Tuesday, April 11, 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 465

Saturday, April 29, 2017

NGUYỄN VĂN NGOAN * TRẠI YÊN BÁI

Trại Yên Bái (5/1977-10/1977)

In PDF.

......

1.

Đoàn xe Molotova  rời ga tiếp tục lăn về Yên-Bái .Tù nhân đứng bám vào thành xe, cây cối bên đường vùn vụt qua,tưởng như đang trên đường hành quân,vào một vùng xa lạ, nón cối  súng trận  cầm tay. Một thời ngang dọc hào hùng, thân trai bốn bể làm nhà. Mong ngày thống nhất Nam Bắc . Chí cả không thành . Thua trận thành tù nhân bị đày ra phương Bắc. Như phượng hoàng gẫy cánh. Như Hổ " Nhớ Rừng " của Thế Lữ . Một bài thơ thời trung học tôi rất thích , nhưng không ngờ bài thơ  ứng vào đời tù cải tạo :

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, 
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. 
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, 
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
........."

Như  Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái tới ngục thất Hoả Lò" : Trong chuyến  xe lửa bí mật chở tử tù Nguyễn Thái Học cùng các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng vào tháng  sáu năm 1930 từ Hỏa Lò tới Yên Bái .Tới ngày 17-6-1930 , Nguyễn thái Học cùng  mười hai liệt sĩ VNQDĐ bị hành quyết bằng máy chém đồng hô to "Việt Nam Vạn Tuế "Liệt sĩ Nguyễn Thái Học đã để lại cho hậu thế: "Không thành công cũng thành nhân".Xác những vị anh hùng  chôn gần ga xe lửa Yên Bái khoảng một cây số .
Để tưởng niệm các vị anh hùng .Tác giả Thiên Kim trong bài thơ "Tưởng Niệm Những Anh Hùng Yên Bái "với bốn câu thơ đầu :

Ngày mười bẩy tháng sáu năm ba mươi 
Một sáng tinh sương trời đất ngậm ngùi
Đoàn thanh niên tay xiềng chân xích
Tiến lên pháp trường bình tĩnh mỉm cười  
....
hay

"Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài
và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng
"Việt Nam muôn năm một đầu rơi rụng
Việt Nam muôn năm người kế tiếp tiến lên "
(Ngày tang Yên Bái-Sách giáo khoa tiểu học thời bấy giờ )
 
Lịch sử lại tái diễn , bốn mươi bảy năm sau , người lính thua trận bị dụ vào tù được Cộng Sản áp giải từ Long Khánh đến Sài Gòn rồi tới Yên Bái dài gần 2000Km .Từ nước uống tới  đồ ăn , vệ sinh quá tồi tệ....Rồi  đây họ được đối  xử như thế nào ? Vẫn chưa có câu trả lời. Đem vào rừng thủ tiêu hay có được cái chết rõ ràng , oanh liệt như các vị anh hùng Yên Bái 17-6-1930.Hay không thể  giết hàng loạt mà để họ chết dần chết mòn trong rừng sâu nước độc Yên Bái .....

2.

Đầu óc tôi  miên man về "Nhớ Rừng" về  các vị anh hùng Yên Bái, về thân phận của người tù.Làng mạc phố xá đìu hiu vụt lướt qua theo tiếng động cơ .bụi bay vào mắt, đưa tay lên dụi . Bổng nghe  tiếng kèn inh ỏi phía sau. Một đoàn xe chở tù khác đòi qua mặt, từ xe, từ xe một lướt qua, đưa mắt cố nhìn không thấy người quen nào cả. Thế rồi một chiếc xe chạy ngang xe tôi .Tôi reo mừng gọi to : Vũ trọng Khảo , Nguyễn Đỗ Tiến. ....Trên  xe bên kia Khảo và Tiến đưa mắt nhìn chưa kịp nhận dạng nhau , xe đã chạy qua rồi. Tôi chợt vui  bởi lẽ hơn bốn năm qua mới thấy mặt bạn . Biết  bạn mình còn sống , ở tù như mình .

Khoảng trưa , xe chạy cặp theo một dòng sông nước lờ đờ màu đỏ , không biết có phải là sông Hồng Hà hay một phụ lưu của sông Hồng. Lòng sông  không có ghe như miền Nam mà thấy xa xa như cái thúng lềnh bềnh trên mặt sông . Đoàn xe dừng lại  lần lượt qua bên kia sông . Nhìn mái nhà dân hai bên sông.Tôi nghĩ đến gia đình , đến  những người vợ tù , đến con tù  giờ này sinh sống ra sao? Cuộc sống mỏng manh ví như những cái thúng lênh đênh trên sông lỡ gặp cuồng lưu .Tôi chợt nhớ "Anh Phải Sống "trong tập chuyện ngắn của Khái Hưng-Nhất Linh : Chuyện tả một gia đình đông con quá nghèo vớt củi trên sông kiếm sống , xảy ra trên đê Yên Phụ vào môt buổi chiểu trên dòng  sông  nước chảy mạnh, mặt nước  mang theo rất nhiều củi, gỗ trên rừng . Hai vợ chồng đắn đo vì nguy hiểm, nhà thì  hết  gạo, cần củi thì mới vay được gạo...Chồng gạt  bảo vợ về trông con ...Một mình chồng chèo thuyền ra vớt củi .Vợ về nhà nghĩ ngợi quay trở lại năn nỉ xin đi cùng chồng . Có mệnh hệ nào thì cũng biết  bơi..

Chồng lái vợ bơi, ra tới giữa dòng sông đang chảy xiết , vớt nhiều củi bỏ lên thuyền, mừng rỡ, chưa kịp quay thuyền về, chiều bỗng đổ cơn mưa, nước mưa làm nặng thuyền, rồi lật. Vợ nói với chồng em đủ sức bơi. Được một lúc, sức khỏe vợ yếu. Nên chồng một tay xốc vợ, một tay bơi. Đến một lúc, chồng kiệt sức,kêu vơ bám lấy chồng . Chồng nguyện cùng  chết theo vợ . Âu yếm nhìn nhau...Vợ khẽ bảo :"  các con đang chờ . Anh Phải Sống "rồi  buông tay chìm xuống đáy sông,  để chồng đủ sức bơi vào bờ ...

Chồng đi tù cải tạo, không bản án, biết bao giờ trở về. Vợ ở nhà , chịu nhục nhằn , trăm nghìn cay đắng nuôi con . Vì con, vì chồng, vợ ráng mà sống nhen vợ ! Anh cũng thế. Phải sống mong ngày đoàn tụ. Dạy con biết phân biệt đúng sai, hòa nhịp cùng bước tiến của nhân loại  . Mong một ngày nhìn thấy chế độ độc đảng  không còn tồn tại. Mong một ngày dân Việt nhìn thấy sự bịp bợm, dối trá, lường gạt của Cộng Sản sau bao thập niên qua . Bừng con mắt dậy thấy bị đàn áp, bịt mắt , bịt tai , bịt miệng mất tự do , nghèo đói bịnh tật. Còn  người lính bị Cộng Sản bắt đi tù cải tạo . Dẫn ra một trang sử đắng cay , bi hùng . Một trong hai người nếu không chống đỡ nổi sự trù dập của Cộng Sản. Buông tay ... bởi:
 
"Nhà Ngụy ta ở, vợ Ngụy ta lấy, con Ngụy ta sai!" ( Câu nói sau năm 1975 của Nguyễn Hộ một Cộng Sản gộc nằm vùng.)
Hay chủ trương của Lê DuẩnTrong cuốn sách "365 ngày ở Việt nam " của nhóm công tác Liên Sô chỉ đạo  trang 83:

"Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung ương đảng đã tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày 30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc họp của bộ chính trị…”.
 
Tôi nghe cay đắng , xót xa trong lòng .

Qua sông đoàn xe chở tù tiến về dãy núi Hoàng Liên Sơn. Đường lên dốc mỗi lúc một quanh co. Những cánh rừng hiện ra hai bên đường, những vách núi , đồi  được  xẻ , phá ra làm đường trải nhựa có lẽ có từ thời Pháp thuộc vừa đủ cho chiếc xe . Đoàn tù đi qua rừng qua núi , những khẩu AK luôn  chỉa vào phía họ, nhất cử nhất động đều bị theo dõi. Dạy núi Hoàng Liên Sơn học trong giờ Địa lý chập chùng hiện ra xa xa . Ngọn Phan-xi-Păng  cao 3.143m không biết chỗ nào. Đoàn xe tù vẫn chạy, Tôi không biết thuộc địa phận nào ở tỉnh Yên Bái. Có người nói ở Yên Chấn , có người nói Nghĩa Lộ . Tất cả với tôi đều xa lạ chỉ có chữ Yên Bái là quen thuộc.Tôi cũng chẳng quan tâm đến , vì nếu có nghe rồi cũng quên. Biết ra sao ngày  sau.

Xe qua vài buông làng có lẽ của dân tộc Thái trắng. Ánh nắng chiều dịu xuống , xuyên qua nhành cây kẽ lá xanh tươi, gió thổi làm lay nhẹ lá rừng. Vài chiếc lá rơi là đà trên đất . Một vài con chim bị động vỗ cánh bay đi.Xe dừng lại ở giữa rừng. Suốt cả cuộc hành trình 2000Km khoảng 1200 người tù sao mà hiền hòa đến vậy .

Được lệnh xuống xe. Xếp hàng theo từng đội. Bạn tù lặng lẽ mang cái gia tài tù tội của mình xuống xe. Khuôn mặt mệt mỏi, dáng đi uể oải, nặng nề. Bốn năm ngày di chuyển trong điều kiện ăn uống yếu kém, thất thường. Giờ không biết chúng đưa mình đi chỗ nào, mà thả xuống giữa rừng.Thế rồi, từng đội theo cán bộ rẽ trái vào con đường mòn rộng chừng hai tới ba mét. Lôi thôi lếch thếch kéo nhau đi . Những cặp mắt tù mệt mỏi nhìn nhau. Có những người bạn quá yếu, đi không nổi . Phải nhờ bạn tù dìu đi. Bên cạnh tiếng hô hoán , dục dã, đôi khi mắng nhiếc làm náo động cả khu rừng. Không biết đi dược bao lâu , trước mặt tôi chắc là một trại tù. Có các lớp hàng rào cao khỏi đầu bằng vầu hay nứa. Cũng khó mà nhìn được vào trong .

Tranh Trần Thanh Châu

Đội tù của tôi vòng theo hàng rào đi tiếp vào sâu trong rừng núi .Tôi cảm thấy rợn người, tiếng cán bộ la ôi ối, thúc đám tù  đi cho nhanh. Ánh mặt trời sẽ dần tắt. Đời tôi cũng tắt theo hay sao. Chân tay , thể xác tôi đã mỏi  rời , trí óc tôi đặc sệt lại chỉ còn  làm theo lệnh bản năng . Bảo đi thì đi, bảo đứng thời  đứng....
 
Ngó nhau như bầy ma
Tâm sự nào cay đắng
Tâm tư nào thiết tha ?
Xin cho tôi -Tạ Tỵ (suối máu 1976 )

Xa xa, hiện ra một dãy nhà mờ mờ trong màn sương, tàng lá bóng cây, Gió lạnh, đời tù tội, đang rẽ theo một khúc quanh mới .

"Ở đây những núi cùng rừng
Trời nghiêng lũng thấp, nửa rừng mây che
Núi cao ngăn bước nẻo về
Rằng mê khép kín cơn mê cuối đời
Xa vắng quá bạn bè ơi !
Màu xanh khỏa lấp chân trời nhớ thương
Lỡ tay đánh mất thiên đường
Xác chìm Địa Ngục còn vương dáng hồng
Xin đừng đợi cũng đừng mong
Hận thù khép kín một vòng thời gian
Đầm đìa lệ, nến tuôn tràn
Đêm đêm hồn nhỏ băng ngàn về suôi ./."
Núi Rừng -Tạ Tỵ ( Yên Bái 1977)

3.

Đoàn tù lần lượt đi vào trại, xếp thành hàng đầy đủ đồ cá nhân , trước căn nhà bằng vầu nứa. Cán bộ đội nói :" Nhờ chính sách khoan hồng độ lượng của cách mạng tha tội chết cho các anh và tạo điều kiện cho các anh ra Bắc học tập cải tạo tiến bộ để sớm trở về với gia đình......và dặn dò , khộng được rời bỏ phòng giam đi linh tinh ....."

Sau khi tan hàng , đội chia  thành từng tổ theo thứ tự mà xếp chỗ nằm .Chỗ nằm bằng sàn nứa hai bên, chừa lối đi ở giữa. May mắn trong tổ của tôi có bạn TrầnThanh Châu  và Nguyễn Hữu Huế. Chúng tôi nằm liền nhau. Tôi ở giữa,hai bạn tôi hai bên. Vách nhà bằng nứa. Căn nhà dài năm gian thì phải (dài khoảng 20 m) Mái lợp cũng bằng nứa..Đòn tay bằng vầu cột có khi bằng vầu hay gỗ rừng. Căn nhà chưa được làm xong cần phải tu bổ.  Nằm sát bìa rừng phía sau là  nhà cầu bên cạnh đồi độ dốc khoảng 45 độ. Trong hàng rào còn vài cây nứa chưa đốn dài lêu khêu trong màn đêm . .Ăn xong phần bo bo. Tù lăn ra ngủ.

Sáng thức dậy theo tiếng kẻng. Lớp sương mờ giăng khắp rừng cây kẽ lá lúc tinh mơ, Hàng rào cạnh con dường mòn, bên trong là dòng suối trước cổng trại đã lô nhố tù cải tạo, xúc miệng chà răng bằng muối hay than, rửa mặt, tay chân, sau bao ngày không tắm giặt. Nước thật lạnh cùng tiếng chào hỏi , gặp nhau , tay bắt  mặt mừng. Vì bạn tù được "biên chế " toàn những tù nhân xa lạ từ những đội khác, trại khác .

Trại nằm thoai thoải cạnh con lạch dưới lòng thung lũng hai bên là rừng đồi cao. Con lạch này chạy tới trại tù ở bên ngoài. Ngoài hàng rào  có vài ruộng rau muống  nhà ở của cán bộ. Từ cổng trại  nhìn vào khoảng trống làm sân trại. Bên trái một nhà bếp và hai dãy nhà cho tù ở. Tôi  ở dãy sau cùng sát hàng rào chân đồi. .Bên phải chừng bốn dãy nhà . Đồn canh trước sau .
Buổi sáng ngày đầu tiên, trước lúc đi lao động . Cán bộ nhắc lại nội quy của trại . Lưu ý các trại viên :

-Nước suối rất lạnh ,trong, có thể độc hại. không được tắm lâu , nhiều có thể bị bịnh như sốt rét ....
-Khi vào rừng có nhiều rắn độc .Có một loại ong làm tổ dưới đất, Nếu đạp trúng  thì bị ong đốt mà chết.
-Vùng này có nhiều Quế . Nếu thấy sẽ không được lấy và không được chặt cây Bạch Đàn .

Ngày ngày tôi lên rừng đốn vầu (loại cây như cây Lồ Ô {Tre } ở miền Nam nhưng vỏ dày hơn , lóng dài cả thước cao từ mười lăm tới hai mươi mét, đường kính  từ một tấc tới  một tấc rưỡi ), đốn nứa ( Cây lứa giống cây vầu nhưng lóng dài hơn ,vỏ mỏng ) chặt dang (Loại cây như cây le ờ miền Nam  dùng chẻ lạt làm dây cột rất là dẻo , bền , tốt ), có bạn  lấy măng . Nhiều bạn tù chưa bao giờ biết cách chặt cây vầu, cây nứa, cây dang. Nên rất là cực nhọc, Có  khi bị  vàu , nứa đâm vào người. Chặt xong một cây vầu hay nứa một mình một cây vác cũng không muốn nổi. Đa số tìm khoảng trống tuông cây vầu từ chỗ chặt xuống chân đồi. Cây vầu lao xuống dốc rất nhanh . Vô phước bạn nào làm việc phía dưới trúng phài . Bị vầu đâm thì chỉ có chết .

Có bạn tù lấy ống nứa làm thành đồ đựng thức ăn hay trữ nước để sáng rửa mặt .

Hết thi đua này tới thi đua nọ , chỉ tiêu mỗi ngày một gia tăng, nước thỉ độc , ăn uống thì thiếu thốn. Sống cách biệt hẳn thế giới bên ngoài. Cơ thể tôi đã yếu giờ càng yếu thêm . Bệnh đường ruột chưa lành hẳn nay lại  tái phát . Tôi phải vào rừng tìm bất cứ loại lá cây có vị chát mà nhai. Bệnh phù thủng , bàn chân, đầu gối, mặt xưng ,ngón tay nhấn vào thịt lún sâu .Một tháng sưng phù hai lần . Lỗ tai có mủ ở tai trong,, đàm xanh...không thuốc thang gì cả. Những ngày mưa , nếu mưa lớn được nghỉ thì đỡ khổ , còn mưa nhỏ thì vẫn phải vào rừng làm việc. Nơi đây rừng núi âm u.  U tối như người tù cải tạo . Tôi nghĩ đến câu thơ người lính thú đời xưa khi còn học trung học :

...Chém (đốn ) tre, đẵn( chặt) gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những dang (8) cùng nứa, lấy ai bạn cùng
..........
Và người tù cải tạo hôm nay :  

"Nào những buổi, lên rừng chém nứa,
Đẵn gỗ về cất lán ,làm sàn.
Làm phênh, đập nứa ta đan,
Cắt tranh về lợp trang hoàng nhà ta."
Rời Rừng-Nguyễn Đình Lang (Giáng sinh 1977)

Lâu lâu, có được ngày nghỉ chủ nhật. Tôi mang quần áo rách ra vá . Kim làm bằng  dây đồng, chỉ bằng bao cát dành dụm từ Long Giao . Lẳng lặng từng mũi  kim sơi chỉ, đầu óc như gởi về phương trời xa xôi , nơi có cha mẹ, anh em , có bạn bè, có gia đình ...Mờ nhạt , mờ dần trong tận cùng của đớn  đau , trong tận  cùng uất  ức của  người thua cuộc. Mũi kim sợi chỉ có thể vá lại mảnh đời rách nát của riêng tôi .Nhưng với mệnh hệ của cả nước thì xa rồi vuột khỏi, vuột khỏi, mà bị áp đặt sẵn  những bàn tay lông lá ngoại bang..Tôi đi  giặt đồ, tôi đi tắm , tôi ngủ vùi.  Tôi đi tới đi lui, đói xanh cả mặt. Đói rụng rời cả tay chân. Đói không buồn nói  không còn cười , đói mờ con mắt , đói mờ lương tri...chờ rã ruột, chờ non tô bánh canh làm bằng bột mì . Hy vọng hão huyền với lòng khoan dung đô lượng của người thắng cuộc .
Rồi những đêm trăng thao thức không ngủ . Những đêm trời tối đen như mực , rừng núi  âm u. Tiếng côn trùng nỉ non ru canh thâu. Nhớ vợ thương con :

Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn
Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song
Nhớ con thương vợ não lòng
Chợ đời bạc bẽo long đong một mình.
Trăng đêm trên đất bắc XHCN-Đtá Nguyễn Huy Hùng (Yên bái 1976)

Hay những đêm nghe tiếng gió rít, cây rừng xao động. Mưa gió bão bùng, tiếng sấm  sét  nổ vang trời, âm ầm, phá tan màn đêm u tối, phá tan núi rừng Tây-Bắc , phá tan ...phá tan những u minh trói thúc đời tù tội, phá tan bầy quỉ đội lốt người....Thiếp đi ...mơ hồ về một buồi sáng bình minh, nghe tiếng chim kêu thanh thót, tiếng cười đùa, nhộn nhịp phố chợ đông vui .
Hay những buổi chiều Yên Bái, nắng nhạt nhòa , gió rừng nhè nhẹ, đâu đây tiếng chim kêu lạc bầy, khô khốc....Làm xao động nỗi lòng người tù cô đơn , bên dòng suối lờ đờ chảy, bật lên bài thương ca dĩ vãng một thời ;

"....Mưa rơi như rơi trong lòng ta, chiều thương nhớ quê xa
Người ơi từ nơi phương trời ấy, còn nhớ gì đến ta
Trong hòang hôn Yên Bái, bên dòng suối cô đơn
Ngồi đây ta đếm lại, bao kỷ niệm yệu thương.
Chiều Yên Bái- nhạc sĩ Phạm  Ni Tấn

Ngày  lại  ngày , tháng lại tháng. Tôi ở phương trời này nhớ  phương trời kia. U, ,u , mịch mịch như kẻ không hồn. Vòng xoáy ngục tù cuốn phăng tôi đi, làm rơi dần niềm hy vọng. Ngày ngày cuốc đất , xẻ núi  ban nền nhà. Đêm đêm ngồi  nghe kiểm thảo phê bình, bao chuyện xấu : nhỏ như hạt  bụi được phơi bày , tạo thành tích dâng cho đảng . Những giọt mồ hôi, nước mắt quyện vào nhau, rỉ thấm, bàn  tay phồng lên rồi chai đi làm thiêu rụi tất cả niềm ước mơ.

Ước mơ nào tôi đang mơ vào sáng nay. Khi Trần Thanh Châu cuốc vào đá non , đá bể ra , một thứ màu giống như màu chocolate.. Châu chỉ vào và nói : "Giờ mà có thỏi chocolate thì tuyệt quá" Tôi mỉm cười mà nước miếng tuôn ra ...thèm . Châu ít nói, nó cứ im ĩm suốt ngày, tuy nhỏ con mà sức bền. Có những ngày hai đứa phải khiêng vầu từ trong trại theo chỉ tiêu ra ngoài đường chất đống . Nghe đâu mang đi làm giấy. Những ngày trời  mưa đường rừng trơn trợt. Hai đứa khiêng vầu. Tôi cao nhồng đi phía trước Châu thấp người đi phía sau. Những khi leo dốc tôi lảo đảo, khi xuống dốc đường trơn  như xe không  trớn kéo Châu theo . Châu la làng .Vác  vầu chung với Châu tôi mới thấy Châu khỏe, bền thật chưa bao giờ thấy Châu than van...

Nhớ những ngày Nguyễn Hữu Huế bị ốm, mà còn phải đi lao động, về tới nhà là nó  nằm dài  ra .Thuốc men thì không. Anh em nghĩ rằng Huế bị cảm do chướng khí của núi rừng, cũng bắt gió đủ thứ mà vẫn không thuyên giảm. Người Huế cao và ốm  bây giờ lại càng ốm hơn. Tôi và Châu chỉ còn cách thay phiên nhau đấm bóp cho Huế để khơi lại mạch sống , tiềm năng còn lại trong cơ thể, vững tinh thần chống chọi bịnh tật mà vượt qua...Rối Huế cũng vượt qua cơn bịnh ngặt nghèo.

Trong người tôi mang nhiều mầm  bịnh , nên mỗi buổi sáng tôi ra ngoài trời tập lắc tay, hít thở không  khí trong lành, chào đón một ngày mới trong tù. Chuẩn bị cho mùa đông sắp đến. Nghe nói mùa đông lạnh lắm, không biết có đủ sức vượt qua hay không. Thế mà chiều nay,  trước đôi , cán bộ tập họp nói: " Có một số anh  luyện tập võ nghệ chờ cơ hội trốn trại". Tôi ngẫm ngĩỉ thấy có ai tập gì đâu ? sao vậy.? Ngày sau tôi ngưng tập chờ nguội đi rồi lại tập tiếp .

Những bữa cơm, bọn tôi ngồi xếp bằng trên sàn, trịnh trọng nhai từng miếng bánh canh, múc từng muỗng nước canh vào miệng, ôi sao ngon ngọt quá...Tôi có một cái tô lủng lỗ nhặt từ sông măng (tên con sông làm ranh giới Viêt nam và Cambodge vùng Bù Đốp ) Tới Long Giao lấy nhôm tán  kín lại , một cái chén do một người bạn gò cho có hàng trăm vết đập . Ấy thế mà nó theo tôi suốt cuộc đời tù tội .
Đời tù, quen dần với tiếng kẻng sáng tối, quen dần với những bữa ăn. Quen dần  với những đêm kiểm thảo, quen dần với những giờ "lên lớp". quen dần với những ngày lao động. Nhưng có một thứ làm cho người tù ghê tởm, đáng sơ: "Antena "

Ở tù thời nào mà không có. Đó là hạng người vì lợi ích của riêng mình. Báo cáo  hành vi  của bạn tù cho cai tù. Nhưng hành vi báo cáo này rất là kín đáo khó mà  kiểm chứng .Chỉ cần một hai người có hành vi này thì trong đội đó vô cùng khốn khổ vì ban ngày phải lao động cực khổ đêm phải ngồi cả hai tiếng đồng hồ  để nghe, từ ngày này qua ngày khác .Thật mệt với bọn này. Cuối cùng tù vẫn là tù.

Thế rồi một đêm trong tháng mười 1977. Trại tù chìm đắm trong màn sương, núi rừng  rền rã tiếng côn trùng .Ánh trăng bàng bạc soi ngàn cây ngọn cỏ . Từng cơn gió lạnh thổi vể  xuyên qua vách nứa, nghe đến rợn người. Trong láng có người ngủ say, có người thao thức nhớ vợ thương con. Bỗng tiếng  kẻng đâp dồn dập . Bộ đội ập tới đầy phòng ra  lịnh : Mang tất cả đồ dùng ra khám xét. Mọi người bừng dậy xếp mùng, mền, mang tất cả đồ dùng cá nhân ra sân, dưới ánh trăng mờ ảo. Với những đọn đèn pin sáng trưng của Bộ Đội.. Đồ đạc cá nhân được bầy ra trước mặt theo thứ tự từng hàng. Những gì cần dấu trong cuộc khám xét phải nghĩ ra cách dấu. Sau khi khám xét xong .Từng đội xếp hàng , nghe đọc tới tên mình thì ra  một hàng khác. Khi biên chế vừa xong  thì đoàn người di chuyển trong đêm, dưới họng súng dưới ngọn đèn pin theo đường rừng để ra con lộ chính .
Đời tù cải tạo, không bản án nào có ngày mai !

 
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu !
Kim Vân Kiều -Nguyễn Du

Nguyễn văn Ngoan
 ngày 27-9-2016

BẢO CHÂU * CUỘC HÀNH QUYẾT

Buổi Chào Cờ Không Có Lá Quốc Kỳ Trước Một Cuộc Hành Quyết

12 Tháng Tư 20177:52 SA(Xem: 219)


Vào những năm đầu sau khi Việt cộng mới cướp miền Nam VN xong, các sĩ quan và công nhân viên chức từng phục vụ cho chính phủ VNCH đều bị đưa vào trại tập trung để bắt đi “học tập cải tạo” nhưng thực chất là đi tù lao động khổ sai. Một trong những trại tù là trại Hàm Tân ở tỉnh Bình Thuận. Trại này từng là căn cứ quân sự của lực lượng Quân Lực VNCH và ở giữa sân có cột cờ để mỗi khi trước lúc ra trận thì các chú lính chào quốc kỳ.

Thời gian này rất là khó khăn và những người tù chính trị vừa phải lao động rất cực nhọc và ăn khoai mỳ lát bữa đói thì nhiều và no thì hiếm hoi. Đời sống rất là khó khăn và khổ sở. Có nhiều người đã trốn tù và hình phạt khi bị bắt lại rất nặng là bị biệt giam và hai tay và hai chân bị cùm lại và sau đó là bị xử bắn để răn đe. Một trong những người tù từng trốn trại là một vị trung úy bộ binh mà tác giả kể lại cho tôi không nhớ tên. Vị trung úy bộ binh này vượt ngục và ông đã bị bắt lại. Sau khi đã bị biệt giam với tay chân bị cùm lại. Ông đã bị đưa ra nơi cột cờ để chuẩn bị xử bắn. Trong lúc này thì tất cả các tù nhân chính trị còn lại bị ra lệnh ở lại trong láng của mình vì bọn cai tù cộng sản sợ những người tù sẽ nổi loạn. Vị trung úy đang bị gông cùm và bắt quỳ gối chuẩn bị xử bắn thì bất ngờ ông la lớn lên rằng “Đừng có giết tôi. Để cho tôi hát chào lá quốc kỳ của tôi cái đã!” Và thế là ông vẫn đang trong tư thế quỳ gối dưới cột cờ không có lá quốc kỳ và hát vang bài hát quốc ca VNCH thật lớn cho anh em trong láng cùng nghe. Sau khi hát xong, ông nói “Tôi vĩnh việt lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ của đất nước tôi… tôi xin vĩnh biệt!” và bọn cai tù đã bắn ba phát súng kết liễu cuộc đời của ông.

nguoilinhvietnamconghoacamcovietnamconghoatrongngaytraotratubinh1973-7
Ảnh minh họa

Những người bạn tù của ông nằm trong láng ai cũng khóc và không bao giờ quên những giây phút đó. Một trong những nhân chứng là Dì Bê Thiên Nga với tên thật là Nguyễn Thị Bê hiện đang cư ngụ tại thành phố Boston, Massachusetts. Dì Nguyễn Thị Bê Biệt Đội Thiên Nga, 80 tuổi, phục vụ dưới quyền của Chuẩn Tướng Trang Sĩ Tấn tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thủ Đô nằm trên đường Trần Hưng Đạo trước năm 1975. Dì từng đi tù cộng sản ở trại tù Phan Đăng Lưu và dì đã bị biệt giam 6 tháng. Trại tù cuối cùng dì bị giải đến là trại Hàm Tân Z30D và dì đã ở tù cộng sản với tư cách tù nhân chính trị với tổng cộng là 13 năm tù. Dì từng ở tù chung với Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy Biệt Đội Thiên Nga phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia dưới quyền của Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình có văn phòng trên đường Võ Tánh
trước năm 1975. Dì cũng từng ở tù chung với Bà Trung Tá Không Quân Nguyễn Thị Hạnh Nhân và Bà Nhân hiện đang là Hội Trưởng Hội HO và Thương Phế Binh VNCH cư ngụ tại CA. Ngày 1 tháng 1 năm 1988, dì Nguyễn Thị Bê đã được chính phủ Mỹ can thiệp mới được ra khỏi tù đày của cộng sản. Ngày 14 tháng 8 năm 1992, dì Bê cùng gia đình đã đến phi trường Logan Airport thuộc thành phố Boston và dì đã định cư từ đó đến nay. Trong suốt 24 năm qua, Dì Bê mà mọi người dân đều yêu mến dì và thường gọi dì là “Dì Bê” hay “Dì Bê Thiên Nga” bởi vì dì đã từng bị cộng sản VN tra tấn để khai thác thông tin tới mức gãy cổ và trong một thời gian dài khi qua Mỹ bà đã phải mang niềng cổ để điều trị. Dì Bê đã từng phải gánh mỗi ngày cả 200 đôi nước tưới cây trong tù vì vậy sức khỏe của dì không được tốt và thường xuyên đau nhức. Tuy vậy, từ khi bước chân đến Mỹ cho đến nay, dì Bê đã không bao giờ ngừng nghỉ trong bất cứ công tác chống Cộng nào cho dù xa xôi hay thức qua đêm để đồng hành cùng cộng đồng và các tổ chức đấu tranh chính trị.

Sở dĩ tôi nói hơi nhiều về Dì Bê Thiên Nga bởi vì tôi muốn quý độc giả có nhiều thông tin để kiểm chứng những gì tôi viết ra đây để mọi người cùng hiểu và chia xẻ. Cũng vì đã quá lâu nên Dì Bê không nhớ tên vị trung úy bộ binh đã hy sinh và chính dì là người đã kể lại với tôi câu chuyện này trong nước mắt. Cả hai dì cháu chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi khóc vì chúng tôi đồng cảm về ý nghĩa bảo vệ danh dự của lá cờ vàng và nhất là trong tình hình hiện nay với những màn hạ nhục cờ vàng hết trận này tới trận khác và hiện tại là vấn đề liên quan tới tên Việt cộng cái Mai Khôi tại Washington DC. Tuy tôi chưa bao giờ được vinh dự phục vụ dưới chế độ VNCH nhưng tôi có thể nhìn thấy được tất cả những gì Dì Bê kể cho tôi nghe và cảm nhận được cảm xúc của viên trung úy bộ binh với lòng yêu tha thiết lá cờ chính nghĩa của quốc gia VNCH. Ông đã hát vang như ông đã từng hát chào quốc kỳ trước khi xông pha trận mạc và lần hát này ông biết mình sẽ ra đi mãi mãi. Nhưng ông đã mãn nguyện vì được hát bài hát quốc ca tuy không có lá cờ vàng trên cột cờ… nhưng trong tâm khảm ông lúc nào cũng có lá cờ của quốc gia, của dân tộc. Ông đã mang lại niềm hy vọng và hạnh phúc trong lòng anh em, đồng đội của mình bằng cách hát lớn để mọi người cùng được nghe lại bài quốc ca của mình.

Sau hơn 24 năm ở Mỹ, nhưng Dì Bê vẫn không quên đồng đội của mình và những hình ảnh, lời nói kia vẫn cứ vang vọng trong tâm khảm của dì. Giờ đây những hình ảnh và lời nói kia lại truyền đạt đến tôi và tôi muốn chuyển tiếp đến tất cả quý độc giả có duyên đọc bài này. Để làm chi? Tôi có mơ ước rằng rồi ai ai cũng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của lá cờ vàng thiêng liêng như thế nào đối với vận mệnh của quốc gia, của dân tộc Việt và nếu mất nước thì chúng ta sẽ mất tất cả. Chúng ta còn lá cờ vàng là chúng ta còn niềm hy vọng và niềm tin vào một dân tộc Việt sống trong độc lập, tự do, dân chủ và hạnh phúc thật sự. Tôi mơ ước rằng ai ai khi nhìn thấy là cờ vàng cũng nhìn thấy sự hiện diện của hơn 250,000 anh hùng tử sĩ VNCH đã hy sinh cho quốc gia. Qua đó, họ sẽ tự giác thấy mình phải có tránh nhiệm ghé vai vào gánh vác giang sơn và đơn giản nhất là bảo vệ danh dự cho những người đã hy sinh cho chúng ta được sống. Tôi cũng hy vọng rằng sẽ có những người cũng cảm nhận được những gì tôi cảm nhận được và những hình ảnh, cảm xúc này sẽ chính là ngọn lửa trong lòng của mỗi người nung đốt lòng yêu tha nhân, yêu quê hương, yêu dân tộc thật sự để họ dám đứng lên, dám làm điều phải, dám hy sinh một chút gì đó hay là hy sinh tất cả để những người đi trước được yên tâm an nghỉ.

Chỉ có ngọn lửa lòng của mỗi con người chúng ta mới có thể cháy sáng lên làm ngọn đuốc dẫn đường cho mỗi chúng ta đi đến những quyết định đúng đắn, sáng suốt trong mọi tình huống, trường hợp. Tôi mong rằng ai ai cũng mang lá cờ vàng thân yêu trong tâm khảm của mình như viên trung úy bộ binh kia.

Tôi mong rằng ai ai cũng biết đặt lá cờ của quốc gia, của dân tộc ở vị trí trang trọng nhất và không bao giờ dời đổi nó đi bất cứ nơi nào vì bất cứ lý do gì.

New Hampshire, Thursday, January 12, 2017
Bảo Châu Kelley

SƠN TRUNG * CUỘC LUẬN KIẾM TRÊN NON TẢN

CUỘC LUẬN KIẾM TRÊN NON TẢN

SƠN TRUNG

 

Cứ ba năm một lần, vào ngày rằm tháng hai âm lịch, các bộ tộc ở miền núi xứ Bắc thường tập trung tại núi Tản viên để luận kiếm. Tại miền Bắc có khoảng 50 bộ tộc sinh sống như Thái , Thổ, Mán, Mường, Mèo, Nùng, Hmong, Tày, Dao, Lô Lô, PuPéo, Rơ-măm, Brâu, Pà Thẻn, La Hủ, Vân Kiều, Sán Dìu, Khơ Mú... . .Sự phân loại rất khó khăn và phức tạp. Ngay cả trong bộ lạc Thái còn có Thái Trắng, Thái Đỏ, Thái đen; giống Mán có Mán đồng tiền, Mán Hòa Bình; giống Tày Có, Tày Hay, Tày Men, Tày Mười, Tày Xang; giống Mường có Mường Thanh Hóa, Mường Hòa Bình. Trong các bộ lạc trên, Thái , Thổ, Mán, Mường, Mèo, Nùng, Hmong, Tày là tám bộ lạc nổi tiếng hơn cả, đuợc gọi là bát đại sắc tộc.Tất cả dân tộc miền núi này sống hoà hợp trong quốc gia Văn Lang, dưới sự lãnh đạo của vua Hùng. Chính các dân tộc miền núi đứng ra tổ chức cuộc luận kiếm và họ mời vua Hùng làm chủ tọa và làm trọng tài.


Võ nghệ thì có nhiều môn phái khác nhau nhưng trong thập bát ban võ nghệ, kiếm được coi là đứng đầu cho nên cuộc tranh tài của các đại cao thủ tại núi Tản đã lấy kiếm mà luận tài thử sức. Các bộ lạc đều được tham dự nhưng mỗi phái đoàn thường mang theo năm, mười người kể cả ngưởi tùy tùng.


Ngày luận kiếm đã đến. Trên một khoảnh đất rộng rãi trước đền thờ đức thánh Tản, người ta đã dựng một khán đài bằng gỗ lợp tranh để vua Hùng và các tộc trưởng các bộ lạc ngồi xem. Trước mặt khán đài là một đấu trường, là khoảnh sân cỏ rộng bằng một gian nhà, được vẽ một vòng tròn bằng vôi. Ở trước đấu trường, người ta làm một cái cổng tam quan kết bằng hoa và lá, xung quang cờ đuôi nheo bay phất phới. Trống điểm thùng thùng lúc khoan, lúc nhặt. Khi vua ngự đến, ban bát âm cử nhạc thánh thót. Các công chúa, các tiểu thư ngồi trên khán đài; còn các thiếu nữ người Mán, Mường, Mèo, Thái. . . mặc áo quần sặc sở tạo thành một bức tranh sống động ở xung quanh đấu trường. Các vệ binh phải cầm roi xua liên tiếp và nạt nộ ầm ĩ vì bọn thanh niên nam nữ xô đẩy nhau và đùa giỡn ở trước võ đài . Tiếng kêu gọi nhau ơi ới, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng chửi rủa nghe lanh lảnh là đặc thù của ngày lễ hội.


Theo lệ cũ, bát đại tù trưởng thay nhau chủ trì cuộc luận kiếm. Người đứng ra phụ trách việc tổ chức kỳ này là Nông Vạn Phúc, tù trưởng người Nùng. Trước khi tham dự cuộc luận kiếm, mỗi bộ lạc phải chọn một kiếm khách tài giỏi nhất, và một kiếm khách dự khuyết. Các kiếm khách các bộ lạc từng đôi thi tài, cuối cùng lấy ra tám đại cao thủ. Trước hết bốn cặp đấu với nhau, sau đó thành hai cặp đấu với nhau, và cuối cùng là một cặp đấu với nhau. Ai thắng sẽ trở thành đệ nhất cao thủ của Văn lang quốc.


Khởi đầu, có 30 đấu thủ bắt thăm đấu từng đôi một. Đợt hai còn bảy cặp đấu với nhau. Đợt ba còn bốn cặp đấu với nhau.
Khởi đầu đợt ba, Đèo Vân Long đấu với Uông Thanh Lâm. Sau khi bái tổ và cúi đầu chào nhau, cả hai liền trổ tài. Cả hai là tù trưởng, là thanh niên trai tráng khoẻ mạnh. Đèo Vân Long người Tày sử dụng song kiếm, tiến thoái nhịp nhàng và múa như vũ bão. Uông Thanh Lâm, người Thái trắng dùng trường kiếm, thủ nhiều hơn công. Cả hai đều đóng khố, ở trần trùng trục như hai con bò mộng. Đấu hơn nửa buổi không phân thắng bại. Ban tổ chức phải ra lệnh đình hoãn để hai bên nghỉ ngơi và dùng bữa trưa. Giờ mùi, hai bên tiếp tục lên võ đài. Uông Thanh Lâm thay đổi chiến thuật. Chàng tấn công như vũ bão khiến Đèo Thanh Long phải lùi bước. Vì bất cẩn, Đèo Thanh Long trợt chân té xuống. Trong nháy mắt, Uông Thanh Lâm kề kiếm vào cổ khiến Đèo Thanh Long phải đầu hàng.

Hiệp tiếp theo, Nông Xin Phát, người Nùng đấu với La Hiêu Xình người Thổ. Cả hai đều đóng khố, để đầu trần, đI chân đất. Cả hai dùng song kiếm. La Hiêu Xinh thuộc phái hầu kiếm, y nhảy tả sang hữu, rồi lăn lộn dưới đất chém vào hạ bộ của Nông Xìn Phát những nhát kiếm ác liệt khiến Nông Xìn Phát nhiều phen luống cuống. Cuối cùng La Hiêu Xinh nhảy từ trên cao xuống chém đứt tai Nông Xìn Phát và kết thúc trận đấu.

Trận tiếp theo nữa là Ra Com Xay người Mán đấu với Giàng A Sáo người Mường. Cả hai là tù trưởng già nua tóc bạc nhưng còn vẻ tiên phong đạo cốt. Ra Com Xay mặc áo cộc đỏ, quần cộc xanh, đầu trùm khăn lam. Giàng A Sáo thì đóng khố, đi chân đất. Sau khi chào hỏi nhau xong, cả hai rút kiếm và thủ thế. Sau vài khắc, cả hai vẫn ghìm kiếm và im lặng gườm nhau. Bỗng Ra Com Xay hét lên một tiếng và xông vào Giàng A Sáo . Cả đấu trường, người ta nghe một tiếng thét rùng rợn. Đồng thời người ta thấy cả hai người rời nhau ra và ngã xuống đất. Cả hai đã bị chém vào đầu. Cuộc đấu kết thúc bằng cái chết của hai tù trưởng kiêu hùng.

Trận cuối do Cầm Thanh Khao lão nhân người Hmong đấu với Lò Xây Xây đạo nhân người Mèo. Cầm Thanh Khao lão nhân mặc trường bào trắng , thắt lưng đỏ, đi chân đất còn Lò Xây Xây mặc áo ngắn màu xanh, quần đen, thắt lưng đen, đi hài tía. Sau khi bái tổ và chào hỏi nhau, cả hai tiến đánh như vũ bão. Sau một ngày trời bất phân thắng bại, cả hai được ban tổ chức cho nghỉ ngơi để hôm sau tái đấu. Khoảng giờ thìn hôm sau, cuộc đấu tiếp diễn. Cầm Thanh Khao vừa ôm bầu rượu vừa tấn công đối thủ trong khi Lò Xây Xây ung dung cầm quạt phe phẩy như đang dạo chơi trên bờ sông. Đến giờ ngọ, cả hai vẫn đồng cân sức. Mặt trời lên cao, không khí oi bức. Cầm Thanh Khao nâng bầu rượu lên uống một hớp như đang làm thơ trong một vườn hoa. Bỗng một thoáng, Cầm Thanh Khao nhảy chồm tới, miệng phun rượu vào mắt Lò Xây Xây đạo nhân, tay múa kiếm quyết chém ngang lưng đôi thủ . Cùng lúc này, Lò Xây Xây đạo nhân chỉ quạt về phía Cầm Thanh Khao lão nhân, người ta thấy năm sáu mũi kim từ quạt bay ra. Trong khi Cầm Thanh Khao lão nhân co rúm người và run bần bật thì Lò Xây Xây đạo nhân nhảy lùI ra sau ôm mặt nhăn nhó. Một bên trúng kim độc, một bên trúng rượu độc, ban tổ chức phải đem cả hai vào hậu trường cấp cứu. Sau đó ban tổ chức tuyên bố bãi bõ tư cách kiếm khách cả hai vì đã dùng hành vi ám toán đối thủ.


Chung kết là Uông Thanh Lâm đấu với La Hiêu Xình. Cuộc long tranh hổ đấu xảy ra hai ngày vẫn bất phân thắng bại. Ban tổ chức phải đưa ra ý kiến là tổ chức thi văn bổ túc.

Cuộc thi võ đã kết thúc, ngay chiều hôm đó, võ đài đã biến thành một quang cảnh mới. Ngay trước ngự tọa, người ta trải bốn năm chiếc chiếu cạp điều. Ở chiếu giữa là chỗ ngồi của hai đấu thủ, còn xung quanh là chiếu của các giám khảo. Trên các chiếu người ta bày hương trầm, hoa, rượu, trà, bánh trái và thuốc lào. La Hiểu Xinh bốc thăm ưu tiên nên có quyền ra câu hỏi trước:

-Trên thế gian, cái gì mạnh nhất?

Uông Thanh Lâm đáp:

-Thanh kiếm là mạnh nhất.

La Hiêu Xinh nói:

-Thanh kiếm không mạnh nhất. Nếu thanh kiếm trở nên oai hùng là do sức lực toàn thân, nhất là sức mạnh cánh tay, và trí óc con người. Thanh kiếm chỉ là một công cụ vô tri, vô năng, vô lực.

Uông Thanh Lâm chất vấn La Hiêu Xình:

-Tôi trả lời, ông bảo là sai. Vậy theo ông cái gí có sức mạnh nhất trên đời?

La Hiểu Xinh đáp:

-Theo tôi, tình yêu mạnh nhất trên đời.

Uông Thanh Lâm nói:

-Tình yêu là sức mạnh nhưng không phải là nhất. Tình yêu chưa chắc tạo được hạnh phúc vì bao nhiêu người yêu nhau mà vẫn bỏ nhau. Vả lại, tình yêu chỉ có sức mạnh trong trong khoảng 18-50 mà thôi. Hơn nữa một số không cần tình yêu đò là hạng chân tu và người bất lực hoặc bệnh hoạn.

Theo tôi, tiền bạc mạnh nhất vì ai cũng cần tiền. Đứa trẻ mới sanh cho chí người già sắp chết, người tu hành cho đến nhà từ thiện, ai cũng cần tiền. Mãnh lực đồng tiền rất lớn, nó làm cho con người bán danh dự, bỏ đạo đức, bán đất đai tổ tiên đã ngàn năm xây dựng. Kẻ lưu manh tham tiền đã đành mà nhà tu hành hoặc bậc trí thức cũng bất chấp liêm sỉ, chạy theo đồng tiền mà đổi trắng thay đen. Nhân dân ta có câu tục ngữ: “ Có tiền mua tiên cũng được”. Và ngày nay khắp nơi có bài ca chiến thắng:

Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà tiến thân,
Là cái cân công lý.
Tiền! Hết ý!



Ban tổ chức nhận định rằng về nan đề thứ nhất, cả hai ngang nhau. Đến lượt Uông Thanh Lâm ra đề:

-Ông có phải là người oai phong nhất không?

La Hiêu Xình đáp:

-Dưới vua, tôi là người oai phong nhất vì tôi là tù trưởng, có 500 mẫu ruộng, hai ngàn con bò, năm trăm con trâu, và ba trăm cô vợ trẻ đẹp.

Uông Thanh Lâm cười đáp:

-Vậy thì ông còn thua tôi. Tôi đây có 600 mẫu ruộng, năm ngàn con bò, năm ngàn con trâu và năm trăm cô vợ trẻ đẹp. Ngoài ra tôi có 80 đứa con, gồm 50 trai và 30 gái. Nhưng những cái đó chưa ăn thua gì, vì có tiền thì mua bao nhiêu vợ cũng được. Mà nhiều vợ thì lắm con Cổ nhân nói : “Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con”. cũng chỉ là chuyện thường thế gian Ông xem đây, những người hầu cận của tôi đây. Rất đặc sắc, rất đặc sắc, trong thế gian, ngoài vua ra, không ai bằng tôi! Trong khi bao nhiêu người khoái sưu tầm vàng ngọc, gấm vóc, tranh cổ, bình xưa, tôi đây chỉ thích sưu tập nhân tài trong thiên hạ.

La Hiêu Xình nói:

-Những điều ông nói là không thể kiểm soát được. Ông muốn nói bao nhiêu mà chả được. Làm sao biết ông có 600 mẫu ruộng, năm ngàn con bò, năm ngàn con trâu và năm trăm cô vợ trẻ đẹp? Còn mấy tên hầu cận của ông thì cũng giống mấy tên hầu cận của tôi, có khác gì đâu?

Uông Thanh Lâm nói:

-Ông lầm rồi! Mấy thằng đầy tớ của tôi rất chiến! Rất cừ! Tôi hiện nay có hàng ngàn đầy tớ, thuộc đủ hạng người, mà người nào cũng xuất chúng, Không một tên nô lệ nào trên thế gian lại có một lịch sử, một quá khứ oai hùng như chúng nó. Tất cả chúng nó có ba đặc tính chung:

-Thứ nhất, chúng nó trước đây tích cực chống tôi và dân tộc tôi. Nay chúng quay ra ca tụng tôi, cam tâm làm nô lệ cho tôi.

-Thứ hai, chúng nó là những người có danh vọng.

- Thứ ba, những nô bộc của tôi mang tính quốc tế và đa dạng. Trong nước, ngoài nước đều có người của tôi. Nước nào cũng có người của tôi. Chúng ở ngoại quốc nay về hẳn với tôi chầu chực hôm mai bên cạnh tôi. Cũng có kẻ sáu tháng ở với tôi, sáu tháng về thăm nhà bên đó. Cũng có kẻ nằm vùng ở nước ngoài. Đầy tớ của tôi rất đa dạng, nào là y sĩ, thầy kiện, học giả, văn sĩ, thi sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, giáo sĩ, hoà thượng, đạo sĩ, sinh viên, học sinh, giáo sư, tiến sĩ. . .

Trong đám đầy tớ của tôi, hai thằng A Tam và A Tứ đây vốn là người dân Miêu. Thằng A Tam, lúc nhỏ là lưu manh đệ nhất ở xứ Đoài, gặp thời loạn nhảy lên làm đại tướng, còn thằng A Tứ là đệ nhất đàng điếm và cũng là đệ nhất nhạc công của Miêu tộc, sáng tác cả trăm bản nhạc, được dân Miêu ca tụng là thánh tổ nhạc..

La Hiêu Xình nói:

-Ông đánh thắng rồi bắt chúng làm nô lệ, đó là chuyện thường xưa nay, chứ có gì lạ đâu mà ông khoe!

Uông Thanh Lâm cười mà rằng;

-Ông nói sai. Bậc đại nhân, đại nghĩa không bao giờ dùng bạo lực. Dùng vũ lực thì làm cho người miễn cưỡng tuân phục nhưng tâm bất phục. Phải làm sao mà chúng tâm phục, khẩu phục, phải bò đến trước mặt mình năn nỉ, van xin thì mới tỏ là bậc đại trượng phu, oai phong đệ nhất. Trường hợp của tôi rất đặc biệt cơ! Hai thằng này có quyền thế nên đã nhanh chân chạy sang xứ Cỏ Hoa trước khi Miêu tộc bị tôi xâm chiếm. Dân Miêu khốn khổ phải vượt biển, kẻ bị cướp biển, người bị cá ăn thịt , một số rất ít đến Cỏ Hoa và các nước ngoại quốc, còn hai tên này đi tàu bè rất ung dung và sống vênh vang ở xứ Cỏ Hoa. Tôi phải dùng mấy trăm lượng vàng và mất công thuê người dụ dỗ mấy năm trời chứ đâu có dễ. Hai thằng này thời trước cao ngạo lắm, nay thì rất ngoan, bảo chúng nó quỳ xuống làm chó sủa gâu gâu, chúng cũng nghe theo. Dù tốn mấy trăm lạng vàng, khi đi đó đi đây, có thằng mang giày cởi dép, có đứa đấm lưng, bóp chân, có đầy tớ hầu điếu đóm, có nô lệ bưng trà, rót rượu thì tôi rất là sung sướng, rất là oai phong! Các bậc vua chúa đi ra ngoài thường mang theo bọn vai u thịt bắp làm kẻ tả hữu, còn tôi, tôi là người trí tuệ đỉnh cao cho nên tôi dùng nô lệ cũng dùng thứ thượng hạng. Có như vậy mới quý hiếm và tăng giá trị mình. Tôi nay cho chúng sướng gấp mười ngày trước khi chúng làm quan ở Miêu tộc. Chúng nay đuợc ở nhà cao cửa rộng, rượu nồng dê béo, tiền xài hàng vạn, gái đẹp hằng trăm, dù tôi vác gậy đuổi chúng, chúng cũng không đi. Tôi cho chúng mọi thứ, tôi chẳng bắt chúng làm một công việc gì cả. Khi tôi đi đó đi đây,nhất là lúc tiếp các đại thần hay tiếp khách ngoại quốc, tôi chỉ cần chúng đứng khoanh tay hầu bên cạnh tôi là đủ.

Tôi rất yêu chúng nó vì chúng nó đem lại vinh dự và oai phong cho tôi. Mai sau khi tôi chết, tôi sẽ chôn hài cốt hai đứa bên cạnh để kiếp sau và sau nữa, chúng sẽ hầu hạ tôi. Và ở cổng lăng tôi, thay vì phải làm hai con chó đá. như cổ tục, tôi sẽ cho thợ đắp hình chúng nó theo dạng đầu người mình thú như con Sphinx bên Hy Lạp.. Ông có thấy dưới hoàng đế, tôi là người oai phong nhất không?

Nói xong, ông quay sang A Tam, A Tứ cười:

-Tao nói vậy có đúng không, chúng bay?

Cả hai tên nô bộc tuổi 70-80 cúi đầu khom lưng rất lễ phép và thưa :

-Dạ đúng, bẩm đại nhân!

Kết cuộc, ban tổ chức đồng ý chọn Uông Thanh Lâm làm đệ nhất kiếm khách nước Văn Lang. Vua Hùng thưởng cho Uông Thanh Lâm 500 lượng vàng, ban áo mão cân đai, và giữ lại kinh đô làm Cửu môn Đề đốc quản lĩnh quân đội trong kinh thành

KHUẤT ĐẨU * NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ

NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ
 
Thủa ấy, thế hệ chúng tôi thường ca cẩm đầu thai nhầm thế kỷ! Cái thế kỷ mà chúng tôi ngán ngẩm là thế kỷ hai mươi, với thế chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai, rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh qui ước và cuộc nội chiến lê thê suốt hai mươi năm dài.
Kêu trong chán nản, trong hờn dỗi nhưng không tuyệt vọng. Vì còn kêu được kia mà. Chỉ có một chút tấm tức, sao không được sinh ra trong những thế kỷ yên bình. Có nghĩa rằng, dù thế nào chăng nữa, thì được sinh ra làm người vẫn hơn là không được sinh ra.

Khác hẳn với những đứa trẻ sinh ra trong tháng tư, bảy lăm, sau chúng tôi một thế hệ. Chúng không kêu mà hỏi: sinh chúng tôi ra làm gì?
Đó là những đứa trẻ mẹ mang đầy bụng, mẹ không thở ra hơi mà vẫn phải bết bát chạy.
Chạy từ cầu Ái Tử qua cầu Tràng Tiền. Rồi từ cầu Tràng Tiền lê lết trèo qua đèo Hải Vân. Rồi từ đèo Hải Vân qua đèo Mẹ Bồng Con. Sau cùng đến giữa trái tim thủ đô Sài Gòn, vẫn phải giẫm đạp lên nhau để xuống bến Bạch Đằng, hay chen lấn nhau đến nghẹt thở để chui vào phi cảng Tân Sơn Nhất. Một cuộc chạy Marathon dài nhất trong lịch sử.
Và rồi mẹ sinh. Không phải trong nhà thương Từ Dũ với sự giúp sức của các bác sĩ và cô đỡ mát tay để mẹ tròn con vuông.
Mà sinh, có thể là lúc đang chạy trối chết, con rớt trong quần mà mẹ không hay.
Cũng có thể là lúc mẹ mệt quá cái đôi chân này đang ngồi tựa lưng vào một bức tường lỗ chỗ dấu đạn. Rồi con lặng lẽ chui ra mà mẹ không cần phải rặn, đúng hơn là không còn hơi sức đâu mà rặn.
Có thể trong thùng xe chất cứng người, suýt nữa con bị người ta đạp cho nát bét.
Có thể trên con tàu mấp mé sắp chìm, người ta đang ném những xác chết và những người sắp chết xuống biển cho nhẹ bớt. (Cũng may họ không ném những người đàn bà chửa)
Có thể trong khoang trực thăng mà viên phi công bị đạn dưới đất bắn lên, xuyên qua ghế ngồi khiến anh ta đầm đìa máu, vẫn cố sức giữ cho máy bay khỏi rơi.
Có thể mọi lúc, mọi nơi, mọi giờ, mọi phút.
Ngay cả phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, khi tông tông Dương Văn Minh vừa nói xong mấy tiếng “đầu hàng không điều kiện”.
Mẹ sinh, không có cha bên cạnh.
Có thể cha đã chết trong chiến hào, có thể đang chiến đấu mà súng bị gãy, có thể bị thương, bị bắt, cũng có thể cởi bỏ quân phục lẫn lộn giữa đám thường dân đói khát trên quốc lộ số 1
Người ta đi biển có đôi
Còn tôi đi biển mồ côi một mình.
Mẹ sinh con ra chỉ mình ên, quạnh hiu lắm con ơi!
Mẹ sinh con ra, chính mẹ, cũng không biết để làm gì!
Không biết để làm gì nhưng vẫn muốn con được sống.
Giữa chốn đông người, mẹ vẫn cứ vạch áo ra cho con bú. Tuy chỉ uống nước lã cầm hơi, mẹ cũng hãy còn một ít máu. Những giọt máu hiếm hoi màu đỏ khi chảy qua miệng con vẫn thành màu trắng thơm tho.
Và kỳ diệu làm sao, con vẫn sống được.
Nghĩa là con vẫn thở trong khi khắp nơi đậm đặc mùi xác chết thối rữa, mùi khói, mùi xăng, mùi nhà cháy. Và con vẫn khóc được trong tiếng đại bác ì ầm, tiếng A.K cọc cọc, tiếng xe tăng rít trên mặt đường.
Con sống, nhưng sau cái phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, mẹ ngơ ngác không biết đang ở đâu, rồi sẽ đi về đâu giữa rừng cờ nửa xanh nửa đỏ.
Sau cùng, mẹ cũng hiểu ra rằng lịch sử đã sang trang. Không chỉ riêng mình mẹ mà nửa nước đều thấy xa lạ với chính thành phố, xóm làng của mình. Ngay cả con phố, căn nhà, mảnh vườn cũng không còn là của mình nữa.
Mẹ bị đuổi về quê làm xã viên hợp tác xã. Mẹ lội xuống ruộng, mặc dù rất sợ đỉa, để cấy, gặt. Đôi lúc mẹ trần vai để kéo cày thay trâu. Mẹ làm ra lúa ra khoai đầy kho đụn, nhưng mẹ và những người đội nón lá chỉ làm cho nón cối hưởng, nên con vẫn đói khát, bủng beo.
Mẹ bị hốt trong đêm quẳng lên rừng thiêng nước độc, gọi là kinh tế mới. Mẹ phải sống chung với rắn rít và cả cọp beo, khi ấy hãy còn nhiều lắm. Mẹ bẻ măng rừng, hái nấm ăn cho đỡ đói. Nhiều lần ăn phải nấm độc suýt chết. Cả con và mẹ đều bị sốt rét rừng, bụng ỏng da vàng khè.
Chịu hết xiết, mẹ cõng con trốn về thành phố. Mẹ vay mượn chút ít chạy chợ trên, lộn chợ dưới. Bị mắng là con buôn, bị quản lý thị trường rượt đuổi còn hơn mã tà. Một đôi lần bị cướp sạch cả vốn. Đến nổi, nói ra thật xấu hổ, chỉ còn cái vốn trời cho. Để làm lại cuộc đời mẹ đã thử theo bè bạn đi đứng đường. Nhưng mẹ gầy yếu teo tốp quá, chẳng ai thèm rớ tới.
Cũng may, lúc ấy cha con chẳng phải chết, chỉ bị bắt đi cải tạo, vừa được thả ra. Cha con còn thảm não hơn cả mẹ. Nhưng nhờ cái gọi là tình chồng nghĩa vợ, mẹ cha cũng gắng gượng mà sống để nuôi con. Cha đạp xe thồ, bán cà rem, mẹ lượm lon nhặt giấy vụn trong bãi rác.
Con được (hay bị) dạy thành cháu ngoan Bác Hồ.
Rồi con cũng học đến lớp 12.
Nhưng tới đó thì thôi, cánh cửa đại học đã đóng sầm trước mặt con.
Con bị ném vào đời không nghề nghiệp, không vốn liếng.
Con sống lây lất cho đến hôm nay.
Hôm nay, những đứa trẻ tháng tư năm ấy đã bốn mươi tuổi, cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc. Còn bi đát tội nghiệp hơn cả cha mẹ, chúng không có quá khứ để tiếc thương, không có tương lai để hướng tới, chỉ có cái hiện tại không sắc màu, không mùi vị, như một con số không chẳng biết để làm gì.
Trong gia đình, nhìn thấy mẹ cha co rúm, mòn cùn, tuy không nói ra, nhưng chúng thừa biết họ là những kẻ hèn. Ngoài xã hội, chúng chỉ đứng bên lề, nếu không muốn nói là đứng dưới đáy. Trong khi những đứa cùng năm sinh, tháng sinh nhưng ở nửa nước bên kia hay dưới cái dù lý lịch màu đỏ phía bên này đang được cơ cấu vào những chức vụ ngon ăn, sắp sửa đi làm đầy tớ cho những ông chủ kém may mắn nói trên.
Thế nên, đến chết vẫn còn nguyên câu hỏi: Sinh ra trong chết chóc, lớn lên trong đói khổ và suốt đời sống trong ô nhục, vậy sinh chúng tôi ra làm gì?!
Khuất Đẩu

Tuesday, April 25, 2017

CHÁNH MINH * BIỂN TRONG THƠ TRẦN HỒNG CHÂU

Biển trong thơ Trần Hồng Châu

Chánh Minh


Nói đến thi sĩ Trần Hồng Châu, có lẽ chỉ một số ít người đã từng đọc thơ ông mới biết ông là ai, nhưng khi nói đến Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hoạch, nguyên Khoa trưởng trường Đại học Văn khoa Sàigòn (1965-1969), chắc chắn không ít người biết đến ông, nhất là những sinh viên ở các Đại học Sàigòn, Huế, Đà Lạt và Học viện Quốc gia Hành chánh trước năm 1975. Nhà thơ Trần Hồng Châu chính là Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã từng giảng dạy các môn Văn chương Pháp, Văn chương Việt Nam và Luật Quốc tế tại các Đại học trên. Ngoài ra ông còn là Giáo sư thỉnh giảng về Văn chương, Văn hóa Việt Nam và Văn chương Pháp tại Southern Illinois University (Illinois, Hoa Kỳ) từ 1970 đến 1974.
Tôi tình cờ đọc được thơ ông trong Tuyển tập Trần Hồng Châu gồm thơ, tùy bút và tiểu luận về Văn học Nghệ thuật do Viện Việt-Học ấn hành năm 2004 tại Hoa Kỳ và đây cũng là lần đầu tôi đọc thơ của Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch hay thi sĩ Trần Hồng Châu. Thơ ông đủ các đề tài từ tình yêu thăng hoa, quê hương, đến triết lý về vũ trụ và cuộc đời rất sâu sắc, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thơ ông đã nói đến biển khá nhiều. Trong 116 bài thơ đăng trên Tuyển tập, có đến 16 bài nói về biển hay liên quan đến biển, tôi có cảm tưởng như ông là một người đi biển nhiều và yêu biển, bởi chính tôi đã từng chọn nghiệp biển và cũng yêu biển. Cho nên khi đọc được những bài thơ có dính dáng đến biển, tôi như bị cuốn hút bởi những lời thơ thật đẹp, lãng mạng và đầy tình người của ông. Từ sự đam mê đó tôi muốn tìm hiểu biển trong thơ Trần Hồng Châu, ngoài ra tôi không có ý phê bình thơ ông bởi vì đã có một số quý vị viết rồi như Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Viện trưởng Viện Việt Học và nhà phê bình thơ văn Nguyễn Mạnh Trinh.
Trước hết chúng ta hãy nghe ông tự giới thiệu mình là con người yêu biển một cách khéo léo:
Lúc này đây anh biết em vẫn nhìn anh
xem có đúng con người trong tác phẩm hay không
con người yêu biển lớn
biển đa tình
……………..
(Biển Yêu Mê - Trần Hồng Châu)
 
Và rồi nhớ lại những vùng biển ông đã từng đến:
 
Copenhagen chìm trong mờ sương Bắc Hải
Copenhagen thủy nữ tuyệt vọng trong chờ mong
Tôi đi lang thang
Mắt hoàng tử hiên ngang
Đăm chiêu đời đen bạc
……………………….
Chiều hôm nay tôi lại bâng khuâng
Trở về hiện sinh Địa Trung Hải
Mùi cá biển bủa vây những khuôn mặt thuyền trưởng phiêu lãng
Và áo sương gió khoác lên mình bướm đêm
…………………………
Lòng Phi Châu nóng bỏng
Bến Hồng Hải biển xanh
Aden, đen trong nắng xế
Suez, mấy thuở ê chề!
……………………...
 
Tôi nương theo hướng mặt trời mọc
Về thăm Hương Cảng một chiều xưa
……………………………………..
Tôi nhớ
Nhớ ơi là nhớ
Núi đồi mông lung
Núi đồi chập chùng
Ôm ấp lòng bến cảng
Như một lẵng hoa bẩy màu ân ái
………………………………………
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Tôi đã ghé bến Hương Cảng một lần lâu lắm rồi, những câu thơ trên đã gợi nhớ trong tôi hình ảnh Hương Cảng thật rõ ràng như mới ngày nào. Nếu ông không thăm biển nhiều lần và yêu biển, thì làm sao có những lời thơ say đắm như:
 
…………………………….
Tôi ghì ôm biển vào lòng
Quên cả huyền diệu đêm trăng
Quên cả vàng úa thủy triều âm
Chào tái ngộ Phi Châu kỳ bí!
……………………………..
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
…………………….
Tôi mở rộng vòng tay
Ghì ôm biển vào lòng
Ngủ ngon đi nhé biển tuyệt vời!
Ngủ say giữa lòng vũ trụ
Trăng sao vằng vặc mịt mùng trăng sao
………………………………………………
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời - Trần Hồng Châu)
 
Theo bà quả phụ Nguyễn Khắc Hoạch, nhà thơ đã viếng thăm nhiều nơi thời còn là sinh viên du học tại Pháp (Đại học Sorbonne, Paris, Đại học Nancy, Nancy) và các nơi mà ông bà đã từng sánh vai đi qua đã để lại trong ông biết bao kỷ niệm:
 
…………………………
Ta nhặt từng sợi rong biển
Tóc thề trong chất lỏng xanh
Ta nhặt từng sợi kỷ niệm
Bềnh bồng trong tiềm thức biển sâu
…………………………………….
(Xuân Và Biển Thiếu Quê Hương - Trần Hồng Châu)
 
Dưới mắt nhà thơ Trần Hồng Châu, biển và sóng là một, không thể tách rời ra được. Do vậy nhà thơ đã nói đến sóng rất nhiều cũng như biển với cát trắng luôn luôn gắn bó mặn mà. Phải chăng đó cũng là tâm sự tác giả, cho nên mới “Ngàn năm xin vẹn giữ lời thề”?
 
Từ muôn kiếp sóng vẫn dạt dào tâm sự
Từ muôn kiếp sóng vẫn bạc đầu nhấp nhô
Cánh hải âu chập chờn có phân vân
Vầng trăng xưa có gọi hải triều âm?
Biển vẫn đêm đêm hò hẹn mình cát trắng
Nước tràn trề vào lòng cát đê mê
Mặn mà tình đôi lứa
Ngàn năm xin vẹn giữ lời thề!
……………………………..
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời - Trần Hồng Châu)
 
Khi nhà thơ một mình cô đơn nhớ đến người yêu ở cách xa gần nửa vòng trái đất đã có ý tưởng thật ngộ nghĩnh, lãng mạng là làm một cuộc hải hành xuyên qua các đại dương như một nhà hàng hải để cùng người thương hưởng những phút yêu đương nồng cháy:
 
Anh vươn mình băng qua lớp lớp đại dương bạc đầu để cuối đường hải hành cánh tay mở rộng ôm quanh vòng lưng trái đất , dìu thân em màu bạch ngọc vào lòng nồng cháy yêu đương
……………………………
(Một Mình . Một Mình - Trần Hồng Châu)
 
Có ai như thi sĩ Trần Hồng Châu nhớ con tàu đến nỗi phải đi xe qua cảng Nhà Rồng ở Khánh Hội để nhìn những con tàu, để nhớ thương những đại dương và bờ bến mà ông đã trải qua những phút giây hạnh phúc như ở chốn thiên đường:
 
Mùa mưa về nước dâng trên kênh Khánh Hội
Xe dẫn tôi qua cảng Nhà Rồng
Để nhìn những con tàu trôi lênh đênh
Để nhớ thương mãi
Những đại dương và thiên đường ngọt lịm
……………………………………………
(Xe Đi Ngang Dọc Mấy Mùa - Trần Hồng Châu)
 
Thật đúng và cũng thật thi vị khi nhà thơ xem mình là con tầu lênh đênh nay đây mai đó “về những chân trờ lộng gió…” hay con tầu cũng chính là hình ảnh cuộc đời mình “nhấp nhô, nổi trôi theo định mệnh…”:
 
Tôi là con tầu lênh đênh sóng vỗ
Lắc lư say theo nhịp hải hành
Về những thương cảng buồm thuyền như bướm lượn
Về những chân trời lộng gió biển mù khơi
Hay con tầu là tôi ngoài biển đời nhấp nhô
Nổi trôi theo định mệnh sợi chỉ bàn tay
………………………………………..
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Cái định mệnh nghiệt ngã đã đưa nhà thơ phải bị tù đày ở chính quê hương mình, chẳng khác chi “thân tầu chết đứng trong vũng nước tù…”:
 
Đêm nay chợt tỉnh giấc
Thế giới nào đây?
Thân tầu chết đứng
Trong vũng nước tù
Xiềng xích
Cửa đóng kín!
Mệt lả
Mình lở lói
Rêu xanh
…………
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Sau khi đọc thơ Trần Hồng Châu, tôi mới biết thêm ông đã bị đày đọa bởi cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, “đỉnh cao trí tuệ của loài người” (?) sau năm 1975, mặc dầu tiểu sử ông trong Tuyển Tập không hề ghi lại thời kỳ này (không biết đây là vô tình hay cố ý của Viện Việt Học khi cho in Tuyển Tập năm 2004, sau khi nhà thơ đã qua đời?). Chính lúc này ông càng khát khao yêu biển, yêu Tự do và hối hận đã “về ngòi” hay về lại Việt Nam sau những năm giảng dạy tại Southern Illinois University, Hoa Kỳ từ 1970 đến 1974:
 
Biển là mây gió
Biển là Tự do không bờ bến
Ôi đau xót từ biển về ngòi
Ôi ta có tội gì kiếp trước
Để hôm nay đánh mất cả thiên đường!
………………………………………
Ta ghì ôm biển vào lòng
Biển người tình bé bỏng
Ôi đau xót từ biển về ngòi
Ôi đau xót những thiên đường lỡ hẹn!
………………………………………
(Ở Biển Về Ngòi - Trần Hồng Châu)
 
Làm sao không đau xót được khi nhà thơ đã từng giang hồ khắp bốn biển, biển là tượng trưng của Tự do, là thiên đường, nhưng lại đi vào cõi chết chỉ vì thuơng bố và yêu quê hương. Ông nghèo đến nỗi không có tiền mua cho bố mình một chén rượu nhạt khi bố còn sống, bây giờ thì bố đã ra người thiên cổ. Thế nhưng ông vẫn tự an ủi mình một cách mỉa mai chua xót “…hậu vận bố con mình chẳng ra gì!”:
 
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
(một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
…………………………………………..
Trông bố ăn
rất ngon lành
củ khoai lang buổi sáng
con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
………………………………….
(Bố Nằm Xuống - Trần Hồng Châu)
 
Tình yêu quê hương của ông không bao giờ phai nhạt, càng nhìn biển ông càng nhớ thương quê hương.
…………
Nơi xa đó
Diện đối diện nửa vòng xích đạo
Có phải quê hương ta?
Bãi trước Bãi sau
Ngôi nhà tranh xiêu vẹo
Em bé thiếu dinh dưỡng
Người mỏng như sợi chỉ bàn tay
       
Vẫn biển một khối liền
Vẫn một gầm trời chung
Vẫn một em mây hồng lãng đãng
Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
…………………
(Xuân Và Biển Thiếu Quê Hương - Trần Hồng Châu)
 
Dù ở đâu, biển vẫn là một, vẫn là biển quê hương, bởi vì biển chỉ là “nối dài muôn trùng sóng”. Lòng đất mẹ luôn luôn là “ngọn lửa tiếp sức” cho kẻ xa quê hương mỗi khi ông nghĩ đến:
 
Biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hò khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ…
…………………………………….
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Như khi nhớ đến biển Đông, làm sao quên được hàng vạn thuyền nhân đã bị chôn vùi dưới lòng biển sâu khi vượt biên bằng thuyền, ông đành khóc cho biển, cho vạn linh hồn oan khiên :
 
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển Đông!
……………………….
dưới sâu vẫn vô vàn cánh tay
dằn dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiếp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc?
……………………..
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Ông dùng những từ ngữ thật tài tình để cho ta có thể hình dung một con sóng lớn kinh khủng, khi dâng lên cao như đỉnh Hy Mã Lạp Sơn và khi đập xuống sâu đến chín tầng địa ngục A Tỳ so với chiếc thuyền nhỏ bé mong manh của những người vượt biên chẳng khác gì một hạt cát trong sa mạc hay một giọt nước trong đại dương. Có lẽ những người đã từng đi biển mới cảm nhận được hết hình ảnh so sánh này:
 
…………..
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A Tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
……………………………………….
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Có ai nghĩ đến người thiếu nữ sống sót ngồi một mình với biển đêm trên đảo san hô, với bao nỗi sợ hãi nhưng vẫn phấn đấu để sống? Ông cho rằng người thiếu nữ đó thật can đảm và đáng được ông dựng tượng giữa muôn trùng sóng. Nhà thơ cảm thấy chúng ta có bổn phận phải “nói lên niềm đau dân tộc” và cho thế giới thấy quê hương chúng ta vẫn ngạo nghễ dầu dưới sự cai trị của một chủ nghĩa tàn bạo và phi nhân:
 
………………………………
người thiếu nữ trên đảo san hô
ta sẽ dựng tượng em
giữa muôn trùng sóng
hãy nói lên niềm đau dân tộc
hãy vẽ lên dáng đứng quê hương!
…………………………………
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
 
Ông cầu mong sóng biển sẽ vỗ về và đưa oan hồn những người chết trên đường vượt biên, và cả những ván thuyền bị sóng đánh vỡ tan trôi giạt về cố hương:
 
Sóng hãy vỗ về
Mấy hồn người lạc lõng
Mấy ván thuyền đau buốt
Trôi giạt về bến xưa
……………………
(Xuân Và Biển Thiếu Quê Hương - Trần Hồng Châu)
 
Biển oan khiên, nhưng biển cũng tình tứ và thơ mộng. Em là biển và biển là em, anh với em như “hai cánh hoa thần thoại” bất diệt giữa lòng biển và giữa lòng người:
 
Em là biển trải rộng hiến dâng
Và cũng âm u mịt mùng với quá nhiều tuyến phòng ngự đa đoan
Biển là em, vui đấy rồi buồn đấy
Dịu dàng óng ả rồi phút chốc nổi cuồng phong
Sóng phập phòng như bé nhỏ trái tim em
Mắt em mộng mơ ngàn trùng biếc
Như chất biển lỏng đi về mù khơi
………………………………….
Đâu đây ánh thủy cung
Lung linh cành rong biển
Chúng ta vươn mình say
Hai cánh hoa thần thoại
Giữa lòng biển
Giữa lòng người mãi không già…
…………………………………….
(Buổi Chiều Đi Vào Lòng Biển - Trần Hồng Châu)
 
Màu xanh của biển là màu mắt em, hay màu xanh từ bầu trời cao phản chiếu vào mắt em?
 
Biển là mắt em xanh
Mắt em từ đỉnh trời cao xuống
Hay từ lòng biển dấy lên?
…………………………….
Làm sao có thể nhìn đáy mắt em
Trong võng mạc biển sâu màu trừu tượng
……………………………………………
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)
 
Nhưng rốt cuộc, trời và biển gom lại không đầy mắt em, có phải vì mắt em là cả vũ trụ trong đó?
………………………….
Tỉnh say anh lại thêm say
lênh đênh trời biển không đầy mắt em
………………………………………
(Sầu Đông Lá Úa - Trần Hồng Châu)
 
Chúng ta hãy nghe thi sĩ Trần Hồng Châu định nghĩa biển như thế nào?
 
Từ muôn kiếp sóng vẫn dạt dào tâm sự
Từ muôn kiếp sóng vẫn bạc đầu nhấp nhô
Biển là huynh đệ lòng người
Biển cũng có những bát ngát tư duy
Những ớn lạnh bắc cực và sôi nổi cuồng phong
Những vực thẳm tiềm thức
Những băng sơn và trầm thạch quanh co
Những lửng lơ hờn giận
Những lắng dịu ân cần
Như sớm chiều mưa nắng của tình yêu
Biển vươn lên mãi thủy triều dâng
Biển dâng cao nữa những sóng thần Hy Mã
Biển là hủy diệt và thể hiện triền miên
Biển nhập vũ hội trần gian
Nghiêng nghiêng chuyển mạch nước tràn gió mây
................................................................................
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)
 
Nói tóm lại, dưới cái nhìn thoải mái đầy lãng mạn nhưng thật sâu sắc của nhà thơ Trần Hồng Châu, không bị ràng buộc bởi những điều kiện nội tại hay ngoại tại, biển là tất cả: biển là tình huynh đệ, là bát ngát tư duy, là sôi nổi cuồng phong, biển là em vui đấy rồi buồn đấy, khi hờn giận khi ân cần v.v…, biển là sự hiện hữu vô cùng nhưng cũng thể hiện sự hủy diệt triền miên như nước và sóng vậy. Phải chăng đó là những cái làm cho nhà thơ yêu biển hơn cả những người đã một thời đi biển?
 
Tôi mở rộng vòng tay
Ghì ôm biển vào lòng
Ngủ ngon đi nhé biển tuyệt vời!
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)

 
CHÁNH MINH
Orange, CA 18-09-2009
Nguồn : http://phusaonline.free.fr/ButViet/TacGiaKhac/69_BientrongthoTHC.htm
 

Tuesday, April 25, 2017

TRÚC GIANG * CỤM TÌNH BÁO VC A.22 TRONG DINH ĐỘC LẬP

Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập

Trúc Giang
(Văn Hóa Vụ)image022 
Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập.
1-ĐỊNH NGHĨA:
Tình báo, gián điệp là người hoạt động bí mật của phe địch để dọ thám lấy tin tức về tình hình quân sự, chính trị, kinh tế hoặc tác động, phá hoại.
2- GIÁN ĐIỆP CỘNG SẢN TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Trong chiến tranh, ở miền Nam, ngoài những tên VC nằm vùng, còn có những điệp viên thuộc tình báo chiến lược như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thuý và Phạm Ngọc Thảo.
image023
2.1. VŨ NGỌC NHẠ

Vũ Ngọc Nhạ là nhân vật then chốt trong vụ án Cụm Tình Báo A.22 làm rung động chính quyền miền Nam năm 1969.
Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại tỉnh Thái Bình. Được kết nạp vào đảng CSVN năm 1947. Vũ Ngọc Nhạ còn nhiều cái tên khác nữa như Pière Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh), Vũ Đình Long (Hai Long) bí danh Lê Quang Kép, Thầy Bốn, “Ông Cố Vấn”.
2.1.1. Hoạt động
Năm 1955. Xuống tàu di cư vào Nam.
Vũ Ngọc Nhạ cùng 1 số điệp viên khác trà trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Nhạ cùng vợ và con gái xuống tàu Hải Quân Pháp cùng hàng triệu người Công giáo di cư vào Nam.
- Làm thư ký đánh máy ở Bộ Công Chánh. Chinh phục được cảm tình của Linh mục Hoàng Quỳnh và trở thành “Người giúp việc” của Giám mục Lê Hữu Từ.
Năm 1958- Tháng 12 năm 1958, Nhạ bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của Nguyễn Tư Thái, tự Thái Đen, bắt giữ và giam tại trại Tòa Khâm (Huế) để chờ điều tra xác minh. Linh mục Hoàng Quỳnh can thiệp cho nên Nhạ không bị buộc tội.
2.1.2 .Người Giúp Việc của Đức Cha Lê Hữu Từ
Một khuyết điểm lớn của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung là giam giữ những nghi can gián điệp chung với nhau tại trại Tòa Khâm. Chính ở đó, Vũ Ngọc Nhạ đã móc nối với các “cơ sở” (những cá nhân) tình báo khác, đặc biệt là trùm tình báo VC Mười Hương.
Tạo dựng niềm tin đối với Ngô Đình Cẩn.
Năm 1959- Vũ Ngọc Nhạ làm tờ trình “Bốn Nguy Cơ Đe Doạ Chế Độ” được sự chú ý của Ngô Đình Cẩn và sau đó, của ông Nhu, ông Diệm. Do sự dự đoán chính xác về cuộc đảo chánh 11-11-1960 của tướng Nguyễn Chánh Thi, anh em ông Diệm đã chú ý đến Vũ Ngọc Nhạ.
Nhờ danh nghĩa “Người Giúp Việc” của Đức Cha Lê Hữu Từ mà Nhạ được xử dụng như là Người Liên Lạc giữa anh em Họ Ngô và giới Công Giáo di cư. Nhờ đó, Nhạ thu thập được nhiều tin tức tình báo có giá trị. Từ đó, Nhạ có biệt danh là “Ông Cố Vấn”.
2.1.3. Xây dựng Cụm Tình Báo Chiến Lược A.22
Sau đảo chánh 1-11-1963, thế lực Công giáo phát triển mạnh dưới tay của Linh mục Hoàng Quỳnh.
Cuối năm 1965, sự tranh giành quyền lực trong “nhóm tướng trẻ”, do sự giới thiệu của LM Hoàng Quỳnh, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã xử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc giữa tướng Thiệu và Khối Công giáo. Nhạ đã khéo léo lợi dụng vai trò đó để tạo ảnh hưởng đến các chính trị gia dân sự và quân sự.
Năm 1967- Sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống, cấp trên nhận thấy cần thiết phải mở rộng mạng lưới tình báo, thành lập Cụm A.22. (A.22 là mật danh của Vũ Ngọc Nhạ) Cụm do Nguyễn Văn Lê làm cụm trưởng, Nhạ làm Cụm Phó trực tiếp phụ trách mạng lưới. Toàn bộ Cụm A.22 được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Đức Trí, chỉ huy phó Tình Báo Quân Sự ở miền Nam.
Bắt đầu, Cụm A.22 “phát triển” thêm Nguyễn Xuân Hoè, Vũ Hữu Ruật đều là những điệp viên mà Nhạ đã bắt liên lạc trong khi bị giam chung tại Tòa Khâm. Sau đó, thu nhận thêm Nguyễn Xuân Đồng và quan trọng nhất là vào đầu năm 1967, bổ sung thêm Lê Hữu Thuý (hay Thắng) mật danh là A.25.
Các điệp viên nầy được giao nhiệm vụ “Chui sâu, leo cao” nắm lấy những chức vụ quan trọng để thu thập thông tin và để tác động vào chính quyền.
Thành công của Cụm A.22 là cài được 1 điệp viên dưới quyền của Lê Hữu Thuý là Huỳnh Văn Trọng làm “Cố Vấn” cho tổng thống Thiệu.
Chính Huỳnh Văn Trọng đã cầm đầu một phái đoàn VNCH sang HK, tiếp xúc, gặp gỡ hàng loạt các tổ chức, các cá nhân trong chính phủ và chính giới HK, để thăm dò thái độ của chính phủ Johnson đối với cuộc chiến ở VN. Huỳnh Văn Trọng thu thập được nhiều tin tức tình báo chiếnlược.
image024 
 2.1.4. Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 điệp báo
CIA nhanh chóng phát hiện điều bất thường là sự tập hợp của các cá nhân là những bị can đã bị bắt giam ở Tòa Khâm.
Giữa năm 1968- Hồ sơ các cựu tù nhân ở Tòa Khâm được mở lại. Do tính phức tạp trong ngành điệp báo, CIA phải mất 1 năm mới hoàn tất hồ sơ và chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát QG VNCH.
Vào trung tuần tháng 7 năm 1969, một đơn vị đặc biệt có mật danh là S2/B được thành lập để tiến hành bắt giữ hầu hết những người của Cụm A.22.
Toàn bộ điệp viên Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Nguyễn Xuân Đồng, Huỳnh Văn Trọng, và hầu hết những gián điệp khác, kể cả giao liên là bà Cả Nhiễm cũng bị bắt.
Riêng cụm trưởng Nguyễn Văn Lê kịp thời trốn thoát.
Cụm tình báo A.22 bị phá vở hoàn toàn.
Chính quyền Saigon rung động vì 42 gián điệp từ cơ quan đầu nảo là Phủ tổng thống cho đến các cơ quan khác, nhất là 1 “Cố vấn” của tổng thống đã bị bắt.
2.1.5. Biến vụ án gián điệp thành vụ án chính trị
Đây là vụ án gián điệp lớn nhất lịch sử. Các bị can đều khai, nhất cử nhất động của họ đều là thi hành chỉ thị, là do sự uỷ thác, do lịnh của tổng thống, của các tổng trưởng, nghị sĩ, dân biểu và cả CIA nữa.
Tòa án Quân Sự Mặt Trận Lưu Động Vùng 3 CT bối rối vì không có thể gởi trác đòi những nhân chứng như tổng thống ra hầu tòa để đối chất.
Do không có đủ yếu tố để buộc tội tử hình, cho nên tòa tuyên án:
- Chung thân khổ sai: Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hoè.
- Án từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai cho những bị can còn lại.
Khi quân cảnh dẫn các tù nhân ra xe bít bùng, thì Vũ Ngọc Nhạ quay sang nhóm ký giả ngoại quốc và thân nhân, nói lớn “Tôi gởi lời thăm ông Thiệu”.
2.1.6. Cho rằng CIA dàn cảnh
Một bất ngờ của vụ án là TT Thiệu không tin đó là sự thật mà cho là CIA đã dàn cảnh. Do đó, thời gian Vũ Ngọc Nhạ bị đày ở Côn Đảo thì TT Thiệu đã triệu hồi viên tỉnh trưởng Côn Sơn về Saigon và thay thế vào đó một người thân tín của mình để có điều kiện chăm sóc cho Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng như là những thượng khách. Vì thế, Vũ Ngọc Nhạ đã đánh giá:”Đó là một cuộc dạo chơi trên Thiên Đàng”.
2.1.7. Tiếp tục hoạt động
Đầu năm 1973- Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về khám Chí Hòa, Saigon. Trong thời gian ở Chí Hòa, nhờ sự giúp đở của LM Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ móc nối, bắt bắt liên lạc với nhóm “Thành Phần Thứ 3″ của Dương Văn Minh.
Ngày 23-7-1973- Chính quyền VNCH trao trả Vũ Ngọc Nhạ cho Mặt Trận DTGP/MNVN với danh xưng là “Linh mục Giải Phóng”.
Năm 1974- Vũ Ngọc Nhạ được CSBV phong Trung tá QĐNDVN. Tháng 4, 1974, Vũ Ngọc Nhạ trở về Củ Chi, hoạt động bí mật mục đích xây dựng lại Cụm Tình báo chiến lược, móc nối với Thành phần thứ 3 và khối Công giáo .
image025
Ngày 30-4-1975- Vũ Ngọc Nhạ có mặt tại Dinh Độc Lập bên cạnh tướng Dương Văn Minh.
2.1.8. Bị thất sủng và được tôn vinh
Ngày 30-4-1975 thân phận của Vũ Ngọc Nhạ vẫn chưa được xác nhận.
Năm 1976- Vũ Ngọc Nhạ được điều về Cục 2 Bộ Quốc Phòng với quân hàm Thượng tá.
Năm 1981- Được thăng Đại tá nhưng vẫn còn ngồi chơi xơi nước. Hàng ngày đọc các tin tức báo cáo, tổng hợp lại rồi trình lên thượng cấp, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh.
Năm 1987- Tác giả Hữu Mai xuất bản cuốn tiểu thuyết “Ông Cố Vấn, Hồ Sơ Một Điệp Viên” ca ngợi thành tích tình báo của Vũ Ngọc Nhạ. Công chúng đã biết đến và Nhạ được phong Thiếu Tướng.
Vũ Ngọc Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Saigon, 75 tuổi. Phần mộ của Nhạ nằm chung với các phần mộ của các điệp viên khác như Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức và Phạm Ngọc Thảo.
image026
2.2. PHẠM XUÂN ẨN

* Thân thế Và Hoạt động
Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, là một thiếu tướng tình báo của QĐNDVN.
Từng là nhà báo. Phóng viên cho Reuters, tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor.
Theo học trường Collège de Can Tho.
Năm 1948- Tham gia Thanh Niên Tiền Phong và sau đó, làm thơ ký cho hãng dầu lửa Caltex.
Năm 1950- Làm nhân viên Sở Quan Thuế Saigon để thi hành nhiệm vụ là tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự từ Pháp sang VN. Đây là lần đầu tiên làm nhiệm vụ tình báo cùng với 14 ngàn gián điệp được cài cắm vào hoạt động.
Năm 1952- Phạm Xuân Ẩn ra Chiến Khu D và đã được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ủu viên Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ giao cho nhiệm vụ làm tình báo chiến lược.
Năm 1953- Phạm Xuân Ẩn được Lê Đức Thọ kết nạp vào đảng tại rừng U Minh, Cà Mau.
Năm 1954- Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay vào làm thư ký Phòng Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Pháp tại Camps Aux Mares (Thành Ô Ma) Tại đây, Ẩn được quen biết với Đại tá Edward Landsdale, trưởng phái bộ đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế, Landsdale là người chỉ huy CIA tại Đông Dương. cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) tại Saigon.
image027
Năm 1955- Theo đề nghị của Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự Mỹ, Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo tài liệu tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Tham gia thành lập cái khung của 6 sư đoàn đầu tiên của QLVNCH, mà nồng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp trước đó.
Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo, trong số đó có Nguyễn Văn Thiệu, sau nầy trở thành tổng thống VNCH.
Năm 1957- Tháng 10 năm 1957, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương) chỉ đạo cho Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ du học ngành báo chí để có cơ hội đi khắp nơi, tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất.
Năm 1959- Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, Ẩn được bác sĩ Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Và Văn Hóa Xã Hội (Thực chất là cơ quan mật vụ của Phủ tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt Tấn Xã, phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc ở đó.
Năm 1960- Từ năm 1960 đến giữa 1964, Phạm Xuân Ẩn làm việc cho hảng thông tấn Reuters. Từ 65 đến 67, Ẩn là người Việt duy nhất và chính thức làm việc cho tuần báo Time. Ngoài ra, còn cộng tác với báo The Christian Science Monitor…
Từ 1959 đến 1975- Với cái vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, với các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và với cả CIA , Ẩn đã thu thập được nhiều tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và các cơ quan tình báo.
Những tin tức tình báo chiến lược của Ẩn đã được gởi ra Hà Nội thông qua Trung Ương Cục Miền Nam. Tài liệu sống động và tĩ mỉ khiến cho Võ Nguyên Giáp đã reo lên “Chúng ta đang ở trong Phòng Hành Quân của Hoa Kỳ”.
Tổng cộng, Ẩn đã gởi về Hà Nội 498 tài liệu gốc được sao chụp.
Giai Đoạn 1973-1975- Hàng trăm bản văn nguyên bản đã phục vụ “Hạ Quyết Tâm Giải Phóng Miền Nam ” của đảng CSVN.
Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA .
Ngày 30-4-1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến cảnh xe tăng của VC húc đỗ cổng Dinh Độc Lâp. Từ đó cho đến vài tháng sau, các phóng viên, đồng bào và cả chính quyền mới cũng chưa biết Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên Cộng sản.
Vợ con của Phạm Xuân Ẩn đã di tản sang Hoa Kỳ. Ẩn cũng được lịnh của cấp trên sang HK để tiếp tục hoạt động tình báo. Nhưng Ẩn đã xin ngưng công tác vì đã hoàn thành nhiệm vụ.
Do kế hoạch thay đổi, cho nên mãi 1 năm sau, vợ con của Ẩn mới có thể quay về VN bằng đường vòng Paris, Moskva, Hà Nội, Saigon.
* Sau chiến tranh
image028
Ngày 15-1-1976, trung tá “Trần Văn Trung”, tức Phạm Xuân Ẩn, được phong tặng “Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang”.
Tháng 8 năm 1978, Ẩn ra Hà Nội dự khóa học tập chính trị 10 tháng vì Ẩn “sống quá lâu trong lòng địch”.
Theo Larry Berman thì Ẩn bị nghi kỵ và bị quản chế tại gia. Cấm liên lạc với báo chí ngoại quốc và cấm xuất cảnh, do cách suy nghĩ của Ẩn quá “Mỹ” và do Ẩn đã giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi VN ngày 30-4-1975 .
Năm 1986- Trong 10 năm, luôn luôn có 1 công an làm nhiệm vụ canh gác trước nhà của Phạm Xuân Ẩn.
Năm 1990- Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng thiếu tướng.
Năm 1997- Chánh phủ VNCS từ chối không cho Ẩn đi Hoa Kỳ để dự hội nghị tại New York mà Ẩn được mời với tư cách là khách mời đặc biệt.
Năm 2002- Phạm Xuân Ẩn về nghỉ hưu.
Con trai lớn của Ẩn là Phạm Xuân Hoàng Ân, đã du học Mỹ, hiện đang làm việc tại Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội. Con gái của Ẩn hiện đang sống ở Hoa Kỳ.
* Thất Vọng
Trong những năm cuối đời, Phạm Xuân Ẩn cảm thấy rất thất vọng vì dân chúng không được viết tự do. Ẩn trối trăn trước khi chết là, “đừng chôn ông gần những người Cộng Sản”.
* Nhận định về Phạm Xuân Ẩn.
Lê Duẩn: Đã biểu dương Phạm Xuân Ẩn coi đó là 1 chiến công có tầm cỡ quốc tế.
Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn CIA , tác giả cuốn sách Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) nói:”Phạm Xuân Ẩn đã có được nguồn tin tình báo chiến lược, điều đó rõ ràng, nhựng chưa ai “Dẫn con mèo đi ngược” để thực hiện 1 cuộc xét nghiệm pháp y về các tác hại mà ông đã gây ra, Cơ quan CIA không có gan để làm việc đó.” Hết trích.
Murrray Gart, thông tín viên trưởng của báo Time nói “Thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó“.
2.3. PHẠM NGỌC THẢO
image029 

2.3.1. Thân thế
Phạm Ngọc Thảo sanh ngày 14-2-1922 tại Sàigon. Cha ông là Phạm Ngọc Thuần, một địa chủ lớn, có quốc tịch Pháp, người Công giáo. Còn có tên là Albert Thảo hoặc 9 Thảo, vì Thảo là con thứ 8 trong gia đình.
Sau khi đậu tú tài, Thảo ra Hà Nội học và tốt nghiệp kỹ sư công chánh.
Thảo tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp và tham gia kháng chiến.
2.3.2. Hoạt động VC
Sau khi tốt nghiệp trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn, Thảo về nhận nhiệm vụ giao liên ở Phú Yên. Một lần, Thảo đưa 1 cán bộ về Nam Bộ. Đó Là Lê Duẩn, người đã có ảnh hưởng lớn về hoạt động tình báo của Thảo sau nầy.
Được bổ làm Tiểu đoàn trưởng TĐ 410, quân khu 9. (Có tài liệu nói là TĐ 404 hoặc 307). Trong thời gian nầy, Thảo hướng dẫn chiến tranh du kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, những người sau nầy trở thành tướng lãnh của QLVNCH.
Vợ là Phạm Thị Nhậm, em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên đại sứ tại Tiệp Khắc.
2.3.3. Hoạt động tình báo
Sau Hiệp Định Genève, Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo không được tập kết ra Bắc phải ở lại để hình thành Lực lượng thứ 3.
Từ đó, Thảo dạy học ở một số tư thục Saigon.
Phạm Ngọc Thảo đã bị Đại tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Sau cùng, Thảo về Vĩnh Long làm nghề dạy học. Tỉnh nầy thuộc địa phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn đã quen biết với gia đình Thảo từ trước. Ngô Đình Thục coi Phạm Ngọc Thảo như con nuôi và bảo lãnh cho vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1956- Phạm Ngọc Thảo được phép đưa vợ con về Saigon và vào làm việc ở Ngân Hàng QG. Rồi được chuyển ngạch sang quân đội với cấp bậc Đại uý “Đồng Hóa”.
Năm 1956- Do sự giới thiệu của Huỳnh Văn Lang, Tổng Giám đốc Viện Hối Đoái, Bí thư Liên Kỳ Bộ của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa Nhân Vị ở Vĩnh Long. Và Thảo đã gia nhập đảng Cần Lao.
image030 
2.3.4. Hoạt động trong Quân Lực VNCH
- Chức vụ Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long.
- Tuyên Huấn đảng Cần Lao Nhân Vị.
Thảo biết cách khai thác nghề viết báo của mình và về Binh pháp Tôn Tử. Chỉ trong vòng một năm, Thảo đã viết 20 bài báo nói về chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo. Những bài báo được giới quân sự chú ý và cả TT Diệm và Ngô Đình Nhu.
Năm 1957- Phạm Ngọc Thảo được chuyển về Phòng Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng thống với cấp bậc thiếu tá. Sau đó, giữ chức Tỉnh Đoàn trưởng Bảo An Bình Dương.
Năm 1960- Phạm Ngọc Thảo tham dự khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Đà Lạt. Giữ chức vụ Thanh Tra Khu Trù Mật.
Năm 1961- Phạm Ngọc Thảo được thăng trung tá, giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hòa để trắc nghiệm chương trình bình định. Thời gian nầy, Kiến Hòa (Bến Tre) trở nên ổn định không còn phục kích hay phá hoại nữa.
Tuy nhiên có nhiều tố cáo Thảo là Cộng sản nằm vùng. Thảo bị ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Hoa Kỳ.
Lý do là, Thảo đã thả hơn 2000 tù nhân đã bị giam giữ và liên lạc với bà Nguyễn Thị Định.
2.3.5. Tham gia các cuộc đảo chánh
* Đảo chánh lần thứ nhất, 1963
Tháng 9 năm 1963, bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị (Thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu 1 cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm.
Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân Đoàn 3, Quân Đoàn 4, Biệt Động Quân, Bảo An sẵn sàng tham gia. Nhưng âm mưu bị nghi ngờ. Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm Tổng Lãnh Sự ở Ai Cập.
Sau ngày đảo chánh 1-11-1963 , Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đỗ. Phạm Ngọc Thảo thăng chức Đại tá làm Tuỳ Viên báo chí trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Một thời gian sau, được cử làm Tuỳ viên Văn hóa tại Tòa đại sứ VNCH ở Hoa Kỳ.
* Đảo chánh lần thứ hai năm 1965
Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì Nguyễn Khánh muốn bắt Thảo. Vì thế, khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất, Thảo đào nhiệm, bỏ trốn và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập để tổ chức đảo chánh.
Đảo chánh với lý do rất quan trọng mà Thảo nắm được là Nguyễn Khánh và Hoa Kỳ thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào ngày 20-2-1965 . Vì vậy phải đảo chánh lật Nguyễn Khánh vào ngày 19-2-1965 .
Ngày 19-2-1965: Phạm Ngọc Thảo và Tướng Lâm Văn Phát đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Saigon, bến Bạch Đằng và phi trường Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.
Ngày 20-2-1965: Hội Đồng các tướng lãnh họp tại Biên Hòa các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống lại đảo chánh. Nguyễn Chánh Thi ra lịnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.
Ngày 21-2-1965:Các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH.
Ngày 22-2-1965: Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lịnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động. (Một hình thức trục xuất ra khỏi nước)
Ngày 25-2-1965: Nguyễn Khánh rời Việt Nam. Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.
2.3.6. Bị bắt và qua đời
Ngày 11-6-1965: Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Quân đội.
Ngày 14-6-1965: Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.
Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật. Thảo cho xuất bản tờ báo Việt Tiến mỗi ngày phát hành 50,000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước chống Mỹ và Thiệu.
Phạm Ngọc Thảo có 1 hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các Xứ Đạo Biên Hòa, Hố Nai, Thủ Đức, Saigon. Có nhiều linh mục giúp đở in ấn và phát hành. Chính quyền Thiệu-Kỳ kết án tử hình và treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được Thảo.
Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) kể lại“Tôi thấy Thảo gặp khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu, nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chánh để ngăn chận việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam”. (Võ Văn Kiệt)
Lâm Văn Phát ra trình diện và chỉ bị cách chức.
Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng bị bắt tại Đan Viện Phước Lý, xã Vĩnh Thanh, quận Nhơn Trạch, Biên Hòa.
Lúc 3 giờ sáng ngày 16-7-1965, Thảo vừa ra khỏi Đan Viện Phước Lý thì bị An ninh Quân Đội phục kích bắt và đưa về 1 con suối nhỏ gần Biên Hòa để thủ tiêu. Tuy nhiên, Thảo không chết, chỉ bị ngất xĩu vì đạn trúng vào càm. Khi tĩnh dậy, Thảo lê lết về một nhà thờ và được Linh mục Cường, Cha Tuyên Uý của Dòng Nữ Tu Đa Minh cứu chữa.
Và Thảo bị phát giác, bị đưa về Cục An Ninh QĐ đường Nguyễn Bĩnh Khiêm. Thảo bị tra tấn cho đến chết vào đêm 17-7-1965. 43 tuổi.
Theo Larry Berman trong cuốnÓi>”Perfect Spy” thì TT Thiệu ra lịnh tra tấn và hành hạ Thảo cho thật đau đớn bằng cách dùng 1 cái thòng lọng bằng da, buộc quanh cổ và 1 cái khác thì siết mạnh nơi tinh hoàn. Cũng có tin nói rằng Đại uý Hùng Sùi bóp dái Thảo cho đến chết.
Phạm Ngọc Thảo có 7 con và vợ Thảo đi dạy hoc. Tất cả hiện đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Có người con là bác sĩ ở Quận Cam, Cali.
Phạm Ngọc Thảo là 1 điệp viên đơn tuyến. Không có thượng cấp và thuộc cấp. Không thu thập tin tức mà chỉ tác động vào chính quyền.
Nhà nước CSVN truy tặng Thảo danh hiệu Liệt sĩ và quân hàm Đại tá QĐNDVN.
Cũng có nguồn tin cho rằng Phạm Ngọc Thảo là 1 gián điệp nhị trùng, nghĩa là làm việc cho CIA nữa.
 Trúc Giang
Minnesota ngày 20-10-2011
image031 image032
image033 image034
image035 image036
image037 image038
About these ads
Điệp Viên Cộng Sản Nằm Vùng
VIỆT BÁO 09/11/2014
Đỗ Xuân Tê

Với bút hiệu Xuân Đỗ và bài "Hắn và cuốn Nhật Ký Đặng Thuỳ Trâm..." tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2008. Ông định cư tại Mỹ theo diện H.O. và hiện là cư dân Riverside, nam California. Bài mới của tác giả là chuyện kể liên quan tới vụ án Huỳnh Văn Trọng, một điệp viên cộng sản nằm vùng leo tới chức Phụ Tá của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Theo ghi chú của tác giả, đây là chuyện có thật, người kể chỉ thay đổi tên nhân vật.
* * *

Ông Trịnh và ông Tâm thân nhau từ hồi di cư vào Nam. Họ quen nhau thế nào người ta không rõ, nhưng hai gia đình đều cùng về ngụ cư tại thành phố Đà lạt, nơi ông Trịnh làm nhân viên cho Sở Địa dư của Pháp còn ông bạn trồng rau bỏ mối cho các tiệm ăn vùng Chi Lăng. Gia cảnh hai ông tạm đủ ăn, con cái học chung trường mấy đứa đều giỏi. Hai bà vợ tần tảo cũng hạp tính nhau, cuối tuần cho tụi nhỏ ăn chung, cho hai ông chồng bữa nhậu thịnh soạn sau khi họ cùng đánh mấy ván cờ tướng mà ông Trịnh thường trên cơ người bạn.

Ít năm sau, ông Trịnh bị thôi việc vì Pháp họ rút về nước, cơ quan ông giải thể, các con đã lớn, gia đình dọn xuống Sài gòn. Ông Tâm ở lại vẫn trồng rau nhưng cơ ngơi có khá hơn vì mua được miếng đất hoang mấy năm sau đã lên giá. Họ vẫn giữ liên lạc. Ông Trịnh ít trở lại thành phố sương mù, nhưng ông Tâm có dịp hay về Sài gòn, lần nào cũng ghé nhà bạn mình ở chơi mấy bữa.

Tôi cũng dân di cư, nhà nghèo nên ở cùng hẻm với con ông Trịnh. Cùng lứa tuổi nên học chung trường, tôi và anh em thằng San đều dân Chu văn An. Thằng anh giỏi toán thi nhảy tú tài còn đậu hạng cao, sau vào quân y học ngành bác sĩ, thằng em kém tôi hai tuổi rất giỏi hai môn lý hóa sau vào Sư phạm 4 năm đưa đẩy thế nào về trường dạy lại. Còn tôi chẳng giỏi môn gì, lại thích văn chương, cuối cùng đi lính được kéo về làm ngành viết lách.

Ông Trịnh có cô con gái vai trưởng nữ, anh con rể là một sĩ quan tác chiến ngành TQLC, đánh giặc quanh năm nhưng mỗi khi dừng quân hay về hậu cứ anh lại sáng tác, bài hay đăng trên mấy báo văn học ở Sài gòn, có một tác phẩm được in nhiều người biết tiếng và coi anh như một nhà văn quân đội.

Ông Trịnh rất quý các bạn con ông, nhờ bà vợ kế (bà lớn đã mất vì trọng bệnh) có sạp thịt heo ở chợ gần nhà nên anh em chúng tôi cứ ra nhà là có cơm ăn, học khuya ngủ lại không sao. Tôi chú ý có một ông người Bắc hay từ Đà lạt xuống, đám nhỏ hay kêu Bác Tâm. Lúc đầu tưởng là họ hàng sau biết họ là bạn của nhau. Ông khách hay ngủ lại trên gác sép, uống cà phê chơi vài ván cờ rồì lại xin phép chủ nhà đi có việc. Người chở ông thường là một tay xe ôm, đi đâu cứ đến khuya mới về. Có điều lần nào từ Đà lạt về cũng có một bao tải rau quả, trùng dịp tết có cả cành đào, nhưng bảo ăn cùng nhau bữa tối thì lại hay khước từ. Ông Trịnh cũng nể bạn chẳng hề thăc mắc cũng chẳng nghi ngờ hay bạn mình có đi mây về gió gì chăng, chỉ biết nếu ai để ý tay chở Honda lần nào cũng cùng khuôn mặt và hình như họ có biết nhau.

Lúc này chiến tranh đã đến hồi cao điểm, Việt Cộng khống chế các con lộ dẫn từ cao nguyên về Sài gòn. Đường Đà lạt ngang Định quán hay bị giật mìn, việc đi lại bằng xe đò hên xui may rủi. Ông Tâm vẫn ghé thăm người bạn già, có điều lạ là sau Tết Mậu Thân đi lại có vẻ thường xuyên hơn, ông đi máy bay của Air Vietnam, hình như ông có kết hợp mua ít hàng tạp hóa vì lúc này rau quả ế ẩm. Ông vẫn đi Honda ôm, chiều đi khuya về, có sẵn chỗ nằm cho ông trên gác sép như mọi lần. Ông Trịnh thấy bạn hơi khác trước, ít nói chuyện tay đôi dù thời gian ghé thăm có khi tới mấy ngày, đặc biệt ít đả động chuyện chính trị, hình như hạp nhau chuyện đánh cờ nhưng quan điểm chính trị dù cùng Bắc kỳ di cư nhưng ông bạn tỏ ra ghét Mỹ nhiều hơn là cộng sản.

Bẵng đi cả nửa năm không thấy ông Tâm ghé nhà, ông Trịnh tưởng bạn chắc đau ốm nên biên thư thăm hỏi. Không thấy hồi âm hai bên liên lạc tạm gián đọan. Sài gòn lúc này đang bàn tán vụ báo đăng liên quan đến ổ tình báo lớn của cộng sản nằm trong Phủ Đầu Rồng, ông Trịnh vốn hay quan tâm chuyện chính trị nên theo dõi rất sát. Mỗi lần tôi ra nhà là thế nào ông cũng bảo tôi ngồi riêng hai bác cháu trao đổi vụ Huỳnh Văn Trọng, viên cố vấn của ông Thiệu là người của phía bên kia. Biết tôi làm ở cơ quan trung ương được đọc nhiều tin tức mật, bố thằng San khai thác triệt để, hay làm vài món nhậu dã chiến hai bác cháu ngồi uống chung. Các con ông ông chỉ cho đánh cờ tay đôi, ít khi ngồi uống chung, lúc này cao thủ cờ tướng đã xuống tay nhiều ván chịu thua em thằng San.

Một hôm khoảng giữa năm 69, vừa đi làm về, thằng San gọi điện thoại bảo tôi ra nhà gấp. Vào nhà cảnh nhà như đưa đám. Tưởng ông cụ mất hóa ra ông mới bị cảnh sát khám xét nhà và bắt đi từ tối qua. Tội gì không thấy nói, giam ở đâu không biết, hỏi gạn ông tổ trưởng thì hình như nhà ông Trịnh có chứa...cộng sản nằm vùng. Việc của tôi lúc này là xem ông bị đưa đi đâu đề còn thăm nuôi và hỏi ra sự tình. Ông cụ lại cao máu không có thuốc men cũng dễ đột tử.

Tôi có quen mấy bạn làm bên an ninh, trong số này có anh bạn nhà văn Thảo Trường, nhờ anh tìm dùm manh mối. Ông Trịnh bị đưa về cảnh sát đặc biệt của Tổng nha đường Nguyễn Trãi, không cho thăm gặp vì còn trong vòng điều tra liên quan đến một vụ gián điệp lớn. Bó tay.

Nhưng mười ngày sau họ cho thăm và bảo người nhà tiếp tế thuốc cao máu. Thằng San lúc này là sinh viên năm cuối của quân y được nhà cử đi thăm. Mặc đồ sĩ quan, mấy tay cảnh sát có sự thông cảm dù không khí có căng thẳng. Thằng con không nhận ra bố, ông cụ chắc bị ăn đòn trông như cái mền rách. Quả thật ông Trịnh than bị hỏi cung tra tấn đau quá, dặn con về gặp cậu Tê (tên nhà hay gọi tôi) kiếm chỗ chạy để họ đừng đánh, chứ không chắc bố chết mất. Thằng San sót ruột thấy bố mình có tội gì đâu lại bị tai bay vạ gió, ông cụ buột miệng cũng tại...bác Tâm.

Tại ai cứ để đó, lúc này phải lo cứu ông. Cả nhà thì bối rối nhưng tôi tin tôi làm được. Biết người phụ trách mảng điều tra này là trung tá Nguyễn Mâu, vừa là phụ tá về cảnh sát đặc biệt của tổng nha, ông được quân đội phái sang, rất có uy tín và trở thành hung thần của các mạng lưới nằm vùng của cộng sản. Vụ Huỳnh văn Trọng đổ bể ông được Tông tông giao cho chấp pháp, không ai có quyền xin sỏ can thiệp vì ông này rất sạch. Cũng cần nói không có con mắt tinh tường của Nguyễn Mâu, nhạc sĩ phản chiến TCS đã vào hộp từ lâu và số phận sẽ phải chờ đến tháng tư đen.

Tôi gặp ngay xếp lớn của tôi nguyên là giám đốc cảnh sát đô thành thời tướng Loan, kể lể sự tình và xin ông gọi phôn giới thiệu cho gặp Nguyễn Mâu, chủ yếu là xin nhân viên của ông đừng...đánh bố thằng San, không xin gì thêm. May mắn là ông cho chúng tôi gặp. Ba thằng tôi, một là con đẻ, một con rể, một là bạn của gia đình. Tôi mở lời và đi thẳng vào vấn đề, được ông hứa sẽ chỉ thỉ cho nhân viên chấm dứt việc đánh đập và yêu cầu ba đứa tôi làm đơn bảo lãnh sinh mạng chính trị cho ông Trịnh. Từ đây tôi có thiện cảm với NM dù không ưa cái lối tra tấn kiểu cộng sản của nhân viên dưới quyền.

Lần thăm gặp sau, ông Trịnh cho biết đã được chuyển phòng, không bị đánh, tự viết lời khai và chờ ngày ra tòa, xét cho cùng tội tình gì chưa rõ, ông Trịnh vẫn chỉ là con tép riu. Họa vô đơn chí ít tháng sau con rể của ông trong một cuộc hành quân trực thăng vận tại rừng dừa Bến Tre, anh đã anh dũng hi sinh được quân đội truy tặng cấp tá và gắn bảo quốc huân chương trên quan tài.

Con cá lớn là bác Tâm đã vào rọ, không ngờ ông lại là móc xích quan trọng trong đường dây tình báo chiến lược của cộng sản gài vào nam từ hồi 54. Ông hay về Sài gòn là để họp và nhận chỉ thị. Ông chọn chỗ ông Trịnh vừa thân vừa an ninh, cảnh sát ít nhòm ngó vì dân nhà binh chúng tôi hay lui tới. Ông bị bắt vì vụ Huỳnh Văn Trọng (điệp viên cộng sản gài lại, leo cao tới chức phụ tá Tổng Thống Thiệu). Kẻ tố cáo lại là người hay đến nhà ông Trịnh đón ông đi bằng xe ôm mỗi khi ông về Sài gòn. Vậy là mối quan hệ giữa ông Tâm với ông Trịnh đổ bể.

Ông Trịnh thì tình ngay lý gian, cảnh sát cho ông là ngoan cố, chứa bạn cả chục năm mà cứ khai không biết hành tung, khổ nỗi là ông không biết thật cho nên càng quanh co càng dễ lãnh đòn đau. Thêm một chi tiết về lý lịch bản thân ông không nói cho các con là bác của thằng San tức anh trai ông Trịnh đã thoát ly theo kháng chiến từ thời đầu, về sau làm tới thứ trưởng bộ trưởng giáo dục của miền Bắc (ai quê Hải Dương đều biết ông này),. Cảnh sát dò tìm được mối liên hệ này và càng tin ông Trịnh là cảm tình viên của ông Tâm hoặc chính ông cũng là một tay trong.

Hôm tòa xử, mấy con ông và tôi có dự. Ông bị kêu án nhẹ nhất 5 năm, bác Tâm 18 năm. Trừ thời gian tạm giam ông thọ án thêm hai năm nữa. Ông được đưa về Chí Hòa, tiện cho việc thăm nuôi, số còn lại những người cộng sản thứ thiệt bị đưa ra Côn Đảo.

Từ ngày ông về nhà tôi ít liên lạc với gia đình, một phần thằng San đổi đi xa mãi Sư đòan 23 ở Ban Mê Thuột, anh con rể nhà văn thì đã biệt xa, chú em đã có gia đình ra ở riêng, bản thân ông thì bác cháu cũng khó nói chuyện, có cái gì vô hình làm ông và tôi ngăn cách.

Rồi tháng Tư 1975 ập đến, thằng San cùng vợ nhanh chân xuống tàu di tản, chú em kẹt lại nhưng vài năm sau cũng vượt biển sang Cali, tôi chậm chân uống nước đục đi tù không án ra mãi miền Bắc.

Nghe nhà tôi kể lại, gia đình ông Trịnh lại lên hương, bỗng dưng được kể là có công với cách mạng. Nhưng ông lúc này cũng già lại bệnh tật và hệ lụy hồi bị tra tấn nên chẳng tham gia gì ngoài chân tổ trưởng miễn cưỡng phải nhận, bà vợ vẫn bán thịt heo bọn cai thuế có sự nể vì. Chỉ ba cô con gái con bà sau lúc này đẹp như trăng rằm, nhờ lý lịch gia đình lần lượt ba chị em đều vào trường Y thành phố, nói cho ngay tụi nhỏ cũng có dòng xưa nay anh em nó đều học giỏi, khả năng chúng nó trội hơn nhiều so với bọn con ông cháu cha quyền chức đỏ.

Mười hai năm sau tôi từ nhà tù trở về thành phố, vật đổi sao dời người xưa cảnh cũ quay đi ngoái lại cũng chẳng còn ai. Bà vợ tôi nhắc tôi đi thăm ông Trịnh lúc này ông đang bị ung thư thời kỳ chót. Lần đầu gặp ông, ông rất vui vì chắc ông nhớ lại thời các con ông và tôi chơi chung học chung nay thì chúng đã nghìn trùng xa cách. Lần sau thì ông đã quá yếu, thăm hỏi xong bỗng ngoắc tôi lại gần, vừa ngó quanh xem không có ai, ông thều thào, anh nên tìm đường mà đi, sống với chúng nó không nổi đâu. Tôi gật đầu ra dấu tôi hiểu. Cảm xúc ngay lúc đó tôi nhận biết ông còn quí tôi và điều làm tôi nhẹ mình là ông vẫn không phải là người của phía bên kia. Người sắp chết bao giờ cũng nói thật và chí tình. Tôi cúi xuống hôn ông như một người con giống lần từ giã bố tôi. Mấy ngày sau ông mất.

Năm năm sau khi sang được Cali bằng con đường người Mỹ tìm dùm cho anh em chúng tôi những cựu tù cộng sản, tôi học lại chuyện này với mấy cậu con, các bạn tôi hình như giờ này mới thực sự hiểu bố. Quả thật trong chiến tranh cốt nhục tương tàn, người Nam kẻ Bắc kẹt giữa hai lằn đạn ngay cha con cũng khó hiểu nhau.

Có một chi tiết mà sang đây tôi mới được em thằng San cho biết, bác Tâm sau 75 từ Côn Đảo trở về, bác được tiếp đón linh đình cùng nhóm Võ Thị Thắng, sau về Đà lạt được sắp xếp vào chức phó thị ủy thành phố, có điều hai gia đình đã hết thân hình như ông Trịnh còn ấm ức điều gì đó với ông bạn mà tôi ngờ rằng vốn đã biết chẳng cùng chung lối mà sao chỗ bạn hiền nỡ tâm để họa cho nhau.

Đỗ Xuân Tê

ALAIN * NẾU VNCH THẮNG?

Nếu VNCH Thắng?
S VN money
GNA: Trong bài phỏng vấn Riêng Tư ngày 30/1/2014 của phóng viên Trần Lương, Alan Phan tôi có trả lời như sau về một câu hỏi:
Hỏi: Tuy nhiên, T/S có thực sự nghĩ rằng chế độ cũ của miền Nam trước 1975 có thể đem lại cho đất nước một đời sống vật chất hay văn hoá khả quan hơn cho phần lớn người dân?
Đáp: Tôi không biết. Muốn phán xét thật công bằng, phải đem cân 2 chế độ theo rất nhiều chuẩn mực; rồi phải có sự đồng thuận về giá trị của từng chuẩn mực. Nếu khả thi, thì đây phải là một nghiên cứu sưu tầm rất công phu, khoa học, tốn nhiều thập niên và cần sự đóng góp của cả ngàn chuyên gia tại khắp mọi lãnh vực.
Nhưng tôi nhìn nhận một điều: tôi rất hạnh phúc với môi trường sống trước 1975. Thành phố còn ít người, rác và ô nhiễm không tràn ngập, cảnh quan còn xanh đẹp với những kiến trúc nửa Âu nửa Á, con người đối xử với nhau tình tự hơn, sự khoan thai và thư giãn luôn hiện diện dù chiến tranh bao quanh…Nhiều yếu tố cấu thành có thể không khách quan; nhưng Saigon hay Đà Lạt, Nha Trang ngày xưa nơi tôi sống chứa đựng những vần thơ trong từng hơi thở; lênh láng những sắc màu đơn giản hài hoà trong mỗi bước đi.
Bây giờ, tại những nơi đó, nhất là Saigon và Hà Nội, toàn các hiện tượng văn hoá thật chướng tai gai mắt, thái độ tham lam chụp giật chen lấn hiện diện trên từng khuôn mặt, từng hành xử…cảnh quan thành phố thì lộn xộn không quy hoạch, vỉa hè bị chiếm, cây xanh bị chặt…Mỹ có thành ngữ “it’s really ugly” (thật là xấu xí)…
 
Một bạn đọc gởi đến bài viết này như một phản bác. Xin ghi nhận và post nơi đây một góc nhìn khác.
Tác giả: Lê Phú Nhuận 14 Mar 2014
Vừa nhận được một e-mail đề cập đến câu hỏi: “TRONG TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM CỘNG HOÀ THẮNG QUÂN CỘNG SẢN VIỆT NAM, THÌ LIỆU TÌNH HÌNH CÓ KHÁC HƠN CHÚT NÀO CHĂNG? ” Tôi là lính, nên xin trả lời rất nhanh và rất đơn giản, ngay bây giờ, và dễ nhận thấy.
1. Trước hết, dù là giả thuyết, câu hỏi sai từ trong căn bản . Miền Nam không tấn công miền Bắc, nên không thể có chiến thắng. Sau khi ký hiệp định đình chiến 1954 , miền Nam lo xây dựng đất nước, ổn định đời sống toàn dân, chỉ muốn sống trong hoà bình ..
Ngay từ lúc đó , cộng sản VN đã gài người ở lại , nằm vùng , chuẩn bị sẵn cho cuộc xâm chiếm miền Nam , với sự viện trợ tối đa của cả Nga, lẫn Tầu như đã thấy . Mầm mống chiến tranh , cội nguồn của bao tội ác , hi sinh hàng triệu sinh mạng đồng bào cả Nam lẫn Bắc , xương máu chất chồng , bom đạn khói lửa ngút trời . . . xuất phát từ kẻ chủ chiến , từ kẻ xâm lăng , không phải từ phía chống đỡ , phải tự vệ . Rõ như ban ngày !
Đặt câu hỏi theo kiểu này là một lối lập lờ đánh lận con đen, để lừa bịp, để đánh tráo , nhì nhằng giữa hai phe đánh nhau. Vì vậy phải bác bỏ câu hỏi ấy ngay từ đầu , trước khi thử đi vào giả thuyết chỉ để cho rõ bản chất của hai chế độ ..
2. Giả dụ rằng, trong trường hợp mà miền Nam thắng vào tháng Tư 1975, thì tôi đoan chắc tình hình tốt hơn nhiều, nhiều lắm, và ai cũng có thể hiểu được, không chút gì ngụy biện. Tôi nói theo kiểu lính nên rất dễ hiểu.
- Này nhé. Lúc ấy người dân miền Nam giàu hơn người dân miền Bắc rất nhiều. Dân miền Nam không thể nào có ý nghĩ quái đản là ra Bắc để vơ vét , lấy về , mà trái lại sẽ rất vui vẻ mang quà ra Bắc cho thân nhân, đồng bào mình ngoài đó. Sẽ không có cảnh đày, đồng, đạp như đã thấy. Hàng triệu dân miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 chắc chắn sẽ hối hả mang đủ thứ về quê cho bà con mình. Cuộc tương phùng sẽ rất cảm động, rất thân tình, rất vui mừng, chứ không phải ngỡ ngàng như đã thấy.
- Chính quyền miền Nam là một đồng minh trong thế giới Tự Do , tôn trọng quyền tư hữu , nên cũng sẽ không có cảnh đánh tư sản , kiểm tra , cướp của , cướp nhà như CS đã làm đối với dân miền Nam. Nếu chưa thể nâng mức thu nhập ở miền Bắc lên ngang với đời sống ở miến Nam thì cũng không có cảnh chặt ngang cho tất cả nghèo như nhau. Cũng không có cảnh đuổi dân đi vùng kinh tế mới để chiếm nhà, cướp đoạt tài sản, như đã thấy .
- Các cơ sở nhà nước, các khu vực quân sự sẽ không bị ai chiếm đoạt vì luật pháp VNCH không thừa nhận quyền sở hữu cho bất cứ cá nhân hay đảng phái nào. Do đó sẽ không có cảnh con ông, cháu cha nào chiếm đoạt công thự, đất đai nhà nước làm của riêng, như đã thấy .
- Miền Nam đang được nhiều nước tân tiến, giàu có ủng hộ, nên họ sẵn sàng viện trợ để tái thiết sau chiến tranh. Lúc ấy , nền kinh tế miền Nam tự nó đã không hề thua sút các nước tại Á Châu , lại có dịp vươn mình lên, phát triển hơn, ngay tức khắc , không hề bỏ lỡ cơ hội hàng chục năm, để dân phải thiếu cả gạo để ăn, phải ăn bo bo, bột mì . . . như đã thấy ..
- Điều quan trọng nhất là Tình Người trong thời kỳ chuyển tiếp. Sẽ không bao giờ có một tinh huống tàn nhẫn, vô nhân đạo như đã thấy. Điều này thuôc về bản chất của hai chế độ. Cộng sản là giết lầm hơn bỏ sót, đào tận gốc, trốc tận rễ, truy cứu lý lịch ba , bốn đời , dù chỉ là đứa bé mới cắp sách đi học, dù là thầy tu, dù là giáo viên, là bác sĩ, y tá . . ..
Miền Nam thì khác hẳn, nên mới có nhiều Việt cộng nằm vùng trong mọi cơ quan, ngay cả trong thời gian chiến tranh.
Thế thì miền Nam sẽ giải quyết cách nào đối với các cán binh , cán bộ miền Bắc ?
Đang khi còn chiến tranh mà miền Nam còn áp dụng chính sách Chiêu Hồi, hễ buông súng, bỏ ngũ, cam kết lương thiện làm ăn, thì tự do sinh sống như mọi người. Dĩ nhiên phải trình diện, giao nộp toàn bộ vũ khí, khai báo lý lịch để thiết lập hồ sơ cá nhân, xác định nơi cư trú và lần lượt trả về nguyên quán với gia đình, như thủ tục chiêu hồi vẫn làm trong nhiều năm, như đã thấy.
Và dù có người nào bị tạm giữ trong một thời gian chắc cũng không phải đói mờ, đói mịt , khoai sắn cũng không đủ no như dưới thời công sản. Gia đình cũng sẽ không bị cấm đoán, hạn chế việc tiếp tế thăm nuôi như đã thấy. Và chắc chắn sẽ không có màn lừa bịp mười ngày thành ba năm, rồi bảy, tám, mười, mười lăm năm, như đã thấy! Và sẽ không có hàng ngàn nhà tù từ Nam tới Bắc như đã thấy!
Cần nhấn mạnh một điểm rất nhân bản của miền Nam là thủ tục bảo lãnh người thân. Gia đình nào có người thân bị bắt vì hoạt động cho cộng sản, nếu chịu đứng ra bảo lãnh trách nhiệm, thì phần lớn sẽ được cứu xét cho về với gia đình, ngay trong lúc chiến tranh. Hầu như gia đình nào cũng có thân nhân ở bên này hay bên kia.
Sau chiến tranh, bà con miền Nam sẽ được khuyến khích đứng ra bảo lãnh cho thân nhân trong hàng ngũ cộng sản, trở về với gia đình. Chế độ cộng sản không khuyến khích thủ tục ấy, ngay cả cha-con, vợ-chồng, anh-em. Trái lại, họ khuyến khích, thúc đẩy thân nhân đi vào tù “học tập ” cho tốt , “lao động” cho giỏi , để khỏi bị đảng nghi ngờ , như đã thấy !
Nhìn sự kết hợp hai miền đông-tây của Đức , người ta có thể hình dung ra phần nào cảnh kết hợp hai miền Nam-Bắc , dù không nhất thiết phải giống y như thế .
Phần quan trọng hơn nữa là Tổ Quốc Việt Nam đã không bị mất nhiều phần lãnh thổ về tay Tầu cộng , vì không bị lệ thuộc vào “đồng chí vĩ đại” phương bắc , – kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Sẽ không mất ải Nam Quan, không mất một phần thác Bản Giốc , không phải dấu giếm đồng bào mình , lén lút ký kết hiệp ước biên giới với rất thiệt thòi cho dân tộc mình , như đã thấy !
Tóm lại, theo cái nhìn của một người lính già, rất đơn giản nhưng rất thật, từ đời sống vât chất đến đời sống tinh thần, theo giả thuyết trên, thì nếu miền Nam thắng , thực tế tốt hơn rất nhiều.
Tôi cố tình lập lại nhiều lần ba chữ “như đã thấy” để chứng minh đó là một thực tế rất dễ nhận thấy ..
Và nếu (vẫn nếu) như thế, thì giờ này tớ đang nghỉ hưu ở Sàigòn !./-
LÊ PHÚ NHUẬN
(GNA: Đây là ý kiến cá nhân của một người lính VNCH cũ nên xin bạn đọc nên nhìn theo một bối cảnh chủ quan của người viết. Quan điểm này không phải của Góc Nhìn Alan và không phản ảnh bất cứ comments nào của các BCA khác). 

Monday, April 24, 2017

THỤY KHUÊ * NGUYỄN CHÍ THIỆN

Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục

 
 
 Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa Ngục
Hoa địa ngục là một hành trình thơ, là một hành trình sống. Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc. Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.
Năm 1979, một tập thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả, chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã đem tác phẩm của mình "ném vào" toà đại sứ Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Hoa địa ngục, khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy vực[1], Quê hương tù ngục[2], v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa địa ngục do tác giả chọn.
Hoa địa ngục hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông còn sống.
Bởi nhiều lý do, nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng người Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến "bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu, phần đông không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ cực hữu, sử dụng ông như một vũ khí, một viên đạn trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối cùng chỉ còn lại một số ít người trung thành với thi ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt hành trình lâm nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ ông trong im lặng. 
Những thành kiến cả yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này đã tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực đoan, quá khích, đi ra ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí Thiện. 
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đã thở thành sự thật. 
Năm 1960, ở tuổi 21, vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án hai năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.
Năm 1966, bị tình nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11 năm, 1977 được thả.
Năm 1979 đến toà đại sứ Anh gửi hay "ném" tập thơ Hoa địa ngục, bị bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.
Trước sau tổng cộng 27 năm.
Ngày 28/10/1991, Nguyễn Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ. 
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự thành thật đã qua đời dưới một thế quyền mà sự giả trá đã trở thành quốc sách. 
Sự thành thật nguyên thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho người nghe, người đọc trong các xã hội "tân tiến" phải ngạc nhiên vì chất men "quê mùa" còn sót lại trong con "người rừng" đã trải gần ba mươi năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới "văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền sử. 
Làm thơ khi bắt gặp một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh lòng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể chuyện bằng thơ. Thơ ông gần với lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục. 
Hoa địa ngục là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời trong xã hội cộng sản
Người ta trách thơ ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? Còn kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ? Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng, ghi lại những đớn đau gào thét trong thịt da tâm não. 
Bản thảo Hoa địa ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự, không theo thời gian, mà cũng không theo chủ đề, các bản in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài. 
Lối in vội này, in tất cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều. Biết bao nhà thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ dở hoặc những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần. Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ. 
Vậy điểm đầu tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí Thiện: Thân phận con người trong xã hội toàn trị
Nguyễn Chí Thiện là nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân đến tư tưởng. Hoa địa ngục vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình sống.Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc. 
Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn. 
Hoa địa ngục là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà bình, độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng sáng tác bài Mắt em, thơ tình, có lẽ là bài thơ đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái "thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu rung động trước đôi mắt thuyền[3]. Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong tình yêu thứ nhất: 
Mắt em mềm mại con đò
Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu
Mắt em trong mát giòng sâu
Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một vườn hoa
Vắng anh, thắm nở chói loà sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957) 
Người thanh niên 18 tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn còn mộng đôi mắt thuyền của Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài các "đóng nghiêm" trong khung cửa của Thâm Tâm TTKH. 
Một năm sau, 1958, thơ đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm "giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn: 
Quanh hồ liễu rủ
Giữa hồ tháp đứng âm u
Đền Ngọc Sơn không hương khói lạnh lùng
Cầu Thê Húc nằm nghe lá rụng...
Đâu những bác thầy tầu, thầy cúng
Những bà già đi lễ năm xưa?
Cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùa
Lẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958) 
Lại một năm nữa trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá. Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài, lan tới núi rừng, tới thượng du, tới những bản xa nơi địa đầu hoang dã: 
Vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếu
Rừng ngả dần mầu hiểm bí, âm u
Gió đìu hiu thoang thoảng lạnh hơi chiều
Sương ẩm ướt bắt đầu rơi phủ
Trong lặng vắng vút ngân dài tiếng hú
Vài cánh chim lạc lõng vội bay về
Lời tối tăm vang dậy bốn bề
Tiếng ếch nhái côn trùng trong cỏ nước
Người lữ khách giật mình chân rảo bước
Bàn mường xa có kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959) 
Nhưng 1959 cũng là năm người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn xã hội, nhìn con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được thực dân Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ búa liềm, liệm dần cuộc đời thực tại trong bốn bức tường độc tài của một người, một đảng. 
Nguyễn Chí Thiện bắt đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng thời cũng là ý thức của chính mình, lần đầu tiên tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm sau những bức bình phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo: 
Tôi thường đi qua phố
Có anh chàng mù, mắt như hai cái lỗ
Kính chẳng đeo, mồm thời xệch méo
Ngậm vào tiêu, cổ nổi gân lên
Dốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rên
Mấy bài hát lăng nhăng ca ngợi Đảng
Đã mang lại ấm no và ánh sáng!
Một buổi sớm anh như choáng váng
Gục xuống đường, tiêu rớt sang bên
Tôi vội vàng chạy lại đỡ anh lên
Anh chỉ khẽ rên: Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959) 
Năm 1959 đối với Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức. Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng. Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến hết tuổi trẻ. 
Năm 1960, lại một bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa viết Nhật đầu hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì đến chính trị Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà, lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền". Người con trai 20 tuổi, bị giam vì trót dậy học trò sự thực, chưa tiên đoán được những gì sẽ đến trong tương lai: 
Nửa đời thân thế long đong
Nhà thương tù ngục xoay vòng tuổi xuân
Một năm thổ huyết hai lần
Mười năm cấm cố tiêu dần thịt da
Rừng hoang biên giới mưa sa
Hoẵng kêu nấc gịong xa xa trên ngàn
Chăn đơn khôn ấm nỗi hàn
Co lên đất tấm thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974) 
1961, nẩy sinh một Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã thôi lãng mạn, đã từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh: 
Có những chiều mưa buồn lạnh cóng
Giữa bùn trơn tê tím xương da
Chống cuốc nhìn rừng núi bao la
Trong bụi nước mờ mờ lẩn bóng...
Có những chiều mặt trời như lửa bỏng
Giọt mồ hôi mờ xót con ngươi
Đặt gánh phân nhìn bốn phía đất trời
Rừng núi đứng im lìm trong nắng loá
Có những chiều thịt gân rời rã
... (Có những chiều, 1961) 
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ nhân chứng 
Từ đây, Nguyễn Chí Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản. Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đã quắc lên. 
Ở tuổi 23, ông viết bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về trước, nay đã có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt, vung lên: 
Chúng tôi sống giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong mấy dẫy nhà tranh
Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp sống của con người
Của trâu, chó? So làm sao, quá khó!
Làm kiệt lực, nếu không giây trói đó
Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy cứ coi chừng
Xà lim tối, chân cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền miên đói khát
Đánh liều xơi tất cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng
Chưa có một thứ gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang
Đảng cất giấu dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn vừa khốn nạn, gian ngoa
Biết bao người chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả những loài bọ rết
Vì thuốc men, trò bịp khôi hài
Chế độ tù bóc lột một không hai
Biết bao cảnh, bao tình quằn quại
Có những kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y tế dữ hơn phòng mật thám!
Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma
...
Có những buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công an lục soát toàn thân
Thu đốt cả vật tối cần- miếng dẻ!
Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên đường cụ hứa như thế kia a?
... (Chúng tôi sống, 1962) 
Chúng tôi sống, 1962, là một bản cáo trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù nhân chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết, chưa bao giờ được công bố.
Chúng tôi sống làbức tranh hiện thực rỏ máu. Sự thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người còn chưa hết say chiến thắng Điện Biên, còn đang hướng về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn "phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải 40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này thành tiểu thuyết. 
Nguyễn Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì vậy mà ông đã không được đánh giá đúng mức, bởi trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí Thiện. 
Chúng tôi sống nói lên sức sống mãnh liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao có sự trở mình của một ngòi bút bẩm sinh vốn nhu mì, nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao một thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại sau 27 năm tù. 
Trong số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện rõ nét, bởi anh là một nhà thơ,  dám nghĩ, dám ghi lại ngoại cảnh và tâm cảnh của mình. Anh bắt đầu đầu đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung: 
Trời u ám, cây hay là xương xám?
Mây đục mờ, hay vải liệm mầu tang?
Gió đìu hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?
Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ ngước trông non nước mịt mù
Và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (Trời u ám, 1962) 
Kể từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai trò nhân chứng của mình. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi lại trong đầu từng cảnh sắc, từng hình ảnh, từng chi tiết nhỏ nhoi: 
Đêm rừng, rả rích mưa, phòng dột
Ôm gối ngồi run lạnh nhìn nhau
Chấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu
Thùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt
Đêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm rừng rả rích, 1962) 
Mỗi trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp người kinh hoàng đến thế: 
Trời mưa tầm tã đêm qua
Sáng nay lạc rỡ còn pha trộn bùn
Sá gì bệnh sán, bệnh giun!
Dịp may hiếm có, tùn tùn nuốt nhai
Tôi nghe rào rạo bên tai
Một nhân lạc phải trộn hai nhân bùn (Trời mưa tầm tã, 1962) 
Cái đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa, không còn trọn khối nữa, mà nó đã hoá thân, hóa chất, nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn nuốt nhai, rào rạo bên tai, một nhân lạc trộn hai nhân bùn. Nó đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ chậm mà chắc. 
Vẫn chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả: 
Toán tôi rỡ lạc ngoài đồng
Có ông quản giáo ngồi trông đàng hoàng
Thừa cơ quản giáo trông ngang
Một anh tranh thủ vội vàng nuốt nhai
Vài nhân lạc cả vỏ ngoài
Quả tang! Báng súng nện hoài không thôi!
Mồm anh toé máu, vều môi. (Toán tôi rỡ lạc, 1963) 
Chưa có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói vừa bị đánh. 
Nhưng sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài, càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt hệ thần kinh người đọc.
Thơ Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời, cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ bình thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn trong những con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất ngờ. 
Cũng năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ lãng mạn pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên ngôi, người thanh niên 24 tuổi, sau ba năm tù tội, đã nghiền tan cái lãng mạng của thời mình trong những dòng thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm mình mẩy, những vần thơ run sợ thất thần trên đường lên máy chém: 
Khi ta tới mặt trời đã nguội
Gió mùa thu trở gió may cào
Những mầm non khô cứng tế bào
Mau thay sắc mang mầu xanh rớt
Và mặt đất hoá thành mặt thớt
Và con người con cá thiu ươn
Khắp nơi nơi nhung nhúc loài lươn
Loài giun đất không quằn khi dẫm
Tình mộng đã vùi chôn một nấm
Hận thù trơ trọi sống mồ côi
Những vần thơ lãng mạn câm rồi
Còn rỏ xuống một dòng đỏ sẫm (Khi ta tới, 1963) 
Những vần thơ lãng mạn câm rồi -chính là thơ bị trảm tấu, thơ bị tử hình- là đỉnh cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ thần kinh, rút dần xương tuỷ: 
Mầu thời gian đã chuyển về sắc xám
Vị thời gian đã ngả tới mùi thiu
Nửa trang đời dập, xoá, tẩy còn lưu
Và còn đó nửa trang dài lạnh trắng...
Tim trúng độc hóa ra bầu mật đắng
Hệ thần kinh một mớ chỉ xù lông
Nửa trang đời không một chữ nào trông
Thành nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng...
...
Dông gió hết bơ phờ trong quạnh vắng
Cảnh hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu
Nửa trang đời thâm tím với bầm biêu
Lòng dột nát, nửa trang đành bỏ trắng? (Mầu thời gian, 1963) 
Đã xa rồi cái buổi "mầu thời gian xanh xanh" của Đoàn Phú Tứ. Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám, nó đã ngả mùi thiu, nó là trái tim trúng đạn, nó là hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa trang đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đã chết... nó là mầu tuyệt vọng của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng của thời gian, là sự hấp hối của một người em tập kết: 
Những manh áo vải
Tả tơi
Vật vã
Vào thịt da...
Em có lạnh lắm không?
Mưa gió mênh mông
Thung lũng sũng nước bùn
Bệnh xá mối đùn, ẩm mốc
Những khuôn mặt xanh vàng gầy rộc
Nhìn nhau, đờ đẫn không lời
Nhát nhát em ho
Từng miếng phổi tung rời
Bọt sùi, đỏ thắm!
Em chắc oán đời em nhiều lắm
Oán con tầu tập kết Ba Lan
Trên sóng năm nào
Đảo chao
Đưa em rời miền Nam chói nắng...
...
Sáng nay em không trống không kèn
Giã từ cuộc sống
Xác em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh gặp em, 1965) 
Toàn bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa tử trong trận đồ bát quái không tìm được lối ra. Bên cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu: 
Trông trâu mà khiếp cho trâu
Lở loang, tanh loét, sắc mầu nhở nham
Lệnh ban giám thị nhà giam
Mừng ngày quốc khánh cho làm thịt ăn
Tù nhân tính toán băn khoăn
Bốn mươi cân thịt, người ăn một nghìn! (Trông trâu mà, 1967) 
Trong bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi người tù được hưởng 40g thịt trâu chết bệnh. Chưa có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh loét; bên cạnh một nghìn xác tù hom hem; bên cạnh bữa tiệc quốc khánh quái đản, lại là một chân dung người: 
Bác nằm liền sát cầu tiêu
Mùi phân nước giải sớm chiều nồng hôi
Bác ơi, bác sắp chết rồi
Bác không còn sức để ngồi được lên
Bác nằm thoi thóp khẽ rên
Bát cơm ngô, bát rau dền đặt bên
Bác thèm một miếng đường phèn
Nhà giam Cộng sản bác quên bác tù
Trưa nay cái chết lù lù
Tới khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu! (Ốm đau không thuốc, 1968) 
Cuối cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Người hấp hối và thần chết trò chuyện với nhau trong không gian âm dương giao kết, buốt lạnh: 
Nhìn thần chết hiện lên dần từng bước
Thân tù cao không có lực xô lùi
Anh chết oan, chết thảm, chết dập vùi
Hồn khổ não không thể nào siêu thoát
Đêm đêm hiện về đây lạnh toát
Bộ đồ đen, bụng phù trướng, bước đi
Anh ngước nhìn tôi, ra hiệu, chẳng nói gì
Mặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc
...
Thế đủ rồi, tôi hiểu, hãy nên lui
Thể xác anh chuột khoét đã chôn vùi
Hồn anh hãy về vui nơi cực lạc
Lưu luyến chi đời tù lao đói rạc
Sống đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâu
Chết như anh, hết khổ có chi sầu
... (Nhìn thần chết, 1968) 
Trong nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế, bức nọ để cạnh bức kia, thành cuộc triển lãm một quần hội nửa người, nửa thú, đang sống mà đã chết. Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân chia giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại biên, trên sông lú, người và vật cùng bị giam trong một không gian kín, chết sống giao thoa. Cái đói là bát cháo lú khiến người tù quên mình khi trước đã từng là một con người: 
Suất cơm tôi một hôm đánh đổ
Tôi còn đương đau khổ nhìn theo
Thì nhanh như một đàn heo
Bốn, năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau
Bốc ăn một lúc sạch làu
Miếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau! (Suất cơm tôi, 1966) 
Trên bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn tại như một vong hồn: 
Tôi đương sống, nhưng từ lâu đã chết
Chết trong tim, trong óc, chết tâm hồn
Cố đào lên bao thứ sớm vùi chôn
Song chúng đã xông mùi, tan rữa hết (Đoản thơ, 2) 
Kẻ nhận định thơ mình đúng nhất cũng lại là tác giả. Mười năm sau khi vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện "nhận định" thơ mình: 
Thơ của tôi không phải là thơ
Mà là tiếng cuộc đời nức nở
Tiếng của nhà giam ngòm đen khép mở
Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ
Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ
Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ
Tiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sở
Tiếng dạ dầy đói lả bóp bâng quơ
Tiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơ
Tiếng bất lực trước muôn ngàn xụp lở
Toàn tiếng của cuộc đời sống dở
Và chết thời cũng dở, phải đâu thơ! (Thơ của tôi, 1970) 
Năm năm sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nhì định nghiã thơ mình, khốc liệt hơn: 
Thơ của tôi không có gì là đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao
Thơ của tôi không có gì cao
Như chết chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng
Nó thực như tù, như đói, như đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ (Thơ của tôi, 1975) 
Không còn gì để bàn trước những lời thơ như thế. Quá khích ư? Đúng là quá khích. Nhưng có gì quá khích hơn bị tù vì tội nói thực? Có gì quá khích hơn sự đọa đầy đến chết vì tư tưởng? Không có gì để khen chê trước những lời thơ như thế. Không có gì liên quan tới nghệ thuật trước những lời thơ như thế. Không có gì hàm súc, không có gì ngụ ẩn trong những lời thơ như thế. Phê bình đành chịu. Phê bình đành gác bút. Có lần J.P. Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn nôn của tôi không có nghiã lý gì. Chúng ta bảo: trước những dòng thơ tù như thế, mọi khen chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiã. Phê bình đành á khẩu. 
Trước mắt tôi, mặt trời hấp hối
Sau lưng tôi, bóng tối mịt mùng
Bên phải tôi, tù ngục chập chùng
Còn bên trái, súng nhằm tim chắn lối! (Đoản thơ, 152) 
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ trào phúng 
Nhưng thơ Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có đớn đau và xác chết, ông còn có những bài thơ trào phúng vẽ chân dung lãnh tụ rất có duyên: 
- Về bác Mao: 
Bác Mao cân nặng tạ hai
Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm
Người dân Trung Quốc thì thầm:
"Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản thơ, 126) 
- Về bác Hồ:
 Bác Hồ rồi lại bác Tôn!
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác mầu hồng
Nước da các cháu nhi đồng mầu xanh... (Bác Hồ rồi lại) 
- Lại về bác Hồ: 
Bác Hồ tới thăm thiếu nhi
Bác cười bác hỏi chi li ngọn ngành
Việc ăn ở, việc học hành
Lao động bác dặn chấp hành tốt, nhanh
Kẹo bánh bác hứa để dành
Chủ nghiã xã hội hoàn thành sẽ cho!
Thiếu nhi khăn đỏ cổ cò
Vỗ tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác Hồ tới thăm, 1967) 
- Về học thuyết Mác: 
Học thuyết Mác, này đây sọt rác
Xét lại làm gì, tốt nhất vất nó đi
Sử sách sau này đỡ mất công ghi
Thêm quá nhiều trang xám xì tội ác (Đoản thơ, 169) 
- Về thiên đường Mác: 
Thiên đường cụ Mác dân mơ
Tỉnh ra tài sản bị vơ nhẵn rồi
Chỉ còn lại chút mồ hôi
Đổ ra vì sợ, vì nuôi Đảng rồ! (Đoản thơ, 180) 
Vẽ chân dung các đại lãnh tụ như thế không phải dễ. Đó là lối thơ dân gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ hóm hỉnh. Tính chất hóm này những ai đã từng nghe Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về một lối thoát, dù rất bé, về phiá mặt trời: ông là người của niềm vui, của lạc quan. Ông thích cười nhưng cuộc đời đã làm môi ông chụm lại che kín hàm răng. Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi, nhạo báng, thách thức, chơi khăm, những thế quyền, những bạo lực.  
Bị tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết vì tuyệt vọng. 
Bên cạnh tiếng cười, thơ ông là một cõi mênh mông lệ, cõi nước mắt trong vắt như thủy tinh: 
Trong muôn dòng trái đất tuôn đi
Dòng trong nhất là dòng nước mắt (Lệ, 1971)  
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ thời thế 
Trong tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không gian cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân, mùa hy vọng cũng chịu cực hình như người tù phạm: 
Bốn bức rào nứa
Cứa vào mùa xuân
Một cách bất nhân
Mùa xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48) 
Không gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời tiết của đất nước. Nhưng người tù không được biết gì về thời thế, về chiến tranh, về tình cảnh dân tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù cảm nhận thời thế gián tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ. Khi đất nước bị suy vong, khi con người bị trấn áp, cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như một lời cảnh giác: 
Đêm bão giật, lửa loè muôn tiếng sét
Nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm
Nước từ trời cao đổ xuống ầm ầm
Cả rừng núi lồng lên gầm quát thét (Đoản thơ, 95) 
Trước cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí Thiện đã hiểu tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính mình, người mình, về chuyện nước non tan tác: 
Giận thân rồi lại giận đời
Giận thời chuyên chính, giận người hèn ngu
Giận trời, giận đất âm u
Giận sông, giận núi quân thù dọc ngang (Đoản thơ, 140) 
Nguyễn Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh, nhưng chắc ông đã hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những câu thơ sau đây đánh dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một mối cộng sản: 
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn (Vì ấu trĩ, 1975) 
Và trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ý định lật đổ định mệnh của mình và của dân tộc. Ý chí sắt đá ấy toát thành những lời thơ vũ bão, đặc dị, khác thường: 
Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử (Trong bóng đêm, 1976) 
Sau này, khi chế độ toàn trị chỉ còn là quá khứ, những Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc Tấn... sẽ trở thành chứng nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực tiếp, thành thực về vùng đồng lầy, viết bằng những từ trần trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX: 
Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thầy, phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềng
Hoạ, phúc toàn quyền của đảng (Đồng lầy, 1972) 
Không ai kêu nổi một lời
Mồm dân Đảng khoá đã mười mấy năm (Gửi Bertrand Russell, 1968) 
Lời thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự thật.
Bài Đồng lầy là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện đã sống, một cõi đồng lầy với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch nhái lên làm chủ và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cõi mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà thơ lại phải quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm trong ám khí đồng lầy
Trời cao biển rộng có cũng như không!
Một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi nhơn nhơn từng đàn vang động
Những con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng!
Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy lau còm cõi đứng chen
Hơi có gió là cúi đầu rạp hết
Bát ngát xung quanh một mầu khô chết (Đồng lầy) 
Cả đoạn thơ trên bị một tiếng quạ đêm rỏ xuống đồng làm tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ thần tình, chua xót, một chữ rỏ xác định phong cách thơ. 
Đồng lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc đời Nguyễn Chí Thiện, từ tuổi hai mươi, đầy tin tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa thu: 
"Mơ ước
Đợi chờ
Vĩ đại...
Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ,
Tô thắm mầu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng (Đồng lầy) 
Lời thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang sắc hiện đại của Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt. Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm hơn các bậc đàn anh, vì ông ra đời sau, và cũng chấm dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi ông đã nhìn thấy trước sự thật: Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường-  kéo theo một chuỗi dài rùng rợn: 
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng 
Lời thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.
Thơ mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản cách mạng.
Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách mạng mùa thu. Ông đã nhận ra trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du nhập chính sách đấu tranh giai cấp (của Mác, qua lăng kính Mao, vào đất Việt) là một dòng lũ, bùn, cuốn trôi tổ quốc: 
Một mùa thu nước lũ
Trở thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp sóng hồng man dại
Chìm trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ, mồ hôi, rớt rãi
Đi về ai nhận ra ai!
Khiếp sợ, sững sờ, tê dại!
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy) 
Chỉ có Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như thế. Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960. Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm 1970 gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. Tình cờ chăng? Phùng và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?  
Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác
Đảng lùa đi, tan tác, thương vong
Mái ngói, mái gianh, lệ thảm ròng ròng
Nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Đảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng
Dân đen tay trắng cam đành
Từ núi rừng hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Mầu áo vàng cảnh sát
Tràn lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!
Cuộc sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh
Bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại
Cái cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng lầy, 1972) 
Đồng lầy là một bài thơ thời thế, bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng sản và kết án chiến tranh. Đồng lầy cũng là một bài diễn ca trong phong cách Hà Thành chính khí ca, Đại Nam quốc sử diễn ca... Sau này, khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh giá bản trường ca này một cách công bình hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ là một bài thơ cần phải đọc để tìm hiểu thời đại này. 
Bài Con tầu rêu, là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư tưởng.
Dùng Con tầu rêu Nguyễn Chí Thiện muốn mượn hình ảnh con tầu say (bateau ivre) của Rimbaud, để chỉ những con tầu tự do, hay sự tự do của chính mình. Thơ buồn bã như một lời tâm sự: 
Con tầu say như ních chật không gian
Giữa mùa điên không biết lực điêu tàn
Xô vỡ vụn nơi ngời băng tuyết loá
Trong trắng xoá những ngày mưa tầm tã
Con tầu đau vật vã trước bờ xanh
Phiá mờ xa thôn xóm đứng yên lành
Thân tầu đã tan tành trên mũi đá.
Cay đắng quá những bến nghèo tàn tạ
Đón trông tầu lui tới, đứng buồn thiu
Khi tầu tôi men đến cũng dập dìu
Gây sóng gió đắm dìm cho nhục nhã
Ôi tiếp tới nước triều dâng vật vã
Con tầu run chưa tiến đã chờn lui
Đành một mai nơi đáy nước rêu vùi
Làm chỗ ở cho tôm, sò, ốc, cá
Tôi đã biết những đêm dài dòng dã
Con tầu câm trôi giữa đám trăng sao
Biết dừng đâu, không bóng hải cảng nào
Ra tín hiệu đón con tầu buồn bã
Tôi đã biết những bình minh đói lả
Biến sang mầu loang tím của chiều hoang
Con tầu đi, sức kiệt, lệ dòng hàng
Thương xót những mảnh tầu trôi vạn ngả... (Con tầu rêu, 1965) 
Niềm tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự do đã dấy lên rất sớm, từ thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.
Con tầu tự do trong tim người tù trẻ phóng đi tìm một bến bờ, tìm sự đồng thanh tương ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một mình. Nó đã mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến cả các bến nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng dìm cho tầu chìm, dường như trên mảnh đất này, tự do là yếu tố đã bị yểm, bị mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm, người ta không cần dùng đến. 
Tất cả những đắng cay của con tầu rêu, chìm dưới đáy biển, vận vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa địa ngục.
Không ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiã đúng thơ ông bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi chép lại như lời kết của chính tác giả về đời mình, về tự do và về thân phận dân tộc: 
Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Toàn bộ thơ tôi nặng nề cay cực
Không một sắc mầu mang khí lực xanh tươi
Vần điệu nghe như quỷ khóc ma cười
Do sáng tạo tận cùng sâu đáy vực (Đoản thơ, 112, 113) 
Nguyễn Chí Thiện đã chết. Một cái chết đột ngột, không ai ngờ, trừ "tác giả". Một cái chết nhanh, trần trụi, phanh phui sự thực như thơ ông: Cái chết đứng của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá, trong một ngoại hình gần như vô bệnh. 
Cái chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến dịch "Nguyễn Chí Thiện thật giả, giả thật" nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong vòng nhiều năm, dường muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn ác không kém gì 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống dưới xã hội tự do, những kẻ tạm gọi là "đồng hội, đồng thuyền".
Khi Hồ Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa đánh, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử". 
Đấy là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, còn trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng? 
Sự lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người. Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng lựa chọn tiếng nào hữu tình, hữu lý; tiếng nào phản, ngụy, trắc, gian. 
Trong muôn ngàn tiếng muốn tìm ra
Tiếng nào thiết tha
Tiếng nào trung thực
Hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực (Đoản thơ, 114) 
Chúc thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát, tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống dài, sống mãi: 
Song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sống
Âm thầm đưa tư tưởng sang sông
Qua muôn trùng hệ thống xiềng gông
Đang ra sức dựng thay cầu cống
Thoát khỏi đầu là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971) 
Thụy Khuê
Paris tháng 6-8/2013

[1] DoỦy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in tại Washington DC, 1980.
[2] Do Phong trào thanh niên hành động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.
[3] Mắt thuyền: chữ của Lưu Trọng Lư.

No comments: