Tuesday, May 17, 2011

NGUYỄN HUY THIỆP




VOA Tiếng Việt Cập nhật Thứ Bảy, 16 tháng 1 2010 RSS Feeds RSS

Phân trong văn Nguyễn Huy Thiệp

Chia sẻ

Không nói đến thì thôi; nhưng đã nói đến chuyện hố xí hai ngăn, chuyện hốt phân ở Hà Nội mà lại không nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp thì đúng là một thiếu sót không thể tha thứ được.

Có thể nói, trong văn chương Việt Nam đương đại, không ai quan tâm đến cứt nhiều như Nguyễn Huy Thiệp.

Trong các truyện ngắn, ông cho chữ ấy xuất hiện khá nhiều, một cách trần trụi, hung hãn, đầy bạo động. Nó tuôn ra từ miệng của vua Quang Trung khi quát tháo Ngô Khải: “Ta cho mày ăn cứt, xem có chê lợm không?” (Phẩm tiết). Ngay cả khi Nguyễn Huy Thiệp viết về tình yêu, một thứ tình yêu rất thơ mộng giữa Trương Chi và Mỵ Nương, ông cũng phun chữ “cứt” ra. Không phải một lần mà là nhiều lần.

Câu truyện bắt đầu bằng cảnh Trương Chi đứng đái:

“Trương Chi đứng ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng sông. Phía xa kia là chân trời rực hồng ráng đỏ. Nhà nàng ở phía ấy. Sương xuống lạnh. Một nỗi buồn da diết choáng ngợp lòng chàng.”

Đái xong, chàng hát. “Tiếng hát vút cao. Đêm xuống. Bóng tối mù mịt.” Hát xong, Chàng duỗi thân, ngả người vào lòng thuyền. Chàng nói: “Cứt!”

Rồi chàng nhớ đến Mỵ Nương, nàng công chúa đẹp tuyệt trần. Nguyễn Huy Thiệp tả: “Giờ đây, gặp Mỵ Nương rồi, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng, mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc. Cứt!”

Cứ thế, trừ đầu đến cuối truyện, Trương Chi cứ chửi “Cứt” luôn miệng. Trước khi nhảy xuống sông tự trầm, Trương Chi cũng lại chửi “cứt”:

“Hình ảnh Mỵ Nương biến mất đâu rồi, trước mặt chàng là sông nước trắng xóa một màu, trời mây trắng xóa một màu. Trương Chi chèo thuyền ra giữa tim sông.
Chàng lại nói: ‘Cứt!’”

Hết.

Hình như vẫn bị ám ảnh bởi chuyện cứt, Nguyễn Huy Thiệp sau này viết hẳn một truyện nhan đề là “Chuyện Ông Móng” để kể về chợ bán phân ở ngoại thành Hà Nội.

“Chợ phân họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng ở ngay bên đường đi Sơn Tây. Đây là vùng trồng rau, trồng cà nổi tiếng. Giống cà pháo, cà bát rất hợp với việc bón phân tươi, nhất là phân người. Người ta cũng dùng phân để bón cho lúa, nhưng phân bón cho lúa phải được ủ cho mục ra, cho chín phân.”

“Thế nào là ủ phân? Phân tươi có nhiều loại: phân trâu bò, phân lợn, phân gà (gọi chung là phân chuồng), phân người (còn gọi là phân bắc) nhưng được ưa quý hơn cả là phân lợn, phân gà. Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón được ngay cho cây, mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng quý nhưng phân gà nóng, chỉ hợp bón cho cây ớt mà thôi.”

“Riêng phân người (phân bắc) có lẽ bởi có nhiều đạm, nhiều chất khó phân huỷ nên bón trực tiếp thì cây xót, chết ngay. Riêng chỉ cây cà là chịu đựng được, lại hợp với việc bón loại phân này.”

“Nhìn chung, tất cả các loại phân đều phải được ủ thì mới nên dùng. Người ta đào một cái hố ở ruộng, chất phân vào cùng với tro, trấu, rồi trát bùn non trộn với rơm bên ngoài, trông như một cái mả, để đấy chừng dăm bữa nửa tháng cho ngấu dần. Phân được ủ chín, cứ thế mục ra, oải ra. Những con dòi ăn hết phân cũng chết đi, bản thân nó cũng hoá thành phân.”

“Khi tôi đến thăm chợ phân thì chợ đang họp. Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có phân ủ (phân chín), không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân hoá học. Cũng rất ít có phân chuồng, tức là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người.”

“Phân người được cho vào những thùng gò bằng tôn như thùng gánh nước. Cũng có một số người dùng thùng gỗ hoặc cho phân vào sọt (sọt được lót bằng bao ni-lông). Có lẽ phần lớn phân ở đây đều được lấy từ các nhà xí công cộng trong thành phố ra, nhiều thùng phân còn thấy lẫn cả giấy vở học sinh hay giấy báo.”

“Chợ phân không đông, chỉ có chừng hơn ba chục người vừa mua vừa bán. Hình như họ vốn đã quen biết nhau và khá thuộc "mặt hàng" của nhau nên việc mua bán thoả thuận cũng nhanh. Dưới ánh đèn cao áp tựa như ánh trăng và không khí hơi lạnh buốt, chợ phân cũng có phần nào giấu đi được sự bẩn thỉu, sự nghèo hèn, lam lũ và cần lao.”

Tại sao một nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp lại bị ám ảnh nhiều về chuyện đi cầu, đi tiêu và phân người như vậy? Tại sao Trương Chi cứ chửi “cứt” mãi? Trương Chi trong truyện cổ tích đâu có như vậy? Tiếng “cứt” vang lên sang sảng từ đầu truyện đến cuối truyện có làm tăng thêm chút giá trị thẩm mỹ hay nhân văn nào trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp?

Cuối cùng, đọc xong các câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp với những “phân”", “cứt” nhiều như vậy, chúng ta có thể thấy thô và tục không? Tại sao? Chúng có góp phần tạo nên nét gì riêng trong phong cách Nguyễn Huy Thiệp hay không?

Xin nhường các câu trả lời lại cho quý bạn đọc.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/a-19-2009-08-10-voa38-81875262.html


QUAN ÂM CHỈ LỘ
Nguyễn Huy Thiệp

Ngôi trường vùng cao ở lưng chừng đồi, đơn sơ một ngôi nhà gianh vách đất, một nửa là lớp học, một nửa là chỗ ở của hai cô giáo Thu và Kiểm. Lớp học thường xuyên xê dịch có từ 7 đến 20 học sinh của năm dân tộc là Mông, Thái, Nhắng, Dao và Lô Lô.

Hai cô giáo Thu và Kiểm đều quê ở Tiền Hải Thái Bình, bố mẹ là dân chài vùng biển. Hai cô học hết cấp 2 phổ thông trung học thì đi học một lớp sư phạm nâng cao hai năm. Tốt nghiệp ra trường, Đoàn thanh niên có phong trào “thắp lửa ánh sáng vùng cao”, họ ghi tên tham gia và mười ngày sau họ có mặt ở ngôi trường này. Ai lên Sa Pa, nếu đến nơi xa nhất thì phải đến bản Suối Thầu. Từ chợ Sa Pa đến đây tròn 70 cây số. Người Mông, người Dao giỏi đi bộ thì mỗi ngày đi được 20 cây. Thu và Kiểm vẫn thường xuyên đi lại trên tuyến đường này. Ngôi trường của họ ở nơi hẻo lánh nhất của vùng đất du lịch không thể nói là không phù hoa đó. Ôi Sa Pa, Sa Pa... Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!


Tết năm ngoái, tôi có dịp lên Sa Pa theo lời mời của gia đình một người bạn. Anh Lai, Vụ trưởng một Vụ, chuẩn bị đi làm đại sứ một nước ở châu Âu, quyết định không ăn Tết ở Thủ đô mà đưa cả nhà đi du lịch. Họ sẽ ăn Tết ở Sa Pa. Tôi được mời đi theo “tháp tùng”. Mấy năm gần đây, hội “tay to” ở Hà Nội có “mốt” không ăn Tết ở nhà mà đóng cửa đi dã ngoại để đổi không khí, cũng tránh cả việc người ta đến lễ lạt nhờ vả nhiêu khê... Tiền nhiều chẳng làm gì. Chất lượng cuộc sống trên hết. Sống vẻ vang, chết nhẹ nhàng... Những triết lý như thế gần đây tôi được nghe nhiều ở các quan chức và giới doanh nhân thành đạt.


Cũng là một “mốt”... Chị Hỷ, vợ anh Lai (xuất thân thợ dệt) tính rất chu đáo đã mua vé tàu hoả, thuê nhà, chuẩn bị thức ăn chu đáo cho 10 ngày nghỉ Tết, mọi người chẳng ai phải mó tay vào. - Không thiếu thứ gì! – Chị Hỷ vui vẻ bảo tôi – Chú sẽ được ăn Tết như ở nhà mình. Gia đình anh Lai có năm người: hai vợ chồng anh, cháu Quang đang du học ở Mỹ (đại học Duke) về nghỉ Tết, cháu Vân đang học lớp 12 trường Chu Văn An Hà Nội và Yên, cô "ô-sin" người vùng đạo gốc Bùi Chu. - Chú là nhà văn danh tiếng nhưng nghèo – Anh Lai bảo tôi – Nghề của chú chẳng phải là nghề. Đó là nghiệp chướng. Đọc, đi, viết là ba công đoạn mà tay nhà văn nào không làm được thì đừng nói gì đến có tác phẩm.


Không đọc, không đi thì viết thế nào? Nhưng không có tiền thì chịu. Chuyến đi Sa Pa này vợ chồng tôi “bao” hết, chỉ mong chú viết được cái gì hay hay đóng góp cho đời. Vợ chồng tôi chọn Sa Pa cũng là vì chú! Ngày xưa, Khổng Tử du ngoạn Thái Sơn có nói được câu chí lý: “Người nhân từ yêu núi, người có chí yêu nước”. Nhà văn phải là người nhân từ, phải là người nhân nghĩa, nhân văn... Tôi nghe. Tôi đi cũng là vì nể anh Lai. Nhân từ gì tôi không biết, ngày trẻ tôi đã ở miền núi Tây Bắc 10 năm, miền núi tôi chẳng lạ gì. Nhưng thôi, một chuyến đi du lịch, một cái Tết xa nhà cũng tốt cho tôi: ở nhà toàn khuôn mặt cũ, những đứa con tôi đã lớn, chúng không cần tôi nữa, tôi và danh tiếng hão của tôi đã là gánh nặng cho cả gia đình...


Chúng tôi lên Sa Pa vào 25 Tết. Chị Hỷ thuê một biệt thự riêng. Mọi người ai nấy đều như chim sổ lồng: anh Lai đi thăm vùng trồng hoa với bạn học cũ là phó chủ tịch thị xã, cháu Quang và cháu Vân đi Thác Bạc – Cổng Trời, cô "ô-sin" đi lễ nhà thờ rồi đi chợ, chị Hỷ ở nhà “giữ gôn”. Còn tôi, số phận run rủi, ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại đến ngôi trường của hai cô giáo Thu và Kiểm.


Ở Sa Pa, có một cửa hàng bán đồ cổ nhỏ. Chủ ở đây nghe nói là một người Nhắng giàu có. Tôi rất thích vài thứ bày ở đây nhưng giá của nó khá đắt. Thấy tôi loay hoay mãi bên cửa hàng, một anh chàng lái xe ôm gạ tôi: - Nếu ông thích mấy thứ này, tôi đưa ông vào bản Tả Van hay vào Bản Hồ, ở đấy có thể có người còn có nhiều thứ hay. Tôi lưỡng lự. Anh ta nói thêm: - Càng đi xa càng nhiều thứ quý. Tôi hỏi: - Ở Sa Pa, nơi xa nhất là đâu? - Suối Thầu. - Đi có khó không? - Cũng không khó lắm. Tôi xem đồng hồ, thấy còn sớm bèn quyết định đi chơi xa một chuyến. Anh lái xe bảo tôi: - Chắc ông sẽ không thất vọng vì chuyến đi này.



Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe “Min-khơ” dã chiến phóng nhanh như gió. Rừng núi đại ngàn trùng điệp mở ra trước mắt. Tôi chưa bao giờ đi một cuốc xe kinh hoàng như thế. Một bên là vực sâu, một bên là núi cao. Thỉnh thoảng, một trận mưa địa hình đột ngột trút xuống. Gió lồng lộng thổi. Tôi đã có thâm niên ở miền núi nhiều năm nhưng quang cảnh hùng tráng thế này thì không phải miền núi nào cũng có. Những viên sỏi bắn vào hai bên lốp xe rào rào.

Anh lái xe ôm, chắc đã quen đưa khách đi du lịch phiêu lưu thế này, chỉ chăm chú nhìn về phía trước, tôi nghĩ nếu tôi ngã xe có khi anh ta cũng chẳng biết gì. Đường vào Suối Thầu đi xe máy cũng hơn 5 tiếng đồng hồ. Anh lái xe ôm bảo tôi: - Theo tôi, tốt nhất là ông nên nghỉ lại đây đêm nay. Tôi có thể chỉ cho ông vài nơi nghỉ trọ. Bọn Tây du lịch cũng hay làm thế. Bọn “gai” (tour – guide: hướng dẫn viên du lịch) người Mông vẫn dẫn họ vào đây như cơm bữa. Giá nghỉ trọ ở đây cũng mềm, chỉ khoảng độ 10 đồng bạc là cùng. Tôi nghe lời chỉ dẫn của người lái xe ôm.

Anh ta dẫn tôi vào trong ngôi trường học mà tôi đã kể ở đầu câu chuyện. Hai cô giáo rụt rè ra đón vẻ rất băn khoăn. Tôi tự giới thiệu về mình. Cô giáo thấp lùn, có khuôn mặt vuông vức tên là Kiểm mắt sáng lên: - Em đã từng nghe đến tên ông. Nếu ông đúng là nhà văn thì em cho trọ. Cô giáo người gày gò, trắng trẻo tên là Thu hỏi anh lái xe ôm:

- Anh về Sa Pa hay cũng nghỉ lại? Anh này trả lời: - Tôi về thôi. Mai lại vào. Ông nhà văn này muốn tìm đồ cổ, có gì nhờ hai cô giáo tìm giúp.

Họ chia tay nhau. Hai cô giáo dẫn tôi vào lớp học, ở đấy đang có một cô bé người Mông ngồi tập viết chữ. Hai cô giáo loay hoay kê những chiếc ghế băng sát lại, sau đó họ mang đệm và chăn bông vào. Ngay lập tức, tôi đã có một chiếc giường ngủ hảo hạng. Tôi lấy điện thoại di động gọi về Sa Pa, anh Lai và chị Hỷ trách tôi nhưng hai cháu Quang và Vân thì thích, hứa có thể sẽ vào Suối Thầu với tôi.


Đêm hôm đó, bên bếp lửa, tôi được nghe hai cô giáo Thu và Kiểm kể về cuộc đời của họ. - Thế hai cô ở đây được mấy năm rồi? - Được 6 năm. - Thế Tết này các cô có về quê ăn Tết hay không? Cô Kiểm thở dài: - Cái Thu thì 27 Tết mới về. Còn em... Tết này chưa chắc em về được. - Thế có năm nào các cô ăn Tết ở đây hay không? Cô Thu bảo: - Tết năm nào em cũng về quê ăn Tết. Em đang định bỏ việc, ở đây chán lắm. Còn cái Kiểm, sáu năm rồi, năm nào nó cũng ở lại. Năm nào nó cũng bảo: “Tết này chưa chắc em về được”.


Cô Kiểm quay mặt về phía bóng tối, giấu ánh mắt buồn buồn. Tôi không tiện hỏi, bèn quay sang nói chuyện về phong cảnh với khí hậu Sa Pa. Tôi cũng hỏi về các món đồ cổ lưu lạc ở trong các gia đình người dân tộc ở vùng cao này. Thế kỷ XVIII, Hoàng Công Chất khởi nghĩa ở đồng bằng, bị triều đình đánh đuổi lưu lạc lên đây, có nhiều gia đình thổ hào đi theo. Đây cũng là vùng buôn bán hàng lậu từ Vân Nam Trung Quốc sang. Vì thế, rất có thể có nhiều đồ cổ lưu lạc ở đâu đấy rất quý giá.


Sáng hôm sau, cô giáo Thu chuẩn bị về quê. Lớp học đã nghỉ, chỉ có vài ba đứa học sinh thỉnh thoảng đến xin bài về học trong dịp nghỉ Tết. Cô giáo Kiểm dặn dò chúng. Ngày xưa, khi còn đi dạy học ở vùng núi Tây Bắc, tôi đã hiểu tâm trạng của các thày cô giáo miền xuôi lên dạy học ở miền núi vào những ngày này. Lòng dạ rối bời cứ như lửa đốt, sắm sửa quà Tết, gói ghém đồ đạc, mong chờ kỳ lương cuối cùng trong năm, bóng dáng của người thân cứ hiện rõ dần... Ôi tuổi trẻ phiêu lưu và ngốc nghếch!


Ngươi chẳng sợ gì gian khó, chẳng sợ gì cô đơn, dòng máu chảy trong huyết quản của ngươi mới mạnh làm sao, những chân trời nào và ánh mắt nào vẫy gọi? Giọng cười nào, tiếng hát nào, giấc mơ nào của ngươi cũng đều nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết hiến tặng cho cuộc đời, cho con người... mà người thì bạc như vôi, còn đời thì ngắn... Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả, những lớp người kế tục nhau như những đợt sóng bên ngoài trùng khơi... Cô giáo Kiểm cho một học sinh dẫn tôi đi vào trong bản.


Phần lớn các nhà ở đây đều nghèo, nhiều người Mông, người Nhắng nghiện thuốc phiện. Tôi rẽ vào một ngôi nhà trên núi, thấy một người đàn ông người Mông trạc 50 tuổi đang vật vã vì đói thuốc. Chị vợ đang ngồi giã mèn mén. Thấy tôi vào, họ cũng mặc kệ. Tôi lân la hỏi chuyện người vợ. Tôi nhìn thấy trong chạn bát có một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng đen thui. Pho tượng rất lạ, đó là hình hai mặt Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi trên toà sen đặt trên đống tiền và trên đĩnh vàng, có mấy chữ Hán, tôi chỉ đọc được bốn chữ: “Quan Âm chỉ lộ”. Tượng Quan Thế Âm tôi đã thấy nhiều, nhưng tượng được đặt trên một đống tiền và vàng thì chưa từng thấy. Tôi đoán đây là tượng của một thương gia nào đó, có thể được đúc riêng nhân kỷ niệm mừng sinh nhật hoặc mừng tân gia cho ai đó.


Pho tượng trông rất có thần, đường nét tinh tế, không cổ lắm nhưng rõ ràng không phải tượng mới. Trong ruột bức tượng, có lẽ người ta có yểm bùa và cho vào đó những viên sỏi kỳ lạ, lắc lên nghe lạo xạo. Tôi hỏi người đàn bà, tỏ ý muốn mua pho tượng. Người chồng trừng mắt: - Không bán đâu. Nó là gia bảo đấy! Tôi không gặng hỏi, tôi biết người Mông tính rất dứt khoát. Tôi rất ái ngại vì thấy tình cảnh của gia đình này thật bi đát. Tôi lấy ra một món tiền nhỏ tặng chị vợ. Chị ta không nhận, nhìn về phía người chồng rồi nói: - Không lấy tiền đâu! Nếu có tiền nó lại đi mua thuốc phiện. Người chồng đứng lên, giật phắt lấy số tiền trên tay tôi, quát vợ: - Nó cho mình thì mình lấy chứ! Chị vợ bối rối, không biết làm sao cả. Chị ta nói với chồng: - Hết gạo rồi! Cũng không có thịt mà ăn Tết nữa!


Người chồng không nói năng gì, khoác chiếc áo bông cũ đi ra. Chị vợ bảo tôi, vẻ bực mình thực sự: - Ông hại nó rồi. Nó sẽ đi đến mai mới về! Tôi nhớ mãi ánh mắt chị. Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của những người phụ nữ đau khổ, rất nhiều ánh mắt tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng thấy gì, nó không đủ sức lưu lại hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật gì. Không biết những người chồng, người con, những người thân của họ đã làm những gì để làm cho nó khô kiệt, đã làm mất hết đi vẻ tinh anh trong ánh mắt kia? Cuộc đời con người nào nhiều nhặn gì, ai trong số chúng ta đã được yêu thương, đã được vuốt ve bởi những ánh mắt chân tình tự nhiên không hề vướng bận sân si vụ lợi?



Tôi quay trở về trường học, lòng thoáng buồn. Anh lái xe hôm qua đã quay trở lại, chuẩn bị chở cô giáo Thu ra Sa Pa để mua vé tàu hoả về quê ăn Tết. Cô giáo Kiểm và cô bé học trò người Mông ra tiễn họ. Anh lái xe hỏi tôi: - Ông có về không? Tôi bảo: - Tôi muốn ở lại. Nếu được, ngày mai anh vào đón tôi. Anh lái xe cười: - Tôi biết ngay mà...


Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người...

Buổi chiều, cô giáo Kiểm và cô học trò người Mông (sau này tôi biết tên nó là Giàng Seo Mẩy) loay hoay dọn dẹp, quét dọn xung quanh ngôi trường đón Tết. Cô giáo Kiểm mang cờ ra, treo lên cái cột ở giữa sân trường. Chập tối, lúc chúng tôi chuẩn bị ăn cơm thì có khách đến. Tôi đoán đấy là chồng hoặc người nhà cô Kiểm. Người đàn ông này tên Công, trạc 50 tuổi, dáng điệu phong trần, như ở nơi rất xa xôi đến. Cô Kiểm mừng rỡ, đun nước nóng cho ông ta ngâm chân, săn sóc ông ta từng ly từng tí. Trong bữa cơm ông ta bảo cô giáo Kiểm: - Anh chỉ ở đây với em đến mồng 1 Tết.


Sáng mồng 2 Tết anh phải đi rồi. Cô Kiểm bảo: - Tuỳ anh. Anh ở bao lâu cũng được. - Nếu anh không lên, em có về quê ăn Tết hay không? - Em không biết. Tết này chưa chắc em về được Ăn cơm xong, người đàn ông rủ tôi ra ngoài ngồi hút thuốc. Ông ta hỏi: - Có phải ông là nhà văn viết cái gì đó về hoa thủy tiên phải không? Tôi bảo: - Phải! Ông ta bảo: - Tôi có nghe loáng thoáng về ông. Ông là nhà văn nổi tiếng, đã đi ra nước ngoài nhiều lần. Tôi bảo: - Phải! Ông ta nói: - Tôi cũng đã đi ra nước ngoài nhiều lần. Càng đi, càng thấy thương nước Việt Nam mình. Đất nước mình thật đẹp, dân mình thật tốt, chỉ phải cái nghèo. Tôi hỏi ông ta về quan hệ của ông ta với cô giáo Kiểm. Ông ta thở dài: - Đấy là người mà tôi yêu dấu vô cùng.


Tôi có vợ rồi, nhà ở Lạng Sơn. Tôi biết Kiểm 3 năm nay rồi. Năm nào tôi cũng về đây ăn Tết. Kiểm đối với tôi đúng là “hồng nhan tri kỷ”. Tôi được một người như thế yêu thương thì chết cũng chẳng oán hận gì. Tôi hỏi: - Ông biết cô ấy trong trường hợp nào? Ông ta bảo: - Cũng giống như ông. Tôi đi du lịch, đúng hơn là tôi đi tìm cái chết. Hồi ấy tôi làm ăn thất bại, gia đình tan nát, tôi rất chán đời. Tôi lên Sa Pa, định trèo lên đỉnh Phan-Xi-Păng tự vẫn. Nhảy vèo xuống núi một cái là xong. Tôi gặp Kiểm, Kiểm mang tình yêu đến cho tôi.


Kiểm đúng là Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn “save from misfortune and danger”. Tôi biết ơn cô ấy. Tết nào cô ấy cũng đợi tôi. Tôi bảo: - Ông có vẻ như một người hạnh phúc. Ông ta bảo: - Cám ơn ông. Cũng còn tuỳ thuộc cách nhìn. Từ khi biết Kiểm, tôi sống tốt hơn lên. Tôi yêu mến tất cả mọi người, tôi làm nhiều việc có ích cho đời. Là nhà văn, ông nên viết về tình yêu của người phụ nữ. Họ yêu thương đàn ông chúng ta, làm cho thế giới này tốt đẹp lên nhiều. Tôi hỏi về công việc của ông ta.

Ông ta nói: - Tôi là thương nhân. Tôi buôn bán ở Hồng Kông, ở Mỹ. Có lần tôi sang cả Thuỵ Điển. Kiểm như một vị Bồ tát chỉ đường. Tôi buôn bán không phải vì tiền mà vì điều thiện, vì quan hệ với con người. Tôi chăm chú nhìn Công, thấy ông ta là người thành thực. Tôi rất ngạc nhiên, ngẫm nghĩ mãi về hình ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ, dạy học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại là nguồn cảm hứng cho gã Đôn Kihôtê giang hồ quốc tế, khiến ông ta làm được những việc động

trời. Thế gian này thật diệu kỳ! Trong muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều diệu kỳ nhất.

Tôi ở Suối Thầu đến hết ngày hôm sau. Tôi được biết Giàng Seo Mẩy, cô học trò người Mông chính là con gái của hai vợ chồng người Mông mà tôi đã gặp. Mẩy ở với cô giáo Kiểm, cô bé giỏi tiếng Anh, nổi tiếng là một “gai nhí” ở khu du lịch Sa Pa. Anh lái xe ôm vào Suối Thầu đón tôi. Ngôi biệt thự mà chị Hỷ thuê riêng đã được trang hoàng lộng lẫy. Tối hôm đó, chị Hỷ làm tiệc tất niên.


Sâm-banh được mở ra, ai nấy đều vui vẻ. Rượu ngà ngà say, anh Lai hỏi tôi: - Chú là nhà văn, chú có biết câu “nhà văn là tai mắt của nhân dân” không? Chú viết văn, điều gì hướng đạo ngòi bút của chú? Cháu Quang học ở đại học Duke, bang Carolina ở Mỹ, ở đấy có khoa viết văn, đào tạo các nhà văn tương lai. Rất nhiều người ở các nước khác đến đây học. Khi sang Mỹ, tôi đã từng có bài thuyết giảng ở đây. Hôm đó, tôi đã nói về sự vô minh của con người và thế giới, lòng khát khao của cá nhân tôi với cuộc sống mà Thượng đế ban cho.


Hôm đó cháu Quang cũng dự. Đến hôm nay, khi nghe anh Lai hỏi, tôi bỗng nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá. Tôi nói với anh Lai rằng quả thực không phải lúc nào tôi cũng trả lời được những câu hỏi do công việc và cuộc sống đặt ra. Anh Lai nói: - Tôi nhớ trong Kinh thánh, Chúa đã từng mắng các văn sĩ rằng họ chỉ nhắm miếng ngon, khát khao thụ hưởng. Trong các hội đoàn, họ ngồi ghế hạng nhất... Chúa không mắng những người làm nghề nghiệp khác. Nghề của chú không phải là nghề, nó làm rối tinh trật tự.


Tôi thấy khó trả lời, miếng cơm ăn đắng ngắt. Anh Lai là nhà chính trị, anh không biết rằng tôi cũng đã từng làm nhiều nghề kiếm sống. Định mệnh của tôi không phải do tôi quyết định. Tuy nhiên, tôi không tranh cãi với anh. Hôm nay tôi là khách mời. Đầu óc tôi vẫn còn đang vấn vương hình ảnh những người sống rất giản dị ở bản Suối Thầu, họ không bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia? Cô giáo Kiểm, một cô gái bé nhỏ sinh ra ở biển, sống 6 năm trời với các em bé người Mông, người Nhắng, đồng lương dạy học chẳng đáng là bao; ngồi giữ ngọn lửa tình yêu cho một tay giang hồ dọc ngang trời đất. Rồi hai vợ chồng người Mông nghiện hút, họ chẳng bao giờ đi xa khỏi bản của mình...


Cháu Quang và cháu Vân cho xem những bức ảnh chụp ở bãi đá cổ Hầu Thào. Trên các hòn đá có các hình khắc kỳ dị. Ai đã viết lên đấy? Liệu thời tiền sử có một tay văn sĩ rồ dại nào đi làm chuyện ấy hay không? Ăn xong, tôi về phòng, thấy cháu Yên, cô gái "ô-sin" đang ngồi ăn cơm thầm dưới gầm cầu thang. Tôi hỏi: - Sao cháu không ăn cơm cùng với mọi người? Yên nói: - Cháu quen rồi! Chị Hỷ đi ra bảo tôi: - Lệ ở nhà này là thế. Tôi vốn có “tay” nuôi "ô-sin". Dân chủ thì dân chủ. Nhưng trật tự cần hơn dân chủ. Anh yên tâm đi, một mình nó một mâm, cũng đầy đủ sơn hào hải vị.


Sáng hôm sau tôi ra chợ Sa Pa. Anh lái xe ôm hôm trước gặp tôi. Tôi vào chợ, mua một bao gạo 50 ki lô và một đùi thịt lợn, nhờ anh ta chở vào Suối Thầu tặng gia đình của Giàng Seo Mẩy. Anh lái xe cười: - Thế này thì nhà này năm nay ăn Tết to rồi! Tôi thấy vui vui. Chừng mấy năm nay, tôi không còn nhiều lòng ham hố “kiếm chác” cho mình, nhiều khi cho được người khác cái gì thích hơn được nhận. Tôi không giàu có nhưng cũng chẳng nghèo. Tôi không có nhiều người thân, nhiều bạn bè. Tôi đã trót rào quanh tôi hàng rào danh tiếng, đấy cũng không phải do ý thức của tôi chủ định, rất nhiều các thói đời xô đẩy khiến tôi lâm vào tình cảnh trớ trêu như thế. Nhiều khi, tôi rất cô đơn ngay giữa nhà mình.


Những bạn bè cũ cũng ngại gặp tôi, tôi cố gắng phá đi mặc cảm tự ti vì không thành đạt ở trong lòng họ mà không phá được. Nhiều lần, tôi nhớ lại những ngày gian khó thuở tôi còn đi dạy học ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thày giáo tiểu học vô danh, tôi như viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận. Đêm chẳng bao giờ là dài, ngày chẳng bao giờ là ngắn. Những ngôi sao xa xôi trên bầu trời giục giã vẫy gọi tôi. Tôi sống, tôi sống như cô giáo Kiểm, như Giàng Seo Mẩy, như người đàn bà Mông kia ở bản Suối Thầu, tôi chẳng bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia... Lúc ấy, tôi chưa có ý thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống cho mình.


Ngày 30 Tết, Sa Pa vắng tanh vắng ngắt. Tiết trời cuối năm lạnh giá, nhiệt độ xuống tới 5 độ. Xung quanh nhà thờ, không còn những người bán đồ lưu niệm. Đội quân lái xe ôm cũng đã về nhà. Tôi vào trong nhà thờ, thấy có một mình cháu Yên, cô gái "ô-sin" của nhà anh Lai đang quỳ gối, cầu kinh trước bàn thờ Chúa. Tôi quay ra, không muốn làm phiền cô bé ngoan đạo. Lá của những cây báng súng rơi lả tả ở trên mặt đường. Một vài ba khách du lịch nước ngoài lác đác đi bộ dọc trên hè phố. Sa Pa thật đẹp, vẻ đẹp dịu dàng. Phía xa xa, Phan-Xi-Păng, ngọn núi cao nhất được ví như nóc nhà của người Việt Nam thấp thoáng ở trong mây trắng.


Tôi đi lững thững về nhà. Trước cổng biệt thự, tôi ngạc nhiên nhìn thấy người đàn ông người Mông nghiện hút ở bản Suối Thầu mà tôi đã gặp đang ngồi ở đó. Chị Hỷ chạy ra bảo tôi: - Người này chờ chú suốt cả buổi chiều. Tôi đuổi nhưng lão ấy không đi. Không biết là có chuyện gì. Người đàn ông người Mông ngồi ủ rũ nhắm mắt lại như người ngủ gật. Trông thấy tôi, ông ta đứng dậy, mắt sáng hẳn lên. Ông ta hỏi tôi: - Mày gửi cho tao gạo và thịt à? Tôi gật đầu. Ông ta bảo tôi: - Vợ tao rất thích. Nó cám ơn mày! Thấy chuyện lạ, anh Lai và hai cháu Quang, cháu Vân cũng chạy ra xem. Người đàn ông người Mông lấy ra trong gùi một bọc vải nhỏ giúi vào tay tôi. Ông ta nói: - Cái này của mày! Nói xong ông ta quay đi, chẳng chào ai cả. Tôi nhìn theo người đàn ông người Mông bước đi loạng choạng, áy náy vì không hiểu làm sao ông ta lại có thể đi được về nhà.


Chị Hỷ đỡ lấy bọc vải ở trong tay tôi mở ra. Chúng tôi sững sờ vì đấy chính là pho tượng “Quan Âm chỉ lộ”. Tôi không thể tin ở mắt mình, càng không ngờ lại có phúc có pho tượng ấy. Mọi người trong nhà anh Lai xuýt xoa, ai cũng sờ nắn, xem xét, không muốn rời tay.


Buổi tối, dưới ánh đèn pho tượng trông thật rạng rỡ. Xem xét kỹ, ai cũng thấy rõ ràng đây là một pho tượng quý. Ở dưới đĩnh vàng, có hình Thái thượng lão quân đắp nổi và chữ “Bình an lộ”. Ý nghĩa của pho tượng là hãy đi trên con đường bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường mà Quan Thế Âm Bồ tát chỉ lối đưa đường. Anh Lai và chị Hỷ áng chừng đây là pho tượng đồng có thể có từ thời nhà Thanh Trung Quốc. Tôi không nghĩ thế bởi xem xét kiểu chữ khắc trên đó thì có thể nó có muộn hơn.

Sau phong trào Ngũ tứ và Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, người ta cải cách chữ Hán. Lúc này tinh thần dân tộc của người Trung Quốc lên cao, nhiều thương gia xuất hiện cố gắng vươn ra thế giới. Rất có thể đây là pho tượng của một thương gia thành đạt thời ấy. Song, đây cũng có thể là pho tượng của một người Việt Nam nào đó làm ra. Tôi đã từng đến xem các lò đúc đồng ở Huế, ở Hà Nam, ở Hà Nội và rất thán phục nhiều tác phẩm điêu khắc kỳ khu của họ. Muốn biết rõ lai lịch của nó phải chờ khi về Hà Nội hỏi các chuyên gia. Tôi không phải là người chơi đồ cổ, những thứ thế này tôi chẳng biết gì.


Đêm 30 Tết, chúng tôi ngồi đón giao thừa. Pho tượng đặt giữa bàn ăn thắp nến. Một bầu không khí thiêng liêng và bình an làm cho ai nấy đều xúc động, muốn xích lại gần nhau hơn. Anh Lai chúc mừng tôi. Anh nói: - Năm mới, “quý vật gặp quý nhân”. Chắc là con đường phía trước của chú sẽ bình an may mắn. Tôi cười như mếu. Tôi không còn trẻ. Tôi không hy vọng gì nhiều ở phía trước. Với tôi từ lâu “cuộc chơi đã kết thúc rồi”. Tôi ngẫu nhiên có pho tượng này, thực sự thâm tâm tôi cũng chẳng cầu. Phúc hoạ thường vẫn đi kèm như hình với bóng. Ý nghĩa phù du của cuộc sống cho đến một lúc nào đó ai cũng hiểu ra.

Thường thường, hiểu ra thì đã muộn rồi. Trời xanh kia vẫn trớ trêu, được mất ở đời có gì quan trọng? Tôi nói điều ấy với anh Lai, chị Hỷ. Ai cũng cười tôi, cho tôi là người “bi quan chủ nghĩa”. Ừ thôi cũng được, chúng ta hãy sống, chấp nhận nhau, yêu thương, làm sao mỗi ngày ta sống sẽ là một ngày hoan lạc, ở đấy chỉ có nụ cười thân thiết và những lời nói chân tình với nhau. Chị Hỷ lấy tiền ra mừng tuổi mọi người. Chị nói với tôi: - Nếu chú bán pho tượng thì tôi mua đấy! Tôi cười. Tôi thấy khó xử. Nếu anh chị thích thì tôi tặng lại, “quý vật gặp quý nhân”, cũng là một lẽ... Anh Lai trầm ngâm, lắc đầu: - Định mệnh của chú... Chắc là nghiệp chướng gì đây! Chúng tôi không làm thế được! Mọi người uống rượu sâm-banh, chúc tụng nhau rồi đi ngủ. Pho tượng vẫn đặt trên bàn.


Ngày mồng 1 Tết, cả nhà anh Lai với tôi đi dạo phố phường, chúc Tết bất cứ ai gặp trên đường. Nhìn thấy gia đình anh Lai ríu rít, tôi bỗng giật mình: - Ngày Tết là ngày đoàn tụ gia đình. Tại sao tôi lại ở đây? Lòng tôi cồn cào như có lửa đốt. - Tết này chưa chắc em về được... Câu nói bâng quơ của cô giáo Kiểm văng vẳng bên tai. Tôi bật cười, nhớ lại mấy câu thơ cũ của một nhà thơ mà tôi yêu mến:
Giang hồ sót lại mình tôi Quê người đắng khói quê người cay men...

Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng Ai bảo mắc duyên vào bút mực Sòng đời mang lấy số long đong Người ta đi kiếm giàu sang cả Mình chỉ mơ toàn chuyện viển vông Khốn nạn, tưởng yêu thì khó chứ Không yêu thì thực dễ như không!...

Đời người cầm bút xưa nay mấy người thanh thản? Khúc đoạn trường, mấy ai hiểu rõ nỗi lòng của mỗi một người?
Chiều hôm ấy, sau bữa cơm, ai nấy đều giật mình vì phát hiện ra pho tượng “Quan Âm chỉ lộ” bỗng nhiên biến mất. Tất cả nháo nhác đi tìm. Anh Lai rất bực, đập vỡ cả lọ hoa. Không khí ngày Tết trở nên ảm đạm. Thật vô lý quá, ngôi biệt thự này có tường bao quanh, không ai ra vào. Đồ đạc trong nhà không mất thứ gì. Tại sao bức tượng không cánh mà bay?


Anh Lai gọi từng người một vào phòng cật vấn. Anh tỏ ra rất bực. Cháu Quang, cháu Vân bị xúc phạm, phát khóc, bỏ đi, tối cũng không về. Tất cả nghi ngờ đổ vào cháu Yên, cô bé "ô-sin" tội nghiệp. Cô bé gọi tên Chúa, thề thốt đủ điều.

Chị Hỷ lục soát các túi đồ đạc, áo quần của nó. Tôi cố can gián nhưng không làm sao ngăn được sự giận dữ của hai vợ chồng anh Lai. Sáng mồng 2 Tết, chị Hỷ tống cổ cháu Yên, mua vé tàu hoả bắt nó trở về Hà Nội. Những ngày nghỉ Tết còn lại trở nên khó chịu vô cùng. Ngày mồng 4 Tết, anh Lai họp mọi người trong nhà, quyết định trở về Hà Nội sớm hơn dự định. Chị Hỷ thu xếp đồ đạc, sai cháu Quang đi thuê xe ô tô chở chúng tôi về Hà Nội ngay ngày hôm ấy.


Anh Lai gọi tôi vào phòng, đóng cửa lại, bảo tôi: - Gia đình tôi thật có lỗi với chú. Sự việc xảy ra thật không hay. Pho tượng quý bị mất, tôi rất ân hận. Gia đình tôi tự thấy phải có trách nhiệm bồi thường cho chú... Anh Lai lấy tiền ra, bảo tôi: - Đây là 1 nghìn đô-la. Số tiền này không phải là số tiền đánh giá giá trị pho tượng. Nó có thể hơn thế, cũng có thể nó không bằng thế... Chú hiểu cho tôi, đây chỉ là một số tiền mọn nhỏ nhoi, giải quyết một sự kiện mọn không ra gì. Thực khốn nạn, tôi không biết chứng minh danh dự của gia đình tôi bằng cách thế nào với chú. Khi phải dùng hạ sách này, chính tôi, tôi cũng rất nhục.


Chú hiểu cho tôi, từ xưa đến nay tôi vốn là người dứt khoát, rạch ròi, chính trực. Tôi bảo anh Lai rằng anh không nên làm thế, rằng pho tượng này chỉ là quà tặng mà thôi, rằng tôi có được cơ duyên làm bạn với gia đình anh thì không nên chỉ vì một chuyện nhỏ con mà làm phương hại tình cảm với nhau, rằng... Anh Lai cố ép nhưng tôi không nhận. Chúng tôi cãi nhau. Cuối cùng tôi nói, thực ra cũng vì quá bực mình với thái độ kiên quyết cố chấp của anh: - Thế anh có bao giờ nghĩ rằng chính tôi giấu đi pho tượng này không? Có thể vì mục đích này hay mục đích khác? Anh Lai cười nhạt, ngồi xuống ghế, lắc đầu: - Thực ra, cũng có lúc tôi đã nghĩ thế. Xin lỗi chú, tôi cũng đã bí mật lục soát đồ đạc của chú.


Do nghề nghiệp, tôi đã phải tiếp xúc, làm việc với đủ hạng người, xem xét cả khía cạnh cao thượng lẫn lưu manh trong con người họ, không trừ ai hết, kể cả người thân. Không phải tôi không tin con người, không phải tôi không nhân văn, chú đừng đánh giá tôi thấp, rằng tôi là kẻ lạnh lùng. Có những công việc không nên để cho cảm tính dự vào. Thú thực với chú, không một hạng người nào mà qua được mắt của tôi, tôi không đảm bảo 100% nhưng tới 90% thì tôi chắc chắn, rằng tôi hiểu được họ và tôi kiểm soát được họ, trừ một loại người... Chú có biết không, chính là nhà văn, chính là những người như chú...


Tôi lặng người đi, bỗng nhiên thấy trong lòng mình đắng ngắt. Anh Lai đi đi lại lại trong phòng. Anh nói với tôi: - Tôi không hiểu nổi một người viết văn như chú. Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho mọi người dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì? Ai trao cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách của chú tôi gạt sang bên. Tôi không hiểu sao mọi người vì nể một người như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt... Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng hão huyền, ghê gớm ấy ở mỗi một người? Điều ấy là tốt ư? Không phải! Xấu ư? Không phải! Từ bản chất, tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú. Chú có hiểu không? Tôi ngạc nhiên nhìn anh Lai.


Hoá ra chuyến đi của tôi và gia đình anh chỉ là cái cớ để anh tìm hiểu về tôi. Tôi bật cười, hoàn toàn bất ngờ vì sự trớ trêu trong hoàn cảnh đó của mình. Tôi dứt khoát không nhận số tiền anh Lai đưa cho. Tôi có những nguyên tắc lương tâm của tôi. Tôi nói với anh rằng thực ra số tiền này phải thuộc về người đàn ông người Mông nghiện ngập mà tôi ngẫu nhiên gặp gỡ, chính tôi cũng chẳng biết tên tuổi ông ta là gì. Nếu có số tiền ấy, ông ta cũng chỉ dùng để hút thuốc phiện mà thôi, nó cũng chẳng giúp cho ông ta cải thiện thêm gì số phận tồi tệ của mình. Câu chuyện về bức tượng “Quan Âm chỉ lộ” tốt nhất là nên chấm dứt ở đây. Tôi hy vọng tình cảm của tôi với gia đình anh không phải chỉ vì một chuyện nhỏ nhoi thế này mà sứt mẻ.


Chúng tôi về Hà Nội. Thời gian trôi đi. Tôi cũng nghĩ rằng câu chuyện không vui trong dịp Tết năm ấy rồi cũng rơi vào quên lãng, chẳng còn ai nhớ. Sáu tháng sau, tôi được biết anh Lai đã đi nhận công tác mới, cháu Quang cũng sang bên Mỹ làm việc, cháu Vân thì đi học đại học ở Anh. Một hôm, chị Hỷ đến nhà tôi chơi. Tôi rất ngạc nhiên thấy chị mang đến bức tượng “Quan Âm chỉ lộ”. Chị nói: - Tôi đã tra hỏi con bé "ô-sin". Tôi đã không nhầm. Nó là thủ phạm của vụ trộm này. Chú có biết không, hạng người như nó thì có dạy dỗ thế nào vẫn thế... Tôi đã đuổi việc nó rồi!


Tôi mời chị Hỷ ở lại ăn cơm nhưng chị từ chối nói là rất bận. Tôi ngồi một mình, buồn bã nâng bức tượng lên tay xem xét. Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm thầm quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện hôm nào trong ngôi nhà thờ ở Sa Pa hiện ra ở trước mắt tôi. Tội nghiệp cho nó. Tôi không tin nó là thủ phạm. Ở bên ngoài, những chiếc lá của cây báng súng rơi lả tả trên nền sân đá.


Chị Hỷ ra về. Tôi cẩn thận đặt bức tượng Phật lên trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế Âm Bồ tát hình như có một giọt nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số phận trớ trêu của mỗi con người. Chắc chắn là tôi sẽ còn quay trở lại Sa Pa. Phải trở lại chứ! Vì sao ư? Vì Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người! Trên đất nước mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy làm cho mảnh đất này ngày càng phì nhiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ thế. Vậy còn bạn, bạn nghĩ thế không? Kìa Xuân đang về. Lại một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm thanh trong lòng. Phải sống! Phải sống cho ra giá trị cuộc sống con người, dù cho thế nào đi nữa... (NHT)


No comments: