Monday, October 31, 2016

Y PHỤC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

Y PHỤC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

Y PHỤC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
TÀI LIỆU TỔNG HỢP
A. Y PHỤC HOÀNG CUNG
Qua các  y phục lưu giữ tại các bảo tàng viện Việt Nam, và qua bức vẽ cổ, hình chụp  và tài liệu cổ còn sót lại, chúng ta có thể biết  trang phục của người Việt trong các giai đoạn Lý, Trần, Lê, Nguyễn...
 
Trang phục Cổn Miện thời Lý, Trần được phục dựng theo phù điêu cổ Ngô thị gia bi
Từ trên xuống: Long bào triều Lê Trung Hưng, Long bào triều Nguyễn và Mãng bào của chúa Nguyễn (thời Trịnh Nguyễn phân tranh)
Trang phục của các vương công triều Nguyễn
Lính Giao chỉ vẽ năm 1960 (một tác giả nước ngoài) và lính cầm cờ dắt ngựa thời Lê (một tác phẩm được lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).
Áo cổ tròn bốn vạt và dép quai ngang, được sử dụng trong tầng lớp trung lưu thời Nguyễn (ảnh phục dựng lại)

Mệnh phụ Việt Nam thời Lê với áo trực lĩnh màu lục, và áo cổ tròn có váy quây bên ngoài

Theo nghiên cứu của Trần Quang Đức, trong thời gian Trịnh Nguyễn phân tranh, mốt "quấn khăn" đã ra đời tại Đàng Trong và trở thành tiền thân cho việc đội khăn xếp sau này. Trong ảnh là Lính Đàng Trong năm 1793 (một tác giả nước ngoài). Khăn quấn trên đầu một cách rất "tự phát"
và chân dung một viên quan nhỏ tại vịnh Đà Nẵng thời Đàng Trong (tranh của một tác giả nước ngoài)

Trang phục của người Việt xứ Đàng Trong (tranh của một tác giả nước ngoài)

Trang phục của vua Trần Anh Tông trong tranh cổ Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ

Mũ của tụng quan thời Trần, thể hiện trong tranh cổ Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ
 
 
Nguyễn Trãi



 Nguyễn Khuyến

 
Phan Thanh Giản
 

Phan Thanh Giản

 

Nguyễn Thượng Hiền


Phan Bội Châu
 


Nguyễn Công Trứ
 

Dương Khuê
 

 
 
Nam Phương hoàng hậu

[Tư liệu ảnh] Tổng hợp trang phục Việt cổ xưa!
Một hoàng phi trong áo tấc nữ
[Tư liệu ảnh] Tổng hợp trang phục Việt cổ xưa!
Xiêm


Ba dạng lễ phục truyền thống Việt Nam
Lễ phục truyền thống Việt Nam khá đa dạng. Các loại trang phục này được phân loại theo hình dáng. Nhưng cách phổ biến hơn là gọi tên theo cách cắt của cổ áo. Theo cách này thì ngày xưa nước ta có ba dạng lễ phục: giao lĩnh, trực lĩnh và bàn lĩnh.

Giao lĩnh có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế giao. Trong triều còn loại giao lĩnh gọi là phổ (bổ) phục, may bằng vải thanh cát để mặc trong các lễ thường, những buổi tập dượt cho các kỳ đại tế.

Khi mặc giao lĩnh thì trên đầu phải đội mũ, miện. Áo may rất rộng, xẻ bên hông. Tay áo cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật, Hàn và Việt Nam đều có áo này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.
Trực lĩnh có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời Nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông. Áo trực lĩnh phổ thông nhất ngoài dân gian là áo dài tứ thân của phụ nữ miền quê Bắc Bộ, nhưng không thuộc chủng loại lễ phục.

Bàn lĩnh tức áo cắt cổ tròn, có hoặc không cổ, vạt cài sang phải, là loại lễ phục phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ sử dụng dưới dạng long, phượng, và mãng bào; cho vua, hậu phi, và các vương công, quan lại mặc trong đại lễ. Áo được may bằng gấm thất thể quý hiếm, có cổ tròn. Áo rất rộng, xẻ bên, tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.
[Tư liệu ảnh] Tổng hợp trang phục Việt cổ xưa!

Giao lĩnh, bàn lĩnh, bàn cổ đứng, trực lĩnh

Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt có cổ đứng, gọi là áo tấc. Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy phải như áo dài, đi đôi với khăn vấn cho cả nam lẫn nữ, và sau này là khăn xếp cho đàn ông. Áo này được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ như cưới xin, cũng như các việc thăm viếng quan trọng.
Áo dài 5 thân cổ đứng cũng thuộc dạng bàn lĩnh. Gọi là 5 thân, hay 5 tà, vì áo được ghép bằng 5 mảnh vải. Mỗi thân trước, sau gồm 2 mảnh nối lại với nhau dọc giữa thân, thêm tà phụ bên phải trong vạt trước cho kín đáo. Phải cắt như thế vì khổ vải ngày xưa rất hẹp. Sau này từ thời vải Tây phương nhập vào với khổ rộng, hai tà trước không phải nối, áo dài trở thành 3 thân như ngày nay. Cũng vì khổ vải xưa hẹp cho nên tay áo dài 5 thân phải nối ở gần khuỷu. Cổ áo năm thân phụ nữ xưa thấp khoảng 2 đến 2,5 cm. Cổ áo nam cao khoảng 3,5 cm. Áo dài nam có gấu ngắn đến dưới đầu gối, trong khi áo phụ nữ dài đến dưới bắp chân. Gấu áo rộng trên 70 cm để ôm tà, gấu áo trước được cắt võng.
Áo dài 5 thân được mặc vào trong tất cả các loại áo bào kể trên khi làm lễ. Thường trong các buổi lễ người ta mặc áo dài, và chỉ khoác áo bào vào khi hành lễ. Hành lễ xong lại chỉ mặc áo dài. Vào các dịp tiếp tân trọng đại trong triều đình thời cuối Nguyễn, người ta đeo thêm các huân, huy chương, hay bội tinh với dải đeo (sash), lên áo dài. Ở ngoài phố, khi có khách đến thăm bất ngờ thì chủ nhà cũng chỉ khoác vội lên người cái áo dài là xong.
Các áo lễ mùa Thu, Đông được may bằng các loại vải dày như gấm, đoạn. Xuân, Hạ, thì may bằng vải mỏng như sa, the. Ngoài ra còn một chi tiết rất quan trọng trong quy định về lễ, triều phục ngày xưa, là khi mặc áo lễ không được để lộ cho thấy quần.
Áo tấc (bàn lĩnh) với cổ đứng và áo dài là 2 loại lễ phục đặc trưng Việt. Tự cổ chí kim không nước nào khác trên thế giới có hai loại trang phục này ngoài nước ta. Tiếc rằng ngày nay cả áo dài lẫn khăn xếp nam phái ở nước ta thường bị nữ hóa để trở nên lòe loẹt, thõng thượt, mất hết sự trang trọng và vẻ nam tính.

B. Y PHỤC DÂN GIAN

 Học giả Phan Kế Bính đã mô tả y phục phụ nữ miền Bắc những năm đầu thế kỷ 20 rằng:
"Đàn bà vấn khăn thâm, hoặc lượt hoặc nhiễu, hay vải nâu. Giời rét thì bịt thêm cái khăn vuông bằng vải nâu hoặc bằng xuyên thâm. Yếm cổ xây hay viền, dùng màu trắng nhiều hơn cả. Áo cũng dùng màu thâm, hoặc màu nâu, duy người ăn chơi hoặc con hát mới mặc các màu xanh đỏ. Quần phần nhiều mặc vải sồi, lĩnh thâm, đôi khi cũng có người mặc nhiễu đỏ".
Trước tiên ta thấy Nguyễn Bính nêu lên cái yếm, rồi đến cái dây lưng, cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần đen. Đủ lệ bộ phải kể thêm nón quai thao (đi với tóc đuôi gà) như hình ảnh cô gái trong bài Chùa Hương của thi sỹ Nguyễn Nhược Pháp:
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
Quần lĩnh, áo the mới
Tay cầm nón quai thao
Ta sẽ lần lượt đi vào từng phần đã tạo nên sự hoàn chỉnh của bộ y phục phụ nữ Việt Nam vùng châu thổ miền Bắc ngày trước, được xã hội "quy định và công nhận" gồm: Khăn, nón, yếm, áo dài, thắt lưng, quần, guốc dép…
* Khăn mỏ quạ:
Người đàn bà Việt Nam để tóc dài, cho nên khi làm việc phải vấn (quấn) tóc lại cho gọn gàng. Trước tiên, họ quấn tóc trong một cái khăn vấn tóc, là một miếng vải đen cuộn thành ống quấn trọn mái tóc (khăn vấn tóc có thể bằng nhiễu hay nhung, nhưng nhung thì dễ tuột hơn nhiễu).
Cái vành khăn em vấn đã tròn
Câu cười, tiếng nói đã giòn, em lại ngoan
Đuôi tóc dài mà quấn được vào khăn vấn vài vòng thì rất chắc, rồi để chừa ra chừng một gang tay là tóc đuôi gà. Tóc đuôi gà vắt vẻo trên đầu, lại đong đưa theo bước đi của người con gái (Nếu tóc không đủ dài thì phải nối bằng một cái độn tóc)
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Phủ bên ngoài khăn vấn tóc là khăn mỏ quạ vào mùa lạnh, hay khăn đồng tiền vào mùa nóng (khăn này hai đầu cũng buộc ra sau gáy, mà người ta gọi là bỏ giọt như khăn mỏ quạ, nhưng chít lại thành khăn vấn ngang ).
Thương ai mặc áo nâu sồng
Chít khăn mỏ quạ lạnh lùng sớm trưa
Khăn mỏ quạ phải chít sao cho vừa và hợp với khuôn mặt: Nếu chít cái mỏ quạ cao quá thì trông có vẻ điêu ngoa, còn để cái mỏ quạ thấp quá làm khuôn mặt tối tăm. Chít khăn mỏ quạ sao cho khum khum, ôm lấy khuôn mặt người con gái, làm cho khuôn mặt trắng hồng nổi lên trên nền đen của khuôn khăn, giống như một búp sen hồng:
Miệng cười như thể hoa ngâu, Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Muốn chít khăn mỏ quạ cho đẹp phải vòng khăn vấn tóc tròn lại và đặt ngay ngắn trên đầu, hơi xệ và làm thành hình bầu dục về phía gáy, rồi ghim lại. Khăn vuông, chừng bốn tấc, đem gấp chéo thành hình tam giác cho cân đối, đặt lên vòng khăn tóc đã vấn, bẻ hình mỏ quạ chính giữa đường rẽ ngôi của tóc, bắt hai góc khăn về phía hai tai, rồi thắt múi lại. Đội khăn mỏ quạ là một trong những cách làm đẹp rất quan trọng của phụ nữ Việt Nam một thời.
Nhìn em khăn vuông mỏ quạ
Để anh trong dạ tơ vương
Ngày lễ cưới, họa hoằn lắm mới có cô dâu quấn khăn vành dây: quấn nhiều vòng thật đều bằng khăn nhiễu điều (đỏ).
* Nón quai thao:
Nón thì đội trên khăn - Nón quai thao là một loại nón mắc tiền, đẹp và sang trọng. Thường các bà, các cô chỉ đội hay mang theo nón này trong những dịp lễ tết, đình đám. Bởi đây chính là loại nón hội hè. Những chiếc nón đã mãi mãi đi vào lòng người qua những câu ca dao:
Ai làm chiếc nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh
Nón quai thao gồm hai phần: nón và quai thao.
- Nón ở đây là loại nón không có chóp, vành tròn và phẳng như một cái mâm, kích thước khá lớn, đường kính mặt nón chừng 70- 80 cm, vành nón cao độ 10- 12 cm. Nón này được gọi là nón dẹt, nón thúng, nón chủng, nón Nghệ. Đời nhà Trần, triều đình cho cải tiến nón này để các cung nữ đội và gọi là nón thượng - "Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng".
Thứ nón này chia làm ba loại: nón Đấu là loại nhỏ nhất, sườn thành thấp nhất; Nón Nhỡ, còn gọi là nón Ngang, lớn hơn nón Đấu, giản dị hơn nón Mười và nón Mười, còn gọi là nón ba tầm, có vành rộng, sườn nón cao hơn hết.
Nón này em sắm đáng trăm
Ai trông cái nón ba tầm cũng ưa
Nón này che nắng, che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta
Nón thường được làm ở làng Chuông, xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Mặt phẳng trên nón làm bằng lá gồi hay lá cọ. Phải lựa lá cọ mỏng, sống nhỏ, không già, không non để có màu vàng sáng, vì lá già màu vàng đậm (chỉ dùng làm nón chóp che nắng, che mưa để làm việc), còn lá non thì có màu trắng vàng (giống như màu nón bài thơ xứ Huế). Giữa nón gắn một vành tròn như nắp tráp, vừa để đội đầu, cao khoảng 8 cm, đan bằng giang, gọi là khua. Nón nặng nên khua phải cứng.
Khuôn nón gồm những sợi tre nhỏ chuốt bóng, được may kỹ lại với nhau bằng chỉ móc trắng và săn như dây cước. Mặt trong nón còn được trang trí bằng giấy vàng hay bạc, ghép thành những hình hoa lá, hình chim bướm đẹp mắt gọi là hoa nón. Ở những chiếc nón đặc biệt, lòng nón trên đỉnh còn được đính gương soi, và dùng chỉ màu giăng mắc, đan qua đan lại
Nón này chính ở làng Chuông.
Làng Già lợp nón, Khương Thường bán khuôn
Hà Nội thì kết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa chung quanh
Nón quai thao
- Quai để giữ nón này là một loại quai đặc biệt, gọi là quai thao. Làng Triều Khúc, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, tên nôm na là làng Đơ Thao, nằm trên con đường Hà Nội - Hà Đông, cách trung tâm thành phố chừng 8 km, chuyên sản xuất loại quai này, nên quai gắn liền với tên làng thành quai thao.
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần truyền cho
Người làng Triều Khúc phải đi thu mua các loại mốt cục ở các làng canh cửi, về gỡ rối từng mối, xếp thành loại để dệt quai thao. Mốt cục là những sợi tơ rối, có sần, có cục bị thải ra; Còn mốt son là những sợi tơ tốt, thường có màu son hồng dễ dệt làm biên (hai tấm rìa) lụa, lĩnh...
Mốt son đem dệt đầu hàng
Mốt cục đem bán cho làng Đơ Thao
Sợi thao gồm nhiều sợi tơ, ngoài bọc tơ dệt liên tục, giống như bấc (tim) đèn. Sợi thao sau khi dệt xong, được tết nút, nhiều đoạn được thắt lại thành những trang trí nghệ thuật vừa đẹp mắt, vừa làm cho dây thêm chắc.
Một bộ quai thao gồm từ hai đến ba sợi thao, dài từ 1.5 - 2 m, bện lại với nhau, gọi là quai kép, thả võng đến thắt lưng. Khi đội phải lấy tay giữ quai ở trước ngực, nón sẽ không bị đong đưa, lại tiện điều chỉnh khi đội thẳng hay lúc cần nghiêng nghiêng che nắng.
Túa óng tơ vàng tha thướt gió
Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh
Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón
Say mắt chàng trai liếc gửi tình - Anh Thơ
Có hai trái cù (quả găng), to bằng ngón tay cái, được đan thắt công phu ở hai đầu quai thao. Quai rủ xuống bờ vai thành tua dài từ 20 - 25 cm và có chừng chục túm tua nho nhỏ, tạo sự mềm mại, vui mắt. Khi đội nón này, nếu đi nhanh quá, quai thao sẽ quất vào mặt, cho nên các bà các cô phải từ từ, chậm bước tạo nên vẻ chậm rãi, dịu dàng.
Thông thường các cô gái thích dùng quai thao màu gốc của tơ tằm là màu trắng, còn màu đậm như màu đen dành cho các bà đã có gia đình:
Chưa chồng nón thúng quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai.
Đặc biệt phụ nữ ở phố phường còn dùng thêm chiên, thẻ cho vào nón quai thao
Chiên là một miếng bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai con rồng chầu mặt trăng, đặt vào đáy khua nón.
Thẻ cũng bằng bạc, to bằng con bài tam cúc, chạm hoa lá ở giữa, có vòng để buộc quai thao nên người ta dùng hai thẻ cắm vào bên trong nón.
* Yếm:
Trong y phục của phụ nữ Việt Nam ngày xưa, yếm mặc không bó chặt, là một loại đồ lót để che ngực, mang tính chất thuần túy dân tộc, thường do người dùng tự cắt may lấy. Khi ở nhà, nữ giới mặc yếm hở lưng, hở hai cánh tay và đôi vai do khí hậu nóng bức:
Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.
Cái yếm xuất hiện từ lâu trong đời sống người dân, nhưng tới đời nhà Lý, cái yếm mới có kiểu cách căn bản không thay đổi cho đến thế kỷ 19.
Cái yếm là một thứ trang phục vừa kín đáo, vừa ỡm ờ độc đáo của phụ nữ Việt
Yếm là một vuông vải nhỏ, vắt chéo, vừa vặn che ngực; Góc trên khoét lỗ để làm cổ, hai đầu đính hai sợi dây nhỏ để cột ra sau gáy; Ở phần trên của hai cạnh yếm may hai đoạn vải dài để quấn ra đằng sau, đó là dải yếm, rồi thắt lại ở đằng trước cho chắc ngực và ôm gọn lưng mà không cứng đờ, thắt rồi bỏ lững ở trước mặt gọi là " thắt lưng con én ".
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ viền, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cổ xẻ, cổ có đít chữ V mà xẻ sâu xuống gọi là yếm cổ cánh nhạn. Các cô gái trẻ thích mặc yếm cổ xây: Là một vòng vải may thật tròn vào cổ cái yếm, ủi cứng. Một loại yếm cũng hay được các cô sử dụng là "yếm đeo bùa" - "Năm thương cổ yếm đeo bùa" - Người mặc thường để xạ hương vào trong một túi vải nhỏ đeo cạnh yếm, đó là một thứ "vũ khí lợi hại" của phái yếu ngày trước:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.
Thuở xưa, khi hẹn hò với người yêu, các cô gái thường cất một miếng trầu trong cái yếm của mình, rồi mang ra mời, gọi là "khẩu trầu dải yếm". Có lẽ không loại trầu nào có thể sánh bằng:
Trầu em têm tối hôm qua
Cất trong dải yếm mở ra mời chàng.
Màu sắc của yếm còn được lựa chọn tùy theo trường hợp: Đi làm việc, đi chợ, ra ruộng cấy gặt thì mặc yếm màu nâu non. Ngày thường ở nhà, mặc yếm trắng:
Yếm trắng vã nước Văn Hồ
Vã đi, vã lại anh đồ yêu thương
(Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám ngày xưa bao gồm một cái hồ lớn gọi là Thái Hồ hay Văn Hồ. Phía đông Văn Hồ có Nho sinh quán - quán anh đồ - do Phủ Hào, một người yêu thơ lập ra cho học trò các tỉnh về thi cử có chỗ trú ngụ)
Ngày làng vào đám, ngày tết, ngày cưới thì mặc yếm điều: yếm đỏ, còn gọi là yếm hồng, yếm đào, yếm thắm... Màu đỏ là màu sắc chính trong lễ hội cổ truyền người Việt, tượng trưng cho sự sống, sự may mắn, sự tốt lành và hạnh phúc. Do đó hình ảnh cái yếm đỏ này được thấy thật nhiều trong thi ca Việt Nam, chẳng những ở ca dao bình dân như : "Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi không?" hay "Hỡi cô yếm thắm bao xanh", mà còn đi vào tâm hồn của các thi sỹ một thời:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh - Hoàng Cầm
Yếm thắm này được may bằng hàng vải chuội trắng, nhuộm với các sắc độ khác nhau của màu đỏ: hoa đào, dâm bụt, cánh sen, xác pháo, mận chín, đỏ đậm, đỏ tươi, đỏ cam... Còn loại hàng vải để may yếm thì tùy theo điều kiện gia đình, tuổi tác:
Hỡi cô yếm trắng lòa xòa
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là chúc bâu
Hay là lụa bạch bên Tàu
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài
Cái yếm là một thứ trang phục vừa kín đáo, vừa ỡm ờ độc đáo của phụ nữ Việt, là một biểu tượng của nữ tính, trở thành ngôn ngữ trao đổi tình yêu như bài huyền sử Hội yếm bay của thi sỹ Hoàng Cầm:
Ngất núi ô kìa anh vỗ nhịp
Bay cờ triệu yếm ríu ran ca
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp căng tròn nuột ấy … ơi !
* Bao:
Bao có hai loại: bao ngoài và bao trong.
- Bao ngoài: Ruột tượng, may bằng sồi se, màu đen, có tua bện hai đầu bao, khổ rộng. Có thể đựng tiền trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy các thân áo trước, rồi thắt múi to để che trước bụng.
- Bao trong: Thắt lưng, là một loại bao nhỏ, bằng chừng 1/3 bao ngoài, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Thắt lưng cùng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao ngoài, múi dải yếm tạo thành những múi hoa nhiều màu sắc.
Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc
Áo Đồng Lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh - Đoàn Văn Cừ
Thắt (buộc) múi bao cũng là một nghệ thuật làm đẹp, góp phần làm nổi rõ cái lưng ong nhỏ nhắn của các cô gái thời đó. Để làm duyên cho mình, phụ nữ dùng những thắt lưng nhiều màu sắc, chít ở eo, để chúng bay phất phơ trong gió, gồm những màu tươi sáng, được nhuộm lúc gần Tết, sang xuân để mặc đi lễ, hội như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu cánh sen, màu hoa hiên (vàng tươi), màu hồ thủy (xanh nhạt), màu thiên thanh, màu xanh cốm, màu xanh lá mạ, màu nõn (đọt) chuối...
Hỡi cô thắt bao lưng xanh
Có về kẻ Bưởi với anh thì về
Làng anh có ruộng tứ bề
Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ
(Chữ kẻ ở đây có nghĩa là một tập hợp, một cụm dân cư sống trong một địa bàn cụ thể ở vùng đồng bằng Bắc bộ, danh từ này được dùng trước thời Bắc thuộc. Từ thời Hùng Vương: Kẻ, chạ, chiềng là làng, xã, thôn ở vùng châu thổ, còn bản, mường ở vùng cao).
Những người nhà giàu miền quê, những nhà buôn thành thị còn đeo vào thắt lưng một bộ xà tích bằng bạc (một bộ dây nhỏ có nhiều vòng móc), chạm trổ tinh vi với ống vôi, quả đào đựng trầu thuốc, chìa vôi. Lúc bước đi, bộ xà tích kêu xủng xoẻng, nghe vui tai.
Khen ai nhuộm nhiễu tam giang
Đánh dây xà tích cho nàng chơi xuân - Nguyễn Bính
* Quần / Váy:
"Cái quần nái đen"- Cô thôn nữ trong bài thơ Chân Quê này đã mặc quần, không còn mặc váy nữa!!! Từ thời Hùng Vương, phụ nữ Việt Nam đã mặc váy. Sau bao lần đô hộ, người Trung Hoa muốn đồng hóa dân ta, đã bắt phụ nữ Việt Nam mặc quần như người của họ. Vào năm 1655, vua Lê Huyền Tôn ra chiếu chỉ cấm mặc quần, bắt buộc phụ nữ mặc váy để bảo tồn quốc phục. Đến năm 1744, chúa Nguyễn Võ Vương ở Đàng Trong đã ra lệnh cho dân chúng mặc quần áo theo lối Tàu để đối lập với Đàng Ngoài: Cái quần phổ biến ở miền Nam sớm hơn miền Bắc. Rồi năm 1828, vua Minh Mạng đã đi xa thêm: Bắt đàn bà mặc quần, cấm triệt để mặc váy, gây ra phản ứng mạnh mẽ ở miền Bắc.
Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Mà đi thì lột quần chồng sao đang
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan.
Dù luật lệ là vậy, nhưng "phép vua thua lệ làng", các phụ nữ thôn quê miền Bắc vẫn giữ lấy cái váy. Có câu ca dao:
Trúc xinh trúc mọc ngoài sân
Em xinh thì váy hay quần cũng xinh
Từ lúc bị người Pháp cai trị, phụ nữ thành thị đã dần dần mặc quần hai ống màu trắng, trong khi phụ nữ thôn quê miền Bắc phải mất rất nhiều năm mới bỏ được những cái váy cạp điều, váy cửa võng, váy đùm, váy kép... để thay bằng những cái quần màu đen hay nâu đậm.
- Váy kép: Váy may hai lớp, bên ngoài là vải mỏng và nhẹ, lớp trong thì vải thô, dày.
- Váy đùm: Váy buộc túm lưng lại để cho tiện việc đồng áng.
- Váy cạp điều: Lưng váy may bằng hàng vải màu đỏ.
- Váy cửa võng: Phía trước váy chùng xuống những mép gấp cong cong như cửa võng. Người mặc váy khéo không để hụt phía trước, không để váy quay tròn lấy người, mà phải thu xếp sao cho phía sau rủ xuống gần tới gót bàn chân, còn phía trước hơi hếch lên, chạm mu bàn chân.
(Cửa võng là tên gọi chung của những trang trí nằm ở phía trước khu vực thờ chánh của đình làng. Mỗi thời kỳ, mỗi địa phương có những phong cách trang trí cửa võng riêng: Từ những chạm, khắc đơn giản trên các gác lửng để thờ (sạp thờ), qua những trang trí hết sức lộng lẫy, cầu kỳ cho đến cuối cùng là hình thức y môn, cửa võng là một lớp riêng tách ra khỏi gác lửng. Tiêu biểu nhất là trang trí cửa võng làng Đình Bảng - Bắc Ninh, nên thi sỹ Hoàng Cầm trong bài thơ Lá Diêu Bông đã mở đầu bằng: "Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng")
Trong khi nam giới thì mặc quần ống sớ với áo dài (quần may bằng vải cứng như chúc bâu, cát bá... giống như cái ống bằng giấy đựng sớ khi cúng) và quần lá tọa khi đi làm ruộng (quần ống rộng và thẳng, đáy sâu, lưng quần to bản. Nhờ có đáy sâu, có thể làm cho ống quần lên cao bằng cách kéo lưng quần lên cao. Phần lưng quần dư phía trên rũ xuống, lòa xòa ra ngoài thắt lưng, gọi là lá tọa), thì không thấy nói nhiều về kiểu quần mà phụ nữ mặc với áo dài đầu thế kỷ 20 này.
Trong hai bài viết: "Áo dài Việt Nam" của Trần Thị Lai Hồng và "Phụ nữ Hà Nội" của Băng Sơn, ta thấy cả hai tác giả có đề cập đến một loại quần gọi là quần chân què như sau:
"Chiếc quần cũng thay đổi từ kiểu chân què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun, rồi đổi qua gài nút, và sau cùng là khóa kéo kiểu Tây phương..."
"Quần áo là cái lồ lộ ra trước mắt mọi người trước tiên. Các thứ váy cửa võng, quần chân què phải mất đi là đáng. Cái thắt lưng mớ ba mớ bảy một thời kín đáo, gió bay cái này còn có cái khác che kín phía dưới bụng. Mất đi là đương nhiên"
Quần chân què là quần dài, ống rộng, trông cũng như quần bà ba ngày nay. Vì khổ vải ngày xưa không đủ để gấp đôi lại thành ống quần, nên người ta phải xếp miếng vải xéo để cắt, do đó ống quần không được liền một mảnh, mà phải ráp thêm một miếng vải rẻo từ khúc vải khác vào. Có lẽ vì phải nối ống quần như vậy nên có cái tên là "quần chân què". Đũng (đáy) quần thì cũng phải ghép một miếng vải hình thoi ởgiữa.
* Guốc / Dép:
Khi có hội hè, đình đám, phụ nữ thôn quê thường đi guốc tự đẽo làm bằng gộc (gốc) tre. Phía trước đẽo mũi cong lên như đòn gánh để bảo vệ ngón chân, có xỏ dây để lồng ngón chân giữa và có quai buộc bằng mây ở giữa để giữ bàn chân. Guốc này có lẽ đi cả chục năm mới mòn hết, hễ cứ đi một bước là kêu lộp cộp, được gọi là guốc Nghệ (Nghệ An). Ngoài ra, còn có guốc kinh, xuất xứ ở Huế, dáng vẻ rất kinh đô: Làm bằng gỗ lồng mực sơn trắng, mũi vóc hồng, quai nhung thêu kim tuyến, dành riêng cho con nhà giàu sang, quyền quý ít đi lại, vì chỉ cần vài bước là guốc bong mũi.
Dân thành thị hay người buôn bán thì mang dép làm bằng da, dừa, cói... Có hai loại dép: dép một và dép cong.
- Dép một: Rất thông dụng vì tiện và vững, làm bằng một lần da trâu thuộc theo lối thủ công (nên gọi là dép một), không có đế, có quai ngang đằng sau, đằng trước có khuyết (lỗ) để cho ngón chân giữa vào. Khi đi dép bị kéo lê quèn quẹt. Ở thành thị, người ta đi dép một quai chữ nhân bọc nhung.
Chân em đi dép quai ngang
Tay đeo nhẫn bạc, trông càng say mê.
- Dép cong: Làm bằng 4, 5 lần da trâu thuộc, đóng lại với nhau bằng những đanh tre, mũi uốn cong vòng lên để che đầu ngón chân. Quai bằng nhung có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai, giúp cho đi lại dép không bị rơi. Dép cong rất nặng, khi mang không đi nhanh được:
Me cười: "Thầy nó trông
Chân đi đôi dép cong
Con tôi xinh xinh quá
Bao giờ cô lấy chồng" - Nguyễn Nhược Pháp
* Áo tứ thân:
Ngày xưa, do kỹ thuật thô sơ nên hàng vải dệt ra có khổ hẹp, chừng 40 cm, muốn may thành một cái áo phải ráp bốn mảnh thân lại với nhau. Áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, khi mặc thì thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Vì phải làm việc đồng áng, buôn bán... nên áo giao lãnh dần dà trở thành áo tứ thân cho tiện.
Áo tứ thân gồm hai mảnh phía sau may lại giữa sống lưng, mép nơi hai thân áo được dấu vào phía trong; Hai thân trước được buộc lại với nhau để thõng xuống thành hai tà áo ở giữa, nên không cần cài khuy khi mặc.
Khen ai tròn áo tứ thân
Mịn quần lĩnh tía, chùng khăn lụa sồi - Nguyễn Bính
Áo mặc thường ngày màu nâu non, nâu già hay đen, may bằng vải chúc bâu, diềm bâu, sồi, vải rồng Nam Định (Một loại vải mỏng, sản phẩm xứ Sơn Nam - Nam Định, được nhuộm nâu ở phường Đồng Lầm - Thăng Long, nay là làng Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Còn trong dịp lễ, tết thì áo được may bằng the, lụa, nhiễu …
Áo nâu ai mặc nên xinh
Cho duyên em lịch, cho tình anh say.
Áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm. Về ý nghĩa thì bốn thân áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, hai tà trước buộc lại với nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, khăng khít bên nhau.
"Cái áo tứ thân buông tà hay thắt vạt; Cái áo mớ ba, mớ bảy đổi vai hoặc không đổi vai đi cùng với váy sồi hoặc quần lĩnh tía… đã vào ca dao, thành câu ví, nên hình ảnh của nét ăn, dáng mặc thanh nhã, hào hoa, nền nã". Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về các từ ngữ mà nhà văn Băng Sơn nêu lên ở đoạn trên.
- Áo tứ thân buông tà hay thắt vạt: Áo buông tà (buông chùng) có nghĩa là khi thong thả thì hai thân trước thắt lại để thõng (chùng) ở phía trước; Còn khi vội vàng, hối hả thì thắt (cột) hai vạt trước ra sau lưng để đi cho nhanh hay chạy cho tiện .
- Áo mớ ba, mớ bảy: Vào dịp hội hè, đình đám, phụ nữ Việt Nam xưa mặc nhiều lớp áo, áo nọ phủ lên áo kia, lớp này chồng lên lớp kia, có thể từ ba lớp đến bảy lớp vào mùa đông, gọi là áo mớ ba, mớ bảy. Đây cũng là một hình thức phô trương quần áo của các bà, các cô nhà giàu:
Người thì mớ bảy mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi
(Áo tơi: Làm bằng lá gồi nối tròn, cổ có sợi dây thừng để thắt cho khỏi tuột, mặc trùm ra ngoài của nông dân Việt Nam để che mưa, che gió, chống lạnh. Khi rách bươm, nó thành bù nhìn đuổi chim trên ruộng dưa)
Thường cái áo dài nhất ở ngoài cùng là màu nâu hay đen, may bằng hàng mỏng, thưa để nổi những lớp áo càng vào bên trong càng ngắn hơn, may bằng nhiều màu tươi sáng như vàng chanh, hồng cánh sen, xanh hồ thủy …
- Áo đổi vai: Còn gọi là áo thay vai, áo nối vai, áo vá vai hay áo vá quàng.
Tơ lụa gấm nhiễu không màng
Thương cô áo chẹt vá quàng nửa vai
Vì phải gồng gánh, làm việc nhiều nên vai áo mau sờn, rách. Để khỏi bỏ uổng cả cái áo, người ta giữ lại phần lành lặn, thay nửa thân áo trên bị rách bằng loại vải mới khác.
Áo may từ thuở anh mới thương nàng
Đến nay áo rách lại vá quàng thay vai
Một phần vì áo rách, vai sờn mà phải đổi vai; Một phần để khoe sự khéo léo về đường kim, mũi chỉ tăm tắp trên những miếng vá vuông vức, phẳng phiu cũng như về cách chọn lựa màu sắc vải:
Hỡi cô áo vá quàng xanh
Lại đây anh hỏi có đành hay không?
Áo vá quàng thêm màu sắc lại có duyên, cộng thêm cái tài hoa, sáng tạo: Nối vai nhưng so le, gấp khúc, tạo thành những mảnh hình không cân đối nhưng ưa nhìn, và trở thành một kiểu làm đẹp của các bà, các cô. Áo thay vai này đúng là 100% Việt Nam, không lẫn lộn đi đâu được.
Có chồng bớt áo thay vai
Bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm
* Áo ngũ thân
Áo ngũ thân (năm thân, năm tà) cũng giống như áo tứ thân, nhưng kín thân trước vì hai vạt trước được may liền thành một vạt lớn, như vạt sau. Vạt nằm phía bên trái gọi là vạt cả, rộng gấp đôi vạt để bên trong phía bên phải, gọi là vạt con. Hai vạt nối nhau nhờ bâu (cổ) áo, cao cỡ 2 - 3cm, cài kín lại bằng năm cái khuy. Khi mặc, các cô thường chỉ gài bốn khuy, để hở khuy cổ, khoe cái cổ cao "ba ngấn" của mình.
Áo đen năm nút viền bâu
Bạn về xứ bạn biết đâu mà tìm
Tay áo ngũ thân may nối phía dưới khuỷu tay, do khổ vải hẹp, chỉ là 40cm. Cổ, tay, thân trên áo ôm sát người, trong khi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu, không chít eo. Vạt áo may võng, rất rộng, trung bình là 80 cm.
Về ý nghĩa, ngoài bốn thân chính tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu như áo tứ thân, thân thứ năm (vạt con) tượng trưng cho người mặc. Năm cái khuy tượng trưng cho ngũ thường (năm đạo làm người của Nho giáo) là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Áo dài năm nút hở bâu
Để xem người nghĩa làm dâu thế nào?
Áo ngũ thân khi mặc che kín thân hình, không để hở áo bên trong, cho nên nhiều cô gái không muốn cái yếm hay cái áo cánh (áo ngắn) của mình bị che kín hoàn toàn, nên đã "lật viền": thân áo phía trước kéo chéo từ cổ trái sang nách phải, rồi gài nút bên hông che các lớp phía trong.
Nhất thương là cái hoa lài
Nhì thương ai đó áo dài năm thân
Áo ngũ thân có thể mặc lồng nhiều lớp như kiểu mớ bảy, mớ ba của áo tứ thân hay may nhiều lần vải bằng hàng mỏng như the, phổ biến ở hàng phố. Nếu may bằng nhiều lần vải mỏng thì người ta có tên gọi riêng: Áo may một lần vải là áo đơn; Áo may hai lần vải là áo kép, Áo may ba lần, trong có một lần dựng là áo mền, Áo may bốn lần vải là áo đụp.
Khen ai áo kép, quần hồ
Hội làng mê mải sớm trưa đi về - Nguyễn Bính
Khi mặc nhiều lớp áo bên trong với áo dài năm tà bằng the mỏng bên ngoài, các bà các cô đã tạo nên một phối hợp hài hòa và độc đáo về màu sắc. Trước hết vạt cả đè lên vạt con làm thành hai mảng đậm, nhạt khác nhau. Màu đen nếu mặc riêng là một màu tối, nhưng khi mặc một lớp áo mỏng, thưa màu đen bên ngoài chồng lên những lớp áo màu rực rỡ bên trong, thì các màu chói gắt, sặc sỡ trở thành êm dịu hơn. Như màu đỏ chóibiến thành màu đỏ bầm, màu vàng rực biến thành màu hổ phách, màu trắng xóa biến thành màu xám sáng …
* Khuy:
Bây giờ ta sưu tầm về phần khuy (nút, cúc), để coi làm sao mà thi sỹ Nguyễn Bính rên rỉ: "Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi". Lối áo dài cài khuy bắt đầu xuất hiện dưới thời Minh Mạng, lúc triều đình bãi bỏ Bắc thành, bổ nhiệm chức tổng đốc cho tỉnh mới có tên là Hà Nội. Khuy cũng đóng một vai trò, được thay đổi và biến dạng dần theo kiểu của áo. Thường khuy áo phụ nữ nhỏ hơn khuy áo nam giới
Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dù ai thay nút đổi khuy cũng đừng
Trên áo năm thân, khuy làm bằng vải tết (thắt) lại. Vải là vải may áo hay vải cùng màu với áo. Nút thắt bằng vải rất khó mở. Trong khi khuy bấm (nút bóp) rất dễ tuột do đó ta thấy áo dài ngày nay đơm khuy bấm phải dùng thêm vài cái khuy thép móc ở nơi eo.
Khuy được đính (đơm)vào áo bằng chân khuy - Bộ khuy chia làm hai phần: một phần có hạt khuy áo, phần kia là vòng nút để lồng (tròng) hạt khuy áo vào. Chân khuy của hai phần giống nhau từ kích thước đến hình dạng, được may lộn nhỏ như cây tăm, xếp nằm song song với nhau.
Áo đen tra nút cũng đen
Hò với người lạ, người quen khó hò
Ở thành thị, hạt khuy áo còn là những hạt thủy tinh tròn, màu giống như màu áo hay những màu phổ biến như hổ phách, tráng vàng, tráng thủy để giống như những viên ngọc trai. Ở nông thôn, dù áo có khuy, các cô cũng cứ ấp tà áo vào ngực, rồi thắt lưng ra ngoài, chứ không gài (cài) khuy.
Nút vàng tra áo cổ y
Chàng xa, thiếp cách, áo ni giữ hoài.
 http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/jeune_femme_du_Sud.jpg
 http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/gonflement_et_gercures_des_levres.jpg
 http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page7/quatres_danseuses_grand_costume.jpg
 http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/femme_annamite_coiffure_tonkinoise.jpg
http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/mandarin_annamite1.jpg 
http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/interpretes_dela_residence_de_Hanoi.jpg

http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page7/repas_catechistes_de_NamDinh.jpg
 http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/mandarin_annamite.jpg
http://hinhxua.free.fr/autrefois/docteur-hocquard/page6/beautes_tonkinoises.jpg
http://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/divers/enfants.JPG
 http://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/divers/saigon_vie.jpg
 http://nguyentl.free.fr/Public/Chagneau/Raymond_et_Indochinois.jpg
 http://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/commerce/tonkin_employees_manufacture.JPG
http://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/commerce/marchandes.JPG http://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/commerce/tonkin_employees_manufacture1.JPG
 http://nguyentl.free.fr/autrefois/metiers/ban_tra.jpghttp://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/divers/joueuses_cartes.JPG
 http://nguyentl.free.fr/Public/Chagneau/Famille.jpghttp://nguyentl.free.fr/autrefois/scenes/divers/vendeurs_cartes.JPGhttp://nguyentl.free.fr/autrefois/metiers/hang_rong.JPG
 http://nguyentl.free.fr/Public/Landucci/Cochinchine18-1949.jpg
 http://nguyentl.free.fr/Public/Landucci/Cochinchine29-1949.jpg
http://nguyentl.free.fr/Public/Landucci/Cochinchine17-1949.jpg
http://nguyentl.free.fr/Public/Chagneau/3_femmes_moi.jpg
 http://nguyentl.free.fr/Public/Chagneau/Femmes_Moi.jpg

No comments: