Tuesday, April 11, 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 463

Thursday, April 13, 2017

TRẦN NGỌC BÌNH * NGƯỜI TÙ VƯỢT NGỤC

 

Truyện về người tù cải tạo vượt ngục

Đã hai ngày rồi, người mang rau cho nhà bếp của trại tù Phong Quang là anh đội phó chứ không phải là anh đội trưởng Rau Xanh như mọi ngày (anh em tù chúng tôi phải tự cải thiện đời sống bằng cách tự trồng rau.)... Không kềm nổi sự tò mò, tôi dọ dẫm khi anh đội phó đến giao rau lần thứ ba:

-Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa!

Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng anh đội phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền Bắc khi phải sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người” trong đó mỗi người dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông sau xem có người thứ ba nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá “tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:

- C. trốn trại rồi.

Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cách chim tung trời tim đường đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn tù của mình nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát ly được gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc chắn là cho đến ngàn sau thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải công nhận là đúng, là không sai chạy dù một ly, đã được diễn tả trong câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng cả ngàn năm ở ngoài).

Kể từ hôm đó, những anh em tù chúng tôi sau khi bị xúc động về việc này, có bàn ra tán vào thì cũng chỉ rỉ tai nhau rồi đâu lại vào đấy, lại lao động triền miên cho đến mệt lử, chiều về ăn chén cơm tù độn khoai, hay sắn hoặc cái “chuông xe đạp mỏng teng” (đây là chữ anh em dùng để chỉ chiếc bánh mì luộc) rồi lên “chuồng” cố dỗ giấc ngủ cho qua cơn đói để rồi sáng mai lại trở lại kiếp tù lao động khổ sai không án nên chẳng biết ngày nào “tung cách chim tìm về tổ ấm” để gặp lại những người thân trong gia đình để “cho bõ lúc sầu xa cách nhớ”.

Kiếp tù đầy cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên lại trở về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:

Ngày nào gặp nhau, yêu nhau rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một người nhớ thương một người

Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã “tiên tri” được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù đã được ngụy trang là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi, đâu có đánh lừa được ai, ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ cho biết là: “Ba đi học tập” thì bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu quá vậy, sao không về nhà?”. Vào thời kỳ đó và ngay cả cho đến bây giờ, dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở chỗ tù lớn hay tù nhỏ mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát biểu khi vượt thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi.” để nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.

Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:

-Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.

Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm cá” và ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng tôi khỏi noi theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật sự tung cánh về miền tự do rồi.

Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng đẹp trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt nhìn mà cứ tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về Trại Nam Hà vào cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một tay còn tay kia thì bị còng dính vào tay của một anh nữa, mà tôi không biết tên, anh này thì một cánh tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao đó, nghĩa là cứ hai người chung nhau một còng để mà hưởng cái hạnh phúc không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người tù khốn khổ mỗi khi chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự chuyển trại là do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm đối với dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp ủ trong tâm khảm.

Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng tôi không ai bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy mẫu khai này rồi điền vào “ chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.

Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để nghe nói chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen làm việc “ban đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc tự thấy là không chính trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, mà điển hình là khi họ ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt” của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà không dám công khai cho toàn dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái bản chất coi thường, khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn rêu rao để mị dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị thua đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay đắng cho tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng tôi ra xử công khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết là chúng tôi vẫn còn có một quê hương để mà bảo vệ.

Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này, chẳng thấy đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng nói vòng hoài à!”

Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:

Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Kiều.

Tôi, như trong câu Kiều nói trên, đã phải chịu “phong trần” từ năm 1979 là năm tôi biết được phần đầu của câu chuyện và mãi cho tới năm 1985 tức là 6 năm sau, khi có cái may mắn thoát chết vì bệnh phù thũng để rồi qua bao lần chuyển trại và có lẽ do định mệnh hay do ông Trời sắp xếp nên đã được nằm cạnh anh C. và mừng hết lớn, tôi không quên hỏi anh về câu chuyện trốn khỏi trại tù hồi đó.

Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện của anh.

Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch do tù hình sự đảm trách. Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường hay ngồi cùng với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý, sau một thời gian thì điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần thu hẹp lại khoảng cách biệt và từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật dẫn đến sự trao đổi tâm tình.

Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như không nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “ hỏa tiễn made in North Viet Nam” như đ...m..., đ....b... bay ra ầm ầm, làm choáng váng người nghe, phải nói như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục, về con người của “xã hội chủ nghĩa Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình sự Miền Nam ở Long Giao những anh em tù này tuy là hình sự nhưng tôi không bao giờ thấy các anh em này sử dụng các loại “hỏa tiễn” nói trên. Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn luôn tỏ ra có sự trân trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em chúng tôi ở phía xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng gẫy cánh se sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi tuy rằng chúng tôi là những người thất thế.

Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi trụy có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong thiên đường của Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự ! Thế thì các trại tù như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở Miền Bắc chắc là để nhốt muỗi hay sao đây!

Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét mặt lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi làm quen, ngay từ lời nói đầu tiên, tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê với tôi, và cứ mỗi ngày một chút dần dần hai chúng tôi hiểu nhau nhiều hơn và một khám phá nữa càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ như là bàn tay có 5 ngón!

Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm ra là chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi tắt là B. cho tiện, mới tiết lộ:

“Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?”

Tôi hỏi lại B:

“Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?”

Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố quan trọng nào ở Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về Việt Na. Đi cùng có 2 người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục với chỉ thị nếu ai định đào tị sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải thanh toán, phải giết người vì người đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm hư hỏng và lần nào cũng vậy, cả ba phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3 người thì B là chính còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói cho biết.
Cho đến một hôm, Tòa Đại Sứ nhận được công điện của Bộ Ngoại Giao trao tặng cho B. một huân chương vì những thành quả đạt được và triệu hồi B. về nước để nhận, dĩ nhiên Ông Đại Sứ rất mừng và cho làm tiệc tiễn hành một nhân viên xuất sắc dưới quyền khiến ông được thơm lây theo như phong tục của người Việt ta.

Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy Công An “dàn chào” cẩn thận không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay lập tức với lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra là B. đã manh nha những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ không có bằng chứng gì là phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không cần tòa án xét xử dù cho chỉ có hình thức thôi, vì tòa án cũng là của Đảng mà.

Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế nào, vì nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là Đảng sẽ chẳng ngại ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền thống trị hơn nữa như là Đảng đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là đêm không cùng, chừng nào mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó thì “tớ” mới có cả ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay sinh sát của mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng miền Nam để chết thay cho “tớ”!

“Còn vợ của tôi ư, hiện nay bà ấy đang dạy học ở Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, thế nhưng bị kết tội như tôi, nhất là tội về “tư tưởng”, thì kể như tiêu tán đường rồi và mình nên kiếm chước “tẩu vi thượng sách” là hơn và cứ coi như mình hay vợ mình đã chết thì mình mới dễ dàng quyết định. Đây là dịp để mình thử thời vận như các cụ ta vẫn thường nói: “Được ăn cả, ngã về không”, vả lại, đời tôi kể như bỏ rồi!”

Kế đến anh nói một câu gở miệng:

“Đằng nào cũng chết, không chết trước thì cũng chết sau mà”.

Rồi như một thi sĩ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, B. , tằng hắng lấy giọng rồi ngâm khe khẽ:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tới
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”

Như vậy, đối với B. thì đã xong, ngoài ra tôi còn rủ thêm được người bạn thân của tôi là Th. T/N. cùng tôi trốn trại nữa, N. là bạn thân của tôi từ hồi nào đến giờ. Là người trầm tĩnh, kín đáo, N. rất dè dặt từng lời nói do đó mới có thể bảo mật được kế hoạch trốn trại vì người Pháp đã chẳng có câu: “Sự bí mật của hai người là sự bí mật của tất cả mọi người” đó sao và đúng như sự đánh giá của tôi, N. quả thật đã không phụ sự kỳ vọng mà tôi tin tưởng nơi anh.

Việc nhín chút cơm, chút muối thì B. lo, cho đến ngày đã định, chúng tôi kiếm cớ vào rừng lấy củi về nấu nước cho anh em rồi dông một mạch. Vì tù đông nên mỗi đội khoảng từ 35 đến 40 người được cấp phát một đôi thùng để nấu nước uống phát cho anh em ngay tại hiện trường lao động, còn nhà bếp của Trại chỉ lo việc ẩm thực mà thôi.

Cứ ngày nghỉ đêm đi, vì nếu đi ban ngày dân thấy thì bị lộ, chẳng bao lâu thì đã đến con sông phân chia ranh giới hai nước vì trại tù Phong Quang chỉ cách Trung Quốc có 16 cây số đường chim bay mà thôi.

Tới được nơi đây thì cả ba đã quá mệt mỏi, nên sau khi thảo luận tất cả đều đồng ý là hãy nghỉ cho khỏe rồi lúc mát trời vào lúc xế chiều sẽ đốn chuối làm bè qua sông, tự do đã ở trong tầm tay chỉ với ra là nắm, là bắt được liền vì nhìn qua phía bờ bên kia chúng tôi đã thấy một vài người Hoa đang làm ruộng đầu đội nón rộng vành ờ phía xa xa, và đó là sơ sót thật là đáng trách khiến về sau này chúng tôi cứ ân hận mãi. Thật là không có cái dại nào giống cái dại nào, cơ hội đã đến lại để vuột mất, y chang cái túi khôn của người Tây Phương đã được diễn tả trong câu: “Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai cả”.

Sau khi đã quyết định như vậy rồi, chúng tôi mỗi người tìm một bụi cây rồi chui và ngủ, và vì quá mệt mỏi nên cả ba đều ngủ quên đến khi nghe tiếng chó sủa thì lúc đó trời đã tối đen, B. vội lao mình xuống sông nhưng không kịp nữa rồi, một tràng AK vang lên trong đêm trường tịch mịch và tiếp theo đó là một tràng AK nữa khi Th.TN. lao mình tiếp theo cùng với B. Riêng phần tôi, một con chó berger Đức ở đâu gầm gừ lao tới mõm đớp chặt ống quần khiến tôi không cục cựa gì được, một tên Công An chĩa súng AK vào ngay mặt tôi, miệng quát lên:

“Động đậy ông bắn chết bây giờ.”

Sau đó là màn đòn thù liên tiếp giáng xuống, khỏi cần nói cũng biết là thê thảm đến như thế nào rồi, riêng B. vì đạn trúng tim nên chết tại chỗ, còn N. thì đạn trúng cánh tay phải nên bị gẫy tay. Khi về đến trạm Công An biên phòng lại một trận đòn thù còn thê thảm hơn thế nữa khi họ khám phá ra là chúng tôi là tù trốn trại chứ không phải là những người buôn lậu.

Cuộc trốn trại không thành công nhưng tôi vẫn tự hào là tôi và những người cùng tham gia đã giữ được bí mật đến phút chót, đã qua mặt được đám cai tù chỉ có một điều ân hận là không biết cái chết của anh B. có được thông báo cho gia đình anh ấy không, chắc chắn là nếu có, thì họ cũng giấu nhẹm lý do anh ấy bị chết, vì đó là bản chất của họ.

Tôi tự an ủi là phần tinh anh của con người không bao giờ chết, chả thế mà trong Kiều có câu:

“Thác là thể phách, còn là tinh anh.”

Và chắc chắn là anh B. khi qua bên kia thế giới vĩnh hằng anh đã không còn điều gì ân hận vì phần tinh anh của anh giúp anh biết được là anh đã chết và chết như một con người tự do.

Sao Nam Trần Ngọc Bình.

VĂN TRƯỜNG * TỘI ÁC CỘNG SẢN

 

Tội ác của loài quỷ dữ!

Đã bốn mươi năm trôi qua, kể từ ngày đảng Cộng Sản Việt Nam, với sự tiếp tay của lũ quan thầy Liên Xô và Trung Cộng, xua quân tiến chiếm miền Nam thân yêu của chúng ta, xin mời quý độc giả cùng chúng tôi mở lại trang lịch sử vô cùng thương tâm của một trong những hàng mấy trăm ngàn thuyền nhân vào giai đoạn trốn chạy ách cai trị tàn ác vô nhân đạo và ngu muội của bè lũ Cộng Sản Việt Nam.
Nguyễn Thị Hoa Mai là một nữ sinh dịu hiền trong trắng của một trường trung học Công Giáo tại Sài Gòn trước 30 Tháng Tư năm 1975. Khi Cộng Sản miền Bắc tung hàng trăm ngàn chiếc nón cối, và vài ba trăm ngàn đôi dép râu vào dẫm nát mảnh đất miền Nam tự do của chúng ta, thì lúc đó Mai mới chỉ là cô bé 16 tuổi, lứa tuổi của ô mai ngọc ngà, đầy mộng mơ. Mai là một cô bé mình hạc xương mai, nước da trắng như bông bưởi, duyên dáng mặn mà, một chút nhí nhảnh, dễ thương, và rất thông minh. Mỗi ngày cắp sách tới trường Mai thường diện một bộ đồ trắng tươi, một chiếc nón cũng nền trắng nhưng được trang trí hoa văn rất điệu đà. Mới 16 tuổi nhưng đã có không ít những chàng sĩ quan QLVNCH vẫn thường hay bám sát những bước chân của Mai từ trường về nhà. Nhưng lần nào cũng vậy khi sắp tới cửa để chuẩn bị vào nhà, Mai cũng chỉ tặng các chàng một nụ cười duyên dáng, rồi biến mất sau khung cửa.
Ông thân sinh của Mai là một quân nhân trong quân lực VNCH, một người lính chiến can trường, không bao giờ chịu đội trời chung với Cộng Sản (CS). Ông là một trong những người theo gia đình di cư vào Nam đầu tiên sau khi Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước ta có hiệu lực. Ông lập gia đình với mẹ Mai sau khi công cuộc di cư đã ổn định vào khoảng năm 1955. Cô bé dễ thương có một cụm tên đầy đủ là: Maria Têrêsa Nguyễn Thị Hoa Mai được sinh ra vào năm 1959 với sự yêu thương đùm bọc của cha mẹ và họ hàng. Vì là gia đình Công Giáo, cha mẹ của Mai lại là những tín hữu ngoan đạo nên cho dù chỉ sống với nhau có 9 năm ngắn ngủi, mẹ Mai cũng cho ra đời được 8 người con, đa số là con gái, cũng vì đạo Công Giáo không cho phép ngừa thai, ngoài ra trước khi từ giã cõi đời, ông thân của Mai lại đã ưu ái tặng cho mẹ Mai một cặp song sinh, chính là hai cô em út xinh đẹp của cô. Ông thân sinh của Mai đã anh dũng hy sinh trong một cuộc hành quân tiễu trừ CS và đã phơi thây ngoài sa trường, biệt vô âm tín. Sau khi bố Mai đã hy sinh vì tổ quốc, gia đình Mai, một dạo, cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nhưng cũng may, một vị sĩ quan cao cấp của quân đội, thấy tình cảnh mẹ góa con côi, đã cho mẹ Mai được vào làm việc hành chánh trong một cơ sở của quân đội. Ngoài ra bà ngoại của Mai cũng đã bao bọc cho mẹ con Mai rất nhiều trong giai đoạn đó.
Mai là người con thứ hai trong gia đình nên cũng vất vả; ngoài giờ đi học, Mai còn phải thay mẹ lo lắng cho các em về mọi phương diện. Cuộc sống không sung túc, nhưng cũng tương đối thoải mái. Mặc dù còn đi học, Mai chưa dám nhận lời tỏ tình của ai cả, nhưng Mai cũng thấy có cảm tình đặc biệt với một chàng sĩ quan bộ binh, nghe đâu đang làm nhiệm vụ tại Vùng 2. Tuy chàng không hào hoa, bảnh chọe như những anh chàng Không Quân mà Mai thường thấy theo đám nữ sinh của trường Mai, nhưng chàng Bộ Binh này có một vẻ phong sương, đúng là một người lính thứ thiệt. Với bộ râu mép và bộ đồ lính vương bụi đỏ của vùng đồi núi cao nguyên, chàng đúng là mẫu người được sinh ra để bảo vệ quê hương, và dĩ nhiên, cũng để bảo vệ cho phái yếu như Mai. Trong một lần về phép, đón Mai ở cổng trường chàng đã dúi vào tay Mai một lá thư, ngoài lời tỏ tình rất chân thành, chàng còn tặng Mai một bài thơ, mà sau bao nhiêu biến cố, Mai vẫn còn nhớ nguyên văn:
Gửi Người Em Gái
Em biết không người chiến sĩ sa trường,
Chưa vào đời phải từ giã văn chương,
Mang trên vai nợ non sông, tổ quốc,
Ra chiến trường để bảo vệ quê hương.
Hôm gặp em giữa trưa nắng cổng trường,
Bóng dáng nhỏ, ôi đẹp, lại dễ thương,
Anh như thấy cả trời Xuân rực sáng,
Hồn chiến sĩ trong giây lát, vấn vương!
Anh ngày đêm, vùng đất đỏ miệt mài,
Trả nợ nước, làm sao có ngày Mai,
Nhớ thương em nàng nữ sinh diễm tuyệt,
Xin tặng em cả bốn đóa (hoa mai) trên vai!
Mong một ngày, quê mẹ, sẽ thanh bình,
Em càng lớn, trổ mã, lại càng xinh,
Anh xin phép cùng em bên Thánh giá,
Để khấn cầu Ngôi Hai cho phép mình!…

Nụ hoa tình yêu vừa chớm nở trong lòng, Mai còn đang say sưa với chút men tình vừa dậy, thì ngày 30 Tháng Tư 1975 ập tới, chàng trai phong sương, kiêu hùng, mà Mai tưởng rằng sẽ có thể trao trọn tình yêu cho chàng, đã bị bắt, bị lưu đầy trên rừng thiêng nước độc, không hẹn ngày về!
Sau 30 Tháng Tư 1975, Mai phải nghỉ học ở trường một thời gian, sau đó vì hoàn cảnh đất nước còn nằm trong giai đoạn giao thời, và vì còn cần nhiều người làm việc, nên Mai cũng xin được đi học lớp cán sự điều dưỡng, rồi đi làm việc ở một bệnh viện. Tuy nhiên cuộc sống của dân miền Nam chúng ta vào giai đoạn đó rất khó khăn về mọi phương diện. Phong trào vượt biên, vượt biển càng lúc càng nở rộ. Thân mẫu của Mai là một người phụ nữ rất kiên cường, gan dạ, bà đã từng tuyên bố với các con:
“Mẹ đã trốn chạy CS từ ngoài Bắc vào đây, mẹ muốn đưa tất cả các con đi trốn tụi nó một lần nữa, nhưng rất tiếc nước mình không còn chỗ nào để đi, vậy các con, đứa nào có phương tiện, cứ việc lên đường, không thể sống với bọn nó được đâu!”
Thời gian thấm thoát trôi qua, từ một người con gái mơn mởn đào tơ, có bao nhiêu chàng thi nhau săn đón, cuộc sống của Mai lúc đó thật chán nản, người xưa, cũng biệt vô âm tín; Mai muốn kiếm phương tiện ra đi, mặc dù cũng biết phía trước là hiểm nguy gian khổ, nhưng hàng ngày phải nhìn thấy những khuôn mặt khó ưa, cuộc sống lại khó khăn trăm bề, tuổi xuân mỗi lúc mỗi tàn phai. Nhiều tên nón cối cứ gạ gẫm, nhưng làm sao Mai có thể mê nổi loại người mà chính mẹ Mai đã muốn cao chạy, xa bay!
Đầu Tháng Tư 1984, dịp may tới, nếu chịu chi, Mai chỉ phải trả một cây vàng, thay vì hai cây như những người trước đã đòi. Là một người con gái siêng năng, cần kiệm Mai đã dành dụm được một ít, cộng với số vàng mẹ cho, vay mượn thêm Mai cũng tạm đủ chi cho người tổ chức chuyến ra đi “định mệnh” này.
Lợi dụng vào thời điểm bọn cầm quyền lo tổ chức ngày mừng “đại thắng mùa xuân” của chúng, chúng sẽ lơ là trong việc kiểm tra sinh hoạt của người dân, người tổ chức chuyến vượt biển hẹn Mai ở một địa điểm tại ngã tư Bẩy Hiền. Đến điểm hẹn họ giao cho Mai một bé trai khoảng 5 hoặc 6 tuổi, để Mai dẫn theo. Người đàn ông hướng dẫn viên khoảng 30 tuổi nói nhỏ vào tai Mai: “Cứ dẫn chú nhóc theo ông ta, và đừng nói gì hết.”
Kể từ thời điểm đó, lúc thì đi bộ, lúc thì đi xe, Mai cứ theo ông ta như một cái bóng, cho tới khi tới vùng có tên là Rạch Sỏi, thuộc tỉnh Rạch Giá. Sau đó Mai được đưa vào một căn nhà bỏ trống, ở đó đã có sẵn mấy chục người đang chờ, nằm ngồi ngổn ngang, người nào cũng ngơ ngác, hoang mang! Từng toán, rồi từng toán, được từ từ đưa đi ra tầu, tới gần sáng mới đến phiên Mai, nhóm của Mai gồm có 5 người, là những người cuối cùng ra bến đợi. Sắp ra tới nơi, thì có tin, những người đi trong đêm, đã bị bắt khá nhiều, chuyến đi dự tính bị hủy bỏ. Ai nấy cũng sững sờ, buồn khổ và thất vọng.
Một người trong nhóm khá lớn tuổi, có lẽ là sĩ quan QLVNCH cũ, đến gần người hướng dẫn viên nói: “Tất cả anh chị em còn lại đây đều xa lạ với vùng đất này, nếu các anh bỏ họ bơ vơ ở đây, thì họ sẽ xoay sở ra sao!” Cuối cùng nhóm của Mai cũng được cho ra tới bến bãi để lên tầu!! Con tầu thay vì chứa được khoảng 50 người, thì giờ này chỉ còn 22 người, kể cả ông bà chủ tầu và một sĩ quan Hải Quân QLVNCH cũ, làm tài công. Khi đã yên vị, có chỗ ngồi tương đối thoải mái, Mai đưa mắt đảo qua một lượt để quan sát những người có mặt trên tầu: ông bà chủ tầu, khoảng trên 50 tuổi, chàng sĩ quan hải quân, làm tài công, đang điều khiển con tầu, có vẻ khá thành thạo, nghe nói mới “ra trại” được một năm, tuy không còn phong độ, hào hoa như thời còn trong trang phục của một chàng sĩ quan Hải Quân QLVNCH, nhưng tạng người cao lớn, vẻ mặt cương nghị của chàng cũng đã gieo vào lòng Mai một mối cảm tình như nàng đã có với “người xưa.” Ba người đàn bà khác, cũng trạc tuổi Mai, một bé gái khoảng 8, 9 tuổi, còn lại toàn là đàn ông, con trai.
Mai là người thiếu nữ đẹp nhất bọn, mặc dù trước lúc ra đi nàng đã bỏ lại những trang phục mà nàng ưa thích hàng ngày. Nàng vươn vai cho giãn gân cốt, hít một hơi dài không khí trong lành của biển khơi. Nàng mường tượng, giá chuyến hải hành này, là một chuyến du ngoạn trên một chiếc tầu hải quân của “phe ta,” bên cạnh có chàng sĩ quan hải quân đang điều khiển con tầu, thì hay biết mấy, mặc dù nàng cũng có nghe phong phanh là đàn bà không được phép xuống tầu hải quân. Còn đang thả hồn vào những mơ mộng phi thực tế, thì từ đàng xa, một con tầu xuất hiện, từ từ tiến lại mỗi lúc một gần, vừa mừng, vừa sợ. Tưởng có tầu đến cho quá giang vào trại tỵ nạn, không dè trên bong tầu đang bay phần phật một lá cờ đỏ chói, với ngôi sao vàng, mỗi lúc một hiện rõ. Cả con tầu tội nghiệp xôn xao, ai nấy sợ hãi, nhiều người đã rươm rướm nước mắt. Không tới mươi phút, chiếc tầu của “phe thắng trận” đã cập sát mé tầu của Mai.
Bọn hải giám nhẩy sang lục vấn: “Ai là chủ tầu”? – “Chủ tầu đã bị bắt”! Một người trả lời. “Ai là tài công?” “Tài công cũng bị bắt!”… Sau một hồi chất vấn lục soát, tên trưởng tầu hải giám hất hàm hỏi: “Muốn giải về hay muốn đi tiếp?”… Ông chủ tầu của Mai, sau khi giả vờ bàn bạc với mấy người gần đó, rồi xuống hầm tầu lên, ông ta đưa cho hắn một gói giấy, hắn mở ra liếc coi, đút vào túi, ngoắc đồng bọn trở về tầu, bẻ lái đi thẳng. Mai được một phen đứng tim, thở phào nhẹ nhõm. Trước khi nổ máy cho tầu tiếp tục cuộc hành trình tìm tự do, chàng tài công, cũng quay nhìn Mai, như ngầm nói: Có anh đây, em đừng sợ nghe! Một giây bối rối, một chút xốn xang như chợt hiện ra trong tâm trí người con gái đã 25 cái xuân thì, nhưng chưa hề thực sự nếm mùi vị tình ái ra sao.
Người tài công nổ máy tiếp tục cho con tầu rẽ sóng tiến về phía vịnh Thái Lan, vì đó là con đường gần nhất cho những người vượt biển đi tìm tự do để đến Thái Lan hoặc Mã Lai. Chiếc tầu được trang bị hải bàn, máy móc và lương thực tương đối đầy đủ, người tài công cũng tỏ ra có tay nghề rất vững làm cho Mai vừa tin tưởng, vừa an tâm. Mai còn vẽ ra trong trí tưởng tượng là nếu được ghép với chàng thành một cặp, thì có lẽ con đường tỵ nạn của nàng sẽ suôn sẻ hơn. Hình bóng của chàng sĩ quan Hải Quân QLVNCH với trang phục trắng tươi, mà một đôi lần nàng bắt gặp trên hè phố Sài Gòn, vừa thoáng hiện trong tâm tư nàng, thì cũng là lúc mọi người trên tầu chộn rộn, xôn xao, vì phía trước vừa xuất hiện một con tầu đang rẽ sóng tiến về phía nàng.

“Bọn hải tặc” mọi người cùng thốt lên một lượt. Khuôn mặt trắng tươi hồng hào của Mai bỗng nhiên đổi mầu, xanh như một tầu lá chuối. Ôi, một kiếp hồng nhan! Không biết đã có bao nhiêu những người con gái thân yêu của mẹ Việt Nam đã gặp hoàn cảnh như Mai bây giờ? Lỗi này do ai gây nên?

vuotbien71
Ảnh minh họa
Bọn hải tặc cho tầu áp sát vào thân tầu của Mai, năm tay súng AK, bốn tên cầm mã tấu, nhẩy sang tầu của Mai, bắt mọi người dồn vào một góc, ra lệnh tháo hết nữ trang, đồng hồ, tiền, vàng bạc đưa cho chúng. Bọn cướp biển này chắc là người Thái Lan, vì nước da của chúng không đen như người Mã Lai. Mai còn đang bán tín, bán nghi, thì đã bị chúng đẩy, đưa qua tầu của chúng, cùng với những người phụ nữ khác.

Một màn hiếp dâm tập thể giữa thanh thiên bạch nhật một cách dã man, tàn bạo, vô nhân đạo của bọn người man rợ, vào những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi. Bất chấp sự van xin, đau đớn, kêu khóc, của những nạn nhân khốn khổ, bọn chúng cứ thay nhau giở trò dã thú một cách bình thản, không một mảy may xót thương. Cuối cùng thì năm người con gái tội nghiệp của mẹ Việt Nam cũng được đẩy trả lại con tầu của họ, với nỗi niềm cay đắng, đau khổ, và đầy tủi nhục. Trời cao có thấu được nỗi niềm oan khiên này không?! Sự kiện tày trời này do ai gây nên?!
Con tầu, và những thuyền viên trắng tay, vẫn phải tiếp tục cuộc hành trình trong âm thầm, lặng lẽ, mọi người, không ai bảo ai, đưa cặp mắt thất thần, nhìn sóng nước biển khơi, đôi dòng châu lã chã.
Cuộc đời đúng là bể khổ cho dân tộc Việt Nam, nói chung, và cho những sinh linh tội nghiệp trên con tầu vượt biển của Mai, nói riêng. “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”! Hết bọn hải tặc này, tới quân cướp biển khác, thay nhau cướp bóc và hãm hiếp những người trên con tầu nhỏ bé, mong manh của những người đi tìm tự do; tất cả là bẩy lần. Những người con gái tội nghiệp của chúng ta xơ ra như những trái mướp già, hầu như không một ai còn đủ vài giọt nước mắt để tuôn ra trên những gò má nhăn nhúm, khô ráp vì đau khổ, và vì gió biển! Lần thứ bẩy hai tầu của bọn hải tặc áp sát con tầu của Mai, chúng ào qua, lột trần quần áo của phụ nữ và “hành xử” tại chỗ, không một chút e dè, giống như chúng đang làm những công việc rất bình thường khác. Sau khi thỏa mãn thú tính, Mai được “chấm,”, để được làm “vợ”một tên trong bọn chúng, và được chuyển sang tầu của chúng.
Nhưng tội ác không được dừng lại ở đó, bọn mình người, dạ thú đó, cho hai con tầu của chúng làm thành thế gọng kìm rồi húc cho tới khi con tầu xấu số với hai mươi mốt sinh linh chìm hết dưới biển, thành mồi cho lũ thủy quái, mới chịu bỏ đi. Chỉ còn mình Mai, được quấn trong một tấm vải, không quần, không áo, co ro như con tôm vừa bị lột vỏ, thất thần nhìn bạn đồng hành chới với vật lộn với sóng biển, rồi thay nhau, từ từ chìm vào lòng đại dương, trong uất hận, căm hờn. Tội ác này do ai mà ra?! Mai nhắm mắt không dám nhìn thêm nữa, đầu óc quay cuồng, tưởng như muốn điên dại, vì sự dã man, tàn bạo, mà chưa bao giờ, Mai có thể hình dung nổi.
Chúng cho Mai ở trong một góc nhỏ của con tầu, rồi đi tìm những vị trí có nguồn cá để thả lưới. Thì ra bọn chúng không phải là hải tặc chuyên nghiệp, mà là ngư phủ Thái lan, chúng vừa đánh cá, vừa cướp bóc những con người cùng khổ chẳng may lọt vào tầm ngắm của chúng. Sở dĩ chúng phải sát hại những thuyền nhân của chúng ta, vì chúng sợ lộ hành tung cướp bóc của chúng. Nhưng cho dù vì bất cứ lý do nào chăng nữa, tội ác của chúng cũng thật đáng kinh tởm, và không thể dung tha!
Sau khoảng ba tuần làm “vợ” hờ cho một tên có vẻ có máu mặt trong bọn, và khi tới thời kỳ vào đất liền để lấy thực phẩm, gã “chồng hờ” của Mai cho nàng vào một chiếc thùng đựng nước, bỏ theo một ít thực phẩm, rồi thả xuống biển, mặc cho con Tạo xoay vần ra sao thì ra! Chúng không dám đem nàng vào đất liền, sợ bị lộ tẩy.
Thì ra Trời cũng còn “một” mắt, nên suốt một tuần lênh đênh trên biển trong chiếc “vỏ sò” đó, biển không nổi phong ba, và rồi những con sóng nhỏ hiền lành cứ từ từ đẩy nàng gần tới bờ. Mặc dù có một khúc cây, nhưng Mai không biết chèo chống chi cả, nên chiếc thùng cứ loay quay như gà mắc thóc, và cứ luẩn quẩn lúc vào, lúc ra. Từ nhỏ tới lớn, Mai chỉ biết ăn học, và làm những việc nhẹ, cơ thể mảnh khảnh, chân tay yếu đuối, thì làm sao có thể chống chọi với đại dương bao la, đầy bất trắc.
Đang lúc phân vân, lo lắng, để kiếm cách tiếp cận với bờ, thì một chiếc ca nô chạy tới gần, Mai vội cởi chiếc áo ngoài vẫy lia lịa, nhưng than ôi, khi tới gần, nó đảo qua vài vòng, rồi chạy đi mất. Mai ngồi thụp xuống, nước mắt trào ra, vừa thương thân, vừa giận mình sao mãi gặp những nghịch tang thương thế này.
Nhưng ơ kìa, chiếc ca nô do ông già ban nãy cầm lái, đang lướt sóng trở lại. Khi gần tới nơi, ông ta quăng cho Mai một đầu giây, Mai chộp vội lấy cuốn chặt vào tay, gật đầu ra dấu. Ông già cho ca nô kéo Mai vào gần tới bờ, thì chạy thật nhanh, rồi buông sợi giây, để chiếc thùng của Mai tự lao vào một mình, vì chính quyền Thái đã ra lệnh cấm không cho công dân của họ vớt người vượt biển.
Cảnh sát Thái trên bờ đã trông thấy cảnh tượng hãn hữu đó, cho xe ra tận nơi, đưa Mai vào đồn cảnh sát. Ngày hôm đó, Mai vẫn còn nhớ, chính là ngày mùng 1 Tháng Năm 1984, sau đúng một tháng “bẩy nổi ba chìm” trên sóng nước bao la. Một người đàn bà Thái, hay làm từ thiện, nghe được tin tức trên đài phát thanh, đến đồn cảnh sát, xin lãnh Mai đưa vào bệnh viện, để khám sức khỏe và điều trị.
Một tuần sau, Mai được thông báo nàng đã có thai, nàng để tay lên bụng, nước mắt tuôn trào, thương cho phận mình, thương cho đứa con vừa được tượng hình trong hoàn cảnh vô cùng éo le này. Nơi Mai điều trị là một bệnh Công Giáo, nên không có chuyện phá thai. Ít lâu sau Cao Ủy Quốc Tế về người tỵ nạn CS đến phỏng vấn, rồi đưa Mai đến trại tỵ nạn Song Khla, đã có rất nhiều người Việt ra đi vào những năm trước đó hiện đang ở đây. Chỉ mấy ngày sau đó Mai cảm thấy khó ở, thì ra cái thai đã tự nhiên bị đào thải ra ngoài. Cũng còn may, vì một vấn nạn đã được ơn trên sắp đặt, an bài!
Trong vòng nửa năm ở Thái lan Mai đã lần lượt được chuyển đi các trại: từ Song khla đến Sikiew, rồi qua Panat Nikhom. Trong thời gian ở qua các trại tỵ nạn, Mai được nghe nhiều truyện cũng rất thương tâm cho số phận những thuyền nhân Việt Nam:
Có những con tầu với 40-50 người lúc ra đi, nhưng chỉ vào tới bờ được 4-5 người mà thôi!
Một chiếc thùng phi đã cứu mạng được 5 phụ nữ và một em bé, của một chiếc tầu bị bọn man di, mọi rợ phá hủy cho chìm, để phi tang.
Trước cảnh em gái bị hãm hiếp, một thanh niên nhảy vô sống mái với hải tặc, đã bị chúng dùng cây sắt đánh rơi hàm dưới ra, chỉ còn dính miếng da.
Một người chồng thấy vợ bị làm nhục ngay trước mắt, cũng liều chết xông vào ăn thua đủ với bọn côn đồ, hải khấu; bị chúng đổ xăng đốt cháy, nhưng đã nhanh chân nhảy xuống biển, bám vào cánh chân vịt của con tầu, vì là ngư dân, nên anh ta có thể cầm hơi dưới nước khá lâu, cho tới khi chúng bỏ đi, mới dám trồi lên. Sau khi bọn hải khấu bỏ đi, chiếc tầu của đám thuyền nhân này cũng bị hỏng máy, nhưng ý chí phấn đấu với nghịch cảnh của họ vẫn mạnh mẽ; họ đã cùng nhau làm một chiếc bè, và cuối cùng, mọi người trên bè cũng được kéo vào bờ, kể cả người bị đánh rụng hàm, và người bị đốt phỏng lưng!
Trường hợp của Mai là một “case” quá đặc biệt, nên Mai đã được đặc cách giải quyết sớm, nên chỉ sau nửa năm, Mai đã có mặt tại tiểu bang New York, Hoa Kỳ. Một người con gái yếu đuối như Mai, mà phải vượt qua một giai đoạn kinh khủng như kể trên, mà giờ này vẫn còn tồn tại bình yên, thì quả là một sự kiện đặc biệt, hiếm có trong số mấy triệu người Việt tỵ nạn CS trên khắp thế giới.
Kính thưa quý độc giả thân thương, không phải chỉ một mình Mai chịu số phận oan khiên nghiệt ngã như trên, mà còn hàng trăm ngàn người con gái khác của mẹ Việt Nam cũng cùng chung số phận như Mai, và còn hơn Mai, là vì họ đã mãi mãi nằm sâu trong lòng đại dương bao la, và mãi mãi không thể ngậm cười nơi chín suối. Chế độ nào, tập đoàn nào đã tạo ra thảm cảnh này? Chẳng cần ai phải trả lời câu hỏi ngớ ngẩn này! Vậy mà, chúng ta có biết không, đã có biết bao nhiêu người, mới đó, giờ này đã không còn nhớ gì tới những “thành tích” đáng nguyền rủa của CS. Mẩu truyện nhỏ rất trung thực trên đây được thâu âm, rồi viết lại cho trôi chảy, để phần nào nhắc nhở cho những ai mau quên quá khứ, mà lại cả tin vào những ngọt bùi, gian trá của bọn lưu manh, được phần nào thức tỉnh. Xin chân thành cảm ơn sự theo dõi câu truyện của quý độc giả.

TQC Van Truong

SƠN TRUNG * CƠN ĐẠI HỒNG THỦY

CƠN ĐẠI HỒNG THỦY

SƠN TRUNG 

Buổi chiều, trên bờ sông, hoa xoan đã nở. Những đám mây hiện rõ và trôi lững lờ trên dòng sông. Đã mấy hôm nay, hình bóng của Mai hiện rõ trong tâm trí Long. Mai đã về quê ngoại mấy hôm rồi, khiến Long nhớ nhung mãi hoài. Cúc, cô hàng xóm , và cũng là cô bạn cùng trường của Long, bỗng đến ngồi cạnh Long:
-Sao trông anh buồn quá vậy? Anh nhớ Mai à? Anh có muốn đi chơi với em không?
Long bèn theo Cúc lên đồi sim vắng, rồi cả hai cùng ngồi xuống đám cỏ xanh. Cúc cần tay Long rồi ôm Long. Cả hai cùng nằm bên nhau suốt buổi chiều. Đến tối cả hai mới trở về. Nhưng từ ngày hôm đó trở đi, Long it khi gặp Cúc. Long mang tâm trạng chán chường vì người Cúc không thơm., không êm ái, và hai thân thể không có sự hòa hợp chặt chẽ như những lần bên Mai..

Mãy hôm sau, Long bỗng nhiên gặp lại Cúc tại chợ phiên. Cúc vui vẻ đi bên Long, và Cúc rủ Long đi chơi Suối Tiên. Khi cả hai đi ngang cửa hàng của một ông thầy bói, Cúc rủ Long vào xem bói. Long để cho Cúc vào xem một mình, còn chàng thì ngồi ở bên ngoài cửa. Xem xong, Cúc không trả tiền, nàng bảo thầy bói nói sai. Thái độ của Cúc làm Long vô cùng chán nản vì nàng quá bủn xỉn và cay nghiệt. Một cảm giác buồn nôn xâm chiếm Long khiến Long không còn muốn tiếp tục đi chơi với Cúc nữa. Chàng bảo nàng chàng cảm thấy đau đầu, muốn trở về, không đi chơi Suối Tíên nữa. Cúc có vẻ giận. Và từ đó, Long chấm dứt liên hệ tình cảm với Cúc. It lâu sau, Long kết hôn với Mai, và hai vợ chồng sinh được một trai, một gái. Tất cả sống trong một gia đình hạnh phúc cùng với cha mẹ ruột của Long.


Năm nay, nhân dịp năm ngưởi già thế giới, triều đình có chương trình y tế săn sóc người già. Tại thủ đô và vài nơi trong nước, bộ Y Dược đã xây dựng những cơ sở to lớn cho người già vốn là quan lại trong triều cho đến quan lại các quận huyện cùng thân nhân của họ. Triều đình cũng hứa hẹn sẽ xây dựng các cơ sở y tế cho người già thuộc diện nhân dân toàn quốc. Chương trình tiếp theo là khám bệnh tổng quát cho người già từ 60 tuổi trở lên. Việc khám tổng quát này chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là các cựu quan lại trung ương cho đến quận huyện cùng gia đình của họ. Các lão nhân này đã tập trung tại các bệnh viện đặc biệt, và chỉ một vài ngày hoặc một tuần thì họ trở về với giấy chứng nhận sức khoẻ tối hảo. Giai đoạn thứ hai là cựu cán bộ xã thôn và dân chúng. Họ nhận được giấy gọi tập trung tại một số trường học và nhà thương. Các cụ ông tập trung một nơi, các cụ bà tập trung một nơi khác.

Tại trường tiểu học tỉnh lỵ, các ông già tập trung đông đảo. Có khoảng hai ba trăm người. Ai cũng tay xách, nách mang. Nào y phục, nào thực phẩm, thuốc men. Lệnh trên ban xuống mỗi người phải chuẩn bị lượng thực trong một tuần. Ông Năm gặp lại các bạn gìà nên ông rất vui vẻ. Gặp ông Bảo, cựu giáo viên, ông tiến đến chào hỏi thân mật:
-Bác gái đâu mà tôi không thấy?
-Bà nhà tôi được lệnh tập trung tại bệnh viện Đa khoa.
-Còn bà nhà ông thị tập trung ở đâu?
-Bà nhà tôi tập trung tại trường trung học gần nhà.
Ông Bảo cười nói vui vẻ:
-Tụi mình già cả hết rồi, không bệnh kia thì bệnh nọ. Triều đình ta nay chú trọng việc chăn sóc sức khoẻ cho người già, thật là đáng hoan nghênh hết sức. Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, chưa có chính phủ nào lo mặt y tế cho người già chu đáo như triều đình ta nay.
Hai ông đang nói chuyện thì ông Lưu, bạn hàng xóm ông Bảo tiến đến, ba ông vui vẻ chào hỏi nhau.
Ông Lưu hỏi:
-Các ông có biết tụi mình phải tập trung bao lâu không?
-Khám sức khỏe thì chỉ vài ngày là cùng.
- Triều đình ra lệnh những người già từ 60 tuổi trở lên phải tập trung để kiểm tra sức khoẻ, và chỉ mang lương thực một tuần. Như vậy là chúng mình chỉ xa nhà một tuần thôi.


Ba ông chào hỏi nhau xong thì phân tán mỗi ông mỗi nơi vì ai cũng muốn tìm kiếm ngườI quen để chào hỏi và hỏi tin tức. Các ông gặp khá nhiều người quen nhưng cũng không hỏi được tin tức gì mới lạ. Nhìn ra cổng trường thì họ thấy nhiều người trẻ dáng chừng là con cái những thân nhân đã đến tập trung tại trường. Họ không nỡ rời xa cha mẹ nên còn lẩn quẩn không bỏ về nhà. Họ tập trung khá đông đảo nên quan trên sai lính lệ đuổi họ về kẻo họ làm trở ngại lưu thông. Sau khi các bô lão đến đầy đủ , cửa trường đóng lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Trước cổng trườ ng, lính canh phòng nghiêm nhặt.



Khi các ông già đến địa điểm tập trung thì họ liền trình giấy gọi tập trung để các thư lại ghi tên vào sổ. Sau đó họ liền được gọi điểm danh, rồi nghe quan trên giảng dạy. Các quan cho biết triều đình chăm lo sức khỏe của người già nên từ nay những người già từ 60 trở lên được tập trung để khám sức khỏe. Những ai không có bệnh thì được chích ngừa, rồi về với gia đình. Còn ai có bệnh thì sẽ được ở lại chữa bệnh cho đến khi lành sẽ về . Ai không có gia đình thì ở lại trung tâm người già, và được triều đình chăm lo mọi mặt. Nghe quan lại giải thích, các bô lão đều tỏ ra hân hoan. Có người cảm động khóc sụt sịt như trẻ con.



Buổi trưa và chiều, ai nấy đều đem lương thực ra ăn. Đến tám, chín giờ tối, một số các cụ đã lăn ra nền gạch nằm ngủ. Bỗng mười một giờ đêm, mọi người được lệnh ra sân tập họp để đến địa điểm mới. Có khoảng mười xe, xe nào cũng kín mít như xe chở hàng hóa xuyên liên bang, hay như xe chở tù nhân. Mỗi xe ba chục người, ai lên sau phải đứng. Xe chạy ra ngoài thành phố. Càng đi xa, con đường càng trắc trở khó đi. Đi được gần một ngày thì biến cố xảy đến. Mọi người muốn đi tiêu, đi tiểu nhưng cảnh vệ không cho phép, tài xế phải chạy suốt, không được ngưng lại giữa đường. Vì vậy mà đa số ông già đã tiêu tiểu ngay trong xe. Xe đóng kín mít, không làn gió mát, không ánh sáng. Mùi mồ hôi, nay lại thêm mùu xú uế của tiểu và phân người. Đâu đó có tiếng kêu:
-Có người té xỉu!
-Cấp cứu! Cấp cứu! Có người chết ngạt.
-Tài xế! Dừng xe! Có người đau tim!
Nhưng tài xế và lính lệ im lặng vì họ đã được chỉ thị trước là phải im lặng trong mọi tình huống. Cho đến sáng hôm sau, cả đoàn xe, và một số đoàn xe khác được phép tiến vào một thung lũng có khu trại rộng lớn, ở ngoài cổng có bảng đề năm chữ lớn “ Trại An Dưỡng Bồng Lai” . Đó là trại tù “Đại Gian ” nay đổi tên. Các tù nhân cũ đã được lệnh dờI đến một địa điểm khác nhường chỗ này cho các bô lão.


Khi bước xuống xe, một số lão nhân đã té xuống mà không đứng dậy được vì mấy ngày phải dứng trong xe, không có chỗ nhúc nhích. Họ không được ăn uống lại phải chịu cảnh hôi thối tồi tệ hơn trong một chuồng bò, chuồng ngựa. Một số bại liệt, các lính lệ phải khiêng xuống và đưa vào phòng y tế. Một số đã chết. Trong khoảng năm trăm trại viên mới đến đã có một trăm bại liệt và lâm bệnh trầm trọng, còn 50 trại viên chết trong xe khi di chuyển. Người chết thì trại lập biên bản riêng rồi đem chôn trên đồi. Người bệnh nặng thì cho vào bệnh xá, còn những ai khoẻ thì vào trại. Trại có 8 dãy nhà, trước đây do tù nhân lợp để cho tù nhân ở. Mái lợp tranh. Mỗi dãy nhà cách nhau khoảng 10 thước, ở giữa có hàng rào tre che kín. Tám dãy nhà này là khu tù nhân. Trong mỗi nhà có giường gỗ hoặc giường tre, làm bằng các cây tre để nguyên ống. Các chân giường là những cây gỗ to bằng bắp chân. Ngoài ra cũng có những khu khác như khu nhà ban quản đốc, khi cảnh vệ, khu bệnh xá, khu lao động, khu ẩm thực, khu vật liệu và khu văn hóa gồm thư viện và hội trường.. Giữa khu này qua khu kia có cổng đóng kín và có lính lệ mang súng canh gác.



Sau khi vào trại, các lão nhân được tập trung ở hội trường để nghe chúa trại giảng giải chính sách của triều đình và nội quy của trại. Nội quy của trại gồm những điều sau:
1. Tất cả tiền bạc, đồng hồ, đồ kim khí, đồ vật quý phải trình nạp cho trung tâm cất giữ.
2. Sau khi ăn chiều xong, mọi người có quyền tắm rửa giải trí, hoặc tập thể thao..
3. Chín giờ tối, lên giường ngủ. Không được nói chuyện, hay đi lang thang..
4. Sáu giờ sáng các trại viên phải thức dậy, đánh răng, rửa mặt và ra sân tập thể dục tập thể.
5. Trong đêm muốn đi tiêu, đi tiểu phải xin phép tổ trưởng.
6. Cấm ngặt ăn cắp của trại, của quan lại và các người khác.
7.Nghiêm cấm mọi sự tranh cãi, ấu đả .
8. Cấm dâm dục
9.. Cấm hối lộ.
10. Mỗi phòng, mỗi khu đều có lính trông coi. Trại viên phải tuân lệnh tuyệt đối, không được cãi cọ hay hành hung người triều đình.
11. Ai làm trái nội quy, nhẹ thì bị nhốt từ một ngày đến một tháng, nặng hơn nữa thì bị biệt giam từ vài ngày đến vài tháng.. Nếu ai phao tin đồn nhảm hoậc có ý chống triều đình sẽ bị đưa lên tòa án xử phạt theo luật định, hoặc chúa trại cũng có thể chấp hành pháp luật trừng trị thẳng tay.



Viên chúa trại cho biết triều đình rất quan tâm đến sức khỏe của nhân dân, mà chú ý đặc biệt về sức khoẻ của ngườI già. Người già thì suy yếu, nhiều bệnh tật nên triều đình phải tập trung để kiểm tra toàn diện. Ai không bệnh sẽ trở về, ai bệnh nhẹ thì ở lại một thời gian ngắn, ai bệnh nặng thì cần thời gian dài hơn. Sau khi lành bệnh, những ai không có gia đình hoặc muốn ở lại thì triều đình sẽ chấp thuận, vì triều đình luôn chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là những nhân dân già cả. Viên chúa trại thuyết trình xong, hỏi ai có thắc mắc thì cứ hỏi.


Vì đường xa, quá mệt mỏi, it ai đưa ra thắc mắc hoặc tham dự cuộc tranh luận. Cuối cùng, các cụ chia thành tổ , rồi bầu tổ trưởng, tổ phó và được lính lệ dẫn vào các phòng. Lính lệ vào hướng dẫn cách sắp xếp đồ vật cá nhân, chỗ xếp quần áo, chân màn và chỗ nằm từng tổ. Sau khi các cụ vào trại, lính lệ kiểm soát lần nữa, rồi ra ngoài khóa cửa lại. Trong đêm, những ai muốn đi tiêu, đi tiểu thì phải kêu to, xưng tên, và nói rõ là xin đi tiêu hay đi tiểu. Khi tổ trưởng chấp thuận thì các trại viên mới được ngồi dậy đi vào một cái thùng đặt ở góc phòng.


Sáng ra, mọi người thức dậy từ sáu giờ sáng, đi tiêu, đi tiểu, đánh răng, súc miệng, rửa mặt và tập thể dục trong phòng. Tổ trưởng cử ngưởi đổ thùng phân và nước tiểu và quét dọn phòng. Khoảng 7 giờ, mọi ngưới ăn sáng rồi đi lao động. Nhóm mộc thì cưa đẽo, đục, lo đóng bàn ghế. Nhóm canh nông thì xúc phân, đổ nước tiểu và trồng lúa, khoai, sắn. Nhóm lâm sản đi săn bắn và hái củi. Mỗi trại viên ngày ăn ba bữa, mỗi bữa không đầy một bát cơm. Bữa ăn thường là cơm độn khoai sắn hay bắp. Thức ăn là một món canh và một món kho hay xào. Canh thường là rau muống. Mỗi nồi canh nấu cho trăm người, gồm rau muống để nguyên, không cắt, không chẻ, không loại bỏ rau già, chỉ rửa sơ sài, nấu với một con gà hay hai ba ký xương bò, xương heo. Món xào thường là rau muống xào thịt bò hay thịt heo, món mặn thường là cá hay thịt kho với bầu bí, cà chua, cà dái dê. Rau muống, bầu bí hoặc cà chua đều là trại viên trồng trong trại. Mỗi trại viên nói chung là được vài muỗng canh, một lát thịt hay một miếng cá kho nhỏ. Phần lớn các cụ không ăn nổi, Mỗi tuần, các trại viên mỗi phòng thực hiện việc kiểm điểm hàng tuần. Cụ Lâm là một thương gia ở kinh đô thắc mắc:
-Tại sao triều đình lại đối xử với chúng tôi như tù nhân?
Viên phó chúa trại tuổi khoảng ba mươi giải thích:
-Đây không phải là trại tù mà là trường học. Các anh xưa nay sống cá thể, nay các anh phải làm cuộc cách mạng, phải sống một đời mới của tập thể nghĩa là mọi người cùng làm, cùng ăn và cùng ngủ. Có sống cuộc sống tập thể thì mới tiến lên đại đồng, không còn phân chia giai cấp, không còn biên cương quốc gia, mọi người trên toàn cầu là anh em một nhà.

Viên trưởng ban chính trị, tuổi khoảng bốn mươi, lên tiếng giảng dạy:
- Các anh đã già không nên ăn nhiều mà phải ăn theo quy định y tế để đảm bảo sức khỏe. Các anh lại phải lao động vì lao động là vinh quang, lao động là luyện tập cơ thể. Tất cả các anh hiện nay đang được triều định giáo dục và bồi dưỡng. Các anh phải cố gắng học tập tốt, cố gắng lao động tốt để khỏi phụ tấm lòng đại nhân, đại nghĩa của hoàng thượng và triều đình!
Cụ Nhân, một cai đội hưu lên tiếng:
-Tại sao không kiểm tra trong thành phố mà phải vào nơi rừng núi hoang vu?
Viên chúa trại trả lời:
-Ngày nay, quả địa cẩu nóng lên và sinh ra nhiều bệnh dịch. Triều đình ta biết trước việc này nên phải đưa các anh lên chốn núi rừng để tâm hồn các anh được thanh tĩnh, đồng thời tránh sự lây lan trong dân chúng.
Y sĩ Nho hỏi:
-Tại sao chuyên chở chúng tôi như chuyên chở súc vật, không cho chúng tôi ăn uống, nghỉ ngơi, và đi tiêu, đi tiểu?
Viên phó chúa trại trả lời:
- Triều đình ta có nhiệt tình săn sóc sức khoẻ cho nhân dân nhưng vì thiếu phương tiện nên bọn các anh phải ngồi chật. Việc xe chạy liên tục là để tránh chậm trễ, triều đình săn sóc các anh nên muốn đưa các anh mau đến nơi an dưỡng.Tất cả là do lòng yêu nước và yêu nhân dân của hoàng thượng và triều đình..
Cụ Văn là một giáo viên xin hỏi:
-Triều đình ra lệnh tập trung một tuần sao đã mấy tháng qua, chúng tôi chưa được về mà còn phải lao động như tù nhân, như nô lệ? Triều đình nói kiểm tra sức khoẻ mà đến nay chúng tôi vẫn không thấy bóng y sĩ hay y tá đâu cả. Xin các quan lớn giải thích rõ ràng, đừng lừa dối nhân dân.
Viên chúa trại trả lời:
-Triều đình ra lệnh các anh mang lương thực một tuần chứ không nói các anh chỉ đi một tuần. Hiện nay, trung tâm chưa thực hiện được việc khám tổng quát là vì thiếu y sĩ. Các anh phải chờ đợi một thời gian nữa!
Tuy các quan đã bào chữa và cố gắng thuyết phục nhưng một số các cụ vẫn phản đối. Cụ Vân là một đại thương gia, luôn sống trong cảnh phú túc, không chịu nỗi cư cực. Và cụ Minh, một luật sư không chấp nhận hành động phi pháp của triều đình, quyết tâm tuyệt thực. Hai cụ còn vận động một số bạn già tuyệt thực tập thể. Chúa trại cho gọi mấy ngườI này lên văn phòng, và khuyến dụ họ, song họ không chịu. Cụ Vân nói:
-Chúng tôi không phạm tộI, tại sao đối xử như tù nhân? Dù chúng tôi phạm tộI gì, chúng tôi phải được pháp luật triều đình xét xử công minh.

Cụ Minh phát biểu:
Không thể đưa chúng tôi vào rừng sâu bỏ cho chết đói như thế này. Yêu cầu triều đình phải đối xử công bằng và nhân đạo với nhân dân.
Viên chúa trại tức giận, đập bàn quát lớn:
-Chúng bay là những thằng già vô ích, không sản xuất, không làm gì có ich lợi cho nhân dân, cho đất nước. Giết sạch chúng bay hàng triệu đứa thì triều đình thu lợI hàng triệu, hàng ức lạng vàng hàng năm. Chúng bay cũng gần kề miệng lỗ, chết sớm vài năm thì cũng tốt thôi. Nuôi chúng bay chỉ tổn hại cơm gạo. Đáng lẽ chúng tao cho chúng bay chết đói từ ngày đầu tiên vào đây, nhưng chúng tao còn chờ lệnh trên. Chúng bây là những tử tộI sắp lên đoạn đầu đài mà không biết thân còn biểu tình, tranh đấu vớI tuyệt thực!





Sau khi la mắng xong, viên chúa trại ra lệnh đem các cụ giam tại khu biệt giam (khu này còn gọi là khu kiên giam). Khu biệt giam là một hòn đảo giữa một cái hồ rộng nuôi cá sấu. Có một cái cầu bắc từ trong bờ ra khu kiên giam. Khu kiên giam là một gò đất, là một cái nhà hay cái chuồng làm bằng gỗ, trên lợp tôn, xung quanh có lứới sắt bao bọc. Có hai tầng, cách biệt nhau bằng những thân cây đóng khít nhau.Mỗi tầng co hai hay ba phòng, mỗi phòng có thể nhốt một hai người. Các trại viên bị kỷ luật thì bị xiềng xích chân tay, mỗi ngày chỉ được ăn một bữa.. Những ai đã vào đây khoảng hai tuần cho đến một tháng đều chết hết. Nhưng ở tầng trên thì thoải mái hơn.



Đến tháng bảy âm lịch, tại miền Bắc là mùa mua lũ. Cơn mưa càng ngày càng dâng nước lên cao khiến các trại viên phải ở nhà không đi lao động được. Đêm đến như thường lệ, các thầy đội ra lệnh nhốt các trại viên vào phòng và khóa trái cửa bên ngoài. Khoảng nửa đêm, chúa trại ra lệnh tập họp các thầy cai, thầy đội và lính lệ mang hành lý ra bên ngoài trại. Tại đây có xe lớn, xe con đợi sẵn. Họ lặng lẽ lên xe đến một nơi khác, bỏ mặc sau lưng đám người già sắp bị chết đuối.
Nước dâng mỗi lúc một cao, nước đã vào phòng ngủ của trại. Các cụ hoảng hốt kêu gọi nhau:
-Nước lụt các bác ơi! Nước lụt ngập trại!
-Dậy mau! Dậy mau!
- Các thầy cai, thầy đội ơi ! Mở cửa! Mở cửa! Cứu chúng tôi!
-Người ta giết chúng tôi! Xin TrờI Phật phù hộ chúng tôi!
-Lạy Quan Thế âm bồ tát! Xin bồ tát cứu khổ, cứu nạn chúng con!.
-Lạy chúa! Xin cứu vớt chúng con!



Trong trại toàn là tiếng kêu than, nguyền rủa. Một vài cụ khoẻ mạnh đã leo được lên mái nhà hoặc chạy ra ngoài. Những ai chạy ra ngoài liền bị nước cuốn trôi đi ra sông, ra biển.


Trận lụt năm này đã làm cho núi rừng ngập lụt. Nước từ núi cao chảy về. Nước từ biển cả dâng lên. Hàng vạn dân chúng miền núi và miền xuôi bị trôi ra biển. Triều đình thông báo trận lụt đã cuốn trôi một số đông quan lại bộ Y, quan quân, và giết hàng vạn các lão nhân tại các trung tâm an dưỡng toàn quốc. Việc này đã gây ra một phản ứng dữ dội trong toàn quốc. Những ai có cha mẹ thiệt mạng trong trận bão lụt đã lên tiếng chỉ trích chính sách vô trách nhiệm của triều đình. Có kẻ gửi thư lên vua, có kẻ viết thư cho Đô ngự sử hoặc phủ huyện kêu oan, có người viết cáo thị dán khắp nơi kêu gọi dân chúng lên tiếng phản kháng.. Vua quan tức giận, cho họ là phản động nên ra lệnh bắt giam họ hoặc sa thải họ.



Thân phụ của Long nhờ bám vào một thân cây cho nên trôi vào một bờ sông. Cụ được một ngườI chài lướI vớt được đưa vào nhà cấp cứu và nuôi dưỡng. Sau vài bữa, cụ tỉnh lại, cụ thuật mọI việc cho ngườI thuyền chài nghe. Sau vài ngày, ngườI chài này dùng thuyền âm thầm đưa cụ về làng cũ. Chờ nửa đêm khuya vắng, ông dắt cụ về nhà. Nửa đêm, nghe tiếng gõ cửa, mọi người trong nhà Long lo lắng vì sợ lính lệ hay tuần phu đến xét nhà. Khi thấy một ngườI lạ dẫn bố mình về, Long vô cùng ngạc nhiên và vui sướng. Long mờI khách vào nhà ngỏ lờI cảm tạ. Long đem tiền bạc biếu người thuyền chài nhưng ông ta từ chối. Ông xin phép về ngay vì ở lại lâu bất tiện.

Sau khi khách ra về, Long hỏi bố mọi việc, Long mới biết bố mình đã thoát hai đại nạn. Long dặn mọi người trong nhà không được tiết lộ bí mật. Mẹ Long cũng đã đi trình diện thế là đã chết trong cơn đại hồng thủy. Long thương xót mẹ già. Long giấu bố trong chuồng heo. Chuồng heo nhà Long khá lớn, có hai phần. Một phần nuôi heo, còn phần bên cạnh để chứa dụng cụ và đồ cũ. Long đào một hầm bí mật tại đây, xây gạch đá vững chắc. Một tấm gỗ làm cửa, trên phủ rơm. Khi làm xong hầm, Long đưa bố vào ẩn lánh trong này. Hàng đêm, đích thân Long đưa cơm nước cho bố.




Mỗi buổi chiều, các cô gái thường ra sông giặt quần áo. Cúc thường gặp Lan, Hạnh, Hường và Hoa. Giặt quần áo xong, Cúc thường ngồi trên tảng đá trên bến chuyện trò với các bạn gái.
Hạnh nói:
-Con Mai xấu thế mà được anh Long yêu và cưới làm vợ! Số phận chúng mình thật thua kém!
Hoa nói:
- Vợ chồng là do duyên phận, so sánh làm chi cho mệt!
Cúc mang những thư trong túi ra khoe cùng bè bạn:
-Nhiều chàng trai làng và ngoài tỉnh gửi thư cho tao mà tao không chưa yêu ai cả! Trước khi cưới Mai, Long đã cầu hôn tao mà tao không chịu. Nay Long đã cưới Mai mà Long vẫn chạy theo van nài ban phát chút tình yêu! Anh chàng thật trơ trẽn!



Ban đêm, Cúc thường nhìn sang nhà Long, thấy cảnh Long âu yếm Mai mà lòng nàng tức giận vô cùng. Nhà Long và nhà Cúc cách nhau một hàng rào dâm bụt. Nhiều đêm, Cúc bò qua hàng rào sang nhà Long nhìn vào phòng vợ chồng Long. Trong khi vợ chồng Long ngủ say, Cúc đứng thẩn thờ lòng đầy uất hận. Bỗng một đêm, Cúc thấy Long mở cửa ra sau vườn, tay mang một thúng nặng. Cúc đi theo và thấy Long vào chuồng heo. Cúc tính liều xông ra ôm đại Long. Nhưng Cúc thấy Long nâng tấm ván và chui vào một hầm bí mật. Cúc biết Long có sự bí mật. Long giấu một kho tàng ư? Hay Long giấu một tên cướp? Hay Long nấu rượu lậu?


Theo dõi một thờI gian, Cúc thấy đêm nào Long cũng vào chuồng heo và bưng theo một cái thúng vào. Cúc bèn bỏ thư rơi cho viên lý trưởng, báo cho biết có tên cướp ẩn náu trong chuồng heo nhà Long. Đêm đến, viên lý trưởng bèn đem tuần phu vây nhà Long và bắt được thân phụ Long và giải lên huyện. Quan huyện kết tội bố Long trốn trại, và Long chấp chứa phản động. Bố Long bị đày ra đảo, ít lâu sau rồi chết. Còn gia đình Long bị đuổI ra khỏi làng, phải lên tập trung sản xuất tại rừng núi xa xăm, mà sau cũng không ai biết tông tích.




Trong thời gian nước Đại Lạc bị cơn hồng thủy, mấy chiếc tàu quốc tế nghiên cứu môi trường đại dương có mặt ngoài biển. Họ đã vớt được một số nạn nhân của cơn hồng thủy. Những người trẻ thì sau vài ngày chữa trị , họ đưa vào bờ . Còn những lão nhân thuộc các trung tâm An Dưỡng, thì được đưa về trung tâm y tế thế giới. Sau một thời gian trị bệnh, các cụ tỉnh lại và tường thuật lại những sự thực tại các trung tâm an dưỡng. Sau đó, hội Bảo vệ nhân quyền, hội bảo vệ người già cùng nhau nghiên cứu và đi đến những khám phá mới về các chính sách của triều đình Đại Lạc quốc. Họ kết luận:


Trung tâm an dưỡng sự thực là những lò sát sanh. Họ theo đường lối cách mạng đỏ là đường lối duy vật vô nhân đạo nhằm đối phó nạn nghèo đói. Chính sách này có những điểm sau:
-Không nuôi nấng, không chữa bệnh cho người già từ 60 tuổi trở lên, mà phải giết họ đem bón cây để khỏi hao tốn tài nguyên quốc gia.
-Không cho thanh niên nam nữ kém sức khỏe được kết hôn và sinh đẻ. Nếu không giết thì phải thiến hoặc hoạn những người này.
-Trẻ con đẻ non, yếu đuối bệnh tật thì giết đi đem bón phân hay làm thực phẩm gia súc
-Mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh được một đứa con.
-Những người tự tử thì không được cứu chữa, để cho họ chết theo ý nguyện. .
-Tất cả thuốc men và phương tiện ưu tiên phục vụ quan lại triều đình vì triều đình là người tổ chức mọi thắng lợi cho tổ quốc..
-Không cứu chữa những người không có tiền trả viện phí.
-Những người chết không được chôn xuống đất, đất để sản xuất chứ không dùng để chôn ngườI chết. Những người chết phải đem thiêu, lấy tro bón cây.
-Những nhà dưỡng lão, viện tế bần, nhà thương của chế độ cũ là tàn tích phong kiến và thực dân, phải triệt tiêu hoàn toàn bằng cách giao cho các nước bạn xử lý thích đáng..



Sau khi nghe tin tức của hội Nhân quyền, dân chúng khắp nơi phẫn nộ, kết tội vua quan vô nhân đạo, là một lũ quỷ sống, phạm tội diệt chủng. Triều đình ra thông báo phủ nhận tin tức trên, cho rằng tin trên là hoàn toàn thất thiệt, do bọn địch có dụng tâm đánh phá triều đình ta. 
 
 

Wednesday, April 12, 2017

LINH BẢO * ÁO MỚI

Áo Mới


Linh Bảo (1953)
Chiếc áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc “Áo vua ban" . Hồi ấy, ba tôi làm việc tại Tòa Khâm Sứ Huế, mẹ tôi là một cô Tôn nữ nghèo, Tôn nữ là một người thuộc Hoàng tộc , địa vị xa lắc xa lơ. Nhưng cũng nhờ thế bà có đường giây bà con quen biết để tiện việc mách mối mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn chụp ảnh cho các Bà Hoàng, Bà Chúa, Bà Phi, Bà Tân trong Hoàng cung.
Mách mối là một công việc buôn bán rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được là ủi thẳng và xếp thành nếp hai bên, gọi là " xếp con " , năm con, bảy con gì đấy, càng nhiều " con" càng sang trọng quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế xong, bà chỉ việc đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là " Mệ" nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm viếng xã giao vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ. 
Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là đối với các Mệ, các bà Phi, bà Tân không thể ra phố mua bán tự do như người thường. Mẹ tôi được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung sướng hơn một bà Phi, suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy " mặt rồng " của ông chồng vua, bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành chạm trỗ tinh vi, còn “Hoàng Đế " thì đứng bên cạnh, quàng tay qua lưng ghế, như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh rất giỏi và tính giá cũng rất “phải chăng”. Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với những Cung Phi suốt đời, từ lúc tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi họ làm thỏa mãn một phần nào lòng hâm mộ hư vinh đã được nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một bà mẹ Vua. Vua còn bé đang đi học xa. Bà ở nhà, sống một cuộc đời vương giả. Suốt ngày bà chỉ biết đánh bạc với những người đến " bẩm chảu" tiếng riêng có nghĩa là nịnh bợ. Bà đoạt kỷ lục về nợ nần, chỉ vay mà không cần phải trả. Bà cho là mọi người ai cũng có bổn phận phải cung phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài như “đưa con vô Nội” một thành ngữ có ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày " Hoàng Đế hồi loan " , bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không, mà nếu có thì chúng tôi, những ranh con, cũng không được quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ bốn chị em tôi có bốn chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất dịch. Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi " lữ hành" như thế, ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh " Ngài ban vay" . Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm đồ nhận được thì đi con đường độc đáo một chiều, và là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi “Ngài " để rồi bị thủ tiêu mất tang mất tích trong chiếu bạc, không còn một chút dấu vết gì để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng " Ngài " lại " ngự " đến " tệ xá" của chúng tôi ở Nam Giao, mặc dầu " tệ xá" quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào một vùng đất trống, xưa kia là một bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba câysố.
Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây " biệt thự" , vì theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi nên phải thở không khí có gió thông trong lành rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong " tệ xá" có rất nhiều đồ cổ quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi, nhờ cầm hay bán hộ. “ Giấy rách phải giữ lấy lề “ nên dù ngày mai không còn gạo để nấu cháo loãng, họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật. Họ vẫn còn làm bộ điệu rất kênh kiệu quí phái cao sang, cả đến những khi cần đến hai xu để ăn quà sáng .
-Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ " chém" một củ khoai chơi nà!
Tuy cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh " khẩu khí" vẫn không hề thuyên giảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn thú vị tí nào. “ Mệ” là tiếng xưng hô một bà cụ rất già, hay những người trong Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và phải lên hai cái dốc rất cao. Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quần xà cạp vàng, đầu đội nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười bốn, mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xõa ngang vai. Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc, một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống đằng sau. Ấy thế mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao, ngót bốn năm cây số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài " chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xa cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong " tệ xá" , và cố nhiên khi " Ngài " rời gót ngọc, những món đồ cổ không ít cũng được theo " Ngài " ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào " Ngài " cũng " ban truyền" :
-Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại cho. Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết " Dạ" mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người, khi đã được " tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận của đồ vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữ không được sũng ái. Các cung nhân, khi về già còn được thải hồi nguyên quán, trái lại những món đồ cổ, càng già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
-" Thấy Vua" rõ thật là " thua vấy" !
Cuộc đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi làm . Mẹ tôi giới thiệu việc mua bán đồ cổ và ghép ảnh cho Qúy Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi một số rất nhỏ, còn phần lớn để nuôi " Ngài " .
Một hôm, chắc lương tâm " Ngài " thức dậy, hay là " Ngài " sợ nợ mẹ tôi nhiều quá, nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra " nợ thiên khối" vốn cộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau thì nguy to, Ngài bèn long trọng " tuyên dương công trạng" một hồi, rồi “thân tặng" cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về, vênh vang như một kẻ " áo gấm về làng" . Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái “ Áo Vua Ban” ấy, cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với Đức Vua. Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết, cái “Áo Vua Ban" ấy được trân trọng " trình bày" trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp vào rương chờ dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn rộng thùng thình, rồi chật dần, ngắn dần cho đến khi mặc không vừa nữa, phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy, mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ tay. Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi và bảo:" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con”, thì nó đã mục nát và chỉ động đến là rã tan ra từng mãnh!
Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung Hoàng Thái Tử ở Pháp học thành tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm Vua. Và cũng từ lúc ấy, " Ngài Mẫu Hậu " ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ, " Ngài " đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ, và lại càng không muốn gặp người nào đã từng quen biết " Ngài" những năm tháng hàn vi. Thật là chí lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một kẻ ở địa vị cao sang, mà ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng nhờ vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã phải cầm bán vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần, có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi, nên tôi khóc mùi khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi chiếc áo quí đến phần mình thì hóa ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh " ân trả nghĩa đền" của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi ngày một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung phụng cho ai khác ngoài gia đình, nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu có nhiều món cá thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng cần thiết cho sức khỏe, một đề tài trước kia õng cố tránh.
Một hôm,không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên " phát từ bi tâm" may cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rợi và rộng thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy cha me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ, không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mĩa mai một cách văn chương là màu" dưa cải úa mùa thu" . Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là một bức tranh lập thể may thành áo. Từng vệt, từng đám, ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật rằng một khi " đấng sinh thành" đã quyết định thì con cái phải vui vẻ “Dạ,Vâng”, mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng thấy các con vui cũng tưởng thiệt mà vui theo một cách dễ dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo, và áo cũng phải cố chịu đựng sư tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất, mặc suốt ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn nát chéo áo để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua như mùi dưa cải úa, hay còn lẫn mùi gì khác nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành một màu " dưa cải úa mùa thu " , hay cũng chỉ là một bức tranh lập thể chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi rách nát, và cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ lộng lẫy không hợp với người lớn tuổi, nên may cho bốn chúng tôi. Bốn chiếc " áo tế" vừa dài vừa rộng, may xong được cất kỹ, đợi " ngày lành tháng tốt " mới đem ra diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở rương vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rời rợi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp trừ sâu mọt và mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái " ngày lành tháng tốt" ấy không bao giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi mất. Kể ra thì đó chỉ là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng tôi để tang. Và một lần nữa chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải nhuộm thành một màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức với Chánh Phủ Bảo Hộ sang ngạch Nam Triều, nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ và cũng không cần chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc " lạc quyên" để may áo quần cho bọn con trai trước ngày tựu trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh khi cần thiết, chúng tôi lúc nào cũng vui lòng " quyên" . Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt, vì mai đây,khi các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai " quá cố " rồi, bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì. Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu và rộng mênh mông như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ may một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn, thiếu gì! Còn tốt và bền lắm, may một lần cho cả bầy nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao! Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ không? " Aó vua ban" này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này ...
Tôi nhắc:
-Dưa cải úa mùa Thu chứ!
-Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
-Màu lem luốc chứ.
-Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
-Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
-Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn, sau hết phước đi! Phải nhớ, hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
-Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi, còn chúng con là con ông Tổng Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ quát lên:
-Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
-Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của chúng con 
Mẹ tôi vội vã:
-Thôi thôi, để tôi may, các cô không cần phải kể con cà con kê ...
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy đến thăm mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng . Đối với chúng tôi, chị cũng" thết đãi" linh đình. Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào nhà, thết mỗi người một tô. Chỉ có một cái " di hận" là[chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt, tiền thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi, trả bài thuộc , những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con Heo bằng đất nung mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác ra câu chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may của chị. Mỗi tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị ở nhằm hướng " tán tài" nên suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên môn thua lỗ. Và cái bản tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng " xa xị" màu vàng nhạt để tận đáy rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết may cắt dặn:
-May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!


Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Tiếp theo chiếc áo đấu tranh mà có này là một chiếc áo " vải cạt" . Gặp thời buổi chiến tranh Pháp Đức, mọi vật dụng đều khan hiếm nên phải được phối cấp, hàng vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ “ vải cạt" phối cấp hoa lá cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ lòe loẹt, nhà quê một cách không thể tả được. Mặc vào trông như một tấm vải màn, hay cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt tỉnh. Coi như trên đời này không có ai nhìn thấy mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số y phục loạn xà ngầu ấy, có hai cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều diện hai cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ bạn bè “ khen ngợi”. Nào là màu sắc chửi nhau, nào là " người trong tranh " , nào là bất chấp thời tiết v.v... Chúng tôi giữ vững lập trường " mục trung vô nhân" không cần ai và cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông. 
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện làm dáng nữa. Chị tự sắm rất nhiều áo quần đẹp, nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ không la rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong chị cao lớn thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá, người chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác, dù người ấy tiêu dùng một cách phí phạm, còn mình và con cái thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu:” Người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Thành ra khi trong nhà món gì ngon lành là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi bạn bè bà con quen biết . Có lẽ mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn nên gặp ai áo rách quần vá là bà lục tủ áo tìm cái nào người ấy mặc vừa là bà cho một cách sung sướng. Tôi tin là mẹ tôi trong cuộc sống sau khi ba tôi hưu trí, bà không cần phải dự lễ tiếp tân, hay thết đãi quan khách với ba tôi thì bà chẳng cần giữ lại một chiếc áo nào ra hồn. 
Sau này, lúc đã bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình ,tôi vẫn giữ tính nết không ăn diện đã tập được như thuở còn sống với mẹ, mặc dầu lý do nhiều phước hay giảm phuớc tôi không hề quan tâm. Thời kỳ làm việc tại Hương Cảng tôi cố dành dụm tiền để mỗi cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong mười áo ấy, bà sẽ tha hồ cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là chín cái thôi. Ít nhất cũng phải để lại một cái cho mình. Và được như thế là tôi thỏa mãn rồi.

Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôi phải xin nghỉ phép về săn sóc cũng không quên mang theo mười áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng lúc mẹ mất, tôi lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo, thì không thấy một chiếc áo nào may bằng thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu mẹ hàng chục năm. Một người bạn trẻ nói với tôi:
-Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi! Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết! 
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân, tôi về nước vì Mẹ, mà về đến nơi chẳng bao lâu thì mẹ mất, đúng là một thất vọng lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ bên cạnh mộ cha xong, tôi trở lại Hương Cảng làm việc. Và từ bấy giờ, dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp, tôi cũng không còn thấy hứng thú gì nữa,không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa, khi len lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở mười hai. Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội tôi mất, ba tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi :
-Khi con cái còn nhỏ dại, chúng nó chưa đủ hiểu biết nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia đình, Sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ”, lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình, thì cơ hội đã không còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế, bao giờ cũng không nén được hai giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố, nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra, chợt nhớ mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!



Monday, April 10, 2017

VŨ NGỌC BÍCH * NỖI BUỒN DI TẢN

 
 
 VŨ NGỌC BÍCH 
30-4 , NỖI BUỒN DI TẢN
 
 
Sáng thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975, khoảng 10 giờ, tôi đang  ngồi làm việc thì chị giúp việc thân  tín và con gái  tôi lúc đó 11 tuổi, bước vào văn phòng tôi.  Chị tới sát chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ  :
-  Thầy về nhà gấp, cô có chuyện muốn nói với thầy.
Tôi chỉ gật đầu và không muốn cho chị giúp việc nói thêm  nữa, vì tôi đã biết vợ tôi muốn nói gì rồi.  Trước đây, vợ tôi có làm việc ở phòng Điện toán của Hoa Kỳ tại phi trường Tân Sơn Nhứt.  Để tránh việc Việt cộng sẽ trả thù những người đã cộng tác với Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã cho lập danh sách ưu tiên cho nhân viên làm sở Mỹ di tản bằng cầu không vận.
Hàng ngày, những tin tức chiến sự không mấy khả quan từ miền chiến tuyến gửi về làm nản lòng  người lính ở hậu phương.  Tại đơn vị tôi, lúc đó Đại tá Nguyễn Hữu Đ. tới nhậm chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch Quân Đội đúng vào lúc xế chiều của miền Nam.  Tôi cũng nhận được nghị định thăng cấp thiếu tá,  sau 5 năm mang cấp bậc đại úy vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
Tới văn phòng, từ sĩ quan cho tới anh em binh sĩ, ai cũng cầm tờ báo coi những tin tức nóng bỏng nơi trang nhất, bàn tán xì xào.  Trong lòng  mọi người, hầu như ai ai cũng bị giao động, không nhiều thì ít.  Tôi vẫn làm công tác đi thanh tra và thâu nhận hàng  tại các nhà kho của quân đội.  Tôi đã thấy có một vài nhà thầu  và giám đốc các công ty lớn lặng lẽ ôm tiền trốn ra ngoại quốc.  Họ bỏ đi, và không thi hành khế ước.  Mặc dầu đơn vị tôi đã gửi văn thư cảnh cáo sẽ áp dụng biện pháp chế tài, họ vẫn bất chấp và cứ tiếp tục bỏ nước ra đi.
Việc ra đi hay ở lại cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi sôi nổi giữa vợ chồng tôi trong suốt mấy tuần qua.  Vợ tôi đã ghi tên gia đình vào danh sách di tản, và chúng tôi đã nhận được “manifest” xác nhận chờ ngày đi.
Là một quân nhân, tôi cảm thấy hổ thẹn khi chưa chiến đấu gì mà đã bỏ đồng đội, bỏ bạn bè, lén lút ra đi.   Tôi đã gay gắt nói với vợ tôi :
-  Mình cứ dẫn con đi trước.  Tôi ở lại, một thân  một mình, lúc nào đi chẳng được!
Vợ tôi vừa năn nỉ, vừa giận dỗi, dùng  đủ mọi cách để thuyết phục tôi cùng với nàng và bốn đứa con đi một lượt :
-  Anh nói dở hơi lắm !  Bao nhiêu người chạy chọt đủ mọi cách, để xin cho được một chỗ trong “manifest”.  Họ sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô la để đổi lấy một chỗ di tản bằng máy bay !  Anh không biết anh may mắn hơn hàng  trăm ngàn người sao ?
Tôi tần ngần :
-  Nhưng em không thấy vợ chồng mình vất vả dành dụm mười mấy năm nay, mới mua được căn nhà nhỏ nầy.  Sang đến Mỹ, anh không có nghề nghiệp gì chuyên môn, rồi mình lấy gì mà sống.   Vợ tôi đau khổ ngắt lời tôi :
-  Một cái nhà này, chứ cả chục cái nhà nữa cũng bỏ hết !  Sang đến đó, còn cả ngàn người như mình nữa chứ.  Cớ chi phải lo không có việc làm ?  Không làm việc này, thì làm việc nọ !
Tôi cố vớt vát :
-  Em  không thấy hôm rồi, tổng thống Thiệu vừa lên TV nói gì sao ?  Chính ông ấy cũng ở lại, sát cánh với quân đội, cùng chiến đấu bảo vệ miền Nam mà !
Vợ tôi cười nhạt :
-  Anh nói vậy, là anh không biết gì hết rồi.  Con bạn đồng nghiệp của em lấy một sĩ quan Mỹ ở cơ quan DAO.  Nó vừa ghé nhà mình  thăm em.  Nó nói chồng nó bảo sau bài diễn văn ấy, tổng thống Thiệu và gia đình được Mỹ đưa đi Đài Loan rồi !
Tôi cứ bán tín bán nghi.  Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn vừa ra nghị đinh dọa trừng phạt bất cứ công chức quân nhân nào rời nhiệm sở.  Đồng thời. Thủ tướng Cẩn ra lệnh đặt các nút chặn gồm quân cảnh lẫn cảnh sát được dàn ra trên cửa ngõ vào phi trường Tân Sơn Nhất, biên giới và dọc bờ  duyên hải.
Suốt mười mấy năm chung sống, chưa lần nào chúng tôi bất đồng ý kiến trầm trọng như lần nầy.  Vợ tôi bực mình phát khóc.  Nàng tha thiết nói với tôi qua hàng  nước mắt :
-  Anh ở lại, lỡ tụi nó vào, tụi nó sẽ không tha anh đâu.  Anh vừa có tội di cư năm 54, vừa là sĩ quan đã từng chống lại chúng !  Anh đi với em và các con nhé.  Một mình em ra đi, với một bầy con như thế, làm sao em xoay sở cho được !  Cứ như thế, mấy đêm rồi, tôi không ngủ được tròn giấc bao giờ, vì những lời nói, tiếng khóc của vợ tôi cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi.
Trong khi đó, mấy nhân viên trong phòng tôi xúm lại chỗ con gái tôi.  Họ đang thì thầm hỏi chuyện con bé.  Thấy tôi đưa mắt nhìn, họ lảng đi chỗ khác.  Tôi bảo chị giúp việc và con gái tôi đón xe xích lô máy về trước, và nói với vợ tôi cứ chờ ở nhà.
Tôi lặng người đi phía sau bàn giấy.  Trong lòng   đầy bâng khuâng, bối rối, tôi nhìn những nhân viên đã từng cộng tác với tôi trong vòng tám năm qua tại đơn vị nầy.
Phóng tầm mắt xa hơn, tôi nhìn về phía cây tùng bách tán.  Không hiểu sao, tôi thấy cây tùng bỗng trở nên thân  thiết như một người bạn !
Tôi lẩm bẩm một cách vô thức ;
-  Tùng Bách Tán ơi !  Ta sắp xa mi rồi !
Một nhân viên dân chính, bác T., được biệt phái tới làm việc ở phòng tôi từ ngày thành lập đơn vị.  Bác với tôi thân  thiết như người nhà.  Bác T. thường tâm sự với tôi những chuyện riêng tư, và tôi cũng, đôi khi, chia sẻ với bác những ưu tư thời cuộc.
Đến sát bàn tôi, bác T. ngồi xuống, nhìn tôi.  Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt bác buồn rầu như vậy.
Bác T. chớp chớp mắt :
-  Chắc bà xã của Thiếu tá cho người làm đến kêu Thiếu tá về đi Mỹ, có phải không ?
Hôm nay, ngay cả với bác T., người bạn già thân  thiết nhất của tôi trong sở, tôi cũng không dám nói thật.  Tôi trả lời vắn tắt, trong bụng tôi biết là bác cũng biết tôi nói dối :
-  Tôi có chút việc nhà phải về gấp, xong việc có thể tôi trở lại sớm.
Rất may, trong giờ đó đa số nhân viên trong phòng tôi đã rủ nhau xuống Câu Lạc Bộ để giải khát.  Chỉ còn tôi và người công chức già ngồi tâm sự.  Một niềm xúc động mãnh liệt dâng tràn trong lòng  tôi.
Trước khi ra về, tôi lấy chiếc chìa khóa ngăn kéo nơi bàn giấy, trong có để các hồ sơ và một số vật dụng cá nhân, đưa cho bác T.
Tôi nói :
-  Bác cứ tự nhiên, dùng  được cái gì thì dùng .
Tôi cũng móc ví, lấy hết các giấy bạc loại lớn trong đó, dúi vào tay người công chức già một nắm tiền.
Tôi vỗ nhẹ vai bác :
-  Bác giữ lấy để tiêu đi .
Người nhân viên của tôi ngạc nhiên, đưa cả số tiền trả lại :
-  Thiếu tá đừng làm vậy !
Tôi  nói, thật khẽ :
-  Xin bác cứ yên tâm.  Lúc nầy, tôi không cần tiền nữa.  Nghe lời nói quả quyết của tôi, bác cám ơn rối rít, nhét tiền vào túi quần phía sau và tiễn tôi ra tận xe.  Tới lúc đó, tôi mới cho bác biết là rất có thể tôi sẽ rời Sài Gòn vào chiều nay, nếu có chuyến bay đi Mỹ.   Vừa nghe tới đó, bác cảm động ôm mặt khóc. Tôi nắm lấy hai vai bác T., an ủi bác; rồi mở máy , chiếc xe từ từ lăn bánh ra khỏi cổng.  Người lính gác đưa tay chào tôi, và tôi giơ tay chào lại.   Tôi quay nhìn lại cổng doanh trại một lần chót.  Tôi thầm nghĩ, chắc hẳn  bữa nay là ngày tôi giã từ đời binh nghiệp!  Trước mắt tôi, bầu trời như sụp tối, thời gian như ngừng trôi.  Chiến tranh “Ý Thức Hệ” đã gây tang tóc và đổ vỡ cho biết bao gia đình.  Một sự mất mát quá lớn lao.  Cuộc đời tôi, từ nay, đã rẽ vào một khúc quanh mới, không biết sẽ dẫn đến đâu, mà tôi phải chấp nhận, một chấp nhận quá phũ phàng !
Tôi đã biết rõ chính sách tàn bạo, thâm độc của người Cộng Sản khi họ chiếm làng tôi.  Họ đấu tố, đầy ải hàng chục gia đình trung nông đã từng đóng góp tiền của, xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.  Suốt hơn hai mươi năm thống trị miền Bắc, họ đã bần cùng hóa nhân dân, áp đặt lối cai trị hà khắc làm cho hàng  triệu người khốn khổ !
Tôi sẽ phải bỏ nước ra đi, tìm TỰ DO bằng bất cứ giá nào, vì tôi biết tôi không thể nào sống nổi dưới chế độ Cộng Sản được, dù chỉ là một ngày, một giờ.
 
Vừa về đến nhà, tôi thấy vợ tôi đang chuẩn bị một số áo quần, và vài thứ vật dụng, thuốc men lặt vặt.  Ngoài ra, những thứ gì nặng và cồng kềnh, tôi bảo nhà tôi bỏ lại hết.  Đến chiều tối, tôi chất hai cái valise và vài túi xách nhỏ lên chiếc xe Austin Minivan.  Vợ chồng tôi và các cháu sang chào cha mẹ tôi ở sát bên nhà tôi.  Cha mẹ tôi rưng rưng nước mắt, nắm tay tôi cầu nguyện Chúa che chở chúng tôi đi được bình an.  Tôi yên tâm ra đi, vì biết anh chị cả tôi có ba người con lập nghiệp tại Hoa Kỳ.  Các cháu, và người em ruột của chị dâu tôi đã vui lòng  bảo lãnh cho anh chị và cả ông bà nội nữa.
Vợ tôi ngồi bên cạnh, và bốn đứa con tôi ngồi băng dưới.  Tôi lái xe ra đi đến chỗ hẹn.
Tối hôm đó, gia đình tôi, gồm vợ chồng tôi và bốn đứa con, nghỉ tạm tại nhà ông anh vợ.   Chúng tôi thấp thỏm chờ đợi xe bus tới đón ra phi trường.
Các con tôi mệt, nên ngủ say sau khi tới.  Chúng tôi chờ đợi suốt cả đêm, mà chẳng thấy xe bus nào tới đón.  Đối với tôi, đêm hôm ấy dài vô cùng.  Chúng tôi đứng bật dậy, rộn ràng , hồi hộp khi nghe thấy tiếng còi xe hơi ngoài  ngõ, và thở dài não nuột khi bước ra cổng, thấy đó chỉ là một chiếc taxi nào đó.
Cứ xôn xao hy vọng, rồi lại ngỡ ngàng chán nản suốt từ chập tối hôm trước đến sáng  sớm hôm sau.  Thế mới biết cổ nhân nói câu “ Có thức đêm mới biết đêm dài “ cũng không phải là sáo ngữ!  Sáng hôm sau, vẫn chưa có xe tới đón.  Ông anh vợ tôi là Đại úy Nguyễn Văn An tòng  sự tại Bộ Quốc Phòng bảo chúng tôi cứ về nhà, chờ ở đó, và ông sẽ đích thân dùng  xe Jeep đưa chúng tôi tới thẳng  cơ quan DAO, tức là văn phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ.  Vừa về đến nhà, tôi dẹp quần áo và vật dụng linh tinh ở phòng khách sang một bên, rồi dựa vào chiếc ghế bành, ngủ ngon lành cho đến lúc nghe tiếng nói oang oang của bầy con nít con hàng  xóm làm tôi chợt thức giấc :
-  Nhà nầy họ đi Mỹ, bà con ơi !
-  Lại đây tụi bay, coi mấy người sắp đi Mỹ !
Tiếng ồn ào của bon trẻ con tinh nghịch làm tôi hơi bực mình.  Một đứa khác nói chen vào, đầy vẻ khoái trá trước sự đi hụt của chúng tôi :
-  Nhà nầy không đi Mỹ đâu, tụi bay ơi !  Họ đi Mỹ Tho đó.
Và cả bọn cùng cất tiếng cười ranh mãnh .  Nếu là những ngày thường, có lẽ tôi cũng ra phía trước, yêu cầu bọn chúng đi ra chỗ khác chơi.  Nhưng lần này, với mặc cảm của một người toan tính trốn chạy, tôi chỉ dịu giọng nói với mấy đứa trẻ trạc tuổi con mình :
-  Các em đi chơi chỗ khác, cho chú nghỉ ngơi một chút nhé !
Nói đoạn, tôi đưa chúng một túi kẹo chanh :
-  Các cháu chia nhau ăn đi !
Tụi trẻ đi rồi, tôi đảo mắt nhìn các vật dụng trong nhà, từ bộ bàn ghế tiếp khách mầu gụ chúng tôi mới sắm, chiếc đàn piano hiệu YAMAHA chúng tôi mới mua cho đứa con gái lớn cách đó sáu tháng, khi cháu bắt đầu học tại tư gia của nhạc sĩ  Nghiêm Phú Phi ở khu Tân Định.  Căn nhà vợ chồng tôi dành dụm bao nhiêu năm mới mua được này, tôi vừa thuê thợ sửa sang cho rộng.  Chiếc xe Austin sáu chỗ, tháng trước, tôi đưa làm máy và sơn một lớp sơn mới, chạy thật tốt. 
Tôi nghĩ tới sự khó nhọc của hai vợ chồng tôi trong  mười hai năm trường mới tạo dựng được chút sản nghiệp khiêm tốn như ngày hôm nay.  Bỗng dưng một sớm một chiều, chúng tôi sắp mất hết.
Nghĩ tới đó, tôi bỗng đổi ý, và nói với vợ tôi :
-  Em nầy, mới hôm qua, ở tạm nhà anh của em một đêm, không phải nhà mình, mà  anh thấm thía câu nói “ Sẩy nhà ra thất nghiệp “ rồi !  Thôi, anh không muốn đi đâu hết.  Nhà mình, mình ở.  Ra đi, với tương lai vô định, không nhà không cửa.  Anh không muốn đi một chút nào nữa !
Vợ tôi ngạc nhiên :
-  Anh ơi, anh nghĩ quẩn rồi !  Chiều hôm qua, anh nói với em là anh nhất quyết ra đi vì không sống nổi với Việt Cộng.  Bây giờ, chỉ vì xe bus chưa tới đón, anh đã nản lòng , không chịu đi nữa !
Tôi nói :
-  Nhưng mà còn nhà cửa, bao nhiêu thứ mà anh và em vất vả xây dựng bấy lâu nay ?
Vợ tôi gào lên :
-  Những thứ đó, bỏ lại hết !  Mai mốt mình sẽ xây dựng lại. Còn người, còn của, mà anh?
Tôi cù nhầy  :
-  Anh Nghiêm, anh Chỉnh, anh An, chú Cảnh, chú Hiền, cũng đều là quân nhân, có ai đi đâu ?  Anh ở lại với các anh em của anh.  Em có đi, thì dẫn các con đi đi !
Đến lúc nầy, vợ tôi đã mất hết bình tĩnh.  Nàng khóc nấc lên, vừa khóc vừa kể lể :
-  Anh đã có thời sống gần tụi nó ở ngoài Bắc.  Các bác của anh ở lại đã bị tụi nó cắt cổ, đấu tố, đầy đi tù rồi, anh không nhớ sao ?  Rồi vụ tết Mậu Thân, chỉ là trung sĩ, cũng bị chúng nó bắt đi, đập đầu hoặc sỏ giây kẽm gai chôn  sống tập thể, anh không biết sao ?  Huống chi anh là thiếu tá.  Tụi nó gặp anh là bắn liền !  Thử hỏi lúc đó, nhà cửa này, của cải dành dụm này, anh có  chắc hưởng được không ?
Rồi nàng tiếp, dùng  tình cảm thuyết phục tôi :
-  Anh cũng phải nghĩ đến tương lai bốn đứa con anh nữa chứ ?  Đi ra khỏi nước, dù anh và em không làm nên trò trống gì, con cái mình sẽ có cơ hội tiến thân .  Em cũng chẳng biết chúng nó sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội hơn là ở nhà rồi !
Trong lúc tôi ngồi thừ người ra, đầu óc hoang mang, không biết phải  nói gì, nghĩ gì, vợ tôi vừa khóc vừa chạy sang nhà cha mẹ tôi ở kế sát bên.  Nàng tin rằng chỉ có mẹ tôi khuyên giải tôi mới nghe ra.  Đúng như nàng nghĩ, mẹ tôi qua ngay tức khắc.  Bà nắm tay tôi, nhẹ nhàng khuyên bảo :
-  Con ơi, con nên nghĩ lại.  Sáng nay, anh chi Chang sẽ đến đón cha mẹ ra đi.  Cha mẹ đã từng ở với bọn chúng rồi.  Cha con đã từng bị chúng nó bắt đi, chỉ vì cha con là công chức.  Suýt nữa chúng nó đã thủ tiêu cha rồi đó.  Giữa  năm 54, ông bà ngoại con đã hơn 70 tuổi, mà còn liều chết trốn đi.  Vì ở lại là chúng nó sẽ đấu tố, làm nhục cho đến chết !
Bà nhìn vợ tôi, rồi tiếp :
-  Con may mắn lắm mới có vợ con đảm đang, xông xáo, lo cho con và các cháu ra đi.  Hai anh Nghiêm và anh Chỉnh của con muốn đi lắm, mà không có cơ hội như con.  Hai anh đang lo, mà không biết cách nào đi được.  Con có cơ hội tốt.  Đừng bỏ lỡ cơ hội hiếm có nầy !
Tôi nghe lời mẹ, hứa sẽ đưa gia đình đi.   Quyết định của tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của chúng tôi và tương lai các con  tôi !
Sáng Chúa Nhật 27 tháng Tư năm 1975, gia đình tôi sửa soạn để đi nhà thờ.  Tôi cũng đang ăn dở dang tô phở do chị giúp việc vừa mua về thì anh cả của vợ tôi, Đại úy Nguyễn văn An, cũng vừa lái xe Jeep tới đậu ngay trước cửa nhà tôi.  Anh cho biết chúng tôi chỉ có đúng 10 phút chuẩn bị hành lý.  Tôi bỏ đũa, giúp vợ tôi sắp xếp hành lý lần chót.  Anh An giúp tôi chất hai chiếc valise lên xe Jeep.  Vợ tôi đưa trả tiền công cho chị giúp việc, và tặng thêm  cho chị một tháng lương nữa.  Tôi đã gọn gàng  trong bộ đồ dân sự, vợ tôi và bốn cháu ăn mặc thật giản dị.  Cả gia đình tôi ngồi gọn trên chiếc xe Jeep, trực chỉ hướng Tân Sơn Nhất.  Anh An nói, anh sẽ đưa chúng tôi tới thẳng cơ quan DAO.
Gần đến nơi, tôi chứng kiến cảnh người di tản chen chúc, giành giật nhau một chỗ đứng sát cổng vào bên trong.  Những chiếc xe Mercedes, Peugeot, Ford, Toyota còn mới toanh, không người lái, nằm ngổn ngang dọc theo bờ rào sát phi trường.  Anh vợ tôi dừng xe trước một trạm gác.  Một trung sĩ quân cảnh Việt Nam và một quân cảnh Mỹ đang làm công việc xét giấy .  Người quân cảnh Việt Nam xem sự vụ lệnh công tác và tờ “manifest” do tòa Đại sứ Mỹ cấp, rồi trao cho người quân cảnh Mỹ soát lại lần chót.  Sau khi xem xét giấy tờ và nhìn vào trong xe kiểm soát, hai quân cảnh Mỹ Việt giơ tay chào, và ra hiệu cho xe đi.
Thế là chúng tôi đã vào trong cơ quan DAO và trình giấy tờ trong khi các chuyến xe bus của tòa Đại Sứ Hoa Kỳ lần lượt chở các nhân viên và thân  nhân tới.  Khung cảnh thật là  náo nhiệt, tiếng người nói chuyện, bàn tán thật ồn ào.  Trên bầu trời, từng đoàn trực thăng bay tới bay lui như những con chuồn chuồn khổng lồ, hết chiếc nầy vừa đáp xuống thì chiếc kia lại bốc lên, có lẽ để đi  đón người di tản ở một địa điểm khác.  Chúng tôi  được chia ra làm từng toán, mỗi toán hai mươi người.  Bây giờ chỉ còn việc đợi xe bus tới chở ra máy bay.   Trong lúc chờ đợi, tôi đảo mắt nhìn xung quanh, qua hai lớp hàng  rào giây kẽm gai bao bọc cơ sở này.  Những người di tản tới cơ quan DAO bằng xe taxi đều bị chặn lại ngay tại cổng để kiểm soát giấy tờ.
Một chiếc taxi vừa dừng lại phía ngoài cổng.  Trên xe một thanh niên trạc hăm ba tuổi, một phụ nữ trẻ bế đứa bé khoảng hai tuổi, và một cặp vợ chồng lớn tuổi lần lượt bước xuống.   Tôi đoán chừng ông bà nầy là cha  mẹ của người phụ nữ, và chàng thanh niên là con rể.  Chàng thanh niên đưa xấp giấy tờ  cho người cảnh sát gác cổng; người này xem qua rồi đưa cho viên trung sĩ quân cảnh đứng cạnh.  Người quân cảnh nói gì với chàng thanh niên, và ra hiệu cho anh đứng  sang một bên.  Người phụ nữ bế con tiến lại phân trần với người quân cảnh, rồi người đàn ông lớn tuổi cũng đến, dường như vừa thuyết phục vừa năn nỉ, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu từ chối.  Một lát sau, xe quân cảnh đi ngang .  Chàng thanh niên bị mời lên xe.  Người phụ nữ gào khóc, nắm chặt cánh tay người thanh niên, không cho lên xe.  Đứa bé cũng khóc thất thanh, ôm lấy chân anh ta.    Thế là một cảnh giằng co xẩy ra, làm huyên náo một góc cổng gác.  Người phụ nữ trẻ cố năn nỉ hai quân cảnh Việt Nam tha cho chàng thanh niên.  Tiếng gào khóc của chị nghe thật thương tâm !
Tôi để ý nhìn hai quân cảnh Mỹ đứng gần đó.  Họ không can thiệp gì cả.  Hai trung sĩ quân cảnh trên xe nói gì với người thanh niên.  Anh ta thì thầm điều gì đó với người phụ nữ.  Chị và đứa bé không gào khóc, níu kéo nữa.  Người thanh niên lên xe.  Chiếc xe Jeep quân cảnh đi đâu, không ai biết.  Tôi chỉ thấy cặp vợ chồng lớn tuổi và người phụ nữ trẻ, cùng đứa bé leo lên một chiếc taxi khác vừa đổ người xuống.  Chiếc xe đi ngược về phía cửa ngõ vào thành phố.  Tôi chắc gia đình họ trở về nhà.
 
Tổng thống Trần Văn Hương nhậm chức chỉ có mấy ngày, nhưng ông đã phải đương đầu với cảnh “dầu sôi lửa bỏng “ của đất nước.   Trên mặt báo, tôi đọc thấy tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã ra lệnh cho các viên chức có trách nhiệm phải ngăn chặn mọi thành phần quân cán chính trong hạn tuổi của quân đội, không cho những người nầy xuất ngoại bằng bất cứ phương tiện gì, đường hàng  không, đường bộ và kể cả đường biển nữa.  Lệnh này được áp dụng triệt để.  Báo chí thời đó tường thuật rõ ràng  những trường hợp cơ quan công lực bắt giữ một số viên chức trong chính quyền, kể cả quân đội, đang trên đường vượt biên.
Riêng trường hợp người thanh niên bị bắt giữ lại, tôi nghĩ cả người vợ và gia đình bên vợ cũng kẹt ở lại luôn.  Tôi không thể quên được tiếng khóc nức nở của người phụ nữ trẻ, khi người chồng bị bắt lại, và xe quân cảnh đưa đi.  Tôi nghĩ, các viên chức Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, khi chứng kiến cảnh bắt giữ thương tâm đó, có lẽ cũng bị “mất mặt” phần nào, vì chính phủ Hoa Kỳ đã đồng ý cấp giấy tờ cho cả gia đình người ta đi Mỹ, mà quân cảnh Việt Nam lại có quyền bắt giữ lại ?  Tôi thấy hai viên chức Hoa Kỳ ở bãi đậu xe, đứng gần chỗ chúng tôi đang chờ đợi, dùng  máy liên  lạc vô tuyến, gọi đi một chỗ nào đó; có lẽ với giới chức cao cấp Việt Nam và tòa Đại Sứ Hoa Kỳ chăng ? 
Bởi vì, khoảng 15 phút sau, tôi không còn thấy quân cảnh và cảnh sát ở ngoài cổng cơ quan DAO nữa.
Tôi nhớ lại những ngày tới Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn, chỉ huy toán tuần tiễu hỗn hợp gồm cảnh sát, quân cảnh, để bắt đào binh và những người trốn quân dịch.  Tới giờ cơm trưa, tôi dẫn toán tuần tiễu của tôi vào tiệm phở Tầu Bay đãi mỗi người một tô phở xe lửa và ly cà phê sữa đá.  Chúng tôi ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ trong tình đồng ngũ, coi nhau như những người thân  thiết trong đại gia đình quân đội.
Bây giờ, gặp lại mấy người quân cảnh và cảnh sát, cũng trong sắc phục đó, nhưng ở trong hoàn cảnh thật éo le nầy, tôi mặc y phục dân sự, vì đã từ bỏ nhiệm sở để ra đi, còn những anh em đó vẫn còn ở lại, tiếp tục nhiệm vụ của mình, lòng  tôi đâm ra e dè, sợ sệt, đầy mặc cảm; nên không còn cái cảm giác thân  thiết với những người đã từng cùng ở trong đại gia đình với tôi nữa !
Tôi thực sự cảm thấy không được thoải mái cho lắm khi phải đối diện với họ; mặc dù sau việc xẩy ra hồi sáng  và sự can thiệp của nhân viên tòa Đại sứ Mỹ, cảnh sát và quân cảnh Việt Nam chỉ còn nhiệm vụ giữ an ninh trật tự thôi, chứ không bắt giữ hay làm khó dễ những người di tản nữa.  Nhìn sang toán kế bên, tôi gặp Trung tá P.    Tôi quen biết ông mỗi lần tôi đi họp ở Tổng Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu.  Thấy ông trong y phục dân sự, tôi quen miệng chào ông theo cấp bậc quân đội.  Ông ghé sát tai tôi nói nhỏ :
-  Thôi “toa” miễn cho “moa” đi.
Tới lúc đó, tôi biết mình lỡ lời, vội vàng nắm tay ông cười giả lả.  Có lẽ lúc này, ông cũng mang chung một tâm trạng xấu hổ vì đã trốn chạy khỏi nhiệm sở như tôi, nên không muốn ai nhắc đến cấp bậc của mình.
Khoảng 3 giờ chiều chúa nhật 27 tháng 4, một toán xe bus gồm năm chiếc tới đậu ở ngay trước lối vào văn phòng cơ quan DAO.  Chúng tôi lần lượt xếp hàng  lên xe.  Khoảng mười phút sau, đoàn xe hướng về khu vực nơi máy bay C.130 đậu, gần phía cuối phi đạo.
Khi còn  cách chỗ máy bay khoảng  40 thước, các xe bus ngừng lại.  Người hướng dẫn trên xe yêu cầu chúng tôi xuống, sắp hàng  một để đi về phía máy bay.
Tôi nhìn ra phía trước.  Bên chiếc máy bay phản lực C.130, đã có sẵn hai người lính quân cảnh Việt Nam đứng chờ, ngay cửa phía sau đuôi máy bay.
Chúng tôi lần lượt bước xuống xe bus, theo đoàn người di tản.  Vợ và các con tôi đi trước.  Còn tôi, một tay bồng cháu gái út Hồng Bảo, lúc đó mới hơn hai tuổi.
Đi sát phía sau tôi là một đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ, cùng trong toán tôi.  Người chồng là một kỹ sư điện làm việc cho một cơ quan tiếp liệu Hoa Kỳ.  Có lẽ hồi sáng, anh chị nầy đã chứng kiến cảnh người thanh niên bị bắt giữ lại, nên người vợ tỏ ra hết sức lo lắng khi nhìn thấy hai viên quân cảnh Việt Nam to lớn đứng nơi chân máy bay.
Chị quay về phía tôi hỏi nhỏ :
-  Anh có biết tại sao quân cảnh Việt Nam vẫn còn ở đó không ?  Liệu chồng tôi đang trong lứa tuổi quân dịch có bị bắt lại không, thưa anh ?
Tôi đưa mắt nhìn chị đang bồng đứa con gái trạc tuổi đứa con gái út tôi, còn anh thì xách một valise, và trên vai đeo một cái cặp nữa.
Làm ra vẻ thông  thạo, tôi trấn an cặp vợ chồng trẻ :
-  Theo tôi, nhiệm vụ của hai người quân cảnh này chỉ là canh gác máy bay, đề phòng phá hoại thôi.  Giờ phút nầy, họ không còn bắt giữ ai như hồi sáng  nữa đâu.
Tôi nói tiếp :
-  Chị nên trao cháu nhỏ cho anh bế !  Mình cứ tự nhiên mà đi, đừng để ý gì đến họ.  Không sao đâu !
Người vợ trao đứa bé cho chồng, và đỡ hộ anh ta chiếc cặp trên vai.  Chúng tôi đi trong toán di tản cuối cùng, và chẳng bao lâu đã tới cửa phía sau của chiếc máy bay C.130.  Tôi cố giữ nét mặt bình thản, nhìn về phía trước.  Nhưng lúc đi ngang qua hai người quân cảnh, tôi biết chắc chắn họ đang chăm chú nhìn tôi.  Chúng tôi vừa bước vào thân  tàu, thì anh chồng đi phía sau tôi đặt đứa bé xuống sàn máy bay cho người vợ giữ.  Anh lách mình, vượt qua tôi; vội vàng đi thẳng vào phòng vệ sinh, đóng sập cửa lại.
Khi người di tản cuối cùng đã vào hẳn trong máy bay, nhân viên phi hành kiểm soát một lần chót; rồi bấm nút; chiếc cánh cửa vĩ đại phía sau đuôi máy bay từ từ đóng lại.
Chúng tôi ngồi vào chỗ, được hướng dẫn cài dây an toàn, và những gì phải làm khi gặp trường hợp khẩn cấp.  Mùi nhiên liệu phi cơ, mùi mồ hôi, mùi kim loại tỏa ra dưới nắng chiều gay gắt làm không khí chờ đợi thật ngột ngạt và căng thẳng.  Động cơ chạy mạnh hơn, và chiếc máy bay lăn bánh, tiến dần ra phi đạo.  Rồi tiếng máy rú lên, vận tốc tăng nhanh; chiếc C. 130 nhẹ nhàng cất cánh.  Vừa lúc đó, người kỹ sư trẻ tuổi cũng từ phòng vệ sinh vội vàng bước ra; mặt anh xanh mét, như không còn hồn vía gì.
Tôi đã đoán biết vì sao anh vào trong đó, nhưng cũng giả vờ hỏi :
-  Bộ anh đau bụng lắm hay sao mà ngồi trong nhà vệ sinh lâu quá vậy ?
Anh thật thà trả lời :
-  Dạ, em có đau bụng gì đâu !  Sáng nay chứng kiến cảnh bắt giữ người thanh niên, đến giờ này em còn sợ; nên phải trốn vào phòng vệ sinh, chờ máy bay cất cánh mới dám đi ra.
Tôi cười nhẹ, thông  cảm với nỗi lo sợ của cặp vợ chồng này.
 
Trạm đầu tiên cho người tỵ nạn xuống là đảo Guam.  Chúng tôi được phân phối tạm trú trong những căn lều thật lớn do công binh Mỹ vừa dựng lên, mỗi căn lều có sức chứa cả ngàn người.   Buổi sáng hôm sau, tôi lên văn phòng trại ghi danh và điền vài mẫu giấy tờ hành chánh cho việc chuyển trại.  Khi đang ngồi chờ ở trước văn phòng, cha mẹ tôi và cháu trai con ông anh cả tôi bước vào.  Gặp lại tôi, mẹ mừng lắm, hỏi han ríu rít.  Thế là gia đình anh chị cả đã mang được cha mẹ tôi đi cùng, và chỉ đi sau tôi khoảng 4 tiếng đồng hồ, trên một chuyến máy bay khác.
Những ngày sống nơi trại tạm cư ở Guam, ngoài những bữa ăn, gồm toàn món Mỹ, chúng tôi thường đi bộ ra bờ biển Guam hóng mát, nhất là lúc xế trưa. 
Buổi tối, ban chỉ huy trại cho chiếu phim giải trí.  Một số nghệ sĩ Việt Nam cũng họp nhau lại  mỗi buổi chiều, trình diễn giúp vui cho đồng bào tị nạn.
Điều đau buồn nhất đối với chúng tôi, là chiều 30 tháng 4 năm 1975, khi hai đài phát thanh BBC và VOA loan tin Sài Gòn bị thất thủ, và cả miền Nam đã rơi vào tay giặc Cộng.  Chúng tôi ai nấy đều ngậm ngùi, xót xa chia sẻ niềm đau đớn của đồng bào ruột thịt, từ nay sẽ sống dưới ách cai trị của bọn Cộng Sản độc tài và bạo tàn.
Tất cả mọi người chúng tôi đều mang chung một tâm trạng đau buồn.  Tôi đã chứng kiến những người thiếu phụ trẻ bên nách một đàn con thơ nheo nhóc, họ ngồi bên góc lều trại, hộc lên khóc, tiếng khóc đau đớn, não nề, ai oán kéo dài từng hồi.  Những lúc như thế, vợ tôi lại chạy tới, dỗ dành, an ủi họ.  Rồi tiếp đến căn lều bên cạnh, như bị xúc động giây chuyền, có người đã bật ra tiếng khóc, nhất là các bà các cô, vốn rất nhạy cảm.
Chung quanh căn lều tạm trú, tôi nghe những tiếng khóc nức nở đầy vẻ căm phẫn.  Những người đàn ông biểu lộ nỗi đau thương một cách lặng lẽ hơn.  Tôi thấy những khuôn mặt trầm lắng, đanh lai, những đôi mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt tủi hờn vừa mới lau khô.  Ai ai đều ngậm ngùi trước cảnh gia đình tan tác, vợ xa chồng; cha mẹ xa con; anh chị em lưu lạc khắp bốn phương trời…
Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm, tôi biết chắc chắn  kể từ giờ phút nầy, tôi sẽ phải chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai.          
 
VŨ NGỌC BÍCH 
 

No comments: