhận định, phê binh về chính trị, về các định chế điều hành sinh hoạt cộng đồng và xã hội, về văn hóa… trong nhiều tác phẩm nghiên cứu được tái bản nhiều lần, tiêu biểu như :
La Constitution de la Ve République, de Charles De Gaules à François Mitterrand, STH, 4ème édition, 515 pages, Paris 1989 ; Les systèmes politiques démocratiques contemporains, 4ème édition actualisée, 228 pages, STH Paris 1994; La constitution de 1958, L'Hermès, Paris 1996; Initiation au droit, L'Hermès, Paris 1996; Finances publiques, L'Hermès, Paris 1997; Les systèmes politiques démocratiques, Éditions Ledrappier, Paris 1987…; Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde, Institut de Sociologie, Bruxelles, 1971. (100) Contes philosophiques d'Asie, L'Harmattan, Paris 2005….
Ngoài những tác phẩm viết bằng pháp ngữ về luật pháp, xã hội, thi ca, văn hóa; Lê Mộng Nguyên đã viết bằng việt ngữ nhiều bình luận văn chương (đặc biệt là thơ và tiểu thuyết), âm nhạc, về các sáng tác của các tác giả người Việt trong và ngoài nước. Chưa kể đến những biên khảo về chính trị, những nhận định về tình hình Việt Nam được phổ biến trong các tạp chí, tuyển tập phát hành trong cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại. Đây không chỉ là những kiến thức uyên bác khách quan, nhưng còn phản ảnh những nỗi thao thúc, những tình tự của người con xa xứ, khao khát muốn sớm thấy tổ quốc Việt Nam sớm được dân chủ và tự do.
Nhưng bên trên, bên ngoài một Lê Mộng Nguyên tài ba và thành đạt đó, điều đáng cho những người tiếp cận ghi nhớ chính là con người và cung cách « kẻ sĩ » của anh.
Người xa khi nghe đến tên tuổi và sự nghiệp của Lê Mộng Nguyên hẳn sẽ ngạc nhiên khi trực tiếp tiếp cận qua liên lạc thư từ, trò chuyện, tâm sự hay sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật với anh. Có duyên gặp anh rất trễ từ sau năm 2000, nhưng qua cách nói, nơi thái độ niềm nở ân cần, và nhất là với nụ cười và cái nhìn thiết thân của anh, ngay trong lần đầu tiếp xúc tôi giật mình đối diện với một « kẻ sĩ » (2) mà tôi tưởng chỉ có thể hình dung trong ước lệ văn chương.
 Thái độ khoan thai, cách ăn mặc nghiêm túc nhưng dung dị, lời nói cẩn trọng nhưng hết sức chân thành ấm áp, vẽ ra trước mắt tôi chân dung một nhà nho trong văn hóa truyền thống. Nụ cười dễ dàng và cái nhìn rất hồn nhiên của anh như sao chép hình ảnh một chân nhân của đạo học hoàn đồng. Phải, nơi anh, có vết tích nét thanh cao, bình dị của văn hóa Á Châu, có tác phong lắng nghe, lối tiếp cận tự nhiên, thẩng thắn, tinh thần bình đẳng và sẳn sàng phục vụ của tinh hoa văn hóa Tây Phương. Nói theo kiểu nói của người Pháp, anh là « sinh loại họa hiếm » trong một xã hội thích tôn vinh những con người phô trương, cao ngạo và hời hợt nhất thời.
Có một điểm làm cho người tiếp cận ngạc nhiên nữa đó là sự tha thiết gần như quá mức của anh về những sáng tác thơ văn và âm nhạc, những tiểu thuyết, truyện, tùy bút, hồi ký, luận văn … của người Việt sống kiếp lưu vong. Trong lời nói đầu cuốn sách của anh tựa đề Nhà Văn Hải Ngoại do nxb Nắng Mới, Đức Quốc, xuất bản năm 2006, anh từng thổ lộ :
« Tôi đã viết với quả tim, hơn là theo lý trí, và với nhiều cảm xúc, rung động của tâm hồn, tôi muốn quí độc giả chia xẻ nhũng giây phút hạnh phúc hay nhớ nhung mà thơ văn, nhạc viễn xứ đã đem lại cho tôi. » (trang 7)
Mối thâm tình thân thuộc đối với đồng hương xa quê, nỗi nhớ nhung kỳ lạ đã chi phối chính con người anh, văn phong trong các sáng tác, tất cả như cũng chỉ là những biểu hiện phát xuất từ nguồn suối thi ca mà chúng ta đã ghi nhận qua nhạc của Lê Mộng Nguyên : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Văn hóa Hy-lạp gọi Suối Xưa (ẩn kín) nơi bản nhạc Trăng Mờ Bên Suối là Đại Ký Ức , là Nguồn hứng của thi ca đến từ bên kia bờ, là nơi mà Lão Tử trong Đạo Đức Kinh gọi là Huyền Môn (3) . Suối Xưa đó chính là tên gọi của Lời sâu kín cư ngụ nơi tâm hồn của mỗi người.
Theo như lối định nghĩa thi ca của Socrate (4) , từ Nguồn Suối Xưa, Lời Người hẹn từ muôn thủa làm tan biến những hiểu biết của trí khôn tính toán so đo, và đồng thời thổi vào « người thi sĩ » một hồn thơ, một linh khí giúp « kẻ ngộ duyên » ấy có thể nói lên chiều kích thần thiêng của nhân tính. Lời Người hẹn đó cũng là « Thi » hay Lời Thơ giúp « kẻ sĩ » nói lên được lời nhân nghĩa như trăn trối của Khổng Tử cho con của Ngài là Bá Ngư (5). Và cũng do tác động của Nguồn Suối Xưa, Nguồn suối bên bóng trăng mờ, mà trong đại tác phẩm Prométhée bị trói, thi hào Eschyle hứng khởi loan tin về nét cao cả của nhân tính nơi mối tương giao kỳ bí (relation nocturne, mystérieuse) với Đấng Tối Cao hay Thần giấu mặt :
Iô : Những giấc mơ đêm đêm ghé giường trinh nữ của tôi, và thì thầm bên tai : « Hởi nhi nữ đầy ơn phúc, tại sao phải ở không như thế, khi nàng có thể có được phu quân là Đấng Tối Cao ? Nàng có biết Thần Zeus, vì nguồn tình yêu nồng cháy của Ngài, đã say đắm nàng : xin nàng chớ từ chối thần duyên nầy ! (Eschyle, Prométhée bị trói, cc. 645-651).
Chính vì cảm hứng từ Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa mà ca khúc Trăng Mờ Bên Suối đã làm làm sống lại Đại Ký Ức hay Nguồn Suối thần thiêng nơi tâm hồn của người Việt chúng ta. Cảm hứng kỳ lạ, hẳn không phải do tài gì của chàng thanh niên Lê Mộng Nguyên mà phát sinh, nhưng là Duyên thi ca đến với anh. Cảm hứng đó là hồn thơ người Việt lên tiếng nói, một hồn thơ đã đến với Vũ-Quỳnh (trong Lĩnh Nam chích quái, 1492), Nguyễn-Du (trong Kiều, đầu thế kỷ XIX), Tản Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu (trong Thề Non Nước ,1922) … trước đây. Hồn thơ đó làm rung động người dân Việt, làm nên nét tinh hoa văn hóa Việt, và đủ sức đưa văn hóa đó vào gia sản chung của văn hóa nhân loại.
Thực thế, trong truyện huyền thoại dựng nước Họ Hồng Bàng của cuốn Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh hiệu chính, Âu Cơ là Mẹ muôn người, là Nguồn của người « linh ư vạn vật », khi người nữ nầy là hiện thân của Nổi Nhớ Lạc Long Quân và là người gặp « Người hẹn cùng ta » ấy ở Tương Dạ (Tương Dạ đúng là « Đêm gặp gỡ » hay Tâm sâu kín nối kết Trời Người và mọi người với nhau) :
Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân (…) Bố ở phương nào,làm cho mẹ con ta thương nhớ. Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ (6)ï.
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa cũng là lời Đạm Tiên - Người mà thủa xưa ai cũng khao khát mến chuộng, nhưng nay vì « má đào, tài sắc » của thân phận con người « vốn lãng quên mệnh thanh cao của mình », nên đã bị vất bỏ bên lề cuộc sống -. Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời đến từ bên kia bờ đến với Kiều trong « giấc mộng ban đêm » tiên đoán cơn đau của cuộc chiến Tài-Mệnh, cuộc chiến làm người hướng đến Duyên cứu độ (Giác Duyên) trên sông Tiền Đường.
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời Thề Non-Nước lời thề của nhân tính linh thiêng phát sinh từ cội nguồn cao cả đến với con người bị cuốn trôi bởi lo toan thế sự. Non ấy của thi sĩ Tản Đà không phải là Người hẹn cùng ta của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên hay sao ?
Nước Non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng Non
Nhớ nhời nguyện nước thề Non
Nước đi chưa lại Non còn đứng không
(trích Tản Đà, "Thề Non Nước")

Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi đây xa cách
Rồi đây hai ngả biết tới phương nào?
(…)
Một ngày xa nhau xoá bao hình bóng
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ
. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, "Trăng Mờ Bên Suối")
Không thể không thấy rằng các sáng tác của Lê Mộng Nguyên thể hiện lối văn chương và thi ca tiếp liền các trào lưu thời tiền chiến, nhưng nguồn thi hứng và văn phong của tác giả không chìm vào những giấc mộng « ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây » của các tác phẩm tác chịu ảnh hưởng phái lãng mạng Pháp. Con người và văn phong của Lê Mộng Nguyên, đặc biệt trong kiệt phẩm Trăng mờ bên suối có một nét độc đáo vượt lên trên các trào lưu.
Một Âm hưởng, một Lời thơ nào đó lạc bước đi vào văn chương và con người của anh. Phải chăng Âm hưởng và Lời thơ đó tiếp cận được điều mà triết gia Karl Jaspers nói là dư âm tiếng gọi con người thời đại vượt cảnh vực thế sự để suy tư về cõi linh thiêng muôn thủa của tâm hồn mình (7)
Cước chú:
(1) Điều đáng lưu ý là đa số các đạo diễn điện ảnh Việt-Nam vào các thập niên 50, 60,70 là gốc người Huế, trong đó có đạo diễn Lê Mộng Hoàng là anh ruột của Lê Mộng Nguyên.
(2) Nhận xét nầy của người viết chỉ là phản ảnh những cảm tưởng của các giáo sư, các nhân sĩ, các sinh viên…, tóm lại là các tham dự viên các khóa Đại Học Hè VNHN (khóa 6 - tháng 07/ 2002 tại Oslo, Na-Uy, khóa 7, tháng 08/2003 tại Violau, Đức), Ngày gặp gỡ các tôn giáo Viễn Đông, tháng 03/2004, tại Centre St. Thomas, Strasbourg, Pháp), Ngày gặp gỡ văn hóa thường niên VNHN (tháng 08/2008, tháng 08/2009 ở Bruxelles) do Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức.
(3) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ch 1. : Huyền chi hựu Huyền, Chúng diệu chi Môn.
(4) PLATON, Ion. 534 c-d; 534 e :.Socrate.- Không phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian các thi sĩ !
(5) Luận Ngữ, XVI-13 : Bất học Thi, vô dĩ ngôn - Không học Thơ, không có lời để nói.
(6) Vũ Quỳnh, Lĩnh Nam Chích Quái, bản dịch Lê Hữu Mục, Huế, 1960, tr. 43-44.
(7) Khi mô tả sứ điệp văn hóa của các thánh nhân, Karl Jaspers viết : Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình, mà còn giúp con người nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận. Vì thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại. (Les grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et autres, Plon, Paris, 1989, tr. 36)


NGƯỜI ĐẸP XỨ HUẾ

 Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016

00:14:00 11/06/2016

Xinh đẹp, dịu dàng và thần thái đúng chất thiếu nữ Huế, nữ sinh này đang trở thành tâm điểm của cuộc thi.

2 năm 1 lần, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam lại bắt đầu, và là dịp tuyệt vời nhất để chúng ta có thể chiêm ngưỡng các nhan sắc thuần Việt. Đây được xem là cuộc thi sắc đẹp danh giá nhất Việt Nam, khi người đăng quang sẽ đại diện cho nhan sắc và trí tuệ Việt, để quảng bá và đại diện cho phái đẹp Việt Nam tham dự các cuộc thi Hoa hậu của Thế giới. Bởi vậy, cuộc thi luôn thu hút rất lớn sự chú ý của mọi người qua từng giai đoạn.
Mới đây, Hoa hậu Việt Nam 2016 đã chính thức lộ diện Top 30 nhan sắc sẽ tranh tài ở vòng Chung khảo phía Nam. Và trong số đó, cô nàng được mệnh danh là "Nàng thơ xứ Huế" Lê Trần Ngọc Trân là một trong những gương mặt đang nhận được nhiều sự chú ý.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 1.
Nữ sinh nổi bật trong cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2016 - Lê Trần Ngọc Trân

Nếu là người yêu mến nhan sắc Việt, chắc bạn cũng từng 1 lần nghe đến tên của cô gái này. Ngọc Trân, sinh năm 1995, từng đạt danh hiệu Người đẹp du lịch Huế 2015, là nữ sinh nổi bật nhất của xứ Huế. Cô nàng từng xuất hiện và ghi điểm mạnh mẽ trong video quảng bá du lịch Việt Nam "Welcome to Vietnam" của Bộ Ngoại giao năm vừa rồi. Trân hiện đang là nữ sinh khoa Báo chí - Truyền thông của trường Đại học Khoa học Huế.
Ngọc Trân tự tin giao lưu sau khi đăng quang Người đẹp du lịch Huế 2015. 
 Ngọc Trân xuất hiện ở 1:53 trong clip Welcome to Vietnam. 
 Cực xinh đẹp trong video Vàng son một thuở - Nostalgic grace
Đúng chất thiếu nữ Huế, vẻ đẹp của Ngọc Trân thật biết cách khiến người ta phải xao xuyến. Cô sở hữu gương mặt tròn phúc hậu, với đôi mắt to và nụ cười tươi tắn. Đặc biệt, vẻ dịu dàng trong khí chất cũng như sự thanh thoát mà cô tỏa ra khiến nhiều người phải trầm trồ. Nhiều người còn nhận xét rằng, cô có nét đẹp rất giống Hoa hậu Việt Nam 2004 Nguyễn Thị Huyền.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 5.
Nền nã trong tà áo dài Việt.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 6.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 7.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 8.
Ống kính hậu trường cuộc thi luôn hướng về cô nàng.


Bên cạnh đó, Ngọc Trân còn gây ấn tượng bởi thành tích nổi trội của mình cả trong học tập lẫn các hoạt động nghệ thuật. Cô từng đạt học sinh giỏi 10 năm liền, Giải Nhì Hội thi Bí thư Chi đoàn cấp Thành phố, Gương mặt tiêu biểu thực hiện cuộc vận động tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Giải Nhất cuộc thi Học sinh thanh lịch THPT Quốc Học Huế. Ngoài ra, cô còn là gương mặt MC quen thuộc của TP Huế những năm gần đây. 
Cách đây vài năm, Ngọc Trân cũng đã từng xuất hiện trong bộ ảnh áo dài nữ sinh xứ Huế với vẻ đẹp dịu dàng, tinh khôi.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 9.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 10.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 11.

Vì lẽ đó, mà trong cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm nay, Ngọc Trân chính là 1 trong những cái tên sáng giá nhất cho danh hiệu cao nhất. Cùng xem thêm 1 số hình ảnh khác của "Nàng thơ xứ Huế" này nhé.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 12.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 13.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 14.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 15.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 16.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 17.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 18.
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016 - Ảnh 19.
Theo PP / Trí Thức Trẻ
 http://kenh14.vn/gap-lai-nu-sinh-ao-dai-noi-tieng-nhat-xu-hue-tai-hoa-hau-viet-nam-2016-20160610231449702.chn

6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ 

 


 Con gái Huế có những tính cách như thế nào và có nên lấy họ làm vợ không, dưới mắt một chàng trai?

 1. Con gái Huế sống nền nếp và gia phong

 
Con gái Huế luôn sống có phép tắt trong ứng xử với bố mẹ và người lớn trong gia đình. Những nề nếp ấy đã trở thành khuôn phép truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô gái Huế nào khi đi ra ngoài cũng đều xin phép gia đình, có khách thì phải cúi chào, và đặc biệt con gái Huế không được đi chơi đêm quá 21h.

 
2. Con gái Huế sống thân thiện và đặc biệt thiện tâm

 Con gái Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Họ luôn luôn quan tâm, hỏi han và giúp đỡ người khác những lúc gặp khó khăn. Và đặc biệt, người lạ gặp con gái Huế rất dễ dàng bắt chuyện và hòa nhập vào câu chuyện một cách vui vẻ vì họ luôn luôn cởi mở, thân thiện, gần gũi và hiếu khách. Con gái Huế đặc biệt sống rất hiền, thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức.

  INCLUDEPICTURE "http://cdn.8showbiz.com/Upload/Picture/1336618442-hue-nha-uyen.jpg" \* MERGEFORMATINET

 
3. Con gái Huế kín đáo và trầm lặng

 Họ là những cô gái rất trầm lặng và ít nói, sống luôn luôn giữ kẻ, hết sức kín đáo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày với ba mẹ, người lớn tuổi và bạn bè. Họ không bao giờ muốn mọi người biết về những khó khăn mà họ đang gặp vì không muốn để ai bận tâm. Con gái Huế không để xảy ra điều to tiếng, hay gây chuyện buồn cho khách khứa láng giềng.

 
4. Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu

 Con gái Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản để cân bằng tiền bạc, họ luôn cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc vì họ suy nghĩ đến tương lai lâu dài. Họ không giống nhiều người nhiều nơi khác, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm chừng nào thì tiêu chừng đó.

 
5. Con gái Huế dịu dàng và e ấp

 Người con gái Huế từ lâu đã nổi tiếng là dịu dàng với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng. Con gái Huế đi lại nhẹ nhàng và ăn nói nhỏ nhẹ. Dường như mỗi người con gái Huế đều mang trong mình một nét gì đó rất đỗi kín đáo và e ấp. Có rất nhiều chàng trai xứ khác khi đến Huế đều cảm nhận được đó là điều đầu tiên.

  INCLUDEPICTURE "http://cdn.8showbiz.com/Upload/Picture/10723626_811571628894610_1727943222_n_uwau.jpg" \* MERGEFORMATINET 
 INCLUDEPICTURE "http://www.dulichvietnam.com.vn/data/Non%20la%20Hue10.jpg" \* MERGEFORMATINET 


 6. Con gái Huế cầu kì trong chế biến ẩm thực

 Với tất cả mọi người dân xứ Huế, nấu ăn là thể hiện sự khéo léo và nghệ thuật, chính vì thế, họ luôn coi trọng việc trang trí món ăn. Với quan niệm: “ăn” trước hết là “ăn bằng mắt”, người con gái Huế rất chú trọng vào việc làm cho món ăn không chỉ ngon mà còn phải bắt mắt và thu hút.

 6 lý do đó đã đủ thuyết phục để bạn chọn một cô gái Huế làm vợ chưa? Tính cách của con gái Huế còn là một “kho tàng bí ẩn” mà bạn hãy chính là người tìm hiểu nó nhé.

 Theo Buzz New
Tiến Đạt
Con sông dùng giằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Đó là hai câu thơ mà nhà thơ Thu Buồn diễn tả về tính cách của con người xứ Huế với đề tài tự một dòng sông êm đềm, thợ mộng – dòng Hương giang.
Như chúng ta đã biết, có rất nhiều yếu tố để tạo nên một sắc thái văn hóa Huế riêng. Đó có thể là những giá trị văn hóa lịch sử, những danh thắng thiên nhiên kỳ thú, những công trình kiến trúc nhuốm mùa thời gian,…Tính cách người Huế cũng góp một phần tạo nên sắc thái văn hóa Huế riêng đó. Vậy tính cách người Huế được thể hiện như thế nào? Những yếu tố nào đã tạo nên những nét tính cách đó, chúng ta hãy cùng tìm hiểu.
 INCLUDEPICTURE "http://www.bachhac.net/bridging/nguoihue-001.jpg" \* MERGEFORMATINET 
Hai cô gái Huế yêu kiều bên khung cửa, ảnh Hoàng Hà
            Những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Huế tôi đã cảm thấy rất ấn tượng không chỉ vì vẻ đẹp của những thắng cảnh thiên nhiên (sông Hương, núi Ngự), sự cổ kính của những đền đài, lăng tẩm,…Tôi còn bị “cuốn hút” bởi con người Huế với tính cách dịu dàng, dễ thương pha lẫn sự kín đáo e ếp, với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng. Từ tất cả sự lôi cuốn đó, tôi đã quyết định gắn bó với Huế và thử tìm sự lý giải về tính cách của người Huế là như thế nào?
Trong con mắt của một người xứ Bắc tuy chưa thực sự hiểu sâu về người Huế, nhưng tôi nhận thấy tính cách con người Huế được thể hiện qua những điểm sau:
Người Huế gần gũi và thân thiện. Người Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Luôn nhận được sự quan tâm, hỏi han và giúp đỡ của người Huế những lúc gặp khó khăn. Đó là điều đầu tiên tôi cảm nhận được khi tôi ở trong khu nhà trọ trong thời gian đầu tôi vào Huế.
Người Huế kín đáo và trầm lặng. Họ ít nói, sống luôn giữ kẽ và hết sức kín đáo trong lời ăn, tiếng nói hằng ngày, họ thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để điều to tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng.
Người Huế đi ngủ sớm. Huế không sống nhiều về đêm như những thành phố lớn khác, khoảng 10h kém là tất cả đã về nhà, không sinh hoạt gia đình thì làm việc hoặc đi ngủ sớm, đường phố Huế về đêm chủ yếu là khách du lịch và sinh viên ngoại tỉnh, những người vẫn chưa thể quen với nếp sinh hoạt đó. Ở nhiều khu trọ cho sinh viên, chủ nhà luôn thông báo cho sinh viên đến ở trọ giờ giới nghiêm là 22h. Huế yên bình nhưng về đêm thì càng yên bình hơn nữa, người ta có thể ngồi trầm tư mà không lo ai quấy rối giữa đêm.
Người Huế sống hoài cổ và thủ cựu. Điều này thể hiện ở cái cách mà người Huế tiếp nhận cái mới, cái lạ, tất cả những gì mới và lạ du nhập vào Huế đều cần phải có một thời gian dài, phải nói là rất lâu mới có thể bám rễ và phát triển ở Huế, phải trải qua một quá trình thẩm thấu, chọn lọc thật kĩ thì những cái đó mới được người Huế đón nhận, từ nghệ thuật cho đến văn hóa, thể thao và nhiều cái khác nữa. Chẳng hạn, ở Huế người ta chuộng nghe nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn hơn là nhạc trẻ - nhạc thị trường, thị trường nhạc trẻ ở Huế không sôi động như các thành phố khác. Văn hóa cũng vậy, phần đông người Huế vẫn quý trọng mái tóc và tà áo dài của người con gái, nhẹ nhàng và thanh thoát, tất cả mọi người đều quý trong những giá trị truyền thống, những cái cốt lõi, cái tinh túy đã song hành với họ trong cuộc sống.
Người Huế sống nền nếp và gia phong. Bước vào các gia đình Huế người ta sẽ cảm nhận ngay được rằng người Huế sống rất có phép tắc từ già tới trẻ, từ đàn ông con trai đến đàn bà con gái, tất cả tuân theo một khuôn phép đã có trước đó từ rất lâu đó chính là truyền thống nền nếp gia phong. Người lớn tuổi được kính trọng và đề cao, lớp trẻ chỉ cần đi vào nhà thấy khách đến chơi là phải thưa, đi thì phải xin phép gia đình và khách. Người đàn ông trong gia đình được đề cao, đặc biệt là người chồng, người cha có một ví trị hết sức quan trọng, là trụ cột của cả gia đình. Người cha, người chồng trong gia đình có quyền quyết định mọi chuyện của gia đình, ý kiến của gia đình và đặc biệt của người cha ảnh hưởng rất nhiều đến sự lựa chọn của con cái trong gia đình.
Người Huế sống tiết kiệm và chắt chiu. Khác hẳn như ở miền Nam, chỉ có Huế là thành phố không chịu ảnh hưởng văn hóa tiêu dùng phương Tây trong thời kì chủ nghĩa thực dân mới nô dịch nước ta. Khác hẳn với thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, người Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản, cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc, đối với Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh thì người ta không phải suy nghĩ nhiều đến thế, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm hôm nay thì tiêu hôm nay, ngày mai tiêu ngày mai. Thời tiết khắc nghiệt, mưa bão nhiều, không thuận lợi trong phát triển kinh tế, thiên tai thất thường khiến cho người Huế luôn tích trữ lương thực và đặc biệt là tiền bạc cho những lúc cần dùng đến, rồi ốm đau bệnh tật,… tất cả tạo nên tính cách rất riêng của Huế.
Người Huế cầu kì trong chế biến ẩm thực. Với người Huế, nấu món ăn là để thể hiện sự đam mê nghệ thuật. Với quan niệm “ăn” trước hết là “ăn bằng mắt”, nên người phụ nữ Huế rất dụng công trong việc tạo hình các món ăn một cách nghệ thuật, tạo nên sự truyền cảm mạnh mẽ mỗi khi ngồi vào bàn tiệc. Tất cả kinh nghiệm chế biến được truyền dạy từ thế hệ này qua thế hệ khác và ngày càng hoàn thiện hơn.
Người Huế sống thánh thiện. Đây là đánh giá của phần đông những người được hỏi, theo họ người Huế sống rất hiền lành, họ thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức cho quan cháu.
Người Huế sống gần gũi với thiên nhiên. Điều này được thể hiện cụ thể nhất trong lối kiến trúc Nhà Vườn mà chỉ ở Huế mới có. Những người đến Huế rất thích những ngôi nhà vườn của Huế, những ngôi là rợp bóng mát của cây trái.
Đi tìm lý giải tính cách của người Huế: Để có được sự độc đáo riêng về những nét tính cách đó chắc hẳn phải có rất nhiều yếu tố chi phối. Vậy đó là những yếu tố nào?
            Yếu tố địa lý
Huế nằm trên dải đất miền Trung đầy nắng và gió với bao khó khăn trong cuộc sống. Phía Nam của Huế là đèo Hải Vân bức tường thành tự nhiên đã tạo nên cho Huế một kiểu khí hậu mà chỉ có ai yêu Huế, sinh ra và lớn lên ở Huế mới chịu đựng nổi: mưa dầm dề triền miên và nắng cháy da cháy thịt. Điều kiện thiên không ưu đãi khiến cho người Huế phải sống chắt chiu, tiết kiệm để có thể tồn tại trên mảnh đất này. Thiên tai, bão lũ thường xuyên khiến cho người Huế phải sống gần gũi nhau hơn, quan tâm nhau nhiều hơn để cùng nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn, để khi tắt lửa tối đèn thì còn có nhau.
            Yếu tố Lịch sử
Huế trong hơn 300 năm là thủ phủ của Đàng Trong và hơn 140 năm là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam nên vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ phong kiến, thể hiện cụ thể ở tính hoài cổ, thủ cựu, nền nếp, gia phong và cầu kì trong chế biến ẩm thực.
            Yếu tố Tôn giáo
Huế là trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với hàng trăm chùa lớn nhỏ. Người Huế từ nhỏ đã biết chắp tay cúi lạy, đã biết niệm Nam mô A di đà Phật và được đến với chùa vào các dịp rằm hay lễ tết nên tư tưởng Phật giáo thuần nhuần trong người Huế. Ở Huế có mô hình gia đình Phật tử, đây là đặc trưng mà không nơi nào có được. Tư tưởng Phật giáo từ bi hỉ xả, khuyên mọi người làm việc thiện, tu tâm, tích đức cho đời sau. Chính vì vậy mà người Huế sống thánh thiện và gần gũi với thiên nhiên cây cỏ.
Kết luận
Tính cách là một trong những nét đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền, và là cái để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho mỗi du khách khi đến thăm vùng đất đó, dân tộc đó. Tính cách người Huế thực sự là một “kho tàng lớn” về sự thú vị cho mọi người dần khám phá.
*********************************************************************************
Thục nữ ... xứ Huế
Tôn Thất Hứa
Trải trên mảnh giấy những tâm tình chìm lặng trong ký ức tôi sau hơn nửa thế kỷ làm người,
Thân tặng các tiểu sư muội & các nữ sinh viên trường Y Huế  ..... và các cựu nữ sinh của tôi tại
Trường Trung Học Nông Lâm Súc Huế (1965 – 1967)
Trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế (1969 – 1972)
Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia Huế (1969 – 1972)
"thầy có nhớ em không", câu chào hỏi chứa chan bao nhiêu tình cảm đậm đà cứ mổi lần gặp lại học trò cũ của tôi trên các nẻo đường đất nước & trong những lần mổ nhân đạo các trẻ em tại miền Trung
Sinh ra, lớn lên và được học hành và thành đạt ngay tại đất thần kinh văn vật, quãng đời mang cái thân chùm gởi, số phận nổi trôi như bông bèo nó dài hơn thời gian sinh sống yên lành bên bờ sông Bến Ngự.

Đẹp từ nết nghĩ đến nết cảm, con gái Huế từ xưa đến nay vẫn vậy. Cái duyên dáng của người con gái xứ Huế được thể hiện qua mái tóc thề buông dài xỏa kín hai bờ vai. Mái tóc thề của các kiều nữ đất thần kinh thoang thoảng mùi hoa dạ lan, biểu tượng cho nét nguyên trinh của thuở ban đầu với tà áo trắng học trò, cái tuổi chóm nở tình yêu ban đầu. Làn gió thu ba vời vợi chứa đựng cái u sầu của tình Huế. Nụ cười hàm tiếu e ấp thẹn thùng dưới vành nón lá che ngang mặt ... để "nghể" đối tượng... để rồi bôi thêm cái nét sượng sùng dễ yêu mỗi khi bị bắt gặp quả tang.

Trong tâm tư của tôi, dưới lăng kính mỹ thuật của người Huế ... thì người con gái sinh trưởng nơi sông Hương núi Ngự được nhìn dưới một góc cạnh đặc biệt: đường ngôi rẽ lệch về bên phải, mái tóc thề rung rinh theo bước đi thật là nhẹ nhàng khoan thai, thân mình vươn đi thật yểu điệu cố tình không gây ra tiếng động uyển chuyển của con mèo vồ chuột, tà áo tung bay theo luồng gió. Qua những thể hiện trên đây con người cảm nhận một cái vẻ đẹp trời cho, rất chi là thơ mộng kín đáo. Ở đây sự đối xứng và sự kết hợp màu sắc không còn được tôn trọng.

Chiếc áo dài choàng trên thân thể người con gái Huế mang lại một phong cách độc đáo và truyền thống. Vẫn là chiếc áo dài Việt-Nam có cội nguồn từ chiếc áo tứ thân cổ truyền, theo dòng thời gian và tuân theo sự biến đổi các thời trang nhưng trên con đường cải tiến để theo con đường nghệ thuật biến dạng, cô gái Huế đã tạo cho mình một phong cách riêng qua kiểu mặc, cách may, màu sắc áo kết hợp với quai nón. Áo dài Huế cổ không cao chỉ cao vừa phải, eo áo không thắt đáy lưng ong nhưng... lại không bó quá, tà áo không xẻ quá cao và áo không chấm gót như áo Sàigòn. Đặc biệt, thục nữ đất thần kinh thể hiện nét riêng của mình qua cách chọn các loại vải với màu khác nhau; đen tuyền, trắng ngà vào giai đoạn lớn lên của tôi thì màu tím được các bạn cùng lớp ưa chuộng nhất, các màu nhẹ như xanh lơ, hồng nhạt, vàng mơ, tím phớt.... điểm son vài bông hoa màu đậm hay nhạt hơn màu vải một chút. Người thục nữ anh thư của Huế không chọn các loại vải có hoa to, màu nền và hoa quá tuơng phản, sặc sỡ...

Tà áo dài tím hay trắng cùng chiếc nón bài thơ luôn luôn dính liền với hình bóng người con gáiHuế mọi lúc, mọi nơi, trong nhà ngoài cươi hay trên hè phố. Người thợ chằm nón nơi đây đã bỏ bao nhiêu công phu để chằm lên những chiếc nón khéo léo ít nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam có thể bì kịp. Cọng tre cái được chuốt nhỏ như tăm, mượt trơn như ngà, nhẹ như khung bấc; những tấm lá cọ phơi khô, xếp hàng trắng muốt xếp hàng đều trên mặt khung, những sợi cước trong suốt khâu kín đáo, tỉ mỉ những nếp lá mềm dựa vào thân nón. Soi nón lên mặt trời, nằm giữa những thân lá mỏng tanh được xen vào giữa những cành hoa là những câu thơ được người thợ chằm nón lồng khéo léo vào giữa các lớp lá. Ôi ... cái mỹ miều người thục nữ xứ Huế còn được trang điểm thêm chiếc quai lụa nón đủ màu, khi thì màu tím ấp ủ, khi màu vàng mỡ gà, khi thì màu hồng ráng chiều, cũng có khi người con gái Huế chọn chiếc quai nón lụa trắng bạch hay giải yếm gấm đen để tôn thêm làn da khuôn mặt người đội nón.

Gái Huế là rứa đó, ấm như nắng hè, thơm như múi mít, ngọt như mật ong, óng mướt như tơ tằm, và... người con gái Huế cũng sắc như lưỡi dao lame, nóng như gió Lào thổi của mùa hè, lạnh như mùa đông miền bắc cực, can trường như núi đá Trường Sơn, thâm trầm như biển sâu ...  nhưng khi đã yêu rồi thì gái Huế chấp nhận tất cả .

Gặp rồi để khó mà quên.
Tiếng Huế, một “ngoại ngữ ?”

Võ Hương An

Người bạn đời gốc Bắc (nhà văn Thanh Nam) của nữ sĩ Túy Hồng có lần đã phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:
“Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe , không làm sao chen vào được một câu” (Túy Hồng, Áo Rộng Khăn Vành, TSH 1990, p.14)
Mới nghe qua tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương ?
Sau năm 1954, hơn một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa Đỏ, đã sống rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Và dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua, họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò thông cảm. Còn Huế mình, khi tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam hoặc Bắc, nếu không được khéo léo rặt ròng như Nam, Bắc chính cống thì cũng lơ lớ cho người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện trong gia đình hay với đồng hương cơm hến. Bà xã tôi có cô em bạn dì ruột, sinh đẻ ở Huế, sau mới vào theo gia đình vào Sàigòn sinh sống. Dì ấy lấy chồng gốc Bắc 54. Khi vợ chồng tôi đến nhà thăm, cô nói chuyện bằng giọng Huế rặt, nhưng quay lại nói với chồng hay bà già chồng thì đổi ngay giọng Bắc, rất nhuần nhuyễn, rất tự nhiên.
Việc không đổi giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng của người Huế tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không nghĩ như thế.
Đồng bào miền Bắc tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói, không phải do mặc cảm tự tôn rằng đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặc khác, người Huế tha hương thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn cảnh.
Thật vậy, việc gì đồng bào miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối thoại? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp khiến đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại, giải thích này nọ, mất thì giờ. Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay đổi, tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.
“Thương nhau, thương cả đường đi.” Nhà văn Thanh Nam vốn quen với nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao ... nhưng vì yêu nữ sĩ Túy Hồng nên phải ráng nghe và hiểu hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng... Còn người dưng nước lã với nhau, lấy gì làm áp lực để buộc người nghe phải hiểu điều mình nói ? Nói mà người khác không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự điều chỉnh cho hợp với nhu cầu thực tế là sự thích ứng hoàn cảnh một cách khôn ngoan. Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh là nhờ tinh thần hội nhập thực tế. Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất Trung Hoa của họ. Hòa mà không hùa là thế.
Ai cũng biết Tổng thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế, nhưng khi nói trước công chúng, khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng Nam. Ông mang mặc cảm trọ trẹ chăng? Hẳn nhiên là không. Trong nước lúc bấy giờ, ông là người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó mà buộc quốc dân phải nghe cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông hiểu rằng ông cần được hết thảy người dân của mọi miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Trong bài viết nói trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách.” Đó cũng là một trong những lý do trong sự đổi giọng của Tổng thống Ngô Đình Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và truyền hình v.v. Nói trước đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách lại rất dễ lọt lỗ tai. Có lẽ cũng vì cái ưu điểm “giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn xả vào làm rể xứ Huế chăng ??
Tôi không phải là một nhà ngữ học. Vì vậy những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường. Đứng trước một thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế”) đối với đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao? Để dễ thông cảm, ở đây xin tạm hiểu “giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói, còn “tiếng” dùng để chỉ về ý nghĩa của chữ dùng. Đôi khi trong “tiếng” bao gồm cả “giọng”, chẳng hạn cái tiêu đề của bài này.
  Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc về một âm vực khó nhận ra? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp, người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình. Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe? Điều này xin để bàn tay chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp.
Riêng tôi, nghĩ rằng nếu miền Bắc và miền Nam có được giọng nói dễ nghe thì họ lại rất khó giả giọng của miền khác; trái lại, nếu âm vực của giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tính, khó nhận ra đối với người ngoài, thì cũng chính cái đặc điểm trung tính này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp mọi miền một cách không mấy khó khăn. Giọng Bắc, giọng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sàigòn . . . người Huế đều giả được tuốt. Cũng tỉ như nước lả không màu; nước không màu chứa trong ly thủy tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu và muốn pha màu gì cũng được. Nghĩ sao nói vậy, chứ tôi biết ý kiến này sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm.”
Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi dấu ngã, không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với “t”. Nếu từ Quảng Nam trở vào khó phân biệt âm “b” và “p”, đến nổi khi đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay bê phở”, ( ngay cả đến những bậc khoa bảng nói tiếng Tây như gió , cũng có lúc nói âm “bê phở” chưa chỉnh) thì ở Huế, tại vùng quê, và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt sự khác nhau giữa các âm “gi”, “d” và “nh”. Người già và người nhà đều được nói giống nhau.
Sau khi làm xong cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già rằng :”Mặc dầu cháu đã tính toán khá kỹ, vậy mà cuối cùng cũng phải mượn thêm của bạn bè mói đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù.” Ông cụ thản nhiên đáp: “Cháu không nghe à? Ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (làm nhà), chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt tiền thôi.” Rõ ràng là ông cụ chơi chữ theo kiểu Huế, trộn lẫn âm thanh và ý nghĩa để biện luận theo ý mình. Các bạn miền khác hẳn khó mà thưởng thức lối đùa cợt chữ nghĩa theo kiểu đó.
Tôi không biết khi một người ngoại quốc học tiếng Việt thì cái khó nhất đối với họ là gì? Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, và không dấu) bằng trắc khác nhau, nghe như điệu hát chăng? Văn phạm chăng? . . . Riêng đối với người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi ngã cho đúng đã là một vấn đề. Hồi còn học tiểu học, thầy dạy lớp Nhất (lớp 5) đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng với câu thần chú “Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không”. Ý thầy muốn cho chúng tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu Huyền hay dấu Nặng thì phải đánh dấu Ngã; còn chữ nào đi với chữ có dấu Sắc hay Không dấu thì phải đánh dấu Hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải học thuộc lòng. Chẳng hạn:
- nghĩ ngợi thì nghĩ có dấu ngã, nhưng nghỉ ngơi thì nghỉ lại có dấu hỏi.
- sừng sững và sững sốt cũng thế.
Thần chú như thế kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả không khỏi tốn công suy nghĩ nên hơi ... mệt. Khi đi thi bằng Tiểu học, tới môn chính tả tôi vái trời được gặp một thầy giáo hay cô giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất đúng. Ấy là nhờ gần gũi một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi mà biết được điều đó.
Cho đến bây giờ vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như dấu sắc (ví dụ: nghĩ ngợi -> nghí ngợi) và dấu hỏi nghe như dấu nặng (ví dụ: nghỉ ngơi -> nghị ngơi). Giả giọng Bắc mà không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay. Một ông nhạc sĩ nọ gốc Miền Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 1975 đã có lần bị báo chí diễu là “người nói giọng Bắc hay nhất nước”, cũng chỉ vì không để ý điều đó.
Cách đây non 30 năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi vừa cười thích thú vừa “giận” . . . Thích thú vì tác giả viết rất có duyên. Còn giận là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ sai (tôi đinh ninh thế). Ai đời “Thôi em về hí” mà lại sắp thành “Thôi em về hỉ”. Chữ HÍ của người ta viết với dấu sắc, đem sửa lại thành HỈ với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên như ăn cơm hến thiếu ruốc. Trong lời nói thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như nhé, hay nhỉ trong tiếng Bắc và nha trong tiếng Nam . . .
Tôi cứ tự cằn nhằn và giải thích như thế với mấy ông ấn công vô danh, mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ. Hầu như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu đều được nghe và viết thành chữ HỈ bởi vì khi người Huế phát âm những chữ có dấu sắc thì người Bắc và người Nam nghe thành dấu hỏi và dấu nặng. Đó là lý do hí biến thành hỉ. Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra. Lỗi ở ấn công chăng? Lỗi ở thầy cò chăng? Nếu không phải do hai người này thì đó là điều khó hiểu.
Trong bài “Tôi không yêu tíếng Huế” (TSH 1990) tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ vì người xứ khác đã nghe khác dấu đi. Chẳng hạn một thiếu nữ Hà thành khi nghe một thanh niên Huế ngõ lời “Cô cho tôi xin một cái bóng (cái ảnh) của cô để làm kỹ niệm . . “ đã ngơ ngác hỏi lại “Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (p.45). Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “ Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn. Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không?” Câu nói này đã làm cho một bà người Nam giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn (p.46).
Thời gian ở tù trong trại lao cải, (sau 1975) được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam, tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào. Buổi tối, khi tất cả đã vào chuồng, trong khi chờ tới giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ, domino, hoặc kể chuyện vui cho đở buồn. Có lần một anh bảo tôi “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô buồng, học đủ rồi ra’ “Dĩ nhiên tôi đáp ứng ngay, dõng dạc rõ ràng. Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và tiếng cười khoái trá nổi lên. Có cả tiếng hô “Hay, hay! Nói tiếp đi”. Tôi ngơ ngác không hiểu vì không tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế. Ông bạn ăn chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu nặng, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó.” À ra thế !
Giọng Huế tuy khó nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh. Trong lúc nói chuyện chỉ cần đổi “ton” lớ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay. Tiếng Huế mới là cả vấn đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa.
Ngôn ngữ chẳng qua là qui ước về âm thanh do con người phát ra. Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng. Tác giả Phàm Phu (TSH, 1990 đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo chơi phố xá Bangkok, thấy cô người Thái cực kỳ xinh đẹp, bèn chụp ảnh để kỹ niệm. Vừa đưa máy ảnh lên ngắm, tác giả vừa hỏi ý kiến ông bạn đồng hương làm hướng đạo “Chụp hí?” (chụp nhé) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ chạy, còn tác giả thì bị bạn mắng như tát nước là đồ ăn nói thô tục đối với phụ nữ ngoại quốc. Lý do là trong tiếng Thái, “chụp” có nghĩa là hôn, còn “hí” là “cái ấy” của phụ nữ. Thấy không, hai tiếng Huế vô tội đã trở thành “ngôn ngữ sàm sở” ở Bangkok.
Hồi còn ở tù tại trại lao cải Tiên Lãnh (Quảng Nam), tôi và một anh bạn đã làm cho mấy phụ nữ Kà-tu bỏ chạy trong cơn mưa. Số là sau một ngày vất vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp về trại. Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào trong một cái chòi trong rẫy lúa bỏ hoang để tránh cho than khỏi ướt. Một lát, thấy có bốn năm phụ nữ Thượng, người Kà-tu, từ phía suối chạy lúp xúp về chòi chúng tôi, ý hẳn cũng để tránh mưa. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm ... sợ mấy phụ nữ sẽ bị trượt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té, té!” Kỳ lạ, câu nói vừa dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng, không chạy vào lều nữa. Trong tổ, có anh bạn gốc Trà My (Quận miền núi của Quảng Nam) nhẩn nha giải thích “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa. “Té”, tiếng Kà-tu có nghĩa là “đéo”, biết chưa? Lần sau, gặp tụi đàn bà con gái ở đây nhớ đừng có nói “bậy” như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa.” Hú vía !
Giữa các dân tộc, qui ước thanh âm khác nhau dẫn đên ngôn ngữ khác nhau đã đành, mà ngay trong cùng một nước, ngôn ngữ cũng thay đổi theo từng địa phương. Cùng một từ, mỗi miền có thể hiểu một nghĩa khác nhau. Cùng chỉ một vật, một việc, mỗi miền có một lối gọi khác nhau. Chẳng hạn chữ “đồ”. Trong khi miền Nam dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì miền Bắc lại dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ. Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đồ), ông nào ngó cũng chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
Ba bác chung nhau một cái đồ,
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
Cùng chỉ một vật đựng thức ăn, ở Bắc gọi bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là tô. Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì bị mất thăng bằng, Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là té. Chữ “địt” Bắc và Nam hiểu không giống nhau. Với người Bắc, “địt” có nghĩa là “đéo”, là làm tình; còn từ miền Trung trở vô, “địt” chỉ có nghĩ là xả hơi trong bụng ra bằng ngã hậu môn, chữ Hán gọi là trung tiện. Sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên. Bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung.
Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh ra nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu từ điển tiếng Huế. Trong Ngàn Năm Xứ Huế (San Jose: Thương Huế, 1993) Nguyễn Châu cũng đã sưu tập và giải thích một số nhưng vẫn chưa đủ. Trong TSH 1993, qua bài Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong cách Huế, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của cung đình trong ngôn ngữ Huế. Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được phổ biến? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả.
Người khác xứ có thể dễ dàng quen thuộc với răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí vì tính cách phổ thông của chúng, nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác. Tôi có anh bạn người Nam sống ở Huế khá lâu. Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu”. Nghe vậy một anh bạn khác liền hỏi ngay:
- Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn chắc rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bể mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như “quạ quạ bẻ bắp “.
Anh bạn người Nam ngẩn tò te, chịu thua. Đây là chìa khóa mật mã:
  - bựa qua : hôm qua
- lôi giau : lôi nhau
- ngầy lộn : gây gổ
- chắc : với nhau
- chờn : cái giường
- trữa cươi : giữa sân
- bể mỏ : vỡ mồm, giập miệng
- u trốt : u đầu
Mới chỉ có một câu nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ta hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa. Nếu đi vào ý nghĩa thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn. Thành ngữ “tào lao xịt bộp” là một thành ngữ phổ thông của Huế - dùng để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không có ý nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ”- nhưng lại là một thành ngữ khó hiểu vói xứ khác. Trong một cuộc tiếp kiến Toàn quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (Đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại) đã làm cho một vị quan lỗi lạc lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà: “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp ...” (Nguyễn Đặng, TSH 1993) chỉ vì ông không phải là người Huế. La ngầy hay ngầy nghĩa là la rầy, nhưng ngầy lộn lại có nghĩa là gây gổ nhau. Mụ nớ có nghĩa là người đàn bà kia (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông được gọi là Mụ hay Mệ, có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc. Thật là rắc rối.
Có một thực tế mà dường như ít ai để ý. Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành phổ biến, trở thành văn tự chính thức thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo ngôn ngữ miền Bắc là lối viết chính thức nước ta.
Thực vậy, từ giấy tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học v.v. phổ biến qua hình thức văn tự, hầu như đều được viết theo giọng Bắc. Ngoại trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, và hiện nay là Hồ Trường An, là viết văn rặt giọng Nam, còn hầu như tất cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều viết theo phong thái ngôn ngữ miền Bắc. Bình Nguyên Lộc viết tiểu thuyết theo giọng Nam nhưng khi viết Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt-Nam, một tác phẩm biên khảo, cũng dùng ngôn ngữ Bắc. Số học giả, thi sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ . . . “ được chính thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy, này, ấy . . .” Đừng nói chi xa, ngay tập TSH bạn đang cầm trên tay là một bằng chứng cụ thể, và ngay bài viết này cũng thế.
Ngôn ngữ miền Bắc hầu như đã trở thành lối nói và viết chính thức, có lẽ do truyền thống lập quốc và Nam tiến. Trong âm nhạc, ta cũng thấy hiện tượng tương tự. Khi hát tân nhạc, tất cả các ca sĩ đều hát theo giọng Bắc, bất kể người miền nào. Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách thành công khi hát tân nhạc theo giọng Nam. Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên. Từ thập niên 60, một số các nhà văn nữ gốc Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có tính cách mắm muối thêm duyên – kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong ban AVT – chứ chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An.
Giọng Bắc giọng Nam dễ nghe, tiếng Bắc là ngôn ngữ chính thức trong sinh hoạt văn hóa và xã hội, đó là lý do tại sao đồng bào miền Bắc không gặp trở ngại khi đối thoại với người khác xứ. Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau. Thêm vào đó, Huế lại quá phong phú thổ âm thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa. Tất cả những cái đó đã biến tiếng Huế thành ngoại ngữ. Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ có cách hãy sống với Huế. Ai không tin, thử hỏi mấy ông r​ể​ Huế, biết ngay.
Võ Hương An
Cựu Thanh tra Giám Sát Viện Quân Khu I (VNCH)
Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam-Đà Nẵng



 





HOÀNG HẢI THỦY * MƯA GIÓ




Mưa Cầm, Gió Bắt, Thép Đợi, Gang Chờ -

Nữ nghệ sĩ Hồ Điệp

Một người trong số những nghệ sĩ của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa từ trần sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 ít được người đời nhắc đến nhất là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp, giọng ngâm Thơ tuyệt vời của Ban Thi Văn Tao Ðàn, Ðài Phát Thanh Quốc Gia VNCH.


Không phải vì vô tình mà người ta không nhớ, không thương những người đã khuất như Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp. Trong những năm u ám sau 1975 người Sài Gòn chết thảm quá nhiều, người chết trong tù ngục công sản, người chết trên biển, người chết trong rừng, nhìn đâu cũng thấy tang tóc, đau thương, những người chưa chết thần hồn và trái tim tan nát, họ thấy cuộc sống của họ không biết còn mất lúc nào, người ta không còn tinh thần để nhớ, để thương những người mất tích.


Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp đi vượt biên đêm nào, tháng nào, năm nào? Chắc chỉ có thân nhân của bà được biết. Nữ nghệ sĩ đi và mất tích. Thân xác Hồ Ðiệp từ lâu rồi nằm dươi đáy biển Ðông. Sáng nay, một sáng Tháng Bẩy ở Xứ Người, tôi trái tim sầu muộn, tưởng nhớ những văn nghệ sĩ Sài Gòn đã giã từ dương thế kể từ sau Ngày Oan Nghiệt 30 Tháng Tư 75. Người Thứ Nhất tôi tưởng nhớ hôm nay là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp.

Năm 1960 yên bình trong một cuộc họp mặt của một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, có Vũ Hoàng Chương, Hồ Ðiệp, Mặc Thu. Trước năm 1954, ở Hà Nội, Nhà Văn Mặc Thu viết hai tác phẩm “Gang Thép Ðợi Chờ” và “Bát Cơm, Bát Máu.” Thi bá Vũ Hoàng Chương làm hai câu Thơ tặng Hồ Ðiệp, Mặc Thu;

Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.



Hôm nay 50 năm sau buổi chiều xưa Thi bá làm hai câu “Mưa cầm, gió bắt, thép đợi, gang chờ..,” tôi, kẻ mất nước sống buồn những ngày thừa ở xứ người, tôi, cánh bướm già sống sót qua cuộc mưa cầm, gió bắt dài đến 20 mùa lá đổ ở Sài Gòn, tôi không có thép, có gang gì cả mà nếu có thì cũng không thép đợi, gang chờ mà thép mòn, gang rỉ, nhớ những ngày xưa và những người nay không còn nữa, cảm khái tôi tiếp hai câu của Thi bá, làm thành:

Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Ðiệp bay ra biển sương mù,
Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn năm!

Lê Xuyên Chú Tư Cầu

Giữa Sài Gòn dâu biển tang thương
Vỉa hè Bà Hạt thuốc lá lẻ.
Nguyệt Ðồng Xoài cùng Vợ Thầy Hương
Bỏ Rặng Trâm Bầu, sang Mỹ, lấy Mỹ.
Cu ky trong Vùng Bão Lửa
Chú Tư Cầu đi đâu, về đâu?



Từ 1960 với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Chú Tư Cầu thành công, nổi tiếng ngay, Lê Xuyên viết thật đều, thật nhiều, tiểu thuyết được in thành sách cũng thật nhiều. Trong bài thơ có tên nhũng tiểu thuyết cỉa Lê Xuyên được tái bản ở Hoa Kỳ: Nguyệt Ðồng Xoài, Vợ Thầy Hương, Rặng Trâm Bầu, Vùng Bão Lửa.


Sau năm 1975, qua 20 mùa Sài Gòn mưa nắng, ngồi bán thuốc lá lẻ trên vỉa hè đường Bà Hạt-Ngô Quyền, từ 5 giờ sáng đến 11 giờ đêm, Chú Tư Cầu Lê Xuyên giã từ dương thế năm 2002. Ảnh chụp khoảng một năm trứơc ngày Lê Xuyên ra đi.


—–
 
 Vô đề, Vô danh, Vô lọai



Vạc bay rã cánh cuối trời
Diễm Xưa chẳng trọn một đời thủy chung.
Ðá buồn, biển nhớ mịt mùng
Âm cung tiếng phản, tiếng thùng. Thế thôi!



.


.—–
 
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay
Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
Anh vẫn Hoàng Chương vàng với ngọc,
Trần ai nào lấm được trời mây.
Người về ngôi cũ, Thơ trầm Nhạc
Tàn lửa hồng hoang, khói Mái Tây.
Cười vang một tiếng, tan tinh đẩu
Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.



Bị bắt tù Tháng Ba năm 1976, đến Tháng 10, 1976 Thi Bá Vũ Hoàng Chương được trở về nhà ở Khánh Hội, Thi Bá qua đời chừng sáu, bẩy ngày sau khi về nhà.


—–
 
Bùi Giáng

Lá cồn hay lá hoa cồn?
Tồn liên tồn vẫn liên tồn bấy lâu.
Hỏi Quê, rằng biển xanh dâu.
Hỏi Thơ, rằng mộng ban đầu vấn vương.
Em về rũ yếm mù sương
Ngàn năm châu chấu vẫn thương cào cào.
Mân-rô ơi, có đêm nào
Mồ anh em hé Ðộng Ðào suối tuôn.
Lá cồn hoa cũng lên cồn
Mười hai con mắt liên tồn mười hai.


Nghe nói Tập Thơ LÁ HOA CỒN của Bùi Giáng xuất bản năm 1968 được Thi Sĩ tác giả đặt tên là LÁ CỒN. Quí vị biên tập trong nhà Xuất Bản – tôi không nhớ là Nhà An Tiêm hay Nhà Lá Bối – thấy cái tên LÁ CỒN.. kỳ kỳ sao đó nên đổi là LÁ HOA CỒN. Từ 1970 đến nay không thấy LÁ HOA CỒN được tái bản. Hơn 40 mùa thu xưa tôi đọc LÁ HOA CỒN, thấy câu Thi sĩ kể trong một đêm mà:

Cồn lê lên miệng đến hai, ba lần…

Tôi nghĩ: Một đêm cồn lê lên miệng hai lần may ra còn sống được, một đêm mà cồn lê lên miệng đến ba lần..! Chắc chết quá!


Một trong số hai, ba Giai Nhân đương thời được Thi sĩ ca tụng nhan sắc và tỏ tình yêu là Cô Ðào Marilyn Monroe. Thi sĩ từng ước mơ sau khi ông chết, ông sẽ cảm động lắm nếu ông được Người Ðẹp Marilyn Monroe đến đái trên mồ ông.


Năm 1970 Chủ nhiệm nhật báo SỐNG Chu Tử mời Thi sĩ Bùi Giáng viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông đăng mỗi ngày trên Nhật Báo Sống. Tôi không nhớ tên truyện, chỉ nhớ Tiểu Thuyết Gia Bùi Giáng viết lọai truyện võ hiệp Trung Hoa, các đại hiệp, nữ hiệp thi triển võ công, đánh kiếm..vv.. Trong truyện ông cho nam nữ nhân vật nói đi, nói lại rất nhiều lần những tiếng“liên tồn, tồn liên.” Truyện của ông gần như ngày nào, trang nào cũng có hai tiếng ấy. Như:


Làn môi hồng của nàng nở nụ cười tồn liên.
Nàng thu kiếm lại, chắp tay, dịu dàng nói:
– Cám ơn Ðại hiệp đã có nhã ý liên tồn.

Sau cuộc biển dâu, Thơ Bùi Giáng vẫn có những tiếng “liên tồn, tồn liên” không khác gì Thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn trước 1975. Ðây là vài câu trích trong thi phẩm Mười Hai Con Mắt, xuất bản năm 2000:


Chuyện Chiêm bao, Mười Hai Con Mắt.
Mộng ảo liên tồn vô mịch xứ
Phù du liêu lạc khởi năng kiêu.


Ðêm nằm thao thức tới bình minh
Nửa khóc, nửa cười quỉ hóa tinh.
Ú ớ liên tồn vi diệu ngữ
Ậm ừ tục tiếp quái quỉ thanh.


Gặp Em


Gặp Em ngồi tựa gốc cây
Hỏi Em có biết chiều nay mấy giờ
Mưa nguồn đổ xuống trang thơ
Lá hoa cồn lũng bất ngờ chịu chơi…


—–
 
NGUYỄN MẠNH CÔN

Lính Nhẩy Dù lâm nạn ba người,
Nhà Văn lâm nạn một mình thôi.
Sông Rây nước chẩy, mây trôi.
Nhớ về Xuyên Mộc, bồi hồi thương Anh.


Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn viết những tác phẩm Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Kỳ Hoa Tử, Tình Cao Thượng, Mối Tình Mầu Hoa Ðào, Hòa Bình.. Nghĩ gì, Làm gì? Tháng Ba năm 1976 ông bị bọn Công An Cộng Sản Thành Hồ bắt giam. Năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn tuyệt thực phản đối việc ông bị cầm tù quá lâu. Bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước, Nhà Văn chết thảm trong trại tù Xuyên Mộc.


Sông Rây chẩy qua vùng rừng bao quanh Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Bà Rịa. Người Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 có câu:


Bao giờ Rừng Thác hết cây
Sông Rây hết nước thì đây mới về.



Cùng sống và chịu cực khổ với Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn ở Trại Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 là Duyên Anh, Ðằng Giao, Hồ Hữu Tường. Năm 1983 gặp lại nhau sau những ngày tù tội, Duyên Anh đọc cho tôi nghe câu “..Sông Rây hết nước..” Tôi không nhớ đúng tên Rừng trong câu thơ. Có thể không phải là Rừng Thác.


Bao giờ Rừng Thác hết cây,
Sông Rây hết nước thì đây mới về.



—–
 
Dương Hùng Cường

Chém cha bọn Cộng trâu bò
Cà Kê Dê Ngỗng nó cũng cho đi tù.
Phi trường đèn tắt, điện lu
Lái Thiêu Dê Húc, Ðạo Cù Paris.



Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, một thời giữ mục Cà Kê Dê Ngỗng trên Tuần báo CON ONG. Là sĩ quan, Dương Hùng Cường đi tù khổ sai đến năm 1979. Năm 1980 DH Cường liên lạc được với Trung Tá Không Quân Trần Tam Tiệp ở Paris. Trước năm 1975 TTTiệp thường có Thơ Khôi Hài đăng trên Tuần báo CON ONG với bút hiệu Ðạo Cù. Khi ấy ông họat động trong Hội Văn Bút Quốc Tế, ông làm được nhiều việc giúp đỡ một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cả về tinh thần và vật chất.


Năm 1984 Dương Hùng Cường bị bắt vì tội “viết bài gửi ra nước ngoài”. Năm 1986 Cường chết trong một sà-lim ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Sài Gòn. Bị nhốt một mình trong sà-lim, Cường chết trong đêm. Bọn Công An Thành Hồ đưa xác Cường về Nhà Xác Nhà Tù Chí Hòa cho bọn gọi là bọn Pháp Y Sĩ mổ xẻ tanh banh, rồi gọi vợ con Cường đến Nhà Xác Chí Hòa nhìn mặt Cường lần cuối, chúng không cho đem xac Cường về nhà mà cho ngay vào quan tài, cho xe của Nhà Tù đưa lên chôn ở một nghĩa trang trên Lái Thiêu.


Một trong những tác phẩm Dương Hùng Cường để lại đời là BUỒN VUI PHI TRƯỜNG viết về cuộc sống của những người lính Không Quân ở những phi trường quân sự.


Ðạo Cù Trần Tam Tiệp, bị bại liệt, đã từ trần ở Paris.


—–
Đạo diễn HOÀNG VĨNH LỘC

Người Tình mất hết chân tay
Trái tim Hoàng gửi nơi này quê hương.
Sài Gòn Bến Cũ mù sương
Nhớ ơi Vĩnh Lộc trên đường Bô Na.


Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt Tháng Ba năm 1976 trong đợt bọn Công An Cộng Sản bắt tù những văn nghệ sĩ Sài Gòn. HV Lộc bị tù ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu. Trong số những bộ phim Hoàng Vĩnh Lộc làm đạo diễn có hai phim nổi tiếng là NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG, XIN NHẬN NƠI NÀY LÀ QUÊ HƯƠNG. Trở về nhà ở Phú Nhuận, HV Lộc từ trần trong sầu muộn năm 1981.


Vào lúc gần tối một ngày mùa mưa tôi đến nhà Hoàng Vĩnh Lộc chào anh lần cuối. Hôm nay khi viết những dòng chữ này, tôi thấy ẩn hiện những hình, những ảnh buổi chiều gần tối năm xưa, tôi ngồi dưới tấm bạt căng trên bãi cỏ trứơc nhà làm chỗ tiếp khách đến viếng tang, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, nhìn vào căn nhà nhỏ thấy quan tài của anh với mấy ngọn nến nhỏ leo lét.


Tôi nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc lần đầu vào một buổi chiều năm 1952. Lúc ba, bốn giờ chiều, nắng vừa dìu dịu, tôi đứng trên vỉa hè đường Bô-na, trước Hàng Ăn Kim Hoa, cạnh rạp Xi-nê Casino de Saigon, thấy Hoàng Vĩnh Lộc đến trên chiếc xe Peugeot Mui Trần, thường được gọi là xe Peugeot 203 Decapotable. Chiều ấy HV Lộc bận toàn đồ trắng, chiếc xe anh đi cũng mầu trắng. Năm 1952 HV Lộc đóng vai chính trong phim BẾN CŨ, phim mầu, của AnPha Thái Thúc Nha. Phim chưa chiếu, anh đã được coi là một jeune premier của Ðiện Ảnh Sài Gòn.


Tôi nhớ mãi hình ảnh ấy của Hoàng Vĩnh Lộc buổi chiều nắng vàng năm 1952 trên đường Bô-na; đã 60 mùa thu lá bay, tôi vẫn nhớ. Năm xưa ấy trên đường Bô-na, Sài Gòn, Hoàng Vĩnh Lộc 30 tuổi, tôi 20.


—–
 
Nhà văn HIẾU CHÂN NGUYỄN HOẠT

Trăng Nước Ðồng Nai vui Tỵ Bái
Chí Hòa lao ngục thở hơi tàn.
La Khê Công Tử Hiếu Chân
Nói hay Ðừng vẳng cung đàn Liêu Trai.



Những năm 1956, 1957, Nhà Văn Nguyễn Họat viết truyện dàiTRĂNG NƯỚC ÐỒNG NAI trên Nhật báo TỰ DO. Sau đó anh viết truyệnTỵ Bái, dịch truyện LIÊU TRAI, giữ mục Nói hay Ðừng trên Nhật báo TỰ DO. Anh bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Duy Trác và bị khép vào cùng một nhóm gọi là nhóm Biệt Kích Cầm Bút. Anh từ trần trong đêm ở Nhà Tù Chí Hòa năm 1988.


Quê ngọai của anh Nguyễn Họat ở làng La Khê ngay bên thị xã Hà Ðông. Có năm anh dậy học ở Trường Tư Thục Tự Ðức trong thị xã, tôi là học trò của anh.


—–
 
Phạm Thiên Thư

Ai về hỏi Phạm Thiên Thư
Ngày xưa Hoàng Thị bây chừ ở đâu?
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau
Sao nhau tình nghĩa qua cầu gió bay?
Hẹn nhau tròn cuộc nhau này
Sao nhau cánh dzế chồn lây đổi mầu?
Ðã buồn Từ Thức lấm đầu,
Lại thương Hoàng Thị về đâu bây giờ?


Những năm 1980, Phạm Thiên Thư làm thơ Chào Mừng Sinh Nhật Hồ Chủ Tịch. Ông làm nhiều Thơ ca tụng cuộc sống trong sáng của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa và gọi loai Thơ này là Thơ Hồng.

hoanghaithuy

No comments:

Post a Comment