MỐI
TÌNH ĐẦU CỦA TẢN ĐÀ
Ngày
xưa, chàng thi sĩ ấy đã yêu say mê và đã đau khổ. Năm Tản Đà mười chín tuổi, là
tuổi chín muồi mộng mơ, khao khát, Tản Đà đã say mê một hình bóng giai nhân.
Năm
này,năm 1907 là một năm quan trọng, đánh dấu một khúc quanh trong đời chàng thư
sinh họ Nguyễn. Thân phụ Tản Đà là án sát Nguyễn Danh Kế mất sớm, mẹ lại bỏ đi
theo nghiệp xướng ca, Tản Đà nương náu vào người anh cùng cha khác mẹ là phó bảng
Nguyễn Tái Tích. Ông là anh nhưng cũng là thầy, là bậc quyền huynh thế phụ theo
truyền thống xưa đã nuôi em ăn học. Năm này, ông Nguyễn Tái Tích từ Sơn Tây được
bổ nhiệm về Hà Nội, làm ở cục Tu Thư. Tản Đà theo anh về Hà Nội. Gia đình trọ ở
Hàng Nón . Lúc bấy giờ Pháp đã muốn loại bỏ nho học. Chương trình mới gồm chữ
nho, quốc ngữ và Pháp văn và đang bắt đầu thí nghiệm với những trường kiểu mẫu
. Hàng ngày Tản Đà theo học trường Quy Thức ( École Modèle), đường Gia Ngư :
" Quảng oai vừa trải bốn xuân dư,
Xuân mỗi ngày cao, học cũng như
Cuối xuân mười chín ra Hà Nội,
Học trường Quy Thức đường Gia Ngư.[1]1"
Con đường từ nhà đến trường
đã trở thành con đuờng hoa mộng. Hàng ngày đến trường, chàng thư sinh họ Nguyễn
phải đi qua phố hàng Bồ. Đấy là lối vào Thiên Thai, là con đường tình sử của một
chàng thi sĩ tuổi đương thì ! Tất cả tâm hồn chàng đều để cả vào một gian hàng
sách mà lúc bấy giờ người ta cũng gọi là hàng tạp hóa , ở "số nhà hơn hai mươi về giẫy bên lẻ có một
người con gái ngồi bán hàng tạp hóa" [2].
Đó là một giai nhân mày ngài mắt phượng, đã làm điên đảo tâm hồn thi nhân. Những
ngày đó thật thơ mộng,thật đẹp đẽ! Ngôi nhà của người yêu đã trở thành một
thiên đường diễm ảo cho kẻ tình si! Trừ những ngày mưa gió bão bùng, không một
ngày nào Tản Đà không đi qua ngõ ngưòi yêu! Tản Đà viết :
" Mỗi buổi chiều tan học, ở Gia Ngư về hàng Nón, trừ
phi giời mưa gió,thường tất phải đi quanh hàng Bồ"[3]
Có lẽ Tản Đà cũng như những
chàng trai tình si thuở xưa yêu rất say đắm nhưng lại rất rụt rè, thầm kín :
" Ngó em không dám ngó lâu,
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.[4]
Nhưng
môt đôi lần, Nguyễn sinh lấy tất cả nghị lực, bước vào hàng sách, hỏi mua cây
bút Tảo Thiên quân, vài thỏi mực Kiêu Kị ,vài thếp giấy hoa tiên để nhìn vào
đôi mắt giai nhân, và đón nhận một nụ cười. . . Tâm trạng Tản Đà là tâm trạng của
con người cuồng si. Phải chăng Tản Đà là thi nhân cho nên đam mê mạnh mẽ hơn
người ? Hay đó là cái bệnh chung của những kẻ yêu mối tình đầu?
" Cái giống yêu hoa lạ lạ đời,
Mắt xanh chưa lọt đã mê tơi!
Chim trời cá nước duyên ai đó
Vía dại hồn khôn chết dễ chơi.” [5]
Thât
ra chính trị, tôn giáo, văn hóa và tình yêu đều là chủ quan. Tại sao ta yêu người
này mà không yêu người khác ? Đó là chủ quan. Khi yêu thì người ta yêu là đẹp
nhất trần gian.
Tản
Đà đã nói lên tâm trạng mình trong những ngày dông bão của đam mê :
"Không biết có phải là tuyệt sắc hay không, mà tự
con mắt mình khi bấy giờ thời như ngoài người ấy không có ai là con gái. [6]
Có
lẽ những khi ngồi bên án sách hay những đêm trường quạnh hiu, thi nhân đã luôn
nhớ tưởng hình bóng giai nhân:
" Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau,
Nhớ
nhau đằng đẵng suốt đêm thâu.
Bốn
phương mây nước , tình đôi ngả,
Hai chữ tương tư, một gánh sầu.[7]
Tình
yêu của những lớp người xưa khác với tuổi trẻ ngày nay. Ngày nay người ta yêu
chỉ để mà yêu. Ái tình và hôn nhân là hai chuyện khác nhau. Ngày xưa, người ta
yêu là muốn đi đến hôn nhân. Tản Đà đã mơ ước cùng giai nhân kết tóc xe tơ trăm
năm đầu bạc :
" Chắp đôi tay anh vái lạy ông Hoàng thiên,
Sớm sai ông nguyệt lão để xe duyên cho chúng
mình.
Dù duyên, dù nợ, dù tình,
Lòng anh đây đã quyết thời cô mình cũng phải nhất
tâm.
Ở đời, em ơi, được mấy tri âm ![8]
Và
:
" Ai xui anh lấy được mình,
Để anh vun xới ruộng tình cho xanh.
Ai xui mình lấy được anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em [9]
Quá
si mê người thiếu nữ hàng Bồ, Tản Đà quyết định đi đến hôn nhân cho dù lúc đó Tản
Đà chỉ là một bạch diện thư sinh. Người con gái đó là ai mà Tản Đà yêu ghê gớm
đến thế ? Nàng là ái nữ của Đỗ Thận tiên sinh, một nhân sĩ lừng danh của Hà
thành lúc bấy giờ mà báo Phong Hóa của Nhất Linh đã nhiều lần đề cập. Theo ông
Nguyễn Mạnh Phưởng ( con trai cụ phó bảng Nguyễn Tái Tích, gọi Tản Đà bằng chú
) , ông Đỗ Thận là một nhà nho khôn ngoan, lại có óc kinh doanh. Ông ra làm ký
lục cho Pháp, được Pháp tin cậy. Ông mở hiệu sách Cẩm Vân Đường và giao cho hai
cô con gái lớn trông coi.
Theo
Hồ Đình Chử, ông Đỗ Thận có bốn gái, hai trai. Cô gái đầu lòng là Đỗ thị Thăng
( đối tượng của Tản Đà ) , cô thứ nhì là Đỗ thị Thi, cô ba là Đỗ thị Phúc, cô
tư là Đỗ thị Thảo.Một người con trai mất sớm, một người tên là Đỗ Cầu.[10]
Theo
ông Nguyễn Mạnh Bổng, Đỗ thị có "khổ
mặt trái soan, da trắng, tóc dài, người nhỏ nhắn xinh tươi, có vẻ yêu kiều
ngoan ngoản, ăn nói dịu dàng lễ phép dễ nghe, biết đọc chữ nho, chữ quốc ngữ -
ngày xưa người con gái được thế là gia giáo đáng quý lắm, vì nữ học chưa mở
mang.[11]
Yêu
Đỗ thị, Tản Đà bèn đem tâm sự trình bày với trưởng huynh nhưng không đuợc trưởng
huynh chấp thuận. Tản Đà cho ta biết là ông phó bảng bảo rằng
"Nhà ta nghèo như thế, lấy đâu xe song mã mà cưới."
[12]
Cụ
bà Nễ Xuyên Nguyễn Thiện Kế, nhũ danh Nguyễn Thị Hiền , chị ruột Tản Đà nói với
chúng tôi rằng cụ phó bảng bảo :"
Quan viên Hà Nội , nhà nghèo dây sao được!"
Theo
Hà Xuân Tế, " vì cảnh nhà thanh bạch
cho nên ông anh không tính đến sự hôn thú ở nơi thành thị, mà câu chuyện bỏ qua
không nói đến." [13]
Theo
ông Nguyễn Mạnh Phưởng, ông bảng bảo :
'Tao không làm bạn với ký lục.'
Tại
sao ông Nguyễn Tái Tích không tán thành việc hôn nhân của Tản Đà ? Ta có thể
chia các ý kiến trên thành hai: Ý kiến thứ nhất là gia đình Tản Đà nghèo. Ngày
xưa, người Hà Nội có tục thách cưới cao. Ông bảng là một người thuộc ngành giáo
chức, tất nhiên là thanh đạm. Ngày xưa , giữa nho gia và phú thương thường có
nhiều xích mích . Cuộc hôn nhân với gia đình Đỗ Thận quả thực gây nhiều điều
khó khăn về tài chánh cho gia đình họ Nguyễn, một gia đình đã phá sản vì thời
cuộc!
Ý kiến thứ hai do ông Nguyễn Mạnh Phưởng thuật lại ,là do giai cấp và
chính kiến bất đồng. Hai ý kiến đó đều đúng cả , nó diễn tả những khía cạnh
khác nhau của một vấn đề. Sự thực, ông Nguyễn Tái Tích vừa tự ty lẫn tự tôn. Một
mặt, ông tự ty vì nghèo. Một mặt ông tự tôn vì gia đình trâm anh thế phiệt, đời
đời khoa bảng.Ông cũng tự tôn vì ông yêu nước, không làm việc cho Pháp. Quá say
mê người đẹp, Tản Đà đã làm trái ý trưởng huynh.
Tản
Đà đã nhờ một người bạn đồng canh lo việc mối manh. Và nhà gái đã đồng ý.
Việc
này cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Tản
Đà viết :
'Tấm lòng ao ước, ngỏ cùng một người anh em bạn học đồng
canh. Người bạn đi nói giúp việc mối, cứ như bên nhà người con gái, thời việc
có nhẽ đã xong” [14]
Theo
bà Nễ Xuyên, chính quan huyện Móm, tức phu quân của bà vì thương em vợ mà đứng
ra lo việc tiếp xúc với nhà gái. Nguyễn Mạnh Bổng cũng cho biết chính ông Nguyễn
Thiện Kế đến nói với quan phán Đỗ. Khi về, ông anh rể thuật lại:
" Ái khanh cùng nghiêm phụ chỉ muốn được chồng,
được rể thi đỗ cử nhân, ra tri huyện mà thôi" [15]
Đó
là một lời khuyến khích hay một điều kiện ? Nếu đó là một điều kiện thì rất đơn
giản nhưng không dễ thực hiện. Nhưng khó là đối với ai kia chứ đối với Tản Đà
thì hạnh phúc ở trong tầm tay! Tản Đà là một người văn hay chữ tốt, xuât thân
gia đình khoa hoạn, lại được anh là phó bảng Nguyễn Tái Tích đào luyện. Mông
khoa danh ắt hẵn thành tựu. Mai đây, chàng sẽ thi đỗ, sẽ cùng người đẹp sánh
duyên giai ngẫu.
Đời
người con trai ngày xưa là chú trọng khoa cử, trọng sự nghiệp. Tình yêu là phụ.
"Trai thì đọc sánh ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân." [16]
Nhưng Tản Đà không chú trọng
sự nghiệp. Đối với Tản Đà, tình yêu là chính. Sự nghiệp chẳng qua là điều kiện
để chinh phục người đẹp. Nói cách khác công danh chỉ là phương tiện để thực hiện
cứu cánh tình yêu. Tản Đà cũng như vị tướng quân xông pha trận tiền giết giặc
không phải để cứu nước, không phải để lấy ấn phong hầu, mà chỉ vì nụ cười giai
nhân. Hàng ngày, Tản Đà ngâm bài cổ thi sau đây, và bài này đã nói lên tâm hồn
Tản Đà lúc này :
"An đắc tỳ hưu thập vạn binh,
Hổ lang sào huyệt nhất thời bình.
Quy lai bất sách phong hầu ấn,
Chỉ hướng quân vương mịch ái khanh."
(Sao được anh hùng mươi vạn binh,
Hổ lang hầm tổ dẹp tan tành.
Khi về chẳng lấy phong hầu ấn,
Chỉ đến thềm vua xin ái khanh.) [17]
Chính Tản Đà cũng thú thực
rằng việc thi cử chính là do tình yêu : "Mục
đích sự học ở khoa cử, tiền đồ khoa cử có quan hệ với tình duyên." [18]
.Nhưng rồi trời chẳng chiều người! Con người tài giỏi thơ văn như thế lại thi hỏng
khoa thi nhâm tí ( 1912) tại thành Nam . Tản Đà trở về Hà Nội, đi qua phố hàng
Bồ mong gặp giai nhân cho đỡ u sầu . Nhưng Tản Đà xiết bao cay đắng khi thấy
nhà người yêu pháo nổ rền vang trong ngày vu quy! Hỏi rõ ngọn nguồn, Tản Đà mới
biết Đỗ thị" sắp sửa bước lên xe song mã để về làm dâu một nhà quan huyện."
[19]
Tản Đà vô cùng đau đớn. Tản
Đà bị hai thất bại cùng một lần: Đại đăng khoa hỏng mà tiểu đăng khoa cũng mất
luôn. Tản Đà cất lên tiếng than oán não nuột:
" Cử tú không mà rể cũng không,
Còn đeo áo đoạn để ai trông.." [20]
Cụ bà Nễ Xuyên đã đọc cho
chúng tôi nghe bài thơ của Tản Đà sáng tác lúc này :
Điều
đâu sét đánh vỡ giời vang,
Thằng bé đương mê tỉnh dậy nhoàng.
Hỏi chú thiên lôi đâu chạy lại,
Từ bà huyện Thủy bắn tin sang.
Một dao tầm sét tan hồn phách,
Mãy mối tơ tình đứt dọc ngang.
Ông Nguyệt bỏ nhau tìm nẻo trốn,
Trăm năm mở mắt vẫn mơ màng."
Tản Đà thấy rõ cuộc đời
hư ảo, tất cả chỉ là giấc mông kê vàng . Tản Đà đã nuôi bao mộng đẹp nhưng cuối
cùng thành hư không:
"Người trong mộng, niềm nguyện mong, giục xui lòng:
rõ ràng đôi lứa, phụng thành song, thành song. Mừng tạo hóa chắp mối tơ hồng. Tỉnh
giấc cô phòng, dậy thành không, thành không. Sự sắt cầm chiêm bao thành
không." [21]
Trong nỗi đau khổ vì
tình, Tản Đà đã hành động một cách liều lĩnh và tuyệt vọng.
Sau khi Đỗ thị lấy chồng,
Tản Đà bỏ đi lang thang, rồi bỏ ăn bỏ uống, sống một cách điên cuồng, buông thả
và hành hạ mình.
Tản Đà bỏ lên Hòa Bình và
than vãn :
"Vì ai cho tớ phải lênh đênh,
Nặng lắm ai ơi một
gánh tình!"[22]
Sau Tản Đà lên chơi chùa
Non Tiên, làm văn tế Chiêu quân. Tế Chiêu Quân là khóc Đỗ thị, là thương tiếc một
giai nhân đã bỏ phí đời xuân về nơi mọi rợ :
"Má hồng để tiếc cho ai,
Đời người như thế có hoài mất không?
Khóc ai nước mắt ròng ròng,
Xương không còn vết, hận không có kỳ.[23]
Sau
khi từ giã Non Tiên, Tản Đà về ở ấp Cổ Đằng
( quận Tùng Thiện, Sơn Tây ) của cụ Nguyễn
Danh Kế.Tại đây Tản Đà càng chán nản cực độ.Tản Đà muốn tịch cốc tu tiên để
lánh trần tục mà đi về cõi cực lạc. Tản Đà viết :
" Cái bụng chán đời đến cực điểm, quyết mong tịch
cốc để từ trần. Tiếc không nhớ bắt đầu từ ngày nào thôi sự ăn cơm, chỉ khát
không chịu được.. . còn phải uống nước. Ba hôm như thế sầu khổ không thể chịu
được nữa, thời lại phải uống rượu. Rượu uống cũng uống xuông, mà uống đến thật
say. Nguyên đã ba hôm không ăn, trong bụng hư không, lại một phen say rượu mê
ly, thành ra tự đãy về sau, khác hẳn tự đãy về trước. Bụng không biết no, biêt
đói, người không biết vui biết buồn , cứ chỉ mỗi ngày một bữa rượu, hoặc uống
xuông, hoặc ăn một đĩa rau rưa nhỏ con, xong rồi đem chõng ra nằm ở dưới cây ngọc
lan, nghe những con chim kêu trên cành cây, hoặc là xem những đám mây đi trên
giời, con chim bay trên không, xem kết cục đến đâu là hết.[24]
Chính
Tản Đà cũng công nhận rằng lúc bấy giờ mình đã mắc bệnh khủng hoảng tinh thần:
"Trong khi đó tự lấy làm phóng dật thanh cao
nhưng thực đã gần ra tâm tật vậy" [25]
Càng
tuyệt vọng, càng đau khổ ,Tản Đà sinh ra oán thán mọi người. Việc đầu tiên là
trách gia đình không chu toàn hôn sự nên mới có chuyện thất bại ở hàng Bồ như
thế.[26]
Điều này kể ra cũng đúng. Nếu ông Nguyễn Tái Tích đến thăm viếng đôi lần
có lẽ nhà gái cũng vui vẻ và tin tưởng. Sự vắng bóng , sự lạnh lùng của ông
Nguyễn Tái Tích đã làm cho nhà gái bực tức. Nhưng điều này e chỉ đúng một phần.
Sự thực là do Tản Đà. Nhà gái đã nói rõ điều kiện của họ là muốn Tản Đà thi đỗ
cử nhân, ra tri huyện. Tản Đà không hội đủ điều kiện này, lẽ dĩ nhiên, nhà gái
phải nhận lời cầu hôn của một người khá hơn. Người đó là Nguyễn Văn Đồng, con
quan huyện Thanh Thủy, sau này làm việc cho Thống sứ Bắc kỳ. Dù ông Nguyễn Tái
Tích có lui tới săn đón , chưa chắc họ đã thiết tha con người thất bại Tản Đà.
Thứ hai là trách tình nhân phụ bạc, tham danh, tham danh, tham lợi:
-" Trách ai đánh đá nung vôi,
Trách ai ngả gỗ trên đòi đốt than.
Làm
cho vôi trắng than đen,
Cho
lòng đen bạc thế gian lắm người." [27]
-"Đa
tiền mới đa tình,
Ít tiền son phấn khinh" [28]
Ngày nay, người ta có thể
nói tình yêu của Tản Đà là tình yêu đơn phương, vì giữa hai ngưòi không hề có
việc hẹn ước dưới đêm trăng trong vườn Thúy, hay thư từ trao đổi theo dòng lá
thắm , cho nên Tản Đà không thể trách người bội bạc. Người ta phải vâng lời cha
mẹ mà thôi! Nhưng ngày xưa , việc hẹn biển thề non là ít, còn phần lớn do cha mẹ
quyết định. Ý kiến cha mẹ cũng là ý kiến của người con gái. Khi nhà gái hứa hẹn
có nghĩa là bản thân người con gái đã bằng lòng. Và khi bên gái bỏ lời ước hẹn
có nghĩa là người con gái phụ tình. Dầu sao thì đây cũng là một sự khước từ vì
Tản Đà thiếu điều kiện. Điều này cho phép Tản Đà than van tình đời tham phú phụ
bần ! Tản Đà giận Đỗ thị, giận luôn việc thi cử ! Tản Đà mượn lời Ngọc hoàng
thượng đế để bênh vực cho nỗi đau khổ của mình:
"Vì chi một sự khoa danh nhỏ mọn đến nỗi con bỏ chồng,
thằng rẫy vợ. . . Một sự thi cử ở trần gian sinh ra hại đến luân thường như thế,
thời thôi từ nay bỏ hẵn đi." [29]
Và trong đau khổ, Tản Đà
nảy sinh tâm lý ghen ghét, đố kị kẻ tình địch. Trong thi ca, Tản Đà châm biếm
chồng Đỗ thị theo dạng những câu tục ngữ ,ca dao Việt Nam . Hàng ngày Tản Đà
ngâm nga :
"Chị Hằng ơi, chú cuội ,
Con cú nọ cành mai.
Thương ai mà lại tiếc cho ai" [30]
Và Tản Đà đã ám chỉ người
chồng của Đỗ thị, ông Nguyễn Văn Đồng, người to béo, da đen, trong bài thơ sau:
Sợi tơ hồng ai khéo xe duyên,
Treo tranh tố nữ đứng bên anh tượng đồng.
Chị em ơi ba bảy đường chồng[31].
..
Bài văn dưới đây cũng được
sáng tác trong mục đích " trả thù tình địch" một cách xa xôi, kín
đáo:
" Thằng người ngây với con ngựa hay , chẳng phải
duyên cũng không phải nợ. Con ngựa hay để thằng ngây cưỡi, cũng không nên trách
thân mà lại giận giời. Ai ơi, nghĩ đi mà xem, nghĩ lại mà xem. Thế gian được vợ
hỏng chồng, cũng như thế đó. Cán cân tạo hóa, so đi nhắc lại, có mây khi nhầm ![32]
Khoảng 1913-1914, Tản Đà
đã vẽ một bức tranh đem dự triển lãm tại ngân hàng Trung Hoa tại phố Trường Tiền,
Hà Nội. Bức tranh này vẽ con cóc đậu trên một cành lan , bên cạnh đề thơ :
Con cóc mà đậu cành lan,
Cành ngô con phụng, thế gian đã thường.
Có ai thương cóc thì thương![33]
Và từ đây Tản Đà sinh ra
chán đời. Trong thi văn Tản Đà ,sự yếm thế trở thành chủ đề chánh.
" Đời đáng chán hay không đáng chán,
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri
âm?" [34]
Trước tiên là buồn chán về
đời mình thất bại :
" Hai khóa thi bay, mỹ nhân xuât giá
Thì đời đáng chán hay chưa đáng chán?
Sự chán đời nghĩ lại bạn tri âm " [35]
Sau nữa là sầu nhân thế .
Dưới con mắt Tản Đà, đâu đâu cũng xấu xa, đáng chán, đáng buồn.
Gió gió mua mưa đã chán phèo,
Sự đời nghĩ đến lại buồn teo.
Thối om sọt phẩn nhiều cô gánh,
Tanh ngắt hơi đồng lắm cậu yêu.
Quần tía đùi non, anh chiệc vỗ,
Rừng xanh cây quế chú mường leo.
Phố phường nghe có vui chăng tá?
Áo mũ, râu ria mấy đám chèo." [36]
Cái buồn chán của Tản Đà
là buồn chán thường xuyên, nó lên cao độ trong thời thất vọng tình yêu.
" Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng
có lúc sầu. Mưa dầm là rụng mà sầu, giăng trong gió mát mà càng sầu, một mình tịch
mịch mà sầu, đông người cười nói mà càng sầu., vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ
văn ngâm vịnh mà càng sầu." [37]
Làm sao để thoát khỏi nỗi
buồn khổ trong tâm hồn ? Tản Đà đã tìm con đường siêu thoát.
" Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán,
Cánh chim bằng chín vạn những chờ
mong."[38]
Và :
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có
bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió cùng mây thế mới vui." [39]
Đau
khổ vì mộng ban đầu , Tản Đà xây dựng những thế giới mộng như Giấc Mộng Con với
khuôn mặt người tình lý tưởng Chu Kiều Oanh. Những Vân Anh, Người tình nhân
không quen biết. . .đều là phó bản của Đỗ thị ngày xưa.
Mọi
sự sẽ thay đổi theo thời gian. Tình yêu cũng vậy. Một số thi nhân sau khi yêu
hoặc tình yêu đổ vỡ đã có những cái nhìn khác nhau về quá khứ. Một số dù bao
lâu vẫn giữ gìn kỷ niệm cũ và coi đó là một gia bảo của cuộc đời mình. Chính Tản
Đà cũng nói rằng mình là một người yêu chung thủy :
"
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy,
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày
xưa"[40]
Nhưng
thực tế thì khác hẳn! Thế giới là biến chuyển và tâm lý con người biến động từng
sát na ! Con người phút trước và con người phút sau có thể khác nhau xa. Nhìn lại
quá khứ bao giờ ta cũng bình tĩnh và khách quan hơn. Ra khỏi cơn đam mê, Tản Đà
là con người lý trí. Tản Đà đã thấy mối tình Đỗ thị không còn hương sắc ban đầu
mà chỉ còn dư vị đắng cay của những ngày đông giá. Tản Đà nhìn quá khứ bằng con
mắt của người tỉnh mộng, cho mình là đã dại khờ trong tuổi thanh xuân yêu mù
quáng, yêu sai lầm:
"
Cái mê vô ích mà mê dại.!
Mê dại mê mê chẳng mãi thôi" [41]
Cũng
như bao thi nhân trăm năm trước và ngàn năm sau, thuở thiếu thời Tản Đà đã yêu
say mê, yêu điên cuồng. Tản Đã đã ôm ấp bao mộng đẹp nhưng rồi bao mộng ước đã biến
thành ảo mộng thảm thương! Mộng khoa danh tan vỡ kéo theo sự sụp đổ của giấc mộng
tình. Tản Đà đau khổ. Tản Đà điên loạn. Sau khi say men tình ,Tản Đà say men rượu
để quên đời, quên mộng. Tản Đà là một Trang sinh mê hồ điệp. Và đời chính là một
cơn trường mộng, Tản Đà say hết mộng này đến mộng khác. Chu Kiều Oanh, Vân Anh
là những phó bản của mối tình lý tưởng . Dù đam mê, sau một thời gian dài, Tản
Đà phải tỉnh mộng. Nhìn lại quá khứ, Tản Đà thấy tuổi trẻ đã trôi đi trong đam
mê,khờ dại! Nhưng dẫu sao đó là cuộc đời , là đoạn trường ai cũng phải đi qua.
Dù dại, dù khờ vẫn là một đoạn đường đời. Nhưng với đoạn đường tình này, với
kinh nghiệm cay đắng này và với trái tim đa cảm, và tài hoa này ,thi nhân đã để
lại cho chúng ta những khúc tơ lòng réo rắt !
(DÒNG VIỆT, Tập II, số 7, 1999. tr.325- 335, California,)
VIII. AI
GIẾT THÂN
TRONG
ĐOẠN TUYỆT?
Quyển Đoạn Tuyệt của Nhất Linh đã kết thúc bằng một án mạng,
hay nói rõ hơn, bằng cái chết bi đát của Thân. Thân đã chết bởi bàn tay người vợ
mà chàng đã ôm ấp và yêu dấu. Ta thử quay lại khúc phim đẫm máu này:
Loan thấy Thân nằm bên cạnh chốc chốc
lại vật mình thở dài. Nàng biết Thân bực tức lắm, vì Thân chỉ đợi nàng tắt
đèn đi ngủ là xuống nhà dưới với Tuất, vì từ hôm dọn nhà lên Hà Nội để chữa lại
nhà ở dưới ấp, Tuất về quê vắng, hôm nay vừa mới lên.
-Sao bảo mợ tắt đèn, mợ lại không tắt đèn?
-Ô hay! Cậu cứ đi ngủ đi, tôi cần đèn để xem sách.
-Mợ để đèn, tôi không ngủ được.
-Cậu xoay mặt vào tường mà ngủ.
Loan hơi lấy làm lạ về câu nói gắt gỏng và lần đấu có ý
trịch thượng của mình đối với chồng..
. .
. . .
. . .
. . .
. . .
-Tôi bảo mợ không nghe à? Phép ở đâu thế?
-Tôi xin cậu để yên cho tôi xem. Cậu muốn tắt đèn thì ra
mà tắt.
Yên lặng một lúc rồi Loan thấy chồng giật lấy quyển sách ở
tay nàng vứt mạnh xuống đất. Loan đặt con dao lên bàn., cúi xuống nhặt sách, phủ
bụi rồi lẳng lặng dở ra đọc, làm như không xảy ra sự gì cả. Loaqn thấy Thân ngồi
nhỏm dậy, liền quay lại hỏi:
-Cậu làm gì thế?
-Mợ không được láo.
-Tôi láo cái gì?
Thân đập mạnh hai tay xuống chiếu quát:
-Mợ cãi à?
Rồi tiện chân đạp mạnh vào lưng Loan, làm Loan ngã lăn xuống
đất. Nàng vừa lóp ngóp dậy đương vấn lại tóc thì ở ngoài nhà có tiếng bà Phán:
-Làm gì huỳnh huỵch trong ấy thế? Có dạy vợ thì thì lúc
khác hãy dạy, để yên cho người ta ngủ.. .
. . .
. . .
. . .
. . .
-Phải có thế mới là đồ mất dạy.
-Mất dạy là người đánh đàn bà yếu ớt, hèn nhát một lũ.
-Bà Phàn vội quá, đi chân đất vào buồng, nhìn Loan hỏi:
-Mợ nói gì thế? Mày nói gì thế, con kia?
-Loan quay mặt vào trong không đáp. Bà Phán nói tiếp:
-Bà thủ đánh mày một cái tát, xem mày còn bảo là hèn nhát
nữa không?
-Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.
-Tao có quyền, mày chửi lại xem nào.. .
.
. . . .
. . .
. . .
.
Bà Phán đã ngồi dậy, trỏ tay, mồm nói:
-Đánh chết nó đi cho tôi. Chết đã có tôi chịu tội.
-Loan vẫn lùi. Thân hục hặc nhìn quanh, rồi tiện tay cầm
lấy cái lọ đồng sấn lại phía nàng. Loan đã thấy Thân đến gần mình, trong lúc hốt
hoảng liền vớ ngay con dao díp rọc sách để ở bàn định giơ đỡ. Thân như con chổ
dữ đạp đổ một cái lọ đồng đập vào Loan. Loan né
mình tránh được và trượt chân ngã xuống giường, con dao cầm chắc trong
tay. Thân quá đá cũng ngã mạnh vào người Loan. Loan thấycái cán dao ấn mạnh lên
tay nàng và Thân kêu lên một tiếng. Con sen cũng kêu theo:
-Trời ơi! Cậu giết chết mợ con rồi.
Loan
buông dao, rút mạnh tay đứng dậy, còn Thân thì nằm ngữa ra hai tay ôm ngực. Bỗng
Loan mở to mắt nhìn một vết đỏ loang
trên áo Thân. Nàng sợ hãi, đưa hai tay lên che mồm, bỗng dừng lại: mấy ngón tay
nàng đã vấy máu đỏ loè.
Nội vụ ra trước tòa, ông
chưởng lý buộc tôïi Loan đã giết chồng:
Thị Loan không thể cãi rằng không định tâm giết chồng.
Nói rằng cầm dao để đỡ cái lọ đồng trong khi né mình tránh khỏi là một sự vô
lý. Mà không có cái gì tỏ ra rằng người chống vác lọ đồng để đánh chết vợ, một
người vợ đã hỗn với mẹ mình! Thị Loan đã khôn khéo, phải, rất khôn khéo, vì đã
giết chồng mà khéo làm ra như là chồng tự giết mình. Tôi rất phục. Nhưng cái
khéo đó là của một người nham hiểm, một người gain trá. Tôi xin tòa trị tội thật
nặng để làm gương cho người khác .(108)
Luật sư của Loan đã bênh
vực Loan trước tòa. Ôâng cho rằng Loan cầm dao để đỡ lọ đồng chứ không cố ý giết
chồng. Hơn nữa, giấy chứng nhận của bác sĩ đã cho thấy Loan vô tội:
Loan không giết chồng! Điều đó là một sự dĩ nhiên rồi. Giấy chứng của đốc tờ, lời khai sự thực của
con sen đúng với lời khai của bị cáo nhân, đã tỏ ra một cách rõ ràng rằng những
lời khai khác hẳn của gia nhân người thiệt mạng toàn là những lời vu khống vì
thù ghét. (184-185)
Đi xa hơn nữa, trạng sư của
Loan đã quy tội cho bà Phán Lợi đã giết con, và chính cái xung khắc của xã hội
đương thời đã giết chết Thân:
Chính bà mẹ chồng đã giết chết con bà mà bà không biết,
mà còn đổ cho Thị Loan cái tội giết chồng. Nhưng bà có biết đâu, con bà chết là
lỗi ở bà, lỗi ở cái luân lý trái mùa và quá ư nghiêm nhặt kia. Người có tội
chính là bà mẹ chồng Thị Loan và với cái luân lý cổ hủ kia.
Nhưng nếu vượt lên trên, và nghĩ rộng ra không kể đến cá
nhân nữa, thì bao nhiêu những việc xảy ra không phải lỗi ở người nào cả, mà là
lỗi ở sự xung đột hiện thời đang khốc liệt của hai cái mới cũ. (186-187)
Nhất Linh khi viết quyển Đoạn Tuyệt đã có ý chứng minh rằng
xã hội cũ, gia đình cũ, cùng những quan
niệm về hôn nhân của lớp người cũ là sai lầm, xấu xa, cần phải loại bỏ. Lời của
luật sư chính là lời của Nhất Linh. Người tây phương có câu: Công lý là cái bình có hai quai. Nghe qua thì
thấy bên nào cũng có lý vì công tố viên và luật sư bên nguyên, bên bị đều tinh
thông pháp luật, và kinh nghiệm đầy mình. Và sự việc khi ra pháp đình, kết quả
cũng giống như trò « tài xỉu » mà thôi.
Cái giấy của bác sĩ chứng nhận Thân chết vì ngã vào con
dao đã chứng minh Loan vô tội.Nhưng luật pháp và tòa án thường có những kẽ hở.
Nhất Linh cực đoan nên đổ tội cho chế độ gia đình cũ. Chúng ta cũng nhận thấy
gia đình cũ có nhiều sai lầm. Tuy nhiên, ở xã hội tự do, cũng có nhiều cặp vợ
chồng xô xát, gây ra án mạng. Và xã hội ta, mẹ chồng khắc nghiệt và nạn đa thê
song không phải gia đình nào cũng đưa đến đổ máu. Vậy sự xung đột trong gia
đình không thể đổ cho chế độ gia đình cũ, nạn mẹ chồng khắc nghiệt và tục đa
thê. Sự xung đột giữa hai vợ chồng phần chính là do cách đối xử giữa hai vợ chồng. Trong vụ này, có hai vấn đề nổi bật. Một là nạn
đa thê. Thân lấy vợ bé cho nên Loan sinh ra ghen và tìm cách cản Thân xuống nhà
với Tuất, vì vậy, nàng không chịu tắt đèn. Loan chỉ có hai thái độ. Một là chấp
nhận tục đa thê. Hai là xin ly dị chứ không nên ghen tuông vô ích. Vì Loan tìm
cách ngăn cản cho nên đưa đến tranh cãi và đưa đến chết chóc. Vấn đề thứ hai là cách đối xử. Khi sống chung
với nhau, người ta phải tôn trọng lẫn nhau. Sự yêu thương và tôn trọng được thể
hiện ở cách cư xử với nhau và ngôn ngữ. Đến giờ ngủ, phải tắt đèn. Việc này rất cần thiết để cho hai người được
ngủ yên, nhất là hai người hay một người phải dậy sớm đi làm việc, hoặc một
trong hai người khó ngủ. Loan ngoan cố để đèn tức là Loan gây sự. Hơn nữa, Loan
không nên gây sự với mẹ chồng. Nàng
không nên nói « hèn nhát một lũ « .
Nếu đi xa hơn, chúng ta còn thấy một lý do khác. Đó là mối
tương quan giữa Loan và Dũng. Bà giáo Thảo là người khôn ngoan, đã dặn Loan trước
khi ra tòa:
Chị cứ để chúng tôi lo liệu hết cách cho khỏi tù tội
. Cốt nhất là chị nhớ đừng đả động đến gì đến
việc của chị với Dũng .(174 )
Như vậy, theo bà giáo Thảo,
Dũng có liên quan dù là gián tiếp đến
cái chết của Thân. Thật ra, Dũng không hề có hứa hẹn gì với Loan mặc dầu trong
tâm chàng đã thầm yêu Loan. Dũng không tỏ tình với Loan, gặp Loan, Dũng làm bộ
thản nhiên vì Dũng sắp lên đường theo tiếng gọi tổ quốc. Hơn nữa, chàng đã biết
Loan đã đính ước với người ta. Về phần
Loan, Loan đã yêu Dũng. Một lần, Loan đã đến thăm Dũng tại gác trọ của Dũng,
Dũng rất mừng rỡ nhưng chàng trấn áp lòng mình, làm bộ lạnh lùng khiếân Loan
đau lòng, nghĩ rằng Dũng chỉ xem nàng là một người bạn, và nàng tức giận bỏ ra
về:
Loan hơi thất vọng, nàng muốn Dũng có vẻ ngượng nghịu đối
với nàng, và tỏ ra ý buồn rầu khi sắp phải xa nàng. Vẻ ân cần, vui vẻ của Dũng
làm cho nàng biết rằng Dũng chỉ coi nàng như một ngừơi bạn thôi. (19 )
Trước ngày cưới của Loan,
Dũng đã bỏ đi xa để khỏi nhìn cảnh người yêu lên xe hoa về nhà chồng. Nhưng rồi
chàng lại trở về để gặp Loan. Tại sao chàng không đi luôn mà lại trở về để cho
Loan thêm nặng lòng? Khi xe hoa của Loan đi qua cửa Nam, nàng « thấy Dũng đứng ở đầu phố tươi cười
nói chuyệïn với một thiếu nữ ăn mặc rất sang trọng. Khi nàng nhìn thấy Dũng,
Dũng cố ý lánh mặt sau một thân cây ». (65 )
Dũng cố ý hay vô tình khi
đứng ở đoạn đường xe Loan đi qua? Sự hiện diện của Dũng chỉ làm cho Loan xúc động,
và gây bão tố trong lòng Loan và trong đời sống hôn nhân của Loan và Thân.
Loan là cô gái mới, đã say mê tiểu thuyết, đã theo chủ
trương tự do luyến ái. Cụ thể là nàng đã đến phòng trọ của Dũng, và lòng đã yệu
Dũng, dù là yêu đơn phương. Hình ảnh của Dũng luôn luôn hiện rõ trong tâm Loan,
quấy rối cuộc bình yên của Loan. Ngay trong đêm tân hôn, hình ảnh của Dũng đã
hiện rõ trong trí tưởng của Loan:
Thân, sau khi đã khóa cửa cẩn thận, tiến đến sau lưng
nàng. Hai người lặng yên hơn một phút đồng hồ, không ai dám cất tiếng nói trước.
Bỗng Loan thấymột bàn tay nhẹ để lên vai nàng. Nàng vẫn không quay lại, ngước mắt
nhìn ra ngoài cửa sổ và lúc đó,, hình ảnh Dũng lại hiện ra trong trí tưởng tượng
của Loan rõ rệt như trông thấy trước mắt. Các ngôi sao trên trời biến hết, mắt
nàng vẫn mở mà không nhìn rõ vật gì, nàng chỉ thấy toàn một màu đen thẫm như mực. (69 )
Những ngày tháng làm vợ
Thân, Loan vẫn không quên Dũng:
« Ở xa xa, tiếng sáo ai thổi đưa lại, Loan nghe như
lòi than vãn của một xuân nữ đa tỉnh, ngồi trong vườn đầy hoa thơm, nhớ tới
hình ảnh tình nhân xa vắng. Rồi mơ mộng,
Loan tưởng tượng người tình nhân đó giống Dũng. . . và thẫn thờ để tiếng sáo du dương đưa tâm hồn
nàng phiêu lưu đến những cảnh mộng xa xăm. (72)
Tại sao Loan lại nghĩ đến
Dũng? Yêu là một cái gì khó hiểu. Người ta yêu cái nọ hơn cái kia, lẽ tất nhiên
là cái ấy phải đẹp hơn, tốt hơn theo chủ quan của chủ thể. Nhưng theo chủ quan
của người khác, sự đánh giá và lựa chọn sẽ khác hơn.
Dưới con mắt Loan, Dũng hơn Thân vì Dũng có học thức hơn
Thân, hoạt bát hơn Thân, có ý chí cao cả hơn Thân. Lại nữa, Dũng biết chiều chuộng
phụ nữ, không như Thân quê mùa, sống bám vào mẹ. Ngoài ra, Loan và Dũng quen biết
từ lâu, còn Thân chỉ là kẻ đến sau, là người xa lạ. Loan và Dũng là người cùng
một thế giới, là những con người mới theo Tây phương, còn Thân ở một phương trời khác, là con nguời
cũ ở cuối thế kỷ 19, của thời Tự Đức trở về trước. Cái ưu điểm của Thân là con
nhà giàu, thế thôi.
Trong ngày hợp hôn, Loan
cảm thấy nàng và Thân quá xa cách. Trong khi Loan bạo dạn, văn minh, Thân nhút nhát ,quê mùa:
Hàng ngàn con mắt đều chăm chú nhìn nàng. Người thẹn nhất
lúc đó không phải là Loan, mà là Thân đương nấp sau hai người phù rể, mặt đỏ bừng
khi thấy Loan tò mò nhìn thẳng vào mặt. (63-64 )
Thân và Loan không cùng đập
một nhịp tim. Thân không phải là người cùng một tâm hồn lãng mạn như Loan, khiến
cho Loan thất vọng. Loan đã cố yêu Thân mà không được:
Loan cúi mình với ngắt một
một đóa sen hồng đặt lên môi, lẳng lơ
nhìn Thân:
-Em đố anh biết môi em ở đâu?
Rồi nàng mỉn cười tra 3 lời sau câu hỏi mình:
-Môi em là đóa hoa hồng này.
Nàng dịu dàng đặt hoa lên má Thân rồi nói:
-Em hôn anh.
Không thấy Thân nói gì, nàng hơi ngượng, vứt bông xuống
hoa xuống ao. . .(73 )
Nếu
những lúc này, Thân biết tình tứ một chút thì đâu đến nỗi cuộc sống hai người
biến thành địa ngục!
Trong tâm hồn Loan luôn có sự so
sánh giữa Thân và Dũng. Loan luôn nhìn Thân bằng đôi mắt khinh bỉ, trong khi
hình ảnh Dũng hiện lên trong tâm tưởng
Loan rất rực rỡ:
Thân gục đầu vào gối, mới nằm yên một lúc đã bắt đầu
ngáy. Bên cạnh chàng, Loan vẫn nằm ngữa, hai tay buông xuôi, mở to mắt nhìn thẳng
lên đình màn. Mấy sợi tóc mai của nàng dán chặt lên má còn ướt đẫm mồ hôi. Môi
nàng hé mở, tỏ ra vẻ chán nản ghê tởm cho những đêm ái ân miễn cưỡng. . .
Nghĩ đến đây, Loan quay mặt ngắm Thân nằm bên cạnh, rồi thở dài bĩu môi. Tuy
nàng đã biết vì cớ gì mấy tháng trước
đây nàng nhận làm vợ Thân, nhưng nàng vẫn lấy làm lạ rằng bấy lâu nàng có thể ở
cạnh một người như Thân được. Thẩn thờ nàng chạnh nghĩ đến Dũng ở nơi xa xôi,
tưởng ra Dũng đương đi trên một con đường dài đầy cát bụi, để mặc gió thổi tóc
phất phơ và mỉm cười như vui vẻ đón chào những ngày đầy đủ của một cuộc đời
phiêu lưu hoạt động. (80 )
Một
ngày nọ, Loan bỗng gặïp Dũng trên đường từ Đền Mẫu về Hà Nội trên xe bà huyện Tịch.
Trong giây phút ngắn ngủi đó, Loan bỗng
thấy bàng hoàng như uống ly rượu mạnh:
Từ lúc lên xe, Dũng không hề quay lại hỏi Loan một lần
nào nữa. . . Loan thì ngồi lùi hẳn vào
góc, giáu mặt trong bóng tối, vì nàng sợ bà huyện nhìn thấy vẻ cảm động trên mặt
nàng. Tuy xe chạy rầm rầm mà Loan tưởng như bà huyện Tịch có nghe tiếng trái
tim nàng đập mạnh trong ngực. (121 )
Trong
buổi gặp gỡ này, Loan muốn bỏ chồng, bỏ gia đình, bỏ tất cả để theo Dũng:
Loan vội cúi mặt xuống vì thấy Dũng tự nhiên nhìn nàng
đăm đăm một cách khác thường. Nàng mê man như đương ở trong một giấc mơ. Thoáng
một lúc, nàng có cái ý tưởng liều lĩnh bỏ cả gia đình, bỏ chồng con, bỏ cả xã hội
nàng đương sống, bỏ hết, nhắm mắt theo Dũng, liều thân sống với Dũng một cuộc đời
rộn rã, rồi sau này muốn ra sao thì ra. (124)
Loan đã có con, đặt tên là Nghĩa. Tại sao là Nghĩa? Chồng nàng tên là
Thân, con nàng phải là Aùi, hay Thiết. . . Còn Nghĩa thì lại liên quan đến Dũng
như Nhân Nghĩa Lễ Trí Dũng, hay Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã. Điều này cũng chứng
tỏ là Loan luôn nghĩ đến Dũng và yêu Dũng tha thiết.
Loan
không cố ý giết Thân. Cái chết của Thân là do
tập hợp của nhiều mâu thuẫn, mà quan trọng nhất là do mâu thuẫn giữa hai
tâm hồn Loan và Thân. Nhưng sâu xa hơn hết chính là do Loan yêu Dũng. Thân đến
sau Dũng và kém Dũng quá nhiều. Việc cãi nhau đưa đến cái chết bi thảm của Thân
chỉ là gịọt nước rót thêm vào một cái ly đã đầy. Tại sao trong đêm đó, Loan hai
lần cầm dao? Tại sao nàng không cầm cái gì khác lại cầm con dao? Như vậy là
trong tiềm thức, Loan đã muốn giết Thân, mà Nhất Linh cũng muốn Đoạn tuyệt với
xã hội cũ bằng bạo lực có đổ máu.
[1] Tản Đà. Ngày xuân nhớ
xuân. Tản Đà Vận Văn Toàn Tập I (TDVVTT), Á Châu, Sài gòn, 1958, 29.
[2] Tản Đà.
Giấc Mộng Lớn (GML). Hương Sơn, Hà Nội, 1942, 11.
[3] Ibid.
[4] Ca dao
[5] Tản Đà.
Cái giống yêu hoa.TDVVTT I, 89.
[6] GML, 11.
[7] Tàn Đà. Tương tư. TDVVTT,
I, 76.
[8] Tản Đà.
Con sáo sậu. Sds, 141
[9] Tản Đà.
Phong dao, sđd, 174
[10] Hồ Đình
Chử. Tản Đà với Tình Yêu.. DHVK Saigon, 1968, chú thich 7,tr.56.
[11] Nguyễn
Mạnh Bổng. Thân thế và sự nghiệp văn chương của thi sĩ Tản Đà, TDVVTT I, 15-16.
[12] GML,
12.
[13] Hà Xuân
Tế. Thi sĩ Tản Đà. TDVVTT, I, Hương Sơn, Hanoi,1942,7.
[15] Nguyễn Mạnh Bổng, sđd, 17.
[16] Ca dao.
[17] Nguyễn
Mạnh Bổng, sdd, 16.
[18] GML, 12.
[20] Tản Đà.(TĐ) Dạm bán áo đoạn. TDVVTT, II, 312.
[21] TĐ. Năm
canh một mối tình. Sđd, 33,
[22] TD. Chơi
Hòa Bình. TDVVTT2,115.
[23] TD. Văn
tế Chiêu Quân.TDVVTT1, 161.
[24] GML,
21.
[25] Ibid,
14.
[26] Nguyễn
Mạnh Bổng.op.cit. 21.
[27] TD.
Phong dao, TDVVTT1, 179.
[28] TD. Tình
tiền. TDVVTT1, 83.
[29] TĐ. Thổ
công phải đòn. TDVVTT1, 277-288.
[30] Nguyễn Mạnh bỔng. Ibid. 20.
[31] TĐ. Con
cá vàng. TDVVTT1, 68.
[33] Nguyễn
Công Hoan. Họa sĩ Tản Đà. Tao Đàn. 9-10,
ngày 16-7-1939,
857.
[34] TĐ. Đời
đáng chán. TDVVTT!, 57.
[35] Bà Nễ
Xuyên thuật
[36] TĐ. Sự đời.
TDVVTT 1, 94
[37] TĐ, Giải
sầu. TDVVTT 1, 41.
[38] TĐ. Hỏi
gió.TDVVTT1, 48.
[39] TĐ. Muốn
làm thằng cuội. TDVVTT1, 95.
[40] TĐ. Ngày
xuân tương tư. TDVVTT1, 89.
[41] TD. Cái
giống yêu hoa. TDVVTT1, 89.
No comments:
Post a Comment