Monday, October 31, 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = HỐ XÍ HAI NGĂN= NGUYỄN KHẮC VIỆN

Sunday, December 22, 2013

THAINC* THẰNG BÉ TỴ NẠN

 

Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn Bất Đắc Dĩ
ThaiNC


Tùng khẽ nhếch vai để cái túi đi học đeo sau lưng trở lại tư thế gọn gàng. Nó ngoái cổ ra sau kiểm tra lần cuối cẩn thận, và đẩy cửa, giữ vẻ thản nhiên bước vô nhà.
Nó kinh ngạc khi thấy "Dad" John của nó đăm chiêu đi qua đi lại trong phòng khách. "Ủa, sao hôm nay ổng về sớm vậy cà?" Tùng nghĩ thầm. Thấy Tùng đi vào, ông mừng rỡ chạy lại ôm nó.
-Ồ, con đã về! Con đi đâu làm ta lo quá!
-Con đi học về, Dad!
Đang hoan hỉ, ông John bỗng xịu xuống, trở nên nghiêm khắc. Ông buông Tùng ra, đứng lên lạnh lùng:
-Con nói dối. Hôm nay nhà trường điện thoại cho "Mom" nói con không đi học khiến ta phải bỏ làm về kiếm con cả ngày nay.
Thằng Tùng sợ đến rụng rời tay chân. Trời ơi, vậy là lộ tẩy rồi! Nó mới nghỉ học có một ngày, đã gọi về nhà? Cái trường chi quái ác. nó vẫn cố chống chế:
-Con đi học thiệt mà Dad.
-Đừng dối ta, đó là một thói xấu. Hãy cho ta biết chuyện gì xảy ra, và con đã làm gì vì ta đã gọi cảnh sát, tí nữa ta và mom phải báo cáo với họ.
Nghe hai chữ "cảnh sát", Tùng càng hoảng. Câu chuyện không nhỏ như nó nghĩ. Hồi còn ở quê nhà, thỉnh thoảng nó cũng trốn học mấy lần đi tắm sông với tụi bạn, có ai hay đâu. Qua đây mới lần đầu tiên đã bị bắt tại trận. Tùng cảm thấy vừa lo vừa ngượng ngùng vì lỡ nói dối bố mẹ nuôi nó. Nó đỏ mặt ngượng nghịu cúi đầu, không dám nhìn ông John.
Giữa lúc Tùng chưa biết trả lời như thế nào thì cánh cửa bật mở. Bà Linda, "Mom" của nó hớt hải đi vào, nói không ra hơi:
-Kiếm khắp nơi mà vẫn không...
Bà ta ngưng lại khi thấy Tùng đứng đó. Bà trợn xòe mắt như không tin ở chính mình, kêu lên, "Lạy chúa tôi!", quên hết cơn mệt chạy lại ôm choàng Tùng.
-Con đi đâu cả ngày?
Vừa nói, bà Linda vừa nhìn thằng bé từ đầu đến chân xem nó có bị xây xát trầy trụa chỗ nào không. Thái độ đầy quan tâm của "mom" làm Tùng thêm bối rối, cúi gầm mặt. Sau khi xem xét và thấy Tùng vẫn lành lặn, bà Linda yên tâm nắm tay nó kéo vào bếp.
-Tội nghiệp con tôi, chắc nó đói rồi, vào đây mẹ lấy pizza cho ăn.
Nhưng ông John đã cản lại:
-Khoan đã, tí nữa rồi ăn. Tùng phải nói chuyện gì khiến con nghỉ học không xin phép hôm nay. Lát nữa cảnh sát sẽ lại đây đó.
-Ông sao gấp quá, để cho con ăn xong rồi hỏi cũng được mà.
-Bà thương nó quá không được. Nên nhớ nó mới qua và chưa rành luật lệ. Tôi phải biết nó đã làm gì để trả lời với họ chứ.
Nghe ông John nói, bà Linda không biết làm sao hơn, cúi xuống dỗ Tùng:
-Cũng được. Tùng nói cho mom biết tại sao con không tới trường hôm nay đi. Nếu con chỉ đi chơi mà không làm gì bậy, mom sẽ tha. Lần sau đừng như vậy nữa.
-Con, con...
Thằng Tùng ấp úng, nó biết nói sao bây giờ? Đã đành nó trốn học và nói dối là hai lỗi lớn. Nhưng nào phải nó đi chơi hay làm gì bậy đâu.
-Con đi... shopping.
-Shopping ư? Con mua gì ở đó? Hai ông bà ngạc nhiên.
Tùng tháo cái túi đi học trên lưng xuống. Lúc này, ông bà John và Linda mới chú ý đến cái túi gồ ghề hơn mọi ngày trên lưng thằng bé. Nó cẩn thận lấy ra một gói giấy: cái xe lửa chạy bằng pin.
Ông John thảng thốt:
-Con lớn rồi sao còn chơi cái đồ này?
-Tiền đâu con mua nó? Bà Linda tiếp.
-Con đi bỏ báo mua cái này cho em con ở Việt Nam.
Thằng Tùng bỗng bật khóc. Nó như được cởi mở tấm lòng.
Hai ông bà John và Linda nhìn nhau. Họ linh cảm đứa con nuôi trước mặt đang mang một tâm sự chồng chất mà nó giấu kín. Nguyên nhân sự nghỉ học của nó hôm nay có lẽ bắt nguồn từ đó...
Tâm sự của thằng Tùng: Nó là một thuyền nhân bất đắc dĩ.
Nói ra thì có vẻ hi hữu, nhưng trên đời có nhiều chuyện xảy ra một cách kỳ cục không ai có thể liệu định được. Và một trong những cái “ kỳ cục” đó đã xảy ra với Tùng hơn một năm trước đây, khi nó vẫn còn mang giỏ mía ghim lang thang trên bến đò Kiên Lương mỗi buổi chiều kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình.
Đúng ra nhà thằng Tùng cũng không nghèo lắm. Trước ngày giải phóng, ba nó là Trung Úy Pháo binh đóng ở Cà Mau, má nó làm cô giáo tiẻu học. Nhưng tai họa đã giáng xuống gia đình Tùng sau ngày 30/4 năm đó. Ba nó phải đi học tập cải tạo. Tưởng chỉ có 10 ngày là xong, ai ngờ đến 6 năm sau, khi Tùng rời quê nhà vẫn chưa gặp lại ba. Má nó bị cho nghỉ dạy vì là "vợ sĩ quan Ngụy". Gia đình Tùng khốn đốn từ đó. Đã mất việc, lại thêm phải nuôi ba nó trong tù, má Tùng phải tất tả làm đủ mọi việc để nuôi bốn miệng ăn. Ban ngày bà ra chợ trời, buôn đi bán lại, tối về bà phải nhận may vá thêm cho anh em Tùng đủ điều kiện cắp sách đến trường.
Cuộc sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Tính, em nó, còn nhỏ chưa biết gì nhiều, nhưng Tùng đã lớn, dù nó chỉ học lớp Sáu. Sự nghèo khổ và nhọc nhằn đã khiến Tùng khôn trước tuổi để thấy những sợi tóc bạc ngày càng rậm trên nét mặt khắc khổ của má. Những lần bà phải đôn đáo vay mượn trong mỗi dịp gửi đồ tiếp tế cho ba nó trong tù...đã đẩy Tùng ra ngoài xã hội.
Mỗi chiều sau khi đi học về, Tùng đi bán mía ở bến đò Kiên Lương. Nó vô vườn mua rẻ mấy cụm mía về lóc vỏ, và chặt thành từng khúc nhỏ khoảng bằng đốt ngón tay. Xong rồi nó đi kiếm tre, gọt thành những cây nhỏ, mỗi đầu cây tẻ thành sáu nhánh nhỏ khác, vót nhọn, và gắn mía vào, vậy là thành một ghim. Mía ghim.
Nó không bán ở chợ vì ở đó đã có nhiều thằng nhỏ khác bán. Ra nghề sau nên Tùng phải chịu khó lặn lội ra tận bến đò. Tại đây cũng tấp nập không kém chi ở chợ, nhất là vào buổi chiều. Ghe thuyền là một trong những phương tiện giao thông chính của xứ Rạch Giá đầy mương rạch này. Khách hàng của Tùng phần đông là mấy bác xích lô, hay xe ba gác, hoặc những người từ thôn xóm chung quanh khi tan chợ trở về. Ngồi trên ghe gió chiều hiu hiu, có ghim mía nhai đỡ buồn miệng, khỏi phải lóc vỏ, bỏ cùi, mà giá lại rẻ mạt: có 50 xu. Nhai xong nhổ bã xuống rạch là xong, thật tiện.
Công việc làm ăn của Tùng tiến hành suông sẻ. Mỗi ngày nó kiếm được ít tiền đưa cho má để dành mua quà nuôi ba nó. Cuộc đời bán mía ghim của Tùng không biết sẽ kéo dài bao lâu, nếu một ngày nọ...
Hôm đó Tùng ế hàng. Bán từ chiều đến gần tối mịt rồi mà rổ mía vẫn còn vơi nửa. Điệu này hôm nay nó huề vốn là may. Đáng lẽ Tùng về nhà, nhưng nó vẫn ráng kiên nhẫn ở lại. Biết đâu còn nhiều người về bến đò trễ cũng nên. Đang thơ thẩn tìm khách, nó nghe gọi:
-Mía.
Tùng mừng húm thấy một thanh niên từ chiếc ghe lớn nãy giờ đậu im lìm dưới chân cầu đi ra.
-Mía bao nhiêu một xâu?
-Dạ 50 xu.
-Mày còn mấy xâu?
-Để coi. 1,2,3... 32 xâu.
-Tao mua hết, vị chi là 16 đồng phải không?
Đang mừng nghe nói được mua hết, Tùng khựng lại khi thấy anh thanh niên đưa tờ 100 còn mới toanh. Tiền đâu mà thối? Nãy giờ nó mới bán được có hai mươi mấy đồng, thêm mười đồng tiền lẻ má nó đưa để thối lại, cộng chung cũng chưa đến bốn chục. Tùng lúng túng:
-Anh có tiền lẻ cho em xin, em không có đủ tiền thối.
Hơi ngần ngừ một chút, anh thanh niên nói:
-Thôi cho mày luôn đó nhỏ.
Tùng tưởng mình nghe lầm, nó trợn mắt nhìn anh thanh niên, ông khách rộng lượng nhất trong cuộc đời bán mía mà nó đã gặp. Bỗng nhiên nó nhận thấy cái anh này sao lạ quá, nhứt định không phải là dân ở đây. Nhất là ảnh ốm và trắng, không giống dân bản xứ ở đây ai cũng nở nang và đen sạm. Nó chợt nghĩ đến những tin đồn mà nó đã nghe, không dằn được, buột miệng hỏi:
-Có phải anh ở Sài gòn xuống đây vượt biên không?
Người thanh niên tái mặt, anh quăng hết mấy xâu mía xuống sông và chụp lấy thằng Tùng, bụm miệng nó lại. Diễn biến xảy ra quá đột ngột nên Tùng không kịp phản ứng, chống cự một cách vô vọng, và bị người thanh niên vác xuống thuyền.
Tùng cố vùng vẫy thật kịch liệt, chân nó đạp tùm lum làm văng luôn một chiếc dép xuống sông. "Trời ơi, cha này định làm gì đây? Vượt biên thì cứ vượt biên. Tui có đi báo công an đâu mà bắt tui?" Nhưng nó chỉ ú ớ không thành lời.
Đem Tùng xuống khoang tàu và đóng cửa lại, người thanh niên cầm một cây sắt dí trước mặt Tùng, "ngồi im, làm ồn tao đập chết thả xuống sông". Tùng hoảng sợ thôi vùng vẫy. Thanh niên đè nó xuống sàn, và thả tay ra. Bây giờ Tùng mới hơi hoàn hồn chút đỉnh và đưa mắt nhìn quanh. Trời đất ơi! Cái khoang thuyền bé xíu mà đầy những người là người, già trẻ lớn bé, đàn ông lẫn đàn bà, hầu hết đều lạ hoắc từ đâu tới.
Một người đàn bà ngồi gần cất giọng hỏi:
-Thằng nhỏ nào vậy? Sao tự nhiên bắt nó?
Hùng, người thanh nhiên phân trần:
-Tui định mua ít mía mang theo, ai ngờ thằng này biết mình sắp "đi" nên phải đem nó xuống đây đó chứ, lỡ nó đi la tùm lum là bể hết, tù rã đám.
Tùng mếu máo:
-Em đâu biết gì đâu, thả em về đi anh ơi, hu hu!
Đám người vượt biên ngơ ngác nhìn nhau. Hùng lại lên tiếng:
-Mày không biết thực không?
-Thiệt mà, cho em về đi.
Anh Hùng quay sang nói với mấy người trong ghe:
-Coi bộ thằng này chỉ tình cờ thôi, nhưng vì an toàn, khi nào mình khởi hành mới thả nó ra được.
-Hu hu! Em về trễ má em đi kiếm.
Một người đàn bà khác lại dỗ nó:
-Thôi em chịu khó ngồi đây chút xíu, tí nữa anh Hùng cho em về nhà...Đây chị cho em một trăm mang về cho má.
Bà nhét vào túi áo nó tờ giấy bạc. Nếu ngày thường, có lẽ Tùng đã la lên su
ng sướng, bữa nay nó phát tài rồi. Nhưng không hiểu sao nó chỉ cảm thấy lo lắng, linh cảm điều gì bất thường.
Điều bất thường đã đến. Đang im lặng bỗng có tiếng gấp rút gõ cửa.
-Ai đó? Hùng hỏi.
-Tui, Tư đây Hùng, mở cửa mau.
Một người đàn ông ló đầu vào thở hổn hển:
-Lộ rồi, đám kia bị bắt hết và tụi du kích sắp đến đây đó, nhổ neo dông liền đi.
Cả khoang thuyền rúng động nghe tin dữ. Từng khuôn mặt hốt hoảng. "Chết cha, làm sao bây giờ?". "Lên bờ trốn". "Khổ thân tôi"... Mỗi người một câu, không ai còn nhớ đến Tùng đang ngồi một góc. Nó cũng lo lắng không kém. Lỡ tụi du kích tới đây thấy nó cùng đám vượt biên này thì mười cái miệng nói cũng không xuôi. Nó mà đi tù thì chỉ khổ cho má nó.
Anh Hùng hồi nãy cũng la lên:
-Bà con bình tĩnh. Bây giờ ai mà lên bờ là bị chôp liền. Đằng nào ghe cũng chuẩn bị rồi, ta đi luôn.
Vài tiếng hô lên đồng ý.
-Anh Hùng nói đúng, mình đi luôn may ra kịp.
-Một liều ba bảy cũng liều.
-Nhưng thằng em tui chưa tới mà?
-Thân ông lo chưa xong, còn lo ai? Muốn đi tù chung cho vui hả?
-...
-Vậy thì mình đi, Hùng lên tiếng. Ai lên phụ tôi kéo cái neo sau, còn anh Tư chuẩn bị lái.
Mọi người đã đồng lòng, chia nhau công việc để ghe có thể rời bến.
Lúc này thằng Tùng muốn trốn lên cũng không ai buồn để ý. Nhưng, có lẽ số phận đã an bài, cái số của nó phải sống xa gia đình nên Tùng cứ nằm yên run rẩy, nó cũng sợ đám du kích sắp đến như mấy người trên ghe. Tùng cảm thấy vừa mệt vừa đói, đầu óc choáng váng. Nó cảm thấy cái ghe chuyển động, tiếng lâm râm cầu nguyện của những người đàn bà trong khoang...và thiếp đi lúc nào không biết.
Thế là chiều hôm đó, trên chuyến tàu vượt biên vội vàng đã mang theo một hành khách không mong đợi: thằng bán mía ghim ở bến đò Kiên Lương.
Tàu đi được bốn ngày thì được tàu Mỹ vớt đưa vào bờ Mã Lai, và đến Pulau Bidong sau đó. Mọi người trên đảo ai nghe câu chuyện của Tùng cũng đều gật gù cho là...số mệnh, không ai có thể vượt biển một cách kỳ cục như thằng Tùng.
Hôm đó sau khi tỉnh dậy, nó cảm thấy khát đến khô cả cổ, bèn mò dậy kiếm nước uống. Anh Hùng thấy nó trước tiên trên boong.
-Cha chả, thằng bán mía, sao mày còn ở đây?
-Cho em miếng nước.
Hùng đưa cho nó ly nước. Uống xong, Tùng bắt đầu tỉnh trí và nhớ lại mọi việc.
-Trời ơi, mấy anh cho em về nhà chớ đi đâu đây?
Nó hốt hoảng nhìn chung quanh. Trời đã tối lắm rồi, có lẽ tàu chạy xuôi xẻ cũng được mấy tiếng và đang tiến dần ra cửa biển.Bốn bề chỉ thấy nước mênh mông. Xa xa một vài ánh đèn chập chờn từ những tàu đánh cá hay một trạm gác nào đó, leo lét. Thỉnh thoảng lại thấy vài cụm sậy thấp thoáng trong bóng đêm dày đặc.
Ba bốn người từ dưới khoang đi lên, họ cũng chợt nhớ ra thằng Tùng. Một bà ái ngại hỏi anh Tư lái tàu:
-Mình đi xa chưa? Hay là tấp lại chỗ nào cho thằng nhỏ lên rồi đi tiếp?
-Trời đất, bộ giỡn sao chớ? Tối um vầy biết đâu mà vô. Rồi lại tụi du kích nghe tiếng ra túm hết cả tàu thì bà tính sao đây?
-Nhưng mà cũng phải cho thằng nhỏ về nhà chứ.
Tùng thút thít năn nỉ:
-Không sao đâu chú ơi, chú cho tàu chạy vào gần bờ rồi cháu nhảy xuống bơi vô được mà.
-Nói thiệt với mày nghe nhỏ, không phải tao ác hay là gì hết. Nhưng mày là dân ở đây thì cũng biết, đằng kia toàn là rừng sậy không hà, mày bơi chưa tới là đã lún sình ngủm củ tẻo rồi. Mà tao cho ghe vô gần hơn thì cũng lún luôn, chết cả đám. Thôi mày đi theo tụi tao luôn đi. Được đi Mỹ "chùa" không tốn một cắc mà còn than gì nữa? Tao sợ má mày hay tin mày đi rồi bả còn mừng nữa à.
Thằng Tùng thất vọng nhìn chung quanh. Nó biết chú Tư nói thiệt. Nó bơi như rái cũng khó qua nổi mấy vũng lầy trước khi vào đất liền. Tùng ngồi xuống ôm mặt tấm tức, tự xỉ vả mình ham tiền ở lại trễ tại bến đò làm chi cho bị... tai bay vạ gió như vầy...
Vậy mà trong ghe, Tùng lại được đi định cư sớm nhất. Nó ở đâu có 3,4 tháng thì được hội nhà thờ bảo lãnh sang làm con nuôi của ông bà John và Linda, một cặp vợ chồng Mỹ không con cái.
Mấy tuần đầu ở đảo, Tùng nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ thằng Tính em nó và khóc hoài. Nó giận tất cả mọi người trong ghe đã ép uổng nó đi theo.
Chuyến ghe nó đi thật thuận buồm xuôi gió, không hải tặc, không đói khát. Mấy người lớn tuổi nói trong ghe có "quí nhân" đi theo nên được tai qua nạn khỏi. Và họ bảo nhau quí nhân đó chính là thằng Tùng. Đâu có ai vượt biên một cách bất ngờ như nó đâu. Hồi đó hải tặc lộng hành, ít có ghe tị nạn nào thoát khỏi, vậy mà ghe nó đi êm ru. Vì vậy ai cũng thương và tử tế với nó, họ chia nhau an ủi và nuôi nấng Tùng trong suốt thời gian ở trại vì nó không có ai thân nhân ở nước ngoài cả.
Đêm trước khi Tùng lên đường, mọi người mở tiệc tiễn "quí nhân". Mỗi người một lời khuyên nhủ làm Tùng cảm động quên hết giận hờn. họ nói riết, Tùng cũng tin là tại số phận của nó phải như vậy. Đây là ý của Trời Phật muốn giúp nó ra nước ngoài ăn học để một mai thành tài giúp đỡ cha mẹ lúc tuổi già. Cuộc sống bon chen lúc còn bán mía ở bến đò Kiên Lương và biến cố vừa qua đã làm cho trí óc Tùng tiến một bước dài.
Trước khi từ giã, anh Hùng, người đã bắt nó xuống tàu hôm nọ nắm tay nó xem bói. Anh vỗ tay xuống bàn, la lên:
-Trời ơi, bà con coi bàn tay thằng này nè. Cái đường xuất ngoại của nó dài và rõ như vầy thì đúng là số của nó phải đi du học rồi. Nói thiệt, nếu hôm dó tui không nắm cổ nó kéo xuống ghe thì cũng có người khác làm mờ.
***
Bốn tháng sau khi đến Mỹ, Tùng nhận được lá thư đầu tiên của má nó từ Việt nam gởi sang. Còn gì mừng hơn được nhìn lại nét chữ của người mẹ thân thương từ quê nhà. Nó ngấu nghiến đọc đến thuộc lòng cả lá thư mà vẫn cứ đọc. Lại có cả thư của thằng Tính nữa chứ, em nó viết: "Em là Tính em của anh nè anh Tùng, anh còn nhớ em hôn? “ Tùng đang khóc cũng suýt bật cười đọc dòng chữ ngây thơ trên. "...Ba có viết thơ về nói bị đau bao tử mà má không có tiền mua thuốc. Em muốn đi bán mía như anh nhưng má không cho, má sợ em cũng bị bắt đi Mỹ luôn má ở nhà một mình buồn. Anh ráng đi làm như anh con Hà rồi gởi thuốc về cho ba nghe. Mà anh cũng nhớ mua cho em cái xe lửa điện như của con Hà vậy nghe, em ở nhà một mình buồn quá. Nhớ nhe anh Tùng..."
Dòng chữ ngây thơ của em nó làm Tùng khắc khoải. Ba nó đang bệnh trong tù, mà thuốc Tây ở chợ trời thì Tùng dư biết là mắc lắm, làm sao mua nổi? Chưa kể má nó thiệt thà có khi còn mua nhầm thuốc giả nữa. Còn cái xe lửa điện. Tùng nhớ hồi ở Rạch giá mỗi lần nhìn chị em con Hà gần nhà chơi cái xe lửa điện của anh tụi nó từ ngoại quốc gởi về mà mơ ước cũng có một cái, nhất là thằng Tính, mê cái xe lửa kinh khủng. Tùng chìu em, vác cuốc đi đào đủ một lon sữa bò đầy giun để con Hà cho gà ăn thì nó mới cho chơi chung. Đến bây giờ em nó vẫn còn mơ ước cái xe lửa.
Tùng muốn xin tiền bố mẹ nuôi để nó mua đồ, nhưng lại không dám. Ông bà John và Linda thương nó như con ruột, chăm lo cho nó ăn học đầy đủ, nên nó không muốn xin thêm điều gì làm phiền ông bà. Tùng quyết định đi làm để tự mình kiếm tiền. Mà làm gì bây giờ nhỉ? Bán mía như ở Việt Nam ư? Mỹ họ đâu có ăn mía ghim. Mía họ đóng hộp để lạnh, khi nào ăn thì khui ra là xong. Tùng đâu thấy thằng Mỹ con nào bán mía ngoài đường.
May sao thằng Tâm bạn chung lớp chỉ nó gia nhập làng bán báo. Gì chứ bán báo ở Mỹ dễ ợt, người ta đặt mua hàng tháng, bọn nó chỉ đem bỏ từng nhà là xong. Và Tùng đi bỏ báo.
Hôm qua mới được lãnh lương nên sáng nay nó và thằng Tâm rủ nhau nghỉ học để mua đồ. Đã lỡ giấu bố mẹ nuôi từ đầu nên Tùng phải nhờ thằng Tâm chỉ dẫn. Thằng này qua đây đã lâu mà lại thường theo anh chị nó sắm đồ nên rất rành đường xá. Đầu tiên, hai thằng đến tiệm thuốc tây Việt Nam có bán loại thùng thuốc đóng sẵn. Tùng nhờ người bán hàng chỉ loại thùng có thuốc trị bao tử để gởi về. Xong xuôi cả hai lại đáp xe bus tới mấy tiệm bán đồ chơi để Tùng tìm mua cái xe lửa điện cho em nó. Lang thang mãi rồi Tùng cũng kiếm được cái vừa ý, và nhất là hợp với túi tiền nhỏ nhoi của nó.
Có điều thằng Tùng chưa rõ là nhà trường Mỹ không giống như ở Việt Nam. Trước kia nó có trốn học đi coi đá banh, hay tắm sông với bạn bè mấy ngày cũng không ai để ý. Nhưng ở Mỹ, con nít thường được chú ý, cho nên khi cô giáo buổi sáng thấy Tùng vắng mặt không xin phép đã gọi điện thoại về nhà. Câu chuyện đổ bể...
Ông John và bà Linda im lặng nhìn nhau. Họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đứa con nuôi của họ chỉ mười mấy tuổi đầu đã trải qua bao lận đận, và cuộc đời của nó thật hi hữu. Đây hẳn là ý Chúa. Chúa đã mang thằng nhỏ đầy tình nghĩa trong trái tim son trẻ kia về đặt trong sự thương yêu của hai người để giúp nó được lớn lên trong một xã hội tự do, bác ái, và để cho nó có cơ hội giúp đỡ cha mẹ nó tận bên kia Thái Bình Dương.
Bà Linda ôm Tùng trong lòng, bà cũng khóc tự hồi nào.
-Ôi, con yêu dấu của mẹ. Cha mẹ không trách con nữa. Con thật là một đứa con ngoan.
***
Lúc bà nội Tùng còn sống, nó thường nghe bà kể chuyện ông lão ăn mày nghèo khổ, một đêm trong miếu cổ nằm mộng thấy mình trở thành quan Tể tướng, giàu sang quyền quí, sống cuộc đời cực kỳ hạnh phúc. Giật mình tỉnh dậy trời chưa sáng, tất cả đều hết, ông lại là kẻ ăn mày nghèo khó giữa đêm tối âm u...
Tùng mong mình cũng như lão ăn mày nọ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Nó ước ao một sáng thức dậy, thấy mình vẫn còn nằm trên chiếc giường tre ở quê nhà, nghe tiếng gà gáy, tiếng lục đục của má nó sửa soạn ra chợ. Thấy chân thằng Tính gác trên bụng và hơi thở phì phò trên má... Cho đến khi cảm giác êm ái của chiếc giường nệm và cái lạnh cuối năm của xứ người đưa nó về thực tại. Có những đêm Tùng nằm mơ thấy mình trở về Rạch Giá, lang thang trên bến đò với rổ mía, gặp lại ba má, bạn bè, để rồi tỉnh dậy trong tiếc nuối ngẩn ngơ.
Đêm nay Tùng lại nằm mơ thấy mình về Việt Nam. Giấc mơ kỳ lạ. Nó thấy "Dad" John lái xe chở nó và "Mom" Linda chạy trên xa lộ Mỹ, vậy mà khi ổng quẹo vào exit là đã tới...Rạch Giá môt cách ngon lành. Tùng vào nhà gặp má nó, thằng Tính, và điều mừng rỡ nhất là có cả ba nó nữa. Ông hết ở tù rồi. Tùng khệ nệ khiêng thùng quà mà nó dành dụm từ mấy tháng nay vào cho má nó. Nào vải, nào thuốc... và dĩ nhiên có cả cái xe lửa điện cho thằng Tính nữa. Rồi trong khi má nó và "Mom" làm cá rô kho tiêu trong bếp, "Dad" John và ba nó ngồi nhậu thật tương đắc. Ngoài sân, thằng Tính lui cui chơi cái xe lửa, thỉnh thoảng khoái chí cười nắc nẻ.
Tùng cảm thấy mình thật hạnh phúc. Nó đã có ba má, rồi lại có cả "Dad" và "Mom" nữa, tất cả đều yêu thương nó. Ô hay, ai nói Việt Nam và Mỹ xa lắm cả một đại dương chứ với Tùng, nó thấy thật gần gũi, nhất là trong những giấc mơ như vầy.
ThaiNC

PHẠM ĐÌNH * CHUYỆN TÙ

 

 

Chuyện Vui Buồn « Tù Cải Tạo »  Phạm Đình C/N 2011/02


Chuyện tù cải tạo toàn là đau buồn chứ làm sao mà vui được nhỉ ? Ấy thế mà cũng có đấy. Tôi xin « nhập đề lung khởi » một chút. Nhiều người đã viết về chuyện buồn nát ruột ra rồi và viết hay nữa như Hà Thúc Sinh với Đại Học Máu, Tạ Tỵ với Đáy Địa Ngục ... Thật ra, Đại Học Máu cũng có chuyện cười ... ra nước mắt và Hà Thúc Sinh ở cùng trại Trảng Lớn (Tây Ninh) nhưng khác tiểu đoàn với tôi nên tôi không muốn đi sâu vào chi tiết những việc học tập mà sẽ kể dăm ba chuyện vui lẫn buồn đã thực sự xảy ra trong khu vực tôi ở tù và theo trí nhớ của tôi. Do đó, chuyện vui lẫn buồn này khó có khả năng hay cơ may gây cười cho người đọc nhưng cũng không phải là chuyện nghe qua rồi bỏ bởi vì đó là tất cả sự thật ! Cười hay mếu, theo thiển ý của tôi, chẳng quan trọng cho bằng sự thật chưa được ai kể lại, dù có nhiều quyển hồi ký về tù cải tạo ngoài hai quyển trên, chẳng hạn như Cùm Đỏ, Trại Trừng Giới, Những Bước Chân Tù ... Lý do đơn giản là tiểu đoàn mà tôi đi tù cải tạo chưa có nhà văn nào chịu viết ra nên tôi đành phải « múa rìu qua mắt thợ » vậy ! Chính vì « múa rìu ... » nên tôi cũng chỉ kể lại đơn sơ dăm ba chuyện để góp phần vào những chuyện tù cải tạo, sợ để lâu quên mất do trí nhớ giảm sút khi mình ngày càng già đi.

 ... & ...

Trước khi nạp mình cho « cách mạng », tức là ngày 24/06/1975, tôi cùng người anh họ đã chuẩn bị cho những ngày tù tội của mình hơi khác với mọi người. Đó là buổi sáng dậy sớm ra ngồi quán cà phê cạnh nhà làm một ly xây chừng rồi chở nhau bằng chiếc xe đạp cũ mới mua để lên nhìn phố xá Sài Gòn một lần chót. (Chiếc xe Honda của tôi thì vẫn đứng nép bên vách tường bà chủ nhà vì xăng bấy giờ thuộc nhà nước, tư nhân không dám bán. Chiếc Honda trên cũng có số phận trùng hợp « nạp mình » giống y như tôi sau đó khi rơi vào tay một y sĩ cán bộ !). Tôi không tin mình sẽ về đúng kỳ hạn theo thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản. Chẳng hiểu đó có phải là do tôi bi quan hay có linh cảm về một tương lai bất trắc ở phiá trước nên tôi đành hờ hững đạp xe dạo quanh phố phường xem như là lần cuối cùng. « Cuối cùng cho một tình yêu » ... tự do đã mất chăng ? Đến chiều, tôi mới chạy đến nhà bà chị họ lấy một lon Guigoz đựng ruốc gồm đủ thứ hầm bà lằng như thịt, đậu phụng, gừng ... mà chị dặn mấy ngày trước rồi lửng thửng dẫn xác đến địa điểm tập trung là một vận đồng trường ở đường Nguyễn Kim. Đang ngồi mơ mơ màng màng tựa lưng vào tường đến nửa đêm, bỗng tôi bị đánh thức dậy cùng với mọi người để lục tục xếp hàng lên cả chục xe Molotova bít bùng đợi sẵn ở bên ngoài !

Chẳng ai đoán nổi xe sẽ chở đi đâu vì xe bị bịt kín và hai vệ binh lăm lăm cò súng ngồi sau cùng.

Đoàn xe chạy vòng vèo qua không biết bao nhiêu con đường đến tờ mờ sáng, người tù cải tạo mở mắt ra mới biết là mình đang ở trong trại Trảng Lớn, một căn cứ quân sự cũ, trông hoang vu đổ nát.

Thời gian đầu nhập trại có lẽ là giai đoạn hoang mang nhất của người tù cải tạo. Hoang mang càng ngày càng tăng lên mãnh liệt, căn cứ vào thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản là mang theo lương thực đủ dùng trong 10 rồi 30 ngày. Hoang mang cực độ là phải vì trước đó hạ sĩ quan và binh sĩ bị gom lại đi học tập 3 ngày ở phường đều đã được trở về nhà một cách phấn khởi "hồ hởi". Bây giờ người tù cải tạo mới bật ngửa ra đó chỉ là cái “mánh” để gom vào lưới toàn bộ sĩ quan, cán bộ chế độ cũ. Tuy thế, sự hoang mang cũng bị hạn chế vì những lý do khách quan. Người tù cải tạo buộc phải lao động ổn định nơi ăn chốn ở mới rất mệt mỏi, không những cho mình mà cho cán bộ quản giáo tiểu đoàn, trung đoàn ... Tối về, họ còn phải họp tổ để kiểm điểm, rút ưu khuyết điểm và đề ra phương hướng khắc phục. Không khắc phục sao được khi chẳng có nhiều dụng cụ nào như búa, kềm, cuốc, xẻng ... may lắm chỉ có vài ba cái thì làm sao hoàn thành được chỉ tiêu công tác. Không đinh thì dùng kẽm gai cắt ra rồi tán nhọn một đầu làm đinh. Dây kẽm thì dễ hơn, chỉ gở gai ra là làm dây để cột. Quanh đi quẩn lại là lao động mệt phờ người rồi họp tổ làm rã rời cả xác lẫn hồn khiến tù cải tạo không còn thì giờ nhiều để hoang mang ... “toàn thời” như trước nữa. Đã thế, ăn uống quá thiếu thốn không đủ sức lao động nên cái ăn là một ám ảnh kinh hoàng. Ai cũng chú ý đến việc ăn, thậm chí so đo từng bó rau úa lá, từng miếng cơm cháy cho Đội, cho Tổ của mình. Lý do cũng dễ hiểu là để có sức cầm cự, khỏi bỏ mạng ở trại tù cải tạo trước khi được thả về với gia đình. Chính vì thế mà ăn không có gì, tôi vẫn nuốt được và đôi khi cũng cảm thấy ngon. Tại sao ? Có lẽ là có yếu tố tâm lý, triết lý trong đó. Ăn để tồn tại chứ không phải tồn tại để ăn !

Lao động một thời gian, tù cải tạo cũng quen dần những việc trước đây chưa ai từng mó đến. Lúc này người nào cũng mong đến ngày học tập, chứ lao động hoài cũng chán. Học tập xong mới có ngày trở về, dù không ai biết rõ học tập tốt là như thế nào để được về sớm như cán bộ lải nhải « học tập tốt sẽ về sớm ». Câu trên nằm ở đầu môi chót lưỡi của cán bộ quản giáo nhiều nhất là khi tù cải tạo bắt đầu khai lý lịch trên cái gọi là bản lý lịch trích ngang. Thôi thì phải khai từ đời ông bà nội, ông bà ngoại đến cha mẹ mình và của vợ. Họ đã ở đâu, làm gì, nếu chết thì khai rõ do nguyên nhân nào mà họ hết muốn sống ... ? Khai không những anh em ruột mình và của vợ mà còn cả những anh em ruột của cha mẹ mình cùng con cái của họ nữa. Riêng quan hệ bạn bè thì ai dại gì mà khai, dù có muốn « thấy sang bắt quàng ... » đi nữa, vì chẳng ai biết rõ họ cách mạng thật hay giả lúc mình ở tù. Nhờ khai lý lịch mới biết thêm học tập tốt là thành khẩn khai báo tất cả mọi liên hệ của mình để cách mạng tạo điều kiện cho về sớm và giúp trở thành người tốt. Cũng có người mắc mưu này nên phải nhường anh em khác về trước mình ... vài cuốn lịch !

Sau một thời gian, có lẽ hơn 1 năm khăn gói đi tù cải tạo ở trại Trảng Lớn, một hôm bỗng tôi khám phá ra mình yếu sức rõ rệt khi tôi không thể nào kéo gàu nước từ giếng lên một cách dễ dàng như nhiều lần trước đó. Ban đầu, tôi cảm thấy như đôi tay của mình hoàn toàn mất hết sinh lực, mềm đi, không thể co duỗi mạnh mẽ như cũ và hai chân chẳng những không bám chắc được nền đất mà còn không thể dựa chặt vào thành giếng để kéo gàu nước lên. Tôi đành để gàu không mà kéo lên từ từ, từng đoạn. May là từ đáy đến miệng giếng không cao lắm. Tôi sợ hãi thực sự, tưởng đời mình chưa gì đã tàn trong ngõ hẹp và cố gắng suy nghĩ nguyên nhân tại sao tôi bị như vậy, nói đúng hơn là cái triệu chứng tôi đang mắc là do bệnh gì mà có. Nhiều anh bạn cũng đã từng than vãn với tôi về những triệu chứng như phù thủng, nặng và yếu chân tay ... nhưng bây giờ chính tôi cũng bị một ít triệu chứng của bệnh beriberi như họ vậy. May mắn là tôi không bị ghẻ lở như người khác. Đó là hai bệnh phổ biến mà hầu như ai cũng mắc phải. Dù lúc ấy, tù cải tạo chưa được phép thăm nuôi nhưng được phép nhận quà trong đó có thuốc trụ sinh, sinh tố ... nên người nào được tiếp tế kịp thời thì có cơ may chữa lành còn anh nào chưa được tiếp tế thì xin nhà bếp ban “ơn mưa móc” là cho nước vo gạo để trị và rồi bệnh tôi cũng được khống chế. Duy có bệnh ghẻ thì nhiều anh cũng phải gẩy đờn tịch tình tang dài dài vì con cái ghẻ hè nhau tấn công cơ thể người tù trên ... mặt trận rộng. Có anh trèo lên nóc hầm tránh pháo kích để tự điều trị cho thoải mái, sợ phô « của quý » ra làm « công xúc tu sỉ » chăng ? Liều thuốc ... thần dược trước mắt hồi đó là thuốc súng (có sẵn rải rác trong căn cứ quân sự Trảng Lớn) vì xem như nó có thể thay thế cho lưu huỳnh nên anh nào anh nấy lo ... nạp thuốc từ trên cao, vừa kín đáo vừa mát mẻ ! Thuốc trừ muỗi cũng là thần dược, theo lời một số ... nạn nhân ghẻ !

Tất nhiên, tôi vốn có bệnh viêm xoang mãn tính từ bé thì không kể vì tôi « chung sống hoà bình » với bệnh này lâu rồi, nó thường gây phiền nhiễu, mà chẳng nguy hiểm gì ngay tức thời. Tôi chỉ sợ mình không đủ sức lao động để sống sót. Đi tù thì cùng lắm ngồi gỡ hết vài tấm lịch là biết ngày về chứ đi tù cải tạo thế này thì không án, hạn kỳ mơ hồ, chẳng biết đâu mà mò ! Lo quá cũng không giải quyết được gì, lại dễ bị bệnh thì khốn. Thôi thì ai cũng đành phải đổ lỳ ra mới sống nổi. Có anh còn đề ra triết lý gói gọn trong bốn chữ « Đến đâu hay đó » ! Hình như những người bi quan can đảm đã chọn cho mình mỗi người một cách kết liễu cuộc đời ngay trong năm đầu tiên. Có một anh dược sĩ chế chất nổ để tự sát. Có anh tự cho phép mình ra trại khi hết hạn kỳ tập trung của Ban Quân Quản. Vệ binh gác cổng đuổi vào cũng cứ điếc không sợ súng mà bước, thế là súng nổ và anh từ giã cõi đời có lẽ theo cách anh đã tự chọn từ trước. Lại có anh coi như không có hàng rào kẽm gai mấy lớp nên đã lầm lủi vượt qua lúc trời tối và mìn nổ thì xác anh tung lên phơi hàng rào sáng hôm sau. Người tù vượt ngục Ngô Nghĩa tìm cái chết trước một đội hành quyết là trường hợp nổi tiếng nhất đã được Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu. Có thể nói Trại Trảng Lớn là nơi tập trung hầu hết thành phần đủ loại chuyên môn vào lò cải tạo. Bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi HVC, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia LQU, khá nhiều giáo sư đại học, bác sĩ, luật sư, nhà văn, ký giả, kỹ sư ... nghĩa là hầu như toàn bộ tinh hoa VNCH. Thế nhưng cũng có dăm ba anh thuộc vào diện ... dở khóc dở cười như bị tố cáo là CIA, dù chỉ là người câm (bẩm sinh) quét dọn trong Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát hoặc mang lon sĩ quan giả để cua gái nên bị phường gửi vào trại học tập cho ... bỏ ghét, có lẽ để cho anh chàng đền cái tội đã lếu láo cuỗm mất người đẹp của cán bộ nằm vùng bây giờ làm lớn chăng ? Theo một hồi ký tình cờ tôi đọc được, có anh tự xưng là Trung Tướng Tư lệnh Sư Đoàn 23A Bộ Binh (?) cũng bị tù cải tạo ở ngoài Bắc theo diện Sĩ quan cấp Tướng ! Tên anh ta là Nguyễn Văn Huệ không hề có tên trong hàng tướng lãnh VNCH. Đúng là chuyện khó tin mà có thật !

Tiểu đoàn tôi nghe nói có rất nhiều bác sĩ nhưng oái oăm thay, Đội tôi đốt đuốc không tìm ra thầy thuốc nào cả ngoài tôi. Dược sĩ, nha sĩ thì có nhưng họ có lý do hợp lý để từ chối nên tôi đành phải « ăn cơm tù ... và vác ngà voi ». Tuy công việc này chỉ là dẫn người có bệnh lên cho y sĩ cán bộ khám bệnh nhưng thực ra là xin thuốc gồm một loại thuốc tây độc nhất là Aspirin trị ... bá bệnh ! Đau đầu hay đau bụng gì cũng dùng Aspirin tuốt tuồn tuột ! Đúng là thần dược (?) Những anh tù nào chẳng may cần thuốc đặc trị thì đành phải dùng KaPemycin vậy ! Tức là thuốc trụ sinh có tên đặc biệt là « Khắc Phục » ! ! ! Dẫn bệnh nhân xong (1- 2 lần /tuần) là về làm đủ thứ việc linh tinh trong Đội. Nếu được phụ trách về y tế thôi thì sướng quá, chẳng phải là việc nặng mà chỉ nặng khi một lần tôi đứng đực mặt ra để nghe y sĩ cán bộ chưởi những lời nặng như búa bổ xuống đầu mình. Nguyên lúc bấy giờ, tiểu đoàn yêu cầu các đội báo cáo cho họ biết nguyện vọng về thuốc trị bệnh của cải tạo viên. Với sự cố vấn kiểu « quân sư quạt mo » của vài người, tôi bèn viết một tờ kê khai hơn chục loại thuốc dài như sớ Táo quân và chỉ ký tên đàng hoàng ở phía dưới (không dám đóng dấu !) thế mà ông y sĩ bộ đội nổi giận nặng lời cho rằng tôi có tội bôi bác cán bộ, bôi bác cách mạng ! Anh vào đây học tập cải tạo mà sao dám bố láo bố lếu viết chêm vào nhiều chữ nước ngoài như thế ? Muốn viết tiếng nước ngoài thì phải đánh vần ra tiếng VN. ta mà viết để cho trong sáng rõ ràng ! Anh cố tình bôi bác vì đã đánh giá thấp khả năng chữa bệnh của cán bộ cách mạng. Đế quốc Mỹ « giàu mà không mạnh » còn thua, các anh là cái thá gì ! Thật ra, họ giả vờ làm như quan tâm đến sức khoẻ tù nhân vì tình trạng quá khan hiếm thuốc, còn báo cáo chỉ là hình thức. Cũng may cho tôi, sau này các đội tổ chức lại sau vài đợt biên chế nên tôi đã phải « tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa » ! Còn tiểu đoàn cũng có y sĩ cán bộ mới là một người Tày dễ chịu hơn nhiều và chính anh này chẳng biết tại sao lại biết tôi có chiếc xe Honda mà đến hỏi gạ mua. Suy nghĩ mãi, tôi mới sực nhớ ra là mình có kê khai tài sản trong mục liên quan “đặc quyền đặc lợi” của tờ khai lý lịch trích ngang ! Khôn thật !

Chỉ năm đầu trong gần 3 năm nằm tù cải tạo, tôi mới biết duy nhất một lần có lễ Giáng Sinh sắp diễn ra ở bên ngoài trại tù. Chuông nhà thờ ở xóm đạo Cao Xá không xa Trảng Lớn bao nhiêu vọng về nghe rõ những hồi chuông vừa quen thuộc vừa xa vắng làm tê tái cõi lòng ! Tê tái cũng phải vì năm đó, thời tiết bổng trở lạnh hơn hẳn những mùa đông trước đây, theo lời những anh bạn từng đóng quân ở Tây Ninh. Đêm Noel, nằm vắt tay lên trán, tôi trằn trọc không sao ngủ được, một phần vì chỉ còn dăm ngày nữa là hết năm. Chung quanh mình cũng có vài anh đã ngáy ầm lên hết sức vô tư nhưng phần lớn là nói chuyện tầm phào làm « một đêm không ngủ » cho qua lễ Giáng Sinh. Lan man từ chuyện nọ nhảy chuyện kia lung tung, có lúc bàn ra tán vào chuyện đèn sách du học ... Tây (Ninh) mà « sinh viên » có người từng là giáo sư thực thụ, giáo sư thỉnh giảng ... ở ngoài đời. Mấy anh « quản giáo » cũng rét nên có anh phải xử dụng khẩu súng để giương oai nói cứng ta đây bóp cò súng mà bắn kẻ thù thì chưa hề run tay bao giờ ! Trí thức đã từng bị Đảng ta ưu tiên trù dập hồi Cải Cách Ruộng Đất (Trí phú địa hào : đào tận gốc, trốc tận rễ) còn ngo ngoe làm gì được cơ chứ ? Nói một cách công bằng, tinh thần phản kháng của trí thức miền Nam, dù bị tù tội, vẫn chưa hoàn toàn bị huỷ diệt mà âm thầm tồn tại dưới hình thức châm biếm. Tôi nhớ lúc trại được lệnh ăn mừng ngày lễ lớn 02-9-1975 Ban quản lý trại mua sơn về cho tù cải tạo vẽ một pa nô rất lớn, trên đó viết hàng chữ « Không có gì quý hơn độc lập tự do ». Anh bạn phụ trách việc sơn đã bỏ dở nửa chừng ... xuân hai chữ « độc lập » làm cho câu khẩu hiệu biến thành « Không có gì quý hơn đô la » ! (Thật là một câu tiền định đã tiên tri mấy chục năm tình hình xã hội VN. hiện nay !). Khi cán bộ xuống kiểm tra, anh bạn nói chận trước sơn hết nên chưa hoàn thành xin cán bộ phải đi mua gấp để sơn cho kịp ngày mừng lễ, dù rõ ràng tên cán bộ đã nhìn thẳng vào từng chữ khẩu hiệu mà không kịp “lên lớp” chưởi mắng gì vì thời hạn mừng lễ đã « khẩn trương » quá rồi. Có lẽ tên cán bộ sợ không đạt chỉ tiêu trên giao thì sẽ mất cơ hội lập thành tích cá nhân hơn là quát mắng tù cải tạo thì phải ?

Để tránh bị lên án kém tiến bộ, có anh trong khi thảo luận lại dựa vào lời lẽ của quản giáo để nói “trả miếng” chơi. Chẳng hạn quản giáo đã phóng đại cách tuyên truyền của miền Nam khi cho rằng VC không phải người mà là con quỷ có đuôi. Anh bạn tù liền đưa ra một hình ảnh để mọi người có thể hình dung là khi bị lụt ngập nước, chuột phải tìm nấp ở những hang cao hơn, còn khô ráo, nhưng cuối cùng xoay trở cho lắm vẫn không tài nào giấu được cái đuôi của mình thò ra trong hang (nghĩa là vẫn « giấu đầu lòi đuôi ») ! Tôi không biết quản giáo có biết thâm ý của anh ta không nhưng một anh bạn khác lại bị “dũa” thê thảm khi anh này có lẽ muốn bênh vực cho việc cách mạng nói đi học tập 10 ngày đến 1 tháng mà đến nay chưa cho ai về cả. Anh ta biện hộ việc này cũng như việc một bà mẹ trả lời cho đứa con nhỏ tuổi của mình khi nó hỏi « em con sinh ra từ đâu hả mẹ ? » thì người mẹ tất nhiên sẽ nói qua quít cho xong nhưng xem ra vô hại là « em con sinh ra từ nách » ! Thế là quản giáo bắn ngay một tràng ... liên thanh nào là bà mẹ đó đuổi Pháp, Mỹ quá đà đã chạy vào Nam năm 1954, nào là bà mẹ nói láo để lừa bịp đó không phải bà mẹ yêu nước mà là phản động ... ! Chưa chắc anh này muốn bênh vực nhưng muốn nhắc cho quản giáo biết là nói thật tốt hơn nói láo ngàn lần chăng ? Vui nhất là một anh tự nhận là cháu nhà thơ Bùi Giáng lên phát biểu. Sau khi nói cho đúng « thủ tục », anh ta xin phép đọc lên hai câu thơ Lục Bát :

« Tôi ưa kiếp sống lang thang
Cà phê buổi sáng, khoai lang buổi chiều ! ».


Trong khi cả hội trường cười tán thưởng ... sự thành thật của anh thì quản giáo chụp lấy micro oang oang chỉ trích phủ đầu là tư tưởng của tàn dư Mỹ nguỵ độc hại thế này mà các anh không nhận ra à ?

Quản giáo trịnh trọng phân tích hai câu thơ như một nhà phê bình văn học chính hiệu ... bà lang trọc ! Đúng là bọn đế quốc chống cộng tinh vi và nham hiểm thật ! Kiếp sống lang thang là của ai ? Là của kẻ ăn bám, không lao động, vô công rỗi nghề rồi nói xấu cách mạng. Bây giờ mơ tưởng như thế là lạc hậu, phản động ! Tại sao cà phê buổi sáng và khoai lang buổi chiều ? Đây là kiểu nói xỏ xiên, bôi đen, xuyên tạc cách mạng. Buổi sáng có ý nói chế độ nguỵ quyền cũ thì các anh được thảnh thơi ngồi uống cà phê còn buổi chiều ám chỉ chế độ cách mạng các anh chỉ được ăn khoai lang, nghĩa là sống khổ cực hơn thời trước. Ý đồ của các anh rõ ràng quá nhưng không qua mặt được cách mạng chúng tôi đâu. Đừng hòng ! Anh này phải được giáo dục thêm để cải tạo thành người tốt XHCN. Tôi nhớ về sau người cháu của thi sĩ Bùi Giáng bị biên chế đi trại cải tạo khác trong đợt đầu tiên.

Có anh chọn một cách phản kháng rất nguy hiểm là đóng vai người câm, không thèm phát biểu trong bất cứ bài học nào. Trong sinh hoạt hàng ngày cũng vậy, anh không hề mở miệng nói chuyện với anh em. Cũng may, anh có lẽ là người duy nhất thành công trong kiểu này. Cách phản kháng trên có thể là hậu quả của một căn bệnh tâm thần, chứ nói anh có chủ ý chống đối thì cũng chưa chắc 100 %. Mình nghĩ thế thôi, còn đúng hay sai phải hỏi anh mới biết rõ, nếu gặp lại anh. Thực tế mà nói, cũng có vài trường hợp bệnh tâm thần, thật có giả có. Chẳng hạn một giáo sư trung học dạy Toán trứ danh ở Sài Gòn thì thường đi thơ thẩn trong trại, bạ cái gì cũng đưa vào miệng nhai tỉnh bơ ! ! !

Trong các câu chuyện tù cải tạo đáng nhớ thì câu chuyện sau đây là buồn cười nhất, đã xảy ra vào năm đầu tiên, khi toàn trại bắt đầu học tập 6 bài học chính trị căn bản. Học tập thực ra là nhồi nhét vì những bài này đưa ra một định đề, như một chân lý, rồi từ định đề đó mà tha hồ nói thánh nói tướng. Ngày kia, một gã cán bộ chẳng biết điếc không sợ súng hay sao mà khoe « đỉnh cao trí tuệ » của mình bằng cách tiết lộ một tin ... động trời như thế này. Đó là « ta đã trục xuất một tên cố đạo nước ngoài phản động về nước hắn. Để che mắt công an ta, hắn lấy ba cây tre, mai, le mọc nhiều ở ta làm tên của hắn ». Lúc đầu, chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau không hiểu anh ta nói gì nhưng sau khám phá ra rằng anh ta đã đánh vần ngược tên của vị khâm sứ toà thánh bấy giờ là H Lemaitre. Có vài anh bạn đồng tù kìm nén được, chỉ cười thầm nhưng nhiều anh bạn lảng ra xa đã bật lên những tràng cười khanh khách khiến tên cán bộ đỏ mặt biết mình có lẽ đã hố to vì câu chuyện này. Anh ta chạy vào dãy nhà có tiếng cười và quát lên « Cười gì mà cười ? Nụ cười các anh là nụ cười của kẻ bán nuớc phản động » Chúng tôi im lặng ngay khi nghe những lời chưởi mắng mà anh ta đã thuộc lòng nhằm đánh trống lảng và chữa thẹn rồi đỏ bừng mặt, anh ta quày quả trở về khu vực cán bộ quản giáo ở. Người cán bộ đi rồi, lúc đó chúng tôi được dịp cười một bữa thoả thích như quên hết mọi chuyện phiền muộn trong đời tù. Tôi không muốn suy diễn tất cả cán bộ quản giáo đều cùng trình độ học vấn thấp kém như anh này, tuy nhiên chắc chắn họ hơn thua không xa nhau lắm về kiến thức tổng quát. Đa số họ có lẽ đều học thuộc cùng một bài nên nói cũng không khác gì nhau. Họ nói ba hoa những chuyện đại loại nghe rất ngớ ngẩn như sau. Có vài cán bộ huyênh hoang là thằng Nhật muốn mua khói nhà máy của ta ở Hà Nội để làm bom nguyên tử nhưng ta chưa đồng ý vì chúng trả giá thấp quá ? ! Hoặc dầu hoả Trung Đông có thấm thía gì so với dầu hoả của ta. Biển Đông nước ta là cái rốn dầu hoả của thế giới, mọi dầu hoả khắp nơi đều chảy vào chổ trũng là biển VN. ta. Họ nói chuyện ra vẻ cả quyết chứ chẳng tỏ vẻ ngờ vực gì như thể « chân lý đó không bao giờ thay đổi » vậy. Có lẽ họ học thuộc lời từ miệng của một quan chức nào đó phát biểu kiểu đại ngôn rồi có dịp tự mình lặp lại để khoe khoang với người khác là mình giỏi, hiểu biết nhiều. Thế thôi. Chẳng cần mất công suy luận sự việc đó đúng hay sai gì cả !

Nói cho ngay, viên sĩ quan cấp tá kiêm cán bộ Trưởng Trại cũng không hơn nhiều lắm. Khi đọc họ tên tù cải tạo có số quân bắt đầu bằng 54/1 ... ông ta liền lên giọng mỉa mai kết án là những anh này có nhiều nợ máu với nhân dân lắm đây vì đã di cư vào Nam năm 1954 ! Con số đó chỉ là năm sinh cộng với 20 để thành số quân mà thôi, chẳng hạn ai sinh năm 1934 thì số quân là 34+20 = 54/ 123 ...

Như vậy, VC cũng chẳng biết gì nhiều về đối thủ của họ nhưng họ luôn luôn chơi đòn tâm lý là cách mạng biết hết và biết rõ những tội ác « đất không dung trời không tha » của nguỵ quân các anh, do đó các anh phải thành khẩn khai báo lý lịch để được cách mạng khoan hồng cho về sớm !

Thật ra, cách thảo luận những bài học chính trị mà Ban Quản giáo áp đặt mọi người phải tham gia ý kiến là một kiểu tuyên truyền “nhồi sọ”. Anh tù nào cũng phát biểu một luận điệu giống nhau, trong một khuôn mẫu lý luận đã vạch sẵn. Sự lặp đi lặp lại nhiều lần qua nhiều người khiến cho ai cũng có thể thuộc lòng hay nói như cán bộ là quán triệt cả bài học rồi. Dù bất đồng ý thế nào đi nữa, ai cũng giả vờ đóng kịch thông hiểu hết vì sợ không những ảnh hưởng đến cá nhân mình mà còn sợ liên luỵ đến thân nhân ở ngoài nữa. Cán bộ quản giáo thường vừa đe vừa vuốt là các anh cố học tập cho tốt để gột bỏ mọi tàn dư phản động và nhờ đó cách mạng cũng sẽ quan tâm giúp đỡ gia đình vợ con các anh phấn đấu xây dựng cuộc đời mới !

Đến đây, tôi cũng xin được viết vài giòng về tình trạng « ăng ten » mà đôi ba quyển hồi ký tù cải tạo có nói đến. Theo tôi, đúng cũng có mà sai cũng không thiếu. Do đó, một số người đã không may biến thành nạn nhân của sự nghi ngờ làm « ăng ten » này sau khi ra khỏi trại. Phải chăng cái miệng làm hại cái thân hay chỉ là đòn « ân oán giang hồ » mà anh em lâm nạn chơi nhau sát ván ? Trong Đội tôi cũng có tin đồn « ăng ten » là một giáo sư đại học. Ai tin nổi không ? Thế mà cũng có người tin mới lạ, tin đến nổi anh em còn đặt biệt danh cho ông ta là tiến sĩ Mách (chơi chữ Maths, thực ra nghành của ông là động lực học và thuỷ lợi). Của đáng tội, vị giáo sư này làm Đội trưởng đội tôi nhưng chẳng ai biết tại sao những « bí mật đời tư » trong đội đều bị cán bộ quản giáo phụ trách “nắm” hết. Chẳng ai biết nên anh em nghi ngờ lẫn nhau và cuối cùng nghi cho đội trưởng. Thật là « oan Thị Kính » ! Sau này, có một hồi ký mà tác giả tôi quên tên đã nghi nhà thơ quân đội PLGĐ làm « ăng ten » trong trại Long Giao, tôi bán tín bán nghi tự hỏi chẳng lẽ hồi còn ở trại Trảng Lớn PLGĐ giữ chức Đội phó Sinh Hoạt đã làm « ăng ten » chăng ? Đội phó Học Tập là giáo sư VTH thì nhất định không rồi, vì ông là người rất có tư cách của một vị giáo sư đại học Sài Gòn. Phần nhiều anh em tù cải tạo bị nghi ngờ làm « ăng ten » là chức sắc của đội, tổ ... hàng ngày phải lên tiểu đoàn báo cáo với cán bộ quản giáo, chứ còn những tù cải tạo khác làm gì có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với cán bộ để bị nghi oan. Trừ ra trường hợp người nào tự hào có bà con cách mạng và có hành vi tiếp xúc mờ ám với vệ binh hoặc cán bộ thì bị nghi làm « ăng ten » quả là không oan ức lắm !

Phải thành thực mà thừa nhận những người CSVN. tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của cấp trên, dù họ biết ngày nào tù nhân cải tạo được lệnh chuyển trại, họ hoàn toàn không tiết lộ ra cho ai biết cả. Ngay việc kiểm soát đồ đạc của tù nhân cũng xảy ra « đột xuất » không biết đâu mà đỡ. Lâu lâu, họ bắt người tù phơi bày tất cả mọi đồ tuế nhuyễn, của riêng tây để họ xem xét từng cái. Mọi người có dịp ra ngồi giữa trời phơi nắng cả buổi và lo chẳng biết mình có bị kiểm điểm vì vi phạm quy định gì không. Nếu có sẽ khó mà về sớm được vì học tập ... chưa tốt ! Tuy nhiên, tù cải tạo lo nhất là lần biên chế đầu tiên sau khi học xong mấy bài chính trị. Ai đi và ai ở lại ? Lúc đó, tù cải tạo đã được phân loại nghĩa là có nợ máu nhiều hay ít. Lần đầu thì biên chế đi Phú Quốc. Lần khác thì biên chế đi Katum, đi Long Giao ... Nhờ những lần biên chế này, tôi mới biết được bác sĩ đàn anh LTL qua nha sĩ VTD (anh của bác sĩ đàn em VDS) và bác sĩ cùng khoá PTT đều ở chung một tiểu đoàn L1T2. Đa số người đi các đợt biên chế trước đều “nặng tội” cả như chiến tranh chính trị, phi công, pháo binh, thiết giáp ... còn lại là các sĩ quan chuyên môn khoa học kỹ thuật đi đợt cuối cùng về Trảng Táo thuộc tỉnh Long Khánh.

Chính ở nơi này mà tôi đã thấy thoáng qua đủ mặt « quần hùng », cùng trường có, cùng lớp có, đang lang thang lúc thì đi lao động như cắt tranh, vác gỗ, gánh củi ... lúc thì đi tìm chổ tắm giặt ở một lạch nước cạnh rừng, không xa ga xe lửa Trảng Táo bao nhiêu. Ga Trảng Táo trông thảm hại quá sức, nhỏ nhoi đến tội nghiệp, chỉ có trơ vơ một cái nhà xơ xác cho trưởng ga và dăm ba cái chòi tranh lụp xụp và trống trải. Cũng tại ga này mà những nàng « thương phu trích lệ » tự mình diễn xuất rất đạt trong vai những bà bán hàng rong để mong được trực tiếp nhìn thấy chồng cho thoả lòng nhớ thương sau bao ngày tháng. Bà thì bưng thúng khoai, bà thì đội rổ trứng ... ngồi chờ đợi rải rác quanh ga Trảng Táo. Cũng có bà ra đó báo tin cho chồng biết là con cái họ đã vượt biển thành công, cứ chịu khó mà an tâm học tập, về được rồi sẽ tính sau.

Thời kỳ đi lao động cải tạo ở đây là thoải mái nhất nhưng cũng nặng nhọc nhất. Thoải mái vì được tha hồ hít không khí núi rừng, được nhìn ngắm những cánh hoa dại trong sương sớm, đẹp một cách tinh khiết hay nhìn thấy cả một khu rừng cây bằng lăng nở đầy hoa tím mà chợt nhớ bài thơ « Màu tím hoa sim » thời danh của Hữu Loan, dù hai màu tím đó đậm nhạt khác hẳn nhau, bên thì nhẹ nhàng, bên thì đậm đà, tươi tắn. Tuy nhiên, ai cũng cảm thấy mệt mỏi so với thời ở Trảng Lớn. Mỗi sáng sớm, tù nhân cải tạo đi rừng như là đi hành quân, nai nịt gọn gàng nhưng nói phải tội trông như một đám thổ phỉ vì áo quần thì vá chùng vá đụp, đầu đội những chiếc nón tự chế không giống ai, người thì cầm rựa, anh cầm dao mác ... lũ lượt từng đoàn tiến vào ... mặt trận nằm sâu trong rừng. Một tổ 4 hay 6 người cùng nhau đốn tre, đốn cây hay đốn củi. Đúng là « khó nhất đốn tre, khó nhì ve gái ». Cũng may có anh từng trải qua việc này nên đạt chỉ tiêu lao động không mấy khó. Vác ba cây tre dài dưới 10 thước thì đi phom phom một đoạn ngắn nhưng đi cả 10 cây số ra khỏi rừng là muốn đứt hơi, nói không ra tiếng, phải nằm há miệng mà thở chứ không thể ngồi hay đứng được vì cái lưng như muốn gảy rời ra từng khúc. Sau giai đoạn làm chổ trú ngụ cho chính mình ngay trên mảnh đất có những cái gọi là nhà tranh trông xiêu vẹo và bệ rạc bị đồng bào đi kinh tế mới vất bỏ trước đó, người tù cải tạo được lệnh phải dựng một hội trường để làm nơi học tập chung cho cả tiểu đoàn. Hội trường này được phân công cho kiến trúc sư DPL phụ trách. Mọi người phải đi sâu hơn vào rừng mới kiếm được hàng chục cây làm cột nhà vừa cao vừa to đến nỗi 4, 5 người mới khiêng nổi một cột. Tuy nhiên, cũng nhờ công trình này, một nhóm trong đó có tôi may mắn được làm một chuyến ... « về trần » như Từ Thức. Đó là được phép ra thị trấn Long Khánh để mua thêm vật liệu xây dựng hội trường. Chúng tôi đi LK bằng xe đò chạy bằng than. Nhiều cô đi buôn hàng, dù cũng biết chúng tôi là tù cải tạo nhưng họ rất có thiện cảm với chúng tôi nên đã dám buông lời nửa như tán tỉnh nửa như chọc ghẹo rồi cười giòn giã vang cả xe. Chúng tôi chỉ biết cười trừ giả vờ thoái thác khi có cô dám bày tỏ cảm tưởng là nhớ tiếc chế độ cũ và thương mến các quân nhân ngày xưa mặc quân phục oai hùng hơn bộ đội bây giờ rất nhiều. Họ ăn nói không dè dặt gì cả làm chúng tôi đâm ra chột dạ nhưng cũng chỉ đồng ý một cách âm thầm và kín đáo mà thôi ! Đến nơi, chúng tôi hẹn nhau cố gắng đạt chỉ tiêu làm sớm, nghỉ sớm để vào quán cà phê tìm lại hương vị của ngày xưa. Chẳng biết chúng tôi thả hồn đê mê vào « những ngày xưa thân ái » quá lâu hay sao mà cán bộ tiểu đoàn tìm không ra chúng tôi đã về trước, bắt anh kiến trúc sư ở lại tìm cho ra chúng tôi để hộ tống về sau. Báo hại, chúng tôi gồm 3 người (tổ tam tam ?) phải ngồi viết bản tự kiểm rồi mỗi người đọc lên để phê bình, thảo luận mất mấy ngày về cái tội đã « quan hệ linh tinh » với những thành phần không rõ ràng ngoài xã hội ! Thật là « đi thì vui, về thì xui » quá cỡ thợ mộc. Lại lo không được thả sớm thì thật chán mớ đời ?

Một chuyện khó quên xảy ra ở ga Trảng Táo, nơi mà hầu như ngày Chủ Nhật nào anh em tù cũng la cà ngoài đó. Lý do là được phép đi lại tắm giặt hay mua đồ ăn trong những ngày được nghỉ lao động. Nhưng thường là có nhiều lý do hơn cái « chính nghĩa » đó. Ra ga để nghe giọng nói, để nhìn thiên hạ ngoài đời xuôi ngược trên những chiếc tàu hoả cũ kỹ quen thuộc. Ra ga để tìm một ánh mắt, một nụ cười thân thương của ai đó mà cứ tưỏng biết đâu có thể là của mẹ, của em, của người tình ... Chỉ tưởng tượng thế thôi cũng đủ ấm lòng cho cuộc đời tù tội ! Chính những lần ra chơi thơ thẩn ngoài ga như vậy mà tôi cùng một anh bạn sung sướng đến rơi nước mắt khi được chứng kiến những gì đồng bào hành khách đi tàu đã làm. Hôm đó, chúng tôi mua nải chuối về vừa qua khỏi đường rầy vài thước thì đoàn tàu đi ngang và từ trên tàu ào ào vất xuống đủ thứ, nào mít xoài chín, nào bánh kẹo ... và không ngờ có cả tiền nữa chứ ! Nhiều anh em xúm nhau lượm, tôi và anh bạn vớ được mỗi người năm chục đồng bay tới chổ chúng tôi đứng (thời đó 50 $ mới = 500$ cũ). Có anh còn kể đồng bào nhiều lần thả gà vịt đã cột chân, có duy nhất một lần thả nguyên một con heo mọi trong rọ xuống và anh em mang về trại mở tiệc ăn mừng. Hôm đó, chúng tôi tản bộ về mà trong tâm trí vẫn còn như thấy hình ảnh những nụ cười và những bàn tay vung vẩy dễ thương của đồng bào đi xe lửa !

Nếu ra ngoài ga, người tù cải tạo không cảm thấy mình bị xã hội bên ngoài bỏ rơi thì đi rừng, họ lại học được khá nhiều kinh nghiệm chưa từng bao giờ trải qua. Đi rừng thì đáng ngại nhất là đi lạc. Để tránh lạc đường, mỗi lần đi rừng các nhóm phải xác định một điểm xuất phát được làm dấu bằng mũi dao trên thân cây và các lối đi từ điểm xuất phát cũng phải làm dấu như vậy. Rừng thưa cũng dễ làm lạc đường rồi, huống hồ rừng dày đặc đủ loại cây cối che khuất ánh mặt trời thì làm người ta đi lạc dễ như chơi. Lâu lâu, chúng tôi phải hú lên để dễ nhận ra phương hướng của nhau. Còn điều đáng sợ nhất là gặp thú dữ, tuy nhiên cũng may chưa ai gặp, riêng tôi một lần không phải vắt giò lên cổ chạy trốn thú dữ mà là con ong, con vật nhỏ bé nhưng có vũ khí lợi hại là nọc độc. Lúc đó, vì phải lo chặt những cây thấp làm củi cho đủ chỉ tiêu, tôi xăm xăm phạt ngang gốc cây mà trên đó có tổ ong, thế là cả đàn ong bay tứ tung rồi xúm vào chích tôi đau nhói cả người. Anh bạn đi cùng kêu to lên mày bỏ mũ lại mà chạy, nghe xong tôi tức tốc làm theo lời anh mới đánh lừa được bầy ong và thoát được. Tối về, tôi chỉ đau ê ẩm chứ không nặng lắm, có lẽ vì liều thuốc độc chưa đủ đô, nếu nhiều con cùng « hợp đồng tác chiến » thì tôi chắc đã sưng vù cả người lên rồi chứ nhỉ ? Điều kinh hoàng nhất nữa là gặp cháy rừng. Lửa cháy nhanh không thể tưởng tượng được, bốn bề bừng bừng lửa nóng đỏ chẳng biết đâu mà chạy. Cả tiểu đoàn nhốn nháo cả lên chen lẫn tiếng hò hét ra lệnh và tiếng phụ hoạ ỏm tỏi. Nhóm thì chạy đi vác tôn ra đè chung quanh chổ cháy. Nhóm khác thì tất bật ùa vào chặt hết cây cối ở chổ lửa chưa cháy. Nếu không kịp thời chữa cháy thì khu nhà tranh nằm cạnh rừng của đám tù cải tạo chúng tôi đã tan thành tro bụi. Thật là một phen kinh hồn bạt vía. Sở dĩ có cháy rừng là vì sau mỗi lần phát quang một khu vực nào đó thì lá rừng, cành khô, gỗ vụn ... được un lại thành nhiều đống rồi đốt để làm tốt đất mà trồng bắp, trồng sắn (khoai mì) ... Đốt không cẩn thận là tàn bay theo gió nóng phát lửa táp nguyên cả một khu rừng trong khoảng khắc. Tuy nhiên, trong hoạ có phúc như chuyện « Tái Ông thất mã ». Cháy rừng thui luôn những con vật chạy không kịp nên hôm đó, tiểu đoàn thu được 1 số “chiến lợi phẩm” ngoài kế hoạch. Đó là những con kỳ đà, rùa ... mà thịt thì ăn ngon không thua thịt gà bao nhiêu. Đôi khi cũng có con mển, con hoẳng là những con vật còn có thịt chứ còn những con vật nhỏ khác như thỏ, sóc, chồn ... đã cháy là thành than luôn, ăn gì được ! Nhân nhắc đến thịt rừng, tôi lại phải nói tới một lần cán bộ tiểu đoàn đi săn được một con bò rừng béo tốt, ít ra trên mấy trăm ký. Thế là chúng tôi được ăn theo một bữa thật thịnh soạn. Công đầu thuộc về một anh dược sĩ có tài đầu bếp vào hạng cao thủ. Anh chế biến tài tình làm sao mà chúng tôi ăn được thịt bò đủ 7 món ngay trong trại cải tạo. Ngon ơi là ngon ! Thịt bò 7 món nổi tiếng ở Sài Gòn ngày xưa chưa chắc đã ngon hơn. Nói thế chứ ngon ở đây cũng là do yếu tố tâm lý. Đói quá ăn gì chẳng ngon nhưng nên thành thực mà thừa nhận anh làm đủ món khi thiếu gia vị cũng là tay thượng thừa rồi vậy !

Thiên nhiên nói chung hay rừng nói riêng còn dạy cho người luôn cả sự hiểu biết. Đời tôi chưa hề biết con vắt là con gì nên khi gặp con vắt, mình cảm thấy chúng nó đáng sợ thật. Chúng cổ ó biệt tài đánh hơi người ở đâu là chúng sấn sổ chạy tới. Có khi cả một bầy đang nhắm hướng mình mà cắm đầu cắm cổ bò đến trên lối đi. Nhìn từ xa, mình cứ tưởng bò chậm như thế còn lâu chúng mới đến mình nhưng thoắt một cái chúng lọt vào người mình khi nào không hay. Đang nhỏ như con giòi, nó vọt lên bằng con đĩa căng tròn vì hút máu người. Vào rừng mà gặp vắt thì dù bó chặt quần áo, đeo găng tay, vớ chân kín đáo cách gì cũng bị vắt chui vào hút máu. Nhiều con vắt cùng ùa vào hút máu ... nhân dân lao động ốm đói thì « từ chết đến bị thương », thế là mạnh ai nấy chạy. Chịu gì thấu hàng hàng lớp lớp bọn ... khát máu này ! Phải tìm khu rừng khác, ai mà dám “đội trời chung” với kẻ thù quái quỷ như thế ? Trong khi con vắt hút máu người từ bên ngoài thì con muỗi lại truyền ký sinh trùng tàn phá máu âm thầm ở trong cơ thể con người nên lại càng nguy hiểm hơn. Một số anh em khi bị chỉ định đi Suối Kiết (Long Khánh) lấy lá dừa cạn về lợp mái nhà thay tranh đã chẳng may bỏ mạng vì bệnh sốt rét Từ lâu, Suối Kiết đã khét tiếng là nơi bệnh sốt rét hoành hành, theo lời của cán bộ thời ẩn núp trong rừng cũng như anh em tù cải tạo từng hành quân ở đây : Ai đi Suối Kiết thì nguy, muỗi mà chích tất sẽ đi luôn đời !

Học tập cải tạo chỉ qua hai nơi thôi mà một số anh em đã vĩnh viễn nằm xuống, còn nhiều trại rải rác khắp cả nước sau 1975 chẳng rõ tổng số có bao nhiêu con người đã mãi mãi một đi không trở về với gia đình, với những người vợ mòn mỏi trông chồng, với những bà mẹ quặn lòng nhớ con, với hằng hà sa số những đứa bé đã biết hay chưa hề biết mặt cha nhưng vẫn ngày đêm mong cha chúng được trở về đoàn tụ gia đình.

Khi kể vài mẫu chuyện vui buồn trên, tôi thật lòng chỉ muốn nói đến chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn nhưng thực tế, tôi đã bất lực không thể làm được. Phải chăng những sự đau khổ của con người bi đát quá đến nổi vượt lên và lấn át cả ý định ban đầu của mình ? Trong những giòng cuối này, tôi xin kể thêm vào một chuyện thương tâm trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn câu chuyện của người tù cải tạo vô danh. Đó là câu chuyện thắt cổ, trên cây cổ thụ trước sân tiểu đoàn, của một anh Trung Uý Không Quân trẻ tuổi và khôi ngô tuấn tú khi hạn kỳ thả tù đang được lên danh sách mà chính anh là người được tiểu đoàn cho tham gia viết họ tên người tù nào sắp được thả về. Đến bây giờ, tôi vẫn còn bàng hoàng và thương tiếc cho anh, người chung tiểu đoàn với tôi. Lẽ ra, anh không nên chết trẻ một cách oan uổng như thế. Anh chưa được về đợt đầu thì các đợt kế tiếp cũng có tên anh thôi khi chúng ta đang ở những tháng cuối cùng trong trại Trảng Táo. Lúc đó, tất cả anh em tù cải tạo đều xúc động và nghĩ rằng ai muốn tự tử thì đã thực hiện vào giai đoạn đầu mới vào trại là hợp lý nhất (?) chứ còn anh thì chẳng ai hiểu được. Tôi cũng không hiểu do nguyên nhân nào vào giờ chót anh đã tự tìm đến tử thần vội vã như vậy, bằng cách thắt cổ, trước khi tôi được thả về 2 tuần sau đó. Anh đã mang theo tất cả bí mật xuống đáy huyệt. Dù không hiểu gì đi nữa, tôi cũng bắt buộc phải viết ra những lời tiếc thương anh, người tù cải tạo đoản mệnh !

Phạm Đình, C/N 2011/02

HOÀNG HUẾ * MỘT ĐỀ ÁN ĐẠI HỘI VĂN NGHỆ

 
Một bản đề án về Đại hội Văn nghệ lần thứ hai


Dù tất cả những gì đáng tiếc đã xảy ra, hôm nay, tôi vẫn muốn mở đầu bản đề án của tôi bằng lời chân thành cảm tạ Đảng. Câu sau đây nhắc nhở tưởng cũng không thừa: chỉ có chế độ ta, chế độ do những người cộng sản lãnh đạo, chế độ ấy, và con người trong chế độ ấy mới có thể thẳng thắn nói lên những sai lầm của bản thân mình. Đúng như vậy. Hôm nay, nếu chúng ta nói được tất cả những băn khoăn, nếu chúng ta viết được những trang sách chiến đấu, chính vì Đảng đã dạy chúng ta, Đảng yêu cầu và cho phép chúng ta được nói được viết.



Và nếu hôm nay, tôi can đảm thảo bản đề án này, chính vì tôi biết Đảng sẽ tôn trọng sự suy nghĩ, cũng như tôn trọng những đề nghị chân thành của chúng ta.



Điều này chắc chắn không ai có thể chối cãi: Đảng ta, từ lúc mới khai sinh trong một khu rừng xanh, cho tới nay, lúc nào Đảng cũng dựa trên lý luận Mác-Lênin mà lãnh đạo nghệ thuật.



Nhưng nếu mười năm qua, nền văn nghệ Việt Nam đã mang nhiều sai lầm nghiêm trọng, chính vì Đảng chưa có một chính sách thật rõ ràng, thật cụ thể đối với văn nghệ sĩ.



Bây giờ, cũng như Đảng Trung Quốc vừa công bố chính sách “trăm hoa đua nở” làm nở ra những bông hoa mới, chúng ta nghĩ rằng: đã đến lúc Đảng ta cũng cần tuyên bố dứt khoát chính sách như thế. Đó là yêu cầu tha thiết của tất cả những người viết văn, làm thơ, đóng kịch, hội hoạ và soạn nhạc. Đó cũng là yêu cầu tha thiết của quần chúng muốn thưởng thức những tác phẩm hay.



Trong văn kiện ấy, chúng ta mong rằng Đảng sẽ có thái độ đối với một số người hẹp hòi, thủ phạm của bao nhiêu sai lầm nghệ thuật. Đảng sẽ xét lại vấn đề Trần Dần và cuốn Giai phẩm, mà theo ý một số đông anh em tuy có ít nhiều khuyết điểm, nhưng cũng có công mở ra một hướng đi mới cho văn nghệ chúng ta. Giải quyết được vấn đề trên, tức là giải quyết được tất cả quan niệm nghệ thuật rộng rãi này.



Cũng trong văn kiện ấy, chúng ta mong rằng Đảng sẽ tuyên bố dứt khoát sứ mệnh của người văn nghệ sĩ trước cuộc sống, và định rõ vị trí người văn nghệ sĩ trong xã hội.



Chắc chắn, tiếng nói chân thành và đanh thép của Đảng sẽ mở ra cho nghệ thuật Việt Nam những chân trời mới.



Muốn cho văn nghệ sĩ hăm hở đi vào chân trời mới kia, thiết tưởng điều kiện vật chất không phải không quan trọng.



Từ trước tới nay, đời sống vật chất của một số lớn người công tác nghệ thuật như thế nào?



Ai cũng biết rằng đời sống của chúng ta thiếu thốn quá. Đấy là sự thực buồn bã vẫn hàng ngày đập vào mắt chúng ta, làm những kẻ đơn giản nhất cũng phải ít nhiều suy nghĩ.



Chúng ta không thắc mắc gì về cảnh sống chật vật trong kháng chiến. Bấy giờ, dù trèo rừng xanh, ăn mỗi ngày một miếng cơm cháy, người nào cũng vui lòng vì nghĩ rằng: trước mắt chúng ta, chỉ có hai chữ tự do hay nô lệ. Nhưng trở về Hà Nội, giữa những phố xá đầy lụa, tủ kính và ánh đèn xanh đỏ, có lẽ chưa bao giờ người nghệ sĩ cảm thấy cay đắng như lúc này.



Cần nói thẳng rằng ở một toà soạn báo văn nghệ, trong số tám biên tập viên có vợ, thì sáu người vợ đã thất nghiệp hay bán thất nghiệp.



Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng viết những bài thơ, cũng đã bao nhiêu lần biến thành lá đơn xin việc. Nhưng những lá đơn ấy gửi đi, để rồi im lặng không nghe một tiếng trả lời.



Sự thực đã có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà-phê để uống. Đã có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá hút trong cơn nghiện. Và đã có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của mình để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng sách in ra không đủ để chuộc lại đồng hồ.



Hữu Loan có thể nói cho chúng ta biết tình cảnh của anh hai năm nuôi vợ nuôi con đã chất đầy nợ trên vai gầy của người thi sĩ. Nằm trong bóng tối căn nhà nhỏ ngoại ô Hà Nội, khi không còn tiếng vợ kêu và trẻ con khóc, Hữu Loan chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu thức viết.



Văn Ký cũng có thể nói cho chúng ta biết tình cảnh của anh. Buổi sớm mai củ khoai luộc không có cho con ăn. Nghe tiếng con khóc mà đứt ruột.



Khoai không thể mua cho con, nói gì đến ước mơ có những con búp bê mang giá hai vạn đồng ở cửa hàng mậu dịch. Có một nhà văn, đau xót quá, viết vào nhật ký thế này: “Ừ nhỉ, người ta bày những con búp bê tóc vàng ấy trong ngăn tủ để làm gì? Tại sao người ta cứ muốn phô ra trước mắt những người cha một sự mỉa mai nhức nhói?”.



Nước ta còn nghèo, ai cũng biết đó là tình trạng chung. Lúc này, chính phủ và nhân dân ta đương cố thắt lưng buộc bụng để xây dựng lại một đất nước đầy vết thương. Nhưng, tiếng súng đã im từ hai năm rồi. Chúng ta không đòi hỏi gì hơn một điều kiện vật chất tương đối, để có thể thảnh thơi tâm hồn mà sống mà viết. Cần phải chú trọng tới điều này, nếu muốn nghệ thuật của nước nhà tiến mạnh.



Tôi muốn nói đến vấn đề phụ cấp.



Từ xưa tới nay, ai cũng biết rằng tất cả văn nghệ sĩ trên thế giới đều sống bằng tác phẩm của mình. Chưa bao giờ và chưa có nước nào, người nghệ sĩ, để làm nghệ thuật, lại sống bằng lương của Bộ Tài chính. Tình trạng đó thật không hợp lý, nhưng biết làm thế nào? Đại đa số nhân dân ta vừa bước ra khỏi bóng tối, hôm nay mới bắt đầu cầm sách. Đồng ruộng cũng mới thoát khỏi tay hòm chìa khoá của giai cấp địa chủ. Nạn thất nghiệp ở thành phố không phải đã tan hết. Thật vậy, trong hoàn cảnh ấy, người nghệ sĩ chưa thể sống bằng bản quyền của mình. Rõ ràng cần có một cái gọi là “phụ cấp văn nghệ”. Chúng ta mong rằng Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu loại phụ cấp ấy cho thật thích đáng. Một phụ cấp thế nào để không thể có một nhà văn nào chết vì ho lao. Và nhất là nghiên cứu thế nào, để trong hoàn cảnh hiện nay, văn nghệ sĩ phải trả lại một phần nhỏ bằng tiền bản quyền của mình.



Chúng ta còn mong chính phủ sẽ ban bố một đạo luật về tự do xuất bản, giúp đỡ về giấy má và việc phát hành của các nhà xuất bản và các báo văn nghệ tư nhân. Điều này có tầm quan trọng đặc biệt của nó. Giải quyết được, tức là bảo đảm được phần nào đời sống vật chất của nhà văn, khuyến khích một cách thiết thực việc trăm hoa đua nở.



Đồng thời, chúng ta cũng đề nghị chính phủ ban bố một sắc lệnh về bản quyền tác giả. Vì thực tế ở nước ta, một số ít nhà xuất bản vẫn còn giữ quan niệm ban ơn cho văn nghệ sĩ. Những người này cho rằng tác giả chỉ ước mơ được in tên mình lên bìa sách, còn bản quyền nhiều hay ít không thành vấn đề.



Và để bảo đảm sắc lệnh được thi hành trọn vẹn, thiết tưởng tổ chức cao nhất của phong trào văn nghệ sau này cần thành lập một ban “bảo đảm quyền tác giả”. Nếu ở Liên Xô, “Hội bản quyền tác giả” đấu tranh cho cả quyền lợi những nhà văn đã mục xương từ bao nhiêu thế kỷ, và can thiệp bất cứ vụ vi phạm nào đối với các tác giả đã chết, thì tại sao ở Việt Nam, những người đang sống, đang viết, đang ăn và đang mặc lại không có một ban nào để bảo đảm cho cơm và áo của mình?



Hai điều kiện vật chất và tinh thần trên đã đầy đủ đối với sự sáng tạo của người nghệ sĩ chưa?



Thật ra, đó mới là hai yếu tố đầu tiên. Điều căn bản quyết định vấn đề này, chính là tổ chức sống và viết.



Không có một tổ chức hoàn bị, thì chưa thể có nhiều tác phẩm hay. Không có tổ chức, người nghệ sĩ sẽ lạc lõng giữa cuộc đời không hơn một cái bóng.



Hiện nay, ai cũng phải nhận rằng nghệ thuật của chúng ta đã lớn vượt lên. Nếu những người thanh niên phải bỏ cái áo thiếu nhi để may áo người lớn, thì tổ chức Hội Văn nghệ hôm nay cũng đã đến lúc cần phá vỡ.



Hơn lúc nào hết, yêu cầu trước mắt của chúng ta là: phải thành lập những tổ chức mới, những Hội Nhà văn, Hội Nhạc sĩ, Hội Hoạ sĩ và Hội Sân khấu.



Ngay cả Ban Chấp hành cũ, cũng đã đến lúc không thể tồn tại. Ban Chấp hành ấy do Đại hội Văn nghệ lần thứ nhất bầu ra, tới nay cần thành thật nói rằng nhiều người đã mất hết tín nhiệm của anh chị em. Ban Chấp hành ấy đã đóng hết vai trò lịch sử của mình rồi, hiện nay nói chung chỉ còn đại diện cho một tập đoàn quan niệm hẹp hòi cũ kỹ đang tan rã. Đại hội lần thứ hai của chúng ta cần kéo trúc nó xuống, và ngoài vài người cũ còn được tín nhiệm, phải bầu những người lãnh đạo mới không có tinh thần bè phái và óc bảo thủ, trái lại, có đủ dũng cảm và khả năng lãnh đạo những lực lượng văn nghệ đang vươn lên.



Tôi nghĩ rằng việc thành lập các hội, định danh sách hội viên, nhất định cũng không thể do một số người nào quyết đoán, nhất là không thể do Ban Chấp hành cũ của Hội Văn nghệ quyết đoán. Hôm nay, có thể nói rằng họ không còn đại diện cho nguyện vọng của văn nghệ sĩ, ý kiến của họ chỉ là những ý kiến cá nhân mà phần lớn đã mang vết mốc. Các hội nghệ thuật là hội quần chúng, dứt khoát phải do quần chúng quyết định.



Trên nguyên tắc đó, việc tổ chức các hội phải làm theo ý kiến của đại đa số văn nghệ sĩ. Nó phải dân chủ và tập thể đến triệt để.



Theo ý tôi, muốn tiến hành, tôi đề nghị làm theo “kế hoạch bốn bước”.



Trước hết cần triệu tập hội nghị của từng ngành văn thơ, nhạc, hoạ, kịch ngay trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai. Mỗi ngành như thế sẽ góp ý kiến tổ chức hội của mình như thế nào? Họ sẽ định rõ tiêu chuẩn hội viên. Họ sẽ thảo luận về quyền lợi tinh thần và vật chất cụ thể của hội. Họ sẽ bàn bạc thêm nhiều chi tiết khác. Sau đó, họ sẽ bầu ra một ban trù bị thành lập hội, trong ban này nhất định phải có mặt anh em lớp trước và anh em lớp sau. Nhiệm vụ của ban trù bị là: căn cứ trên đề án của tập thể mà nghiên cứu thành lập danh sách hội viên, và thảo các bản tuyên ngôn, tôn chỉ và điều lệ của hội.



Khi sự chuẩn bị này xong xuôi, có lẽ tất cả những người đi họp Đại hội Văn nghệ toàn quốc đã trở về địa phương từ lâu. Bởi vậy, trong bước hai, ban trù bị ấy cần triệu tập một cuộc hội nghị trù bị mở rộng, mời tất cả anh chị em văn nghệ chung quanh Hà Nội và đại biểu những người công tác văn nghệ ở các địa phương, để thảo luận và thông qua danh sách các hội viên.



Và thế là Hội Nhà văn, Hội Nhạc sĩ, Hội Hoạ sĩ và Hội Sân khấu đã thành hình. Bây giờ đến bước thứ ba: triệu tập đại hội của các hội, các hội viên sẽ thông qua các văn kiện hội mình sắp công bố, và bầu lên ban chấp hành của hội.



Nhưng bốn hội riêng như thế, tôi thiết tưởng chưa đủ. Chúng ta còn cần tiến hành bước thứ tư để thành lập một tổ chức cao cấp của văn nghệ, tạm gọi là Hiệp hội Văn nghệ. Ban chấp hành của Hiệp hội này sẽ do các ban chấp hành của các hội bầu ra. Và tổ chức tối cao ấy sẽ có nhiệm vụ nắm vững và lãnh đạo phong trào văn nghệ trong cả nước.



Chắc chắn tất cả “Kế hoạch bốn bước” trên đòi hỏi một thời gian không ngắn. Nhưng có lẽ chúng ta đều đồng ý rằng: việc thành lập các hội nghệ thuật, tuy nhanh và gọn chừng nào hay chừng ấy, nhưng trước tiên cần làm thật tốt. Giải quyết được chu đáo vấn đề tổ chức này, tức là chấm dứt được những trường hợp không hợp lý trước đây, giải quyết được tất cả những băn khoăn, thắc mắc, và cũng quyết định được tất cả cuộc đời nghệ thuật sau này của mỗi văn nghệ sĩ. Bởi vậy, tầm quan trọng của nó thật là rộng lớn, nó đòi hỏi một sự chuẩn bị thật kỹ càng, thật chu đáo và rộng lớn.



Đến đây, tôi muốn nói riêng về Hội Nhà văn. Ắt hẳn mọi người đều cảm thấy đây là một vấn đề đòi hỏi những cuộc tranh luận nẩy lửa. Thật ra, tất cả chúng ta sẵn sàng chờ đón những cuộc tranh luận gay go ấy. Vì có lẽ lúc này, mỗi nhà văn đều đã mang trong óc một bản đề án đanh thép của mình.



Là một người viết văn, tôi cũng có bản đề án của riêng tôi.



Gần đây, một dư luận xôn xao về tiêu chuẩn hội viên nhà văn đang lan rộng trong giới cầm bút. Rất nhiều người nhìn lại cái quá khứ sáng tác của mình, và băn khoăn đánh một dấu hỏi lớn: mình có được gọi là nhà văn hay không?



Tôi nghĩ rằng trong vấn đề này, nhất định văn nghệ sĩ không cần sự ban ơn của vài cấp trên nào. Trước tiên, chúng ta chỉ cần quan niệm về tiêu chuẩn cho thật rộng rãi.



Chắc chắn số hội viên chính thức của Hội Nhà văn không thể nào thu hẹp trong phạm vi một số người nhất định. Nếu Hội Nhà văn Liên Xô có trên bốn ngàn hội viên, thì Hội Nhà văn Việt Nam không thể nào chỉ gồm vẻn vẹn vài mươi cây bút cũ, trong đó thật ra nhiều ngòi bút đã vẹt gần hết. Dựa theo quan niệm khắt khe hẹp hòi trên, nhất định văn nghệ Việt Nam không thể nào có nhiều tác phẩm khá. Sự thực lại chứng tỏ rằng: có rất nhiều tài năng mới đang mọc lên, hoặc đã nở thành hoa, hoặc vừa mới chớm nụ. Trong tình trạng đó, rõ ràng phải mở rộng hội để đón nhận thật nhiều cây bút mới.



Và muốn thế, rõ ràng ban trù bị do anh em bầu lên, khi nhận đơn xin gia nhập hội, cần phải dựa trên nguyên tắc: căn cứ vào sáng tác chứ không căn cứ tuổi tác, và trong sáng tác, căn cứ chủ yếu là chất lượng, chứ không căn cứ nhiều vào số lượng.



Tôi quan niệm rằng: biểu hiện của tài năng mỗi người là ở tác phẩm hay nhất của mình, chứ không phải ở mái đầu bạc hoặc số sách tầm thường đã viết. Một văn sĩ có năm cuốn sách kém, tài năng không thể nào bằng một cây bút trẻ mới viết được một truỵên ngắn hay. Ví dụ bạn trẻ Nguyễn Quang Sáng, anh chỉ mới có một truyện ngắn “Con chim vàng”, nhưng sáng tác nhỏ ấy cũng đủ chứng tỏ khả năng của anh, nếu được những điều kiện bồi dưỡng của hội, có thể trở thành một người viết khá. Nhưng bên cạnh đó, không phải không nên căn cứ ở số lượng tác phẩm hay của mỗi người. Vì có một nhà văn có nhiều sáng tác hay, tất nhiên chứng tỏ tài năng đã bảo đảm hơn một người chỉ mới viết một hai sáng tác tốt.



Với quan niệm ấy, tôi nghĩ rằng trước tiên, hội viên của Hội Nhà văn phải là những người có tài, tài ấy đã phát triển hay đang nẩy mầm, và biểu hiện tài ấy trên nhiều sáng tác hay ít nhất trên một vài sáng tác.



Do đó, hội cũng cần chia làm hai loại: chính thức và dự bị.



Những hội viên chính thức là những cây bút đã lăn lộn với nghệ trong một khoảng thời gian dài hay ngắn, nhưng trước cách mạng hay hiện nay, đã có một số sáng tác nói lên cho cuộc đời biết rằng họ có thể có những tác phẩm khá sau này. Những hội viên này, nếu đang ở các ngành thì phải tập trung về hội, và trừ một số “nhân sĩ” đặc biệt, cần có một phụ cấp ngang nhau để đi vào cuộc sống mà viết. Ngay cả số người gọi là “nhân sĩ”, cũng chỉ nên có một loại phụ cấp không hơn người chưa “nhân sĩ” bao nhiêu.



Còn hội viên dự bị, là những bạn trẻ như Nguyễn Quang Sáng, hiện nay hầu hết đang tản mạn ở khắp các ngành. Không thể để cho tài năng họ vừa chớm lên, sẽ mòn mỏi dần trong những công tác sự vụ. Cần phải sắp xếp lại công tác cho họ, theo kiểu “luân phiên” từng thời gian khá dài. Sau đó, cần phải điều họ về Hội Nhà văn, giúp đỡ bồi dưỡng nghệ thuật cho họ trong một thời gian. Rồi trao cho họ một số phụ cấp ngang với anh em chính thức, và tung họ vào cuộc sống.



Đối với những anh em đã cầm bút nhiều năm hay mới gần đây, nhưng chưa có sáng tác khá, nên giải quyết thế nào?



Tôi đề nghị hai cách: một là dứt khoát không nhận họ vào hội, hai là chỉ nhận một số ít mà xét ra, vì công tác bận bịu hoặc vì bị bó buộc vào những điều kiện nào khác nên chưa thể viết hay.



Cũng trong vấn đề hội viên, tôi yêu cầu đặc biệt chú ý đến những anh chị em hiện công tác ở địa phương.



Tình trạng sau đây không phải là ít: có những tài năng hứa hẹn rất nhiều, hiện nay đang hấp hối trong các tỉnh nhỏ. Những ngòi bút có thể sáng tác nhiều áng văn hiện nay, hiện đang làm những bài tính ở thuế quan, ở mậu dịch, đang viết những tin ngắn năm dòng hoặc thảo những đề án tuyên truyền cho xã. Tôi có thể nói ra đây vài trường hợp. Hà Khang, công tác ở Ty Văn hoá Thanh Hoá, kể rằng tấm thẻ hội viên của anh nhận được từ khi Hội Văn nghệ mới thành lập, tới nay đã bạc màu mà chưa bao giờ có một lời khuyến khích của hội. Xuân Hoàng ở Quảng Bình cũng bị quên lãng, đang âm thầm với những bài ca dao phục vụ buồn bã của mình. Sợi dây liên lạc của trung ương hội với các nhà văn địa phương mỏng manh đến nỗi Vũ Lê, một cây bút trẻ ở Hải Phòng, đã phải thốt lên một câu chua chát: “Tôi chỉ yêu cầu giải tán quách cái Hội Văn nghệ ấy đi!”



Có thể nói rằng những người này có thừa tiêu chuẩn để vào Hội Nhà văn. Đã đến lúc cần phải mời tất cả những anh em ấy về Hà Nội. Sự thực rõ ràng: chỉ có ở trung ương mới làm được nghệ thuật. Chỉ có trung ương mới có thể phụ cấp về tinh thần và vật chất cho những anh em ấy, và tung họ trở về cuộc sống với những điều kiện sáng sủa hơn.



Ngoài ra, chúng ta còn biết rằng tài năng là một cái gì không thể ngờ. Có thể vài ba tháng, hay vài ba năm nữa thôi, từ trong quần chúng sẽ xuất hiện những cây bút mới. Mai đây, sẽ có những người công nhân trở thành thi sĩ, và những người nông dân trở thành nhà văn. Tôi đề nghị bên cạnh hai loại chính thức và dự bị, Hội Nhà văn cần có thêm một bộ phận theo dõi những tài năng sẽ đột ngột mọc lên đó, và sẽ có nhiệm vụ mời họ vào Hội Nhà văn. Bên cạnh đó, bộ phận này còn có nhiệm vụ giúp đỡ tài liệu và ý kiến cho những cây bút chưa đủ tiêu chuẩn để vào hội.



Sau khi đã được nhận làm hội viên, các nhà văn cần được hưởng những quyền lợi gì?



Như tôi đã trình bày, về vật chất, họ cần có một phụ cấp thích đáng và ngang nhau.



Còn về tinh thần, đối với nhà văn, có lẽ không gì sung sướng bằng được đi vào cuộc sống, thu nhận tiếng vang của cuộc sống vào lòng mình để viết lên trang sách. Những phải làm thế nào để sống mà không bù đầu, để sau này vẫn có thể viết được. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nếu người nghệ sĩ đi về địa phương, bị buộc chặt vào một công tác sản xuất hẳn hoi, họ sẽ rất khó sáng tác. Bấy giờ, muốn làm tròn trách nhiệm của mình, ít người mở rộng được tầm mắt để nhận xét chung quanh, Bởi vậy, nhà văn có thể đi một năm, hai năm, nhưng chỉ nên nhận một công tác rất nhẹ và không bận bịu.



Trong thời gian ấy, họ phải được liên lạc thường xuyên với trung ương và được bồi dưỡng luôn về mặt nghệ thuật cũng như tư tưởng. Nếu cắt đứt với trung ương, và lệ thuộc hoàn toàn vào sự lãnh đạo của địa phương hoặc của một số cán bộ không biết gì về nghệ thuật, nhất định nhà văn cũng sẽ trở thành người cận thị.



Đến đây, cần nói thêm Hội Nhà văn nên để hội viên hoàn toàn chọn lấy hướng đi của mình. Tuỳ theo khuynh hướng và ý muốn có người sẽ về đồng ruộng, có người sẽ đến nhà máy, có người sẽ lên rừng, có người sẽ xuống bể, như một trăm người con của bà Âu Cơ xưa. Cũng có thể có người vẫn ở lại phố xá để viết về phố xá. Nghĩa là tất cả sẽ đi, không ai nên ở lại trung ương hội, nếu không bị mắc kẹt vào công tác hội trong một thời gian nhất định.



Sau khi làm những chuyến đi dài như thế, bây giờ vấn đề viết. Theo ý tôi, Hội Nhà văn cần xây dựng vài khu sáng tác ở kề thủ đô. Nước ta còn nghèo, ai cũng biết thế. Nhưng nếu đồng chí Sô-lô-khốp đề nghị với Đảng Liên Xô làm nhà ngói cho gia đình nhà văn ở ngay các địa phương họ cần sống, tại sao Hội Nhà văn Việt Nam không thể làm một số nhà tranh, ở một xóm nhỏ có nhiều hoa đào tại ngoại ô Hà Nội? Ngoại ô chúng ta đi về các rạp chiếu bóng chỉ mất nửa giờ đi xe đạp, ở đó vốn rất yên tĩnh, và trứng gà rẻ lắm! Có thể gọi hẳn nơi đây là một “làng văn” chứ sao! Mỗi người dân trong làng sẽ được chia một phòng riêng, một chiếc giường và một cái bàn. Chỉ cần thế thôi!



Rồi trong sự thực, có thể có những nhà văn chưa cần đi đâu cả, vì ai dám nói cả quyết rằng họ thiếu thực tế! Những người ấy sẽ ngồi bên bàn viết yên tĩnh của mình, trút lên giấy trắng tất cả sự sống chứa chất trong lòng từ mười năm nay. Có thể họ sẽ viết chuyện kháng chiến. Có thể họ viết ngay câu chuyện của mình. Có thể họ viết một tháng, lại đi một tháng để lấy tài liệu. Rồi tất nhiên có những nhà văn, sau một chuyến đi hàng năm trở về, lại ngồi hàng năm để viết. Những căn nhà gianh ngoại ô chính là những nhà hộ sinh không có bà đỡ. Ở đấy, tất cả làng văn sẽ trao đổi về những thai nghén nóng hổi của mình. Và từ nơi đấy, chúng ta hãy tin chắc chắn sẽ xuất hiện những tác phẩm lớn.



Sách đã viết, và nhất định ngày càng nhiều, không lẽ để nằm chết đó. Hội Nhà văn cần thành lập nhà xuất bản riêng của hội, nó phải có quy mô rộng hơn nhà xuất bản Văn nghệ hiện nay.



Cũng trong hoàn cảnh có nhiều sáng tác, tất nhiên nên đóng cửa tờ báo Văn nghệ bây giờ để thay vào hai tạp chí mới. Một tạp chí phê bình lý luận, đối tượng là văn nghệ sĩ và một số cán bộ học sinh.



Bên cạnh đó, cần có tạp chí sáng tác, đối tượng là quần chúng và ngoài một số rất ít người thường trực ra, ban biên tập sẽ là tất cả hội viên sáng tác của Hội Nhà văn.



Với tất cả những hình thức trên mới đáp ứng được những đòi hòi thiết tha của văn nghệ sĩ và của bạn đọc.



Ở đây, có lẽ cũng phải nói tới một tình trạng cần chấm dứt trong trường hợp có những bộ máy kềnh càng như thế.



Hai năm hoà bình, chúng ta đã thấy nhiều nhà văn có tài bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa hoa có tẩm chất độc. Tác phẩm của họ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo. Họ trịnh trọng thắt cà-vạt-đỏ, đi giầy da vàng đọc đít-cua và nhồm nhoàm ăn tiệc. Rồi họ còn xách va-li, bay đó bay đâu trên mây gió.



Đã đến lúc đừng bắt những người đau khổ một cách sung sướng ấy mang tất cả những cà-vạt, giầy da, va-li và ăn tất cả những bữa tiệc. Chúng ta đang cần đến tài năng của họ. Chúng ta yêu cầu họ hãy khoác vào người bộ quần áo vải, đi vào chân đôi dép cao su đen để xuống với quần chúng.



Vì lý do đó, tất cả bộ máy sau này của các ban chấp hành, của nhà xuất bản và tạp chí sáng tác cần được giản đơn hẳn. Và nếu nhà văn không may nào phải ở lại với chức vụ của mình, cần tổ chức luân phiên mỗi nhiệm kỳ là một năm, để họ cũng được hưởng quyền lợi như tất cả những anh em khác.



Hôm nay, ai cũng biết rằng quần chúng đang bỏ xa chúng ta. Con em những người nông dân, công nhân và thị dân đang ngồi chật tất cả những trường học mới. Ít lâu nữa, bao nhiêu lớp chủ nhân trẻ tuổi kia sẽ trùng trùng tiến ra khỏi những trường trung học và đại học.



Không còn nghi ngờ gì nữa.



Hơn bao giờ hết, quần chúng đòi hỏi ở chúng ta một nghệ thuật thật tươi đẹp giàu có. Và hơn bao giờ hết, tất cả văn nghệ sĩ phải cống hiến được cho thời đại những tác phẩm xứng đáng với thời đại.



Các đồng chí! Mỗi chúng ta có lửa cháy trong tim. Chúng ta có lòng chân thành và chí dũng cảm. Nhất định phải tiến thẳng tới tương lai. Đại hội văn nghệ lần thứ hai sẽ mở cho chúng ta những con đường sáng sủa.

Tháng 9-56.
 

Friday, December 20, 2013

TÀI LIỆU TỔNG HỢP * HỐ XÍ HAI NGĂN


Hố xí hai ngăn- 1

Nguyễn Quang Lập


1. Năm 1965 nhà mình sơ tán lên làng Đông, Hợp tác phân cho mấy sào đất cát đầu làng, mấy anh em thi nhau ăn cắp đất cày tôn cái vườn lên cao gần một mét, ba mình lại khéo trồng cây, chỉ một năm sau nhà mình có khu vườn đẹp nhất xóm.


Xóm có bốn nhà. Phía trước là nhà anh Cu Chành, đội phó đội 1. Anh cu Chành oai nhất xóm, có xe đạp Phượng Hoàng, cười có răng vàng, có cái đài Orionton. Chiều chiều anh đạp xe đạp Phượng Hoàng, đeo cái đài to bằng cuốn từ điển Việt – Anh bên hông, ngậm cái tăm, mở to đài, đạp xe đi từ đầu làng đến cuối xóm. Anh đi đến đâu đài kêu oang oang tới đó, con nít rật rật chạy theo xe anh .


Thỉnh thoảng đi họp trên xã trên huyện về, tối anh xách đèn bão ra nhà kho hợp tác nói chuyện thời sự. Anh nói các anh trên trung ương phổ biến thế này thế kia, anh Lê Duẩn có ý kiến chỉ đạo thế này thế kia, anh Võ Nguyên Giáp động viên thế này thế kia, toàn anh không thôi, dân tình lác mắt.



Anh Cu Chành nói mấy anh trên trung ương nói cứ lo chiến đấu đi, đánh thắng Mỹ rồi tha hồ giàu. Chỉ riêng dầu mỏ cũng đủ no. Dầu mỏ nước ta như cái mâm, dầu mỏ đế quốc Mỹ như con ruồi đậu trên cái mâm, Mỹ không nhằm nhò chi với nước mình mô. Bà con vui vẻ nói ua chầu chầu sướng hè sướng hè.

Anh cu Chành nói mấy anh trên trung ương phê phán việc đuổi chim ra khỏi thành phố của nước đồng chí bạn là sai. Cứ xây dựng CNXH thành công, nhà cao cửa rộng, điện đóm giăng đầy, tự khắc chim chóc cút cả, việc chi phải đuổi.




Mấy người hỏi nước mô mà dại rứa hè. Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương dặn cứ nói nước đồng chí bạn, không được lộ ra nước nào. Nhưng tui nói nhỏ, bà con nghe đâu bỏ đó nghe chưa, đó là nước Trung Quốc. Bà con xôn xao nói ua chầu chầu nước đồng chí bạn dại hè, đế quốc Mỹ không đuổi lại đi đuổi chim.


Mọi người phục anh Cu Chành lắm, nói Cu Chành học chưa hết lớp 5 mà chuyện trên trời dưới biển biết cả là nhờ gần trung ương. Có ai biết anh Cu Chành nhờ gần cái đài Orionton.

Chỉ có mệ Hó là không phục. Một hôm anh Cu Chành nói mấy anh trên trung ương căn dặn bà con mình phải đoàn kết. Làm được thì làm, không làm được thì thôi nhưng phải đoàn kết. Anh Cu Chành nói tui nghiên cứu hết sách vở rồi, sở dĩ dân mình hay chửi nhau là vì phong kiến tư bản nó còn rơi rót. Mình muốn mau lên CNXH thì đừng có chửi nhau.


Mệ Hó đứng dậy phủi đít quần phành phạch, nói Cu Chành nói hay rứa răng toàn đi ỉa vứt. Anh Cu Chành trừng mắt nghiêm giọng, nói họp hành không được nói cu, đồng chí Hó phát ngôn bừa bãi. Mệ Hó cười cái hấc, nói mi đi họp răng không bỏ cu ở nhà, mang cu đi thì tau nói cu chơ răng. Anh Cu Chành đập bàn cái rầm, nói yêu cầu đồng chí Hó nói năng cẩn thận, đây không phải cái chợ.



Mệ Hó không sợ nhưng xuống giọng, nói đồng chí Cu Chành nói hay rứa răng toàn đi ỉa vứt. Anh Cu Chành nhăn mặt, nói chuyện ỉa đái không được nói nơi hội nghị, phát ngôn bừa bãi. Mệ Hó tịt, ngồi xuống nói ôi trời, l. trám được chơ tai không biết răng mà trám.


Mệ Hó ở ngay bên phải nhà mình, gọi là mệ chứ chỉ trên năm mươi chút thôi, mông vú còn nẩy lắm. Không thấy chồng con mệ đâu, chỉ thấy mệ ở với đứa cháu gái 11 tuổi, bằng tuổi mình. Mệ ngoa nhất xóm, động bất kì chuyện gì mệ cũng chửi. Mệ tức anh Cu Chành chuyên môn nhảy hàng rào sang ỉa hố xí nhà mệ, ỉa xong không đổ tro, không đậy nắp, bẻ tranh tre quẹt đít, tan cả mái lợp. Chỉ chuyện anh Cu Chành đi ỉa hố xí nhà mệ mà mệ chửi anh quanh năm suốt tháng.


Hồi này có phong trào làm hố xí hai ngăn. Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương nói đây là phát minh khoa học của Việt Nam, Nhật Bản thừa nhận đây là một trong 7 công trình khoa học vĩ đại nhất của thế kỉ 20. Anh Cu Chành nói hố xí hai ngăn là thành quả CNXH. Ngăn này ỉa, ngăn kia ủ phân rất chi là khoa học, vệ sinh cực kì. Bọn tư bản chúng nó ở nhà cao tầng, không làm hố xí hai ngăn, phân chảy ra đường ống trôi ra sông, rồi lại múc nước sông nấu ăn, có tởm không bà con. Bà con nói ua chầu chầu tư bản ngu chi ngu lạ.


Nói thế nhưng anh Cu Chành không làm hố xí hai ngăn, nhà nào cũng làm nhưng anh không làm, toàn xách đít nhảy hàng rào sang nhà mệ Hó ỉa. Anh Cu Chành ngồi trong hố xí, mệ Hó nhảy chồm chồm ở ngoài chửi ầm lên, nói cha tổ Cu Chành, ỉa đâu không ỉa răng ỉa nhà tao! Anh Cu Chành nhóng cổ ra, nói đồng chí Hó để yên cho tôi ỉa xong đã rồi có ý kiến, đừng phát ngôn bừa bãi.


Mệ Hó nén giận, ngồi bó gối trước cửa hố xí chờ anh Cu Chành ỉa xong để chửi. Anh Cu Chành lại nhóng cổ ra, nói đồng chí Hó cho tôi xin mấy que quẹt khu (đít). Mệ Hó laị nhảy chồm chồm chửi, nói vơ làng xóm nời… có ai như thằng Cu Chành không, nó ỉa vất nhà tui còn bắt tui quẹt khu cho hắn đây nời!


Anh Chành lại nhóng cổ ra, nói đồng chí Hó không kiếm que cho tui chùi khu thì tui bẻ tranh tre hố xí đồng chí. Mệ Hó tức uất rú lên nhưng vẫn phải kiếm que cho anh Cu Chành. Mệ dúi que vào cho anh, mắt trợn miệng hét, nói que đây que đây, chùi xong rồi ăn luôn nghe Cu Chành!


Anh Cu Chành ra khỏi hố xí, nhảy hàng rào về nhà . Mệ Hó nhảy sang nhà anh nhảy chồm chồm, ra sức chửi. Anh Cu Chành bật cái đài Orionton, vặn volume hết nấc. Mệ Hó cố gào lên cho át tiếng đài, mệt quá thở hồng hộc. Mệ hét lên, nói cha tổ mi Chành nời, mi nói hay rứa răng cứ đi ỉa vứt!


Anh Cu Chành chỉ tay quát, nói này, đài đang phổ biến chủ trương đường lối, đồng chí Hó lại đem chuyện ỉa đái ra đây là có ý gì. Câm họng không tui kêu dân quân trói cổ liền. Mệ Hó tịt, quắp đít đi về, vừa đi vừa chửi, nói vơ cu Chành nời, tao thua cái đài chớ không thua mi mô nha!


Còn nhà thứ tư là nhà ông Mẹt Lạm ở sát sau nhà mệ Hó, cũng ở bên phải nhà mình. Ông chết vợ, có một đứa con trai là thằng cu Đán. Thằng này đánh cờ tướng cực giỏi, mình học đến lớp 5, nó mới học lớp 2, nó chấp mình một xe mà 10 ván mình cũng chỉ thắng nó được 2, 3 ván.

Cu Đán nói anh đánh cờ dở như bọ tui đi ỉa. Lúc đầu mình không để ý, nhưng sau thấy lạ, hễ đau bụng là ông Mẹt Lạm lại nhảy sang hàng rào, vào hố xí mệ Hó, dù nhà ông cũng có hố xí.
Sau lại thấy hễ mệ Hó đi ra hố xí là ông Mẹt Lạm kêu đau bụng liền. Mình hỏi cu Đán răng thấy mệ Hó ra hố xí là bọ mi đau bụng? Nó nói bọ tui đau cu không phải đau bụng.

Mình không hiểu, hố xí vừa chật vừa thối inh, làm gì được ở đó. Cu Đán nhăn răng cười nói tui thấy bọ tui lẹo chắc với mệ Hó rồi, hay lắm. Nó chồm lên bụng mình dập dập nói ri nì ri nì, Hó ơi Hó ơi anh yêu Hó, Hó ơi Hó ơi anh yêu Hó.

Mình hỏi lẹo chắc ở hố xí à. Nó nói không phải, hố xí chỉ tâm sự thôi, rồi bọ tui bưng mệ Hó vô nhà. Mình nói vừa ỉa vừa tâm sự à? Thằng Đán nói ừ, nói đi nói lại chỉ có câu Hó nhớ Lạm không, Lạm nhớ Hó không, rứa mà nói cả buổi, ỉa hết cứt rồi vẫn cứ nói.

Mình nói chi mà cực rứa hè. Thằng Đán nói tâm sự chỗ khác thì anh Cu Chành phát hiện, kêu dân quân bắt liền. Mình nói hèn chi mệ Hó không cho anh cu Chành vào ỉa hố xí mệ. Thằng Đán nói anh cu Chành cũng muốn tâm sự với mệ Hó nhưng mệ ghét, không cho.


Mình nói mi đã biết thì anh Cu Chành cũng biết. Thằng Đán nói lúc đầu sợ anh Cu Chành thì ra hố xí tâm sự, sau đổ lì không sợ nhưng quen rồi, hễ muốn tâm sự là buồn ỉa liền.
Mình cười nói tao không tin, thằng Đán nói thiệt đó, bọ tui nói vừa ỉa vừa tâm sự thích lắm, quan trọng là mình ỉa đừng có tiếng kêu, kêu thì mất lịch sự, rứa thôi.


Làng Đông hồi đó làm hố xí hai ngăn, ngăn ỉa ngăn ủ nghiêm túc lắm, sau rồi tùm lum cả. Đang đau bụng có người ngồi rồi, không nhịn được liền nhảy sang ngăn kia, ủ chẳng ủ thì thôi, ỉa cái đã. Dần dần hố xí hai ngăn thành ra hai hố xí.
Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương nói dân mình lạc hậu, chỉ mỗi việc ỉa cho có khoa học mà cũng không hoàn thành nhiệm vụ. Mệ Hó nói ôi dà, không thấy trung ương giao nhiệm vụ ăn, toàn giao nhiệm vụ ỉa thôi.
Nhưng anh Cu Chành không mắng mệ Hó phát ngôn bừa bãi nữa, chỉ nói đồng chí Hó có thắc mắc chi nói sau. Cuối buổi anh Cu Chành nói đồng chí Hó ở lại tôi giải thích.

Chẳng biết anh Chành giải thích thế nào, tối hôm đó mẹ Hó nhảy chồm chồm, chửi ông Mẹt Lạm, rung làng chuyển xóm cả đêm. Mệ Hó nói vơ Mẹt Lạm nời, tau nói cho mà biết nha, từ ni cặc mi có bá ( dát) vàng, tau cũng không thèm nha.


Chuyện hủ hoá mệ Hó ông Mẹt Lạm tự nhiên cả làng ai cũng biết. Đi đâu nghe ai nói câu khích là mệ Hó lại nhảy sang nhà ông Mẹt Lạm chửi, vừa chửi vừa vỗ bướm bem bép, hét vơ Mẹt Lạm nời, tao thà để l. cho chó ăn, không cho mi liếm mô nha !
Mình hỏi thằng Đán răng rứa. Thằng Đán nói không biết ai nói bọ tui khoe mệ Hó thuê bọ tui lẹo mệ, một phát 5 hào, đến giờ mệ nợ cả trăm đồng không chịu trả. Mình nói thiệt không, nó nói biết mô, nghe người ta nói rứa.
Một hôm mình với thằng Đán đang đánh cờ, ông Mẹt Lạm đi đâu về, mặt mày hằm hằm nói đụ mạ con l. trâu, đụ mạ con l. trâu. Ông lôi cái cuốc xông sang vườn mệ Hó đập tan cái hố xí hai ngăn, lại còn xúc cứt vứt ra đầy vườn.
Mình hỏi thằng Đán răng rứa. Thắng Đán nói không biết ai nói mệ Hó khoe bọ tui hẹn mệ đi ỉa, rồi liếm khô khu cho mệ, mệ mới cho lẹo. Mình nói tởm, thịêt không, nó nói biết mô, nghe người ta nói rứa.


Mệ Họ nhảy chồm chồm, vừa chửi vừa xúc cứt hất sang nhà thằng Đán, nói vơ Mẹt Lạm nời, trả cứt cho mi đây nời.
Ông Mẹt Lạm lại xúc cứt hất sang nhà mệ Hó, vừa hất vừa hét đụ mạ con l. trâu, đụ mạ con l, trâu!
Xúc đi xúc lại hết phân, cả hai ỉa cứt mới, gói lại ném vào nhà nhau, ngày nào cũng chửi nhau đánh nhau rung làng chuyển xóm.

Anh Cu Chành nói các anh trên trung ương nói thấy dân minh mất đoàn kết, các anh rất đau lòng. Để cho đồng chí Hó, đồng chí Lạm đánh chửi nhau tui có khuyết điểm với trung ương, có tội với bà con.
Nói xong thì Cu Chành khóc
Bà con nói ua chầu chầu đồng chí Cu Chành tội hè.
Anh Cu Chành nói đã coi nhau như kẻ thù thì sống gần nhau càng thêm tan cửa nát nhà, tui nói rứa có phải không bà con?

Bà con nói ua chầu chầu đồng chí cu Chành nói phải quá phải quá
Tháng sau cả mệ Hó, cả ông Mẹt Lạm đều đi kinh tế mới, hai cái vườn gửi lại cho Cu Chành coi sóc.
Anh Cu Chành nói đồng chí Hó đồng chí Lạm ra đi xóm làng tiếc lắm, nói xong thì khóc. Mệ Hó và ông Mẹt Lạm cũng khóc, cả hai đều xin lỗi bà con láng giềng.
Bà con nói ua chầu chầu, đồng chí Cu Chành đoàn kết giỏi hung

Mệ Hó, ông Mẹt Lạm đi cả chục năm không về, nghe nói muốn về lắm nhưng không có tiền về, hai cái vườn mặc nhiên thành vườn anh Cu Chành.
Hè này về quê, lên làng Đông chơi, khu vườn 16 sào đất của anh Cu Chành nhà cửa, cây cối đẹp ngây ngất. Mình hỏi anh Cu Chành: mệ Hó ông Mẹt Lạm có về không anh. Cu Chành cười hậc một tiếng nói không chết là may, còn đòi về.
Ua chầu chầu.


HỐ XÍ HAI NGĂN 
VĂN THÀNH NHÂN

Những ai đã từng sống ở miền Bắc vào những năm 50-60 của thế kỷ trước mới thấy cái Hố xí Hai ngăn quả đúng là phát kiến vĩ đại của thế kỷ. Chỉ nói riêng ở Hà nội [khu phố cổ] thôi, kể chuyện này ra để các bạn sẽ thấy phần nào hiểu được cái khổ của thời chưa có Hố xí hai ngăn.


Phải nói rằng Hố xí Một ngăn là “tàn dư ” của thời phong kiến và thực dân.
Cứ vài ngày một lần, vào buổi đêm. Nhân viên của Công ty vệ sinh lại lái một chiếc xe ô tô kéo theo sau một chiếc Rơ moóc chở đầy những cái thùng to như thùng gánh nước. Đến đầu phố, xe dừng lại, nhân viên công ty bịt mặt, bịt mũi đi ủng giống như các chị đeo khẩu trang mặc áo chống nắng bây giờ.

Đến từng nhà gõ cửa. Rồi gọi.
– Nhà số 1,2,3 đổi thùng nhé.
Cửa mở ra.

Họ mang thùng rỗng vào để đổi những thùng đầy ra. Đang ngủ say mà mỗi lần họ đến chúng tôi đều tỉnh giấc. Các cụ ngày đó thường hay dạy con cháu: ” Mày mà không chịu khó học hành sau này chỉ có đi xúc cứt thôi con ạ”. Nghe thấy vậy thì đứa nào cũng sợ nên ra sức học hành để khỏi phải đi làm ở Công ty Vệ sinh.

Họ đến lặng lẽ và đi ra cũng lạnh lùng, chẳng hề nói một câu gì, chỉ thấy đôi mắt của những người đó man mác buồn và họ chỉ nhìn xuống, không nhìn lên bao giờ. Có lẽ họ mặc cảm với cái nghề Đổi thùng của mình?.

Vậy là xong quy trình xử lý của Hố xí một ngăn.
Tuy chỉ có mỗi Công ty Vệ sinh thành phố được quyền khai thác nguồn phân bón quý giá này, nhưng không phải không có đối thủ cạnh tranh đâu nhé. Người làng Cổ Nhuế đã lách luật để hớt tay trên của Công ty Vệ sinh thành phố, bằng cách họ tìm đến những ngôi nhà mà họ có sự quen biết hoặc được thỏa thuận từ trước. Vậy là đêm đêm, với chiếc đòn gánh cùng hai chiếc sọt nhỏ, người khá giả hơn thì đi trên một chiếc xe đạp thồ với hai cái sọt to đùng được đan bằng mây tre treo hai bên xe. Họ đi đến từng nhà rồi lấy đi những thùng phân tươi của người hàng phố. Chẳng hiểu họ có đưa chút tiền nào cho gia chủ hay không, nhưng sau đó họ mang về quê bán lại cho những người trồng rau, nuôi cá.

Hồi đó có một câu thơ của ai nghĩ ra không biết, nhưng trong đầu những người dân nội thành và những vùng lân cận đều nhớ.

” Thanh niên Cổ Nhuế xin thề
Chưa đầy hai sọt chưa về quê hương”.


Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác. Cho đến một hôm.
Cái Hố xí hai ngăn ra đời.
Sau khi phát minh ra hố xí hai ngăn, tình trạng vài ngày một lần được xóa bỏ, thay vào đó là mỗi tháng một lần nhân viên của Công ty vệ sinh mới đến để mang mấy cái thùng rỗng vào rồi xúc đi cái cũ. Họ cũng không quên mang mấy cái thùng sắt Tây chứa đầy đất mùn. Họ đổ xô đất vào góc của nhà vệ sinh, làm như vậy để cho mỗi thành viên của gia đình sau mỗi lần đi thì đổ lên sản phẩm của mình một chút đất mùn đó.

Tháng nào nhân viên công ty vệ sinh đến hơi muộn thì: Thôi rồi Lượm ơi!
Lại phải nhờ đến dân Cổ Nhuế vậy.

**


Đã qua rồi cái thời:
- Ăn trong nhà, ị ngoài sân vườn, ngoài trời.
Ngày nay, khi đời sống đã được nâng cao lên, một nhu cầu mới lại xuất hiện đó là nhu cầu:
- Ăn ngoài sân vườn, ị trong nhà.
Được ăn ở ngoài sân vườn hay sân thượng thì đúng là tuyệt trần không gì bằng.
Riêng mình, mình vẫn thích làm Quận công.

 Chẳng sướng chi bằng thú ỉa đồng
Gió chiều hây hẩy mát đôi mông”

Làm Quận công là mình được trở về với
“Dòng sông tuổi thơ” đấy các bác ạ.
Phải không các bác?
 

Sống trên nóc nhà vệ sinh
TT - Nằm sâu trong con ngõ 33 Hàng Vải (P.Hàng Bồ, Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội) có một ngôi nhà được coi là hình ảnh hiếm hoi của nhà ở phố cổ Hà thành bởi nó chỉ vẻn vẹn 5m2 diện tích sàn nhưng được xây lên hai tầng và “mọc” chênh vênh trên nóc của dãy nhà vệ sinh tập thể.
Ông Minh trong căn nhà nhỏ của mình - Ảnh: M.L.
Ngôi nhà ấy có ba thế hệ, tám nhân khẩu sinh sống. “Khi tôi lấy chồng, gia đình nhà chồng nhiều anh em, nhiều con cháu mà nhà lại nhỏ. Bố mẹ tôi thương quá, còn tí đất 5m2 sát dãy nhà tắm, nhà xí chung cả xóm cho vợ chồng tôi ở” - bà Nguyễn Thị Nhung (59 tuổi) kể về “lịch sử” của căn nhà lạ lùng này.
Kể từ ngày đó, mảnh đất 5m2 ấy được quây lại tạm bợ bằng tre nứa là nhà của đôi vợ chồng trẻ. Hiện giờ vợ chồng bà Nhung đang ở cùng gia đình hai người con trai. Hai đứa cháu nội bà là đời thứ ba của ngôi nhà lạ kỳ này.

Ký ức chưa xa
“Sang năm hai đứa cháu nội tôi đều vào lớp 1. Trước thằng lớn nhà tôi chỉ được học đến lớp 10, không có tiền phải nghỉ học, xin đi làm thuê. Thằng thứ hai học đến lớp 4 cũng nghỉ. Tôi bảo hai đứa con đời mình đã khổ rồi, đừng để con cái mình khổ như vậy nữa...” - bà Nhung nói.
Trong ký ức của bà Nhung ở cái thuở xa xưa ấy, trong cái tổ ấm vẻn vẹn 5m2 của vợ chồng bà không bao giờ có nổi cái giường đàng hoàng. Chỗ ngủ của họ là cái vạt giường để trên nền đất trần, trải chiếu lên cho đỡ hơi đất.

Mùa hè dựng vạt giường lên nằm đất cho mát. Nhà không ghế, không bàn mà ra vào vẫn vập nhau. Đun nấu cũng phải trong nhà. Cái bếp trước cửa bây giờ ngày xưa là sân.
Căn nhà bị tường của dãy nhà vệ sinh, nhà tắm công cộng và xung quanh là nhà dân xây cao ngăn tất cả các hướng gió nên trong nhà lúc nào cũng như cái hầm, ngột ngạt. Khi đó Hà Nội vẫn còn kiểu hố xí hai ngăn để thùng nên cả khu vực xung quanh nhà bà bốc mùi cả đêm.

“150 con người chỉ có bốn hố xí. Nhà tôi rất kín gió nên mùa nóng hôi thối không thở được. Giời hanh gió còn đỡ, giời nồm gió bốc mùi rất kinh. Quần áo cũng bị ám mùi. Nóng quá muốn mở cửa thì mùi nước tiểu, mùi phân bốc vào” - bà Nhung nhớ lại.
Ước mơ của bà khi ấy thật giản dị và nhỏ bé: chỉ cần có được cái quạt máy dùng khi trời nóng, khi gió lùa mùi xú uế vào nhà. “Hồi đó không có tiền mua quạt máy. Lương công nhân ăn uống còn không đủ nói gì đến quạt máy” - bà Nhung bảo.
Chồng bà, ông Trần Đăng Tuyền, làm công nhân Xí nghiệp kẹo Hà Nội. Còn bà Nhung là công nhân dệt kim Thăng Long. Lương của hai vợ chồng chỉ gần 600.000 đồng/tháng. Không thể ở mãi được trong 5m2, gia đình bà Nhung làm đơn xin phường cho đổ ximăng lên phần ngói của nóc nhà xí, vách là cót ép cao 2m, lợp tôn ở.
Khi hai cậu con trai đã ngoài 20 tuổi, bà Nhung lại xin phường cho lợp lại mái, thay cót ép quây tôn ở. “Quây cót ép mưa gió khổ sở lắm. Trời nắng thì nóng, khai thối. Trời mưa thì dột, nước hắt ướt hết nhà. Đêm gió quật mưa tạt không ngủ được” - bà Nhung cho hay.

Liên tiếp trong năm 2006, hai con trai lấy vợ. Anh lớn đầu năm, cậu út cuối năm. Không có tiền ra nhà hàng, đám cưới cả hai con bà đều thuê người ngoài nấu rồi mang về nấu lại. Mâm cỗ cũng để nhờ ở ba nhà hàng xóm, nhà ông ngoại và sân công cộng. Rồi đến đầu và cuối năm 2007, hai đứa cháu ra đời...
Tháng 11-2011, dột nát quá, cả nhà tám người không thể cứ chen chúc trong cái ván cót, mái tôn trên nóc nhà xí được, bà Nhung làm đơn xin phường cho xây lên hai tầng. Cảm thương cho hoàn cảnh gia đình bà, UBND P.Hàng Bồ đồng ý cho sửa lại.

Vợ chồng bà Nhung gom hết tiền tích cóp được hai mươi mấy năm trời và mượn thêm họ hàng, bạn bè để xây lên hai tầng. Móng nhà không nằm dưới đất mà ngự ngay trên nóc của... dãy nhà vệ sinh!
Nói là hai tầng nhưng nhìn rất đơn sơ, không họa tiết trang trí, chỉ là những bức tường thô và được điểm xuyết bằng hai cái cửa sổ xếp. Cái cửa sổ xếp ấy chỉ được mở một nửa để hạn chế mùi hôi bay vào phòng...

Bà Nhung chuẩn bị bữa cơm chiều trước cửa căn nhà 5m2. Khu bếp đặt ngay cạnh khu vực cửa dãy nhà vệ sinh - Ảnh: M.L.
Hai mảnh đời trên 3,6m2
Nằm chênh vênh trên nóc của một nhà vệ sinh tập thể ngay đầu hẻm 185 Cống Quỳnh (Q.1, TP.HCM), “ngôi nhà” của cha con ông Trần Văn Minh (64 tuổi) chỉ vẻn vẹn 3,6m2 với bề ngang 1,8m, dài 2m.
“Năm Mậu Thân 1968, bố mẹ và anh trai tôi nấu bánh tét thì bị trúng bom chết hết... Tôi bị thương nên ngất đi không biết bố mẹ và anh trai chết. Năm 1972, khi trở ra Huế tôi mới biết tin...” - ông Minh buồn buồn kể.

30 tuổi, ông lấy vợ, là một cô gái mồ côi mẹ. “Vợ chồng tôi thương nhau về ra mắt ông già ở Bến Tre rồi thành vợ thành chồng, có cưới hỏi gì đâu” - ông Minh kể.
Không nhà cửa, hai vợ chồng ngày đi bán trái cây dạo rồi chuyển qua khoai lang chiên, cháo huyết, tối về trải nilông ngủ vật vờ ngay trong con hẻm này. Khi biết vợ có thai, ông thuê nhà để vợ đỡ tủi thân. Mới ở được hai tháng, chủ nhà đuổi vì... sợ xui. Hai vợ chồng lại tiếp tục cuộc sống lay lắt ở hẻm từ năm 1980. Ông không thể ngờ cuộc sống ấy kéo dài hơn 30 năm ròng rã.

40 tuổi ông mới được làm cha. Cuối năm 1989, cậu con trai đầu lòng và cũng là duy nhất Trần Nguyên Hà ra đời. Nguyên Hà mới được 6 tháng tuổi thì mẹ bị bệnh phổi. Bà đã bị sẵn bệnh tim nhưng không có tiền chữa nên cứ để liều. Ông Minh ẵm con trai ngồi ở đầu đường bán vé số. Đứa bé dường như cũng biết thân phận, nằm ngủ ngoan ngoãn trong cái thùng bán vé số.
“Thằng Hà mới sinh đã bị vàng da phải nằm phòng cách ly. Hai vợ chồng tôi dư được hơn bốn cây vàng thì chữa cho con xong là hết tiền. Bà ấy bị bệnh gần hai năm sau thì mất, khi tôi đang ôm con trai bán vé số...” - ông Minh chảy nước mắt khi nhớ lại.

Hai cha con cứ thế côi cút đùm bọc nhau trong con hẻm toàn những người lớn lên từ cô nhi viện này. Nguyên Hà và cha chịu đựng cảnh ngủ lăn lóc sương gió dãi dầu ấy mãi cho đến năm 2010, bà con lối xóm thấy Hà đã lớn, góp tiền lợp tôn làm cho hai cha con cái chòi ở trên nóc nhà tắm.

Hồi trước, khu vực dưới cái chòi mà cha con ông Minh ở có 6-7 cái nhà tắm và nhà vệ sinh tập thể. “Ở trên này ban ngày rất nóng, hai cái quạt cũng chịu không nổi” - ông Minh cho biết. Ông mới nghỉ bán vé số mấy tháng nay, phụ bán cơm từ 6g30 sáng đến 7g tối, một tháng được 2 triệu đồng. Hà thì đi giữ xe từ 6g tối đến 4-5g sáng mới về. “Thằng Hà không có hộ khẩu và CMND nên khó xin việc lắm. Nơi nào cũng nhận vào làm việc nhưng chỉ được hai tháng thử việc là cho nghỉ vì nó không thể bổ túc hồ sơ. Bây giờ nó mà lấy vợ thì không biết ở đâu. Tôi ước chỉ có ba miếng tôn dựng nhà để ở...” - ông Minh nói. 
 

Hố xí hai ngăn



Có hai cái lỗ và một đống tro, hai cục gạch xéo góc 60 độ, hai chân đặt lên đó, tụt quần và bồm bộp, mùi thối, ruồi nhặng bay vù lên ào ào quanh mặt quanh mồm. Ỉa xong lấy chân gạt tí tro , xong, đi xuống phải cẩn thận vì bực thang rất cao và nếu sợ té thì cứ hùng dũng đạp nhẹp đống dòi bò lúc nhúc.
Năm 1973 dì Nga mình trở ra Hà nội sau khi sanh thằng cu Khe sanh, dí mang cả hai, ...
con chị 7 tuổi, thằng cu ba tháng.

Con chị sơ dòi ruồi thế nên mình bảo nó đi ỉa đêm là không sợ. Nhưng nó sợ ma, bắt mình dắt đi ỉa cùng
Khi Thằng em lớn hơn 2 tuổi cũng bắt chị cõng đi ỉa, lại còn bắt chị đứng gần nắm tay nó cho nó khỏi sợ. Ỉa rất lâu. Cả người mình ướp mùi nồng nàn của cứt.
Thằng chó con này này Nguyen Nguyen Nhat Thanh, giờ mình phải bắt nó bồi thường mới được

— at Miền Quá Khứ.
http://holanhuong.blogspot.ca/2012/12/ho-xi-hai-ngan.html


Hố xí hai ngăn vào bàn... hội nghị quốc tế

Thứ Hai, 29/08/2005 22:27

Các chuyên gia tham dự hội nghị Tuần lễ nước ở Stockholm (Thụy Điển) hồi tuần trước cảnh báo rằng trên thế giới hiện có 2,6 tỉ người không tiếp cận được với nhà vệ sinh, dẫn đến hậu quả tai hại là bình quân mỗi ngày có đến 6.000 trẻ em chết vì bệnh tiêu chảy.

Hội đồng Cộng tác về vệ sinh và nguồn nước, một tổ chức có trụ sở tại Geneva (Thụy Sĩ), cho rằng phân người giết hàng triệu người và là nguyên nhân nhiễm bệnh hàng đầu trên thế giới. Một trong những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc là cung cấp nhà vệ sinh cho 1,75 tỉ người trên thế giới từ nay đến năm 2015, tức mỗi ngày phải xây được 95.000 nhà vệ sinh mới. Ba nơi trọng tâm cần phải nỗ lực rất lớn là Trung Quốc, Ấn Độ và vùng hạ Sahara ở châu Phi. Ấn Độ với 600 triệu người chủ yếu ở nông thôn, Trung Quốc với 400 triệu người thành thị và hạ Sahara với cả 350 triệu nông dân và thị dân không có nhà vệ sinh.
Các chuyên gia chú ý đến dạng nhà vệ sinh tương tự như hố xí hai ngăn, có lúc phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Thực ra dạng nhà vệ sinh này cũng được dùng tại tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), Guatemala, Mexico, Zimbabwe và cả những nước giàu ở vùng Bắc Âu, Đức và Thụy Sĩ. Các chuyên gia gọi dạng này là nhà vệ sinh “khô” thân thiện với môi trường gồm hầm lắng tách phân và nước tiểu và hầm trữ lại để làm phân bón. Giải pháp này có ưu điểm tiết kiệm nước vì bình quân mỗi người cần phải sử dụng 15.000 lít nước để dội sạch 400 lít - 500 lít nước tiểu và 50 lít phân thải ra mỗi năm trong nhà vệ sinh thông thường. Phân người sau đó được khử nước bằng cách hòa với tro, cát hoặc vôi trong quá trình phân hủy. Tuy nhiên, có một số ý kiến phản bác cho rằng việc xây dựng nhà vệ sinh này phức tạp hơn, cần thêm nhiều vật liệu cho vào hố phân để thúc đẩy quá trình phân hủy, hố phân mau đầy và bốc mùi khó chịu.
Trúc Lâm (Theo Todayonline)
 
  Uôn cắp ở nam phi và chuyện về cái hố xí hai ngăn
Lại nói về cái uôn cắp đang diễn ra trên cái xứ Nam phi xa xôi đã diễn ra được hơn một tuần rồi, về chất lượng các trận đấu thì chẳng cần nói vì ai cũng biết. Ở đây mình bàn đến cái chuyện ngồi xem uôn cắp ở Hà Nội kìa.


Trong cái không khí bực hết cả cửa mình khi mà Hà lội mến yêu của ta đang nằm trong cái rốn của áp cao áp thấp gì đó theo như mấy anh gia cát dự nói thì dân dã người ta gọi là gió lào, nhiệt độ thì 39 40 độ nhưng đã chót hâm mộ rồi thì cứ phải bật cái ti vi lên để mà xem phút bôn. Mẹ, vừa mới tơn on một phát đã thấy tiếng vo ve cứ tưởng ti vi nhà mình hỏng, chuyển kênh khác thì đéo thấy gì lại chuyển sang xem đá bóng thì lại thấy vo ve, suy nghĩ một hồi lại thấy bực mình mấy chú bình luận viên của nhà đài ăn bún mắm tôm đéo chịu rửa mồm để cho nhặng bay vo ve quanh mi cờ rô đau hết cả đầu, chợt nhớ là xờ ta xì bót cũng chiếu phút bôn nên nhanh tay chuyển sang, không ngờ nhân định bất thắng thiên bên đó cũng vo ve mới lạ, đầu tư chất xám suy nghĩ xem cái tiếng vo ve kia ở đâu ra thì mới hay đó là cái tiếng kèn vú vú dế lá của mấy anh tông giật bên phí châu.


Lại nói về cái hố xí hai ngăn của cái thời chưa xa ở việt quốc. Chẳng biết do đâu mà có cái hố xí kiểu này nhưng bác nào đã sống vào cái thời ấy không thể quên được cái cảnh giữa trưa hè bê đít đi ỉa, tay cầm tờ báo tụt quần ngồi trên hai viên gạch khấp khểnh cố gắng ỉa cho đúng lỗ mới tài, trời nóng mồ hôi mồ kê ròng ròng, dưới chân giòi bò lúc nhúc nhìn buồn mửa nhưng cũng chưa kinh bằng cái anh ruồi nhặng, nó bay từng đàn bâu kín đống phân ở dưới hố nhà xí gặp cơn gió hay khi cứt mới rơi xuống chúng bị động bay lên ầm ầm tiếng vo ve liên tu bất tận tưởng như không bao giờ dứt. Ấn tượng của những năm tháng đó ngoài cái đói nghèo thì tiếng ruồi nhặng vo ve là những cái ghi dấu sâu đậm vào quê hương tuổi thơ tôi.


Quay lại cái uôn cắp trên đất nước của cái kèn vú vú dế lá, tuy không thích ví von nhưng quả thật mỗi khi tơn on cái tivi lên là y như thấy mình ngồi trong cái hố xí hai ngăn mà xem uôn cắp, dưới chân giòi bọ lổm ngổm, bên tai vo ve tiếng nhặng xanh bay từng bầy liên tu bất tận, đến khi hết trận đấu chẳng có con mẹ gì hứng khởi vì được kèo hay cay cú vì thua độ cả mà chỉ có cái âm thanh vo vo ve ve của cái bầy nhặng có tên vú vú dế lá của cái xứ Nam phi xa xôi mà thôi.
Ngẫm mới thấy tiền nhân nói đúng:
" NGỒI TRÊN HỐ XÍ ĐỢI NGÀY MAI"
Cái ngày mai ở đây là đợi đến hôm sau để tiếp tục ngồi trong hố xí hai ngăn mà xem uôn cắp đó chư vị.
Kính bút
CHƠI, CHƠI NỮA, CHƠI MÃI
NỔ, ĐI CHỮA, CHƠI TIẾP
 ĐỀ TÀI LIÊN HỆ

Từ làng Gôi Vị đến kinh thành Paris

Nguyễn Khắc Viện

Xem nhanh:

Phần I: VÀO ĐỜI

Tôi là kẻ giác ngộ chính trị rất chậm. Anh em thì 15-16 tuổi đã tham gia hoạt động. Tôi thì mãi gần 30 tuổi mới có một ít nhận thức về chính trị. Có lẽ tại vì cái thành phần như vậy sống từ bé không có vấn đề gì.

Nhưng tôi đã được sống qua nhiều chế độ khác nhau: Thứ nhất, thuở bé sống trong chế độ xã hội phong kiến trong xóm trong làng quê kiểu quan lại, về sau sống trong những thành phố, đặc biệt là ở Hà Nội, dưới chế độ thực dân (thực dân là cái đuôi, là cái ngoặt của chủ nghĩa tư bản). Sau đó lại sống 25 năm ở Pháp, một nước tư bản phát triển. Nước tư bản này cũng qua nhiều giai đoạn khác nhau: Giai đoạn cách mạng khoa học kỹ thuật ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, và từ 1945 trở đi thì cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thứ hai, tức là thời hiện đại cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Sau đó lại về Hà Nội, qua chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng là bước đầu quá độ xã hội chủ nghĩa, mà thực chất là bao cấp.

Những kinh nghiệm sống qua các chế độ xã hội khác nhau đó chính là nền tảng của những nhận thức về chính trị sau này.

Tôi sinh ra trong một gia đình phong kiến, tại một làng xa xôi ở Hà Tĩnh, một vùng đất vốn có truyền thống cần cù chịu khó, hiếu học. Trong nhà thường gọi bố là Thầy, mẹ là Chị. Tại sao lại gọi là Thầy? Có lẽ ông cụ nhà bước đầu đi dạy học là chính, sau mới làm quan. Ông cụ nhà tôi xuất thân là một nho sĩ, có trí nhớ rất đặc biệt, nổi tiếng học giỏi. Tiếng tăm của ông chính là thi đỗ Hoàng Giáp(1) rất sớm, lúc mới 19 tuổi (1907).

Ông cụ tôi lúc đầu làm đốc học tỉnh Nghệ An (tương đương Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo bây giờ), vừa làm giám đốc vừa dạy. Sau làm tư nghiệp, làm phó hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám - là trường của đội quân chuẩn bị ra làm quan. Khi Pháp bỏ học chữ nho, tất cả cái hệ thống đó bị đóng cửa, nên ông cụ chuyển ra làm quan, quan hành chính.

Trong điều kiện sinh hoạt của nhà quan, ông cụ ở trong phòng riêng, con cái ở phòng riêng, ít khi được nói chuyện với bố. Chúng tôi nhờ được tính di truyền của bố nên học hành lên lớp dễ dàng, ông không phải hỏi han. Sau này, khi tôi ra Hà Nội học trung học rồi đại học, mỗi lần về ông cũng không trao đổi gì cả, nhất là về chính trị xã hội.

Nhưng ảnh hưởng lớn nhất của Thầy tôi đối với tôi là tác phong, lối sống của con người. Đây là con người nhà nho, ra vào, ăn nói, đi đứng rất nghiêm túc. Ví dụ chúng tôi nói đồng hồ chết rồi, ông bảo: "Không ăn nói thô tục, tại sao không nói đồng hồ đứng rồi". Khi ra công đường khăn áo đàng hoàng. Lúc tế thần, cúng tổ tiên, trông nét mặt và cách hành lễ của Thầy tôi thì rất rõ, đúng như câu của Khổng tử: "Tế thần như thần tại" (Lúc tế thì coi như đang có thần linh ở đó), lúc cúng tổ tiên coi như tổ tiên có mặt trên bàn thờ. Chúng tôi lúc bấy giờ chỉ đứng cúng lạy cho có chuyện, chứ nhìn nét mặt và cách đi đứng của Thầy tôi hồi đó thì đúng như có tổ tiên về thật.

Đến lúc mẹ tôi mất, thì tôi mới hiểu thấm thía lễ nghi là như thế nào. Tôi là con trai cả, lúc đó mới khoảng tám tuổi. Trong những ngày tang lễ, tất cả những việc hành lễ tôi phải đứng ra thực hiện. Đi từ nhà đến chỗ chôn cất khoảng 2 km, tôi phải mặc áo dài lụng thụng, chống gậy đi lùi. Tiếp đó, liên tục trong ba tháng 10 ngày, mỗi ngày hai lần cúng cơm. Rồi đến những ngày lễ lớn, ít nhất cũng cả tiếng đồng hồ lạy, đứng lên, quỳ xuống, có người hô bằng chữ Hán, thuộc cho hết lời hô đó mà làm cho đúng. Lúc đọc văn tế bằng chữ Hán, tôi chẳng hiểu gì mà phải quỳ xuống đứng lên lạy cả buổi. Rồi khách đến viếng rất đông, ngoài làng xóm, còn không biết bao nhiêu học trò của Thầy tôi ở khắp nơi đều đến viếng. Họ lạy bao nhiêu, tôi phải lạy đáp lại bấy nhiêu. Cứ như thế kéo dài cả tháng. Trong tháng đó, áo quần không được giặt. Thật là lễ nghi vô cùng phiền toái, phức tạp. Vì thế mà cho đến bây giờ, mỗi lần có tang ma, tôi như có dị ứng đặc biệt, không muốn đi nữa.

Sau này, đọc thêm sách Khổng giáo và đi sâu về tâm lý xã hội, mới thấy đầy đủ hơn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa của lễ.

Một xã hội văn minh lúc nào cũng có lễ, một xã hội vô lễ tức là đang còn ở trình độ thú vật. Một xã hội mà lễ nghi tan rã, mất hết kỷ cương, thì trở lại tính thú vật. Cũng vì thế, hãy hiểu hết câu "Tiên học lễ, hậu học văn". Văn là kiến thức, dạy trẻ con trước hết là cho đi vào lễ nghi - xã hội.

Đứng về tâm lý học mà nói, lễ là một sự điều kiện hóa cho con người, đặc biệt là lúc còn nhỏ. Cách ăn nói, cách đứng ngồi... sau này thành một cái nếp và nhờ thế nó ổn định trật tự trong xã hội, nhưng cũng ràng buộc con người, ràng buộc một cách vô thức, lúc ấy con người đã nhiễm, đã bị điều kiện hóa, thành ra không có ý thức, tự nhiên cứ làm như thế.

Mặt hay của nó là tạo ra xã hội có quy củ trật tự, nhưng mặt dở của nó là ràng buộc con người vào một nếp khó tháo gỡ. Lễ làm cho nhiễm, thành ra một thói quen, một nếp sống, người ta không có ý thức nữa. Vì vậy, có chủ trương lễ trị, dùng cái lễ để mà yên dân, ít nổi loạn, đấy là một chính sách tiết kiệm hơn là pháp luật. Cách lễ nghi từ bé đẻ ra những người dân không bao giờ phạm thượng. Lễ nghi là con dao hai lưỡi, trong xã hội truyền thống ngày xưa, Phương Đông cũng như Phương Tây, bao giờ lễ nghi cũng chặt chẽ.

Trong xã hội hiện đại, lễ nghi cao độ nhất là trong quân đội. Quân đội nào cũng có những nghi thức rất chặt chẽ, để con người lúc nào cấp trên hô một tiếng thì không còn suy nghĩ nữa, cứ theo một động tác máy móc như thế, khi tiến công, không còn sợ nguy hiểm nữa.

Xã hội phong kiến là xã hội dùng động cơ chính làm tác động trực tiếp con người này đối với con người khác, cấp trên hay cấp dưới, bằng cái oai nghiêm của lễ nghi, không phải bằng pháp luật, càng không phải bằng hợp đồng của xã hội tư bản. Vì thế ở các nước tư bản, khi xóa bỏ lễ nghi thì mối quan hệ xã hội thông qua hợp đồng kinh tế là chính.

Tôi có viết những bài bình luận về lễ nghĩa bằng tiếng Việt đăng báo Tổ Quốc, sau đó in lại trong quyển "Bàn và luận", bản tiếng Pháp trong tạp chí Etudes Vietnamiennes số 70 (Nghiên cứu Việt Nam).

Nét ảnh hưởng thứ hai của ông cụ tôi đối với tôi là cuộc sống đơn giản của gia đình. Làm quan cũng được tiếng là thanh liêm. Nhà đông con, sau khi mẹ tôi mất thì có mẹ kế (gọi là Mự). Hai bà 14 con. Tuy làm quan lương to nhưng vẫn sống đạm bạc. Ông cụ theo đạo Nho, người quân tử ăn chẳng cần ngon; mặt khác, hai ông bà muốn dành tiền khi về hưu tậu ruộng, xây nhà. Tôi còn nhớ hồi còn nhỏ, buổi sáng ăn cháo trắng với một tý cá kho mặn. Học đến 10 giờ thì đói meo. Khi ăn cơm, chúng tôi kêu: "Cá kho mặn quá", bà Mự tôi nói: "Cá mặn thì ăn nhiều cơm vào". Lúc tôi ra học trường Bưởi, ăn mặc sơ sài, anh em cứ nói đùa là ông Gandhi.

Sau này, suy nghĩ lại thì thấy, quen sống đơn giản cũng có cái hay. Khi chiến tranh nổ ra, tiền trong nước không gửi sang được nữa, tất cả sinh viên Việt Nam đứng trước sự lựa chọn, hoặc cố gắng tìm việc làm, hoặc phải xin trợ cấp của Ban thuộc địa. Tự nhiên chia ra làm hai: Số sinh viên quen ăn sung mặc sướng thì cúi đầu đi xin trợ cấp; số sinh viên quen chịu khổ thì tự trọng và tìm cách xoay kiếm sống. Sự phân chia lúc đó không có tính chất chính trị gì cả, thực chất là sự lựa chọn về đạo lý.

Về những suy nghĩ của Thầy tôi thì tôi không biết rõ. Chỉ có một lần, tôi đoán được phần nào, lúc tôi đỗ tú tài rồi, vấn đề đặt ra là tôi sẽ theo học trường đại học nào. ở Hà Nội lúc đó chỉ có ba trường đại học: Y dược, Luật và Nghệ thuật. Nghệ thuật thì tôi là anh tịt mù. Học Luật thì đa số học xong ra làm tri huyện. Thầy tôi bảo: "Con muốn học trường nào tùy con, đừng học nghề làm quan như thầy". Do đó, tôi học nghề thuốc.

Đầu năm 1942, Thầy tôi nghỉ hưu trước tuổi, lúc mới 53 tuổi và về quê ở. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tích cực tham gia nhiều công tác ở địa phương và được cử vào ủy ban Liên Việt khu Bốn.

Hồi ấy bác Kim Cương với ông Tôn Quang Phiệt vào Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, được cử sang Trung Quốc học lớp Nguyễn ái Quốc. Đến biên giới bị bắt, nếu xử theo luật của Pháp, thì việc vượt biên không có giấy tờ chỉ là tội nhẹ, cho nên Pháp giao lại cho Nam Triều xử, theo luật nhà vua thì đấy là tội nặng về hình sự. Hai ông là người Nghệ An nên bị giải về Nghệ An, giao lại cho án sát Nghệ An xét xử, án sát lúc ấy chính là Thầy tôi. Thầy tôi nhất định không chịu nhận xử, nói Pháp bắt thì Pháp xử, vụ việc xảy ra không phải ở Nghệ An. Sau hai ông do Pháp xử, nên bị kết án nhẹ, cứ cảm ơn mãi. Bác Kim Cương còn kể lại trong lúc bị giam ở Vinh, một đêm thấy một người lính cầm gói bánh kẹo, thuốc lào đưa cho bảo là quan án gửi tặng.

Qua thái độ và một số sự việc, thấy rõ Thầy tôi cũng có một ý thức nào đó về dân tộc, nhưng không đủ gan làm cách mạng. Đạo Nho cùng đường, Văn Thân hết thời, Phan Bội Châu thất bại, tưởng đi dạy học là yên thân, không ngờ trường chữ Nho bị bỏ, nhà đông con, phải chuyển sang làm quan chứ không vui vẻ gì.

Mẹ kế tôi cũng là mẫu người của xã hội xưa, không được đi học, sau này chúng tôi mới dạy bà học chữ quốc ngữ, nhưng thực chất có trình độ văn hóa nhất định. Vốn xuất thân từ gia đình nhà nho, từ bé đến lớn nghe các bác, các chú, các anh học hành, thành ra bà thuộc lòng khá nhiều văn thơ. Đặc biệt là truyện Kiều, bà nhớ không sót một câu nào. Kể cả văn thơ chữ Hán, bà cũng thuộc nhiều. Có lần, khi có dịch thổ tả, bà con nhờ Thầy tôi chép lại bài Chính khí ca để dán lên nhà. Thầy tôi không có bản gốc, mà cũng quên, thế mà mự tôi đọc cho ông chép lại cả bài.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình như vậy, nên tất cả anh chị em chúng tôi, trừ hai người mất sớm trước năm 1955, đến nay còn 12 người, thì tất cả đều thành đạt. Trải qua bao sóng gió của những biến động chính trị - xã hội chung cũng như riêng của gia đình, trong gần nửa thế kỷ qua, có lúc tưởng chừng không vượt qua được, nhưng rồi tất cả đều đứng vững, hăng hái tham gia hai cuộc kháng chiến, có những cống hiến đáng kể trong các ngành Y tế, Giáo dục, Văn hóa, trong công tác đoàn thể, trong hoạt động dịch vụ. Tuy hoàn cảnh từng người và từng giai đoạn có khác nhau, kể cả lúc đói nghèo hoặc gặp nỗi oan khiên, nhưng chúng tôi đều chịu đựng, sống tự trọng, trung thực, ham học hỏi, làm việc tích cực, chăm lo cho tập thể và gia đình.

Tôi nghĩ rằng, môi trường văn hóa ở gia đình, nếp sống của gia đình đã có ảnh hưởng sâu sắc đến con người và cuộc sống của anh chị em chúng tôi.

Môi trường làng quê, họ hàng cũng để lại trong tôi những ký ức khó quên.

Quê tôi ở làng Gôi Vị nay là xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Các chú, các bác, các cô, các cậu đều ở các làng gần đó, chúng tôi thường đến thăm luôn. Đây là một khu vực gần như bán sơn địa, bên bờ sông Ngàn Phố. Không xa lắm, đi qua một cái hỏi, là một dãy đồi, gọi là rú, nơi có các ngôi mộ của tổ tiên, ông bà và bà con trong họ.

Đất Hương Sơn là đất vườn, đặc sản là cau, bưởi, mít. Cau bổ ra từng miếng sấy khô gửi xuống Vinh bán. Năm ngày một lần, có chuyến đò ngược xuôi chở mít, bưởi... xuống bán ở chợ Vinh. Chiều ra đò, ngủ một đêm, sáng ra đến Vinh. Đêm nằm trên đò nghe tiếng chống đò (vì sông cạn) xen lẫn tiếng ngân nga những câu Kiều hòa với tiếng nước rào rạt bên mạn thuyền. Về mùa bổ cau, cả nhà cùng với những người đến giúp việc, quây quần dưới những ngọn đèn dầu lạc, ngồi bổ cau suốt đêm để kịp thời vụ. Đêm khuya, vãn câu chuyện, khi mọi người thiu thiu buồn ngủ, Ông Cháu (người giúp) liền ngâm lên những đoạn Kiều. Vì thế, chúng tôi đã thuộc và thấm truyện Kiều từ tấm bé.

Lúc nhỏ ở quê, sau lớn lên, dù học ở đâu, cứ đến hè là được về quê chơi. Nhóm chúng tôi, anh em con chú con bác, tha hồ chạy nhảy, bôi nhựa mít đưa lên cao để bắt ve sầu. Chiều chiều rủ nhau đi tắm sông, nước sông Ngàn Phố trong suốt nhìn thấy tận đáy. Lúc học ở Pháp, mấy anh em người Hà Tĩnh cùng nhau trò chuyện, nao nao nhớ cảnh quê nhà:


Nước sông Ngàn Phố trong veo
Chiếc đò xuôi ngược mái chèo thảnh thơi
Khi mô lặng gió yên trời
Ta về Thịnh Xá(2) tắm nơi Bãi Bè(3).
Chiếc đò Ông Cháu xuôi Vinh
Bưởi, bòng, chuối, mít, lênh lênh một đò
Đêm khuya nghe giọng ai hò
Nhớ sông Ngàn Phố, nhớ đò chợ Phiên.


Họ ngoại tôi ở làng Thịnh Xá, cách làng tôi khoảng hơn 1 km. Ông ngoại tôi đỗ Cử nhân, không làm quan, chỉ ở nhà. Cậu tôi là em mẹ tôi cũng đỗ tiến sĩ, nhưng không làm quan, học quốc ngữ, tiếng Pháp đến Thành chung, sau đi dạy, là một giáo viên có uy tín.

Các O tôi đều lấy chồng ở các làng lân cận, chúng tôi thường đến thăm, ở lại chơi với các anh chị con các O, có khi đến vài ba ngày. Có O lấy chồng là dòng dõi Lê Hữu Trác, tức Hải Thượng Lãn Ông, quê ở Hưng Yên, đỗ quan võ. Không muốn làm quan thời vua Lê, chúa Trịnh, ông bỏ quan vào ở một cái ấp vùng bán sơn địa ở Hương Sơn, làm thuốc rất nổi tiếng. Những tác phẩm ông để lại có giá trị lớn còn lưu truyền mãi đến ngày nay. Kế tục truyền thống của cha ông, người em con O tôi là Lê Hữu Hà sớm tham gia cách mạng, làm đến Vụ trưởng, chán cảnh "triều đình" xin về hưu non. Anh học Đông y, làm thuốc, ra một tờ tập san về Y học dân tộc. Sau khi anh vào Bà Rịa, nghĩ đến bà con ở quê thiếu ruộng, anh cùng người anh cả kiếm đất ở Xuyên Mộc, lập một cái ấp, rủ bà con ở Sơn Hòa vào làm ăn. Đến nay đã có khoảng trên 50 hộ, gần 300 người ổn định cuộc sống.

Nói đến làng quê, cũng là nói đến sự quyến luyến với thiên nhiên, với cảnh những lũy tre, những đồng ruộng, những vườn cây mùa này mùa khác đủ màu sắc. Đặc biệt, ký ức của tôi đậm nét hình ảnh cây đa. Trước xóm, có một cây đa, không biết mấy trăm năm rồi. Hồi ở Pháp, khoảng năm 1960, được tin người ta đã đốn mất cây đa, tôi giật thót mình và cảm thấy đau xót vô cùng. Thời thơ ấu chiều chiều, khi trời nhạt nắng, chúng tôi rủ nhau ngồi gốc cây đa, nhìn ra cánh đồng. Tôi viết một bài bằng tiếng Pháp về cây đa xưa, đăng ở một tạp chí. Bài viết nêu lên được tình cảm của người Việt Nam đối với quê hương, làng xóm, gây ấn tượng sâu sắc với độc giả nước ngoài. Bài ấy, sau viết lại bằng tiếng Việt được NXB Giáo dục trích một đoạn đưa vào sách lớp ba gọi là "Cây đa quê hương". Về việc này, nảy ra một chuyện nho nhỏ nói lên quan điểm văn học hồi đó. Trong bài có câu: "Chúng tôi ngồi dưới gốc cây đa mà thoáng nghe được từ trên ngọn cao nhất trong vòm lá, gió thổi vi vu, chim kêu, có những tiếng như cười như khóc...". Thế là Tòa soạn Nhà xuất bản Giáo dục đề nghị bỏ chữ "như khóc", với lý do là không nên gây cho các em tư tưởng bi quan. Tôi nói mãi không được, sách giáo khoa vẫn bỏ từ "như khóc". Tất cả câu đó không thành câu văn nữa!

Nói đến quê hương là nói đến cảnh sống chung, cảnh sống cộng đồng, họ hàng gắn bó thân thiết. Mỗi gia đình tuy có nhà riêng, vườn riêng, nhưng ngày giỗ, ngày tết, lúc làm cửa, làm nhà, lúc ốm đau, tang ma, cưới xin... đều có sự giúp đỡ của chú, bác, cô, cậu... Dù đi xa cũng vẫn nhớ về quê hương, họ hàng. Tôi có ông bác, vào Sài Gòn đã mấy chục năm, sau ở Thủ Đức, trước khi mất, ông làm một cái nhà thờ, tuy không lớn, nhưng cũng là nơi bà con tụ tập lại hàng năm một, hai lần. Tết năm 1993, hơn 20 người bà con nội ngoại họ Nguyễn Khắc gặp nhau tại đây đón năm mới, trong đó có một bà đi từ Năm Căn, Cà Mau cũng đến họp họ.

Nói đến quê nhà, không thể quên các nhà thờ họ, nơi họp mặt bà con đông vui những ngày giỗ, tết. Thường khi, bà con còn cử đoàn đại biểu sang Nam Đàn (Nghệ An) dự giỗ tổ. Bên đó có nhà thờ Tổ, là một ông quan to từ thời nhà Lê, lúc đầu vào Nghệ An, sinh con cháu, sau di cư sang Hà Tĩnh, thành một chi của họ Nguyễn Khắc ở Hương Sơn.

Nhà thờ họ ở làng tôi cách nhà tôi khoảng non nửa km. Nhân dịp sửa chữa lại trước cổng có hai cái cột, bà con muốn để một đôi câu đối chữ nôm. Anh em ra Hà Nội bàn với tôi về nội dung câu đối. Lúc đầu có ý vế đầu nhắc lại công ơn tổ tiên cho con cháu nhớ, vế sau nói lên sự đóng góp của dòng họ đối với đất nước. Tôi góp ý là như vậy xa xôi quá và hơi huênh hoang, vì trong làng còn có những dòng họ khác nữa, người ta nhìn vào không hay lắm. Sau đồng ý để hai câu như sau:



"Công đức tổ tiên dựng nên dòng nên họ

Nghĩa tình con cháu tô đẹp xóm đẹp làng"


Bà con Nguyễn Khắc sau cách mạng rời bỏ quê hương, phần lớn tập trung ở Hà Nội, từng đợt đều có đóng góp sửa sang nhà thờ, mộ tổ. Nhờ có chú Giang là người rất tích cực, làm như con thoi liên lạc giữa bộ phận ở Hà Nội với bà con trong quê, nên tình cảm họ hàng đã dần dần được khôi phục lại, nhà thờ họ cũng được giữ gìn tốt.

Đối với thế hệ chúng tôi, tình cảm quê hương họ hàng sâu sắc như vậy. Sau khi thế hệ này qua đi, thế hệ trẻ lớn lên, tình cảm quê hương họ hàng này có còn hay không? Và có nên chủ trương cố gắng giữ lại hay không? Đây là một câu hỏi đặt ra đối với các nhà sử học, xã hội học...

Theo kinh nghiệm các nước Tây Âu đã công nghiệp hóa, như ở Pháp chẳng hạn, tình cảm họ hàng đã tan rã hết. 85% ra ở thành phố, làng còn rất ít người, hầu hết là người già. Nếu còn một số ít thanh niên ở lại, thì cũng đầy đủ phương tiện để đến vui chơi, giải trí ở thị trấn gần đó. Cộng đồng trong làng xóm coi như không còn.

Ở ta, không nói đến thời kỳ đảo lộn của những năm chiến tranh, mấy năm cải cách ruộng đất đã phá hoại rất nhiều tình cảm nên thơ này. Bây giờ hòa bình rồi. Đảng và Nhà nước ta đã sửa sai từ lâu quan hệ tình cảm họ hàng đang có chiều hướng khôi phục. Nhưng chiều hướng này sẽ như thế nào là vấn đề nên nghiên cứu để biết hướng đi của xã hội sau này.

... Nhưng thôn quê cũng có những cảnh rất ngột ngạt mà tôi đã được chứng kiến từ lúc còn bé và vẫn nhớ mãi. Cảnh người chị con bác tôi phải ép buộc lấy người chồng mình không muốn, chuyện ông chú tôi lấy người vợ Huế cũng xôn xao, cảnh mất vệ sinh, ao tù nước đọng, cúng tế cầu mưa, trị bệnh, v.v. Những điều lạc hậu này làm cho tôi rất băn khoăn.

Năm 1963, lần đầu tiên trở lại quê hương sau 26 năm trời xa cách, tôi vô cùng xúc động và xót xa trước tình cảnh cơ sở vật chất trong làng xã chưa thay đổi gì. Đường sá vẫn ngoằn ngoèo chật hẹp. Rồi năm 1981, về một lần nữa cũng thế. Hôm ấy trời mưa nhỏ. Con đường ngang nối tiếp giữa Sơn Hòa và Thịnh Xá qua 40 năm trời vẫn lầy lội như cũ, phải xắn quần lên cao mới đi được, làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều. Sau này, tuổi già không thể về quê được nữa, cũng được tin là đã có một cái cầu qua sông, xe ô-tô có đường đến tận làng, một số nơi điện đã vào từng nhà. Nhưng dẫu sao vẫn là sự thay đổi quá ít. Điều quan trọng nhất là bây giờ số đông họ hàng không còn ở quê nữa mà đã ra thành phố. Không hiểu quá trình đô thị hóa có cho phép cái họ hàng này tồn tại nữa không?

Tôi đến tuổi đi học thì việc thi chữ Nho đã bị bãi bỏ, nên thầy tôi cho đi học chữ quốc ngữ và trường Pháp - Việt. Điều lạ là thầy tôi rất giỏi chữ Nho nhưng lại không dạy chữ Nho cho tôi. Chỉ một lần, khi tôi đã 15, 16 tuổi gì đó, ông có cho tôi học một bài thơ Đường mà ông cũng thích, đến nay tôi còn nhớ:



Xuân miên bất giác hiểu

Xứ xứ văn đề điểu

Dạ lai phong vũ thang

Hoa lạc tri đà thiểu


Tản Đà dịch:



Đêm xuân một giấc còn mê

Tiếng chim đâu đã bốn bề xôn xao

Hồi hôm gió táp mưa rào

Chỉ e hoa rụng biết bao nhiêu cành


Sau này ngẫm lại thấy bài dịch của Tản Đà thật hay, nhưng không đúng "tứ" của bài thơ gốc. Tứ của bài gốc là trí tuệ - triết lý, của bài dịch là trữ tình - lãng mạn. ở trường Pháp-Việt, tiếng Pháp được học rất kỹ, vì tiếng Pháp hồi đó là chìa khóa mở đường. Qua sáu năm tiểu học đỗ bằng Rime (Primaire), được coi là hạng có học, về làng không phải đắp đường, đắp đê. Sau bằng Rime mới thi vào trường Thành chung (collège). Muốn thi đỗ bằng Rime phải viết đúng chính tả một bài tiếng Pháp rất dài và làm một bài văn tiếng Pháp ít lỗi chính tả. Viết tiếng Pháp đúng chính tả rất khó, vì số ít, số nhiều viết khác nhau, lại có chữ giống cái giống đực, mà không rõ lý do, khó hiểu quá. Về giống đực, giống cái có một chuyện nhỏ tôi nhắc lại cho vui: Năm 1992, có bà Bộ trưởng của Chính phủ Pháp phụ trách việc phát triển ngôn ngữ Pháp trên thế giới sang Hà Nội làm việc. Theo đề nghị của Sứ quán Pháp, tôi đến cuộc họp có vài chục anh em dự và được mời phát biểu ý kiến. Tôi nói nghiêm túc đâu vào đó. Theo thói quen truyền thống, sau lúc nói nghiêm túc rồi tôi nói: "Nếu bà Bộ trưởng cho phép, tôi xin kể chuyện tiếu lâm cho vui". Bà Bộ trưởng nói: "Vâng, xin ông cứ thoải mái thôi, chả có gì cả". Tôi nêu vấn đề là tôi học tiếng Pháp rất khó về giống đực giống cái. Bà cũng biết là con trai hay tò mò, thầy giáo cấm thì chúng tôi giở từ điển ra để tìm. Chúng tôi rất tức giận là tại sao cái bộ phận của đàn ông mà chúng tôi tự hào lại là giống cái, mà bộ phận của đàn bà lại được mang giống đực. Hồi ấy, tôi không dám hỏi thầy giáo, vì nếu hỏi như vậy thì thế nào cũng bị đuổi học, đành phải ôm cái thắc mắc hơn 70 năm nay. Nay tôi gần 80 tuổi rồi, may mà được gặp bà Bộ trưởng, tôi xin đặt câu hỏi này. Thế là cả phòng cười ồ lên vui vẻ.

Tôi học ở trưởng collège Vinh, một trường có tiếng nhiều học sinh giỏi. Trên lớp chúng tôi có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đức Nguyên (tức Hoài Thanh)... Cả tuần học tiếng Pháp, chỉ có hai giờ tiếng Việt, một giờ chữ Hán, sách in từ bên Pháp như cho học sinh Tây, không có gì là Việt Nam cả.

Câu đầu tiên của sách sử ký là: "Tổ tiên chúng ta là người Gaulois...". Câu này là điển hình thể hiện chính sách của thực dân Pháp muốn đồng hóa lớp trí thức các thuộc địa để cai trị. Tôi thích nhất là sách địa lý, địa lý nước Pháp, địa lý thế giới, có nhiều bản đồ nhiều mầu, in đẹp, nhìn vào là nảy mơ tưởng đi xa. Có quyển sách kể một chuyến đi vòng quanh nước Pháp của hai đứa trẻ con sau khi Pháp thua Đức năm 1870, phải nhượng lại cho Đức hai tỉnh Alsace, Lorraine. Quyển này cùng quyển "Không gia đình" đã khơi gợi trong tôi những cảm xúc sâu sắc đến mãi sau này, khi sang Pháp học, tới kỳ nghỉ hè, tôi xách xe đạp đi suốt một vòng qua nhiều nơi mà hai đứa trẻ đã đi qua.

Trong thời gian học collège Vinh, ngoài việc học bài ở lớp, tôi say mê hai việc: Đọc sách truyện bằng tiếng Pháp, việc này có lợi là giúp luyện tiếng Pháp; việc thứ hai là đá bóng.

Trong các thầy giáo người Việt, người để lại ấn tượng sâu sắc nhất là thầy Trần Đình Đàn. Thầy dạy Pháp văn rất giỏi và đặc biệt là thầy làm cho chúng tôi say mê cách mạng Pháp, dạy văn của các lãnh tụ cách mạng Pháp, thực chất là thầy muốn truyền lòng yêu nước cho chúng tôi. Sau này, năm 1992, lúc được gặp lại thầy ở Đà Nẵng, thầy đã 90 tuổi, tôi vô cùng xúc động.

Năm 1930-1931, khi Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ, Pháp rất chú ý đến trường collège Vinh. Nơi đây thỉnh thoảng có truyền đơn xuất hiện, nơi đây tập trung con em nhà khá giả, có học thức. Pháp nghi học sinh rải truyền đơn và cắm cờ búa liềm trên tháp nước là chỗ cao nhất của thành phố. Để uy hiếp tinh thần, Pháp đưa Cụ Ngáo là đao phủ của triều đình Huế ra chém hai người cộng sản trong sân trường, ngay trước mắt học sinh. Sau đó, trường bị đóng cửa. Chúng tôi cũng được nghe tin đồn về vụ đàn áp cuộc biểu tình rầm rộ ở Bến Thủy. Tuy không hiểu cộng sản là gì cả, nhưng cũng có một tinh thần thấy người cộng sản chống Pháp là tốt, thế thôi.

Sau khi chuyển vào Huế học và đỗ Thành chung, năm 1931, tôi ra Hà Nội học lớp tú tài trường Bưởi (tức trường Chu Văn An bây giờ), ở nội trú, vào ăn cũng xếp hàng, đi ngủ cũng xếp hàng... tôi chưa quen, viết thư về cho thầy, tôi kể: Trường này khó chịu lắm. Cụ trả lời: "Khó chịu thì chịu khó đi cho nó quen". Trường Bưởi có điều rất thích thú là ở sát ngay Hồ Tây, chiều chiều gió mát rượi. Sân thể thao rất rộng. Học xong ra sân tập chạy, đá cầu, chơi bóng rổ, bóng đá rất thú vị. Tôi là vận động viên của nhà trường, hăng hái tham gia các đội thi đấu. ở đây, hiệu trưởng, tổng giám thị và giáo viên phần lớn đều là người Pháp. Trong số ít giáo viên người Việt, tôi nhớ nhất là thầy Dương Quảng Hàm. Chính nhờ thầy Hàm mà chúng tôi được học hầu hết các bài văn xưa của Việt Nam, thưởng thức văn chương Việt Nam, nếu không sẽ bị văn chương Pháp lôi cuốn hết. Tôi còn nhớ bài của Lê Quý Đôn có câu:



Mẹ ơi con muốn lấy chồng

Con ơi mẹ cũng một lòng như con"


Thầy cũng giảng cho học sinh nghe, chứ không tránh né. Lớp trẻ sau này, chương trình học bị cắt xén nhiều, "Cung oán ngâm khúc", "Chu Mạnh Trinh" đều không được học.

Sau khi đỗ tú tài rồi, chúng tôi vào trường Đại học Y khoa Hà Nội. Điều làm tôi thích thú là ở đây, ngay từ năm đầu học cơ bản đã được đi vào bệnh viện, tiếp xúc với bệnh nhân, khám lâm sàng rồi chẩn đoán cho ra bệnh. Đó là cả một quy trình suy luận rất phức tạp. Nhờ đó mà biết được tình trạng bệnh lý ở nước ta (ở Pháp thì khác, sinh viên năm thứ nhất không được sờ mó gì đến bệnh nhân). Nhưng đến năm thứ tư, đòi hỏi kiến thức mở rộng ở tầm nghiên cứu cao hơn thì học ở trong nước không được thỏa mãn, vì Pháp chỉ cử những giáo viên trình độ trung bình sang trường y của thuộc địa. Vì vậy, anh em ai cũng muốn những năm sau cố gắng sang Pháp học cho được, dù phải tốn kém nhiều.

Thời đó, Đại học Y khoa Hà Nội thuộc phạm vi hành chính của Đại học Y khoa Paris, nên từ Đại học Y khoa Hà Nội chuyển sang Đại học Y khoa Paris không khó khăn gì. Nhờ gia đình thông cảm và cố gắng tạo điều kiện, năm 1937, hết năm thứ hai, tôi được sang Pháp học.

Lúc về quê chào bà con trước lúc ra đi tôi còn nhớ các cô, các cậu, các dì cùng bạn bè ra Bãi Bè đưa tiễn rất đông. Một cô nói đùa: "Khi mô về thì phải mang một cô đầm tóc vàng nha!". Một cô khác hỏi, bây giờ đi Pháp nhà phải gửi cho cháu bao nhiêu tiền? ở nhà đã tính rồi, gia đình sẽ phải gửi cho tôi 100 đồng mà lương thầy tôi lúc đó là 200 đồng, tức là một mình tôi ở Pháp tiêu một nửa số tiền lương thầy tôi, bằng cả mười mấy người ở nhà. Vì vậy tôi không dám trả lời, đành lờ đi.

Lên đường đi Pháp học, tôi rất hào hứng, thế là sẽ được toại nguyện. Mơ ước lớn nhất là học để đạt cho được cái học vị cao nhất đối với người Việt Nam lúc đó, cũng như sinh viên Pháp, là Nội trú các bệnh viện Paris.

Từ Vinh vào Huế ghé qua Đà Lạt rồi vào Sài Gòn, tôi ra đi theo chuyến tàu thủy của hãng Nhà Rồng (hồi ấy chưa có máy bay). Nhà mua cho vé hạng ba, nhưng tôi đổi sang hạng bốn cho rẻ, dành tiền mang sang Pháp. Do đó, có dịp ngủ cùng chỗ với hành khách hạng nghèo, như lính Pháp sang Đông Dương làm nghĩa vụ hồi hương về nước.

Qua bốn tuần lênh đênh trên biển, đến cảng Marseille, một cảng lớn nhất châu Âu hồi đó. Lần đầu tiên được thấy một cảng công nghiệp lớn, nhìn ngắm hàng trăm chiếc tàu thủy, hàng chục km đường, xe cộ, tàu hỏa đi lại tấp nập, tôi bâng khuâng nghĩ đến nước mình không biết bao giờ mới có được cảnh hiện đại này.

Đến Paris, tôi vào ngay cư xá của sinh viên. Đây là một khu vực khá rộng, có hàng chục nhà cho sinh viên ở. Mỗi nước có một nhà riêng, từ 100 đến hơn 200 người ở. Nhà Đông Dương từ cửa đi vào có cái đầu rồng, mái chùa, cột sơn son thiếp vàng, có khoảng 100 sinh viên, một nửa là sinh viên Việt Nam, còn lại là sinh viên Pháp, con em quan chức Pháp ở Đông Dương.

Cư xá sinh viên ở một cửa ô Paris, có vườn, có sân bãi rất đẹp. Sáng đi học, chiều về tự học, không có sinh hoạt chung. Tôi sang đến nơi đã cuối tháng tám, phải chuẩn bị để đầu tháng 10 thi ngoại trú ở các bệnh viện. Sinh viên chia thành ba cấp. Sinh viên ưu tú năm thứ nhất đến năm thứ hai được thi ngoại trú, năm sinh viên tuyển lựa một ngoại trú. Đỗ ngoại trú xong, học thêm hai năm nữa được thi nội trú. Thi nội trú rất khó, 8 đến 10 người mới tuyển được một người nội trú.

Đỗ ngoại trú xong, tôi đi xuống bệnh viện để thực tập. ở trường Đại học Y Hà Nội, tôi đã được đọc sách tham khảo nhiều. Đến đây, quan trọng nhất là trong lúc thực tập làm sao tiếp xúc được với một giáo sư giỏi nổi tiếng về lâm sàng. Bao giờ tôi cũng đến rất sớm, y tá trưởng cho là nghiêm túc và giúp đỡ cho làm. Nhờ đã quen việc khám lâm sàng trong hai năm ở Đại học Y khoa Hà Nội, tôi dần dần quen việc. Một thời gian ngắn, các anh nội trú giao cho tôi theo dõi một bệnh nhân, trình bày bệnh án để thảo luận ở giảng đường. Có hàng chục người dự và có cả giáo sư. Giáo sư thường hay hỏi vặn lại để dạy thêm cho mình. Hôm đó tôi trình bày mạch lạc, được giáo sư khen là trình bày rất tốt, không ngờ là người nước ngoài mà biết tiếng Pháp lưu loát như vậy.

Việc chuẩn bị thi nội trú là một quá trình hết sức công phu. Sau kỳ thi viết khá chặt chẽ, việc thi nói cũng rất đặc biệt. Phải nói hai đề tài chỉ trong 10 phút trước một ban giám khảo 6, 7 người, có một vị giáo sư tóc râu bạc phơ trông rất đáng sợ, trước hàng mấy trăm sinh viên. Có những người học giỏi, khám bệnh tốt nhưng thiếu bình tĩnh vững vàng, sắp xếp không gọn, quá 10 phút mà không xong coi như hỏng. Sau này nghĩ lại thấy đây là một kiểu thi nhằm tạo ra những con người có tư duy nhanh, khái quát nhanh.

Hồi đó có 3 ngành Y: Nội khoa, Ngoại khoa và Sản khoa. Thường những sinh viên giỏi đi khoa nội. Tôi cũng tự hào nên chọn khoa nội. Trong nội khoa, cao nhất, khó nhất là bệnh trẻ con. Tôi quyết định đi vào Nhi khoa.

Trong hai năm 1937 - 1939, cuộc sống của tôi rất đều đặn, sáng đi bệnh viện làm lâm sàng, một rưỡi chiều vào thư viện đọc sách tham khảo, từ bốn giờ chiều đến bảy giờ tối đi nghe bài giảng ở các giảng đường, tối còn học thêm với anh em cùng nhóm. Chỉ có chủ nhật và một tháng nghỉ hè là đi chơi thoải mải.

Nhờ có tiền vé tàu để dành lại, tôi mua một chiếc xe đạp và bộ đồ cắm trại. Hồi đó là 1938, Mặt Trận Bình Dân Pháp lớn mạnh, công nhân được nghỉ hè. Chưa có nhiều ô-tô, họ tổ chức đi xe đạp từng đoàn. Một màng lưới chỗ nghỉ gọi là Quán trọ thanh niên được tổ chức khắp nước Pháp, cứ cách khoảng 50km có một quán, tại địa điểm các trường học, trang trại hoặc lâu đài cũ bỏ trống. Phòng ngủ sáu, bảy giường, giá rẻ, sẵn bếp, nồi niêu xoong chảo, mỗi người tự mua thịt, cá, bánh mì về ăn, khỏi phải vào khách sạn tốn tiền. Sinh viên Việt Nam cũng như Pháp không có ai đi, đến các quán trọ tôi làm quen ngay với anh em công nhân, giáo viên nghỉ hè đi chơi.

Hè đầu tiên, tôi đi từ Paris đến Chartres qua Bordeaux đi vòng vèo đến vùng núi Pyrénées vòng lên Auvergne quay về Paris, tất cả khoảng 2.000 km. Mỗi ngày chỉ đi từ sáng đến trưa, chừng 100km, chiều du lịch tham quan vùng đấy. Gặp ai đi cùng đường, mình đi theo, đi khác đường đến chỗ rẽ là chia tay nhau, quen được rất nhiều người, đi được nhiều nơi, lưu giữ nhiều kỷ niệm thú vị. Đi xe đạp như vậy được ngắm đồng ruộng, núi rừng, phong cảnh rất đẹp, có dịp gặp gỡ nhiều tầng lớp, hiểu thêm xã hội, văn hóa nước ngoài. Anh em sinh viên mình sang bên đó không bao giờ tiếp xúc được với người nông dân, ngay công nhân ở thành phố cũng khó. Tôi còn nhớ có lần ở vùng Auvergne, rất xa xôi hẻo lánh, tối rồi mà quán trọ còn xa, xin ngủ nhờ ở nhà một người nông dân, họ cho ngủ ở góc nhà. Hỏi hố xí đâu, họ chỉ ngay chuồng bò, mình cứ vào đấy, phân bò phân người lẫn lộn. Người nông dân Pháp trước năm 39 cũng rất ít máy móc, đa số cày bằng ngựa, đến năm 1950, cơ giới hóa mạnh mới thấy được bước tiến nhảy vọt của xã hội Pháp từ năm 37, 38 đến năm 50. Năm 1960 có dịp trở lại một vài vùng, thấy đã có sự thay đổi hoàn toàn khác trước.

Đến năm 1939 là lần cuối cùng tôi đi nghỉ hè ở nước Pháp. 2-9-1939, chiến tranh bùng nổ, toàn bộ việc học của tôi bị đảo lộn hết. Tuy được chỉ định làm nội trú ở bệnh viện Trousseau (Bệnh viện trẻ em lớn ở Paris), không phải lo về công việc và cuộc sống hàng ngày, nhưng chiến tranh là một cái đột xuất, tôi không hiểu gì hết. Tôi gần như hoang mang. Tình hình trong nước như thế nào, vị trí chỗ đứng của mình ở Việt Nam sẽ như thế nào. Từ trước đến lúc bấy giờ, tôi chưa bao giờ suy nghĩ gì đến vấn đề chính trị cả. Suốt từ nhỏ cho đến lúc học Pháp, tôi chỉ lấy hai việc làm vui là học tập và thể dục thể thao. Hồi đó chưa có ti-vi nhưng năm 1937, tôi thấy có mấy người bạn Pháp (mà sau tôi mới biết là Do Thái) đón nghe tin ở Đức một cách lo lắng, lại thấy nhiều người từ Tây Ban Nha sang Pháp rất đông và xin cư trú. Tôi cũng chẳng biết Tây Ban Nha là như thế nào? Franco, Hitler là như thế nào?

Cuộc chiến tranh Pháp - Đức, dân Pháp gọi là "chiến tranh buồn cười". Sau này tôi mới hiểu là Pháp muốn thúc đẩy Hitler đánh về phía đông rồi tiến đánh Liên Xô. Trong giai cấp thống trị Pháp, bên chính quyền cũng như quân đội, Hitler có nhiều nội ứng bên trong, nên khi Đức quay sang đánh Pháp, chỉ cần ba tuần xong. Sau đình chiến, tình hình ổn định rất nhanh vì Đức đến đâu đã có nội ứng sắp xếp bộ máy hành chính ở đấy. Chính phủ Pháp bị giải tán. Thống soái Pétain đứng lên ký với Đức. Pétain quản lý vùng phía nam nhưng dưới quyền của quân Đức.

Khi trở về Paris, nghe hai vị giáo sư Pháp trao đổi với nhau, một vị nói: "Dù sao Mặt Trận Bình Dân cũng là người Pháp với nhau, Đức chiếm là quân ngoại xâm". Vị kia trả lời: "Tôi thì không chắc, chưa biết bên nào hơn". Tôi rất ngạc nhiên. Tại sao một người Pháp lại muốn quân đội nước ngoài chiếm thủ đô của mình? Đấy là câu hỏi chính trị đầu tiên trong đầu óc tôi.

Đến năm 1941, sau lúc bảo vệ thành công luận án bác sĩ, kết thúc bảy năm Đại học Y khoa, tôi chuẩn bị về nước, nhưng quân Đồng Minh chặn hết tàu thủy, không có tàu thủy về Việt Nam, đành phải mắc kẹt ở lại, tiếp tục làm việc ở bệnh viện Trousseau, và bị mắc bệnh lao năm 1942.

Từ năm 1942 đến năm 1947, trong các đợt chữa bệnh, tôi được ở Sana Saint-Hilaire du Touvet trong một thời gian khá dài. Viện điều dưỡng này là một môi trường văn hóa rất tốt. Ngoài việc đọc nhiều sách, còn được trao đổi với nhiều trí thức, giáo sư về nhiều vấn đề chính trị - xã hội, về những sự kiện nổi bật ở Pháp và trên thế giới, nên hiểu biết chính trị được mở rộng.

Sau khi nước Pháp được giải phóng, các tổ chức chính trị hoạt động sôi nổi. Tuy có một chính phủ chung, nhưng sự tranh chấp chính trị giữa hai phe rất căng thẳng, một phe cộng sản tiến bộ bên tả, một phe bên hữu, trước kia đi với Đức, thân với Mỹ. Trong kháng chiến chống Đức, Đảng cộng sản Pháp là những người cầm đầu. Sau khi Liên Xô đánh thắng Đức, uy tín của Liên Xô và của Đảng cộng sản Pháp lên cao, không chỉ trong giai cấp công nhân, mà nhiều nhà trí thức lớn cũng vào Đảng cộng sản Pháp. Điển hình như ông Pierre Curie (người được Giải thưởng Nobel về vật lý), họa sĩ nổi tiếng Picasso, nhà văn vào tầm cỡ bậc nhất Aragon.

Thông qua một số hoạt động trong phong trào Việt kiều hướng về Tổ quốc và giải quyết mù chữ cho anh em ở các trại, tôi thấy Đảng cộng sản Pháp chính là người giúp đỡ tạo điều kiện cho phong trào trong bước đầu nhen nhóm này. Tôi lại có dịp gần gũi những đảng viên Đảng cộng sản Pháp nên được theo dõi sát cuộc đấu tranh giữa tả và hữu ở Pháp trên nhiều lĩnh vực.

Thứ nhất, trong lĩnh vực phúc lợi xã hội, quyền lợi của nhân dân Pháp. Có thể nói là năm 1945-1946, Đảng cộng sản và giai cấp công nhân Pháp đã giành thắng lợi lớn về nhiều mặt: Quyền dân chủ, đạo luật về Công đoàn, về cải cách giáo dục, về bảo hiểm xã hội, an toàn xã hội... Cụ thể như tôi chẳng hạn, bị bệnh lao phải chữa rất lâu dài, tốn kém, nhưng vì tôi đã làm việc ở các bệnh viện, nên được quỹ bảo hiểm xã hội đài thọ toàn bộ cho đến khi lành.

Thứ hai, trên trường quốc tế, sau khi Hitler thua, Âu châu chia làm hai bên, một bên chịu ảnh hưởng của Liên Xô như Ba Lan, Tiệp, Đông Đức, Hungari, Bungari... dần dần theo con đường xã hội chủ nghĩa trong đó Đảng cộng sản lãnh đạo. Bên các nước Tây Âu, ở nhiều nước phái hữu nắm quyền. ở Pháp phái hữu là Đảng gọi là MRMT, có hậu thuẫn quần chúng khá mạnh. Do ảnh hưởng của Mỹ ngày càng mạnh, nên Đảng xã hội thiên về hữu, tách bỏ Cộng sản, kết hợp với đảng MRMT. Đảng cộng sản bị cô lập. Cũng vì thế mà đầu năm 1946, còn có khả năng điều đình, Pháp và Việt Nam nhượng bộ nhau, dẫn đến Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và hội nghị Fontainebleau. Dần dần khi chính phủ Pháp thiên về hữu thì cuộc điều đình này thất bại, đến cuối năm 1946 thì ngã ngũ hẳn, bước sang một giai đoạn mới, Pháp trở lại đánh chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Mỹ ủng hộ Pháp trong việc đánh Đông Dương nhằm tranh thủ Pháp ủng hộ Mỹ trong việc thành lập riêng khối Đại Tây Dương, chuẩn bị đánh Liên Xô. Đến đầu năm 1947 thì lập trường các phe phái đã rõ ràng: Đảng cộng sản Pháp vừa chống Mỹ vừa chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, vừa bảo vệ quyền phúc lợi của nhân dân trong nước.

Thực tiễn trên đây là cơ sở quan trọng giúp tôi xác định lập trường dứt khoát sau mấy năm đọc sách vở và suy nghĩ. Qua năm 1947, tuy chưa vào Đảng, nhưng tư tưởng lập trường của tôi đã nghiêng hẳn về học thuyết Mác Lê-nin, xuất phát từ ba cơ sở.

Đầu tiên là con đường chính trị, từ lập trường yêu nước đến lập trường Mác-xít cộng sản.

Cơ sở thứ hai là khoa học. Sau tám năm học ngành Y không hành nghề mà lại đi làm chính trị, vậy tám năm học có vô ích không? Pháp có câu châm ngôn: "Vốn văn hóa của con người là cái gì còn lại sau khi kiến thức đã quên hết". Những kiến thức y học đã để lại cho tôi cái vốn văn hóa Y khoa. Cái vốn văn hóa đó là con đường tốt nhất dẫn tôi đến học thuyết Mác. Quá trình từ khi khám lâm sàng, tiếp xúc người bệnh, thăm hỏi bệnh tình, đến khi thầy thuốc trực tiếp nhìn da, mắt, nghe tim, phổi, sờ gan... của người bệnh rồi tiếp tục làm các xét nghiệm về sinh, hóa, tế bào, v.v. cuối cùng mới tổng hợp lại, tìm căn nguyên sinh ra bệnh là cả một quy trình rất biện chứng, kết hợp cả chủ quan của bác sĩ, chủ quan của người bệnh với khách quan của xét nghiệm bằng khoa học cơ bản. Tư duy biện chứng nằm trong y học duy vật biện chứng làm cho tôi chấp nhận dễ dàng Chủ nghĩa Mác.

Thực tế cuộc sống qua các chế độ xã hội khác nhau, cuộc đấu tranh giữa các đảng phái trong nội bộ nước Pháp, v.v. làm sáng tỏ lịch sử, soi sáng một số vấn đề trong những sách về duy vật lịch sử mà tôi đã đọc. Học thuyết Mác đối với tôi là tư duy khoa học, không phải là một cái khẳng định một lập trường nhất định. Vì thế, sau này dù có đi vào chính trị dù có vì đơn giản hóa mà chấp nhận Stalin đi chăng nữa, thì cũng xuất phát từ thực tế mà nói chuyện chính trị, chứ không phải xuất phát từ một khẳng định, một lý thuyết nào.

Cơ sở thứ ba là ngoài tình cảm dân tộc, vấn đề khoa học, có tình cảm quốc tế, là vì qua hoạt động trong phong trào Việt kiều, xóa bỏ được nhận thức về Pháp chung chung như trước, mà phân biệt được rõ Pháp nào, giai cấp nào, xu hướng nào, chính trị nào...

Từ lúc chiến tranh nổ ra năm 1939 cho đến năm 1947, qua tám năm học hỏi suy ngẫm, tìm tòi, tôi đã xác định dứt khoát được chỗ đứng trong cuộc sống, thái độ đối với đất nước, đối với thế giới, chấm dứt được một thời gian phân vân bế tắc khá dài.

Cũng trong thời gian ấy, tôi cũng phải trải qua một giai đoạn trăn trở dai dẳng thậm chí bế tắc về tâm tư tình cảm. Nhắc lại là hồi ở bệnh viện, một hôm sau khi tôi trình bày bệnh án được giáo sư khen, lúc ra về có một cô sinh viên Pháp chạy lại bảo: "Này anh ạ, cho tôi mượn cái bệnh án của anh hôm qua ấy, hay quá, có vài điểm tôi chưa hiểu rõ, để tôi xem lại và nhờ anh giải thích cho". Cô ta kéo tôi lại ngồi ghế trong vườn bệnh viện. Chúng tôi ngồi với nhau hơn 15 phút nói về cái bệnh án ấy. Lúc đầu tôi giật mình vì đây là cô Monique, là hoa khôi của đám nữ sinh viên thực tập tại bệnh viện ấy, được nhiều bạn trai trầm trồ. Nói thật, lâu lâu tôi cũng có để ý một chút, rồi lại thôi, nghĩ rằng đâu đến phần mình, vả lại mình sang đây để đi học. Hôm ấy, lần đầu tiên tôi ngồi gần một người con gái. Ngày xưa, theo quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", hai mấy tuổi đầu rồi, tôi chưa bao giờ ngồi gần một cô con gái Việt Nam nào cả. Học tiểu học, trung học thì con trai một trường, con gái một trường; lên đại học thì hồi đó chưa có con gái Việt Nam học Y khoa.

Từ sau hôm đó rồi quen, có gì khó cô lại đến hỏi tôi. Sau khi gặp nhau nói chuyện nhiều lần trong thư viện theo đề nghị của cô, tôi tham gia nhóm học tập của các cô, cứ hai tuần lại gặp nhau vào một buổi tối ở lớp học. Lúc ra về lại cùng đi tàu điện, mỗi người xuống một ga khác nhau. Có hôm trời mát mẻ, chúng tôi đi bộ đến bờ sông Seine, cùng đi dạo khoảng hai tiếng đồng hồ.

Cứ thế quan hệ ngày càng thân thiết. Gia đình cô mời tôi đến chơi ăn cơm nhiều lần. Ông cụ thân sinh là bác sĩ, có tuổi. Nhà thuộc hạng trung lưu khá giả. Ông bà chỉ có hai con gái. Monique là chị. Tôi nói chuyện với cụ rất thoải mái, trao đổi về y học, văn học cũng thú vị. Đây là một gia đình rất ngoan đạo, có nề nếp. Monique thường nhắc: "Ông cụ, Bà cụ tôi mê anh lắm". Không biết ông cụ bà cụ mê hay cô mê tôi, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục đi học với nhau như thế.

Cho đến lúc chiến tranh xảy ra, tôi giật mình, tôi định đến 1941 thi đỗ xong rồi về nước, Monique không thể cùng về được (vì thời đó chuyện "giao lưu quốc tế", như vậy là không thể được), không thể kéo dài chuyện với Monique được nữa, phải dứt khoát tách rời thôi.

Nói thế nhưng cũng không phải dễ. Tôi vào nội trú ở bệnh viện Trousseau, không có việc gặp nhau một tuần vài lần nữa. Tưởng thế là xuôi. Không biết duyên trời run rủi hay sao mà cô ta lại được chuyển làm ngoại trú ở bệnh viện tôi trực, nên hằng ngày lại gặp nhau. Một hôm trời mưa, làm việc xong, tôi mượn ô của cô y tá đưa cô ra tàu điện ngầm, bà y tá đùa: Ôi hai cô cậu này đẹp đôi đẹp lứa quá! Chúng tôi nhìn nhau cười, nhưng tôi suy nghĩ chưa biết tính sao. Một hôm sau đó, nhân giờ rảnh trong một ca trực đêm, chúng tôi lên sân thượng ngồi chơi. Trời tối, lặng lẽ, khuya rồi tôi mới nói: Bây giờ thế nào Monique nhỉ? Cô im lặng một hồi. Tôi thì biết rõ thế nào rồi. Ngoài trở ngại là Monique không thể theo tôi về Việt Nam, vấn đề lớn nữa là gia đình cô ấy theo đạo. Monique nói: "Ông cụ em có nói với em là không lấy chồng xa, không lấy chồng ngoại đạo". Mà bảo theo đạo thì tôi không thể chấp nhận. Lúc ấy tôi lại sực nhớ trước lúc lên tàu thủy sang Pháp, Thầy tôi trao cho một bức thư dặn: "Khi nào ra đến ngoài biển con hãy mở thư ra". Tôi làm đúng như vậy. Thư Thầy tôi chỉ có mấy dòng: "Thầy biết con sang bên Pháp học hành, chắc Thầy không phải dặn, biết thế nào con cũng thành công, Thầy tin con. Thầy chỉ dặn một điều là nhất định đừng lấy vợ đầm". Giữa chúng tôi có một sự ngăn cách là hai cái bóng của hai ông bố mà thực chất là hai đạo lý, một bên là đạo Khổng, một bên là Thiên Chúa giáo. Đó chính là bức tường ngăn cách. Sau khi Monique nói ý của ông cụ, tôi cũng suy nghĩ và im lặng. Cuối cùng tôi nói: "Bây giờ tôi định thi xong là về nước ngay. Monique lấy chồng đi có mấy người bạn Pháp thích Monique đấy". Cô lắc đầu không trả lời.

Từ đó, cho đến hết nhiệm kỳ Monique chuyển sang bệnh viện khác, bề ngoài tưởng như không có vấn đề gì. Đầu năm 42, khi tôi bị lao phổi thì cô chạy đến thăm ngay. Khi tôi chuyển đến Sana vùng phía nam cách xa Paris, vùng đấy cũng bị Đức chiếm đóng, nên không được viết thư gửi phong bì dán kín mà chỉ được viết vài dòng một mặt, mặt kia đề địa chỉ. Dù hạn chế như vậy chúng tôi vẫn viết thư cho nhau, mặc dù lúc tôi ra đi đã dặn Monique quên đi, quên luôn đi, tôi bị bệnh mặc tôi, Monique lấy chồng đi. Năm 45, sau khi nước Pháp được giải phóng, Monique mới có điều kiện đến thăm tôi. Tôi nói bệnh tình tôi khá nặng, khó sống nổi, mà tuổi của Monique cũng lớn rồi phải dứt khoát đi, đừng thăm viếng gì, Monique về lấy chồng đi. Monique cũng lắc đầu. Đầu năm 1947, Monique đến thăm, tôi nhờ bác sĩ Viện trưởng giới thiệu hồ sơ bệnh án của tôi rất kỹ, cho biết tất cả bệnh tình của tôi để cô ấy không còn hy vọng gì, đừng chờ đợi mất công.

Tình trạng không dứt khoát này kéo dài mãi cho đến năm 1947, lúc sức khỏe khá lên chút ít, tôi về Paris, Monique nhắn tôi lại chơi. Hôm đó, tôi nghỉ tại nhà Monique. Lần đầu tiên chúng tôi ăn nằm với nhau sau hơn tám năm trời bị một ngăn cách lạ lùng. Sáng hôm sau dậy, hai đứa chúng tôi có một sự thanh thản rất lạ lùng. Mấy năm trước, lúc tôi nói Monique đi lấy chồng thì tôi biết tôi tự dối lòng. Hôm ấy, lúc tôi nói: "Giờ Monique đi lấy chồng nhá", tôi nói rất dễ dàng, thốt ra một cách bình thản và Monique cũng chấp nhận. Thực ra ở đây chúng tôi đã trả cho nhau được một cái nợ thành ra bây giờ có thể dứt khoát mỗi người đi một đường được.

Sau này nhớ lại, tôi mới thấy rõ ràng, năm 1942 sở dĩ tôi bị bệnh lao, ngoài khó khăn vật chất (ăn uống thiếu thốn, làm việc nhiều) thì nguyên nhân rất quan trọng là sự bế tắc, khủng hoảng trong cuộc sống về tình cảm cá nhân, về mặt vị trí, chỗ đứng sự nghiệp của mình.

--------------------------------------------

(1) Ngày xưa, đầu tiên là thi Hương để chọn Tú tài, Cử nhân. Người đỗ thi Hương được thi Hội ở kinh đô. Thi Hội để chọn tiến sĩ, (có khoa sau thi Hội, phải thi Đình, tức là vào thi ở cung vua, vua trực tiếp ra bài và chấm). Tiến sĩ chia làm 3 hạng. Hạng nhì là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, tức là Hoàng giáp. Nhiều khoa thi không có hạng nhất (như khoa thi năm 1907 có 4 vị Hoàng giáp).

(2) Làng Thịnh Xá, quê ngoại tôi.

(3) Bãi Bè: Bãi sông để tre, nứa, gỗ
 

Từ làng Gôi Vị đến kinh thành Paris

Nguyễn Khắc Viện

Xem nhanh:

Phần II: HƯỚNG VÊ TỔ QUỐC

Từ sau năm 1947 cho đến năm 1951 , dù vẫn phải tiếp tục chữa bệnh ở các Sana, nhưng khi đã giải quyết được những bế tắc về tình cảm, về vị trí, sự nghiệp... tôi có cảm giác là cuộc sống mình được thông suốt, có định hướng rõ ràng, tập trung vào ba việc: Tự rèn luyện chữa bệnh, tham gia phong trào Việt kiều yêu nước, tham gia chi bộ Đảng Cộng sản Pháp trong bệnh viện.

Việc hoạt động trong chi bộ Đảng Cộng sản gắn liền với việc học tập nâng cao trình độ văn hóa, lý luận để tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh chính trị sôi động trong môi trường sinh viên, trí thức thời bấy giờ.

Nội bộ nước Pháp phân hóa thành hai phe, bên hữu, bên tả. Bên tả, xung quanh Đảng Cộng sản có Công đoàn, một số đảng phái nhỏ, một số trí thức tiến bộ không theo đảng phái nào... Lập trường bên tả lúc đó là đấu tranh cho việc tăng cường dân chủ hóa, cho nhiều đạo luật bênh vực quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kể cả của nông dân, tiểu nông đang bị phá sản do không đủ điều kiện sử dụng nông cụ cơ giới hóa. Về mặt quốc tế, bên hữu theo Mỹ, bên tả theo Liên Xô. Tuy phía Mỹ có lợi thế về tài chính và khoa học kỹ thuật, nhưng về chính trị, văn hóa, tư tưởng thì dư luận nước Pháp nghiêng hẳn về Liên Xô. Qua đại chiến thế giới thứ II, tội ác đẫm máu của phát-xít tiêu diệt một lúc hàng mấy triệu người cho ta thấy chế độ tư bản đến lúc nào đó tỏ ra rất tàn nhẫn, làm cho tinh thần chống chủ nghĩa tư bản lên cao. Việc Liên Xô đánh bại Hitler cứu được Âu châu khỏi thảm họa phát xít là một thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Vì thế học thuyết Mác trở thành trung tâm của cuộc đấu tranh tư tưởng văn hóa ở Pháp cũng như các nước khác ở châu Âu. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều mặt: về chính trị, về đạo lý có những xu hướng khác như truyền thống lâu đời với giáo lý cao siêu của Thiên Chúa giáo, xu hướng dân chủ tư sản, xu thế hiện sinh; hòa bình và chiến tranh; tính Đảng trong khoa học, khoa học vô sản, khoa học tư sản. .. Việc ông Gơrigôri, người được giải thưởng Nobel độc nhất của Pháp, bị cách chức ủy ban Khoa học Nhà nước, lúc phe thân Mỹ lên cầm quyền, gây sự bàn tán xôn xao trong giới trí thức.

Trong môi trường bệnh viện gồm toàn trí thức, những cuộc tranh luận rất sôi nổi. Bệnh viện thường xuyên tổ chức những buổi họp mời các nhân sĩ từ ngoài vào, trong đó có những chính khách và học giả nổi tiếng. Mỗi lần như vậy lại gây nên những cuộc tranh luận trong chi bộ ở trình độ khá cao, vì đảng viên hầu hết đã qua đại học, đã nghiên cứu khoa học, có cả giáo sư.

Hồi đó, vết mổ của tôi còn bị khoét rộng ra tôi chưa đứng dậy đi lại được, nhưng mỗi lần có cuộc họp hoặc chiếu phim, bệnh viện đều bố trí cho ngồi xe lăn, nên tôi đều tham dự được. Nói vậy để thấy người ta tôn trọng quyền chính trị của bệnh nhân chu đáo biết chừng nào.

Lẽ tự nhiên khi các vấn đề trình bày, thảo luận liên quan tới Việt Nam, chiến tranh Việt Nam, thì anh em giao cho tôi chuẩn bị và phụ trách, tôi tích cực tham gia mọi hoạt động. Đến năm 1949 tôi được kết nạp vào chi bộ Đảng tại bệnh viện.

Cũng năm ấy xẩy ra một vụ tôi còn nhớ đến bây giờ. Có vị nghị sĩ Chủ tịch ủy ban về Đông Dương của Quốc hội Pháp đến nói chuyện tại bệnh viện. Vị này là người của Đảng thuộc phe chủ trương chiến tranh kiên trì nhất chống cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đây là một chính khách cáo già, ăn nói hùng hồn, lưu loát, tuyên truyền cho luận điệu Bảo Đại là đại diện cho dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh là một nhóm phiến loạn.

Thuyết trình xong, vị ấy hỏi ai có ý kiến. Tôi lên nói rõ ràng trong hơn 15 phút, dựa vào những thực tế đã nắm được qua nhiều nguồn thông tin, trong đó có cả báo cáo mật của tướng Revers (là tướng chỉ huy quân sự ở Đông Dương) bị tiết lộ mà anh em Việt kiều đã thu thập được, chứng minh rằng 90% nhân dân Việt Nam đều đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, có cả tôi và đa số Việt kiều ở Pháp. Chưa bao giờ có một vị thuyết khách nào đến bệnh viện này lại rơi vào một thế bí như vậy.

Mấy hôm sau đó, có một người thuộc loại phát-xít cực đoan, làm kiến nghị lên Ban Giám đốc bệnh viện bảo "Tay Viện này là một tay chống chính phủ Pháp, ta không thể nuôi ong tay áo mãi, ta không thể tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng nó tử tế như thế này được nữa". Lập tức hầu hết mọi người trong bệnh viện đều kiến nghị lên Ban Giám đốc là không chấp nhận ý kiến của nhóm kia, không phải trên quan điểm là đồng ý kiến với tôi tán thành Chính phủ Hồ Chí Minh, mà trên quan điểm ông Viện làm bác sĩ ở bệnh viện Paris vào đây điều trị là phần phúc lợi của người lao động, không thể nào vì ý kiến chính trị mà tước bỏ quyền lợi đó được. Mặt khác, trong mấy năm ở bệnh viện, tôi là người đứng đắn, nghiêm túc, được mọi người - kể cả Ban Giám đốc cảm mến, nên cuối cùng kiến nghị của bọn phát-xít kia bị gạt bỏ.

Anh em thường phân công cho tôi thảo ra những văn kiện như truyền đơn, phát biểu... in thủ công để phân phát tại chỗ. Tôi cũng tham gia việc giảng dạy văn hóa, lý luận cho Đoàn Thanh niên của Đảng tại bệnh viện công nhân bên cạnh, ở đó có khoảng một nghìn người. Những việc trên cũng là dịp để tôi tự trau dồi, nâng cao trình độ của mình.

Năm 1951, sau khi ra viện, tôi nhận trách nhiệm phụ trách tổ chức Việt kiều ở vùng lân cận ngay cạnh Grenoble. Gần 20 sinh viên Việt Nam ở trường đại học, mà hầu hết là người miền Nam, và khoảng 20 công nhân Việt Nam làm những hãng tư nhân của Pháp gần đó, họp thành một nhóm tổ chức Việt kiều. Lúc này cuộc kháng chiến trong nước lên cao và cuộc đấu tranh của Đảng Cộng sản Pháp chống chiến tranh bắt đầu mạnh nên Việt kiều có chỗ dựa, mọi công việc tiến hành được trôi chảy.

Tôi thường tổ chức học tập văn hóa cho anh em công nhân và phổ biến tình hình chính trị cho anh em Việt kiều, dựa theo tài liệu từ Paris gửi xuống. Ngày Tết thì một tổ chức của Đảng, đặc biệt là Quận trưởng của một ngoại ô thành phố Grenoble cho chúng tôi mượn địa điểm để tổ chức ngày lễ, có đóng kịch, trang trí đàng hoàng, khẩu hiệu hẳn hoi. Công nhân và sinh viên cùng làm rất vui. Ngoài Việt kiều, có mời cả người Pháp đến dự, khoảng chừng vài chục người.

Tờ báo của Đảng Cộng sản địa phương mỗi năm có một ngày hội, tổ chức hội chợ, triển lãm có hàng vạn người đến xem. Chúng tôi làm một gian trưng bày hàng Việt Nam rồi bán, đặc biệt là thức ăn, trong đó chả giò, nem rán bán rất được giá, các bạn Pháp rất thích món này. Khi các tổ chức của Đảng Cộng sản, của phong trào hòa bình có những hình thức ủng hộ Việt Nam hay ra đón những người như anh Henri Martin, thì anh em Việt kiều đều tham gia rất tích cực.

Riêng tôi vì không đi làm, đi học nên có thì giờ trực tiếp tham gia công tác của Đảng bộ Grenoble. Do đó, có điều kiện quen biết các đồng chí lãnh đạo Đảng bộ của tỉnh Touvet, bí thư Đảng ủy tỉnh trưởng, các nghị sĩ, các giáo sư đại học... tạo nên thuận lợi lớn cho công tác. Dần dần tôi cũng trở thành như một nhân vật của tỉnh Grenoble, được các bạn Pháp mến mộ, mời đến nói chuyện. Tôi cũng tham gia viết bài cho tờ báo của Đảng. Trong những đợt tuyển cử, tôi cũng đến chỗ Đảng bộ giúp việc.

Thời gian đó, tôi sinh hoạt ở chi bộ khu phố của Đảng Pháp là chi bộ Ileverte có năm người (hai công nhân ở hai xí nghiệp, một ông kế toán, một bà về hưu và tôi) chia nhau làm những việc như đi bán báo, rải truyền đơn v.v... Thành phố Grenoble có mấy cái cầu bắc qua sông. Ban đêm, chúng tôi lấy hắc ín kẻ lên cầu đá trắng chữ to "Phải ngừng chiến tranh ở Việt Nam". Đề phòng cảnh sát đi tuần bắt gặp, anh em không giao cho tôi trực tiếp kẻ khẩu hiệu, vì nếu tôi bị tóm thì tội nặng hơn công dân Pháp. Tôi chỉ đứng xa, giả vờ như đi dạo mát, nếu thấy cảnh sát đi tuần thì ra dấu hiệu để các đồng chí ấy kịp lánh đi.

Ngoài Đảng Cộng sản Pháp và các tổ chức tiến bộ Pháp, chúng tôi còn quan hệ với hai nhóm chính trị khác: nhóm Algérie, phần đông là công nhân, nhóm Tây Ban Nha. Mỗi lần có hội họp hoặc ngày lễ, ngày tết, chúng tôi đều mời các bạn đó đến dự. Những cuộc gặp gỡ chung như vậy, bên cạnh Việt kiều còn có các bạn Pháp, Algérie, Tây Ban Nha, thể hiện một không khí thân mật gắn bó với nhau trên tình quốc tế như một đại gia đình rất vui. Còn nhớ có lần phong trào hòa bình ở Pháp tổ chức cho tôi trình bày vấn đề Việt Nam. Có một nhóm Pháp thực dân khoảng 12 người định đến quấy phá, gây chuyện. Được chúng tôi báo trước, hôm ấy trên 30 anh em Algérie bước vào phòng với tư thế sẵn sàng đánh trả nếu có kẻ gây rối, làm cho bọn kia phải sợ, ngồi im thin thít.

Trong nhóm Việt kiều hồi đó, có anh Hoàng Cao Tân - cháu nội Hoàng Cao Khải - là luật sư. Anh lấy một người vợ Pháp. Anh cũng vào Đảng Cộng sản Pháp và năm 1954 thì về Sài Gòn. Anh bị chính phủ Diệm bắt bỏ tù một thời gian, sau nhờ có vợ người Pháp nên xin được ra tù và về Pháp ở. Anh vẫn là người yêu nước và luôn luôn tuyên truyền cho tổ chức Việt kiều. Ngoài ra các anh em Việt Nam khác trẻ hơn tôi, sau hiệp định Genève, đa số về miền Bắc.

Gần một năm hoạt động ở Grenoble là dịp để tôi tập dượt công tác tổ chức Việt kiều với hai thành phần chủ yếu là công nhân và sinh viên, mặt khác tạo được mối quan hệ với các tổ chức Đảng và các tổ chức tiến bộ khác của Pháp để sau này về làm việc ở Paris, nơi trung tâm điều hành các hoạt động của Việt kiều tại Pháp.

Việt kiều ở Pháp hồi đó gồm có: Khối đông nhất là những anh em công binh bị bắt sang từ thời 39 - 40, sau chiến tranh không về nước mà ở lại làm công nhân ở các xí nghiệp tư của Pháp; một số anh em sinh viên sang Pháp học từ sau 49 - 50 để trốn việc bị bắt lính cho chính quyền Bảo Đại mà Pháp định thành lập, số sinh viên này ngày càng đông; một số các cụ sang từ trước đại chiến thế giới thứ nhất, có mấy cụ đã từng làm việc với Bác Hồ, như cụ Ty, cụ Mạc, được anh em rất kính nể. Ngoài ra, có một số trí thức ở trong nước sang sau những năm 46 như anh Nguyễn Mạnh Hà, anh Nguyễn Ngọc Bích, Hoàng Xuân Hãn... Một số anh em trước làm thủy thủ, một vài người buôn bán. Việt kiều tập trung đông nhất ở Paris. Tổ chức Việt kiều hồi đó gọi là Văn hóa liên hiệp, anh Phạm Huy Thông phụ trách chung, anh Trần Thanh Xuân phụ trách bên Đảng. Xung quanh hai anh có một nhóm sinh viên và công nhân.

Văn hóa liên hiệp có một văn phòng để in báo và nhận thư từ, có quán cơm, địa điểm để tập hợp anh em. Thường xuyên có những cuộc gặp chung để phổ biến, trao đổi tình hình. Những ngày lễ lớn, đặc biệt là ngày Tết và Lễ Độc lập 2-9, có những cuộc biểu dương lực lượng nhân danh tổ chức Pháp hoặc Phong trào hòa bình, huy động Việt kiều và mời người Pháp đến dự rất đông. Ngoài nội dung chính trị, có cả phần văn nghệ do anh em công nhân và sinh viên trình diễn sau mấy tháng trời tập luyện vất vả vào buổi tối, ngoài giờ đi làm, đi học, kể cả những tháng trước Tết trời rất rét. Điều thú vị nhất là tổ chức thành công được những cuộc biểu dương lực lượng, tỏ rõ thái độ ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh ở ngay thủ đô của nước Pháp.

Thời đó Đảng Cộng sản Pháp đang có uy tín, nhiều thị trấn ở ngoại ô Paris dân bầu thị trưởng là đảng viên Cộng sản. Cứ đến tháng 9 là ngày hội hàng năm của báo l Humanité của Đảng Cộng sản, họ tổ chức tập hợp nhân dân Paris và các tỉnh về dự tại những công viên lớn, những khu rừng lớn trong hai ngày liền. Nhờ danh nghĩa của một chi bộ nào đấy ở Paris, chúng tôi tổ chức triển lãm một gian hàng Việt Nam và gửi kiến nghị lên chính phủ Pháp. Trong hai ngày ấy, các bạn Pháp dùng cơm Việt Nam, đặc sản Việt Nam. Đáng phấn khởi nhất là giữa trung tâm nước Pháp, trong lúc Pháp đang đánh Việt Nam, mà lại có một gian hàng Việt Nam rực rỡ lá cờ đỏ sao vàng. Không có Đảng Cộng sản Pháp thì không sao làm được như vậy.

Ngoài công việc chung, tôi được phân công vấn đề làm thế nào dùng tiếng Việt trong khoa học nhằm giúp anh em Việt kiều nâng cao trình độ tiếng Việt và khoa học để chuẩn bị sau này về nước hoạt động. Được sự cộng tác của một số anh em như anh Nguyễn Hoán, anh Thiềm và sử dụng các quyển từ điển của Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, chúng tôi ra tờ "Khoa học và ứng dụng", theo kiểu tạp chí hai, ba tháng một kỳ.

Hoạt động sôi nổi của tổ chức Việt kiều góp phần hỗ trợ phong trào của Đảng Cộng sản Pháp, của nhân dân Pháp đòi hòa bình, chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, hạn chế khả năng huy động quân nghĩa vụ đi đánh ở Đông Dương.

Để hạn chế tác dụng của phong trào Việt kiều ngày càng lớn mạnh, chính phủ Pháp ra tay đàn áp. Một buổi sáng tháng 12-1952, vào lúc 5 giờ, cảnh sát Pháp ập đến, bắt mấy chục anh chị em, hỏi cung rồi thả, nhưng giữ lại 12 người trong đó có anh Phạm Huy Thông, trục xuất khỏi nước Pháp, tống về giam ở Sài Gòn đến khi ký hiệp định Genève mới thả.

Có hai người thoát được là anh Trần Thanh Xuân và tôi. Hồi đó, tôi ở nhà bà làm thường trực bảo vệ một trường tiểu học ở ngoại ô Paris. Bà này có một người con làm công nhân, nằm cạnh giường tôi hồi còn ở bệnh viện. Bà hay vào thăm con, quen biết tôi và nói sau này anh ra viện nếu cần thì về nhà tôi mà ở. Bà này làm công nhân từ năm 13 tuổi, đến 50 tuổi sức yếu xin được chân bảo vệ ở trường như vậy là thuộc vào hạng bét trong nhân viên nhà nước. Bà chưa được học đến primaire. Hôm cảnh sát đến nhà bà để tìm bắt tôi, không có tôi ở đó, vì tôi đã đề phòng lúc ngủ chỗ này lúc ngủ chỗ khác nên không ở nhà bà từ mấy tháng trước rồi. Khám xét xong, chúng hỏi bà rằng tôi ở đâu. Bà nói không biết. - "Tại sao bà dám chứa chấp một Việt Minh chống chính phủ Pháp?" - "Đấy là quyền của tôi. Nếu tôi chứa chấp một thằng ăn trộm ăn cướp thì tôi phạm tội, còn mời một người ở nhà tôi, ý kiến chính trị của người ấy như thế nào, chuyện này không có tội gì cả". Nhắc lại việc này để thấy tinh thần dân chủ của nhân dân Pháp, họ có truyền thống đấu tranh bảo vệ quyền dân chủ từ Cách mạng Pháp cách đây hơn 200 năm rồi.

Sau vụ bị đàn áp, anh Trần Thanh Xuân đã từng liên hệ với Chính phủ và Đảng Pháp, cảnh sát biết rõ, khó mà trốn tránh được, nên trong nước gọi anh về. Cần có người phụ trách, anh em nghĩ đến tôi. Ngoài những thuận lợi như đã nói ở phần trước, tôi còn có điều kiện đảm nhận trách nhiệm này, vì trong một thời gian, cảnh sát Pháp có hồ sơ bệnh án của tôi, họ nói cái anh này cũng chỉ nằm dài nghỉ ngơi, chả làm ăn gì được. Tuy có vướng về mặt sức khỏe, nhưng tôi cũng đã có cách khắc phục. Thế là từ đó tôi đứng ra phụ trách anh em, để cùng nhau khôi phục lại tổ chức hoạt động Việt kiều trong hoàn cảnh bí mật.

Tôi không dựa vào màng lưới của Đảng Pháp để bố trí chỗ ở, vì như vậy thì khó khăn và chậm chạp. 15 năm ở Pháp tôi có rất nhiều bạn quen thân, anh em sẵn sàng nhận tôi về cùng ăn ở. ở Pháp cũng có cái dễ, vì nhà có người đến trọ không phải khai báo gì cả từng gia đình ở căn hộ riêng như trong vỏ ốc, láng giềng xung quanh không ai dòm ngó gì. Tôi không ở lâu một chỗ, nay xóm này mai xóm khác, lúc nào có dấu hiệu khả nghi thì chuyển ngay.

Thời sinh viên tôi đi xe đạp nhiều nên đường sá Paris quen thuộc nhiều. Tôi nhảy tàu điện từ phố này sang phố khác, xuống tàu điện sang ô-tô buýt, lắt léo ngõ này sang ngõ khác là mất hút không thấy đâu nữa, có bị theo dõi cũng dễ lẩn trốn. Được sự che chở đùm bọc của anh em Việt kiều và các bạn Pháp, trong một, hai năm không có vấn đề gì, tôi vẫn bảo đảm được công việc.

Tổ chức Việt kiều rút vào bí mật có hai nấc: Hạt nhân là những đảng viên thuộc các chi bộ Đảng Pháp ở xí nghiệp, trường học, khu phố, nhưng tập hợp với nhau thành đảng bộ Việt kiều gọi là "nhóm Việt ngữ" trực thuộc Trung ương Đảng Pháp, do một ủy viên trung ương Đảng Pháp lãnh đạo, đồng thời cũng có một ban chỉ đạo trực tiếp bàn về công tác Việt kiều. Các đảng viên này làm nòng cốt, lựa chọn những phần tử trung kiên nhất trong mặt trận yêu nước rộng lớn trước đây, lập thành những tổ trong các xí nghiệp, các khu phố gọi là tổ "Quyết thắng". Chúng tôi cho ra một tờ thông tin in rô-nê-ô lấy tên là "Quyết thắng", làm tài liệu để anh em trong các tổ Quyết thắng phổ biến cho bà con Việt kiều ở Paris. ở các tỉnh cũng tổ chức như vậy. Qua đó, bà con thấy tổ chức của ta vẫn có mặt khắp nơi và biết tin tức trong nước.

Tuy có sự liên lạc với trong nước thông qua Đảng Cộng sản Pháp và Đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô, nhưng chủ yếu là để nắm thông tin, còn làm công tác Việt kiều như thế nào thì chúng tôi họp bàn rồi quyết định, vì chờ cho được chỉ thị của Trung ương trong nước thì rất chậm mà thời sự thì đi rất nhanh. Chúng tôi nắm tình hình và các chủ trương ở trong nước thông qua báo Cứu Quốc, báo Nhân Dân, do Trung ương Đảng Pháp nhận từ Liên Xô và chuyển cho.

Mặt khác, chúng tôi gửi về trong nước những nhận định về tình hình ở Pháp, về thái độ của các Đảng khác, về các phong trào của nhân dân Pháp. Việc này phải kín đáo, chỉ có tôi với anh Nguyễn Văn Chỉ cùng làm. Anh Chỉ hơn tôi khoảng năm tuổi. Hồi 1930, anh đã tham gia phong trào chống lại vụ án xử tử hình một số cán bộ trong cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Anh sang Pháp học lâu rồi, tiếng Việt nói không thạo, đi lại với anh em Việt kiều cũng không tiện lợi, mà lúc bí mật càng tốt. Anh Chỉ còn có thuận lợi là mang quốc tịch Pháp, nếu anh không làm gì phạm pháp, thì Chính phủ Pháp không có quyền bắt anh vì ý kiến về chính trị và cũng không có quyền trục xuất anh. Anh rất trung kiên, tận tụy. Suốt cả thời gian dài, cứ mỗi buổi sáng, anh đi mua mười mấy tờ báo lớn của Pháp, xem kỹ, chỗ nào cần chú ý, gạch chì xanh, gạch đỏ vào, dán lại rồi nhờ Trung ương Đảng Pháp gửi về Việt Nam. Cứ như thế, cần cù, chăm chỉ từ ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng khác.

Ngoài ra anh không phải là đảng viên, nên có lợi thế trong việc quan hệ với các chính khách, các tổ chức ngoài Đảng Cộng sản Pháp, qua đó tập hợp được nhiều tin tức. Chúng tôi gặp nhau thường xuyên để trao đổi, nhận định tình hình để kịp chuyển về trong nước. ở các tỉnh cũng có một số anh em liên hệ được như thế.

Qua năm 1953 cho đến đầu năm 1954, tổ chức Việt kiều đã được xây dựng lại nhanh chóng. Tờ Quyết Thắng ra đều đặn, cung cấp thông tin cho bà con Việt kiều, và từ đó mà lan truyền tới các tổ chức Pháp. Các tổ Quyết Thắng cũng họp đều. Ngày Tết, ngày lễ với danh nghĩa các tổ chức Pháp, do người Pháp đứng ra chủ trì, anh em Việt kiều phục vụ về vật chất cũng như về văn nghệ, nhiều hình thức hoạt động như lễ hội, triển lãm... vẫn được tiếp tục.

Có một việc đáng nhớ là cuối 1953, trong dịp công đoàn tổ chức cuộc mít tinh lớn gồm khoảng 3.000 người, một số khá đông anh em Việt kiều đến dự. Lúc ra về, một nhóm phát xít của Pháp đón đường tìm đánh anh em Việt kiều. Anh em đánh trả và một số anh em Đảng Pháp bảo vệ, nên xảy ra vụ ẩu đả lớn ở ngay trung tâm Paris, xô đuổi nhau đến dưới đường tầu điện ngầm, đến mức tầu điện ngầm phải ngừng chạy một đoạn khoảng hai, ba ga.

Ban ngày phải đi làm, đi học nên các tổ nhóm Việt kiều thường họp vào ban đêm. ở Pháp trời tối rất sớm. Tôi cũng cao bằng người Pháp trung bình, khoác măng tô, trùm khăn, trời tối chẳng ai nhận ra ai cả, nên đi đến với anh em cũng tiện lợi.

Đáng nhớ nhất là những ngày lịch sử tháng 5-1954. Trong cả tháng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ấy, báo chí Pháp ngày nào cũng nói về Việt Nam, lúc đầu đưa tin như quân Pháp sẽ thắng, diệt hết Việt Minh. Nhưng dần dần thì giảm đi, nên phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày càng dâng cao. Song bọn thực dân cực đoan lại đề cao tinh thần dân tộc ca ngợi những chiến binh Pháp ngã trên chiến trường là anh hùng... Vì vậy cả thủ đô Paris luôn sôi nổi, căng thẳng. Ngày 7 tháng 5, tin ta thắng ở Điện Biên Phủ làm náo động cả thủ đô nước Pháp. Anh em Việt kiều đồng ý với bên Đảng Pháp không làm gì rầm rộ để tránh khiêu khích. Nhưng các đảng viên Pháp và các bạn bè Pháp gặp người Việt Nam thì mời đến hoan hô, cho uống sâm banh... Các bạn châu Phi, Algéria... mang những tờ báo to đề lên "Điện Biên Phủ đã thất thủ" dán trước ngực rồi đi đi lại lại trên các đường phố rất vui vẻ. Có sinh viên Việt Nam đi chữa giày. Chữa xong, hỏi: "ông tính bao nhiêu?". Người thợ Pháp không quen biết, nói: "Thôi, thôi, thôi, Việt Nam... Điện Biên Phủ... thì không lấy tiền".

Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc chính phủ Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam ở Genève. Tôi có nhiệm vụ sang Genève để báo cáo tình hình ở Pháp và tình hình Việt kiều cho phái đoàn ta. Hồi đó, biên giới Thụy Sĩ và Pháp canh phòng rất nghiêm ngặt. Nhờ đường dây của Đảng Pháp, tôi được giới thiệu đến gặp một đồng chí Pháp ở một thị trấn tại biên giới Pháp - Thụy Sĩ, cách Genève chỉ mười mấy km. Đồng chí ấy nuôi khoảng hai nghìn con gà, hàng ngày hai lần, buổi sáng và buổi chiều chở trứng sang bán ở Genève. Lính gác biên phòng anh ta quen hết, đi ngang qua đấy cứ đãi một cốc rượu là xong. Tối hôm đó, sau 8 giờ, chúng tôi ra đi. Tôi ngồi sau ô-tô, đội mũ úp mặt xuống. Qua đồn biên phòng, người gác bảo: "Paul đi đâu hở mày? Vào uống rượu với tụi tao đã" - "Hôm nay tao bận sang Genève xem kịch, thôi hôm sau". Anh ta đưa thẳng tới đến khách sạn. Tôi có dịp được gặp và báo cáo tình hình với các anh Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu và được các anh cho nghe tình hình trong nước. Trong đoàn, có nhiều anh em quen cũ, như anh Phan Anh, Trần Thanh, lâu ngày gặp nhau rất vui mừng. Hồi đó, tôi có liên hệ chặt với nhóm Mác-xít Cam-pu-chia ở Paris, nên cũng báo cáo luôn tình hình cho anh Thanh Sơn, theo lời dặn của đồng chí Mignot phụ trách Cam-pu-chia. ở đấy một tuần lại được anh Paul đưa xe qua đón, rồi trở về Paris tiếp tục hoạt động.

Sau Hiệp định Genève, tuy Pháp chỉ công nhận chính phủ Sài Gòn mà chưa chịu công nhận chính phủ miền Bắc, và tổ chức Việt kiều vẫn chưa được ra công khai, nhưng cũng có thuận lợi hơn trước. Chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam đã thỏa thuận là không truy ai trước đó đi theo ai, thuộc phe nào. Mặc dù không có sứ quán của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Paris, nhưng chúng tôi không phải là dân thuộc địa của Pháp mà là công dân của nước Việt Nam, nên Chính phủ Pháp có làm gì Việt kiều cũng phải tính đến phản ứng của Việt Nam. Mặt khác chính phủ Pháp vẫn còn những quyền lợi về xí nghiệp, nhà cửa, tài sản ở miền Bắc còn phải điều đình với Việt Nam.

Trong tình hình chung như vậy, tôi hoạt động trong một quy chế hơi đặc biệt. Tuy lệnh trục xuất tôi từ 1952 chưa được hủy bỏ (mà theo luật quốc tế thì phải rời khỏi nước Pháp chậm nhất là sau hai tuần) mà tôi vẫn ở lại đến 1954 là đã hai năm, nhưng nhà chức trách Pháp vẫn không bắt tôi, vì "vuốt mặt thì phải nể mũi". Song họ vẫn thường xuyên theo dõi, rình rập tôi. Hồi tháng 5-1954, cảnh sát Pháp đến bao vây nhà anh em công nhân ở xóm lle verte (nơi tôi ở trước tại Grenoble), tưởng rằng 19-5, tôi sẽ về đấy cùng anh em làm lễ sinh nhật Bác Hồ. Mới 5 giờ sáng, anh em mới ngủ dậy, họ ập vào hỏi: "Ông Viện đâu?". Thế là họ lại bắt hụt tôi một lần nữa. Đến tháng 11 năm đó, khoảng 6 giờ chiều tôi vừa về đến nhà (nhà một anh bạn), lên cầu thang, thấy đã có 3 tên to khỏe, mặc sắc phục đặc biệt, đứng đón ở cửa: "Ông Viện đấy à? Chúng tôi có việc đây. Cảnh sát chính trị đây". Họ vào phòng nhỏ tôi ở, không thấy đồ đạc gì, giấy tờ gì cũng không có. Họ còn đùa: "Bây giờ con chim hết bay nhảy nhé, mời ông đi với chúng tôi". Ba tên này đẩy tôi lên xe, đưa đến cơ quan cảnh sát đặc biệt của Bộ Nội vụ, nơi trước đây khi Đức chiếm đóng, bao nhiêu người đã bị tra tấn đến chết. Khi cánh cửa rộng lớn phòng giam đóng sập sau lưng, tôi vẫn thản nhiên. Tôi dựa vào ba điểm để tranh cãi với chúng: Về pháp lý, Hiệp định Genève không cho phép chính phủ Pháp bắt tôi; Về chính trị, trước đây chúng tôi chống Pháp nay chính phủ tôi ký kết với Pháp rồi, bây giờ chúng tôi chống Mỹ và chủ trương quan hệ hữu nghị với nước Pháp; tôi có bệnh, các ông bắt tôi mà xảy ra chuyện gì, các ông chịu trách nhiệm.

Đồng thời, tôi nghe tiếng nói ở phòng bên cạnh, biết là họ cũng đã bắt anh Chỉ rồi.

Sau hơn một tiếng đồng hồ hỏi cung, tôi bảo: "Các ông biết đấy, tôi đang ốm, chỗ mổ khoét sau lưng chưa liền, đến giờ thay băng rồi, các ông phải để tôi mời bác sĩ vào". Tôi đấu một hồi, họ đành phải chịu. Tôi gọi dây nói mời bác sĩ, chính là để báo tin tôi đã bị bắt cho anh em biết, và để có bác sĩ chứng nhận, sau này khi cần sẽ tố cáo trước dư luận. Anh Quyền vào đến nơi, họ ngồi bên cạnh, không cho chúng tôi nói chuyện. Khi mở băng ra, họ thấy cả cái lỗ sau lưng đang còn chảy mủ nước, thấy thằng này là thằng ốm thật. Họ sợ nhỡ có xảy ra việc gì, nên bắt đầu đấu dịu. Đến nửa đêm, nó thả tôi và anh Chỉ. Chúng không đưa ô-tô, hai anh em nhảy tàu điện ra về.

Đối chiếu việc hỏi cung hai người, tôi và anh Chỉ biết rằng thực chất việc cảnh sát bắt chúng tôi hỏi cung không phải vì vấn đề Việt kiều mà là vấn đề nội trị của nước Pháp. Họ muốn dò xem tôi và anh Chỉ có quan hệ gì với Mendès France (là Thủ tướng Pháp đã ký Hiệp định Genève) trước khi Điện Biên Phủ thất bại hay không, nếu có thì họ sẽ tung ra trước dư luận rằng vì Chính phủ Pháp giao bí mật quân sự cho Việt Minh nên quân Pháp thua ở Điện Biên Phủ. Lẽ đương nhiên, chúng tôi không khai báo gì về chuyện này. Về sau cũng yên, không có vấn đề gì nữa.

Chính sách của chính phủ Pháp đối với Việt Nam hồi đó có nhiều mặt. Một mặt là thân Mỹ để nhờ Mỹ mà đánh Algérie, chống Liên Xô, chống cộng sản nên phải nhượng bộ Diệm. Mặt khác, còn một số vấn đề phải điều đình với chính phủ Hà Nội. Nhưng chính phủ Hà Nội không có sứ quán, không có lãnh sự quán gì cả, nên ở Paris phải có một người nào đó có tính chất bán chính thức để liên hệ với chính phủ Hà Nội. Có điều buồn cười là tôi sống bất hợp pháp, không có giấy cư trú, nhưng khi có vấn đề gì cần liên hệ với Hà Nội hoặc liên quan đến Việt kiều, bộ phận phụ trách vấn đề Việt Nam ở Bộ Ngoại giao Pháp lại gọi dây nói hỏi ý kiến tôi. Hồi đó nhiều anh em công nhân Việt kiều trước bị mộ lính năm 1939 - 1940, nay đòi chính phủ Pháp phải thuê tàu cho về nước. Hồ sơ cụ thể (Đi năm nào? Như thế nào? Về đâu?...) anh em nộp cho chúng tôi để chuyển cho chính phủ Pháp. Chúng tôi đòi Bộ Ngoại giao Pháp phải bỏ tiền ra thuê những chuyến tàu thủy đưa anh em về Việt Nam, đa số về miền bắc.

Việc quan trong trọng giai đoạn này là xác định đường lối, chủ trương cụ thể về hướng hoạt động của Việt kiều sau khi Hiệp định Genève được ký kết. Chúng tôi nêu vấn đề cần làm rõ hướng cuộc đấu tranh chính trị của Việt kiều ở Pháp, vậy chúng ta phải đặt mình vào vị trí nào, ở miền bắc hay ở miền nam? Nếu là bộ phận của Mặt trận Tổ quốc ở miền bắc thì lấy việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là chính, nếu là bộ phận thuộc Mặt trận Giải phóng miền nam thì đấu tranh cho hòa bình là chính. Thảo luận một hồi, tôi phát biểu: Bộ phận Việt kiều này phải tự đặt mình vào hoàn cảnh miền nam là chính. Điều này không phải dễ vì hậu thuẫn của Việt kiều là ở miền bắc (tin tức, tài liệu, sự ủng hộ chính trị...). Trước mắt là đấu tranh chống Diệm, đòi thi hành Hiệp định Genève.

Khó khăn của Việt kiều không phải do chính quyền Pháp gây ra, mà do Sứ quán Diệm. Diệm thì khác Bảo Đại. Văn phòng Bảo Đại ở Pháp lờ đờ chẳng làm được gì đáng kể, còn sứ quán của Diệm, tập đoàn gia đình Diệm, chống cộng một cách tích cực. Nó dựa vào Mỹ và một số ít Việt kiều dao động trước sức mạnh của Mỹ. Chúng tôi thường xuyên tổ chức từng đoàn anh em Việt kiều khoảng bảy, tám người đưa kiến nghị đến Sứ quán Diệm đòi phải thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định Genève. Từ cuối năm 1954 cho đến 1956, từng đoàn trí thức, công nhân, phụ lão... đến ngồi ở Sứ quán Diệm đưa hết kiến nghị này đến kiến nghị khác. Bọn Diệm rất bực, nhưng đánh vào công nhân thì chúng không có quyền, vì anh em làm ăn với các hãng Pháp, đánh vào sinh viên thì phần lớn là con em quan chức cao cấp ở Sài Gòn.

Thế là chúng đối phó bằng cách cắt việc chuyển ngân (chuyển tiền từ miền nam Việt Nam sang cho sinh viên). Việc này gây ra tiếng vang lớn ở Sài Gòn. Một trong những người bị cắt chuyển ngân đầu tiên chính là con Nguyễn Ngọc Thơ, Phó tổng thống của Diệm. Trước tình hình đó, phong trào Việt kiều tranh thủ dư luận Pháp, nhờ tổ chức Tổng hội sinh viên Pháp và các giáo sư Pháp can thiệp trực tiếp với sứ quán Diệm. Một số anh em Việt kiều và một số sứ quán các nước ở Pháp góp tiền giúp những sinh viên bị cắt chuyển ngân trong một thời gian. Trong khó khăn, tinh thần đoàn kết của bà con Việt kiều càng thể hiện rõ. Sau một thời gian ngắn, Diệm phải bỏ chủ trương này.

Tuy tổ chức Việt kiều chưa được công khai một cách chính thức, nhưng chúng tôi cũng dựa vào những biến chuyển mới của tình hình mà triển khai một số hình thức tập hợp lực lượng. Bên sứ quán Diệm cũng tổ chức như vậy nhưng không huy động được quần chúng. Buồn cười, có lần sứ quán Diệm mời Cảnh sát trưởng Paris lên bảo: "Chúng tôi sắp tổ chức ngày Tết, mong các ông cho cảnh sát đến bảo vệ vì chúng tôi sợ chúng nó đến phá". Anh cảnh sát ở đấy trả lời: "Thưa đại sứ, chúng tôi biết Việt cộng Paris không phải là hạng người hay đập phá đâu, họ sẽ phá ông một cách khác". Đại sứ Diệm hỏi lại "Thế họ phá bằng cách nào?" Anh cảnh sát khu vực trả lời: "Chúng tôi không phải đến bảo vệ. Họ sẽ phá các ông bằng cách họ sẽ tổ chức một ngày Tết huy hoàng hơn, đông người hơn các ông nhiều". Qua đó, để thấy rằng thái độ của Pháp hồi đó, tuy có quan hệ chính thức với Diệm, nhưng bên trong không ưa gì Diệm.

Thời kỳ sau Hiệp định Genève, chúng tôi có thuận lợi là tin tức, báo chí ở trong nước chuyển sang nhiều, nhất là từ Hà Nội. Các tờ Văn học, Thống Nhất, các tạp chí Nghiên cứu Văn Sử Địa... giúp chúng tôi nắm được tình hình văn hóa, văn nghệ trong nước. Trong dịp lễ, tết, những điệu múa, vở kịch trong nước gửi sang được biểu diễn cũng gây ấn tượng tốt đối với kiều bào. Chúng tôi cũng nhận được một số báo chí của Sài Gòn, như tờ Sài Gòn, tờ Cách Mạng Quốc Gia.

Việc giải phóng miền bắc năm 54 tạo ra một khí thế hào hứng trong sinh viên trí thức Việt kiều. Nhiều anh em tuy gia đình ở miền nam, nhưng học xong lại xin về Hà Nội để góp sức xây dựng lại đất nước. Phía chính phủ Pháp chấp nhận và trả tiền cho công nhân về, nhưng đối với sinh viên, trí thức thì lại không cho phép. Vì vậy, chúng tôi phải tổ chức cho anh em về theo đường bí mật. Qua đường dây của Đảng Pháp, các đảng viên Pháp dẫn anh em mình đi qua biên giới, sang các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Liên Xô... để về nước. Để giữ bí mật cho những chuyến đi này, anh em chỉ mang hành lý tối thiểu như kiểu đi chơi, đi nghỉ hè, có thể nói hầu như là tay không.

Về đến Hà Nội, ngay cái xe đạp cũng không có. Tự nguyện rời bỏ cuộc sống đầy đủ tiện nghi ở Pháp, về nước trong những điều kiện ngặt nghèo như vậy, sự lựa chọn này nói lên tinh thần yếu nước nồng nàn của sinh viên trí thức Việt kiều và có tác dụng, ý nghĩa rất lớn. Hồi đó, trí thức ở miền bắc số đông là ở ngành Y, chứ trong các ngành khoa học tự nhiên khác, các ngành kỹ thuật.v.v... hầu như chưa có. Những anh em học ở Liên Xô thì chưa về. Do đó, số sinh viên trí thức Việt kiều ở Pháp về nước trong những năm 54-60 có vai trò khá quan trọng trong việc góp phần mở đầu một thời kỳ xây dựng miền bắc, tiếp quản các nhà máy điện, mở mang các ngành xây dựng, hóa chất, địa chất... Sau tháng 4-1975, anh em lại về Sài Gòn tham gia công việc khôi phục vùng mới giải phóng.

Một đóng góp đáng kể của Việt kiều đối với đất nước là quyên góp tiền bạc mua sách gửi cho các trường đại học ở quê nhà. Hồi đó tiếng Nga, Anh còn ít người biết, nên tiếng Pháp trở thành ngoại ngữ chủ yếu để tiếp cận văn hóa, khoa học nước ngoài. Đặc biệt đáng chú ý là những người hăng hái nhất trong việc đóng góp tiền mua sách gửi cho các trường đại học ở Hà Nội lại là anh em công nhân. Có việc rất xúc động mà tôi nhớ mãi là có một anh công nhân ở vùng Lyon mời tôi đến gặp anh trong bệnh viện. Anh này rất nghèo, gần như không biết chữ, sang Pháp đã lâu. Anh ấy bị ung thư máu, gọi tôi đến giao quyển sổ tiết kiệm mà anh ấy chắt chiu trong bao nhiêu năm ở Pháp, bảo: "Anh lấy tiền này mua sách gửi về cho Đại học Hà Nội". Tôi hỏi: "Tại sao anh không để tiền gửi về cho gia đình?" Anh nói: "Gia đình tôi được cải cách ruộng đất rồi, có ruộng đất rồi không cần nữa". Qua đó thấy rằng đối với cải cách ruộng đất có hai cách nhìn. Chính tôi hồi đó cũng hiểu rằng, cuộc cách mạng nào chẳng có vấp váp, tránh sao được, Cách mạng Pháp cũng thế, Cách mạng Nga cũng thế.

Ngoài ra, trước sự rạn nứt trong phe xã hội chủ nghĩa, sự kiện công nhân biểu tình ở Đông Âu... một số đảng viên có phần dao động. Mặc dù vậy, đến năm 1956, cơ sở của Việt kiều, công nhân, sinh viên, phụ lão, trí thức, tuy chưa được công khai, nhưng đã được xây dựng rộng khắp. Chính quyền Pháp cũng có những chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho ta. Ngoài Đảng Cộng sản, một số nghị sĩ tiến bộ khá đông trong Quốc hội tỏ thái độ ủng hộ phong trào Việt kiều. Chúng tôi xin đưa tổ chức Việt kiều hoạt động công khai được chính phủ Pháp công nhận. Để tiến tới hủy bỏ lệnh trục xuất tôi từ năm 1952, về hình thức, họ truy tố tôi, giao cho Tòa án vị cảnh xử: "Tại sao ông ra tờ báo Quyết thắng mà không đăng ký?". Trạng sư của tôi là bà Marie Louise Cachin, người chuyên bảo vệ cho người Việt Nam. Bà đã từng bảo vệ anh Dương Bạch Mai. Bà bảo: "Ta cứ nhận đi, cho người ta dễ bỏ lệnh trục xuất. Đấy chỉ là cái cớ". Thế là tôi ra Tòa án thú nhận việc đó là sai, chịu phạt vi cảnh mấy trăm Franc. "Thôi như xí xoá, cho giấy tờ cư trú lại, không có vấn đề gì".

Tổ chức Việt kiều ra công khai, lấy tên là Hội Liên Hiệp Việt Kiêu vì hòa bình, nhằm xây dựng tình hữu nghị Pháp - Việt (Union des Vietnamiens pour la paix au Vietnam ét pour l Amitié Franco - Vietnamienne). Trụ sở Hội đóng ở số 4 Git le coeur xóm La tinh, nơi có nhiều sinh viên, công nhân Việt kiều. Phòng trên là văn phòng của Hội, phòng dưới có thể họp được 50 - 60 người, đồng thời là căng tin, anh em thường đến đây ăn cơm vừa để trao đổi tin tức. Mặt khác, cũng có khách đến ăn cơm, lấy tiền lãi góp vào quỹ Đại hội của Hội gồm các đại biểu từ các tỉnh, thành phố cử lên, bầu tôi làm Tổng thư ký Hội Liên Hiệp Việt kiều.

Cũng trong năm 1956, chính phủ Pháp bắt đầu nối lại quan hệ với Việt Nam. Lần đầu tiên có hai phái đoàn của chính phủ miền bắc sang Paris: Phái đoàn đại học do giáo sư Hồ Đắc Di cầm đầu, phái đoàn Thương mại do anh Nguyễn Duy Lợi cầm đầu. Ngày xưa, tôi đã học với cụ Di ở Hà Nội, anh Lợi lại là bạn cùng học ở Vinh, đều là người quen gặp nhau rất vui vẻ. Sau đàm phán, phái đoàn Thương mại còn ở lại cùng với chúng tôi, tổ chức Việt kiều có cử đồng chí học kinh tế đến giúp đỡ đoàn.

Trong buổi chiêu đãi hai phái đoàn này, có chuyện buồn cười là lúc chúng tôi mở màn đón quan khách, đứng trước cửa, có một số người Pháp tự giới thiệu: "Chúng tôi là bên Thanh tra của cảnh sát đến làm bảo vệ cho buổi chiêu đãi này, chúng tôi là Le curieux". Viên thanh tra này trước đây ở Hà Nội, nói tiếng Việt rất giỏi, có nhiệm vụ theo dõi các tổ chức Việt kiều. Le curieux, tiếng Pháp có nghĩa là hay tò mò. Mỗi lần tôi kể chuyện cho các bạn Pháp nghe thì họ lại cười ồ lên, bảo là anh này có cái tên tiền định, sinh ra để mà làm cái nghề này. Anh ta nói: "Bây giờ tôi đến là để bảo vệ các ông, chứ không phải để bắt ông đâu. Thế nào, dạo này bác sĩ có khỏe không?". "Cám ơn ông, nhờ ông tôi vẫn khỏe".

Sau khi Hội Liên Hiệp Việt kiều ra đời các hoạt động được triển khai rất rộng, rất bộn bề trên nhiều mặt: Tổ chức nội bộ của Việt kiều, tổ chức nội bộ của Đảng, quan hệ đối ngoại v.v... Ngoài những buổi hội họp, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, có ra hai tờ thông tin hằng tháng: tiếng Việt và tiếng Pháp. Lúc đầu in rô-nê-ô, sau in đàng hoàng đẹp đẽ ở nhà in của anh Phùng Công Khải. Tờ báo tiếng Pháp do Việt kiều làm cả về nội dung và in ấn, nhưng về danh nghĩa là do đồng chí Pháp đứng tên, theo quy định của pháp luật. Thỉnh thoảng bên Mỹ hay sứ quán Diệm phản ứng mạnh quá, nhà chức trách Pháp lại buộc phải đình chỉ. Lại bàn với các đồng chí Pháp, ra một tạp chí do một đồng chí khác đăng ký, lấy tên là Echo du Viet Nam.

Những ngày lễ, Tết, Ngày độc lập 2-9, ngày 19-5 sinh nhật Bác Hồ, Hội đều tổ chức những cuộc biểu dương lực lượng, sinh hoạt văn nghệ, chiếu phim Việt Nam, mời cả người Pháp tham dự. Tôi nhớ những phim đầu tiên từ Việt Nam gửi sang năm 55-56 đã ghi ấn tượng mạnh mẽ: Phim về kháng chiến Việt Nam do đồng chí Các-men (Liên Xô) làm, phim Bắc Hưng Hải. Phim Bắc Hưng Hải gây ấn tượng đặc biệt: một mặt anh em cũng hào hứng thấy không khí nô nức lao động ở trong nước, mặt khác đang sống ở một nước công nghiệp mà thấy cảnh lội bùn, gánh đất... có người giật mình: Sao mà khổ thế!

Một hoạt động đáng ghi nhớ là trại hè. Đây là dịp tập hợp nòng cốt của Việt kiều ở Paris và các tỉnh, rủ thêm một số có cảm tình chưa vào tổ chức, đặc biệt là những sinh viên sang sau Hiệp định Genève. Số này ngày càng đông, sang đây học để tránh sự đàn áp của Diệm. Trại hè được tổ chức ba tuần trong tháng nghỉ hè. Ngoài việc trao đổi về tình hình, đường lối chủ trương trong nước và tổ chức Việt kiều, học tập về từng ngành, còn cùng nhau vui chơi thể thao ca hát... trong không khí vui vẻ, thân mật. Trại hè thu hút đông đảo số sinh viên trẻ, lúc đầu chỉ có khoảng 100 người, sau có lúc đến 300 người. Những hoạt động này gây cho bên sứ quán Diệm những phản ứng cay cú. Họ cũng làm, nhưng không kết quả, ngay những người tưởng là theo Diệm như một số anh em Thiên Chúa giáo, cũng đến dự trại hè do Hội Việt kiều tổ chức.

Riêng tôi có quen biết một số trí thức ở Sài Gòn sang, vì trước kia cùng học với nhau ở Hà Nội hoặc ở Pháp. Anh em này làm trong chính quyền Diệm, nhưng mỗi lần sang Paris, tôi vẫn tìm gặp mà vẫn trao đổi được tình hình chung của đất nước. Họ vẫn có lòng yêu nước, nhưng trong hoàn cảnh nào đó bị bắt buộc làm cho Mỹ. Có lần tôi đang tiếp một bác sĩ ở Sài Gòn sang thực tập đã hơn một năm, anh ấy đến nhà tôi để bàn chuyện giúp anh ấy xin Pháp không về Sài Gòn nữa thì ông Bộ trưởng Đại học Sài Gòn đến. Ông này là Nguyễn Quang Trịnh, là bạn cùng học với tôi ở Vinh và Hà Nội. Hai ông nhìn nhau, không biết nói thế nào cả. Anh bác sĩ này là cán bộ của ông Bộ trưởng kia. Tại sao lại gặp nhau ở nhà này? Nhà một ông Việt cộng mà!

Chúng tôi còn quan hệ với anh em ở đảo Tân Thế Giới. Anh em đấu tranh đòi về miền bắc, và xin gửi tiền về gia đình qua ngân hàng. Cái đó có lợi cho ta vì ta rất thiếu ngoại tệ. Nhưng gửi về phải qua con đường từ Paris... Hồi đó ta chưa có sứ quán, lãnh sự, ngân hàng ngoại thương... Có một ngân hàng của Đảng cộng sản Pháp là Ngân hàng thương mại Bắc Âu, nhưng chúng ta có buôn bán gì, có quan hệ gì với ngân hàng này đâu! Tôi đành mở một tài khoản cá nhân vào ngân hàng đấy và nhân danh cá nhân nhận tiền ở Tân Thế Giới gửi về, làm biên lai cho anh em rồi gửi về trong nước. Trong bao nhiêu năm cũng giúp anh em chuyển được một khoản tiền mà không rơi rớt gì.

Hoạt động của Hội Liên Hiệp Việt kiều đang triển khai mạnh mẽ, thì đến năm 59, đi đôi với việc tăng cường khủng bố ở Sài Gòn, Diệm và Mỹ gây áp lực với chính phủ Pháp, yêu cầu Pháp không để cho Hội Việt kiều bành trướng ầm ĩ như thế nữa; khiển trách đại sứ Diệm tại Paris, nói tại sao để cho Việt cộng hoành hành như vậy, lôi cuốn cả con cái của họ. Quyền lợi của Pháp thời đó ở miền Nam đang còn lớn, Pháp có nhiều đồn điền cao su, xí nghiệp, ngân hàng, trường học; trí thức cao cấp có tuổi phần lớn do Pháp đào tạo..., Pháp muốn tiếp tục nắm giữ để phát huy ảnh hưởng kinh tế, văn hóa của Pháp ở miền Nam. Vì vậy, chính phủ Pháp ra lệnh giải thể Hội Liên hiệp Việt kiều. Lần này, chỉ ra lệnh cấm hoạt động mà không bắt bớ, không truy nã.

Chúng tôi đóng cửa trụ sở, mua ngay quán cơm ở một khu đông đúc cũng ở trong xóm đó. Công việc không bị đứt đoạn. Hàng ngày, anh em vẫn đến đấy ăn cơm rồi bàn công việc luôn. Các bạn Pháp, rồi các bạn châu Phi, Lào cũng đến. Về mặt pháp lý, cũng nhờ một đồng chí Pháp đứng tên kinh doanh.

Trên danh nghĩa, tôi không còn là Tổng thư ký Hội nữa. Có lần cảnh sát mời tôi ra hỏi: "Ông có biết quán cơm ấy không?" Hỏi lơ lửng thôi. Tôi nói: "Ông hỏi bà chủ quán ấy, sao lại hỏi tôi. Tôi thấy cơm ngon mà rẻ thì tôi đến ăn". Ông cảnh sát cười: "Ông xem chúng tôi như trẻ con à?" Tôi cũng đùa lại: "Việc của các ông các ông làm". Sau đó, họ để tôi về. Thực ra, quan hệ giữa nhà nước Pháp và ta không có vấn đề gì lắm. Họ chưa công nhận nhưng cũng không làm căng thẳng.

Trong cộng đồng Việt kiều, có một nhóm đặc biệt là con dâu Việt Nam - phụ nữ Pháp lấy chồng Việt Nam - Anh em giao cho tôi phụ trách nhóm này, phổ biến tình hình Việt Nam cho chị em bằng tiếng Pháp. Việc này tôi đã quen làm, sau này nhiều chị em giữ quan hệ thân mật với tôi.

Ngoài Việt kiều ra, những nhóm châu Phi thỉnh thoảng mời tôi đến nói chuyện Việt Nam và các vấn đề quốc tế khác. Đặc biệt có sinh viên Lào và Cam-pu-chia (đảng viên của đảng Pháp), thì Trung ương Đảng Pháp giao cho tôi làm liên lạc luôn. Nhóm Cam-pu-chia có khoảng sáu, bảy người, trong đó có Iêng-xa-ri, Khiêu-xăm-phon... Một vấn đề quan trọng hồi đó là tôi phải thuyết phục nhóm ấy không nên chống Xi-ha-núc một cách quá khích. Đối với nhóm Mác-xít Cam-pu-chia ở Paris hồi đó Xi-ha-núc là phong kiến phải chống triệt để, không phải chống Mỹ là chính. Tôi gợi ý với anh em cần thuyết phục để Xi-ha-núc đứng trung lập, không cho Mỹ vào Cam-pu-chia. Điều này anh em khó chấp nhận. Nhưng anh em vẫn xem tôi như bậc đàn anh, nên cũng không có vấn đề gì. Về sau, chuyển thành Pôn Pốt thì rõ là đã có mầm mống tả khuynh cực đoan từ thời ấy rồi. Một số người ôn hòa hơn trong nhóm ấy, như Hồ Hơn, Hồ Nim, sau này khi tôi đến Phnôm Pênh tìm lại thì đã có trong danh sách bị giết trong nhà tù.

Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời (1960), tình hình Sài Gòn lục đục, đảo chính nhiều lần, chính phủ Pháp biết rằng Diệm không thể sống lâu dài được, nên thái độ có biến chuyển. Đến năm 1962, Pháp công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là bước tiến lớn, lần đầu có một phái đoàn ngoại giao của ta sang, anh Mai Văn Bộ làm đại diện chính thức của Việt Nam ở Pháp.

Đồng thời, nhà cầm quyền Pháp ký lệnh trục xuất tôi ra khỏi nước Pháp. Theo suy nghĩ của tôi, cũng có lý do nữa là chính phủ Pháp thấy anh em châu Phi hay mời tôi đến nói chuyện, ngại rằng anh em sẽ hướng về chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc đang tăng lên.

Vì tương quan lực lượng hồi đó, Pháp cũng phải đếm xỉa đến chính phủ Hà Nội và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, nên một mặt có lệnh trục xuất tôi, một mặt vẫn cứ lờ đi. Nên tôi vẫn hoạt động bình thường không phải trốn tránh gì cả, vẫn viết báo, tham dự các cuộc họp, v.v. Tôi ở lại một năm nữa để có đủ thời gian bàn giao công việc cho anh Mai Văn Bộ và anh Trịnh Nguyên Thiệp (phụ trách về công tác Đảng). Hằng ngày, tôi báo cáo với hai anh về tình hình nước Pháp, các đảng phái... Tình hình Việt kiều, tổ chức hoạt động, sự phân công, v.v. Anh Huỳnh Trung Đồng được chỉ định thay thế tôi phụ trách tổ chức Việt kiều. Bàn giao tất cả công việc xong xuôi, tôi về nước năm 1963.

Tổ chức Việt kiều lớn mạnh và hoạt động có kết quả một phần rất quan trọng là nhờ có chỗ dựa rất lớn là Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân tiến bộ Pháp. Cánh tả nói chung rất mạnh, ủng hộ chúng ta.

Một số đồng chí Pháp thành lập Hội Hữu nghị Việt - Pháp như Madeleine Riffaud, vợ anh Chỉ là Francoise Corrèze, đồng chí Charles Fourniau, là thạc sĩ sử học sau này là thư ký hội Việt - Pháp, hai vợ chồng bác sĩ nhà vật lý vũ trụ Jrêne và Joliot Curie, nhà vật lý thiên văn Henri Van Regemorter v.v. là những người bạn chí thiết của nhân dân Việt Nam. Suốt bao nhiêu năm, không tuần nào, không ngày nào mà không hành động cho Việt Nam, vì Việt Nam, như mít-tinh, biểu tình, viết bài, đi quyên góp, cử phái đoàn sang Việt Nam... Không có những người bạn như thế thì tổ chức Việt kiều sẽ leo lét, không thể nào rộng lớn được như vậy. Để thấy vai trò và sự hy sinh của các đồng chí như thế nào, tôi xin đơn cử ví dụ: Đồng chí Charles Fourniau là thạc sĩ sử học, đồng chí bắt đầu làm luận án tiến sĩ trong khi Việt Nam bước vào thời kỳ chống Mỹ. Luận án của đồng chí là về Việt Nam, nên đồng chí rất gắn bó với Việt Nam. Vừa chuẩn bị luận án, vừa phải tham gia mít tinh, biểu tình, đi tỉnh này tỉnh khác, đủ thứ chuyện, nên luận án chậm mất nhiều năm. Quá 65 tuổi mới xong luận án. Đồng chí nói đùa: "Tôi cũng tiến sĩ giống như ông tiến sĩ Việt Nam ngày xưa, 60, 70 tuổi mới thi đỗ tiến sĩ".

Sau Hiệp định Genève, Pháp lao vào chiến tranh Algérie, nên dư luận Pháp ít quan tâm đến Việt Nam cho đến khi Mỹ thả bom miền bắc. Trong thời gian ấy (1955-1965), hội Pháp - Việt Hữu nghị vẫn hoạt động. Hội lập ra các nhóm trung kiên gồm đảng viên làm hạt nhân, một số nghị sĩ ngoài đảng hay các đảng phái khác tham gia. Hội này là chỗ dựa của tổ chức Việt kiều. Hội đấu tranh gây dư luận, đòi chính phủ Pháp nối lại quan hệ với Việt Nam, công nhận nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và miền Bắc phải có sứ quán chính thức ở Paris.

Ngoài những hoạt động chính trị và việc tạo điều kiện phương tiện ủng hộ phong trào yêu nước của Việt kiều, các bạn Pháp còn nhiệt tình giúp đỡ và hợp tác với chúng ta trong việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, tư tưởng, các vấn đề văn hóa, xã hội, v.v. Trong vấn đề này, tôi có dịp quan hệ với các nhóm nghiên cứu chung quanh các tạp chí quan trọng của Đảng Cộng sản Pháp và các giới tiến bộ ở Pháp, và cũng qua đó mà làm quen được với nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, châu Phi và Nam Mỹ.

Thời đó, sau chiến tranh ở Việt Nam, rồi đến chiến tranh Algérie, phong trào chống thực dân cũ và mới, đòi độc lập dấy lên sôi nổi ở các nước châu á, châu Phi, kể cả Nam Mỹ. Tình hình đó gợi lên cho các nhà học giả hai vấn đề: Thứ nhất là vấn đề phi thực dân hóa, làm thế nào để giành độc lập dân tộc; Thứ hai là độc lập rồi thì con đường tiến lên phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội như thế nào?

Đây là những vấn đề rất đa dạng. Mấy nước lớn như Trung Quốc, ấn Độ đi theo hai con đường khác nhau. ấn Độ đi đường tư bản, Trung Quốc theo chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước á, Phi, Mỹ la-tinh - các nước thế giới thứ ba - phần lớn chỉ có vài chục triệu dân, không thể nào noi theo gương của các nước lớn như Trung Quốc, ấn Độ. Vì vậy, nhiều nước, nhiều học giả chú ý hỏi Việt Nam, vì Việt Nam vừa có kinh nghiệm chống cả thực dân cũ và mới, vừa là trường thí nghiệm về vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa. Những vấn đề này lúc đó là những vấn đề mới đối với tất cả các học giả, nhưng dù sao Phương Tây họ cũng có nhiều học giả mà từ trước ở các nước thuộc địa, họ đã và đang nghiên cứu và họ có những phương tiện nghiên cứu đầy đủ.

Còn chúng ta chưa có những chuyên gia như thế, ngay ở Pháp, những anh em Việt kiều học về kinh tế, xã hội phần lớn chú ý đến văn học, lịch sử xưa nhiều hơn. Được tham gia nghiên cứu những vấn đề này, tôi có dịp học hỏi nhiều, và cũng cung cấp một số tài liệu Việt Nam và giới thiệu quan điểm của Việt Nam. Nhờ đã có quá trình theo dõi thời cuộc cả hai miền Nam Bắc, tôi đã viết một số bài về cuộc kháng chiến của ta, về văn nghệ kháng chiến, về cải cách xã hội, về hợp tác hóa... đăng ở các tạp chí lớn. Tôi còn hợp tác với đồng chí Jean Chesneau là một giáo sư tiến sĩ sử học đã từng ở Sài Gòn năm 1945, đóng góp tư liệu, ý kiến giúp đồng chí viết quyển Lịch sử Việt Nam. Trước đây, những chuyên gia Pháp thời thực dân đã có viết Lịch sử Việt Nam, nhưng theo quan điểm của họ. Đây là lần đầu tiên có sử Việt Nam viết theo quan điểm của cách mạng Việt Nam, do giáo sư người Pháp chấp bút. Quyển ấy ra đời năm 1954.

Để giới thiệu cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam, góp phần tranh thủ dư luận các nước phương Tây và thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, năm 1963, trước lúc về nước tôi viết quyển sách gọi là "Miền Nam Việt Nam từ Điện Biên Phủ trở đi 1954-1963". Quyển này viết bằng tiếng Pháp, dày hơn 300 trang, ký tên là Nguyễn Kiên, được nhà xuất bản Francois Maspero in. Nhà xuất bản này chuyên xuất bản sách về những vấn đề của các nước thuộc thế giới thứ ba.

Trong các cuộc hội thảo có tính chất nghiên cứu, đáng chú ý là cuộc hội thảo về con đường tiến lên của các nước đang phát triển được mở ở Paris trong mấy ngày, năm 1960, có học giả nhiều nước tham gia. Nhân danh Việt Nam, tôi có bản tham luận dựa trên những tài liệu, kinh nghiệm của miền Bắc những năm 1954-1960. Bài này được dư luận chú ý, được đăng vào kỷ yếu của hội thảo, sau đó tôi viết lại đăng ở Tạp chí La pensée. Bài đó gửi về Hà Nội, được Nhà xuất bản Sự thật dịch ra tiếng Việt, in thành một tập nhỏ năm 1961. Qua bài này, tôi đã bắt được liên lạc với một số học giả các nước Phương Tây, nhờ đó mà học tập được nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội, về con đường phát triển của các nước nghèo nàn lạc hậu sau ngày độc lập. Đơn cử như ông Ren Dumont là một kỹ sư nông học, ngoài Đảng, đã từng ở Việt Nam những năm 1930, đã viết một quyển sách chuyên về nghề trồng lúa. Về sau, ông giảng dạy ở trường Đại học Nông nghiệp ở châu Phi. Sau 1960, ông viết một quyển sách khác gây dư luận rất lớn. Đó là quyển "Châu Phi da đen, phân tích việc một số nước sau khi độc lập, đi sai đường lạc hướng trong phát triển kinh tế, gây nhiều vấn đề về nông nghiệp...

Trong những vấn đề phát triển văn hóa xã hội các nước nghèo, có vấn đề thay đổi xã hội mới, vấn đề truyền thống. Nhân một buổi trao đổi, tranh luận với nhà văn Albert Camus, tôi nêu vấn đề quan hệ giữa Khổng giáo và học thuyết Mác ở Việt Nam như thế nào. Tôi đưa ra mấy luận điểm: Thứ nhất là Khổng giáo thực chất có hai luồng, một luồng có tính nhân bản một luồng là của phong kiến; Thứ hai là chủ nghĩa Mác và Khổng giáo tuy khác nhau, nhưng có điểm tương đồng là tập trung tư tưởng con người vào cải thiện tổ chức xã hội, xây dựng quan hệ giữa người với người, chứ không đặt vấn đề linh hồn sau khi chết đi đâu, thiên đường, địa ngục... Vì vậy người theo đạo Khổng, nếu được thuyết phục, có thể chấp nhận chủ nghĩa Mác, v.v. Những luận điểm này tôi viết thành bài đăng trên tạp chí La pensée 1962. Đây là bài được dư luận quốc tế và trong nước chú ý nhiều nhất vì cách đặt vấn đề không mang tính giáo điều cứng nhắc như nhiều đảng viên thời đó. Một số anh em trong Nhà xuất bản Sự thật cũng đề nghị dịch và in ra, nhưng không được phép, cứ phân vân mãi (Bài này sau đã được in trong quyển "Bàn về đạo Nho", Nhà xuất bản Ngoại văn năm 1993).

Trải qua hơn 15 năm hoạt động trong phong trào Việt kiều, tham gia xây dựng tổ chức Việt kiều từ công khai, vào bí mật, rồi lại công khai, rồi lại nửa công khai, tôi thấy rõ cái bao trùm lên tất cả cái quyết định mọi thành công là tinh thần đoàn kết, hướng về Tổ quốc của kiều bào để giành và giữ độc lập thống nhất cho đất nước. Dù có sóng gió chính trị quốc tế, dù có rạn nứt tạm thời vấn đề này, vấn đề khác, trên cơ sở đoàn kết yêu nước, mọi khó khăn thử thách cũng vượt qua.

Nhớ lại những năm tháng sôi động ấy tôi rất phấn khởi vì đã vượt qua bệnh tật học hỏi không biết mệt mỏi, làm việc hết mình. Đó là một quãng đời rất đẹp đã giúp tôi được bồi dưỡng về tư tưởng, tình cảm, nâng cao trình độ mọi mặt cả về lý luận và thực tiễn, cho tôi cái vốn quý báu để sau này sống và làm việc có ích cho đất nước. Đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của Đảng Cộng sản Pháp cũng như của bạn bè ở các nước khác đối với tổ chức Việt kiều, đối với nhân dân Việt Nam, làm cho tôi vô cùng xúc động nhớ mãi không bao giờ quên.

Ngày 27-4-1963, tôi ra sân bay, lên đường về nước sau 26 năm ở Pháp, chủ yếu là ở Paris. Anh em kiều bào và bạn Pháp tỏ ý phản đối lệnh trục xuất của Pháp, đưa tiễn rất đông, khoảng 150 người, biến buổi tiễn đưa thành như cuộc mít tinh phản đối. Phút chia tay lưu luyến, bước chân ra phòng đợi lòng tràn ngập xúc động. Mình sắp từ biệt các bạn Việt kiều, các anh em đồng chí, các bạn quốc tế tốt đã cùng nhau chia sẻ mọi nỗi vui buồn trong 26 năm trời trên một đất nước mà mình đã đi khắp nơi... Ngồi trên máy bay sang Tiệp Khắc (từ đó qua Liên Xô về Hà Nội), và sau này có dịp trở lại Pháp vài ba lần, nghĩ lại thời gian 26 năm ở Pháp, mình đã học và hiểu thêm được những gì ở nước Pháp?

Ngoài cái văn bằng tốt nghiệp trường Đại học Y khoa, có thể nói điều thu hoạch lớn nhất của tôi là những hiểu biết về chính trị xã hội, về chủ nghĩa tư bản, về đấu tranh giai cấp, về cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, v.v. Những hiểu biết này khá sâu sắc, cụ thể, vì chủ yếu xuất phát từ những điều tai nghe mắt thấy, từ việc bản thân trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh ấy với tư cách là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, từ việc học hỏi, trao đổi với các bạn Pháp đủ các tầng lớp. Những nhận thức ấy, tôi đã viết lại trong bài "Kể chuyện về nhân dân Pháp" (tháng 1-1991) (*).

Ai đã sống lâu năm ở Paris mà không giữ được những kỷ niệm sâu sắc về thành phố này? Thứ nhất là nó cổ kính, có nhiều di tích lịch sử đẹp. Trong cả thế kỷ 19, từ Cách mạng Pháp, đây là nơi tụ tập tất cả những người chống phong kiến ở châu âu.

Paris là một thành phố quốc tế. Đứng về văn hóa nói chung, triết lý văn học nghệ thuật, Paris là thành phố quốc tế cao nhất. Hồi tôi ở đấy, có đến 15.000 họa sĩ người nước ngoài sống ở Paris; sống đây là ở thuê và vẽ thuê mong ngày nào đó, nổi tiếng thành họa sĩ lớn, nếu không thì ăn bánh mì khô vậy. ở Paris có thể xem phim ảnh của tất cả các nước: Những phim nổi tiếng của Liên Xô được chiếu thường xuyên như "Chiến hạm Pô-tem-kim", phim của Nhật Bản, Ấn Độ, v.v. từ chín giờ sáng đến hai giờ khuya lúc nào cũng có. Môi trường văn hóa và chuyện ăn uống cũng vậy. ăn cơm Việt Nam, Ai Cập, Hy Lạp, v.v. đều có. Ra ngoài đường thì mặc áo Việt Nam, áo Ấn Độ, áo châu Phi... đều được. ở Paris không có hiện tượng phân biệt chủng tộc, cho nên dễ chịu như ở nhà, không có cái gì ràng buộc cả. Cuộc sống văn hóa cũng như vậy, ai mà có sức, có trình độ thì tiếp nhận được rất nhiều.

Sinh viên Việt Nam và các nước đều tập trung ở khu phố La-tinh, gồm quận 5 và quận 6 của nội thành Paris. Trước năm 45, đấy là nơi tập trung các trường đại học lớn của Pháp, nổi tiếng là trường đại học Sorbone. Viện lâu đời nhất của Pháp là Viện hàn lâm Pháp cũng ở đây. Hàng năm có 40 viện sĩ họp để xét duyệt các giải thưởng lớn về văn học, triết học, thơ ca. Ngoài các phòng họp lớn, nhỏ - nơi tổ chức các hội nghị, mít tinh của các tổ chức chính trị, văn hóa... Có công viên, đặc biệt là công viên Luxembourg, có tòa nhà của Thượng nghị viện Pháp, với những hàng cây rất đẹp. Giờ nghỉ giải lao, sinh viên thường ra dạo mát và trò chuyện ở đấy. Công viên này nổi tiếng vì một bài viết của Anatole France tả cảnh em bé đến tháng 10 xách cặp đi học trở lại, đúng vào mùa thu. Cây trong vườn lá đã vàng và rụng. Cảnh lá vàng rơi lả tả trên vai trắng nõn nà của tượng nữ thần trong vườn Luxembourg đã để lại cho tôi và nhiều nhà văn Việt Nam một ấn tượng tuyệt đẹp. Học sinh nào lúc học tiểu học cũng đều học qua bài ấy.

Cạnh công viên đó, có nhà hát Odéon là nơi diễn những vở kịch cổ điển. Cuối đường Saint Michel đi về phía phải là bờ sông Seine. Sang bên bờ sông Seine là hòn đảo trung tâm của Paris nổi tiếng No tre Dame de Paris (Nhà thờ Đức Bà) mà V.Hugo đã mô tả trong quyển tiểu thuyết "Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà" nổi tiếng. ở đây có thư viện Saint Genevievre có đủ các loại sách. Sinh viên thuộc các nước á, Âu, Mỹ... học ở Paris, nhà văn, nhà báo... thường hội tụ ở đó, muốn đọc sách gì cũng có. Nhà thờ Phanthéon do Cách mạng Pháp dựng lên để thờ những vĩ nhân, như nhà đại văn hào Victor Hugo chẳng hạn, cũng ở khu phố này.

Việc phục vụ ăn uống hàng ngày nơi đây cũng rất thuận tiện. Không có những khách sạn lớn nhưng có nhiều cửa hàng nho nhỏ, vào đấy muốn uống 1 cốc cà-phê, ăn 1 miếng bánh mì, hoặc ăn cơm lúc nào cũng được. Cơm Việt Nam hoặc thức ăn nước nào cũng có. Để đi học cho gần và thuận tiện cho việc tham gia mọi sinh hoạt văn hóa đa dạng, sinh viên thường thuê phòng ở các nhà trọ hoặc ở những phòng nho nhỏ của những nhà khá giả mà trước đấy thường dành riêng cho người giúp việc gia đình. Những phòng này thường sát mái không có nước, không có lò sưởi. Anh Trần Đại Nghĩa cũng có thời thuê phòng ở kiểu như vậy.

Xóm La-tinh này, với những trường đại học, những công trình văn hóa, lịch sử, những cơ sở phục vụ sinh viên, xen kẽ với những cửa hàng nhỏ, quán cà-phê nhỏ, v.v... Với một cuộc sống văn hóa phong phú, với những điều kiện sinh hoạt tinh thần, vật chất đa dạng thuận lợi, đã để lại những ký ức sâu đậm trong lòng những ai đã từng sống nơi đây. Đặc biệt là tính quốc tế của nó - quốc tế của sinh viên, không phải của sứ quán, ngoại giao - không phân biệt da vàng, da trắng, da đen... tất cả đều là sinh viên với nhau, như nhau cả. Có thể nói đây là một lãnh vực riêng cho sinh viên quốc tế.

Cũng xin nhắc lại là hồi Bác Hồ ở Paris, lập tờ báo Le Pa-ria, Tòa soạn cũng đóng ở xóm La-tinh này, phía đường Chợ bình dân: Chợ bình dân là nơi bán thịt cá, bánh mì, rau cỏ, có những cửa hàng nhỏ phù hợp với sinh hoạt của sinh viên.

Một điều rất quan trọng mà tôi được chứng kiến trong những năm ở Pháp là sự thay đổi lớn lao về khoa học kỹ thuật từ đó thay đổi cả cuộc sống.

Lúc tôi sang Pháp là năm 1937, nước Pháp đã qua một cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật về sắt, thép, về điện. So với nước mình, sự cách xa đã rất lớn. Từ năm 45 trở đi, chỉ cần vài năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh, nước Pháp bước vào một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới, mà đến cuối những năm 50, những hàng hóa mới có thể bắt đầu tràn trề ra ngoài xã hội: Vô tuyến truyền hình, ô-tô, đồ dùng trong gia đình là ba cái đập vào mắt nhất. Thí dụ như gia đình bà Lefèvre - một nhân viên hạng thấp nhất trong xã hội - có một đứa con đi làm. Năm 52 tôi gặp bà thì bà kể là đã ăn khoai tây chấm bơ (trước đó phải chấm muối). Đi lại bằng tàu điện. Đến năm 57 nhà bà có ti-vi và đến năm 60, hai mẹ con sắm được ô-tô cũ, và sau đó vài năm, thay ô-tô mới. Paris chật ních ô-tô, đi lại rất khó, muốn đỗ cũng không có chỗ. Bản thân tôi một thời gian dùng ô-tô, rồi cũng phải chuyển sang xe máy. Rõ ràng ti-vi, ô-tô, tủ lạnh... trở thành những tiện nghi phổ biến, không phải là của tầng lớp trên nữa. Nông nghiệp đã cơ giới hóa, sản phẩm dồi dào. Có thể nói là từ những năm 60 trở đi, các nước Âu châu tuy vẫn còn thất nghiệp, đói nghèo, nhưng không có cảnh đói ghê gớm như ở các nước lạc hậu.

Không chỉ trong nhân dân Pháp, mà cuộc sống của anh em Việt kiều cũng biến đổi sâu sắc. Những sinh viên khá, một số anh em công nhân trước phải ở những phòng nhỏ hẹp, nay cũng mua ô-tô, thuê nhà đàng hoàng ở ngoại ô. Nhưng cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cũng đặt ra những vấn đề mới phải suy nghĩ. Sự tràn ngập hàng hóa làm nẩy sinh tâm lý tiêu xài hàng hóa. Không phải là hàng hóa bình thường, mà là hàng hóa sang, chưa hỏng đã muốn thay. Những gia đình trung lưu, mỗi người có 40-50 bộ quần áo là bình thường. Xe mới dùng độ hai năm chạy vẫn tốt, nhưng thấy một kiểu mới lại muốn mua. Xã hội tràn ngập biểu mẫu, hình thức quảng cáo, trên trời dưới đất đều là quảng cáo. Cuộc sống hàng ngày thay đổi cũng tác động lớn đến phong tục tập quán, đến tâm lý xã hội về nhiều mặt.

Lần đầu tiên cầm hộ chiếu nước VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA trong tay, có một cái gì đó rung chuyển. Ngày xưa ra đi với cái giấy thông hành của Pháp, chỉ có quyền đi lại ở nước Pháp thôi. Sau đó, lần sang Genève, phải đi lén lút. Nay có hộ chiếu đàng hoàng về lại đất nước, ít nhất là một nửa đất nước đã được giải phóng rồi. Trước mắt, sẽ đi qua một hệ thống các nước anh em ở trong phe xã hội chủ nghĩa với nhau: Tiệp Khắc - Đông Âu - Liên Xô - Trung Quốc rồi về Việt Nam. Khái niệm trừu tượng về nước ta là một bộ phận của phe xã hội chủ nghĩa rộng lớn nay đã được cụ thể hóa bằng chuyến về nước lần này. Chuyến đi gần một tháng, từ 27-4 đến 25-5 về đến Hà Nội, với bao cảm xúc dạt dào, tôi đã ghi lại khá tỉ mỉ trong bài Paris-Hà Nội, đăng trong báo Văn Nghệ tháng 6-1963.

Về nước sau 26 năm trời xa cách, cảm nghĩ của tôi có hai mặt trái ngược nhau.

Trước hết là cảnh nghèo nàn lạc hậu của ta. Năm 61, tôi đã viết rằng về cơ sở vật chất thì Việt Nam vào khoảng 1960 tương đương với nước Pháp ở thế kỷ 17, tức là chậm hơn 300 năm, thua kém ghê gớm. Về Hà Nội, điều này được cụ thể hóa rõ ràng, khắp nơi còn gánh gồng, sản phẩm khan hiếm. Một bút bi, một áo đi mưa, một xô nhựa còn là một thứ đồ hiếm. Nếu mang bút bi về làm quà cho ai cũng là quý! Cái lạc hậu 300 năm đó làm sao mà thanh toán được? Nếu đi lại con đường mà nhân dân Pháp đã phải trải qua 300 năm đó với bao nhiêu đau khổ, trả giá như thế thì không thể được! Quả là không thể nào đi theo con đường phát triển tư bản như Pháp được. Nhưng mà làm sao đây? Trong bài Paris-Hà Nội, tôi có nhắc lại câu trong truyện Kiều:





Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh

Nhưng mặt khác, lúc đi thăm một số nơi ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, thấy có nhiều đổi mới quan trọng so với hồi tôi ra đi. Hình như đã lóe lên một niềm hy vọng có thể tìm ra được một con đường ngắn hơn, đỡ đau khổ hơn. Bài Paris-Hà Nội đã kết luận bằng ý: Chúng ta đã tìm ra đôi hài vạn dặm.

Đôi hài vạn dặm đó là đường đi của Chủ nghĩa xã hội và học thuyết Mác-Lênin.

-------------------------

(*). Đã in trong quyển: "Nguyễn Khắc Viện như tôi đã biết" của Lê Phú Khải, NXB Thanh niên, 1999.

Thứ tư, ngày 20 tháng mười một năm 2013

 Nguyễn Ngọc Chính's Hồi Ức Một Đời Người



Từ văn minh “xí xổm”… đến văn hóa “xí bệt”


Dù là người Việt nhưng có lẽ không ai có thể tự hào hiểu hết được tiếng Việt. Đó cũng là đều dễ lý giải vì tuy cùng sống trong một đất nước nhưng mỗi vùng, mỗi miền lại dùng những từ ngữ khác nhau, chưa kể từ ngữ giống nhau lại có cách phát âm khác nhau.


Nếu có bạn đọc nhíu mày không hiểu tựa đề của bài viết này dùng các từ ngữ “xí xổm” và “xí bệt” thì chắc chắn bạn là người miền Nam… “xí xổm, xí bệt” lại là ngôn ngữ của miền Bắc. Dù muốn hay không, kể từ sau năm 1975, giữa hai miền Nam – Bắc có cơ hội nhiều hơn để trao đổi và tiếp nhận ngôn ngữ của nhau.

Trong thời kỳ còn chiến tranh, phi công VNCH được miền Bắc gọi là “giặc lái”, sĩ quan chiến tranh chính trị có tên là “giặc nói”, còn trực thăng được gọi là “máy bay lên thẳng”… Bắt đầu từ tháng 4/75 người miền Nam được làm quen với những từ như “cái đài” (radio), “cái nồi ngồi trên cái cốc” (phin cà phê)… rồi “nghiêm túc”, “khẩn trương”, “khắc phục”, “sự cố”…


Trở lại với cặp từ “xí xổm, xí bệt”, tôi tò mò vào Google để tìm hiểu và kết quả thật đáng kinh ngạc. Gõ hai chữ “xí xổm”, chỉ trong 0,31 giây đầu tiên, Google cho 114.000 kết quả, đối với “xí bệt” có đến 399.000 kết quả chỉ sau 0,24 giây! Đến đây, chắc nhiều người vẫn chưa hiểu hai từ ngữ đó là gì.


Bấm vào một bài Google cung cấp, tôi đọc thấy: “Xí xổm vệ sinh Viglacera ST8, giá 382.000 đồng, phí lắp đặt 200.000 đồng… Công nghệ Italy, xí xổm thiết kế phù hợp với mọi công trình công cộng, dùng công nghệ tráng men hiện đại chống bám dính… dùng hệ thống xả thẳng. Nơi sản xuất Việt Nam”.


Đó là trang Web của Viglacera, một hãng sản xuất thiết bị dùng trong nhà vệ sinh, với hình ảnh đi kèm. “Xí xổm” có chiều dài 0,485m và chiều ngang 0,426m được thết kế với chỗ để chân khi ngồi:


Xí xổm Viglacera mang mả số ST8

À ra thế. “Xí xổm” là bàn cầu ngồi xổm… còn “xí bệt” là bàn cầu ngồi bệt mà ta thường thấy trong các nhà vệ sinh ngày nay. Người miền Bắc dùng từ “nhà xí” để gọi nhà vệ sinh cho nên mới phát sinh… “xí xổm” và “xí bệt”. Ngoài từ “nhà xí” còn có “chuồng chồ” cũng là nơi để giải quyết nhu cầu của cơ thể.


Để chỉ việc đại tiện, người miền Bắc còn dùng những từ ngữ như “đi đồng” hay “đi ngoài”. Có thể hiểu, tại vùng quê, “đi đồng” ám chỉ việc ra ngoài đồng trống để đại tiện, còn “đi ngoài” có lẽ là hành động từ trong nhà đi ra ngoài để giải quyết “tiếng gọi của bản năng” vì ngày xưa nhà vệ sinh không được thiết kế trong nhà.


Tôi còn nhớ thời Pháp thuộc, ngay tại Hà Nội mỗi nhà có một cái thùng để đựng chất thải và mỗi sáng có xe đẩy đến thu gom. Những người làm công việc này được gọi là “phu đổ thùng” và các bậc cha mẹ thường răn đe con cái: “Nhỏ không chịu học thì lớn lên chỉ làm… phu đổ thùng”.

Sau khi đại tiện, người ta thường dùng nước đựng trong lu hay khạp để rửa. Cũng có nhà treo một cái móc để gắn giấy báo được cắt nhỏ, đó là tiền thân của những cuộn giấy vệ sinh mà sau này cùng đồng hành với… “xí bệt”.




Nhà vệ sinh thời… văn minh xí xổm


Quả thật tôi bị lạc vào “mê hồn trận” của hai từ ngữ lạ lẫm: “xí xổm, xí bệt”. Google cung cấp một bài viết cũng rất lạ, chuyện kể về “xung đột” trong một gia đình giữa hai nhân vật có tên là Gấu bố và Gấu con xung quanh cái… xí xổm. Khởi đầu câu chuyện như sau:

“Hơn ba mươi năm trước, một mình Gấu bố đã tự tay xây dựng nên căn nhà khang trang giữa ruộng mương hẻo lánh, mà điểm nhấn đặc biệt và cũng là niềm tự hào nhất của ông, cái xí xổm. Đó là thứ mà những người hàng xóm lạc hậu xung quanh chưa hề biết đến hoặc đã biết nhưng không đủ trình độ để cất một cái. Với ông, cái xí xổm là một phát kiến vĩ đại của nhân loại, có thể sánh tầm với bóng đèn điện của Thomas Edison hay thuyết tương đối của Enstein…”


…. Ông chẳng biết ai sáng chế ra nó, nhưng chắc hẳn đó phải là một người đã hết sức chịu đựng với những cái hố xí hai ngăn bốc mùi nghi ngút vào những ngày nắng, âm ỉ những ngày mưa và bung tỏa khắp đêm trăng sáng vằng vặc. Xí xổm giải phóng con người khỏi thiên nhiên hoang dã, là phát súng khơi mào cho một thế giới không có biogas, để đến thời nay mới có một ngành công nghiệp sản xuất bếp gas, các cửa hàng cung cấp gas và các bác tài chở gas phóng nhanh vượt ẩu gây ra biết bao vụ tai nan giao thông mỗi ngày…”

Và đây là những lời Gấu con tranh luận với Gấu bố:

"… Con đã nhẫn nhịn bao nhiêu năm nay. Mỗi khi con đề nghị, thậm chí là năn nỉ bố hãy từ bỏ cái văn minh xí xổm lỗi thời của bố để mà "quá độ" bằng một cái xí bệt sạch sẽ, hiện đại hơn... Con luôn ngậm ngùi im lặng mỗi khi bố ca bài ca "các anh các chị giờ tân tiến hiện đại nên quên hết truyền thống". Nhưng lần này tức nước vỡ bờ rồi, đến cả chị Dậu còn có lúc vùng lên. Bố quyết định đi, một là phá bỏ, hai là cứ giữ lấy nó mà chờ đến lúc cái nhà này… tuyệt tự."

Sở dĩ cậu con trai phải dùng đến hai chữ “tuyệt tự” vì trong thời gian ở quê ra Hà Nội cậu có quen với một cô gái Hà Thành và đang tính đến chuyện hôn nhân. Dân Hà Nội ngồi “xí bệt” quen rồi, nay nếu về quê làm dâu phải ngồi “xí xổm” chắc chịu không nổi. Cậu con sợ người đẹp chia tay chỉ vì cái “xí xổm” nên phải thuyết phục ông bố đập bỏ cái “xí xổm” để thay bằng cái “xí bệt”…




Loại bồn cầu dung hòa “xí xổm” và “xí bệt”

Tiến trình chuyển đổi từ “văn minh xí xổm” bước sang “văn hóa xí bệt” gặp những “xung đột” như vừa kể ở trên. Ngoài ra, vì thói quen ngồi xổm nên cũng đã có những tai nạn khi sử dụng “xí bệt”. Nghĩa là một số người vẫn giữ cách ngồi xổm trên “xí bệt”.


Đã có tai nạn xảy ra khi người sử dụng ngồi xổm trên “xí bệt”. Bồn cầu vì lý do nào đó bị vỡ và “sự cố” nghiêm trọng đã xảy ra. Hình ảnh dưới đây là một “minh họa” cho loại tai nạn hi hữu này. Thế mới biết, để bước sang một nền văn hóa mới không những đòi hỏi một “tư duy” mới mà còn có thể phải trả giá bằng… máu.




Tai nạn khi ngồi xổm trên… xí bệt
Cũng trên Google có một tin thuộc loại “quốc tế” có liên quan đến… xí xổm mang tựa đề “Thái Lan loại bỏ xí bệt để hút khách du lịch”. Quyết định này được đưa ra sau khi chính quyền phát hiện rất nhiều người dân bị mắc chứng thái hóa khớp gối là do ngồi xổm khi đi vệ sinh. Điều đáng nói là ở đất nước Chùa Vàng, 85% nhà vệ sinh công cộng và hộ gia đình sử dụng xí bệt.


Theo con số thống kê của Bộ Y tế Thái Lan, có khoảng 6 triệu người, bao gồm cả khách du lịch nước ngoài, bị thoái hóa khớp gối do đi vệ sinh. Thay cho xí bệt, chính phủ quyết định lắp đặt toàn bộ bồn cầu ngồi.

Một nguồn tin cho hay: “Thời gian dài phải ngồi đi vệ sinh dẫn đến việc người dân mắc bệnh viêm khớp. Hy vọng sự thay thế này còn giúp lượng khách du lịch đến Thái Lan tăng lên…”

Thứ trưởng Y tế Cholanan Srikaew khẳng định, ở đất nước như Thái Lan, nơi ngành công nghiệp du lịch chiếm 7% tổng sản phẩm quốc nội, sự thay đổi này rất quan trọng. Nó không chỉ giúp giảm thiểu số người mắc bệnh mà còn mang lại nguồn thu cho quốc gia!

Cũng thuộc loại “tin thế giới” có một tấm hình được chụp từ Bangladesh với lời ghi chú “Hanging Toilet - Coastal area toilet” (tạm dịch là Nhà vệ sinh treo – Nhà vệ sinh khu ven biển):



Hanging Toilet - Coastal area toilet, Bangladesh

Thật ra thì hình ảnh này đã quá quen thuộc với những người sinh sống tại vùng sông nước miền Tây, nó được gọi bằng những cái tên nên thơ như “cầu cá vồ” hoặc “cầu cá tra”… Wikipedia cung cấp thông tin về cá vồ và cá tra như sau:

“Cá vồ cờ (danh pháp khoa học: Pangasius sanitwongsei) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá tra (Pangasiidae) của bộ Cá da trơn (Siluriformes), sinh sống trong lưu vực sông Chao Phraya và Mekong. Loài cá này là cá ăn tạp và được mệnh danh là “thủy quái” trên dòng Mekong vì vóc dáng khổng lồ và sự hung hãn. Gọi là vồ cờ vì cái vây trên lưng cá vươn cao như ngọn cờ, lúc nó bơi, rẽ sóng như cá mập”.

Cá vồ và cá tra ăn tạp là quá đúng. Nhà vệ sinh được dựng ngay trên sông hoặc trong ao nuôi cá, chất thải của con người khi rơi xuống là cả bầy cá đã chực sẵn, tranh nhau để… vồ mồi. Loại nhà vệ sinh này ở miền Tây còn được gọi là “cầu tõm”, lấy từ âm thanh khi chất thải chạm nước.




“Cầu tõm” miền Tây

Cá tra, cá ba sa phân bố rộng ở Myanma, Java, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Đây là loại cá nước ngọt có sản lượng xuất khẩu lớn nhất hiện nay tại Việt Nam. Nghề nuôi cá basa trong bè rất phát triển qua mô hình mang tính công nghiệp với mật độ cao, năng suất trung bình 130-150 kg/m³/năm. Hiện nay có khoảng 4.000 bè nuôi, sản xuất trên 40.000 tấn/năm tại miền Nam.



Cái thú ngồi “cầu tõm” đọc báo mà lại góp phần… nuôi cá


A picture speaks a thousand words: cái khổ của “cầu tõm”
Thật bất ngờ. Loại cá xưa kia chỉ ăn tạp, luẩn quẩn vồ mồi quanh “cầu tõm” nay đã là một nguồn lợi kinh tế đáng kể, nuôi sống hàng ngàn người trên các lồng bè. Nuôi cá tra, cá ba sa tại miền Tây đã trở thành một ngành công nghiệp đi kèm với việc xuất cảng qua các nước Phương Tây.

Trong năm 1993, sản lượng cá nuôi trong bè tại miền Nam ước lượng vào khoảng 17.400 tấn, hầu hết là từ các bè trên sông Cửu Long. Riêng cá ba sa đã chiếm ¾ sản lượng này.



Nhà vệ sinh trên sông nước miền Tây


Ngay tại Sài Gòn xưa, nổi tiếng là Hòn Ngọc Viễn Đông, cũng thấy xuất hiện những nhà cầu thuộc loại như ở miền Tây dọc theo các con kênh rạch. Cái gọi là “nhà ở” và “nhà cầu” ở đây chỉ là những mảnh gỗ, tấm tôn, thậm chí còn là những miếng vải vụn được chắp vá để che đậy được phần nào sự riêng tư của con người.

Sài Gòn xưa cũng có nhà vệ sinh tập thể trong những khu lao động chật chội không có đất để làm nhà vệ sinh riêng. Người ta sống cực nhọc lo miếng ăn hàng ngày cũng đủ mệt mỏi nên không còn thì giờ và tiền bạc để chăm lo cho nhà ở và nhà cầu.



Trong kho tàng âm nhạc của mình, nhạc sĩ quá cố Phạm Duy đã làm 10 bài tục ca, trong đó bài tục ca số 7 nói về loại cầu tiêu chung tại các khu lao động giữa Sài Gòn phù phiếm. Bản nhạc mới nghe cứ tưởng như “nhi đồng ca”, khởi đầu bằng những câu:



“Trời xinh, trời xinh con nít hay tọc mạch tò mò, tò mò chuyện gì cũng có, tò mò sục sạo moi ra. Trời cho, trời cho cái tính hay nhìn trộm đàn bà, đàn bà trẻ già lớn bé, đàn bà nào hở hang ra…”



Bài tục ca tiếp tục với những câu: “Tụi tôi, tụi tôi xưa vẫn hay tụ tập đầu đường, vùng này chật chội thiếu thốn, mọi người dùng cầu tiêu chung. Cầu tiêu, cầu tiêu xây cất cao mặt lộ một từng, cửa trổ thì là quá ngắn, ngoài nhìn vào thênh thang…”. Đoạn kế tiếp diễn tả mọi kiểu ngồi của các bà, các cô ngồi trong cầu tiêu tập thể và bài hát đưa ta đến một đoạn kết thật bất ngờ…


Bạn đọc tò mò muốn “thưởng thức” những bài tục ca này xin ghé vào đọc Phạm Duy và 10 bài tục ca tại http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/02/pham-duy-va-10-bai-tuc-ca.html. Riêng tục ca số 7 do chính tác giả trình bày có thể nghe tại http://www.youtube.com/watch?v=ncc1l1Cksiw.


Người viết xin lưu ý trước, với những người “không quen” hoặc “không thích nghe” những câu nói tục hay tiếng chửi thề thường diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, lời khuyên chân thành của tôi là không nên đọc bài viết và cũng không nên nghe những bản tục ca này. Lý do: Lời 10 bài tục ca của Phạm Duy do chính tác giả trình bày rất… “phản cảm” và có thể gây sự khó chịu hoặc bực mình.






Nhà vệ sinh trên kênh rạch giữa Sài Gòn



Sau khi Sài Gòn đổi tên, những ai đã từng “tốt nghiệp đại học cải tạo” chắc không thể nào quên cảnh hai người gánh một thùng đầy phân, tay bịt mũi. Khổ nhất là những anh đi ở cuối gió, mọi “hương hoa” trong thùng anh hưởng trọn vẹn.



Tôi chợt nghĩ đến câu cha mẹ ngày xưa răn đe “nhỏ mà không học, lớn lên đi… đổ thùng”. Ở trường hợp này, câu nói đó lại hoàn toàn mất đi tính “lô gíc” của nó. Phải đổi lại là khi còn nhỏ dù có chịu học hay không thì lớn lên cũng vẫn đi… đổ thùng! Tương lai đúng là chuyện khó đoán trong giai đoạn “đổi đời”.



Chúng tôi “học tập cải tạo” tại Trảng Lớn, phía chân núi Bà Đen ở Tây Ninh. Mỗi đội tự đào những hố lớn để biến thành những hầm cầu chứa phân, phía trên bắc ngang bằng những tấm sắt PSB được tha về từ phi trường L19 gần đó.

Hố tiểu là những thùng sắt tây tự chế bằng cách “gò” từ những tấm tôn cũ. Đặc biệt thùng nước tiểu phải có quai để gánh bằng những thanh cây dài mỗi khi đem tưới cây sau khi trộn thêm nước cho loãng chất acid uric. Thế là đã có một dãy nhà vệ sinh tập thể để làm nơi “giải tỏa nỗi… buồn…” hay nói chính xác hơn là để thực hiện một trong 4 cái khoái nhất đời người.

Chỉ khổ thân những anh phải gánh nước tiểu và phân trong tổ canh tác. Họ lấy phân từ các hố vệ sinh trong trại để… bón cây. Rau trong trại nhờ thế mà lúc nào cũng xanh mướt. Trại tôi có trồng rau muống, không phải là loại rau muống trồng dưới nước mà là rau muống cạn, trồng từ hạt, được đánh luống ngay hàng thẳng lối một cách rất… “nghiêm túc”.

Rau muống khô trồng trên luống mọc thẳng tắp, cao lêu nghêu, lá xanh rì nhờ phân bón. Anh em trong tổ nhà bếp phải thường xuyên ra vườn cắt rau muống để “cải thiện” bữa ăn cho có chất xanh. Thế là vòng “tuần hoàn sinh học" được khép kín: người ăn rau, thải ra phân để bón rau và rồi người lại tiếp tục ăn rau… Cái vòng luẩn quẩn cứ tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi “tốt nghiệp” với mảnh bằng… ra trại.

Bây giờ, khi đã có tuổi, ngồi nhớ lại những giai đoạn “lên voi, xuống chó” của cuộc đời tôi mới thấy thật thú vị. Còn thú vị hơn nữa khi được sống trong cả hai nền văn minh, từ đó phát sinh nền văn hóa “xí xổm” và tiến lên văn hóa “xí bệt”. Lớp con, cháu thời nay không thể nào “được” hay “bị” sống với những thói quen xưa cũ nên người viết mới nảy sinh ý định ghi chép lại những chuyện đã qua.

Dù xấu hay đẹp, tục hay thanh cũng vẫn là những “cột mốc lịch sử” trong cuộc sống của cả một đời người.


***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
http://chinhhoiuc.blogspot.ca/2013/11/tu-van-hoa-xi-xom-en-van-hoa-xi-bet.html
ĐỀ TÀI LIÊN HỆ

Sontrung's Blog (Sơn Trung): VĂN HÓA THẾ GIỚI *NHÀ VỆ SINH

son-trung.blogspot.com/2009/11/van-hoa-gioi.html

No comments: