Pages

Wednesday, November 23, 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = CHỦ NGHĨA MARX=DU SINH KHÔNG VỀ NƯỚC


TRẦN NHẬT PHONG * TRUYỆN VƯỢT BIÊN

Chuyện một thuyền nhân Việt mất con


Tác giả/Nhân vật: |12-05-2015| 106 lần xem | |
Vượt biên và tới được Hoa Kỳ vào năm 1985, suốt hàng chục năm nay ông Tăng Bảo Can, hiện đang sống ở nam California, vẫn đi tìm đứa con gái bị hải tặc Thái Lan bắt đi trong hành trình lênh đênh trên biển khơi.
Cô con gái 14 tuổi của ông bị đem đi mất ngày 26/10/1984, khi con tàu chở gia đình ông cùng nhiều người khác đã tới được hải phận quốc tế.
“Đó là chuyến đi rất đau thương. Nó khiến cho tôi khóc bao phen, mà đến giờ mỗi khi có ai hỏi tới là nó vô tình gợi lại vết thương như dao khứa mỗi ngày, mỗi đêm.”
“Tôi là đàn ông, phải cố chịu đựng nỗi ám ảnh [mất con] để tranh đấu mà sống, nhưng vợ tôi bị trầm cảm cho tới tận ngày hôm nay,” ông Can nói.
Trong hành trình kéo dài năm ngày, tàu của ông đã bị cướp ba lần, và tai họa mất con xảy ra khi hải tặc nhảy lên tàu vào lần thứ tư.


Ông Tăng Bảo Can nói ông vẫn hy vọng sẽ tìm được lại con gái mình


“Trên chuyến tàu có bốn cô gái, hai cô 17 tuổi, hai cô 14 tuổi, trong đó có con gái tôi.”
“Khi lên tàu, chúng xô hết thanh niên ra, trong đó có con gái tôi. Tôi cố gắng ôm giữ cháu, và những lời cuối cùng cháu nói với tôi là ‘Ba đừng bỏ con, ba ơi cứu con’, vợ tôi khi còn nằm trong khoang thuyền, không biết chuyện gì đang xảy ra ở ngoài.”
“Hải tặc bắt con gái tôi cởi bỏ quần áo, mà tôi nghĩ là để chúng tìm vàng, nhẫn giấu trong người. Con gái tôi đã chống cự lại.”
“Có lẽ bởi vậy nên chúng đẩy con gái tôi sang chiếc tàu của chúng. Đó là những giây phút quá hãi hùng, khi mà tôi phải chứng kiến cảnh đứa con gái yêu thương bị cướp khỏi vòng tay và ngoái lại cầu cứu.”
“Không có một chút khí giới trong tay, nhưng sự sống hay chết đối với tôi khi đó không còn quan trọng. Tôi bất chấp nỗi sợ, cố giành con gái lại từ tay một tên cướp biển có lẽ khoảng 20 tuổi, rồi bị một tên cầm giáo đâm sau lưng khiến tôi bất tỉnh.”





Cách đây khoảng ba năm, hội thiện nguyện South East Asia Missing Children Foundation được thành lập nhằm tìm kiếm những đứa trẻ bị thất lạc trong hành trình vượt biên
“Con gái tôi rất can đảm, cháu không khóc mà ngoái nhìn tôi. Tôi nhớ giọt lệ lăn tròn trên mặt cháu. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt ba chục năm nay.”
Ông Can cho biết ông cùng một số người khác từng qua Thái Lan để tìm kiếm, và đã có hai gia đình may mắn tìm được con cũng bị cướp biển Thái Lan bắt đi từ khi mới được vài tháng tuổi.
Cách đây ba năm, ông Can thành lập hội South East Asia Missing Children Foundation – Hội những đứa trẻ Đông Nam Á bị mất tích, với hy vọng chưa bao giờ nguôi ngoai là mình và những người cùng cảnh ngộ sẽ tìm thấy được những đứa con đã bị thất lạc.
“Phép lạ cũng sẽ đến cho con gái tôi, đến cho gần 100 gia đình có con thất lạc [tham gia Hội]. Tôi không được hỗ trợ nhiều, nhưng tôi sẽ cố gắng đi làm thật nhiều để có tiền cho hội từ thiện này của chúng tôi,” ông Can nói.
Trần Nhật Phong

Tuesday, December 15, 2015

BS. LÊ BÁ DŨNG * TÙ CẢI TẠO

Tù “cải tạo”: Mãi mãi… không bao giờ quên! 


BS Lê Bá Dũng

 CaiTao1978


Viết để riêng tặng các Sĩ quan bị tù đày của Tổng trại 8 Sông Mao… các bạn đã nằm xuống hay đang lưu lạc nơi quê người, và nhất là các bà mẹ, vợ hay con các Sĩ quan đã không quản gian nan trong gông cùm Cộng Sản.
Những ngày gần đây, đài phát thanh Little Saigon mỗi sáng đều tường thuật chuyến đi về Biển Đông của đặc phái viên Đinh Quang Anh Thái trong đoàn đi thăm lại những ngôi mộ vô danh hay hữu danh của các thuyền nhân vượt biển, những người từng mong muốn thoát khỏi một chế độ cực kỳ tàn ác, dã man Cộng Sản Việt Nam. Ra đi, với ước mơ được sống một đời sống cho ra con người, họ chẳng may bỏ xác trên biển cả và được chôn tại các đảo xa xăm vùng Thái Lan, Mã Lai, Indonesia…
Giọng nói nghẹn ngào tức tưởi của Đặc phái viên khi đứng trước các ngôi mộ cá nhân hay tập thể làm tôi nhớ lại những người bạn Sĩ quan đã bỏ mình khi bị đưa đi ở tù tại các trại Cà Tót, Sông Mao… và cuốn phim về trại cải tạo như quay chậm lại tuy thời gian đã bao nhiêu năm qua, nhưng vẫn còn in đậm nét trong ký ức tôi.
Sau khi Phan Thiết mất vào tay Cộng Sản, tôi cùng gia đình vào Saigon, rồi trôi giạt về Long Xuyên, vùng 4 Chiến thuật. Tôi cứ đinh ninh rằng ở Long Xuyên sẽ được an toàn hơn vì chưa bị hao binh tổn tướng, còn ở Saigon thì sợ sự pháo kích bừa bãi của phía bên kia. Nhưng rồi khi nghe tin ông Dương văn Minh vừa mới nhậm chức Tổng Thống đó thì đã tuyên bố đầu hàng, tôi cảm thấy như trời đất sụp đổ: thôi thế là hết, chẳng còn hy vọng gì nữa!
Tôi cùng với vợ đi trình diện ở Long Xuyên được người của chế độ mới trả lời: “ Ở đâu, thì về nơi đó mà trình diện”.
Thế rồi, ngày 7 tháng 5 tôi cùng gia đình về lại PhanThiết.
Đường từ Saigon về Phan Thiết, lúc mới đầu cũng còn tạm được, nhưng khi đi được nửa đoạn đường thì có một cái cầu bị phá sập, và cả một dãy xe đò bị tắc nghẽn.Dân chúng ùn ùn trở về quê cũ. Một người mang một cái xách tay, gương mặt người nào cũng thất thần, buồn bả và xanh xao. Đến chỗ tắc nghẽn, mọi người phải xuống đi bộ, lội qua con suối cạn, chờ đoàn xe từ từ bò xuống suối rồi bò lên.
Trời đang mưa, tôi và vợ con phải tấp vào một trại làm than. Nhìn quanh quẩn không có hàng quán gì cả. Bỗng thấy một bà già đang nấu cơm và kho thịt, tôi có ý muốn mua một ít đồ ăn cho gia đình, bà đồng ý bán cho chúng tôi cơm, chút ít thịt kho với bều bều nước. Nhưng trời mưa lạnh và chúng tôi đang đói nên ngon ơi là ngon.
Lúc về đến Phan Thiết, những ngày đầu, tâm trạng tôi vô cùng hoang mang, không biết phải làm gì. Rồi tôi đi trình diện Ủy ban Quân quản, và tìm gặp một số bạn bè. Nếu có nói chuyện với ai ở ngoài đường, người nào cũng lo lắng nhìn quanh quất, xem có bị theo dõi không. Đường phố vắng tanh, nhà nhà đều đóng cửa. Thỉnh thoảng người ta mở cửa he hé một chút, đi ra một lát lại đóng lại. Phan Thiết như một thành phố chết. Nét mặt mọi người đều căng thẳng.
Tôi tự nghĩ về thân phận mình, như con cá nằm trên thớt, thôi thì cứ ra sao thì ra. Tôi tạm chuẩn bị một cái gì đó, tôi đến nhà một anh Y tá cũ xin một ít thuốc Chloroquine và primaquine. Biết đâu rồi đây tôi bị đưa đi những vùng khỉ ho cò gáy, rừng thiên nước độc! Anh ấy là một Hạ sĩ quan rất thân tình. Anh đã dốc hết cả chai cho tôi. Tôi giữ cho mình 20 viên để phòng thân, gặp bạn bè, cho mỗi người 20 viên. Sau đó, tôi đến nhà anh Nguyễn văn Tư, nguyên Đại úy, Sĩ quan Hành chính Quân y, thấy thân sinh anh Tư đang làm dép râu, tôi đưa tặng anh Tư mấy viên thuốc Chloroquine và Primaquine. Ba anh Tư rất mừng và làm cho tôi một đôi dép râu bằng vỏ lốp xe Jeep.
Ngày 18/6/75 vì đang loay hoay tìm kế mưu sinh, tôi cùng với một người bạn, anh Cảnh đạp xe ra cây số 17. Anh này có người quen cho đất ở đây. Từ Phan Thiết đến đó hơn 17 km. Trời hơi mưa mưa. Đến nơi mới thấy đó chỉ là một miếng đất khô cằn, xung quanh không có sông suối. Nếu muốn trồng lúa, chỉ có gieo lúa khô, nhờ nước trời mà thôi.
Tôi chưa có dự tính gì cho những ngày sắp tới. Rồi khi về đến nhà, vợ tôi cho hay có lệnh ngày mai 19/6 tôi phải đi tập trung học tập cải tạo. Thật là oái ăm! Ngày 19/6 cũng là ngày Quân lực VNCH, vậy mà tôi phải đi tù.
Tôi vội ra chợ mua một miếng vải nylon, về nhà may gấp thành cái võng để sau này khi cần đến thì dùng nó, máng giữa hai cành cây để nằm nghỉ.
Tối hôm đó, vợ tôi nấu cơm, tôi ăn hoài mà không thấy no, vì cả ngày đạp xe gần 35 km.
Sáng hôm sau, tôi ra tập họp ở vườn bông, đem theo chừng 10kg gạo, ít cá khô, vài bộ quần áo. Ra đến nơi, gặp anh em Bình Thuận ở vùng xung quanh cũng vừa đến. Mặt mày ai nấy buồn xo, đưa tay chào nhau rồi nói nho nhỏ với nhau “ Chẳng biết tương lai ra sao!”
Khoảng 10 giờ sáng, sau khi điểm danh, chúng tôi được lệnh lên những chiếc xe GMC. Đồ đạc mỗi người chẳng có bao nhiêu. Chiếc xe chở khoảng 40 người có hai bộ đội VC có súng ngồi đằng sau để canh.
Đoàn xe di chuyển về thị trấn Phú Long. Nhưng khi gần đến đó, xe đổi hướng về một ngã rẽ trái theo đường liên Tỉnh lộ nối Phú Long qua Thiện Giáo. Đường này chỉ dành cho xe bò đi mà thôi, nhưng có lẽ họ muốn đánh lạc hướng để vợ con Sĩ quan đi trên xe không biết chỗ đến.
Lên đến Thiện Giáo đoàn xe tiếp tục chạy theo liên Tỉnh lộ 8. Đường này ngày xưa nối Thiện Giáo với Di Linh, đã bị bỏ lâu rồi, cỏ lác mọc lấn vô nhiều vô kể, nên xe chạy bị dằn xóc muốn lộn ruột. Độ vài chục cây số nữa thì xe chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng. Khoảng một giờ sau, được lệnh xuống đi bộ rồi lội qua một con suối cạn đến một vùng rừng hơi thấp trên một ngọn đồi nhỏ.
Trước khi vào trại, chúng tôi được lệnh tập họp trên một sân đất.
Trại là một số nhà bằng lá, nằm trên một ngọn đồi thấp, dưới những tán cây rất cao.
Lúc chúng tôi vào, bên phải có những nhà tranh có vách, bên trái là cụm nhà tù rào bằng tre trong một khu rừng rậm. Những dãy nhà dành cho Sĩ quan tập trung có hình chữ E bị ngắt đoạn. Nói là nhà chứ thật ra chỉ có mái che còn bốn bề trống hoác.
Chúng tôi được lệnh ngồi xuống. Nhìn vào trong trại những Sĩ quan ở tù, tôi thấy lố nhố một số người, đứng có, ngồi có, mặt mày ốm o và xanh xao. Bỗng tôi nhận ra có một người quen. Té ra là Thiếu tá Phạm Minh, Chỉ huy trưởng Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận Bình Thuận, đang đi ra chỗ để cối xay lúa, đứng ngó chúng tôi.
Họ bắt đầu lục xét “hành trang” của chúng tôi. Tất cả đồ ăn, thuốc men, đồ dùng họ tập trung lại và lấy hết. Do đó, tôi vội lấy số đường mang theo ( khoảng nửa kg) ngốn hết. Nhìn thấy ở hàng trên, họ đang tịch thu thuốc của anh em, tôi vội xé cái nón vải đang đội trên đầu ( tôi đội một nón vải, trên đó lại thêm một nón lá – sẽ có ích sau này) ở giữa hai lớp vải, tôi nhét vội vào những viên thuốc ngừa sốt rét mang theo.
Đây là lúc mấy Cán bộ Việt cộng tha hồ lấy của người làm của mình. Một Cán bộ Việt cộng lấy những cây viết của anh em, gài vào túi áo mình và khoe với bạn: “Viết đẹp quá, tụi mày muốn lấy không?” đến lượt tôi bị lục soát, đồ ăn, mùng, mền, võng… đều bị lấy hết. Đến đôi dép râu tên Cán bộ Việt cộng nói: “Các anh làm sao mà có hân hạnh được mang đôi dép này rồi lấy luôn.” Riêng về cái mền, tôi nói: “ Trời này lạnh quá, các anh lấy mền thì làm sao tôi sống nổi” sau đó nó trả lại.
Tiếp đến, tất cả được đưa vào trại. Đi ngang qua một dãy có hai thanh gỗ dài song song được khoét những lổ tròn để làm còng, đây là dấu tích trước đây – tôi nghe kể lại – những Sĩ quan sau khi bi bắt được đưa lên đây, tối nào cũng bị còng. Khi Sài gòn chưa “giải phóng” tôi còn nghe chuyện về thiếu tá Phạm Minh khi bị còng đã nói: “yêu cầu được đối xử theo quy chế Geneve” thì đám VC trả lời: “không có quy chế Giơ-Ne-Vơ ở đây, mà chỉ có luật của chúng tôi” và bị còng cả tay lẫn chân cho đến khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng mới mở còng.
Lúc gần tối, chúng tôi được cho ăn. Một toán tập hợp 10 người để nhận khẩu phần. Mỗi 10 người được đem ra hai thau: Một thau đựng cơm, một thau đựng nước muối. Thau vừa móp vừa dơ, trông còn tệ hơn cái thau cho chó ăn của những nhà nghèo ở Việt nam. Nước muối màu vàng vàng, đen đen, còn cơm thì ẩm móc và lẫn với sạn. Tôi phải đổ thêm nước vào để sàn bớt sạn ra. Chúng tôi chia nhau mỗi người hơn một chén cơm, nhai trệu trạo mà cũng ráng nuốt vô. Đó là khẩu phần hàng ngày của chúng tôi ở trại Cà Tót.
Đêm đầu tiên, gặp Thiếu tá Vị, kéo tôi và Đại úy Bùi Thanh Minh nằm hai bên cho vui. Ba anh em nói chuyện tiếu lâm đến khuya, vẫn còn cười khúc khích. Đám Cán bộ VC đi canh nói to: “ Ngủ đi, bộ ở tù sướng lắm hay sao mà cười hoài!”
Dần dần, tôi chứng kiến người bị sốt rét quá nhiều. Hằng ngày, mặt họ xanh xao và run rẩy trong cái mền, dù trời đang nắng ấm. Ngoài hàng rào có một cái lều nhỏ hỏi ra, tôi đuợc biêt có một người sắp chết bị bỏ đó. Tôi vội lấy một viên thuốc sốt rét để phòng thân. Cả đêm tôi không dám ngủ, trùm mền kín sợ muỗi cắn truyền bệnh. Sáng hôm sau, mượn được cây kim, tôi bèn tháo sợi chỉ từ trong cái mền, rồi sếp đôi mền lại, may thành cái bao và đêm nào tôi cũng trãi xuống chun vô, sau đó chụp cái nón lá lên đầu. Ngủ trong bao đó thì yên tâm không lo bị muỗi cắn.
Một buổi tối tôi lấy nước, gặp anh On, là Trung sĩ Quân cảnh của Đoàn Liên Hiệp Kiểm soát Đình chiến hai phe ( Việt Cộng và Việt Nam cộng Hòa ). Tôi thắc mắc hỏi anh: “ Anh là Trung sĩ, sao bị lên đây?”( Tôi biết anh này từ hồi còn làm ở Quân y viện Đoàn mạnh Hoạch, anh thường xin thuốc cho con ), anh ta trả lời rằng khi khai lý lịch, họ viết sai Trung sĩ ra Trung úy và hiện đang làm đơn xin cứu xét lại trường hợp của anh. Vì anh phụ trách “ anh nuôi “, nên anh dẫn tôi về chỗ anh làm và cho tôi mấy miếng cơm cháy, sau đó cho thêm một tán đuờng. “ Bác sĩ ăn đi!”. Tôi nói cám ơn anh lắm nhưng vì tôi đã ăn hết số đường đem vào nên cho đến nay chưa thấy thèm ngọt. Anh cho tôi ba con cá khô nhỏ. Chiều đó, tôi cũng đem chia lại cho bạn, người một con. Tôi ngức cái mình ( và chừa cái đầu lại ) để chiều đó được ăn cá khô. Mấy ngày sau vào rừng, thấy một đọt măng, bèn xắn đêm về, mượn dao ( dao tự tạo chứ trại không cho dùng dao ), xắc măng nấu với đầu cá khô, cũng được một bữa ăn gọi là “ thịnh soạn “.
Công việc của tôi hàng ngày là: cắt tranh, đánh tranh, đốn tre để mở rộng trại tù. Có bữa tôi vác cuốc làm cỏ một vùng gần đó trồng rau cải, ớt, đu đủ….
Sau đó chúng tôi phải làm bảng lý lịch trích ngang. Mới đầu thì họ bắt khai sơ lược. Một thời gian sau họ bắt khai kỷ hơn, nên tôi phải tính toán khai làm sao cho trước sau như một. Bữa nọ, một Cán bộ VC ngồi gần, nhìn thấy lý lịch của tôi thì nói: “ À, anh là Bác sĩ! Hồi đó, anh mà thấy chúng tôi bị thương, thì anh lấy máu truyền cho Mỹ chớ gì!”. Tôi cười đáp: “ Trước khi truyền cho ai thì máu đó phải được thử nghiệm để xem trong đó có vi trùng những bệnh nguy hiểm hay không chứ đâu phải dễ, Cán bộ ở trên rừng thường bị sốt rét, làm sao lấy máu truyền được!”. Một “cán bộ” tên Loan, cấp bậc Trung tá đỡ ngay, thấy cấp dưới đang đuối lý, bèn nạt ngay: “Thôi! Tiếp tục; làm đi, không nói nữa!”.
Trong thời gian bị giam ở đây, có một số người bị chết vì sốt rét. Tôi không biết nhiều hay ít nhưng có hai anh tên Long và Biên khiến tôi nhớ suốt đời, vì tên của hai anh nhắc nhở tôi nhớ đến cây cầu Long Biên ở Hà Nội.
Toán chúng tôi gồm cả thảy mười người đi chôn cất hai anh. Lúc đi chôn, một số ít đốn tre chặt dây mây để bện lại. Một toán đào hố ở bìa rừng, toán kia chặt tre làm bảy miếng và lấy dây rừng bện lại thành cái vạc, sau đó lấy quần áo hai đào mặc lại cho họ, rồi lấy mền hay vải nylon cuộn họ lại. Số cây tre theo đúng tục lệ Việt Nam “ Nam thất, Nữ cửu “. Các anh phải đủ bảy thanh tre, được cuộn lại, khiêng tới chổ đào hố.
Vùng đó, toàn cả sỏi và đá, chúng tôi không sao đào sâu được, cố gắng lắm cũng chỉ được 1 mét thôi, và hạ các anh xuống, lấp đất, vun lại. Và một anh vác rựa tới một cây gần đó, đẻo tên người nằm xuống ( vì không có tấm bảng để ghi tên ). Anh trưởng toán lúc bấy giờ là Lê Khắc Hai ( tức nhà văn Hải Triều ). Sau khi chôn xong, anh Lê Khắc Hai hô: “ Nghiêm! Chào tay! Chào!” Chúng tôi cũng hơi ngượng vì đang ở trong hoàn cảnh tù đày mà anh Hai còn giữ lối chào theo Quân kỷ. Sau đó, anh Hai hô tiếp: “Một phút mặc niệm bắt đầu!” Rồi. “Một phút… qua!”.
Nghĩ lại mà thương cảm cho mấy anh Sĩ quan chết mà không có được tấm bia, không có được cái hòm, chỉ có bảy thanh tre, rồi sau này vợ con muốn tìm cũng không biết đâu mà tìm.
Một thời gian sau, tôi có dịp gặp lại viên Cán bộ VC hồi tôi mới đến trại, đã xét đồ đạc của tôi. Tôi thấy mỗi khi anh ta bước đi, hai ống quần đánh vào nhau kêu rọt rẹt. Nhìn lại, té ra anh lấy tấm nylon của tôi ( rước kia tôi may võng ) ra may quần.
Hơn hai tháng sau, một buổi sáng, những Thiếu tá, Trung tá được lệnh chuẩn bị đồ đạc để di chuyển. Tôi không nghĩ họ sắp bị đem đi thủ tiêu, vì không thể thủ tiêu nhiều người cùng một lượt. Về sau, tôi được biết họ được đưa vào trại Suối Máu.
Khoảng hai tháng rưởi sau đó, một buổi sáng, cấp bậc Đại úy như chúng tôi được lệnh chuẩn bị đồ đạc để di chuyển. Họ dẫn chúng tôi đi theo đường rừng, từ trại đó trở ra, băng qua rừng, về lại theo con đường Liên tỉnh. Trên đường đi tôi thấy những hố bom do B52 thả rất đều dọc theo Tỉnh lộ. Đến Tỉnh lộ 8, thấy xe đợi sẵn, chúng tôi lên xe, họ chở chúng tôi về hướng Bắc. Gần chiều, đến trại gia binh của Sông Mao.
Mỗi nhà trong khu này được giành cho khoảng 10 người. Sau đó, họ bắt chúng tôi đào một hố xí lớn gần ngay ngoài đường rồi bên trên gác ngang những cái cây để đi vệ sinh. Hố xí đó gần sát ngay hàng rào kẽm gai, tiếp đó là con đường bằng đất, đến nhà dân ở bên kia. Họ ra lệnh rằng những nhà vệ sinh trong trại gia binh phải đuợc lấp đi vì vừa ăn vừa ị trong nhà rất mất vệ sinh. Chúng tôi không lấp mà dung một cái lon đặt xuống, lấy cát lấp lên trên để lỡ khi hữu sự vào ban đêm. Nếu lỡ đêm hôm phải đi ra ngoài, tay cầm đèn dầu, gặp khi gió thổi tắt, trên trạm canh có thể bắn mình chết lắm.
Đến đây, họ phát cho tôi hai chai: một chai dung dịch muối, Quinine, có nút cao su, được bọc hai lớp nylon; một chai nữa là Solucamphre, hai Seringue, vài cây kim, một chai Alcool, một ít gòn, một cái soong để nấu, để chích cho những người bị bệnh sốt rét. Mỗi lần chích, phải mở lớp nylon đầu tiên ra, lấy kim đâm xuyên lớp nylon thứ hai, xuyên qua nút cao su, rút thuốc rồi bọc lớp nylon đầu tiên lại.
Một buổi sáng, anh Đại úy Nguyễn văn Tư bệnh. Nghe có người báo, tôi qua phòng anh ấy thăm. Anh nói nhức đầu muốn ói, chóng mặt. Tôi khám thấy anh hơi sốt và cứng cổ. Tôi lục tiền bạc của anh ta và hỏi thăm anh em ai có thuốc thì dùng tiền ấy mua lại và chích cho anh. Chiều đó, trong khi chờ đợi, tôi báo lên cho trại. Hôm đó, anh được đưa lên Bộ chỉ huy. Bẵng đi ba ngày sau, một sớm mai, họ kêu bốn người đi “làm việc”. Khi mấy người này về, tôi hỏi thì được biết các anh có lệnh đi đào huyệt. Rồi bốn người nữa được lệnh đi “làm việc’. Té ra, là họ đem anh Tư đi chôn. Tôi nhớ một điềm lạ: trước khi anh Tư chết, một đôi đũa từ phía cao trên bếp tự nhiên rớt xuống một chiếc gãy làm đôi. Có người về sau kể lại với tôi như vậy.
Sau một thời gian, hố xí vì dơ bẩn quá nên xông ra mùi hôi thối kinh khủng, đến nỗi người dân không dám đi qua con đường đó. Còn những nhà quanh đó thì đóng cửa im ỉm.
Một bữa kia, chúng tôi được điều động khoảng mười người, đi lên chỗ cách đó khoảng năm trăm mét, có lẽ là Bộ chỉ huy. Đi vào trong khu vườn, tôi thấy một villa hồi xưa có độ bốn phòng. Chúng tôi được lệnh đào một hố xí gần cổng ra vào. Nhận lệnh thì phải làm thôi! Điều buồn cười sau này tôi mới biết là người Bắc không có hố xí tự hoại như ở miền Nam, nên khi thấy có hố xí sẵn trong nhà thì họ cho là dơ dáy, bắt lấp đi rồi làm một cái khác ở ngay ngoài cổng villa.
Đến trại này, khẩu phần ăn gồm có chút ít cơm với rau, sống cũng tạm cầm hơi qua ngày.
Một thời gian sau, chúng tôi được lệnh tháo những vỹ sắt ở phi trường dã chiến Sông Mao, nằm cách trại Gia binh chừng hai km. Cứ bốn người phải khiêng cho được bốn tấm trong một ngày, để về làm thêm trại, hội trường, nhà ở; sau đó là hàng rào để rào lại cho kỷ cái trại tù giam chính mình! Một khi có vỹ sắt làm hàng rào, ở trong không nhìn thấy gì ở ngoài nữa.
Một hôm, trên đường đi làm về, chúng tôi nghe một tiếng nổ “Ầm”. Sau đó, nghe nói Thiếu úy Tân bị thương. Tân mới ra trường Sỉ quan Võ bị Đà Lạt. Anh ta trong một toán bị điều đi tháo dây kẻm gai để giăng quanh trại và đã bị mìn cắt đi một chân! Tôi mong ước đi thăm Tân, để xem có thể giúp được gì không trong khả năng của mình, nên một bữa kia, tôi nói với viên Y tá VC xin gặp Tân. Anh ta dẫn tôi đi, biểu tôi phải đi sau lưng anh ta, giống như đang thi hành một công tác gì đó. Khi đến gần chỗ Tân nằm, viên Y tá chỉ tay vào và nói: “ Nửa giờ sau thì về lại trại!”. Lúc tôi gặp Tân, thì chân đã bị cưa rời. Tôi nhìn anh trong nước mắt và hỏi: “ Em cần tôi giúp đỡ gì không?”. Tân đáp “ Nhờ anh nhắn giùm gia đình em “. Ngay khi về tôi ghi ngay những thứ cần dùng trên tờ giấy nhỏ: thuốc trụ sinh, thuốc bổ, bông băng, những thứ cần dung cho vệ sinh vết thương, sữa…Trong một chuyến thăm nuôi sau đó, tôi nhờ chuyển thư cho gia đình Tân. Sau này, nghe nói cha mẹ Tân tốn nhiều tiền để mua đầy đủ thứ cần dùng cho con rồi chầu chực ở cổng từ sáng đến tối, năn nỉ lắm họ mới cho đem vô, ông bà mới chịu về.
Tiếp đến, chúng tôi học tập chính trị. Chương trình học là mười bài. Ngày học một nửa hay một phần ba bài. Cả tổ “kiểm điểm rồi thu hoạch”. Bài một: “Đế quốc Mỹ kẻ thù của nhân dân”. Bài hai: “Ngụy quyền là tay sai, cũng là kẻ thù của nhân dân”. Bài ba: “Ngụy quân là công cụ của Đế quốc Mỹ cũng là kẻ thù của Nhân dân ta”. Mới học có ba bài thì anh Đại úy tổ trưởng nọ tiết lộ: anh là cháu ruột của Lê Duẩn, mẹ anh ta là chị của Lê Duẩn. Vì thế, sau 30/4/1975, Lê Duẩn phái một trực thăng vào Quảng Trị đón bà ấy ra Bắc, về sau cả gia đình dọn về Sài Gòn, có lẽ đã ở một villa nào đó do tiếp thu của chế độ cũ. Anh ta đưa một thư của Lê Duẩn gởi cho Ban chỉ huy trại và được thả ra.
Tổ chúng tôi được một số người nhà gởi cho hạt giống cải. Chúng tôi gieo hạt rồi bán cho những tổ khác, lấy tiền mua đường nấu chè cho anh em ăn.
Trong trại tôi có anh Lê Bá Trung, Bác sĩ, một bữa tự lấy Seringue chích một mũi Vitamine C do anh mang theo rồi bị “sốc”. Cả trại có ba Bác sĩ mà đành bó tay vì không có thuốc men gì cả. May quá, trong lúc hơi tỉnh lại, anh Trung nói trong xách tay của anh còn một chai Solucortef, tôi bèn lấy ra chích cho anh, anh mới qua khỏi. Tôi hỏi anh sao không uống mà chích chi vậy, anh nói: “nghĩ là chích có tác dụng nhiều hơn, mà không ngờ…”
Một buổi sáng, tôi nghe tin có mấy người trong trại vừa ngủ dậy không đứng lên được nữa. Tôi biết đó là triệu chứng của thiếu B1. Tôi hỏi thăm các anh em ai có mang theo thì mua lại cho mấy anh bị bệnh đó uống từ 0.5g đến 1g, hai ngày sau thì họ đi được ( còn nếu uống theo thuốc VC chế thứ 5mg thì phải uống cả 100 viên mới đủ!)
Trong đám tù cải tạo, một anh tên Vận, người Bắc gốc Lâm Đồng, có người em đi Bộ đội miền Bắc. Hôm nhận thư nhà, anh ta đưa cho chúng tôi xem một tấm hình đặc biệt: Anh bộ đội đứng bên một chiếc xe đạp, vai mang một Radio, cánh tay để vắt ngang qua, nghiêng về phía trước cho người ta thấy cái đồng hồ. Anh Vận giải thích: nó có đủ ba Đ rồi đó. Tôi hỏi vậy là sao?Anh nói: “Đó là Đổng, Đài, Đạp, tức là Đồng hồ, Radio và Xe đạp, ba cái là nhất ở miền Bắc!”.
Đám Cán bộ biết rằng những người tù cải tạo đều là những người có học vấn cao, cho nên họ ưa “ nổ “ với chúng tôi để chứng tỏ mình cũng có trình độ như ai. Một bữa đang học chính trị, họ nói: “ Cái mi-cà rô đâu rồi?” anh em ngạc nhiên. Sau mới biết họ muốn nói cái micro. Một bữa khác, trong lúc họ “ dạy “, họ nói: “ Trên này không có la-phan”. Thiệt ra, họ muốn dùng chữ plafond. Không biết nghe ai nói về đời sống ở Mỹ, họ cũng “nổ” khi giảng bài: “ Các anh yên tâm đi về sau khi đi làm về, sẽ có đồ ăn dọn sẵn. Mình muốn ăn món gì, cứ tự đi lấy về ngồi vào bàn ăn ( giống nhà ăn Quân đội Mỹ ). Còn các bà ở ngoài đời, đang đứng nấu ăn trên bếp, bấm bấm vài cái trên cái bảng là ngoài đồng máy cày chạy tới chạy lui thôi!” Nghe vậy, một anh hỏi nhỏ bạn “ Không biết như vậy, mai mốt mình về sẽ làm cái gì?” – “ Bộ mày không biết mày làm cái gì à?” Rồi cả hai cùng cười khúc khích.
Thường chúng tôi học vài ngày rồi đi lao động một ngày. Một bữa đang lao động, chúng tôi được lệnh tập họp trong Hội trường lớn. Mọi người băn khoăn không biết chuyện gì. Té ra, nguyên nhân như sau: Có ai đó viết trong nhà cầu câu:” Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!” Rồi có người báo lên trên. Hậu quả là suốt trong hai ngày chúng tôi bị ngồi nghe chửi rủa, rồi lại được dỗ dành: Anh nào tự thú thì sẽ được khoan hồng, nhưng không ai tự thú hết. Tiếp đó, họ lại dọa nạt:” Chúng tôi đã điện ra Hà Nội, họ sẽ gởi đến một cái máy, thì những hình ảnh cách đây năm mười ngày sẽ hiện ra hết, nếu anh nào không chịu tự thú thì trước sau gì cũng bị kỷ luật!”. Hôm sau, một anh bạn hỏi nhỏ tôi:” Có máy đó thiệt không?” Tôi trả lời:” Hồi xưa, tôi có đọc một cuốn truyện có tựa đề “ Máy khám phá thời gian “ ( La Machine à explorer le temps ) – Đó chỉ là một câu chuyện giả tưởng, chứ không có máy nào như thế cả. Vì để thâu lại những hình ảnh đó, máy phải có vận tốc nhanh hơn ánh sang, là 300.000 km/giây. Hiện nay, trên thế giới chưa có máy đó!”.
Thời gian này chúng tôi được đưa đi lao động trồng khoai sắn ở một nơi gần đường rầy xe lửa, cạnh đài Viễn thông của Phòng 7, Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ chỉ còn những Antenne, còn phòng ốc bị phá toàn bộ. Mỗi ngày có cả chục chuyến xe từ Nam ra Bắc, chở những vật liệu tháo gỡ. Đoàn xe dài dằng dặc, có những toa hành khách là những người dân mặt mày ốm xo, lơ láo, những trẻ em đi chân đất, mặt buồn thiu đứng ở cửa xe dòm ra ngoài. Có những người dân thấy tù nhân, họ thương tình quăng xuống cho kẹo, bánh mì, chuối… Gặp lúc cán bộ có vẽ lơ là, đám tù vội chộp lấy và tiêu thụ rất nhanh. Qua đó ta thấy tình người dân đối với kẻ “ ngã ngựa “ thật tràn đầy thương cảm!
Một bữa kia, tôi cùng mấy người bạn trong toán phải đi quét dọn cho một Y tá dời qua phòng khác. Trong phòng có một giường khám bệnh, một tủ kim loại bằng sắt tây, một ít thuốc, một khẩu K54. Trên bàn có những chai lọ đựng thuốc, tôi để ý thấy có một chai đề ABC ( B là bê bò ). Tôi bèn hổi có ý chọc “quê” người Y tá: “ Ở miền Nam chỉ có thuốc APC ( P là bê phở ) viết từ chữ đầu của ba loại thuốc: Aspirine, Phenacetine, Cafeine, còn ở miền Bắc chữ ABC là loại thuốc gì vậy cô?” Cô y tá VC ngó tôi, rồi im lặng bỏ đi.
Có hôm toán tôi được lệnh đi dọn cầu tiêu gồm năm, sáu cái cho đám Cán bộ. Cầu đó là loại tự hoại. Công việc là gom giấy, rác đốt đi và xối nước làm vệ sinh. Nhìn lên tường, tôi chú ý mấy chữ về “ Nội quy nhà cầu “: Các đồng chí hãy bỏ các giấy, các đất cục, đá, lá cây và cành cây vào thùng sau khi đi cầu. Điều đó, chứng tỏ đám cán bộ kia phải dùng những vật liệu kia… Trời ơi là trời!
Một hôm, một người bạn dẫn tôi đến thăm một anh bạn từ Lâm Đồng xuống ở gần đó. Đến nơi, gặp lúc mấy anh đang nấu trong một cái thau những thức ăn dành cho gia súc như bắp, đậu, lúa mạch xay nhỏ. Họ mời chúng tôi ăn. Vì đói nên ăn vào thấy ngon quá.
Sau khi học xong mười bài, một bữa toán tôi được chuyển về núi Tà Dôn gần Phan Thiết. Chúng tôi được ở trong một dãy nhà trên đường đi vào núi Tà Dôn, bên tay phải. Những ngày đầu, sau khi lãnh phần ăn sáng, họ dẫn chúng tôi đi qua núi Tà Dôn và đến một vùng gọi là Bầu Trắng, sau đó tản vô rừng để cắt tranh, đốn cây để làm một số dãy nhà. Buổi trưa có toán nấu ăn, ăn tại chỗ chiều về trại ở ngoài.
Mỗi ngày, sáng đi chiều về, chúng tôi đi lao động như thé một thời gian. Riêng có hai nguời, ngày trước ở trong toán “gò” trong trại Sông Mao, được giữ lại và giao công việc “ gò” thùng gánh nước và soong. Một bữa, một anh cán bộ nói với anh đó: “ Làm cho tôi một cái hòm “ Anh trại viên nghe mà sảng hồn, hỏi lại và được nói lại y chang câu ấy. Sau này mới hiểu ra chữ “hòm” nghĩa là rương hay vali. Hôm sau, anh ấy được dẫn đến cái trailer nằm trên đường dẫn về núi Tà Dôn và biểu lấy tôn của trailer để làm rương. Anh vừa làm xong thì những Cán bộ khác cũng đòi làm như vậy và mỗi người còn đòi đục thêm cho có hình ngôi sao ở mặt trên cái rương. Chừng hai tháng sau, khi chúng tôi chuyển hẳn vào sau núi Tà Dôn, cái trailer chỉ còn là một bộ sườn với những miếng đệm lót đung đưa theo gió.
Trong thời gian đi đi, về về để lao động như mọi ngày, một bữa trời bỗng chuyển mưa, tên Cán bộ la lớn:” Khẩn trương! Khẩn trương lên!” Tụi tôi ngạc nhiên, kinh hãi klhông biết chuyện gì nguy hiểm lắm mà phải khẩn trương. Sau này mới hiểu ý của Cán bộ: các anh phải đi nhanh lên. Không có gì quan trọng cả mà họ cũng dùng chữ đao to búa lớn.
Khi nhà tranh đã làm xong, chúng tôi được lệnh về ở hẳn tại Bàu Trắng, sau núi Tà Dôn. Nhìn xa xa, hai bên triền dốc là đồi cát.
Bàu Trắng là một vũng chạy từ chân núi Tà Dôn ra xa khoảng 5 km, chiều rộng khoảng nửa km. Ở mặt trên của bàu này, lá cây rụng từ bao nhiêu năm, gió thổi tấp đầy trên ao làm thành một cái bè đồ sộ, rồi cây lát mọc lên trên cao khoảng 1,5m. Nhiệm vụ của chúng tôi là cắt những cây lát này, rồi đem lên bờ, hay đạp lún xuống nước! Còn nước ở đây thì đen ngòm, hơi thối vô cùng và đầy cả đỉa. Có con dài chừng 20 cm, màu trên den, dưới xanh, có loại nhỏ, luc nhúc dưới nước. Vì bị đỉa cắn nhiều lần quá, chúng tôi bèn kiếm những bao cát cũ, may bọc bàn chân lại, còn quần dài thì kiếm dây cột túm ống để chống đỉa. Dưới nước còn có những sinh vật chúng tôi gọi là cà tót, nhỏ chỉ bằng đầu cây kim, con mẹ thì hơi to hơn, bơi xung quanh nó có những đàn con nhỏ nổi trên mặt nước. Nếu ta bị cắn, lúc đầu không để ý, nhưng sau cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, vết thương sưng lên, điểm giữa lõm xuống có một chấm đỏ, mình cứ tưởng là bầm máu mà thôi, nhưng sinh vật quái quỷ vẫn còn nằm lỳ ở đó, ngứa vô cùng, chỉ đến khi mình gỡ nó ra, nó mới lìa khỏi thân mình. Về sau có kinh nghiệm, mỗi khi làm xong, tôi lấy xà bông giặt chà xát từ ngực trở xuống xem có con nào bám vào không, nếu không thì ngứa chịu không nỗi!
Một hôm, đang làm lao động, bỗng tôi giật mình muốn lạnh người: một con rắn đen đang len giữa hai chân. May mắn cho tôi là chưa bị rắn cắn.
Trường hợp bị rắn cắn đã xảy ra cho một số người. Như một anh trại viên người Lâm Đồng, lúc thò tay cầm lát rồi lấy lưỡi hái cắt, đã bị rắn cắn, anh la lên. Người ta dìu anh vào bờ. Vì không có thuốc để chữa trị nên họ để anh nằm, cởi áo anh ra và khuyên nên bình tĩnh. Lúc đầu anh nói hơi tê nơi bàn tay rồi tê đến cánh tay, sau tê nguyên cả tay. Chúng tôi chỉ biết trấn an anh. Lát sau nghe anh nói nhức đầu quá và hơi thở nhanh. Chúng tôi chẳng biết làm gì hơn, lấy quạt, quạt cho anh. May mà không phải rắn độc nên sau hai giờ anh có vẻ bình thường trở lại và thoát chết. Anh ấy là Đại úy trưởng khối chuyên môn của Nha địa dư Đà Lạt.
Về sau, để đề phòng vụ rắn cắn tôi cẩn thận hơn. Trước khi cắt, tôi quay lưỡi liềm xem thử có con rắn nào thì để cho nó chạy trước mới thò tay xuống nắm bó lát mà cắt.
Khi cắt lát xong, phần còn lại là một bè lá cây dày độ ba tấc, nửa nổi nửa chìm trên mặt nước.
Chúng tôi phải cắt từng miếng to, lật úp lại, để cho nó thối rửa ra. Sau đó, một toán khác lấy đất đắp ngang qua cái bàu đó thành những thửa ruộng ngập nước. Tiếp đến, chúng tôi bắt đầu tháo nước ở khúc dưới ra từ từ, để rồi bùn, cây mục lắng xuống.
Thời gian này, một số anh em đói quá. Có những anh em phải lặn xuống hồ móc lên những củ sen, luộc rồi ăn. Có anh hái hột cườm thảo, bữa đó đó hái được khoảng nửa lon Guigoz. Nhiều người biết đó là loại độc vô cùng, nên can ngăn, nếu không sẽ chết.
Sau khi xả hết nước ra, những rể cây mục rồi, đến lúc phải làm trâu: họ bắt sáu người làm một toán, năm người kéo cái bừa đi đằng trước, một người cầm cái bừa điều khiển ở đằng sau để bừa những thửa ruộng đó.
Trong toán tôi có anh Nguyễn Lê Chánh, Y sĩ Đại úy, chúng tôi để cho anh ấy giữ cái bừa, năm người chúng tôi kéo cái bừa đi đằng trước. Anh ấy, để đùa vui, giơ cái cây vừa đi vừa la: “ Tá, ái, tá, ái “ y như là đang điều khiển mấy con trâu thật! Không biết có phải do gió đưa lại mà đám Cán bộ nghe được, kêu chúng tôi lại răn đe: “ Vì Nhà nước còn khó khăn, các anh phải làm lao động tốt để còn được về với gia đình, chứ chúng tôi đâu có bắt các anh làm trâu bò mà các anh la “ tá, ái “. Nghe nói về sau anh Chánh còn bị làm kiểm điểm, không biết mấy lần! Người ta còn kể lại rằng có một số bà vợ Sĩ quan hay con cái của họ nghe tin đồn ở Bàu Trắng là chỗ tập trung ở tù, họ đã lặn lội tìm đến nơi ( thời gian này chưa cho thăm nuôi ) núp trong bụi nhìn xuống thấy thân nhân mình bị “ làm trâu “ kéo bừa, mấy bà khóc và kể với nhau thảm thiết vô cùng!
Khi những thửa ruộng kể trên có thể cấy được rồi, phần đông chúng tôi bị đưa về Núi Rể, chỉ để lại đó một toán nhỏ thôi để bắt đầu cấy lúa.
Ở Núi Rể, nhiệm vụ của chúng tôi là làm khoảng 20 cái nhà bằng tre, mái lợp tôn. Tre và cây gỗ phai đi đốn về. Sau khi làm sườn nhà bằng cây, thì tre được đang lại để làm cửa và vách trông cũng đẹp mắt. Lúc gần xong, một bữa có ba cán bộ bước vô, lưng có súng ngắn, vai mang túi da. Một cán bộ nói:” Các anh làm cũng tốt, nhưng chưa biết phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Hãy nhìn gò mối ngoài kia! Đất, đá đem vô đổ thêm nước, nện rồi chà láng thì còn chắc hơn Ciment nữa!” Chúng tôi theo lệnh thì phải làm thôi. Mối ngoài đồng mà lại đem vô nhà. Rồi họ sẽ thấy hậu quả của việc này.
Thời gian ở đây, chúng tôi dùng chung giếng nước của chừng mười nhà dân quanh đó. Một bữa, lúc đang làm vệ sinh sau buổi chiều lao động về, chúng tôi thấy ba, bốn bà mặc quần áo vải đen đang quảy thùng gánh nước, da mặt họ trắng hồng hồng. Đi theo sau có một số con nít ăn mặc tươm tất, nước da cũng hồng hồng như thế. Họ có vẻ khác với người dân ở đây. Chúng tôi đoán chắc họ là vợ con của anh em trại viên từ Đà Lạt, Lâm Đồng xuống mà thôi… Lúc đầu, đám Cán bộ đang coi chúng tôi, nhìn họ hau háu, nhưng sau cũng biết họ không phải là dân địa phương, họ bèn ra oai đuổi mấy bà ấy đi! Mấy bà ấy cãi lại: “ Cái giếng là của xóm này, tại sao chúng tôi không được quyền lấy nước!” Đám Cán bộ hỏi:” Mấy chị ở đâu?”. Họ đáp:”Chúng tôi ở xóm này!”. Thật ra, họ xuống để tìm chồng trong trại. Lúc đó, những Sĩ quan từ cấp Thiếu úy đến Đại úy thuộc Lâm Đồng, Bình Thuận, Bình Tuy, Ninh Thuận đều bị tập trung về Sông Mao.
Sau khi làm xong những ngôi nhà kể trên, chúng tôi được đưa lên Sông Lũy. Chúng tôi đi vô cách đường Quốc lộ khoảng 10km để làm đập tràn và đào một đường dẫn nước từ nơi đó về Nông trường Sông Lũy.
Về sau, chúng tôi có trở lại nơi những ngôi nhà làm bằng đất lấy từ gò mối (theo lệnh của Cán bộ ) thì nay đã không còn nữa, mái tôn đã bị lấy đi hết, tất cả bị sụp do mối ăn.
Thời gian đầu đến Sông Lũy, chúng tôi đốn cây, tre, cắt tranh lợp nhà để ở. Sau đó, được lệnh làm một cái đập tràn ngăn sông Lũy lại. Chúng tôi khiêng đá lớn nhỏ đủ loại, đấp thành một con đập thấp. Khi việc này xong, thì phải dùng những tấm lưới sắt bao trùm con đập lại. Tiếp đến công việc của chúng tôi là gánh đất làm thành một con đập bằng đất sau cái đập bằng đá…
Lúc sau này, chúng tôi thấy có đoàn khoảng 5,6 người bô bô nói tiếng Bắc, họ đem theo những dụng cụ như dàn cây ba chạc, máy nhắm. Có lẽ đây là đám cán bộ khảo sát địa hình. Họ làm việc trong khi chúng tôi làm đập. Khoảng hơn 2 tháng sau, họ bắt chúng tôi khởi sự đào kênh từ trên đập tràn đi theo những cột mốc do đoàn khảo sát người Bắc cắm. Tời nắng như đổ lửa, chúng tôi ráng sức đào sâu xuống, lúc gặp đá cũng phải khiêng. Công trình chúng tôi được khoảng 2 Km thì có lệnh trên: mở thử cho nước chảy. Lúc phá bờ đất cho nước tràn vào thì một điều bất ngờ xảy ra: nước chảy chầm chậm độ nửa cây số thì ngưng chảy! Thất bại! Chúng tôi đựoc lệnh tạm ngưng, không làm nữa. Tôi nghe kể lại về sau này, đám khảo sát và đám Trung đoàn chửi nhau chí chóe. Tức tối, đám khảo sát bỏ về.
Rồi một hôm, một anh Đại úy Công binh trong khối tôi tên là Vân, được kêu lên và hỏi xem anh có thể giúp trong đoàn họ làm con kênh được không. Anh ta mới trả lời xin họ hãy cấp cho anh một bản đồ 1/50.000 của vùng này, và cho anh thời gian 2 đến 3 ngày để nghiên cứu địa hình. Về sau, họ giao cho anh bản đồ rồi phái 2 tên Bộ đội có đeo sung áp giải anh Vân đi lội quanh vùng để xem địa thế.
Thời gian này, trại cũng có một chiếc máy ủi loại Kubota nho nhỏ. Anh Vân bắt đầu sử dụng máy ủi đất, một số lính VC cắm cọc theo đó và chúng tôi lại bắt đầu đào kênh. Có lúc đào sâu xuống, có lúc đắp cao lên. Trong lúc làm công trình này, cũng có nhiều chuyện buồn cười. Đáng lẽ, chúng tôi phải gánh đất từ dưới lên. Có anh trong toán nói: “xin Cán bộ cho anh em làm theo phương pháp Taylor”. Tên Cán bộ trên này nói vọng xuống: “ Bây giờ mà các anh còn nói chuyện Tây lo, Mỹ lo, các anh phải tự lo mà làm đi, không có Tây, Mỹ nào lo ở đây hết!”. Cả bọn chúng tôi mỉm cười với nhau rồi cũng làm theo phương pháp dây chuyền, tức là đứng theo hàng dọc, chuyền rổ đất đá lên cao.
Có lúc gặp tảng đá to, phải nạy ra và tìm cách đưa ra ngoài kênh, anh em phải kiếm ba khúc cây vững chắc rồi cột lại một đầu làm điểm tựa, sau đó đốn cây dài và to làm đòn bẩy. Sau khi cột tảng đá bằng dây vào đầu ngắn, cả bon chúng tôi gần 10 người đu vào đầu dài để đưa tảng đá lên quãng nửa chiều cao của kênh. Sau đó, dời 3 chạc gỗ lên chỗ cao để đưa tảng đá ra khỏi con kênh. Gần mười mấy người tù ốm nhom đến đen thui mà ráng sức đưa tảng đá lên cao. Cũng may trong thời gian này không xảy ra tai nạn, chứ nếu có chắc nguy hiểm đến tính mạng nhiều lắm!
Đôi lúc, chúng tôi phải phá vỡ những tảng đá cứng. Họ phát cho những dụng cụ, một đầu như lưỡi cuốc nhỏ, một đầu như nửa cánh cung, làm bằng sắt uốn cong và dài khoảng 8 tấc. Chúng tôi dùng đầu nhọn bửa vào trong đá và cuốc lại bằng đầu tựa lưỡi cuốc. Để tự phòng vệ, tôi phải kiếm những miếng vải bao cát, may kết dính vào cái nón phía trước mặt mình và cột ngang nơi cổ để chỉ thấy lờ mờ thôi mà làm việc, vì nếu không khi cuốc xuống, đất đá có thể văng vô mặt, sẽ thương tật chết người. Còn về tay chân, sau nột thời gian lao động ở đây, bàn tay chúng tôi phồng chai hết.
Chúng tôi đào được khoảng 3 km thì có lệnh bắt buộc phải dời trại đi. Vì họ cho thời gian có một ngày, vừa để di chuyển đồ đạc đến chỗ mới, vừa thu xếp chỗ ở để đi làm, nên anh em vội vã dựng lều. Lều này có mái ở trên, nhưng bốn bề trống hoác. Ở giữa lều là một cái sạp đủ nằm, cao hơn mặt đất khoảng nửa thước, đề phòng rắn rít. Cái lều này áp sát với lều anh bạn và kéo dài ra.
Lều trại đơn sơ như vậy, nên gặp những đêm mưa rừng gió lạnh, mái lều đâu có che chắn cho mình, chỉ có một cách khi thức dậy, choàng vội tấm nylon do gia đình gởi vô, rồi ôm vô những “ hành trang “ mà nằm khum xuống, tựa như những người Hồi giáo khum xuống mà lạy, cả đêm như vậy. Chịu trận với gió lạnh và mưa, đâu có ngủ nghê gì được, sáng hôm sau phải đi lao động!
Thời gian ở đây chúng tôi có lệnh mới vì tình hình khó khăn, khẩu phần mỗi người trong tháng là 3,5kg gạo độn với khoai mì, khoai lang khoảng 15kg, 16kg rút xuống còn 12kg. “ Ở trên biểu chúng tôi đưa một toán đi đào củ nầng vê nấu ăn thêm. Có người đã đào được những củ nầng to bằng trái banh, đưa về gọt vỏ, che ra rồi luộc. Theo sự chỉ dẫn “ở trên”: luộc xong bỏ vào cái rọ, ngâm một ngày một đêm ngoài suối, rồi lấy vô luộc lại, xắc ra rồi phân phát cho anh em. Tôi nghĩ rằng dù là củ gì có bổ dưỡng bao nhiêu mà qua giai đoạn luộc, ngâm rồi luộc như thế thì cái còn lại chỉ là xác bã, chẳng lợi gì cho cơ thể, nên khi được phát vào buổi sáng khoảng một chén thì tôi lặng lẽ bỏ vào giỏ xách mình nhưng không ăn. Thật là may cho tôi vì ngày đó, có một số anh ăn vào khoảng nửa chén, đi làm được khoảng 2 giờ sau thì ói mửa, choáng váng, bước đi không nổi, mặt mày xanh dờn! Đám Cán bộ phải cho họ về. Sau đó, chúng tôi được tập họp lại để nghe chửi: “ Chúng tôi nhờ những củ nầng này để ăn mà sống, chống Mỹ cứu nước. Tại sao các anh làm ăn cẩu thả để anh em bị ngộ độc như vậy!”. Ngoài miệng nói như thế chứ sau đó họ cũng không cho phép đào củ đó nữa.
Một buổi sáng, chúng tôi đang đi dọc theo con mương đến chỗ toán phải làm thì thấy toán đi đầu vừa chạy vừa la hét mừng rỡ. Tôi nhìn xa hơn, thấy một con mễn ( một loại nai nhỏ như con chó ) chạy đằng trước, nhưng vì con vật đang có chửa nên lúc leo lên triền dốc, nó bị té xuống không leo lên mương được mà chạy dọc theo con mương. Nó có chửa nên chạy chậm hơn đám tù, mặc dù đang đói. Nhưng do sự thôi thúc của miếng mồi nên chạy thật mau để vây bắt con vật, sau đập chết rồi mang về chia nhau. Tôi nghĩ thật đáng thương tâm, những người tù quá đói khổ, thấy con vật tội nghiệp muốn tìm đường sống cho con mình mà cũng không thoát được.
Thời gian ở đây, một hôm chúng tôi ra suối tắm, có một toán thuộc Lâm Đồng đạp nhằm một cái bao. Lúc đưa lên, té ra là một bao cá thiều, sau này mới biết đó là một trong những bao cá của toán Nghĩa vụ Quân sự lúc đi chợ về, gánh qua suối bị rớt hôm trước rồi trôi dạt xuống đây. Mấy anh Lâm Đồng chia nhau, tuy cá đã sình ươn ra và bốc mùi rồi. Tối đó, mấy anh ngứa quá, gãi sồn sột. Khoảng 10 người bị tình trạng này.
Để kiếm thêm thức ăn, một số người tìm những cọng thép bẽ làm cái bẫy, rồi để dành chút ít đồ ăn của mình làm mồi. Khoảng bốn năm bữa, họ bẫy được con sóc, có bữa bẫy được một con chuột đồng. Có một anh không biết nhờ ai mua giùm được một con gà mái, anh nuôi nó cho đến khi nó đẻ. Từ đó, ngày nào anh cũng khám “ phụ khoa” cho con gà để kiểm tra coi có trứng không, sợ mất trứng. Nó đẻ một thời gian thì ngừng, quay sang ấp. Vì không có trứng để ấp (anh ấy ăn trứng mất rồi ) nó mổ một lon sữa bò để ấp. Thấy vậy anh ấy quăng lon sữa bò ra xa. Hôm sau, nó lại lấy lon sữa bò ấp nữa. Một anh khác bàn nên đem ngâm con gà trong nước lạnh. Anh làm theo, sau đó con gà tiếp tục đẻ.
Công trình đào kênh của chúng tôi trải dài khoảng 9 tháng, thì có lệnh ngưng. Lúc đó còn khoảng một cây số thì đến Nông trường trồng bông, là phần việc của toán Nghĩa vụ Quân sự. Nhìn lại dụng cụ mình làm, thấy thất kinh: cái đầu nhỏ như lưỡi cuốc nay chỉ còn một phần tư, còn cái đầu kia, trước là một cây nhọn dài 8 tấc ( thường dùng trong hầm mỏ miền Bắc ) bây giờ còn khoảng 2 tấc mà thôi!
Chúng tôi lúc rảnh thì tắm giặt hay “cải thiện linh tinh”( danh từ VC dùng chỉ cái việc kiếm thêm thức ăn) qua những lá cây rừng. Có một loại cây tên là “ Thảo nam sơn” nghe người ta nói vỏ của nó có vị thuốc trị hết đau lưng. Do đó khi có anh em la: có cây Thảo nam sơn, thì có cả mấy chục người nhào tới để tước vỏ cây. Sau đó, thân cây như bị “ lột truồng “.
Chúng tôi nghe nói lúc khánh thành có những quan chức cao cấp đến tham dự. Đêm đó, chúng tôi được” chiêu đãi” một bửa văn nghệ do một đoàn văn công tỉnh Thuận Hải trình diễn. Chúng tôi ngồi một góc, còn đám Nghĩa vụ ngồi một góc. Khi đoàn văn công nhìn xuống, có lẽ họ thấy những Sĩ quan Bình Thuận ngồi dưới nên lúc khởi đầu, họ chơi những bản nhạc ngoại quốc, trong đó có bài La Paloma, đám tù vỗ tay quá xá. Cứ hết một bài thì vỗ tay “ Bis!Bis!”. Đám Nghĩa vụ Quân sự mặt mày ngô ngáo vì không biết bài nào cả. Sau khi họ chơi hết ba bài, một Cán bộ VC lên nói: “ Các anh không được chơi nhạc Ngoại quốc!”. Tôi nghe một anh văn công đáp: “ Tôi chơi nhạc Cuba, Hungary, những bài này của XHCN”. Viên Cán bộ không chịu, bắt chơi nhạc VN mà thôi. Lúc đó, họ bắt đầu chơi những bài nghe như những tiếng ró ré hét lên.
Hôm sau, Bộ chỉ huy kêu anh Vân lên “ làm việc”. Vân với tôi cũng khá thân. Lúc về, anh kể:” Họ nói sẽ thả tôi ra với điều kiện ký giấy làm cho họ mấy năm, anh thấy sao?”. “ Trời ơi! Anh ở tù một mình, bây giờ định đem vợ con lên ở tù nữa hay sao? Chỗ này là nơi chó ăn đá, gà ăn muối, đau ốm, bệnh hoạn không thuốc men. Anh ở tù một mình là đủ rồi. Chừng nào họ thả về thì thả…”. Về sau, anh ấy từ chối khéo léo công tác phục vụ cho Trung đoàn ấy.
Sau khi, chúng tôi làm đập tràn và kênh đào song Lũy xong, họ chở chúng tôi về một vùng gần Phan Thiết, gần đồi Nora. Đồi Nora ở bên trái Quốc lộ, chúng tôi phải đi vào một đường lộ nhỏ bên phải để đến trại.
Đến đây, chúng tôi cũng khởi sự làm nhà cửa, phá gò mối, ban ruộng ra để sửa soạn cho vụ mùa.
Bao quanh trại là hàng rào bằng tre đan lại có gai. Một đêm kia, khi chúng tôi đang ngủ thì có kẻng đánh và có tiếng súng nổ. Tất cả được lệnh tập họp điểm danh. Về sau, tôi nghe nói có ba người trốn trại. Đó là Đại úy Đặng Phiên, Thông Ngộ và một anh nữa tôi không nhớ tên. Mấy anh này lúc còn ở trại Sông Mao thì cùng nhóm với tôi, do tôi làm Tổ trưởng. Về sau này, các anh ấy đã chuyển qua nhóm khác.
Thời gian sau, tôi nghe phong thanh Cán bộ họ đã đi hành quân và bắn chết những anh này. Và họ có đem về những cuốn sổ tay nhỏ của mấy anh.
Lúc này, họ cho chúng tôi ăn uống quá tệ so với hồi trước. Bây giờ chúng tôi trực thuộc Bộ nội vụ tức Công an quản lý. Một hôm, họ ra lệnh tập họp và biểu đem “ Quân trang, Quân dụng “ra để kiểm soát. Điều mỉa mai là chúng tôi chẳng còn gì nữa để mà gọi là Quân trang, Quân dụng, chỉ có mấy bộ đồ rách tả tơi, mấy cái nồi lon gô… Họ quen xài chữ đao to búa lớn. Đám Công an này kiểm soát rất kỹ. Mỗi người được lệnh trãi ra một tấm nylon rồi nồi niêu, quần áo đồ dùng…bày ra trên đó. Quan cảnh như đang bán chợ trời, anh em trại viên ngồi đó, còn đám cán bộ lật lên, lật xuống, rà soát những cái cổ áo, từng đường may trên áo, lai quần để tìm ra xem có dao hay đinh trong đó không. Nhưng chúng tôi dại gì mà đem dấu dao, đinh trong áo quần. Nếu cần thì chúng tôi giấu vào một hốc cây nào đó ( cái gọi là dao chẳng qua là một cây đinh lớn mà chúng tôi đập đạp ra rồi mài mài cho bén ) khi gặp thằn lằn, rắn mối, cóc nhái… thì rồi xẻ ra nướng ăn, rồi nhét lại vô trong một hốc cây.
Một buổi sáng, chúng tôi được lệnh đi lao động, mỗi toán phải hai người với một cái đòn, mười người phải đem theo một cái võng, không ai được ở lại hết, trừ ra một số tối thiểu người làm nhà bếp tức “anh nuôi” khoảng bốn năm người.
Từ đó, chúng tôi đi ra Quốc lộ 1, đi được một đoạn đường thì thấy một cảnh thật thương tâm, một anh thương binh, có lẽ thương phế binh VNCH cụt một chân, vừa chống một cây nạng, vừa cuốc! Ngang hàng với anh, đứng gần đó là ba đứa con anh khoảng 12 tuổi, 8 tuổi và 6 tuổi đều cầm mỗi đứa một cây cuốc nhỏ mà cuốc tới. Nhìn thấy cảnh này, tôi thấy ứa nước mắt.
Chúng tôi đi ra đến Quốc lộ một, sau đó băng qua để lên đồi Nora. Theo lệnh trên, chúng tôi cứ hai người phải gỡ một cuộn kẽm gai trên ngọn đồi này. Nghe nói hồi xưa đây là đồi Pháo binh của VNCH và nơi mà Nhà văn Y Uyên đã tử trận.
Nora là một ngọn đồ thấp. Lúc chúng tôi đến, trên đường đi, nhìn lên thấy chẳng còn gì, ngoài những hàng rào kẽm gai xung quanh. Ở phía bên trái đường đi, có một cái am nhỏ. Từ trong am một bà già đi ra, ngược lại chiều với chúng tôi. Bà già hỏi chúng tôi: “ Các anh lên đây làm gì?” “ Chúng tôi được lệnh lấy kẽm gai “. Bà ta nói:” Đừng!Đừng! Cách đây mấy ngày, có một con bò bị vướng mìn và đã chết “. Chúng tôi cho bà hay chúng tôi là tù, đâu có dám cãi lệnh. Bà nói để bà lên am cầu nguyện cho chúng tôi.
Chúng tôi tiếp tục đi, dạt ra hai bên để lấy kẽm gai. Sau cùng, tôi và anh Nguyễn lê Chánh cũng gỡ được hai cuộn kẽm gai, xỏ đòn và gánh về.
Các toán đổ xô ra quanh đó. Thỉnh thoảng, khi kéo dây kẽm gai lên, anh em giật mình kinh hoảng vì thấy những trái lựu đạn hay mìn ba chấu bung lên hoặc nằm lăn lóc ở đó. Anh em la lên rồi nằm rạp xuống. Cũng may, không nổ! Không biết do mưa nắng bao nhiêu năm, lựu đạn và mìn kia đã hư mục, hay là sự mầu nhiệm của lời cầu nguyện của bà già kia mà Ơn trên và linh hồn Tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã phò hộ cho chúng tôi.
Tôi thấy chính sách của Việt cộng thật là vô nhân đạo khi đưa người tù đi gỡ kẽm gai ở một nơi đầy mìn bẫy. Họ đã tính toán trước sẽ có người bị thương tật hay là chết. Vì thế, chúng tôi được lệnh, cứ mười người thì mang theo một cái võng, phòng khi trường hợp đó xảy ra, để khiêng người bị nạn. Có cả thảy mấy trăm người như vậy mà may thay, không một tai nạn nào xảy ra, không một trái lựu đạn nổ. Chỉ có một số anh em khi gỡ kẽm gai bị trầy xước sơ sơ mà thôi.
Những chuyện nguy hiểm có thể chết người rồi thì cũng qua đi, nhưng cái ám ảnh suốt ngày, suốt tháng đối với anh em là những ngày đói dai dẳng. Vào buổi sáng họ phát cho mỗi người một cái bánh làm bằng bột mì ( có lẽ do viện trợ từ những nước khác ) đường kính độ 20 cm. Sáng một cái, trưa hai, tối hai, chúng tôi gọi là “ bánh xe lãng tử “. Sức khỏe anh em do đó mà suy kiệt dần, chỉ khá lên được khi có thăm nuôi. Mỗi kỳ thăm nuôi 3 tháng một lần, sau đó anh em trở lại xanh xao, ốm yếu như cũ, như một chu kỳ cứ tái diễn mãi.
Thời gian ở Sông Mao, vấn đề vệ sinh thật là khủng khiếp. Mỗi tuần, chúng tôi được dẫn đi tắm một lần ở cái ao nước đục ngầu, màu xanh đen. Bao nhiêu người, từng tốp một xuống tắm giặt. Toán này lên, toán khác xuống, cũng chỉ tại cái ao nước đó! Một số an hem bị ghẻ lở cả thân mình, như trường hợp anh Châu ( tôi quên mất họ, chỉ nhớ tên ) nguyên là Đại úy Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận. Trước 75, bạn bè gọi đùa anh là “ anh Châu bụng “. Về sau, anh bị ghẻ lở, còn bụng thì xẹp lép. Anh em mới gọi là “ Châu ghẻ”. Nghe nói lúc được thả ra rồi, một thời gian sau anh bị bệnh và qua đời.
Có những điều anh em lo nghĩ vì chẳng thấy gì sáng sủa cả trong tương lai, nhất là băn khoăn về gia đình, không biết thân nhân mình làm sao mà sống, khi mình thì ở trong cái rọ này. Hình ảnh tôi nhận thấy rõ nhất là anh Bỗng, nguyên Đại úy thuộc Ban liên hiệp Quân sự hai bên. Sau 6 tháng vào tù, tóc anh biến thành bạc phơ. Thật đúng là hình ảnh Ngũ tử Tư hiện đại.
Sau khi được thả ra, những hình ảnh hãi hùng trong trại tù cứ lởn vởn trong đầu tôi suốt mấy chục năm. Cho đến trước lúc được đi Hoa Kỳ, cứ hai hay ba tháng tôi vẫn thường nằm mơ thấy mình ở trong trại tù cải tạo, rồi qua bốn đến năm ngày sau đó thì mất ngủ. Khi đã định cư ở Hoa Kỳ, khoảng bốn năm đầu, thỉnh thoảng tôi lại nằm mơ thời gian kinh hoàng đó. Phải đến bảy năm sau đó, mới chấm dứt tình trạng ác mộng đó.
Chúng ta, những Sĩ quan bị đưa đi ở tù một cách đau đớn, bị đọa đày khủng khiếp mà còn sống sót để được hưởng chính sách nhân đạo HO của Mỹ quốc và ngày nay chúng ta đã có những gia đình êm ấm, con cái nên người, chúng ta cũng phải nhớ lại sau lưng chúng ta, những bà vợ còn rất trẻ khi chúng ta bị lùa đi vào trại cải tạo, những bà mẹ, những bà chị, cô em gái với lòng thương vô bờ bến đã xông ra ngoài xã hội đầy bất công, đầy thù hận, đầy phân biệt để sống còn, để nuôi thân nhân ở ngoài, rồi còn dành dụm từng đồng, từng bánh đường, từng con cá khô, miếng bánh, từng viên thuốc để định kỳ thăm nuôi, an ủi và khuyến khích chúng ta cố gắng sống nhẫn nhục chờ đợi ngày về. Những người thân của chúng ta đã không được sửa soạn với những khóa học “ mưu sinh thoát hiểm “, mà với bàn tay khéo léo, nghị lực kiên cường để giữ được gia đình tạm đủ sống và yểm trợ các người tù bằng những món quà thăm nuôi, những lời khuyên để chúng ta yên tâm mà chính chúng ta, những người tù 5, 10, 15 năm thấy hoàn toàn vô vọng.
Chính họ là những động lực thúc đẩy chúng ta cố gắng sống còn và chính họ mới là những người bây giờ phải được nhận những lời tuyên dương cao quý nhất. Còn chúng ta, chỉ là những thanh niên, trong thời điểm đó, phải làm bổn phận của người trai, khoác áo Chiến binh trong buổi binh đao, khi nước nhà còn đầy quân thù (Cộng sản Bắc Việt) lúc nào cũng lăm le phá hoại hạnh phúc của toàn dân.
BS Lê Bá Dũng
_
__._,_.___

LỜI GỌI TỪ BỎ CỘNG SẢN

  

Kỳ vọng gì về lời kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-12-15
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ

000_APH2003012429527
Một công nhân sơn một poster lớn mang cờ đảng cộng sản tại trung tâm Hà Nội.
AFP photo

127 nhân sĩ trí thức với nhiều gương mặt nổi bật như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Tương Lai, Giáo sư Chu Hảo, Đại sứ Nguyễn Trung, TS lê Đăng Doanh vào hôm 9/12/2015 đã gởi thư ngỏ cho Bộ Chính Trị, Trung ương Đảng, cũng như toàn thể hơn ba triệu Đảng viên kêu gọi thay đổi chế độ chính trị, xây dựng tự do dân chủ để cứu nguy đất nước và dân tộc.
Mặc dù trước đây từng có nhiều thư ngỏ, kiến nghị của nhân sĩ, trí thức, Đảng viên và những người ngoài Đảng, nhưng lần này được mô tả như một hành động chưa từng có. Nội dung bức thư ngỏ đã thẳng thắn phê phán đảng Cộng sản Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa Mác-Lê, đã đưa đất nước vào thực trạng tụt hậu xa với láng giềng. Đặc biệt Thư Ngỏ nêu rõ, trong vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam bám giữ thể chế độc tài toàn trị với bộ máy hết sức nặng nề, thiên về dùng bạo lực và dối trá, vi phạm nhiều quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng  của nhân dân, tạo thuận lợi cho cho tệ tham nhũng, ức hiếp dân và sự thao túng của các nhóm lợi ích bất chính. Đường lối sai lầm theo ý thức hệ cùng với bộ máy cầm quyền nhiều khuyết tật cũng không dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc để có đối sách đúng đắn bảo vệ độc lập, chủ quyền chống mưu đồ và hành vi bành trướng của Trung Quốc.
Do vậy Thư Ngỏ kêu gọi dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa Mác- lê, tiến hành cải cách chính trị triệt để và toàn diện theo con đường dân tộc và dân chủ. Một trong những điểm đề nghị quan trọng với Đại hội Đảng lần thứ 12 sắp tới là đổi tên đảng cộng sản, đổi tên nước, phóng thích tù chính trị.
TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS đã tự giải thể, một nhân vật tích cực ký tên trong thư ngỏ, giải thích về khả năng tồn tại của Đảng Cộng sản, một khi thực hiện thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Từ Hà Nội, ông nói:
“Chúng tôi không muốn duy trì Đảng cộng sản này là một đảng cầm quyền, nó có thể tồn tại được là tự nó, nhưng phải có một hệ thống nhiều đảng, đảng cộng sản Việt Nam có thể là một đảng trong đấy còn người dân có chấp nhận hay không là một vấn đề khác, không có chuyện chúng tôi bảo rằng duy trì đảng lãnh đạo này. Nếu mà người ta chấp nhận có một hệ thống đa đảng, có bầu cử thật sự tự do tôn trọng nhân quyền, có nền tư pháp độc lập, ba nhánh quyền lực độc lập giám sát lẫn nhau. Trong một thể chế như thế đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có cơ hội tồn tại, chứ chúng tôi không bảo là mục đích của việc vận động như thế này là duy trì đảng Cộng sản Việt Nam ở vị thế lãnh đạo…Nếu mà làm được như thế thì cuộc chuyển đổi dân chủ sẽ đỡ tốn kém hơn cho dân tộc và nó có thể tiến hành nhanh hơn.”
TS Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập, trong tư cách một nhà quan sát nhận định rằng, để giải quyết vấn đề của đất nước hiện nay thì cần giải quyết chế độ, mà đó là sự thay đổi hệ tư tưởng. Trong Thư Ngỏ này cũng đặt ra vấn đề đó và thay đổi tên Nước. Theo TS Phạm Chí Dũng, những người soạn thảo Thư Ngỏ có cái lý của họ, những người ký tên biết rằng ở Việt Nam không thể thay đổi một cách nhanh chóng được, mọi thứ sẽ diễn ra một cách chậm chạp. Theo lời ông, trong đảng Cộng sản có một khuynh hướng về mặt tư duy là tránh những sự thay đổi mang tính sốc, mang tính đột ngột. Từ Saigon TS Phạm Chí Dũng tiếp lời:
000_Hkg6879719-400
Hình Mác - Lê được bày bán tại một cửa hàng ở Hà Nội. AFP photo
“Hiện nay tôi biết có một số người vận động trở lại đảng Lao Động Việt Nam thay cho đảng Cộng sản. Chắc chắn là đảng Cộng sản không chấp nhận hoặc chưa chấp nhận chuyện đó. Nhưng hình thành một đảng Lao Động Việt Nam vào một thời điểm nào đó trong tương lai, thì có lẽ vẫn còn dễ chấp nhận hơn là một đảng chính trị đối lập. Phải nói thẳng là khuynh hướng hình thành đảng chính trị đối lập hiện nay đã manh nha rồi. Nếu đảng Cộng sản cứ duy trì cai trị một cách độc đoán, yếu kém như thế này thì chắc chắn trong tương lai sẽ hình thành những đảng đối lập và lúc đó tôi cho rằng nếu diễn biến như kịch bản của Miến Điện là còn tốt đẹp, tôi sợ là ở Việt Nam sẽ diễn ra những điều tồi tệ hơn. Vì vậy tôi nghĩ rằng đảng Cộng sản nên quan tâm, nên tham khảo một cách có ý thức đối với những thư ngỏ của giới trí thức như thế này, vì dù sao đó là những người trí thức vẫn còn có tâm nguyện đóng góp phản biện, chứ còn một khi họ không còn muốn nói nữa thì tôi không biết điều gì sẽ xảy ra...”
Giới quan sát theo dõi tình hình chính trị Việt nam cho rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã làm ngơ và không một lần trả lời các kiến nghị, thư ngỏ đòi cải cách chính trị hay sửa đổi Hiến pháp, liên quan đến vai trò lãnh đạo độc quyền của Đảng, cũng như vấn đề trao trả người dân quyền sở hữu đất đai.
Sẽ có hy vọng gì đối với Thư Ngỏ 9/12 của ít nhất 127 nhân sĩ trí thức tâm huyết với đất nước. Theo lời TS Nguyễn Quang A, nếu 1.000 lần kiến nghị mà chưa thấy biến chuyển gì thì sẽ còn lần 1.001, tất nhiên không chỉ có ký mà còn nhiều hoạt động khác nữa, việc ký Thư Ngỏ như thế này chỉ là một phần nhỏ của hoạt động.
Điểm thứ hai là lần này, do có gởi cho toàn thể đảng viên, nên trong Thư Ngỏ dã cố gắng làm sao đề ra những vấn đề thật cụ thể,  thật rõ ràng. Những vấn đề họ có thể làm ngay được nếu họ muốn làm và nếu mà  trong Đảng hiểu được và thấy là hợp lý thì họ có thể gây sức ép. Số lượng đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam rất lớn,  cho nên nhóm nhân sĩ trí thức mà ông là một thành viên có chủ trương rất rõ ràng là làm chính sách gọi là đảng vận.
Trong Thư Ngỏ 9/12 có nhắc tới bài học chuyển đổi thể chế độc tài sang dân chủ một cách hòa bình ở nhiều nước, đặc biệt là ở Myanmar mới đây và về điều Đảng Cộng sản Việt Nam đang có cơ hội thuận lợi hơn bao giờ hết, để đưa đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển.
TS Nguyễn Quang A giải thích:
“Kinh nghiệm của Myanmar là một kinh nghiệp tốt, còn có rất nhiều kinh nghiệm khác của Đài Loan của Hàn Quốc của Indonesia của các nước nguyên cũng là xã hội chủ nghĩa trước kia họ chuyển đổi một cách êm thắm như thế nào. Tôi không cho rằng chúng ta có thể sao chép bất kể bài học nào của bất kể nước nào, nó phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam bây giờ nhưng ở trên tinh thần làm sao để cuộc chuyển đổi ấy đỡ tốn kém nhất cho dân tộc, chuyển đổi nhanh nhất và quan trọng hơn nữa là sau cuộc chuyển đổi thì nền dân chủ ấy phải được giữ vững…”
TS Nguyễn Quang A gọi những việc mà nhóm nhân sĩ trí thức trong đó có ông đang làm là những việc nho nhỏ, kể cả Thư Ngỏ 9/12 cũng là muốn để góp phần vào quá trình chuyển đổi dân chủ hóa. Theo lời ông, tiến trình ấy đã được thực hiện từng bước từ lâu rồi, quá trình ấy không phải ở trong tương lai, nó đang ở trong hiện tại và phải làm ngay ngày hôm nay, ngày mai và ngày mốt nữa.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/new-open-letter-to-the-party-requests-tough-reform-nn-12152015111432.html     
  

Chúng tôi không 'ảo tưởng' về thư ngỏ

14 tháng 12 2015 Cập nhật lúc 00:22 ICT
Giáo sư Tương Lai nói về khả năng tác động của bức thư ngỏ mà ông và những người soạn thảo, ký tên gửi Bộ chính trị Đảng CSVN ngày 9/12/2015.
Mời quý vị theo dõi phần đầu cuộc trao đổi với GS Tương Lai tại đây.


000_Hkg10203658
Một người bán hàng rong đi qua một công ty du lịch bán các bản sao áp phích tuyên truyền thời chiến tranh ở Hà Nội hôm 19 tháng 8 năm 2015
AFP photo

Trong thời gian trước đại hội đảng toàn quốc của đảng cộng sản Việt Nam nhiều ý kiến từ giới quan sát độc lập, và ngay cả một số quan chức cao cấp của nhà nước cho rằng hướng phát triển của Việt Nam mang tên là định hướng xã hội chủ nghĩa là không đúng. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hiện sống ở Hà Nội cho kính Hòa cuộc trao đổi về vấn đề.
Kính Hòa: Trong thời gian qua có nhiều ý kiến nói về định hướng cải cách kinh tế ở Việt Nam, thì nhiều người nói rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không thích hợp, thậm chí có người nói là nó không có thật. Theo Tiến sĩ thì sau đại hội đảng thứ 12 sắp tới thì có sự thay đổi nào về tên gọi đó không?
Tiến sĩ Lê Dăng Doanh: Hiện nay thì giới kinh tế đã phát biểu rất là rõ ràng là cần phải cải cách thể chế.
Các công trình điều tra trong và ngoài nước đều cho thấy là tình trạng tham nhũng, vòi vĩnh, đòi phải có những chi phí đen thì mới kinh doanh được đang rất phổ biến, và đang ngày càng đè nặng lên các doanh nghiệp Việt Nam.
Phải là một thể chế có trách nhiệm giải trình và một bộ máy gọn nhẹ, và có hiệu quả chứ không phải là bộ máy trùng lắp, cồng kềnh chi tiêu quá nhiều ngân sách như hiện nay.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Các doanh nghiệp nước ngoài thì họ không chịu ảnh hưởng nhiều như vậy. Vì họ vay vốn ở nước ngoài với lãi suất thấp hơn, công ty mẹ của họ ở nước ngoài thì họ kinh doanh trong một môi trường khác. Vì vậy chuyện chi phí đen, chuyện nhũng nhiễu có thể có xuất hiện nhưng không nhiều như doanh nghiệp trong nước, trong nước người ta rất kêu.
Nếu chúng ta nhìn vào việc Diễn đàn kinh tế thế giới xếp hạn Việt Nam gần đây nhất, từ mức 68 trên 144 nền kinh tế, vào năm 2014, lên 56 trên 140 nền kinh tế năm 2015 là tiến lên được 12 bậc, là một sự ghi nhận đáng trân trọng.
Tuy vậy về mặt thể chế, Diễn đàn kinh tế thế giới xếp Việt Nam rất thấp trong năng lực cạnh tranh xếp 56, thể chế xếp 86, các chi tiêu ngoài pháp luật thì xếp 106 đến 109. Cái chi phí đút lót để trả thuế vào năm 2015 lại thụt lùi so với năm 2014, xếp 115 so với 104 của năm trước.
Tất cả những chuyện đó cho thấy rằng cái nội dung kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với cải cách thể chế. Phải tiến tới 1 thể chế công khai minh bạch, phải là thể chế chịu sự giám sát một cách độc lập. Phải là một thể chế có trách nhiệm giải trình và một bộ máy gọn nhẹ, và có hiệu quả chứ không phải là bộ máy trùng lắp, cồng kềnh chi tiêu quá nhiều ngân sách như hiện nay.
Kính Hòa: Chắc Tiến sĩ cũng biết là gần đây có một bài góp ý của Giáo sư Trần Văn Thọ từ Nhật bản. Giáo sư có nói là sự chọn lựa chủ nghĩa xã hội là không đúng. Tiến sĩ có tán đồng quan điểm này của giáo sư Thọ không?
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Lý tưởng cộng sản của ông Karl Marx đề ra là sự tự do của mỗi một người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người. Thì đó là cái mục tiêu xa vời mà nhân loại tiến tới. Nhưng cái bước quá độ với những mô hình như của Liên Xô đã thực hiện như là kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, rồi là phát triển các doanh nghiệp nhà nước, phát triển hợp tác xã, chấp nhận kinh tế tư nhân, tất cả những cái đó đã được thực tế chứng minh là không có hiệu quả và người ta đã phải sửa đổi.
Chúng ta nói đến một mô hình chủ nghĩa xã hội, thì cái mô hình đó nó là như thế nào?
Và nó có tiến tới sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người hay không?
Nếu chủ nghĩa xã hội chủ yếu là cấm đoán, là nhà nước độc đoán và người dân không được phát biểu ý kiến của mình, ai nói ý kiến khác với lãnh đạo hay là ý kiến chính thống thì lập tức bị theo dõi bị phân biệt đối xử, thì nhà nước đó có được coi là nhà nước xã hội chủ nghĩa hay không?
Đó là những câu hỏi mà chúng ta cần phải đặt ra và cần phải giải quyết.
Nếu kinh tế Việt Nam không công khai minh bạch, chi phí ngoài pháp luật, sự vòi vĩnh còn rất lớn thì cái chi phí về tiền bạc và thời gian để kinh doanh là rất cao, và gánh nặng đó đè lên doanh nghiệp.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Tôi xin nhấn mạnh là Việt Nam đang hội nhập rất sâu vào kinh tế khu vực và thế giới, và đây là một thách thức rất nghiêm trọng đối với kinh tế Việt Nam.
Nếu kinh tế Việt Nam không công khai minh bạch, chi phí ngoài pháp luật, sự vòi vĩnh còn rất lớn thì cái chi phí về tiền bạc và thời gian để kinh doanh là rất cao, và gánh nặng đó đè lên doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh được, doanh nghiệp Việt Nam sẽ thua ngay trên sân nhà, không tạo được công ăn việc làm, không có cơ sở để nộp thuế. Lúc bấy giờ thì các câu hỏi đề ra sẽ là rất gay gắt.
Kính Hòa: Giáo sư Thọ có đề cập đến những ý kiến trong đảng cộng sản là lo lắng sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa, giáo sư Thọ có phê bình là cái thái độ không dứt khoát chuyển sang kinh tế thị trường làm cho quá trình cải cách mấy chục năm qua không đạt được kết quả như mong đợi. Tiến sĩ nhận định thế nào về ý kiến của giáo sư Thọ?
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Tôi hoàn toàn đồng ý với giáo sư Thọ, và theo tôi cách tốt nhất hiện nay là phải nhìn thẳng vào sự thật, và có một sự chuyển hướng hết sức cơ bản và rõ rệt. Tức là phải nhìn thấy những khuyết điểm, khuyết tật trong bộ máy của chúng ta, tình trạng tham nhũng tràn lan, tình trạng lạm dụng chức quyền, lạm dụng đất đai và tài nguyên, tất cả những cái đo phải được giải quyết thì nền kinh tế của chúng ta mới tiến lên được.
Kính Hòa: Thưa Tiến sĩ cho câu hỏi cuối là trong bài viết của giáo sư Thọ dù chưa được báo chí chính thống đăng nhưng được nhiều trang mạng điện tử đăng, trong đó giáo sư Thọ có nói lời cảm ơn đến hai vị ủy viên trung ương đảng đã đọc và góp ý kiến. Tiến sĩ có nghĩ rằng việc này thể hiện sự ủng hộ nhiều hơn trong đảng cộng sản cho việc cải cách thể chế?
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ đấy là tín hiệu đáng mừng vì trong ban chấp hành trung ương thì cũng còn có hai vị ủy viên trung ương dũng cảm, trung thực, nhìn thẳng vào sự thật và có góp ý kiến ủng hộ cho giáo sư Trần Văn Thọ. Tôi nghĩ rằng đấy là tín hiệu rất đáng tran trọng và nên phát huy trong thời gian tới.
Kính Hòa: Xin cảm ơn Tiến sĩ.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/oriented-toward-socialism-or-not-kh-12142015150356.html

DU SINH DU HỌC

 

Về hay ở?

Cát Linh, phóng viên RFA
2015-12-14
000_Hkg10120669
Một buổi lễ tốt nghiệp đại học được tổ chức tại Văn Miếu, Hà Nội vào ngày 18 tháng 11 năm 2014.
AFP photo

Du học là một ước mơ lớn của tất cả những học sinh Việt Nam từ xưa đến nay. Có rất nhiều người đã đỗ đạt thành danh và quay trở về. Nhưng hình như, thời gian đã chứng minh đó là những người của “muôn năm cũ’. Còn những học sinh thời nay, khi có cơ hội nhận được nền nền giáo dục nước ngoài, thì đa số họ chọn con đường ở lại. Điều này gần đây trở thành một vấn đề được đưa ra tranh luận rất nhiều, và có nhiều phản ứng khác nhau về việc “về hay ở”.
Tư duy quản lý cũ kỹ
Trong tuần vừa qua, dư luận trong nước và cả cộng đồng mạng có rất nhiều tranh luận liên quan đến việc Tiến sĩ Doãn Minh Đăng, giảng viên trường ĐH Kỹ thuật-Công nghệ Cần Thơ, người mà truyền thông trong nước cho là đang bị gây khó dễ do nói xấu nhà trường trên facebook cá nhân.
Vấn đề đáng chú ý đó là Doãn Minh Đăng cũng chính là cựu thí sinh của cuộc thi nổi tiếng Đường lên đỉnh Olympia, tốt nghiệp một trường đại học danh giá ở Hà Lan bằng ngân sách của thành phố. Sau đó anh đồng ý về VN công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy.
Sau khi sự việc của Doãn Minh Đăng được nói đến trên truyền thông, rất nhiều những người từng là thủ quân, á quân của Đường lên đỉnh Olympia, lên tiếng về sự lựa chọn ở lại quốc gia mà họ đã tiếp nhận nền giáo dục. Quan điểm của họ nhận được nhiều sự ủng hộ của cộng đồng Việt Nam. Ví dụ như Nguyễn Thành Vinh, á quân của mùa Olympia đầu tiên, sang Úc du học sau khi giành được học bổng của chính phủ Úc. Hiện nay, Nguyễn Thành Vinh đang có cuộc sống và công việc ổn định ở thành phố Perth, miền Tây nước Úc. Trong cuộc trả lời phỏng vấn truyền thông trong nước về sự việc của Tiến sĩ Doãn Minh Đăng, anh nói rằng: “Câu chuyện của Doãn Minh Đăng là một trong những lý do để một số du học sinh như chúng tôi cảm thấy mình cần có những lựa chọn khác mà không nhất thiết phải về nước làm việc.”
Trong rất nhiều những lý do Nguyễn Thành Vinh cho là không nên quay về sau khi học xong, thì câu nhận định “về nước là lãng phí cho cả hai bên’ của cựu thí sinh này gây chú ý nhiều nhất cho dư luận.
Một người nữa, đó là Đỗ Thị Hồng Nhung, á quân mùa thứ hai của Đường lên đỉnh Olympia, hiện tại đang hoàn tất khoá học thạc sĩ ở Phần Lan, việc trở về nước cũng đang được cô suy tính.
Rất nhiều lý do được chính người trong cuộc và dư luận đưa ra. Trong đó, lý do lớn nhất mà theo cuộc khảo sát của viện John Von Newmann thuộc trường Đại học quốc gia VN đưa ra đó là môi trường làm việc ở VN không thích hợp cho việc nghiên cứu và làm việc của họ.
Câu chuyện của Doãn Minh Đăng nói riêng và những du học sinh khác nói riêng, được giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, người từng là một trong ba sinh viên xuất sắc của Việt Nam nhận học bổng du học tại vương quốc Bỉ, và sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy ở châu Âu, ông quay về nước và làm cố vấn cho trường Đại học Việt Đức, cho biết nhận định của ông.
“Ở Việt Nam hiện nay, tuy có một số trường tương đối là có một chút tiến bộ. Nhưng đại bộ phận các trường Việt Nam thì tư duy quản lý của họ cũng rất là cũ kỹ, và họ vẫn chưa tôn trọng cái tự do học thuật, tự do chọn lựa của nhà khoa học đã thành danh, tiến sĩ của các nước tiên tiến về nước làm việc. Do đó có những mâu thuẫn xảy ra. Các nhà khoa học trẻ khi làm việc thì gặp rất nhiều những khó khăn, đừng nói là những khó khăn về tài chánh, ngay cả môi trường làm việc cũng gặp những khó khăn rất nan giải.”
“Rừng nào cũng như rừng Amazon thì đâu cần người trồng cây nữa”
Bên cạnh những người ủng hộ quan điểm của người ở lại, như Nguyễn Thành Vinh, thì cũng có những người nhìn sự việc về hay ở bằng một cái nhìn khác. anh Nguyễn Quang Thạch, người đã bỏ ra gần 20 năm để xây dựng chương trình Sách hoá nông thôn nhìn sự đóng góp của từng cá nhân ở một góc độ khác. Anh cho biết:
“Theo tôi thì để xã hội Việt Nam để tốt đẹp như những quốc gia mà các bạn đang sống ấy, thì tôi nghĩ hiện tình xã hội Việt Nam là một mảnh đất màu mỡ cho mọi người cống hiến và sáng tạo. tôi nghĩ rằng đang còn sa mạc thì cần người trồng cây, còn rừng nào cũng như rừng Amazon thì đâu cần người trồng cây nữa. Nghĩa là mỗi cá thể hãy đối diện với mình thật rõ ràng để xem mình có năng lực gì để cống hiến cho xã hội cho đất nước, đừng sợ rằng mình không được sử dụng, không được xã hội thừa nhận. Cứ hãy có sản phẩm đi đã. Chừng nào sản phẩm của ông ở mức nào thì xã hội thừa nhận mức đó.
Tôi vẫn luôn luôn cổ vũ cho việc các bạn trẻ Việt Nam khi học đã thành tài, đỗ đạt, qua thời gian tập sự thì tôi luôn cỗ vũ là quay về Việt Nam để giúp cho việc phát triển nền đại học của Việt Nam.
- Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng
Chẳng hạn như khi tôi mới đặt mục tiêu vận động cấp trường làm tủ sách phụ huynh thì cấp trường thừa nhận và áp dụng. Đến khi tốt rồi thì phòng giáo dục áp dụng và thừa nhận. Đến khi cấp sở áp dụng và có văn bản nhân rộng ra khắp tỉnh. Cái nỗ lực của tôi và người khác đã được thừa nhận và áp dụng. Bây giờ cấp Bộ đã mời chúng tôi, đối thoại với chúng tôi để tạo ra những chiến lược chủ trương hoá bằng văn bản.”
Có lẽ dư luận có sự quan tâm đến câu chuyện của Doãn Minh Đăng nhiều hơn vì cũng mới vào đầu tháng 11 vừa qua, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Hoà, TP Hồ Chí Minh đã đưa ra câu hỏi về việc vì sao đa số sinh viên VN đi du học và chọn con đường ở lại. Ông dẫn chứng chính trường hợp của 13 học sinh nhận học bổng sang Úc du học của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” và 12 người trong số họ không quay về nước sau khi kết thúc chương trình học.
Như đã trình bày ở trên, tuy rằng Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng có đưa ra những nhận định của ông về thực trạng của môi trường giáo dục và điều kiện phát triển chuyên môn ở Việt Nam, nhưng ông vẫn có những thông cảm cho quyết định của người không quay về.
“Tôi vẫn luôn luôn cổ vũ cho việc các bạn trẻ Việt Nam khi học đã thành tài, đỗ đạt, qua thời gian tập sự thì tôi luôn cỗ vũ là quay về Việt Nam để giúp cho việc phát triển nền đại học của Việt Nam. Tôi là người luôn cổ vũ cho việc này. Tuy là tôi thông cảm cho những sự lựa chọn khác. Tôi nghĩ là có nhiều người có những chân đứng, có vị trí mà nó phù hợp để họ phát triển, cống hiến cái tài của họ mà họ ở lại. Và cũng có thể vì những lý do gia đình. Thú thật là tôi cũng thông cảm. Tôi thông cảm vì cái điều kiện ở Việt Nam có nhiều vấn đề đặt ra cho những người giáo viên trẻ này không có cái dũng khí, kiên nhẫn để mà thắng được những thách thức thì sẽ có rất nhiều khó khăn.” 
Qua nhiều nhận định khác nhau của nhiều người thì có lẽ câu hỏi của ông đại biểu quốc hội Nguyễn Ngọc Hoà vẫn còn là một câu hỏi lớn chưa có lời đáp.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/stay-or-coming-back-after-graduated-in-oversea-cl-12142015143555.html


 

Vì sao du học sinh không quay về phục vụ đất nước?

Chân Như, phóng viên RFA
2014-08-14
anh1-416x234-305.jpg
Du học sinh Việt Nam tại Oklahoma tổ chức tiệc Tết Giáp Ngọ 2014.
Courtesy sinhvienusa.org


Gần đây, ngưòi dân trong nước, đặc biệt là cư dân cộng đồng mạng lại dậy sóng về chuyện 13 nhà vô địch của chương trình “Olympia” được Úc cấp học bổng từ cuộc thi. Sau khi tốt nghiệp tại nước ngoài thì chỉ có 1 người duy nhất quay về Việt Nam làm việc. Tất cả những người khác đã sử dụng chất xám của họ ở tại ngay nước họ được đào tạo. Vì sao lại có quá ít những người đi du học và thành đạt lựa chọn ở lại nước ngoài mà không quay về lại quê hương để đóng góp cho đất nước? Đó cũng là chủ đề cho diễn đàn bạn trẻ kỳ này cùng với sự tham gia của các bạn Khanh Nguyễn, Tuyết Minh và Thanh Tuấn, các bạn là những du học sinh, hiện đang học tại Hoa Kỳ.

Muốn được thể hiện

Chân Như: Các bạn thấy việc ở lại nước ngoài hay quay về nước cống hiến cho đất nước, quyết định nào là sáng suốt và vì sao?
Khanh Nguyễn: Theo em, đối với những người nghĩ nước Việt Nam, văn hóa tốt, con người thân thiện hoặc có ý định là muốn quay về để giúp nước thì người ta nghĩ quyết định đó là sáng suốt. Còn một số người nghĩ rằng họ sẽ lo cho gia đình họ có cuộc sống tốt bên này, có điều kiện để làm việc, để học tập và sinh sống thì người ta sẽ lựa chọn ở lại để có cuộc sống tốt hơn.
Thanh Tuấn: Em nghĩ đa phần đi du học tuổi trẻ cỡ từ 16 tới 20 hoặc 22. Khi qua rồi thì họ tiếp xúc với nền văn hóa mới, cuộc sống mới và có nhiều sự lựa chọn mới sau khi tốt nghiệp. Em nghĩ đối đế lắm một số người mới quay về còn lại thì họ đã tìm thấy được con đường của mình, hoặc thấy được sự khác biệt giữa cuộc sống Việt Nam, cuộc sống bên này (Hoa Kỳ).
Một số bạn nhà có cơ sở ở Việt Nam muốn quay về làm cho nhà thì cũng tốt, nhưng đa số mọi người muốn ở lại chứ không muốn đi về tại vì cuộc sống bên này tốt và thoải mái hơn.
-Thanh Tuấn
Chẳng hạn như vấn đề xin việc làm hay vào công ty của Việt Nam thì phải là con ông cháu cha, phải đút lót. Bên này, vấn đề đó dựa vào thực lực của mình nhiều hơn. Và bên này, tốt nghiệp ra đi làm với đồng lương căn bản mới bắt đầu thì mọi người vẫn sống đủ chứ không phải quá chật vật như bên Việt Nam. Còn với một số bạn nhà có cơ sở ở Việt Nam muốn quay về làm cho nhà thì cũng tốt, nhưng đa số mọi người muốn ở lại chứ không muốn đi về tại vì cuộc sống bên này tốt và thoải mái hơn. Hơn nữa là tự do hơn và được thể hiện hơn.
Tuyết Minh: Ý kiến của em cũng giống như của anh, thường người ta sẽ không thích về Việt Nam một khi đã bước chân qua Mỹ. Còn trường hợp những bạn nhà có điều kiện bên Việt Nam, đúng là các bạn đi du học để sau nay giúp đỡ cho gia đình thì các bạn sẽ về. Ví dụ em chỉ là du học bình thường, nhà cũng không có công ty hay gì bên Việt Nam nên em cũng thoải mái trong việc có về hay không quay về. Nhưng lý do khiến đa số muốn ở lại Mỹ là về Việt Nam chính quyền không biết trọng dụng nhân tài. Giống như anh có tiền nhiều anh sẽ được chức cao hoặc công việc tốt; Còn nếu anh không có tiền cho dù có tài cũng không có được.


Chân Như: Chân Như nhận thấy rằng chính sách của Việt Nam cũng là một rào cản khiến các du học sinh quay lưng với đất nước vì có rất nhiều trường hợp tài năng của họ không thực sự được trọng dụng. Còn theo các bạn thì nguyên nhân chính dẫn đến việc các du học sinh quyết định không quay về nước làm việc là gì?


Khanh Nguyễn: Theo em có hai lý do chính. Thứ nhất điều kiện làm việc ở Việt Nam đối với du học sinh nước ngoài chưa có. Nền giáo dục của Mỹ và Việt Nam là hai nền giáo dục hơi khác nhau. Gần đây, giáo sư Ngô Bảo Châu có nói là giáo dục đại học không được tốt nên cần đổi mới vì không có tính thực tiễn và chỉ áp dụng lý thuyết là nhiều. Do vậy khi ra trường khó có cơ hội có việc làm. Khi du học sinh về làm việc sẽ có một sự mâu thuẫn giữa sinh viên Việt Nam và sinh viên du học và chắc chắn là hai bên sẽ không làm việc được với nhau. Lý do thứ hai nhà nước vẫn chưa tạo được điều kiện tốt cho những người đi du học làm việc chẳng hạn như về vấn đề lương bổng, về tư chế làm việc. Tóm lại, do không có một sự đảm bảo cho cuộc sống gia đình chính bản thân của những du học sinh, họ không mặn mà với chuyện quay về Việt Nam làm việc.
000_Hkg2799208-250.jpg

Sinh viên, học sinh VN tìm hiểu về du học tại một hội chợ du học tổ chức ở Hà Nội năm 2009. AFP photo/Hoang Dinh Nam.
Tuyết Minh: Nói chung là do những ngành nghề ở Việt Nam. Nhiều khi một bạn rất đam mê một ngành nhưng ngành này lại không phát triển ở Việt Nam thì bạn đó buộc phải ở lại bên đây để theo đam mê của mình. Cái đó cũng là một lý do chính đáng để ở lại chứ không phải vì quay lưng với nước nhà.
Thanh Tuấn: Nếu mà trên đường suy nghĩ để vòng về, theo em, khó mà để làm ăn chính trực tại Việt Nam và có thể lo đầy đủ cuộc sống của mình. Thứ hai nếu đã vào với những công ty của nhà nước mà làm thì cũng hơi khó. Nói thẳng ra rằng vấn đề con ông cháu cha là thứ nhất; Thứ hai người ta thường nói là “ăn từ trên ăn xuống dưới”: đã vô nhà nước làm là phải theo guồng máy; Ai cũng phải làm theo, nên tất cả vào sẽ bị biến chất. Nên hướng của em là sẽ tự kinh doanh. Vấn đề tự kinh doanh ở Việt Nam cũng hơi khó vì làm ra thì đủ các giấy tờ; Phải chung chi cho người này, chính quyền kia mỗi tháng hay đầu tháng; Cuối năm lương bổng, lễ lộc. Còn nếu ở bên này có xíu vốn và đi làm vài năm và muốn tự mở kinh doanh thì cũng dễ hơn, vấn đề giấy tờ cũng rõ ràng; Chỉ cần đạt đủ điều kiện tiêu chuẩn của chính phủ Mỹ yêu cầu. Theo em vấn đề sáng suốt là vẫn nên ở lại đây rồi lo cho gia đình sau. Đối với em, thành phần đi du học thì đa số gia đình đều khá giả nên gia đình cũng không yêu cầu hay đòi hỏi con em mình phải lo lại nhiều. Chủ yếu là làm để tương lai con em mình được sống thoải mái và có một cuộc sống tốt hơn sau này, nên em không nghĩ gia đình mong con mình trở về hay lo lắng. Mong thì mong trở về, nhưng không nghĩ phải lo lắng cho gia đình hay phải trả lại. Em không nghĩ đó là áp lực để mọi người trở về.

Có nên trách du học sinh?

Chân Như: Nhiều người cho rằng cũng không nên trách các du học sinh, bởi cá nhân ai khi có cơ hội tốt cho tương lai của mình thì cũng không muốn bỏ lỡ; Nhất là cơ hội đó lại là ở những nước tiên tiến, văn minh. Tuy nhiên nhiều người khác lại cho rằng điều kiện và môi trường sống ở nước ngoài đã làm thay đổi con người. Các bạn nhận định như thế nào về những ý kiến này?
Khanh Nguyễn: Theo em, ý kiến như thế cũng có thể đúng cũng có thể sai tùy vào mỗi người thôi. Đối với em nó đúng một phần bởi vì văn hóa Việt Nam với văn hóa Mỹ nó khá là khác nhau. Mình tiếp thu những nền văn hóa khác nhau thì mình sẽ có những nhận định khác nhau về cuộc sống cũng như những dự định của mình trong tương lai. Với em, cũng có một phần tác động nhưng em chỉ cảm nhận những điều đúng sự thật thì em tiếp thu. Đa số du học sinh sẽ cho rằng điều kiện và môi trường sống ở nước ngoài tác động đến cuộc sống của con người bởi vì đa số sẽ quyết định ở lại bởi vì họ thấy cuộc sống ở Mỹ tự do, văn minh. Mặt khác đa số bộ phận người Việt Nam sống bên này họ cũng có tư tưởng giống người Mỹ. Họ nhận định cuộc sống bên này ổn định, có tiềm năng hơn so với ở Việt Nam cho nên người ta coi đó là cơ hội mà không bỏ lỡ được.
Đa số bộ phận người VN sống bên này họ cũng có tư tưởng giống người Mỹ. Họ nhận định cuộc sống bên này ổn định, có tiềm năng hơn so với ở VN cho nên người ta coi đó là cơ hội mà không bỏ lỡ được.
-Khanh Nguyễn
Tuyết Minh: Em cũng nghĩ giống như anh Khanh. Nếu so sánh giữa môi trường Việt Nam với Mỹ thì Mỹ tốt hơn rất nhiều. Ba mẹ em cũng muốn em ở lại Mỹ vì sẽ có tương lai tốt hơn. Thứ nhất là văn minh, an toàn. Em cũng có người bạn du học ở Đức. Học xong chị quyết định quay về vì đồng lương ở Đức nếu đổi ra tiền Việt Nam nhiều thật, nhưng nếu với mức sống bên đó thì cũng thuộc dạng bình thường. Nếu lấy bằng rồi quay về Việt Nam, mức lương ví dụ 1 ngàn rưỡi một tháng thì với mức lương đó sẽ sống dư giả còn hơn bên Đức. Em thấy quyết định của chị cũng được nhưng Việt Nam dạo này không có an toàn nên nếu là em thì em sẽ không muốn về.
Thanh Tuấn: Quan điểm của em sống là không chờ đợi. Có cơ hội là em sẽ làm và phân định được cái nào đúng cái nào sai và cái nào nên làm cái nào không làm. Tuổi trẻ không có bao nhiêu hết. Lúc đã qua thời, qua tuổi thì khó có thể lấy lại nhiệt huyết, khó lấy lại những năng lượng để làm việc như lúc trẻ. Nếu ở Mỹ mà có cơ hội là em sẽ bắt tay làm liền. Nói chung là chụp giật, đánh đổi để làm được cái em muốn. Còn vấn đề điều kiện và môi trường sống ở nước ngoài, tất nhiên, nó tốt hơn hẳn Việt Nam rất nhiều: từ khí hậu thời tiết, giao thông, an sinh xã hội... Chẳng hạn như bảo hiểm du học sinh mua, nếu bị bệnh hoạn hay có vấn đề gì thì vẫn chi trả đầy đủ. Nói chung, đồng tiền mình bỏ ra nó đáng chứ không như Việt Nam bỏ ra mua để cho có; Hay là mua để đối phó mà không xài được hay là mua rồi vô bệnh viện đối xử mình khác. Nên em nghĩ điều kiện làm thay đổi thì cũng đúng. Ở Việt Nam, du học sinh thường sống trong vòng tay cha mẹ không tự lập, không biết bươn chải. Khi qua đây, một thân một mình, đa số đều đi làm thêm nên biết quý đồng tiền mình làm ra và biết quý cuộc sống của mình hơn. Em thấy là như vậy nên em nghĩ cái thay đổi là cái thay đổi tốt, điều kiện và môi trường tốt đã dừng chân du học sinh. Ai cũng vậy thôi người ta thấy cái nào tốt người ta sẽ ở lại làm. Ai cũng có sự lựa chọn cho riêng mình hết. Và cái đúng cái sai cũng tùy vào suy nghĩ của mỗi người và qua sự lựa chọn đó của mình có đúng hay không.
Chân Như: Nếu bạn là thủ tướng Việt Nam, bạn làm gì để các bạn du học sinh luôn sẵn sàng đặt Việt Nam là lựa chọn hàng đầu khi quyết định cho tương lai của mình và người Việt không còn mang ý tưởng thoát khỏi Việt Nam?
Khanh Nguyễn: Nếu em làm thủ tướng có 3 điều em sẽ làm đầu tiên. Thứ nhất có chính sách nào đó để đãi ngộ những du học sinh, ví dụ lương bổng, những điều kiện làm việc cho du học sinh. Thứ hai là thay đổi cuộc sống của người dân Việt Nam, chẳng hạn như cuộc sống có văn minh, thay đổi tình trạng trộm cắp hay những văn hóa ứng xử của người Việt Nam vẫn đang bị lên án rất nhiều. Nên thay đổi để cho du học sinh thấy được rằng con người Việt Nam cũng như con người khác trên thế giới đều như nhau và cũng có lối sống văn minh. Thứ ba nữa là Việt Nam nên có chương trình giáo dục ở Việt Nam và nước ngoài để người du học sinh và sinh viên Việt Nam có thể làm việc chung trong môi trường để xây dựng đất nước Việt Nam tốt hơn.


Tuyết Minh: Em nghĩ về chính sách đãi ngộ với việc tiền lương thì dĩ nhiên là du học sinh sẽ phải được tốt hơn. Mặt khác, em nghĩ đó lại là một thiệt thòi cho mấy bạn sinh viên Việt Nam. Bây giờ nếu mà áp dụng chính sách đó cho du học sinh thì nếu có 10 hồ sơ nộp vô một công ty thì em nghĩ chắc chắn những bạn du học sinh sẽ được xếp lên trước. Em nghĩ điều đó là thiệt thòi cho các bạn sinh viên Việt Nam. Còn nếu là thủ tướng thì em nghĩ cần phải thay đổi chính sách này nọ rất nhiều. Tại vì một khi du học sinh qua Mỹ rồi thì họ sẽ so sánh tại sao Việt Nam lại cổ hủ, không công bằng. Em nghĩ việc đó (giải pháp) rất là khó nên em cũng không có ý kiến nhiều trong câu này.


Thanh Tuấn: Theo em nghĩ để giữ chân du học sinh quay về nước hay là không còn ý định thoát khỏi Việt Nam thì rất khó làm và khó thực hiện tại vì cơ cấu của Việt Nam đã vậy rồi. Để mà thay đổi được giống như Khanh nói thì chính sách đãi ngộ là thứ nhất. Tuy nhiên về rồi, Việt Nam đãi ngộ, nhưng đãi ngộ theo cách nào, trọng dụng nhân tài theo cách nào? Hay lại là vẫn vấn đề con ông cháu cha? Nếu để đãi ngộ thì phải kết thúc vấn đề con ông cháu cha trong nước trước. Thứ hai nên tạo nhiều điều kiện hơn để cho du học sinh đi học ví dụ như mở thêm quỹ, thêm tiền đầu tư cho nhiều du học sinh đi học. Nếu học bằng tiền của nhà nước và có ký hợp đồng với nhà nước và có một sự ràng buộc nào đó thì học xong là chắc chắn sẽ phải quay về. Thứ ba, vấn đề môi trường đời sống và mức lương nói chung, chứ không đãi ngộ không dành cho du học sinh hay những người học ở Việt Nam. Ai có tài thì làm được nhiều tiền cao, chứ không phải ưu đãi quá cho du học sinh là tại vì tự bỏ tiền ra đi học. Nhiều người đi du học mà về làm vẫn không bằng người học trong nước. Cái đó có chứ không phải không. Do đó không hẳn phải ưu tiên cho du học sinh. Phải trả tiền ưu đãi cho đúng người, đúng việc và đúng năng lực. Em nghĩ là vậy.


Chân Như: Xin cám ơn 3 bạn Khanh Nguyễn, Tuyết Minh và Thanh Tuấn đã dành thời gian để đến với chương trình hôm nay.
Chân Như cũng hy vọng các bạn đang nghe/xem chương trình cũng sẽ tham gia vào hội luận để hầu nêu lên chính kiến của mình, đó là quyền bày tỏ mà mỗi con người trên trái đất này đều phải có.
Các bạn có thể gởi email về cho chân như qua hoangc@rfa.org hay theo dõi chân như qua facebook tại facebook.com/Channhu.rfa mến chào và hẹn gặp lại quý vị và các bạn vào chương trình kỳ sau.
 http://www.rfa.org/vietnamese/programs/YouthForum/y-studts-refu-retrn-home-after-stu-abr-cn-08142014072409.html



Những người biến giấc mơ du học thành sự thật

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-03-06
defense-305.jpg
Bạn Nguyễn Hữu Phước Nguyên chụp hình cùng bố mẹ và hội đồng phản biện hôm bảo vệ luận án tiến sĩ.
Hình do Phước Nguyên cung cấp


Tiếp tục bài kỳ trước về VEF, Quĩ Giáo Dục Việt Nam, một cơ quan độc lập của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, khởi sự hoạt động tại Việt Nam từ năm 2003, đã cấp học bổng cho 466 sinh viên Việt Nam sang Mỹ học chương trình hậu đại học và nghiên cứu trong 11 năm qua.

Từ học trò nghèo đến tiến sĩ khoa học

Hôm nay, mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi giới thiệu những bạn trẻ đã tốt nghiệp và về nước hoặc đang còn là nghiên cứu sinh ở Mỹ qua tài trợ của VEF. Bạn thứ nhất, Nguyễn Hữu Phước Nguyên:
“Em sinh ra ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, gần thượng nguồn con sông Lam. Nghệ An là tỉnh nghèo mà Thanh Chương là huyện miền núi thì là nghèo của nghèo đấy. Trước đấy Thanh Chương không có điện, hồi ấy bọn em phải học đèn dầu. Mãi sau này, đến tầm Lớp Bốn Lớp Năm gì đấy bắt đầu mới có điện.”
Lên 12 tuổi, theo cha mẹ, đều là giáo viên, về thành phố Vinh, ước mơ cháy bỏng của Nguyễn Hữu Phước Nguyên là học thật giỏi để đi du học. Tốt nghiệp trung học, Nguyễn Hữu Phước Nguyên ra Hà Nội học năm đầu tại Đại Học Bách Khoa Hà Nội:
“Rất may là cuối năm thứ nhất của đại học thì em là một trong 10 người của Việt Nam nhận được học bổng của Tập Đoàn Dầu Khí Petronas để đi học ở Malaysia. Từ năm 2002 đến 2007 là em học theo học ngành cơ khí ở đại học Malaysia . Trường ấy là Đại Học Kỹ Thuật Petronas chuyên về ngành dầu khí.”
Từ năm thứ ba ở Đại Học Kỹ Thuật Petronas Malaysia, Nguyễn Hữu Phước Nguyên đã ghi danh trên mạng theo chương trình học bổng của VEF Quĩ Giáo Dục Việt Nam:
“Vì em đã có kế hoạch trước và năm thứ ba đại học Malaysia thì em đã nộp đơn cho học bổng VEF rồi và theo đuổi quá trình ấy là 2 năm. Trong thời gian đấy em có về Việt Nam hai lần để dự quá trình thi tuyển của VEF, thì cũng là nỗ lực của bản thân thôi.”
Năm 2007, kết thúc 5 năm học ở Malaysia, Nguyễn Hữu Phước Nguyên đi tiếp sang Hoa Kỳ:
“Năm 2007 thì em qua học ở trường đại học University Of Michigan, em học về cơ khí. Trong hai năm em vào ngành thạc sĩ về Cơ Điện Tử. Đến khi học tiến sĩ thì em quyết định chuyển ngành và em học ngành Khoa Học Nano. Năm 2013 em tốt nghiệp tiến sĩ đại học Michigan, sau đấy em về Việt Nam luôn.”
Tháng Giêng 2014, Nguyễn Hữu Phước Nguyên trở về Việt Nam, bỏ lại sau lưng hai đề nghị công việc với mức lương hứa hẹn:
Thu nhập thì cao nhưng mà cống hiến cho đất nước thì không có, và đấy cũng không phải mục tiêu lúc em ra đi.
-Nguyễn Hữu Phước Nguyên
“Trước lúc ra đi thì nguyện vọng của em là trở về và nếu mà trở về thì về càng sớm càng tốt. Thực ra điều kiện làm việc ở Việt Nam thì không bằng điều kiện làm việc ở Mỹ đâu. Thứ nhất là về mặt điều kiện làm việc, thứ hai nữa hai nữa về mặt thu nhập thì rõ ràng ở bên kia em được đề nghị đến 6 chữ số, rất là lớn đối với người Việt mình. Thu nhập thì cao nhưng mà cống hiến cho đất nước thì không có, và đấy cũng không phải mục tiêu lúc em ra đi.”
Từ 2008, khi đã sang Mỹ học một năm, Nguyễn Hữu Phước Nguyên thành lập Hội Du Học Sinh Nghệ Tĩnh để biến những giấc mơ du học của người cùng quê thành sự thật như giấc mơ đi xa của chính anh:
“Quê hương Nghệ Tĩnh rất nghèo nhưng có truyền thống hiếu học, học sinh sinh viên ở đấy học rất giỏi nhưng mặt khác thông tin về du học rất thiếu. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai nữa, niềm tin là mình có thể đi du học rất là xa vời, các bạn không có niềm tin là mình sẽ thực hiện được. Thiếu thông tin và thiếu niềm tin thì rất khó mà phát triển. Em là người xuất phát từ vùng quê nghèo Thanh Chương, xuất phát đỉểm thấp như thế mà con đường du học em đã thực hiện được, nhìn lại thì em thấy không có gì là ghê gớm, căn bản là phải có niềm tin.
Trong 5 năm qua thì hội của em đã giúp đỡ được hàng ngàn bạn trẻ ở Nghệ An, cung cấp các nguồn thông tin về học bổng và du học. Quan trọng hơn là hàng năm bọn em tổ chức hội thảo gọi là Hội Thảo Du Học Truyền Lửa.”
Năm 2012, Hội Thảo Du Học Truyền Lửa, do Hội Du Học Sinh Nghệ Tĩnh tổ chức, lôi cuốn được 1.000 người trẻ:
“Đó là cả một dấu ấn rất lớn đối với Nghệ Tĩnh , gọi là truyền lửa mà, đó thực sự là cơ hội cung cấp thông tin, truyền niềm tin và truyền cảm hứng du học để cơ bản là phải thực hiện được ước mơ du học của mình.
Mặt khác chúng em cũng kêu gọi các nhà tài trợ từ các công ty và các nhà hảo tâm để trao các suất học bổng để các bạn vượt khó và thực hiện ước mơ du học của mình. Bên cạnh đó, bọn em cũng hỗ trợ tư vấn và thông tin, tức là các anh chị du học sinh đi trước thì hỗ trợ cho các em đi sau. Từ năm 2008 cho đến gần đây nhất là 2013 bọn em đã tổ chức được năm kỳ Hội Thảo Du Học Truyền Lửa. Trước hết là phải có một giấc mơ, một khát khao du học rất lớn rất mãnh liệt. Thứ hai, có giấc mơ rồi thì cần có một kế hoạch hợp lý. Thứ ba, cần có sự kiên nhẫn. Mặt khác, không hẳn giỏi là đi du học được đâu, quan trọng hơn giỏi là mình phải năng động tìm kiếm thông tin, năng động liên lạc với các giáo sư và những người đi trước. Phải chủ động về mặt thông tin hơn những người khác thì mình mới có thể đi được.”
Mới đây nhất, tuần trước, Trường Kỹ Thuật của Đại Học Michigan, University Of Michigan, loan báo trao giải Distinguished Leadership Award, Nhà Lãnh Đạo Nỗi Bật, cho Nguyễn Hữu Phước Nguyên:
“Em cũng có tham gia vào hoạt động xã hội của trường, em là một trong hai co-organiser của Hội Nghiên Cứu Sinh, mục đích là tổ chức những cuộc hội thảo và các khóa huấn luyện để thúc đẩy những nghiên cứu. Cả thành viên khoảng vài trăm người thì em là một trong hai người trụ cột ở đấy. Họ cũng xem xét về hoạt động của em ở Việt Nam, về tổ chức Du Học Sinh Nghệ Tĩnh thì bạn em có biết và nêu tên em. Ngày 16 tháng Ba này họ có buổi lễ trao giải nhưng em đang ở Việt Nam nên không dự được.”
Đó là Nguyễn Hữu Phước Nguyên, tiến sĩ nghành Khoa Học Nano từ University Of Michigan thông qua chương trình học của VEF.

Mong Việt Nam phát triển

IMG_5420-250.jpg
Bạn Khổng Hiệp trong lần đi dự hội thảo VEF Annual Conference ở trường University of Missouri (Columbia, Missouri).
Bạn thứ hai, Khổng Hiệp, đến với VEF khi đang là sinh viên năm 3 ngành Công Nghệ Sinh Học, Đại Học Khoa Học Tự Nhiên ở Sài Gòn. Sang Mỹ năm 2010, theo ngành Miễn Dịch Học Immunology, hiện tại Khổng Hiệp ở năm thứ tư và đang là nghiên cứu sinh VEF tại Trung Tâm Nghiên Cứu Ung Thư MD Anderson thuộc University Of Texas at Houston:
“Trên giấy tờ thì quá trình đào tạo PhD tiến sĩ là 5 năm, em theo học năm 2010 thì dự kiến năm 2015 em ra trường. Em muốn ở lại Mỹ học thêm hậu tiến sĩ, còn gọi là Postdoc. (Postdoctoral Training), bởi vì em thấy ra trường mà về Việt Nam ngay thì mình có kiến thức nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm. Đặc biệt đối với nhóm ngành Y Sinh thì ngoài chuyện có chuyên môn mình cần phải hiểu hệ thống làm việc như thế nào.”
Vì sao đề cập đến chuyện liên quan tới thời gian học hậu tiến sĩ, còn gọi là Postdoctoral Training, Khổng Hiệp giải thích:
“Thực ra quĩ học bổng VEF ngày xưa, các khóa trước 2010, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thì người ta cho thêm 3 năm Post Academic Training để làm hậu tiến hoặc xin việc làm ở một công ty nào đó để lấy kinh nghiệm. Đến 2010 trở đi, tức từ năm của em, VEF giới hạn lại còn 18 tháng. Mười tám tháng thì khá là ngắn, sợ không đủ cho một hậu tiến sĩ. Có thể là có rất nhiều bạn sau này được học bổng qua đây sẽ cảm thấy hơi tiếc. Đó là hạn chế duy nhất mà em thấy ở VEF.”
Không chỉ ngại thiếu kinh nghiệm, điều làm Khổng Hiệp ngại và cảm thấy chưa muốn về ngay là vì những bất cập trong môi trường làm việc bên nhà:
“Cái em thấy thiếu ở Việt Nam là thiếu một hệ thống làm việc hiệu quả. Nhìn những người Việt thành danh ở nước ngoài thì em thấy giống như người ta chỉ cần “plug in” tức là “cắm” cái tài năng của người ta vô cái hệ thống đã có sẵn. Em muốn làm sao về Việt Nam mà em build up được cái hệ thống này. Tất nhiên một người không làm được nhưng có thể tìm những người chung tư tưởng với mình. Trước mắt là tìm hiểu coi những cái nào có thể cải thiện được.
Điều kiện nghiên cứu ở đây thì đúng là hơn hẳn bên nhà về mọi mặt. Thứ hai tiền bạc rất minh bạch, cạnh tranh công bằng.
-Khổng Hiệp
Điều kiện nghiên cứu ở đây thì đúng là hơn hẳn bên nhà về mọi mặt. Thứ hai tiền bạc rất minh bạch, cạnh tranh công bằng, ngân sách dành cho nghiên cứu của Mỹ dù nói là giảm đi nhiều nhưng so với Châu Âu hay Úc thì vẫn còn cao hơn nhiều. Em thấy rất may mắn được học tập ở đây, có điều kiện làm việc đầy đủ. Không những học về kiến thức mà còn về cách làm việc. So với những bạn đồng trang lứa, cũng học tiến sĩ như em nhưng ở Việt Nam, em thấy các bạn có nhiều trở ngại hơn. Ngoài điều kiện cơ sở nghiên cứu, môi trường khoa học gần như là không có. Làm nghiên cứu thì mình phải có sản phẩm đong đo đếm được, ứng dụng được. Sản phẩm đó chính là tờ báo khoa học mà mình đăng lên những tạp chí quốc tế.”
Có lẽ nỗi suy tư sau cùng này của Khổng Hiệp, một Tạp Chí Khoa Học chuyên nghiệp và đúng nghĩa, sẽ tan biến nếu bạn biết một đàn chị  VEF là Trần Ngọc Ánh Mai, đã về nước và đang thực hiện dự án có tên Vietnam Journal Of Science:
Làm việc hai năm sau khi tốt nghiệp Đại Học Nông Lâm ở Việt Nam, năm 2007 đậu học bổng VEF, sang Hoa Kỳ vào University Of Texas at Houston, tháng Chín năm 2013 Trần Ngọc Ánh Mai trở về nước với văn bằng tiến sĩ Sinh Hoc Ung Thư, hiện là giảng viên Khoa Công Nghệ Sinh Học, Đại Học Quốc Tế thành phố Hồ Chí Minh:
“Đây là một trường đại học ở Việt Nam mà giảng dạy bằng tiếng Anh. Thật ra những trường đại học quốc tế ở Việt Nam thì rất nhiều, chủ yếu mở ra cho ngành business, nhưng mà đặc biệt trường này có những ngành về khoa học. Thực sự em rất thích môi trường làm việc của trường em đang dạy bởi vì đồng nghiệp của em toàn bộ là tiến sĩ từ các nước không chỉ Mỹ mà ở Đức, ở Thái Lan và nhiều nước Châu Âu khác. Em cảm thấy rất tương thích với nguyện vọng và trình độ của mình khi làm việc với họ, cộng thêm cái là em có thể giảng dạy bằng tiếng Anh thì em thích như vậy hơn.”
Trở lại cùng dự án VJS Vietnam Journal Of Science mà cô cùng một số bạn đang khởi đầu lâu nay, tiến sĩ Sinh Hoc Ung Thư Trần Ngọc Ánh Mai trình bày tiếp:
“Dự án này có mục tiêu là làm cầu nối cho các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học thế giới. Tụi em đã và đang đăng ký với một tạp chí quốc tế để các nhà khoa học trong nước có thể công bố bài và giới thiệu những công trình nghiên cứu của mình, và cũng để các nhà khoa học trên thế giới trao đổi qua lại về khoa học.”
Đến với VJS Vietnam Journal Of Science đều là các tình nguyện viên, dự án còn trong giai đoạn cũng cố, gây quĩ để phát triển:
“Tụi em cũng đã có một số bài viết khá ổn định. Dự định cuối tháng Ba này tụi em sẽ xuất bản số đầu tiên, hy vọng sẽ tiếp tục xuất bản mỗi hai tháng một lần. Hiện nay thì đang trong quá trình hình thành website, cuối tuần này hay cuối tuần sau thì website cũng đã xong rồi.”
Nếu thành công, Vietnam Journal Of Science sẽ là Tạp Chí Khoa Học đầu tiên của Việt Nam mà chủ xướng phần lớn là những sinh viên tài năng được đào tạo từ VEF Quĩ Giáo Dục Việt Nam.


Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi đến đây tạm ngưng. Thanh Trúc kính chào và xin hẹn thứ Năm tuần tới.
Liên lạc góp ý với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
 http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/vef-fellows-n-their-dreams-4-vn-tt-03062014123851.html

No comments:

Post a Comment