Wednesday, November 23, 2016

CHUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = CAO BÁ QUÁT=TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ




Friday, December 4, 2015


CHUYỆN TÙ CỘNG SẢN

Mưa Đồng Tháp Mười

Mỗi ngày cứ đến 5 giờ sáng là kẻng báo thức đã vang lên. Ngoài sân trời còn tối mịt. Tất cả tù choàng thức dậy sau một giấc ngủ như mê, đầy mệt mỏi, bởi lao động quá nặng nề trong việc cuốc đất đào kinh mà thời gian nghỉ quá ngắn. Có những ngày nắng gay gắt, gặp phải thế đất gò, cứng như sắt, toán đào kinh về tới trại thì trăng đã lên. Nhảy ùm xuống kinh tắm vội vàng, vô tới chỗ nằm là căng mùng ra ngủ,chẳng kịp nói với người nằm cạnh bên một câu nào. Gặp hôm mưa dầm ra lãnh lô đất nước lên tới gối, be bờ tát nước xong có khi gần hết buổi sáng. Làm việc với hết sức con người mà mỗi ngày lãnh 2 ca cơm trắng với 1 phần canh lưng chén (thường là rau, bí luộc với muối và chút mỡ heo) Ðào kinh 2 thước tới, 2 thước ngang, sâu 1 thước rưởi, đáy 1 thước, triên bờ bảy ba.


 Hai con kinh song song, phần giữa sẽ đắp thành con lộ, bờ đê hai bên bờ kinh sẽ trồng chuối và trồng khóm. Chương trình còn là xả phèn đất Đồng Tháp bẳng cách đào những con kinh nhỏ xẻ dọc ngang cho nước chảy ra con kinh lớn mà lao động chính là lực lượng tù của trại cải tạo Mỹ Phước Tây. Không biết người ngồi trên đã nghiên cứu kỹ chưa chứ theo cách đào kinh nầy thì sức khoẻ của tù ngày sẽ kiệt dần vì chế độ ăn uống quá kém mà việc làm lại quá nặng nhọc, mà mỏ phèn của Đồng Tháp Mười thì quá lớn..! Hơn 5 giờ sáng đã xuất trại, lội ruộng băng đồng trung bình mỗi ngày hơn 6 km mới tới nơi. Ði và về đã muốn hết hơi chứ đừng nói chi đến việc đào kinh.Tuần lễ đầu tiên mới chuyển từ trại cải tạo Hoà Đồng lên đây, tôi cảm thấy toàn thể xương trong người như rệu rã, bắp thịt bắp tay mỏi nhức như dần.


Không có ngày nào tôi đào xong phần đất, thường đều phải nhờ anh em trong toán phụ tiếp, một điều làm cho tôi hết sức ái ngại,bởi bạn bè đã mệt mỏi sau phần đất của mình nay phải bỏ công đào giúp. Cả toán phải xong ,sau khi tên "chịu trách" kỉểm tra thấy đạt thì toán mới được tập trung chờ điểm danh ra về, nên dù không muốn anh em cũng phải phụ nhau để được về sớm. Nhiều khi vì mệt mỏi quá, không ai phụ ai nên trăng đã lên mà tôi vẫn còn nguyên cả lớp đất cao khoảng hơn 4 tấc. Anh em tù thường gọi đùa là còn đứng trên bục thuyết trình vì mọi người tù xuống đến lớp đất đáy mà mình còn đứng trên cao. Quần xà lỏn, áo rách vá chầm, mặt mày đầy bùn đất, khi nào xong ra vũng khoát nước rửa mặt. Rửa xong lên tôi mới thấy nhẹ người, một ngày lao động với tôi mới thực sự là hết.

Ngoài cái khổ về lao động vất vả, còn một nỗi khổ khác mà hầu hết đám sĩ quan trẻ tụi tôi phải cắn răng chịu đựng là việc ăn ở chung chạ với đủ thành phần trong xã hội, từ hạ sĩ quan, binh sĩ đến trộm cắp, chiêu hồi. Nằm cạnh người biết điều còn đỡ, rủi ro nằm bên tên lưu manh thì thật là khổ tâm. Vui thì nó cười nói, buồn thì chửi xiên chửi xéo: "Đồ cái thứ quen thói ngồi mát ăn bát vàng, đồ cái thứ chỉ tay năm ngón, bây giờ cho ... chết mẹ tụi bây luôn". Chưa kể đồ đạc hở ra bị mất cắp, nếu nóng trả lời lại đêm ngủ nó giả đò mê mớ quơ chân đá vô sườn vô lưng. Trại nầy trước khi tụi tôi đến chỉ có vài sĩ quan còn lại đa số là tù hình sự.

Trại cải tạo Mỹ Phước Tây nằm trên trục lộ Cai Lậy - Kiến Tường, trước đây là căn cứ pháo binh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phía sau trại là phố chợ của khu trù mật Mỹ Phước Tây. Trước và bên hông trại là hai dòng kinh Dương văn Dương.

Mấy tháng đầu, tôi ở trong nhóm do chú Tư Hiếu làm nhóm trưởng. Chú là người có cấp bậc cao nhất của nhóm nầy, Thượng sĩ ,thuộc chi khu Cái Bè, tính đằm thắm rất dễ chịu, hiểu đời. Tụi tôi khoảng 10 ngưởi đều là sĩ quan từ trại cải tạo Hoà Đồng lên nhập vào nhóm nầy. Một gian nhà cột tràm lợp đưng, vách chầm lá, khoảng 50 mét vuông. Ðã có sẵn trên 40 tù với 6 em Phục quốc đang bị còng chân chung một thanh sắt. Phòng quá chật, nền đất. Tôi phải nằm chung mùng với Thiếu úy Tài, trung đội trưởng thám báo tiểu khu Gò Công, cạnh Tư què nhỏ hơn tôi khoảng 5 tuổi can tội trộm .

Những buổi lao động về trễ, nhìn thấy ánh trăng lấp ló trên trời tôi mới thấy thấm thía câu "Một nắng hai sương" mà trước đây tôi chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ chạm thực tế mới hiểu rõ: sáng đi sương còn mờ mịt, tối về sương rơi ướt tóc ...Nhóm sĩ quan Gò Công chuyển lên trại nầy khoảng trên một trăm.Cùng chung cảnh khổ nên dễ kết thân với nhau, nhưng hầu hết anh em đều không quen với việc lao động, nên sức khoẻ đều sút kém trông thấy rõ. Trại chia ra làm 3 hệ, mỗi hệ chia thành từng nhóm ở chung nhau, hệ quân đội, hệ cảnh sát và hệ hành chánh. Một dãy ngang, hai dãy dọc, chính giữa là nhà bếp và trại tù nữ. Sát bộ chỉ huy là dãy nhà nhỏ dành cho những người bệnh dễ lây như lao, cùi... Chức sắc trong nhóm có 3 cấp : nhóm trưởng, nhóm phó, thư ký nhóm do anh em bầu lên. Cũng có khi do trại chỉ định (thực ra do Bảy Quế chỉ định). Khi ra lao động thì do một số quân đội và cán bộ Việt Cộng bị nhốt về các tội tham ô , hủ hóa hay chiêu hồi dẫn đi , có võ trang súng ống đầy đủ đi kèm. Thường là súng trường CKC, thỉnh thoảng mới thấy có súng AK. Những tên tù chức sắc nầy được gọi là chịu trách. Thường những tên chịu trách nấy rất sắt máu và hắc ám hơn cán bộ trại bởi họ muốn lập công chuộc tội để được tha về sớm. Trưởng bên tù Nam là Bảy Quế, một tên Việt Cộng bị ghép tội phản gián. Tên nầy ốm cao, người miền nam, chịu trách điểm danh xuất trại cũng như điểm danh vào buồng buổi tối, có quyền đề nghị biệt giam và cũng thường ngồi chủ trì các buổi họp kiểm điểm ở đội .Bên nữ là Bà Hai Cốt cũng can tội gián điệp (sau ngày sập tiệm, báo Sài Gòn ...lóng cóng có đăng một tiểu thuyết gián điệp mà Bảy Quế và bà Hai Cốt là 2 nhân vật chánh.)

Tù Việt Cộng ít khi được ở yên. Ở trong nhóm nầy vừa tạm ổn, tương đối vừa mới hiểu rõ tính tình nhau là chuyển đổi qua nhóm khác. Bởi vậy trong tù có câu ..." Thứ nhất tự khai, thứ hai đổi nhóm...”. Tôi chuyển qua nhóm 20, nhóm trưởng tên Đẹp là Trung sĩ Cảnh Sát, nhóm phó là Khanh Thượng sĩ Quân Cảnh Tư Pháp. Hai tên nầy sống có vẻ cách biệt với anh em trong đội, thường thích tỏ ra vẻ mình là cấp chỉ huy, và có vẻ không ưa gì đám sĩ quan từ Gò Công lên. Tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi cũng phải cố gắng thích ứng để sống. Trong nhóm nầy cũng có vài sĩ quan Gò Công nhưng chỉ có một người bạn là Võ Văn Trầm, khóa 2 CTCT Đà Lạt, thuộc Sư Đoàn 9 là tương đối thân thiết với tôi. Ra lao động chúng tôi vẫn thường đào đất 2 lô tiếp giáp nhau. Trầm có sức hơn tôi nhưng để hoàn thành phần kinh cũng phải hết sức vất vả.

Buổi sáng các đội tập trung ngoài sân trại. Trong lúc chờ đợi điểm danh xuất trại, một số anh em tìm những tảng đá xanh mài lưỡi len cho bén Âm thanh rền vang trong cảnh trời còn tối đen. Bang, Đại úy phân chi khu trưởng xã Long Thuận thường chỉ cảnh mài len cười nói:

- Coi kiếm sĩ mài gươm dưới... mây kìa.

Hôm nay đào kinh tận giáp hạt nên Bảy Quế cho xuất trại sớm.Trên 600 tù tay cầm len tay xách bị đựng cơm nước đi thành một dọc dài trên con lộ cặp bờ kinh trên đường liên lộ đến Kiến Tường. Ngang qua trại tù Vườn Đào (tù nhân trại nầy toàn là sĩ quan, có một nữ sĩ quan là Trung Úy Nguyệt)tôi nhìn thấy anh em trong trại này còn trên sân chưa ra lao động. Gió buổi sáng mang chút sương đêm còn sót lại, cảm giác lành lạnh nhưng rất dễ chịu. Thỉnh thoảng có vài bạn tù băng vội xuống ruộng bên đường hái rau diệu, rau má hoặc rau dền, hay tấp vào quán bên đường mua nải chuối, gói xôi ... Có tốp đi trong im lặng cũng có tốp cười nói râm ran

- Ê Mỏng, hôm nay chắc trời sẽ mưa lớn.

Thằng Trầm đi bên cạnh nói với tôi

-Tao khoái trời mưa, mưa cho thiệt lớn, đỡ phải đào đất. Thật vậy, mưa có lạnh lẽo và ướt át thật nhưng nước ngập tràn thấy đường đâu mà đào với đắp.Tìm bờ đất cao ngồi rút mình dưới cái nón lá mỏng manh trông như một cây núm dại.

Thấy bầu trời còn nhiều mây đen, liệu mưa khó dứt hột là Bảy Quế cho thu quân.Phần lớn cho thu quân khi trời mưa là do đám vệ binh sợ tù trốn trại.

Trời dần sáng tỏ. Khi tới gần giáp hạt, thỉnh thoảng trên đường liên tỉnh có chuyến xe đò Sài Gòn Kiến Tường chạy ngang qua ...Rất nhiều khi tôi kịp nhìn thấy ánh mắt thật buồn của một cô gái nào đó ngồi bên cửa xe. Tôi nhớ tới những ngày công tác tại quận Phú Lộc, chiều buồn ngồi một mình trong quán bên đường nhìn xe cộ tấp nập qua lại với tốc lực thật vội vã từ Sài Gòn về Bạc Liêu hay Cà Mau,bên chai bia, gói thuốc lá mà nhớ tới Sài Gòn. Nhớ đến con đường Cường Để mỗi khi mùa hè đến, cổng trường rực rỡ xác hồng hoa phượng. Cô bé mắt nâu vén gọn vạt áo dài ngồi gọn vào yên sau chiếc xe Honda Dame màu xanh, vòng tay ôm thật sát.Quận Phú Lộc này tôi đến công tác có một tuần lễ, nhưng những người lính và dân ở đây còn để lại trong lòng tôi nhiều cảm tình đẹp. Nhất là Thiếu Tá Phát, vị Quận Trưởng đẹp trai, mà tôi cũng vừa hay tin đã tự sát trong ngày tháng tư đen ...Bây giờ nhìn chiếc xe đò chạy ngang ,tôi có một ước muốn thật tầm thường là được ngồi trên chiếc xe đò để về Sài Gòn, một việc còn khó hơn là bắc cầu qua biển nối Gò Công với Vũng Tàu ...Bây giờ trước mặt là một cánh đồng đưng mênh mông cạnh những thửa đất hoang ngập đầy nước và cây điên điển. Trời tháng mười hoa điên điển nở vàng . màu vàng thật đậm... xa trông cũng đẹp mắt lắm.

-Ê Trầm, cố gắng đào lẹ, phụ tao hái bông điên điển chiều về nấu canh chua ăn.

- Để coi trúng lô đất nào, gặp chỗ nhiều nước quá,tao mầy làm trâu nằm vũng chứ làm sao mà xong sớm được.

Thằng Trầm nói xong ngước nhìn trời, nó chỉ đám mây đen đang từ hướng Nam kéo tới.

-Tao cá với mầy là hôm nay mưa lớn lắm , lo mà tìm chỗ trú mưa chứ đào đục gì mà đào.

Bảy Quế vừa căng dây cậm tiêu chia lô vừa nhìn trời rồi lầm bầm: - Hôm nay chắc trời mưa suốt ngày.

Tôi và Trầm đứng nhìn lô đất mới lãnh , nước lên tới đầu gối, đỉa trâu lội lều bều. Trầm ngó mặt lên trời cười ngất :

-Hôm nay cúm núm kêu rồi Mỏng ơi !(cúm núm kêu lúc trời giáp tối) Hút một điếu thuốc rồi tính sau.

Trầm móc bao nylon đựng thuốc rê ra vấn một điếu rồi thảy chuyền cho tôi.

-Đắp bờ tát cạn nước cũng trưa trật rồi, chỉ còn mong mưa tới sớm .Lao động là vinh quang mà Mỏng.

Tôi nói nhỏ vừa đủ cho Trầm nghe:

-Nhưng mà không lao động là... vinh râu mà Trầm, Kệ, tới đâu tới, hút thuốc uống nước ...rồi ngồi cầu mưa.

Tôi trả lời với Trầm mà mắt nhìn quanh, bạn tù mọi người cũng đều lo lắng nhìn lô đất. Có nhiều người cùng nhau hợp tác, bắt đầu be bờ tát nước.

Trầm bắt đầu cầm len khui hộc, nó xắn ngầm từng tảng đất thật to. Tôi nhìn cục đất mà thấy ngán ngược. Ðặt len nằm trên bờ, tôi xắn quần, bắt đầu ôm đất đắp bờ. Dù đang lao động nặng nhưng vì buổi sáng hôm nay mây âm u,gió lại lành lạnh,gần nửa thân mình ngâm dưới nước nên tôi cảm thấy trong người ớn lạnh.Cho tới gần 10 giờ thì bờ bao cũng đã đắp xong. Trầm buông len,giơ chân lên khỏi mặt nước, cả chục con đỉa trâu bám đầy ống quyển mập căng đầy máu. Nó kéo từ con ra khỏi da, máu chảy đỏ nước.Trầm nhìn quanh, thấy chẳng có chỗ nào để giết đỉa, đành quăng ra xa mà coi bộ ấm ức lắm. Nó móc túi lấy chút thuốc rê quẹt lên vết đỉa cắn để cầm máu , miệng lầm bầm chửi thề. Tôi cũng chẳng khá hơn gì nó, chốc chốc thò tay xuống nước là kéo ra một chú đỉa... Dưới mắt tôi ở đây đìa đúng là...lềnh như bánh canh. Trầm phụ tôi tát nước và kiểm soát lại các nơi rò rỉ .

- Nghỉ chút Mỏng, kiếm cái gì ăn, tao thấy đói rồi .

Thằng Trầm khoát nước rửa tay, lên bờ móc thuốc vấn hút và đi lần đến chị gánh hàng. Nó mua 2 gói xôi tìm bờ cao ngồi rồi vẫy tay gọi tôi .

Tôi đi lần tới, Trầm vừa ăn vừa phân công:

-Tao xắn đất ngầm, mầy dùng thùng đạn tát nước cho nhanh, khi nào cạn nước thì phụ đào với tao.

Trong không khí lành lạnh, trên 600 tù trải dài một khoảng tầm xa nhìn mút mắt. Nhiều lô đã tát nước xong, đất được len vụt lên bờ đều đặn, mỗi cục đất với hình dáng và trọng lượng gần giống như nhau,liên tục bay bay lên bờ.

Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi .Thằng Trầm cười cười nhìn tôi:

- Ê, khoẻ rồi Mỏng à ...Coi trước chỗ nào có lùm cây cao để đụt mưa, tao nhìn đám mây nầy thấy mưa tới chiều chưa dứt. Mầy nhớ bọc thuốc hút lại cho kỹ, lạnh mà không có thuốc hút là buồn lắm đó .

Tôi nhìn quanh, cả cánh đồng đưng chẳng có cây nào có tàn cao đủ để núp mưa. Nhìn xa , ngoài đường lộ thỉnh thoảng có xe đò chạy qua, cũng có những bàn tay như vẫy chào. Nhìn lên bầu trời thì mây đen vần vũ, hạt mưa đã bắt đầu nặng hạt. Rất nhiều anh em tù bỏ lô đất lên bờ đứng hút thuốc. Gió bắt đầu thổi mạnh và cơn mưa cũng trút giọt ào ào.

Mình mẩy ướt nhem, tôi và Trầm xách bị cơm chạy núp mình vào một đám đưng gần kề che sụp nón lá nép mình tránh mưa. Mưa thật nặng hạt, chốc chốc hai đứa rút chân lên lấy tay gỡ bớt đỉa , đỉa trâu no máu con nào con nấy mập ú .

Thằng Trầm càu nhàu:

-Lao động là vinh quang, tụi mầy không làm mà cứ theo hút máu tao hoài , chết nè con.

Thằng Trầm dùng thân cây đưng lộn ngược con đỉa ra, máu đỏ ướt cả tay nó. Trời đã trưa mà mưa không dứt hột. Bụng đói mà không biết làm sao ăn. Gió lộng tư bề, tôi cảm thấy lạnh, cái lạnh không bình thường như mọi khi gặp trời mưa. Trong người tôi hình như có tới hai luồng lạnh, một từ trong xương lạnh ra, một từ ngoài lạnh vào .

-Ê Trầm, hình như tao bị cảm, tao thấy lạnh quá,không làm sao chịu nổi.

Tôi vừa răng đánh bù cạp vừa nói với Trầm. Nó nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại :

-Giữa đồng không mông quạnh như vậy thì làm sao có chỗ khô ráo mà tránh mưa tránh gió. Mầy thử lựa chỗ nào nước cao ra đó trầm mình xuống nước , ló đầu lên che nón lá kỹ lại coi có đỡ lạnh hơn không. Dân quê mình ra đồng làm ruộng gặp mưa to gió lớn vẫn chống lạnh bằng cách nầy .

Tôi đảo mắt nhìn qua một lượt, mấy cây điên điển nở hoa vàng đang lả mình theo từng cơn gió giật. Có nhiều khóm chỉ còn ló thật ngắn chút đọt. Trong lòng thấy ngao ngán ,tôi lách đám đưng lội chậm chậm về hướng bụi điên điển. Tôi từ từ ngồi xuống nước ,chỉ để ló từ cổ trở lên. Quả nhiên thấy ấm hẳn lại. Thằng Trầm nhìn vẻ mặt dễ chịu của tôi, nó cười lặc khặc:

-Ấm chưa Mỏng ? Chừng nào lạnh hết chịu nổi tao cũng xuống với mầy ...

Tầm mắt tôi chỉ cách mặt nước khoảng gang tay, hạt mưa xéo mạnh vào mặt nước,rải đều chập chũm. Tiếng mưa rơi, tiếng gió từng cơn, tiếng đưng quằn ngã theo gió vang vang bên tai tôi. Lòng tôi thật buồn, tội cho cái thân tù... Chốc chốc lại phải lấy tay rà khắp người để kiểm soát đỉa, bởi vẫn thường bị mấy con đỉa lẻn vào... "bộ chỉ huy" để hút máu. Mấy con đỉa này tù bắt được thường đề quyết là đỉa... cái

Tôi co ro ngồi dưới nước, tuy có ấm hơn ngồi trên bờ nhưng vẫn cảm thấy lạnh lắm. Gió xoáy thổi vào mặt bật tung nón lá... Mắt tôi mờ lại trước những giọt mưa . Những chùm hoa vàng điên điển, trước tôi còn thấy rõ, dần dần mập mờ nghiêng ngả theo từng cơn sóng nước ...Mẹ của tôi bây giờ đang ăn cơm trưa? Mâm cơm không biết còn được mấy món hay là chỉ trơ một dĩa rau luộc, không biết có thêm được trứng vịt luộc dầm nước mắm không? Với đồng lương dạy học của chị, vừa nuôi ba nuôi mẹ lại cưu mang thêm đứa em tội tù ...Mỗi lần gặp Mẹ bên hàng rào kẽm gai , bên bờ ruộng chỗ cho thăm nuôi phía sau trại , lần nào tôi cũng phải hết sức cố gắng cho nước mắt khỏi tuôn trào. Bao lần tôi nói mẹ tìm người gửi chứ đi thăm đường xá xa xôi quá, sức khoẻ Mẹ bị suy giảm làm sao con an tâm sống được...Mẹ ừ mẹ hử. Tay mẹ lần xoa bóp tay con, mẹ vuốt tóc, mắt mẹ đỏ hoe... Rồi vắng một tuần lại cũng thấy mẹ lên thăm ... Mẹ đâu biết rằng khi con từ giã mẹ trở vào nhóm là phải vội vàng lên trình diện ban chịu trách để đi lao động ngay. Ðó là quy luật dành riêng cho người có thăm nuôi trong ngày chúa nhật. Tùy theo mùa nên công việc có khác nhau, khi thì một thúng lúa giống lội trên 6 cây số đường ruộng, khi thì 5 cây chuối cây giống cao khoảng hơn thước. Khi thì một bó đầu khóm giống. Thúng lúa giống một giạ tuy có nặng nề, vậy mà dễ di chuyển vì khi thấy mệt ,tù cứ để xuống nghỉ. Thời gian di chuyển không bắt buộc nhưng tù nào cũng muốn xong về sớm đề sắp xếp đồ thăm nuôi. 5 cây chuối mới là nan giải, thường tù dùng dây kết lại làm bè ,dòng theo bờ kinh mà kéo Tới khúc lộ ôm từng cây băng qua,ra tới nơi đào lỗ trồng 5 cây xong mới được về. Tên chịu trách còn đến xem từng cây coi có bị bầm dập gì không. Ðầu khóm giống càng khổ hơn, nó không nặng nhưng gai góc, nếu vác vai thì gai đâm cổ. Cách nào thì cũng bị gai quào xước cả người.

Mới mười tám tháng xa nhà mà lòng tôi đã thấy nhớ lắm.Lúc ở đơn vị, dù là đơn vị tổng trừ bị luôn phải rày đây mai đó, nhưng mỗi khi thấy nhớ nhà thì dù cho cấm trại 200% đi nữa, tôi muốn về là tôi về . Không có Đơn vị Trưởng hay Quân Cảnh nào cản ngăn tôi được ...Bây giờ mẹ tôi ngồi đó, rất muốn ôm hôn mẹ mà không làm sao hôn được... Nước mất... là mất tất cả, tôi bây giờ là thằng hàng binh, nhục ơi là nhục, đánh đấm kiểu nào mà phải buông súng đầu hàng... Không trăm lần không, ngàn lần không, cá nhân tôi không đầu hàng mà tôi ở trong tập thể đầu hàng ...Ngày còn ở trại cải tạo Huyện Tây, mỗi nửa tháng được cho thăm nuôi một lần, tù bên trong nhìn rõ thân nhân từ ngoài đường di chuyển về hướng cổng trại. Ðã có lần máu tôi chợt nóng lên, mắt tôi nhìn như tóe lửa, khi nhìn thấy cảnh mẹ tôi hai tay xách đầy hai giỏ nặng lầm lũi bước vào cổng trại bị một thằng võ trang dùng mũi súng gạt ngang làm mẹ hoảng hốt mất đà suýt té...Hai tay tôi nắm chặt lại... Mẹ ơi, con trai mẹ hèn quá, mẹ ơi hoàn cảnh nào đã biến con trai mẹ thành thằng hèn ...Mẹ ơi ! chắc Mẹ vẫn biết thằng con trai út của mẹ có một trí nhớ rất tốt, cả đờI nó sẽ không bao giờ quên hình ảnh mẹ mình lảo đảo trước sắt thép của kẻ thù ...

Mưa vẫn trải đều hột, chưa có dấu hiệu gì sắp ngớt. Bầu trời vẫn một màu đen kịt, thỉnh thoảng chớp nháng sáng trời... Sấm động gầm gừ rền vang... Gió vẫn xoáy lốc từng cơn

-Mưa quá làm sao hút thuốc Mỏng, mầy đói bụng chưa ?

Tôi trở về với thực tại. Trầm đã ngâm mình xuống nước không biết lúc nào và đang ngồi phía sau tôi . Thấy tôi ngoái đầu nhìn lạI, nó nhe răng cười khục khặc, da mặt nó đã tái xanh dù nắng gió đồng Tháp Mười đã biến tù thành ... Ông táo Tàu từ lâu .Người tôi run lên từng đợt,tôi vuốt mặt mấy cái:

- Lạnh quá Trầm ơi, tao chịu hết muốn nổi rồi, chút về mấy cạo gió giùm tao nha Trầm ...Đói bụng quá mà mưa như vầy làm sao mà ăn. Tao cũng thèm thuốc lắm rồi ...Mưa điệu nầy tới chiều chưa dứt ...mà tại sao lần nầy tụi chịu trách cho thu quân trễ quá vậy?

Mắt tôi lại thấy nặng, đã lạnh, đói lại còn buồn ngủ nữa... Tôi bỗng như thấy lại hình ảnh một buổi trưa tại trại Huyện Tây... Buổi sáng mẹ đã vào thăm, buổi chiều tôi yên chí nằm trong phòng, và để rồi rất ngạc nhiên khi được gọi tên ra thăm nuôi... Tôi mặc vội bộ bà ba đen Xây Dựng Nông Thôn đi vội ra cổng trai... Mắt tôi mở to đầy ngạc nhiên lẫn thích thú... "Mắt Nâu"! Trời ơi Mắt Nâu của tôi lặn lội từ sài Gòn xuống thăm tôi.. đi chung với mắt nâu còn có Khưu thị Tuyết Mai cũng bạn chung lớp năm Nhiệm ý ban Việt... Theo phản ứng tự nhiên tôi chồm tới định nắm tay ... nhưng tôi kịp "thắng" lại, vì tôi đã tự biết tôi là ai. Tôi đâu còn là sĩ quan ở trại Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài phát thanh Sài Gòn nữa mà mừng mà vui khi thấy Mắt Nâu vào trại thăm tôi, như những ngày còn trong đơn vị... Mà ở đây là trại cải tạo, một lối nói văn vẻ thay cho trại tù hay khám đường ....

-Ê, Bảy Quế đang nói gì với mấy nhóm trưởng kìa Mỏng, không chừng thu quân đó mầy ...

Tôi đang mơ màng nhớ lại những hình ảnh đã qua thì giọng thằng Trầm đưa tôi về thực tại ...Hai hàm răng tôi đánh vào nhau nghe cồm cộp, tiếng nói run run đứt khoảng

-Về là phải rồi... mưa như vầy mà còn đào gì nữa.

Tôi đứng thẳng người lên, cơn gió xoáy ngang làm tôi lảo đảo suýt té. Ngồi lâu cẳng chân bị tê. Gió mưa đập vào người làm tôi run lên.

-Rán đi Mỏng, chắc về thiệt... Mầy lấy tấm nylon của tao quấn đỡ, về tao cạo gió cho mấy. Thằng Trầm an ủi tôi.

Chú Tư Hiếu nhóm trưởng khoát tay ra hiệu tập họp, tôi run rẩy chạy lúp xúp theo Trầm về vị trí xếp hàng... Anh em bạn tù người nào cũng loi ngoi như chuột lột, mặt mày xanh xao, đứng co ro run rẩy. Bảy Quế điển danh xong toán nào là cho toán đó về... Anh em rẽ nước băng đồng ... Mưa vẫn không ngớt hột. Chúng tôi vừa đói vừa lạnh. Nước lên ngang rún , phải lội hơn cây số mới ra tới bờ lộ cái, anh em lúp xúp chạy cho đỡ lạnh

-Rán chạy lẹ Mỏng, tới quán mua mấy củ mì ăn đỡ đói với hút điếu thuốc cho ấm lòng ...Thằng Trầm giọng run run nói với tôi.

Rồi đám tù cũng về tới trước cổng trại , không có anh em nào xuống kinh tắm như thường lệ mà tự động xếp hàng chờ điểm số để nhập trại. Gió vẫn vụt vù thổi, chớp vẫn nháng sáng trời ... Bây giờ cũng đã hơn 2 giờ trưa ...Tôi thấy trong người khó chịu ... Vào phòng thay áo quần khô xong tôi vạch lưng cho Trầm cạo gió . Nó xin chút dầu lửa và dùng cái muỗng cạo lưng cho tôi ..

-Mầy bị trúng gió rồi Mỏng , mới cạo sơ mà đã thấy tím bầm ...

Tôi cũng không màng ăn cơm chiều, trùm mền nằm thiếp luôn cho tới kẻng điểm danh tối mới ráng ngồi dậy, thấy nặng đầu và mình mẩy nóng hực. Tôi đứng lên lảo đảo suýt ngã ..

- Anh Đẹp báo cáo dùm, tôi nóng quá, chóng mặt không ra điểm số được. Tôi gượng nói với Đẹp trưởng nhóm, xong nằm ngã ra thở dốc...

Tôi nằm mê man cả hai ngày, chỉ uống chút nước do người bạn tù nào đó cũng bệnh nghỉ ở nhà như tôi. Mấy viên thuốc ABC tôi mang theo, tôi cố gắng uống mỗi ngày 4 viên.Buổi tan tầm thằng Trầm đi lao động về nấu cho tôi soong cháo, nhưng tôi cũng chỉ ăn được vài muỗng vì miệng mồm đắng nghét. Thằng Trầm an ủi tôi:

- Mầy phải rán uống thuốc và ăn nhiều cháo mới có sức mà hết bệnh được ..

Miệng đắng quá, tao thèm uống nước chanh quá Trầm ơi, tay chân tao như rã rời cử động hết muốn nổi... Tôi gượng cười: ”Không biết tao qua khỏi con trăng nầy không”.

Tôi thiếp đi nhiều hơn tỉnh ...Nhiều đêm thức giấc tôi nhớ mẹ vô cùng. Từ nhỏ sống cạnh kề mẹ, tôi ít khi bệnh. Vào quân trường cũng thế,ai sao tôi vậy. Chín tháng quân trường, ngay cả trong thời huấn nhục tôi chưa từng bị xỉu. Cũng từng dầm mưa dãi nắng khi ra đơn vị, cũng ngủ bờ ngủ bụi... Nhất là trên con đường máu 7B di tản từ Pleiku về đến Bình Tuy, biết bao nhiêu là gian hiểm tôi đều vượt qua đượ ... Không lẽ trong cảnh tù đày như vầy... Tôi không dám nghĩ tiếp,nhưng có lẽ vì quá tủi thân, nước mắt tuôn trào ướt cả má... Nhiều lúc tôi nghĩ quẩn , phải chi mình chết bờ chết bụi trên con lộ 7B cho rồi đở phải cực thân như bây giờ. Rổi tôi cũng lại nghĩ: sông có khúc, ngườI có lúc, mình phải ráng sống, sống để có ngày nhìn thấy toàn dân đứng lên xé nát lá cờ sao. Tình trạng nầy kéo dài mươi ngày tôi mới dấn tỉnh... Trầm đi lao động về cùng với thằng Quang phục quốc vẫn nấu và mang đến chỗ nằm cho tôi từng chén cháo.Tôi ăn được nửa chén, rồi một chén... Những buổi lao động gặp đất mềm tụi nó đào xong sớm, rảnh tay bắt con cá con tôm, ngang đồng nhổ nắm rau đắng đất về nấu cháo cho tôi. Trong hoàn cảnh không có người thân mà được bạn tù chăm sóc, lòng tôi cảm kích lắm.Tôi cũng tự mình cố gắng đi ra đi vào, phơi nắng buổi sáng. Gần một tháng trời mới tương đối bình phục. Thằng Trầm hôm đó về sớm nấu cho tôi một soong nước, ra phía sau pha nước cho tôi tắm. Ðã lâu mới cởi áo quần, tôi thầy người tôi toàn là xương.

Tắm mát mẻ, hòm đất đóng lâu ngày phải kỳ cọ thật lâu.Buổi tối thằng Trầm pha gô nước trà có mấy miếng kẹo đậu phọng, mời một số bạn bè trong nhóm đến uống trà mừng tôi hết bệnh... Tuy trong mình thấy nhẹ nhàng nhưng tôi cảm thấy còn yếu lắm bởi ăn cháo suốt gần cả tháng ...

Tôi chuyển qua nhiều trại tù, riêng trại Mỹ Phước Tây tôi ở gần 12 tháng .Một thời gian rất ngắn so với tuổi tù của tôi, nhưng tôi nhớ trại nầy nhiều nhất. Mỹ Phước Tây trong lòng tôi vẫn là... địa ngục trần gian, bởi chế độ lao động quá nặng nề và cai tù đánh đập tù quá tàn nhẫn...

Anh Thiếu Tá Huề kiệt sức chết ở đây , anh Đại úy Lành (giáo phái Hoà Hảo) bị tụi cán bộ dàn cảnh bắn chết phía sau trại, anh Trung Sĩ Gương Cảnh Sát bị võ trang nhắm thử súng bắn chết trong lúc lao động đào kinh.Còn biết bao nhiêu anh em tù bị chết vì mìn bẫy trong lúc cuốc đất trồng hoa màu... Bao nhiêu anh em vượt trai bị bắt lại bị đánh mềm như bột ,thất khiếu đều ra máu còn bị trói ké bỏ nằm dưới cột cờ , bắt anh em tù đều phải lên coi... Ba người bạn cùng nhóm: Sàng, Bi và Nguyễn Thanh Quang (Trung úy Không Quân) và Đại úy Triệu Tỉnh đoàn Trưởng Tỉnh đoàn Xây Dựng Nông Thôn Gò Công vượt thoát được.

Bây giờ nơi đất tạm dung, mỗi khi tan ca về gặp phải trời mưa, lòng tôi lại bùi ngùi nhớ tới những cơn mưa Đồng Tháp. Trầm qua Mỹ theo diện HO 15 bây giờ ở đâu, Đại úy Triệu vượt thoát tới bến bờ tự do hình như đã qua đời vì bệnh. Còn Quang, Sàng, Bi bây giờ các bạn ở đâu... Trái đất hy vọng vẫn tròn, có như vậy mình mới mong có cơ duyên gặp lại những người bạn đồng cảnh ngộ ngày xưa.

Nếu không có ngày tháng Tư đen, tôi sẽ không bao giờ hiểu được sự thâm ác của người Cộng Sản. Một ngày nào đó tôi sẽ về thăm lại quê hương, tôi sẽ tìm thăm lại con lộ 7B mà tôi đã bước chân đi qua. Một đoạn đường đầy máu và nước mắt,, người chết đi cũng chưa hiểu tại sao phải bỏ quân đoàn 2. Xác người chết bị đạn hất tung hai ba lần như trong một bản nhạc của người họ Trịnh đã viết. Tôi sẽ thăm lại Đồng Tháp Mười, thăm những con kênh xẻ ngang dọc như bàn cờ mà ở đó ngày ngày tôi đều bị đỉa hút máu và phải lao động khổ sai, tai phải luôn nghe những lời chửi mắng của bọn chịu trách, cai tù.

Tôi có thực hiện được điều mà lòng tôi mong muốn? Tôi phải tin tưởng cờ vàng rồi sẽ bay trên suốt dải đất quê hương... vào một ngày không xa lắm.

Viết tại Kỳ Đà Động, Quí Xuân 2003
THỦY LAN VY

CHUYEN VƯỢT BIÊN

Vượt Biển Bằng Thuyền Buồm

Tác giả/Nhân vật: |23-10-2015| 114 lần xem | |
Gởi tặng 84 thuyền nhân đã cùng tôi vượt biển năm 1982. Bây giờ các bạn đã tản mác khắp bốn phương trời không còn liên lạc được, chúc các anh, chị đều có một cuộc sống mới an bình và hạnh phúc.

Ghi chú về buồm.
Khoảng tháng 7 năm 1982 tôi ra tù, về nhà thì vợ con tôi đã qua Mỹ. Tôi đã biết quá rõ về Cộng Sản, nên không có lý do gì để ở lại với bọn chúng. Không có chế độ nào tệ hại như chế độ cộng sản từ ngày lập quốc đến nay. Bộ đội, Công an, cướp của dân, xem dân như súc vật.
Mẹ tôi nói trước khi tôi ra tù đã có 2 nhóm tổ chức vượt biên đến nhà để hỏi thăm tìm người lái tàu cho họ. Phong trào vượt biên coi như công khai, tôi đi đâu cũng nghe nói tới các tổ chức vượt biên bằng đường bộ, đường thủy, ngay cả những người bạn hải quân của tôi,khi gặp tôi họ cũng rủ tôi đi với họ,hay giới thiệu tôi với các tổ chức vượt biên mà họ quen biết.
Mẹ tôi biết thế nào tôi cũng sẽ đi, nên mua cho tôi một chiếc xe đạp, bảo tôi nên đi chơi để tránh sự dòm ngó của công an địa phương, mọi việc ở nhà để mẹ lo.
Tôi đi qua nhà ông Cậu của tôi để xem lại bản đồ và định hướng lộ trình, thích hợp (Cậu tôi có tàu đi Miền Trung).
Tôi có hai người bạn thân trong gia đình đến nói với tôi là nếu có đi thì hãy giúp họ với. Một anh là Huỳnh Hữu Thế bạn cùng học tiểu học với tôi ở Cần Giuộc. Anh học rất giỏi, đỗ thủ khoa ban toán ở đại học Sư Phạm, bị động viên, anh được biệt phái về trường Võ Bị Đà Lạt (lúc học tiểu học tôi thì gầy gò ốm yếu trong khi anh Thế thì mập mạp, nên Thày hay chọc chúng tôi gọi lên bảng, dậy là “Vous êtes maigre, il est gros…” Đó là một kỷ niệm không bao giờ quên trong đời tôi.
Hai là anh Trần Trọng Ngọc – Tiểu Đoàn Trưởng – anh là anh của em rể tôi Trần Trọng Ngà cùng khóa Hải Quân với tôi. Ngà đã hết lòng giúp đỡ con tôi khi nó mới qua Mỹ.
Tôi nghe mẹ tôi nói rất nhiều về các tàu vượt biên, vậy mà cũng không hình dung được các chuyến vượt biên như thế nào. Bà nói, bãi bị bể, bị bắt lại, hoặc ra đi song bị hải tặc cướp của, hãm hiếp và giết người trên biển thì nhiều lắm – Con phải hết sức cẩn thận!
Tôi sẽ phải chọn một trong hai nhóm đến nhà tôi để đi.Nhóm 1 do một người đàn bà tổ chức đi tại Sài Gòn.Nhóm 2 do một người đàn ông tổ chức tại Cần Thơ, bạn Thế của tôi có nhà ở Cần Thơ nên tôi chọn đi tại Cần Thơ, hơn nữa song Cửu Long, dù Tiền Giang hay Hậu Giang, tôi khá rành nhờ ba năm tôi ở Giang Đoàn thuộc Vùng 4 Sông Ngòi.
Ngày 15 tháng 10 âm lịch tôi xuống Cần Thơ do một anh chở tôi bằng xe Honda, tôi mang tên và giấy tờ giả. Muốn sống được với Cộng Sản cái gì cũng giả hết. Anh ta dặn nếu công an có hỏi tôi cứ nói đi Cần Thơ thăm gia đình, mọi việc khác đã có anh lo, xong anh đưa cho tôi mấy cái nhẫn đeo tay nói đây là bùa hộ mệnh anh đừng lo.
Tôi ở nhà anh Thế 2 ngày, ngày nào cũng có người tổ chức vượt biên đến cho tôi đi ăn nhà hàng và hỏi tôi cần gì anh ta sẽ lo. Anh cho tôi biết là sẽ có khoảng 60 người cùng đi trong chuyến này và giá được tăng lên 8 cây thay vì 6 cây vì tàu sẽ do cựu Hải Quân VNCH lái.
Tôi chỉ cần 8 bao gạo, 2 tấm vải nylon, 4 cây cột dài và dây nhợ, vì linh tính tôi thấy đến 82 tàu vượt biên còn lại toàn tàu cũ, nếu có tắt máy tôi sẽ dương buồm để đi.
Chủ tàu (nói là tàu, chớ thật ra chỉ là một ghe máy chở gạo đi miền trung) là chủ một tiệm vàng ở Cần Thơ tàu dài khoảng 12 m. ngang 4m. (12×4) có mui để chở gạo.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10 âm lịch chúng tôi xuống tàu ngay bến Ninh Kiều, có người lái ra bến đông người, tôi xem qua tàu và ngồi nói chuyện với người tổ chức. Ông ta có lẽ là một cựu cán bộ nên nói chuyện có vẻ tự tin, khoảng 4 giờ chiều tàu ra gần đến cửa biển và đó cũng là điểm hẹn rước khách, 5, 6 ghe nhỏ từ trong bờ bơi ra chở đầy người xem ra có tới hơn 80 người vì có nhiều người căn me theo.
Khoảng 5 giờ thì ông tổ chức đến bắt tay tôi, để từ giã và chúc tôi lên đường may mắn, ông hỏi tôi cần súng ông tặng tôi một cây sung ngắn, tôi từ chối.
Tôi làm lễ xuất phát bằng cách đặt tên tàu là tên một bé gái nhỏ nhứt chừng một năm tuổi tên là Ái Linh, và đổ rượu xuống sông “thề quyết đi không trở lại”.
Trời bắt đầu xế chiều nước sông bắt đầu ròng, sóng gió nổi lên rất mạnh, người ngồi trong tàu bị lắc ói mửa. Trong cảnh lặng im, nương theo ngọn sóng, tôi lái tàu ra biển suốt đêm, đến sáng tôi bắt đầu chuyển tàu về hướng nam.
Đến trưa ngày 20, tôi thấy hòn Khoai, trên hải đồ đảo này có tên là Poulo Obi, một hòn đảo nhỏ nằm phía nam của Mũi Cà Mau, khoảng 20 cây số (trước đây tôi đã làm duyên đoàn trưởng duyên đoàn 41 đóng quân trên đảo này). Và đây cũng là là lúc tai họa đến với chúng tôi, tàu bỗng dưng chết máy!
Máy sửa mãi không chạy vì không có thợ máy rành nghề trên tàu. Đúng như linh tính, tôi gọi anh em trên tàu phụ tôi căng hai tấm nylon làm buồm tấm nylon xếp chéo góc hình tam giác, một đầu cột trên ngọn hai cây cột dựng thật chắc ở mũi tàu, đáy tam giác cột vào mũi và thân tàu (theo hình vẽ). Để làm buồm, đưa tay lái cho anh phụ lái, tàu quay vòng vòng vì anh chưa hề lái thuyền buồm.
Bắt đầu từ đây tôi phải tự lái một mình.
Tôi chia các thanh niên khỏe mạnh trên tàu làm 2 tổ, an ninh và tát nước do anh Ngọc chỉ huy và một tổ lo nấu ăn.
Ngày 20 & 21 tháng 10 biển êm sóng lặng bà con tỉnh ngủ lên sàn tàu chơi,. Anh trưởng bếp lên phòng lái chơi, nói chuyện với tôi anh kể toàn chuyện xui xẻo, anh đã vượt biển 7 lần rồi mà không thoát rồi hỏi tôi có đi được không? Nếu bị bắt tôi là tù cải tạo vượt biên có thể bị tử hình. Tôi khuyên anh ta nên bình tĩnh cầu nguyện.
Đến sang ngày thứ tư 23 tháng 10 đã có chút gió từ phương Nam. Ông bà ta nói:
“Ông tha thì Bà cũng chẳng tha,
Thế nào cũng bão 23 tháng 10″.
Đó là lý do tại sao tôi lần lựa chọn ngày 19 tháng 10 để ra đi.
- Gió sẽ đẩy thuyền đi
- Mưa giông sẽ có nước ngọt cho người uống, đi biển chết vì khát nhiều hơn chết vì đói.
- Có bão sẽ không có hải tặc.
- Khi có giông bão tàu Việt Cộng cũng ít ra khơi.
Đến chiều trời bắt đầu đổ mưa to, gió mạnh, tôi phải nương theo sóng mà đi, tàu trên biển lắc như trứng hột vịt thả trong nước, hơn nữa tàu này là loại tàu chở gạo nên lườn tàu hình tròn rất khó lái, tàu ngang sóng là bị lật úp, tàu theo ngọn sóng sẽ bị đẩy chúi mũi vô nước bị nhận chìm. Học lái thuyền buồm và lái đi trong giông bão là hai chuyện khác nhau phải có kinh nghiệm và từng trải qua lái ghe trong bão mới có thể nương theo sóng và gió mà đi. Chỉ có cảm nhận (feeling) tàu chạy như thế nào để cầm tay lái, nhất là lúc về đêm, trời tối đen không còn nhìn thấy gì, chỉ còn cầu Trời! Không ai dám nhận mình tài giỏi vượt thoát qua cơn bão. May là mẹ tôi có đưa cho tôi mấy miếng sâm nên tôi ngậm sâm để tỉnh táo qua đêm, trên phòng lái có mấy quyển kinh Phật do con ông chủ tàu mang theo, em này tu từ lúc bé, tôi dựa vào đó để đỡ mệt.
Trong khoang tàu tất cả đều im lặng cầu nguyện, vật lộn với những đợt sóng lớn dồn dập, không có ai còn biết đói là gì. Con tàu trong bão giông giống như cảnh đưa võng.
Sau hai ngày giông bão tàu đi khá xa.Tổ ẩm thực báo cáo chỉ còn một bao gạo (thay vì mang theo 8 bao chủ tàu chỉ mang theo 3 bao cho 60 người) vậy là đành phải húp cháo.
Có một bé gái khoảng 10 tuổi có lẽ vì đói và hôi hám, nên khóc la suốt đêm, tiếng khóc của em thật khủng khiếp. Đêm khuya canh vắng mà nghe em khóc ai cũng lạnh cả gáy, con chủ tàu nói có mang theo tàu 15 hộp sữa khi tìm chỉ còn 5 hộp, lục soát trong tàu thấy mấy lon sữa không ở chỗ em bé khóc, vặn hỏi mãi mẹ em mới cho biết là em khóc quá nên bà đã lấy trom sữa cho em uống. Dù sao cũng còn lại 5 hộp tổng cộng là 10 hộp, mỗi ngày pha 2 hộp sữa với cháo để sống qua ngày.
Đến ngày thứ 5 thì trời êm biển lặng, bà con lên sàn tàu chơi, sau mấy ngày nôn mửa dưới hầm tàu, ai cũng hôi thối không chịu được. Khoảng 10 giờ có một tàu đánh cá Thái Lan chạy tới, mấy bà trên tàu mừng lắm, nhất định đòi gọi họ lại, tôi cảnh cáo là coi chừng bị cướp, họ nói không chúng tôi đói lắm rồi, dơ nữa cứ gọi họ lại.
Kết quả là tàu đánh cá Thái Lan ghé lại. Mấy ngư phủ Thái Lan ai cũng trẻ khỏe mạnh, chúng tôi thanh niên trên tàu qua cơn bão đói rét yếu như cộng bún thiu, họ bảo gì phải nghe vậy.
Họ bắt tất cả lên tàu để họ lục soát vàng bạc, đàn bà họ cho qua ghe đánh cá tắm rửa và cho ăn. Chủ ghe đánh cá gọi tôi lên phòng lái, tôi đưa cho ông xem một tấm hình tôi chụp chung với 2 sĩ quan Thái lúc tôi học ở San Diego. Ông ta nói được chút tiếng Anh, thấy hình ông nhận ngay ra Sĩ quan Thái, ông nói ông không phải là hải tặc ông cùng với đoàn tàu đánh cá 4 chiếc, tầu của ông ta đi sau cùng nên phải đi ngay không thể ở lâu được. Sau đó ông ta bảo nhân viên thả hết mọi người về ghe để tiếp tục đi. Cách cư xử của chủ ghe người Thái với đám thuyền nhân chúng tôi sau câu chuyện có vẻ êm hơn nhưng vẫn có một cô trên ghe bị cưỡng hiếp. Khi được thả về ghe, kiểm soát lại, tôi còn thấy cái la bàn của tôi đã bị họ lấy mất.
Khi ở nhà anh Thế anh có đưa cho tôi một cái địa bàn, mà anh dấu rất kỹ, tôi đã chỉnh hướng của địa bàn và la bàn: ngày ngắm hướng mặt trời, đêm nhìn sao bắc đẩu.
Ghe chết máy, cánh buồm tự chế tả tơi, người người đói khát, la bàn bị lấy mất, tôi hiểu mình đang bị lâm vào cảnh tuyệt vọng.
Ngày thứ 6 tôi ngủ thiếp đi vì quá mệt, tôi thấy một ông mặc áo thụng đen, khoát tay chỉ cho tôi đi xuống Đông Nam (240 Độ). Nhớ lúc ở nhà mẹ tôi có kể cho tôi nghe, là mấy người vượt biển đã có thấy một ông thánh da đen giúp đỡ họ đó là ông Thánh Martin. Chuyện này làm tôi nhớ lúc ở tù trại Thanh Hóa gần đêm Noel, đêm ngũ tôi đưa tay lên đầu nằm, lại lấy được một cây Thánh Giá. Sau đó, tôi đưa lại cho một anh tu xuất cùng phòng, anh ta rất mừng và Noel năm đó chúng tôi có cây Thánh Giá để làm lễ.
Sáng ngày thứ 7 tôi thấy hải âu, tôi nói với anh em là chúng ta đã đến quần đảo hay là đất liền rồi vì hải âu không đi xa quá bờ trên 200 hải lý. Từ xa, tôi thấy hình dạng một hòn đảo, khi thấy đã gần tới nên tôi ra lệnh neo tàu lại nghỉ vì trời sắp tối.
Đêm đó nằm xuống là tôi ngủ ngay, gần sáng tôi lại nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra khoát tay chỉ về hướng Nam (từ bé tôi đã coi Phật Bà Quan Âm là cứu tinh của linh hồn tôi mỗi khi tôi gặp khó khăn).
Sáng ra tôi cho kéo neo chuyển hướng về hướng Nam thay vì ghé vào đảo. Ai cũng ngạc nhiên, hỏi tại sao tôi không vào đảo. Tôi chỉ bảo là tàu bị dạt về hướng Bắc vì gió bão. Sau này tôi mới biết là nhờ giấc mơ, chúng tôi đã không tự dẫn vào nạp mạng, vì đó là hòn Cọp nơi giam giữ thuyền nhân bị hải tặc bắt.
Hai giờ trưa ngày thứ 8 tôi cho ghe ủi vào bãi đá của một hòn đảo lớn. Thấy trên đảo có nhiều người chạy ra tàu lại nói tiếng Việt, bà con trên ghe quá mừng, lội nước vào bờ, tôi thì quá kiệt sức không đi được, phải nhờ 2 anh phụ bếp dìu lên bờ.
Chúng tôi đã đến bờ Tự Do sau 8 ngày đêm phiêu lưu bằng thuyền buồm trên biển và bão tố, vì nơi ghe cập bờ đúng là đảo Pulau Bidong. Vậy là chuyện vượt biển bằng buồm của chúng tôi giống như một chuyến du hành của Robinson Crusoe.
Trên đảo Pulau Bidong
Sáng hôm sau chúng tôi tập họp trước văn phòng cao ủy để kiểm điểm tôi mới biết trên tàu có tới 85 người kể cả tôi. Tàu được đánh số thứ tự là 836B (có lẽ là đã có 1836 tàu tới đảo).
Một tuần sau họp văn phòng trại của người tỵ nạn, Anh trưởng trại xin từ chức vì anh sắp chuyển trại vào đất liền, Anh đề nghị tôi thay thế. Từ đây, tôi bắt đầu lo công việc của một thuyền nhân trưởng trại.
Đảo Pulau Bidông là một đảo rộng khoảng 2 square kilometer cách bờ Tenengganu Mã Lai 30 miles.
Chuyến tàu vượt biển từ Việt Nam tới đảo ngày 7/5/1975 mang theo 87 người và được gọi là “boat people” và đảo Bidong được hưởng qui chế tị nạn vào ngày 8/8/1975. Trại có thể chứa đến 8.500 người. Năm 1976 số thuyền nhân lên đến 18.000 người rồi tới 40.000 người vào tháng 6/1979. Đây là nơi đông dân nhất thế giới, nếu tính theo mật độ dân số.
Ngày 10/10/1991, khi trại đóng cửa, đã có 250.000 người đến đảo và 9000 người bị trả về Việt Nam… Số người bị chết và bị hải tặc bắt cao hơn con số người đến đảo.
Sang tuần thứ ba phái đoàn cao ủy đến trại, thường thì mỗi tháng họ tới một lần ở lại đảo để xem hồ sơ 1 tuần rồi lại vào đất liền, Ông Trưởng đảo người Mã Lai cũng vậy, ông đi theo phái đoàn.
Ông mời tôi lên gặp ông, ông thấy tôi nói được tiếng Anh ông rất thích (có lẽ trước tôi cung còn có nhiều người nói tiếng Anh giỏi hơn tôi) hỏi thăm tôi đủ thứ. Tôi nói tôi ở tù CS 8 năm mới ra tù là vượt biên ngay. Mỗi ngày ông và tôi đều đi dạo khắp đảo để xem tình hình sinh hoạt trên đảo. Tôi nói với ông là tôi nghe sau giờ giới nghiêm có nhiều cô gái bị gọi ra và bị hiếp, ông rất tức giận cho gọi ông Phó trại ra hỏi và ông này bị la rầy dữ dội, ông còn lấy gậy đánh ông phó ngay trước mặt tôi. Tôi đề nghị thành lập toán tuần tiễu hỗn hợp Mã Việt, mỗi khi đi tuần. Ông Ngọc được giao nhiệm vụ thành lập toán tuần tiễu đêm với Mã Lai. Ông Ngọc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và từ đó không còn nghe tiếng than trách.
Ông trưởng trại còn nói với tôi. Ông là người Mã Lai cấp tá, Phó trại là người Tàu lai Mã Lai chỉ được lên cấp úy mà thôi. Chúng tôi đi xem nhà thờ, chùa trên đảo và xem cầu tàu có nhiều xác tàu ở bãi trước ông kể là co 1 xác chiếc tàu sắt đến đảo năm 1975 khi chưa có qui chế tị nạn nên không được vào đảo. Tàu bị bắn đắm và kéo ra khỏi đảo 3 lần, tàu bị chìm 800 người trên tàu đều bị chết, tàu lại được sóng đưa vào bờ, vậy mà vẫn còn một ông già còn sống. Khi được đưa vào đảo, ông buồn quá ngày nào cũng ngồi dưới gốc cây dừa nhìn ra biển, một hôm gió nổi lên dừa rụng xuống trúng ngay đầu ông, ông đã chết theo bạn bè của ông. Thuyền nhân sau đó đã lấy một tảng đá đẽo một bức tượng lấy tên “Thương Tiếc” nhìn ra biển để kỷ niệm con tàu bất hạnh.
Tôi được làm việc với văn phòng Cao ủy, được vào xem phỏng vấn cũng như coi hồ sơ thuyền nhân. Hồ sơ thuyền nhân la một văn phòng nhỏ chứa tất cả hồ sơ tàu đến đảo từ năm 1975, có 1 cuốn sổ bìa cứng dầy gấp đôi so thường ghi có bao nhiêu tàu đến đảo, bao nhiêu người bị chết trên đường vượt biển bao nhiêu người bị hải tặc bắt và hãm hiếp. Tàu tôi mang số 836 B. Rất tiếc tôi không đọc kỹ xem trước tôi có bao nhiêu tàu..
Ông còn cho tôi biết là trại sắp bị đóng cửa, nên phải phá hết xác tàu để trả lại nguyên trạng cho Mã Lai, và quan trọng hơn cả là còn hơn 400 cô nhi trên đảo không ai bảo lãnh “Có lẽ phải trả về Việt Nam,” tôi phải lo liệu lấy.
Hơn 400 cô nhi trên đảo không ai trông nom nên hay tụ tập nghịch ngợm phá phách đủ thứ, ban ngày đi cưa ván ép cũ đóng xuồng, làm thủ công nghệ, đồ chơi (trại có lúc lên tới 40.000 người bây giờ chỉ còn hơn 2000 người nên có rất nhiều nhà bỏ hoang) gần sáng các em lớn ra phía nam đảo để đánh cá bán lại cho bà con trong trại, thức ăn trong trại do đó rất phong phú, có tiền là có đồ ăn (lính Mã Lai cũng đem đồ ăn từ đất liền ra đảo để bán lại cho thuyền nhân).
Hôm sau tôi họp hội đồng trại để thông báo tin các cô nhi có thể bị trả về VN, chúng tôi phân công để huấn luyện các em sao cho ngoan, có kỷ luật để trình diện phái đoàn cấp cao của Cao Ủy sẽ vào đầu tháng tới (tháng 11/1982)
Anh Thế lãnh trách nhiệm giáo dục văn hóa cho các em dậy cho các em mấy câu tiếng Anh đàm thoại thông dụng…..
Anh Ngọc tập cho các em cách xếp hang chào kính theo cung cách thiếu sinh quân mà anh đã học trước đây, anh cũng lập ra các đội bóng chuyền, bóng rổ, giờ chơi thể thao là các em lanh lẹ và thich lắm.
Anh Hải phó trại cho các em ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, hớt tóc ngắn, kỷ luật và dọn dẹp trại cho ngăn nắp.
Tôi cũng tập họp cả trại cho biết tin trên và yêu cầu mọi người phải khéo léo, nhã nhặn khi tiếp xúc với phái đoàn cấp cao của Cao Ủy để họ co thiện cảm chấp nhận các em cô nhi.
Một tháng qua rất nhanh. Được tin phái đoàn tới đảo, chúng tôi cho các em ra làm dàn chào đón tiếp, phái đoàn có vẻ hài lòng, trong phái đoàn có một anh bác sĩ người Hoà Lan tên Peter nói có quen với tôi. Tôi gặp anh ta, anh ta là con rể ông Nguyễn Thanh Niên chủ hãng xuất nhập cảng Hưng Đạo Sài Gòn (như vậy là tin tôi tới đảo đã được báo với gia đình tôi bên Mỹ rồi) anh cho tôi 100 đô, bắt tay chúc mừng, tôi đáp lại tôi xin anh hãy giúp dùm các cô nhi đừng bị trả về Việt Nam, Cộng Sản tàn ác lắm.
Đến trưa tôi mời phái đoàn ra sân vận động xem các em đánh bóng chuyền, các em rất giản dị, xi xô xi xào với phái đoàn cười đùa rất tự nhiên, phái đoàn phân tán ra ngồi với các em. Đến chiều phái đoàn rời trại.
Hai tuần sau (giữa tháng 11/82) chúng tôi được tin vui. Tất cả các em đều được vào Mỹ, cuối tháng 11 các em đi trực tiếp qua Phi Luật Tân không qua thanh lọc.
Các em qua Mỹ sớm hơn tất cả chúng tôi, nhưng khi các em đi rồi thì trại lại thấy vắng vẻ và buồn… Vì thiếu tiếng cười đùa phá phách hồn nhiên của các em, không còn cá để ăn.
Đầu tháng 12/1982, một số chúng tôi được chuyển qua Sangei Besi để thanh lọc. Ai xin đi Úc đi Châu Âu hay Mỹ thì làm hồ sơ để được bảo lãnh đi.
Sau 3 -4 tháng anh Thế và anh Ngọc được anh em bảo lãnh rời trại để đi Mỹ.
Riêng tôi có đủ tất cả hồ sơ nhưng kẹt người bảo lãnh, nên phải qua Phi làm trưởng trại ở Bataan mãi đến tháng 3/1984 tôi mới được vào Mỹ.
Vũ Đoàn
Nguồn Việt Báo

CANH CO

Cái giá của dân chủ nhân quyền.


Nước Pháp và cả thế giới một lần nữa chấn động bởi bọn khủng bố không biết tanh máu người. Một trăm hai mươi chín thân xác gục xuống dưới những viên AK47 tàn bạo nhắc nhở loài người một sự thật luôn đi kèm với đời sống bất cứ ở nước nào trên thế giới này: không bao giờ có hòa bình vĩnh cửu cho nhân loại.
Những viên đạn làm cháy lên các viên đạn khác khắp nơi, từ Iraq tới Yemen cho tới Syria hay Afganistan. Chiến dịch săn đuổi khủng bố tổng lực của Pháp và Mỹ không làm cho người ta yên tâm hơn mà trái lại câu hỏi bén như dao vẫn làm cho chính phủ các nước dân chủ mất ăn mất ngủ: liệu chính sách mở cửa cho người tỵ nạn có giúp làm cho bọn khủng bố thêm đất đai để tiếp tục giết hại chính người mở cửa cho chúng tràn vào?
Phương Tây vẫn không ngừng lớn tiếng tranh đấu cho những con người khốn khổ vì chiến tranh, vì bất công đày đọa. Phương Tây không mở cửa sẽ bị chính người dân của họ phản đối và những phản đối ấy kéo theo các phản ứng dây chuyền khác của kẻ chống người bênh. Ngay cả việc nghe lén điện thoại vì lý do an ninh cũng bị phản ứng dữ dội và sinh ra con quái vật Snowden, đẩy sự chống đối việc nghe lén lên tới đỉnh điểm.
Người Pháp có thể đặt câu hỏi: Còn bao nhiêu vụ bắn giết nữa xảy ra trên đất nước này khi mà sự căm thù của bọn Nhà nước Hồi giáo ngày một tăng cao tỷ lệ thuận với những chuyến không kích vào sào huyệt của chúng.
Chúng ở ngay nước Pháp, dưới chân tháp Eiffel, dưới những trạm xe điện ngầm và ngay cả trong Vương cung thánh đường Notredam de Paris. Người dân Paris nếu được hỏi có nên cô lập tất cả các sắc dân từ các vùng có quân khủng bố đang sinh sống tại Pháp hay không thì chắc chắn câu trả lời sẽ là không. Bởi, bọn chúng không đại diện cho tất cả các sắc dân mang cùng tôn giáo hay quốc tịch với chúng. Nạn nhân của chúng là những tấm lòng đã mở ra gói chúng vào trong và họ không hề tin rằng một hôm nào đó những con rắn cõng kinh Coran trên lưng ngoác rộng miệng ra cắn vào chính người nuôi dưỡng chúng.
Đặc điểm của sự mâu thuẩn này không bao giờ có lời giải đáp toàn vẹn cũng như bất cứ giải pháp nào nhằm chống lại những con người đang tỵ nạn trong lòng nước Pháp đều sẽ làm dấy lên hỗn loạn. Nhân quyền sẽ được mang ra và đấy cũng là cái cớ cho bọn khủng bố tận dụng chống lại hệ thống dân chủ của Tây phương: Nhân quyền bị chà đạp vì nhân danh bảo vệ cho người dân chính quốc, sẽ là câu slogan khiến giới tả khuynh nắm chặt trong tay như bùa, và lá bùa ấy vừa làm cho nước Pháp được vinh danh vừa tưới thêm máu người dân lên dân chủ, nhân quyền vốn là ánh sáng dẫn đường cho dân tộc Pháp.
Nhân quyền càng thắm máu thì giá trị của nó lại càng tăng cao.
Ý thức nhân quyền của công dân trong các nước dân chủ thực sự có vượt qua được cuộc chiến với khủng bố IS hay không cón phải chờ thời gian trả lời. Sự mệt mỏi vì bị tấn công trường kỳ có thể làm biến dạng cách mà các chính phủ tôn trọng nhân quyền nhưng chắc chắn sẽ không vì vậy mà biến thái hay méo mó như những chính phủ độc tài vẫn áp dụng cho người dân của họ. Nhân quyền vẫn sẽ là thước đo cho từng biện pháp đối phó với khủng bố kể cả phải cô lập một cộng đồng, một khuynh hướng cũng phải không được bất cẩn với hai chữ nhân quyền.
Thế giới phương Tây có lúng túng cách nào vẫn có thể đối phó với khủng bố được bởi ý thức của từng người dân và sự tôn trọng sự đóng góp của họ trong tinh thần dân chủ. Lo ngại việc khủng bố trà trộn vào dân chúng, vào các cộng đồng hồi giáo dù có làm cho dân chúng sợ hãi nhưng sẽ không làm cho họ phản ứng như đối với kẻ thù. Lý do là họ đang sống chung với những cộng đồng có cùng lo âu như họ và không ai nỡ mang xiềng xích vây bủa làng xóm mà mình biết chắc là lương thiện như mình.
Chỉ có độc tài mới cho rằng mọi biện pháp đều cần thiết, kể cả việc chà đạp nhân quyền hay dân chủ cũng tốt miễn là đạt được mục đích cuối cùng.
Khủng bố tại các nước cộng sản như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên hay Việt Nam đều mang dạng thức chà đạp nhân quyền để đạt mục đích được rêu rao là giữ gìn an ninh công cộng. Những cái chết âm thầm trong trại giam, những con người bị lôi sềnh sệch tại Tây Tạng, Tân Cương hay Hà Nội đều giống nhau vì họ tranh đấu cho nhân quyền, cho quyền làm người phổ quát mà ai cũng được quyền hưởng. Họ tập trung vì bất cứ lý do gì cũng được xem như chống lại nhà nước và vì vậy nhà nước dùng biện pháp khủng bố lên tinh thần họ để gìn giữ an ninh cho đám đông mà nhà nước cho là cần phải được bảo vệ.
Đám đông mỗi nơi một khác nhưng tại Việt Nam mọi đám đông đều được nhìn như nhau, được định nghĩa là tụ tập với hàm ý xấu và do đó cách đối phó không khác gì nhau.
Anh đi biểu tình chống Trung Quốc hay chỉ là dự định đi biểu tình chống lại công an không công bằng với những luật sư nạn nhân của côn đồ đều giống nhau. Luật Sư Trần Vũ Hải không khác với kỹ sư Trần Bang, một người bị khủng bố bê bết máu trên mặt một người bị khủng bố bê bết vết nhơ giả dối trên hồ sơ hành nghề. Hai cách khủng bố không chết ai ấy nhưng lại có tác dụng như IS trong lòng Paris: làm cho người dân Việt Nam tê cứng trong sợ hãi.
Cái giá của dân chủ nhân quyền không bao giờ là nhỏ và cách ứng xử của người dân mỗi nước vì vậy cũng khác nhau. Pháp thừa hưởng dân chủ nhân quyền đầy đủ và công dân của Xanh Trắng Đỏ sẽ tỉnh táo nhưng không khoan nhượng với IS. Trong khi đó, người dân Việt sẵn lòng im lặng khi bị khủng bố bởi họ  nằm trong chiếc kén kiên cố của những chú nhộng không bao giờ thành bướm, và những con nhộng ấy không hề có cảm giác chiếc kén của mình ngày một nhỏ hơn bởi chính sách đàn áp của chính quyền mỗi ngày một căng phồng ra.

TUAN KHANH

Đối diện con quái vật


Thái độ công dân đối với quốc gia mình, phản ánh rất nhiều điều để nghĩ. Nó có thể người tay hân hoan vỗ tay cười, và có thể khiến từng cá nhân gục mặt khóc âm thầm.
Tháng 11/2015, sau khi nước Pháp bị tấn công bởi quân IS, số lượng thanh niên xin tòng quân để bảo vệ tổ quốc và đáp trả lại những kẻ đã giết hại đồng bào mình tăng gấp bốn lần. Các cơ sở tuyển quân của Pháp cho biết họ bất ngờ trước các lời xin nhập ngũ và các thư thắc mắc về tiêu chuẩn nhập ngũ lên đến 1500 hồ sơ, mỗi tuần. Theo ước tính, từ đây đến năm sau, Pháp sẽ nhận thêm 25.000 tân binh nữa. Hầu hết các lý do trong đơn xin nhập ngũ, được ghi rõ rằng họ muốn bảo vệ tổ quốc mình.
Tổ quốc là cái gì đó rất mơ hồ, không cụ thể. Nhưng đứng trước những hình ảnh nơi sinh sống của mình đang lâm nguy, những người chung tiếng nói, quốc tịch của mình bị giết, bị đe doạ, ý thức về tổ quốc bừng dậy như một bản năng cao quý.
Nước Pháp không phải là ngoại lệ. Vụ khủng bố ngày 9/11/2001 ở Mỹ cũng đã khiến tinh thần ái quốc của người Mỹ đa chủng tộc lên cao bất ngờ. Các thống kê cho thấy chỉ một tháng sau vụ đánh vào toà tháp đôi, trang mlive.com cho biết hàng chục ngàn thanh niên đã xin đăng lính vào nhiều binh chủng, đặc biệt ghi rõ là họ sẳn lòng đi đến bất cứ nơi đâu để tiêu diệt kẻ tấn công vào đất nước mình, người dân của mình. Năm 2002, nước Mỹ đón nhận thêm 80.000 tân binh. Tình trạng bùng nổ bất ngờ này làm gợi nhớ số lượt đăng lính tăng vọt sau vụ người Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) vào năm 1941.
Đọc những tin tức này, những ai yêu lẽ phải và mang trong mình lòng tự hào dân tộc đều có thể ứa nước mắt vì xúc động. Dâng hiến cuộc sống cho tổ quốc mình và giờ phút nguy nan, là niềm hãnh diện và cao quý mà không phải nền giáo dục nào, văn hoá nào cũng có thể may mắn có được.
Đã từ nhiều năm nay, các bản tin về tàu Trung Quốc tấn công ngư dân Việt mỗi lúc càng nhiều, càng hung hãn. Tàu "bạn hữu nghị" từ phương Bắc tràn xuống, cướp, giết, bắt cóc... kể cả bao vây đường biển của Việt Nam - nói chính xác là một cuộc xâm lăng trong thời đại mới. Thanh niên Việt trong đời sống xã họi chủ nghĩa đã làm gì?
Thật kinh ngạc, tăng dần theo thời gian là số lượng cha mẹ đưa con cái đi du học, đi xa đất nước như một cuộc đào thoát lớn lao và kiên nhẫn, bao gồm trong đó là các bậc phụ huynh có chức vụ, miệng luôn hô hào xây dựng đất nước và tồn tại hoà bình, 16 chữ vàng với Bắc Kinh.
Bối cảnh Việt Nam luôn thấp thỏm trước các lời đe doạ sẽ bị tiến và chiếm trong 24 giờ của báo chí chính thống Trung Quốc, thì thống kê cho thấy nạn trốn nghĩa vụ quân sự cũng tăng cao bất ngờ. Thậm chí. Trên các trang mạng xã hội, giới thanh niên nồng nhiệt bàn với nhau cách trốn nghĩa vụ quân sự. Thậm chí cẩm nang có 17 cách thoát chuyện đi lính được chia sẻ khắp nơi. Mệt mỏi đối phó với tình trạng này, năm 2013, Trung tướng Trần Đình Nhã, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh của Quốc hội cũng đã từng đề nghị cho phép hợp pháp việc không phải đi lính, bằng việc đóng tiền thế thân.
Quả là một nghịch cảnh mà lịch sử Việt Nam từ thời sơ khai đến giờ mới có. Một dân tộc từng đánh bại mọi quân đội ngoại bang, ngay cả lúc túng cùng nhất, lại rơi vào thảm cảnh như vậy. Lẽ nào dân tộc Việt Nam hôm nay không còn yêu nước, hay không còn tin vào những món hàng vũ trang quân sự "khủng" hàng đầu thế giới vẫn được thông tin là đã về đến, đã trang bị cho cho quân đội nước mình?
Đây là một vấn đề thật đáng suy nghiệm lâu dài, nhưng để trả lời nhanh, rõ ràng con người đang mất niềm tin. Trong mọi sự hy sinh cho tổ quốc mình, chắc chắc nhân dân không ngại, nhưng họ muốn sự dâng hiến của mình phải có ý nghĩa. Và thật là ngu ngốc, nếu chết không cho ai, để làm gì, và chết thay một cách ngu ngốc.
Ngày 29/11/2015, thêm một ngư dân Việt bị bắn chết thảm thương trên biển ở Trường Sa, Quảng Ngãi. Ông bị bắn không có thông báo, không có lời cảnh cáo, bị bắn đến 2 phát đạn vào một cơ thể chỉ biết quăng lưới và thả câu.
Người ngư dân này bị bắn chết trên biển, bởi niềm tin được thúc giục từ các nhà lãnh đạo trên bờ vẫn thúc giục rằng hãy cứ ra khơi và cứ đánh bắt như một cách "thực thi chủ quyền của tổ quốc". Những người còn sống hãi hùng đã đưa thi thể của người ngư dân này về đất mẹ, thật cô đơn, vì bởi hàng trăm hải lý đầy kẻ thù đó, cũng có những tàu cảnh sát biển đi tuần tra "khống", báo cáo láo để ăn tiền dầu, tiền hoạt động, để vui vẻ an sinh trên bờ.
Người ngư dân bị bắn chết ngày 26/11, đến ngày 30 thì thi thể mới giao được cho gia đình. Thế nhưng trong những ngày di chuyển về nhà, chiếc tàu này thật cô đơn vì chỉ có một mình, dù đã báo với bộ đội biên phòng chuyện mình bị tấn công và có người tử nạn. Không có tàu kiểm ngư nào ra đón, không có ai đi cùng nỗi kinh hoàng của họ trong chuyến quay về. Mọi trang thiết bị hiện đại trên biển luôn được tuyên truyền, như chỉ nặng phần trình diễn cùng sự thờ ơ của chính quyền.
Dân tộc Việt Nam hôm nay mới đáng thương làm sao, đi biển mà yếu ớt như trẻ nhỏ. Ai cũng có thể bắt nạt. Ai cũng có thể cướp và giết. Láng giềng thì mặt cười thân thiện, quay lưng thì tay súng, tay dao. Nhưng đáng thương hơn bao giờ hết là chuyện ngư dân chết trên biển đã ngày càng nhiều và thường hơn, còn những người trên bờ nghe chuyện tang thương ngoài khơi, giờ chỉ mệt mỏi, nhíu mày thương hại mà cũng không thấy cần phải làm gì.
Người Việt Nam như đang được các chính sách đối ngoại của chế độ tập quen dần thói quen ích kỷ, sợ mình bị mất mát, nhưng lại im lặng và chọn lựa thay thế bằng mất mát của những ngư dân nghèo khó. Nó giống như những câu chuyện cổ tích về các ngôi làng xưa phải hiến tế ai đó cho con quái vật để được yên. Vẫn có những người tin rằng việc hiến tế không bao giờ đến lượt mình, và mỗi ngày vẫn ăn ngon ngủ yên với những con cá đẫm máu đồng loại. Họ không muốn một cuộc chiến đối diện thẳng với con quái vật vì chỉ sợ mất mát cho riêng họ.
Cũng như những ngôi làng khiếp nhược và u mê ấy, có bao giờ chúng ta tự hỏi rằng chúng ta sẽ mất - mất rất nhiều - thậm chí mất tất cả, mà các loại quái vật không cần mất sức cho bất kỳ một cuộc chiến tranh nào. Và những người lãnh đạo ngôi làng, nếu không có dũng khí để đối diện với cái ác để bảo vệ mọi người, thì họ tồn tại để làm gì?

THƠ CAO BÁ QUÁT

THƠ CAO BÁ QUÁT









Cao Bá Quát (Chu Thần, 1809 – 1854) quê làng Phú  Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Ông chỉ đỗ  đến cử nhân nhưng trên thực tế, Cao Bá Quát  đã trở thành một nho sĩ kiệt hiệt của thời  đại. Vua Tự Đức đã phải khen:
Văn như  Siêu, Quát vô Tiền Hán.
    (Với văn của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì  văn thời đời Tiền Hán coi bằng không).
Còn những người sùng bái ông thì gọi ông là Thánh Quát!
Danh bất hư truyền, Cao Bá Quát là người con trác việt mà non sông Việt Nam đã sản sinh ra: một con người toàn diện với trái tim vô cùng nhân hậu, tâm hồn đằm thắm, với hồn thơ và tài năng văn chương lỗi lạc, với nhãn quan vô cùng sâu sắc của một hiền triết am tường chân tướng của thời đại, với tầm vóc và cốt cách của một bậc đại hùng đại đức. Ông đã để lại trên thi đàn Việt Nam cổ kim một tên tuổi bất hủ, đồng thời để lại một trang sử chói lọi chống chính quyền phong kiến thối nát.
Mặc dù đại sự “thay đổi thời cục” không thành, Cao Bá Quát đã thực thi một sứ mạng lịch sử: dùng tất cả sức mạnh “hích” lịch sử tiến lên phía trước! Sự phủ nhận triệt để của ông với chính quyền phong kiến đương thời là một sự cảnh báo nghiêm khắc, là lời tiên tri cực kì chuẩn xác: chỉ vài ba năm sau khi ông từ trần, triều đình Tự Đức, vì cố tình cưỡng lại cú hích ấy, không tiếp nhận lời cảnh báo ấy, không chịu lột xác, đã dần đi đến chỗ bại vong, rốt cuộc phải đầu hàng nhục nhã trước thực dân Pháp, chịu để mất nước và trở thành bù nhìn cho kẻ xâm lược.
Những trăn trở, đớn đau của Cao Bá Quát với số  phận của đất nước ta thời ấy sao mà giống với những trăn trở đớn đau của thi hào Puskin với số phận của nước Nga dưới chế độ Sa hoàng đến thế!
Có  lẽ vì vậy mà cả hai thiên tài, đồng thời là hai nhân vật anh hùng ấy đều phải ngã  xuống vì mũi tên hòn đạn của những thế  lực phản động! 
Tục ngữ Việt Nam có câu: “người đôi ba đấng”. Theo chúng tôi, để tìm hiểu “chân tướng” của một hiện tượng rất lớn lao, phức tạp – hiện tượng Cao Bá Quát – có lẽ phương pháp tốt hơn cả là “giải mã” cái bản chất “đấng” ấy của ông, tức là bản chất tính cách anh hùng của ông phát lộ theo một logic nội tại trải qua các giai đoạn: ra đời, được đào luyện, thử thách trong “lò đời”, và phát triển tới tột bậc. Căn cứ nguyên lí “những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm, thì là sự nghiệp, khi thổ lộ ra lời nói, thì là văn chương” (Nguyễn Năng Tĩnh), chúng ta có thể thông qua những áng văn chương ông để lại để nghiên cứu toàn diện về ông.
Trên thi đàn Việt Nam kim cổ, ngoài thơ của Nguyễn Công Trứ và một vài thi nhân sau này như Tú  Xương, Tản Đà… thơ Cao Bá Quát đã đặc tả cái tính cách anh hùng ấy hết sức đậm nét. Sở dĩ ông làm được điều đó bởi vì ông đích thị là người mang cái tính cách ấy (những thi nhân không có tính cách ấy thì lấy gì mà miêu tả nó?).
Một người sinh sau Cao Bá Quát là Phan Bội Châu đã viết:
                Sinh vi nam tử  yếu hi kì,   
                Khẳng hứa càn khôn tự  chuyển di?
                (Sinh ra làm trai cần phải hiếm, phải lạ,
                Không lẽ để cho trời  đất tự ý xoay vần?)
Ngay từ khi còn rất trẻ, Cao đã tỏ ra là một  đấng nam tử “hiếm, lạ”. Cái “chí làm trai” của ông đã luôn luôn thôi thúc ông tìm đến hoà mình vào với đất trời cao rộng:
            Trời  đất có núi ấy,
                Muôn thuở  có chùa này.
                Phong cảnh đã kì tuyệt,
                Lại thêm ta đến đây.
                Ta muốn lên  đỉnh núi
                Hát vang với nước mây…
                (Qua núi Dục Thuý) – Ngô Lập Chi dịch
Nhiều bài thơ biểu đạt cái tráng khí ngất trời của một chàng thanh niên đang nung nấu một lí  tưởng cao vời:
                  Ví  không sóng gió phũ phàng
                  Thì  sao biết được dặm trường chí  xa?
    (Từ  Thanh Trì buông thuyền xuôi nam) – Trần Huy Liệu  dịch
                  Sáng lên Hoành Sơn trông,
                  Chiều xuống Bàn Thạch tắm.
                  Nhặt hòn  đá mỗi nơi,
                  Núi sông không đầy nắm.
         (Tắm ở khe Bàn Thạch) – Hoá Dân dịch
Cùng với thiên nhiên kì vĩ, những tấm gương hiển hách của bao đấng anh hùng trong lịch sử dân tộc đã khích lệ và đào luyện nên khí phách anh hùng của nhà thơ, đúng theo qui luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Những câu thơ Cao viết về đề tài này thật hùng hồn khác thường:
  … Phá giặc roi vàng gầm sấm sét,
      Lên không ngựa sắt lạ xưa nay.
      Công ghi cõi Việt so trời đất,
      Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ  cây.
      Miếu cũ thông reo khi gió động,
      Tưởng quân thắng trận trở về  đây.
      (Vịnh Đổng Thiên Vuơng) – Vũ Mộng Hùng dịch 
      Tiết cứng, lòng trong, khí phách hùng,
      Một tay muốn kéo lại vầng hồng.
      Cô  trung sấm sét không sờn chí,
      Thất trảm yêu ma phải rợn lòng…
      (Vịnh Chu An) – Vũ Mộng Hùng dịch
Con đường lập danh phổ biến nhất của kẻ sĩ  đương thời là… thi đỗ ra làm quan! “Ở đời thì  phải chiều đời”, Cao đã cố gắng nhập cuộc. Nhưng ác hại thay, chế độ thi cử đương thời không phải là cái thước có thể đo được những tài năng kiểu như Cao (hoặc Tú Xương sau này). Chính vì vậy mà “Thánh Quát” lúc trẻ đã nhiều lần… thi trượt:
                Đời ta vì chữ danh,
                Mười năm uổng miệt mài.
                Một chút tên trên bảng
                Phờ  phạc cả con người…
          (Viết hôm tiếp được thư nhà) – Hoàng Tạo dịch
Có  thể nói, những thất bại về khoa cử giống như “những cú đấm đầu tiên” vào tính cách anh hùng của Cao và nó làm cho chàng thanh niên nhức nhối. Thế rồi, do đỗ đạt thấp, Cao chỉ  được nhận một chức quan nhỏ: hành tẩu bộ Lễ (chạy việc vặt trong bộ Lễ). Một tiềm năng lớn lao bị cột vào một địa vị nhỏ nhoi vô bổ như vậy, khác nào một chú chim đại bàng bị nhốt chặt trong lồng? Phản ứng lại tình trạng đó là những lời thơ cám cảnh:
                Cỏ  vườn, tên chẳng rõ
                Hoa đỏ cháy bên thềm.
                Có  sắc, được người chuộng,
                Không hương, đời lãng quên.
                Cành mọc, vẻ  xuân đượm,
          Quả  ra, chẳng thể ăn!
                Nét thanh cao riêng giữ,
                Xui ta luống thở  than!
                (Cỏ trong vườn) –  Kiều Văn dịch
Cũng như Nguyễn Công Trứ, cái tôi nhân bản của Cao Bá Quát được thể hiện vô cùng sắc nét trong thơ, làm nên “máu thịt” của một dòng văn chương đích thực về con người, đối lập với thứ văn chương ước lệ vô giá trị vẫn thường xuất hiện đầy dẫy trong mọi thời:
          Đời ta vốn là hơi là bụi,
          Theo từng cơn gió  thổi tơi bời,
          Đi về chẳng có  định nơi,
          Chỉ  trong giữa khoảng đất trời mênh mang.
          Từ  trăm luyện sắt gang cứng rắn,
          Khí  hào hùng một đấng ngang tàng,
          Lưới đời từ độ vấn vương,
          Giày vò  kể đã nhiều phương giũa mài.
          Lòng ta vốn một hai phóng khoáng,
          Nỗi lo buồn bỗng vướng như không,
          Khác chi chiếc lá  vẫy vùng…
                      (…ở ngục Thừa Thiên) – Vũ Mộng Hùng dịch 
Quả  thật con người mang tính cách anh hùng ấy đã bị  dằn vặt ác liệt vì không tìm được  đường tiến thân:
          Bãi cát, bãi cát, ngao ngán lòng,
          Đường phẳng mờ mịt, đường hiểm vô cùng!
                Nghe ta hát  “cùng đồ” một khúc!
                Phía bắc núi bắc, núi muôn lớp!
                Phía nam núi nam, sóng muôn  đợt!
                Sao mình anh còn trơ  trên bãi cát!
          (Đoản ca “Đi trên bãi cát”)  – Huệ Chi dịch
“Anh hùng đa nạn”, chính lúc đang ở bước “đường cùng” ấy thì một tai hoạ lớn ập xuống: Cao bị tù tội chỉ vì lòng “liên tài” (ông đã chữa một chữ trong quyển thi của một thí sinh để cứu thí sinh này khỏi bị rớt uổng). Không còn là chuyện một thư sinh lãnh “những cú đấm” trong thời “thi trượt” nữa, mà là một nhân tài lỗi lạc, một nhân cách cao cả bị một triều đình phong kiến làm nhục, gìm sâu xuống vũng bùn nhơ:
          …Thân tù nằm sấp, vẻ xanh xám,
          Như  con dê sợ nhìn trước sau…
          Bị  tra tấn mãi miệng cứng đờ…
          Tiếng quan như  sét rường nhà rung
          Ánh roi như chớp vụt tứ tung,
          Giơ  lên, rồng quật bờ ao lở,
            Ngừng lại, nước dội nồi canh bồng…
      (Bài ca “cái roi song”) – Xuân Trang dịch 
Nội dung đặc biệt nổi bật trong thơ Cao Bá Quát là  những tâm tư, những nỗi uất hận sâu sắc về thân thế mù mịt, về cảnh sống tù hãm của một con người hào kiệt bất phùng thời. Những lời thơ rướm máu tuôn trào dưới ngòi bút của họ Cao tưởng có thể làm đau đớn đến muôn đời:
          Con nước mới, giục  đêm tàn,
          Rét  đầu mùa tiễn muộn màng cảnh thu.
          Tháng ngày  đôi mắt mịt mù,
          Giữa  đất trời, một anh tù làm thơ.
          Trông gươm tựa gối bơ  phờ,
          Gọi  đèn xem lại xác xơ áo cừu.
          Xót mình tâm lực cạn  đâu,
          Mà  thân giam hãm mối sầu khôn nguôi!
          (Đêm một mình cảm nghĩ)  – Hoàng Trung Thông dịch
          Chết trong nghiên bút, ta nào phải,
          Sống cậy văn chương, chuyện có rồi.
          Công mẹ  uổng sinh ngoài xứ sở,
          Thân con thừa gửi giữa trần ai…
                       (sau khi bộ Lễ tra tấn… gượng đau viết) –
           Khương Hữu Dụng dịch
          Dòng thơ  oán hận lệ hoà máu,
          Chén rượu phân kì  hồn dễ say.
                (Gửi hận) – Hoa Bằng dịch
Thời gian trôi qua, mối hận lớn đối với thời cuộc càng tích tụ trong lòng, và biến người anh hùng thành một… cuồng sĩ. Chúng ta hãy đọc đôi câu đối của “cuồng sĩ” dán ở nhà dạy học khi ông làm giáo thụ Quốc Oai:
          Nhà  trống ba gian, một thầy, một cô, một chó  cái;
          Học  trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Với trí tuệ sáng suốt phi thường, Cao Bá Quát nhận thức được rằng hoàn toàn không phải “những rủi ro vụn vặt” tạo nên bất hạnh của đời ông. Trái lại, bất hạnh lớn nhất của bản thân  ông cũng như của toàn dân tộc ông chính là không được ở vào một thời đại tốt đẹp như thời Nghiêu – Thuấn (ông gọi thời đại của ông là thời “vô Nghiêu Thuấn”!). Để khẳng định nhận định ấy, ông đã thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân ông, kể cả những tầng lớp cùng đinh của xã hội. Và ông đã phát hiện toàn bộ hiện thực xã hội thối nát và đen tối thời Tự Đức. Cũng như trong văn thơ của Nguyễn Du trước kia, trong thơ ông đầy dẫy những hình ảnh bi thương, đau xót của “thập loại chúng sinh”: những người nông dân “môi run, bụng lép, tơi quèn” tát nước trên đồng cao, một cô gái “chịu rét bước qua cầu” vì vừa phải cầm áo để đổi gạo cứu người nhà đang đói lả, những người dân đói đi lĩnh phát chẩn, những người ăn xin…
“Những điều trông thấy” ấy, trước kia thi hào Nguyễn Du đã mô tả trong thơ với lòng cảm thương, đau xót. Còn Cao Bá Quát thì khác, ông cũng ghi chép tất cả với lòng thương xót vô hạn, nhưng không chỉ thế, ông còn đặt ra một câu hỏi lớn: tấn bi kịch cuộc đời ấy do đâu mà có? Và những nhà nho, những bậc sĩ phu, những đấng quốc sĩ có trách nhiệm gì với tấn bi kịch đó hay không? Một câu hỏi như vậy chỉ có những ngươi anh hùng mang ý chí dời non lấp biển như Cao Bá Quát mới có thể đặt ra mà thôi! Ông cảnh cáo những kẻ mang “mục dân chi trách” (trách nhiệm chăn dân):
          Chú  bé chăn bọ ngựa
          Buộc nó  bằng sợi dây.
          Sợi dây quấn chằng chịt,
          Nó  chết trên cành cây…
          Người dắt dân ta hỡi!
          Xét kĩ  trên lông mày.
                (Chú bé chăn bọ  ngựa) – 
          Hoàng Trung Thông dịch
Với lí trí xét đoán tinh tường và tấm lòng ưu thời mẫn thế, ông nhìn rõ cảnh suy vong của đất nước:
          Bậc nhất phồn hoa kinh khuyết cũ
          Cao sâu Nùng, Nhị  vẫn sơn hà. 
          Thành trì  trơ mấy hồi kim cổ, 
          Phường phố  thay bao lớp trẻ già. 
          Tết lạnh cửa hầu, đèn lạt khói, 
          Gió  thơm quán rượu, liễu tươi hoa. 
          Hồ  Tây khôn nỡ thuyền trăng dạo, 
          Sáo gợi hồn quê rợn bóng tà.
                (Cảm xúc khi lên thành Thăng Long ngắm cảnh) – 
                Hoàng Tạo dịch
Có  thể nói, vào những năm cuối đời, trong tâm hồn Cao Bá Quát luôn luôn sôi réo một ngọn lửa cháy ngầm dữ dội… Những câu hỏi thi nhau dằn vặt  ông: 
                    - Kim cổ miên man tình đất nuớc,
          Sao mình làm mãi một thi ông?
          - Dưới thì  không ngủ có ta,
            Trên thì  sao sáng lững lờ muốn rơi.
          - Phí  công cầm bút đã mười năm,
            Lo trước vui sau chí  chửa cam.
          - Trai ba mươi tuổi chẳng nên danh,
            Mỏi gót chưa nguôi nỗi bất bình…
            Ca đoạn bảy bài nhìn trở  lại,
            Cau mày thêm giận kiếp phù sinh.
          - Thái bình một chước chưa thành,
            Tầm thường nghĩ  thẹn cho mình nhà nho.
          - Muốn khơi cạn nước dòng Tô thuỷ,
            Rửa sạch cho đời dạ nhớp nhơ… 
Mặc dù thể chất ông đã suy yếu sau những chặng đời đầy dẫy chông gai, khổ ải, lo buồn, nhưng trong người anh hùng dường như có một sức mạnh nội tại phi thường, đúng như Kinh Dịch đã nói: “Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức” (Trời chuyển vận mãnh liệt. Người quân tử cũng tự làm mạnh mình không ngừng nghỉ). Rốt cuộc cái nhân cách anh hùng của Cao Bá Quát đã đi đến chỗ “cùng”. Ông quyết chối bỏ quá khứ vô nghĩa:
            Ngán cho mình đóng cửa nhai văn, nhấm chữ  bấy lâu rồi
          Sâu  đo nọ những đòi đo thế  giới!
          Từ  vượt bể qua Ba Sơn  đất mới,
          Bừng mắt trông, ôi sáu cõi mênh mang!
          Rõ  trò chơi từ trước, chuyện văn chương,
          Khách nam tử  ai sống suông bằng sách vở?
          (Đề sau khúc “Yên  đài anh ngữ”…) – Hoàng Tạo dịch
Ông đã mô tả cái trạng thái ngột ngạt của một xã hội như đang chờ đợi những biến cố sẽ xảy ra:
          Mây trôi trôi mãi chưa về,
          Sớm hôm tất tả  chẳng hề được yên.
          Bỗng đâu trận gió nổi lên,
          Đưa mây trôi dạt vào miền núi cao.
          Trần gian đang ngóng mưa rào,
          Sấm  đâu còn ở nơi nào im hơi1
          (Đám mây trôi) – Nguyễn Văn Tú dịch
Thế  rồi “cùng tắc biến”, tính cách anh hùng hào kiệt của Cao Bá Quát đã loé sáng như một tia chớp giữa bầu trời đen tối của lịch sử. Ông rũ sạch cả món nợ văn chương vô bổ  lẫn cái “công danh” đáng phỉ nhổ, oai phong lẫm liệt bước lên chiến luỹ để tuyên bố một cuộc chiến sống mái với triều đình nhà Nguyễn! Những khái niệm “khi quân”, “loạn thần”… thường vẫn làm các nhà nho khiếp hãi và “tránh như tránh tà” thì người anh hùng họ Cao thản nhiên chấp nhận tất! Không nghi ngờ gì nữa, dưới mắt ông, Tự Đức chỉ là một tên vua hề bất lực và vô vị, không thể bén gót ông ở bất cứ phương diện gì. Ông khẳng định phẩm chất cao cường của mình và hoàn toàn tin rằng phải một nhân vật như ông mới có thể cứu vớt được nhân dân khỏi vòng khốn đốn, mới đủ bản lĩnh và tư cách lãnh trách nhiệm “chăn dân”! Mặc dù do hạn chế tất yếu của thời đại, ông chưa tìm được một “chủ nghĩa” đúng đắn, khoa học để đưa đất nước thoát khỏi chế độ phong kiến đã đến hồi tan rã, nhưng tư duy của ông có một nhân tố hết sức đúng: nếu người đứng đầu triều đình không phải một ngu quân mà là một đấng minh quân thật sự thì triều đình ấy tất sẽ lãnh đạo quốc dân tốt hơn gấp bội. Ông chủ trương một cuộc “thay đổi lãnh đạo” theo tinh thần ấy.     
Năm 1853, cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (thuộc Hà Nội) do ông lãnh đạo đã nổ ra. Tinh thần “thế thiên hành đạo” và triệt để phủ nhận triều đình Tự Đức – một điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu bức xúc của lịch sử dân tộc lúc đó - được thể hiện đầy đủ trong đôi câu đối của ông thêu trên cờ nghĩa:
          Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu – Thuấn,
            Mục Dã, Minh Điều hữu Vũ – Thang.
          (Bình Dương, Bồ Bản không Nghiêu – Thuấn
          Mục Dã, Minh Điều có Vũ  – Thang)
Sau nhiều trận đụng độ dữ dội với quan quân triều  đình, cuối cùng Cao Bá Quát đã bị trúng đạn và ngã xuống trên chiến trường. Ba họ của ông bị triều đình Tự Đức tru di.
Từ  một nhà văn hoá với danh hiệu “Thánh Quát”, bỗng chốc trở thành một lãnh tụ nghĩa quân và  tử trận trong một cuộc chiến đấu: Cao Bá  Quát trở thành một hình tượng anh hùng hiển hách, chói lọi như Spartacus (nước Ý), Pougachev (nước Nga) hoặc anh em nhà Tây Sơn trước kia. Một hình tượng anh hùng kì vĩ như vậy, lịch sử có khi phải thai nghén cả nhiều trăm năm mới sản sinh ra được. Con người kì vĩ đó lại đích thực là một bậc văn chương quán thế cho nên những tác phẩm ông viết ra ắt hẳn phải là những tác phẩm thượng thặng cả về nội dung lẫn nghệ thuật!
Sau khi ông chết, tri kỉ của ông là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã vô cùng thương tiếc khóc  ông:
                  Duy biên thư  sử, bích biên cầm,
                  Nhất mộng du du thất hảo  âm.
                  Sơn  hải di tung hà xứ ẩn,
                  Hương quan li hận thử  hồi thâm…
                  (Đàn cầm bên vách, sách bên màn,
                  Một giấc miên man bặt tiếng vàng.
                  Non biển chốn nao lưu dấu cũ,
                  Quê hương mấy bận xót li tan…)
                                Kiều Văn dịch  
Vậy mà, nếu chỉ khảo sát tính cách anh hùng của Cao Bá Quát qua thơ ông như chúng tôi vừa trình bày thì chúng ta vẫn chưa thấy được toàn bích bức chân dung tuyệt diệu của con người ông. Thật vô cùng đáng kinh ngạc: Cao Bá Quát là đấng anh hùng cái thế, nhưng ông đồng thời là một “đệ nhất tao nhân mặc khách” trong đời, một tâm hồn đa cảm, lãng mạn, và một nhà thơ trữ tình lớn! Những áng thơ của ông viết về đề tài “tình cảm cá nhân và gia đình” thật quí vô giá trong nền thơ cổ điển Việt Nam.
Là  bậc quốc sĩ trọn đời lo lắng về đất nước, ông đồng thời là người của quê hương, là con, là chồng, là cha trong một gia đình Việt Nam bình thường với những tình cảm vô cùng thắm thiết. Ông thú nhận ông không thuộc hạng “thánh nhân vong tình”:
          Vong tình riêng những thẹn không hay,
          Vui, xót, lòng ta rộn bấy chầy.
          Mảnh kính còn phong niềm biệt cũ,
          Ngọn  đèn không tỏ mối sầu tây.
          Hồn quê  bên gối ba canh dõi,
          Hoa tuyết trong khăn một tối dày…
          (Từ biệt người nhà…) – Nguyễn Văn Bách dịch
Là  “lữ khách xa nhà”, nhà thơ đã bao phen phải  “thổn thức gan vàng” mỗi khi được nghe chuyện quê hương, làng xóm, gia đình:
          Lặng lẽ  nhìn nhau gạt lệ dồn,
          Rì  rầm chưa dứt chuyện trong thôn.
          Cha già  mạnh khoẻ thương con vắng,
          Bé  dại mừng vui biết bố còn…
          (Thấy người ngoài Bắc vào, nhân hỏi chuyện quê) – 
          Hoá Dân dịch
Sau khi bị nếm đủ mùi cay đắng của cuộc đời, thoát cảnh gông cùm, ông lê gót trở về quê hương và “ngã vào lòng gia đình” như sau:
          Mái tóc bơ  phờ sự chẳng dè,
          Trở  về nay lại thấy làng quê.
          Điếm Cây gạo đó sương vừa ngớt,
          Hồ  Ngựa trời đây nắng chửa hoe.
          Hàng xóm xôn xao dồn chuyện hỏi,
          Mẹ  già mừng tủi thấy con về.
          Đời gian nan mãi từ nay hối,
          Bàn chuyện xa nhà  dạ những e.
          (Về đến nhà) –  Nguyễn Văn Tú dịch
Những vần thơ ông dành cho vợ thật là âu yếm nhưng thường là tràn đầy nước mắt vì vợ  chồng ông phải hứng chịu biết bao nghịch cảnh khe khắt nhất của cuộc đời:
          Người viễn tái, kẻ cô phòng,
          Tương tư  ai chẳng não lòng như ai!
          (Mưa dầm suốt đêm cảm tác) – Hoàng Tạo dịch
          Tựa gối, vợ  đần tung tóc chải,
          Lôi tay, con nhỏ  ngã đầu nằm…
          (Trong lúc ốm) – Nguyễn Quí Liêm dịch
          Trước đèn thư mở, lệ muôn hàng,
          Hồn gửi  phòng the luống vấn vương!
          … Áo mền ủ ấm bao tình tứ,
          Bút mới dầm tan mọi thảm thương!
          Rồi nữa nhà  Lai, khi trở lại,
          Bước vào mừng có  bạn tao khang.
          (Tiếp thư vợ gửi  áo rét…) – Nguyễn Quí Liêm dịch
Chắc chắn Cao Bá Quát là một người hiểu thấu chân giá trị tình yêu nhân bản của tất cả giống người trên khắp trái đất. Chính vì vậy, có lẽ ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên, ngay từ giữa thế kỉ XIX đã “cảm” được thứ “tình yêu phương Tây” mà phần đông các nhà nho lúc ấy cảm thấy... nghịch mắt! Thật hiếm thấy trong thơ chữ Hán một bài thơ mang “tứ mới lạ” như thế này:
       Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
          Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,
          Ngó  thuyền Nam thấy đèn le lói,
          Kéo  áo rì rầm nói với nhau.
          Hững hờ  cốc sữa biếng cầm tay,
          Gió  bể đêm sương thổi lạnh thay!
          Uốn  éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
          Biết  đâu nỗi khách biệt li này!
               (Dương phụ hành) – Lê Tư Thục dịch
Cao Bá Quát cũng có những bài thơ viết về  con cái mà ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn thấy cảm  động:
          Đôi trẻ nhà ai đó
          Thỏ  thẻ bước khoan thai.
          Quên tình nào mấy kẻ?
          Ta nhớ  con ta hoài,
          Khi quấy mẹ, kêu  đói,
          Lúc học  ông, vái người…  
                          (Nỗi nhớ) – Hoá Dân dịch
          Nhà  xa bệnh lại dày vò,
          Nhớ  con hằng nén xót chua nghẹn ngào.
          Đêm qua bỗng thấy chiêm bao,
          Gặp con, giọt lệ  tuôn dào như mưa.
          Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
          Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung.
          Tuy nghèo, dưa muối  đủ dùng,
          Đắng cay con hãy về cùng với cha!
          (Chiêm bao thấy con gái đã mất) – Nguyễn Văn Bách dịch
Thơ  Cao Bá Quát còn cho thấy ông là một đấng tao nhân mặc khách hay rượu, hay thơ và yêu thiên nhiên một cách vô cùng say đắm nhưng với phong cách rất “Cao Bá Quát”: phóng khoáng, lãng tử, mạnh mẽ, táo bạo!
          Ta muốn lên  đỉnh núi
          Hát vang với nước mây.
          (Qua núi Dục Thuý) –  Ngô Lập Chi dịch
          Sông tựa dải là  cô gái đẹp,
          Núi như  chén ốc khách làng say.
          (Dọc đường Ninh Bình) –  Vũ Mộng Hùng dịch
          Chao đảo lòng xuân khôn cầm nổi,
          Tây Hồ  đây thật một Tây Thi!
          Mươn mướt nét mày, cơn sóng dịu,
          Lả  lơi dải lụa, cỏ đương thì.
          (Tứ tuyệt chơi Hồ  Tây) – Kiều Văn dịch
Thậm chí nhà tài tử còn nảy ra một ý “ngông” như sau:
          Ước ao quả  động to kia
          Có  ai chịu khó khênh về  cho ta
          Để bày những chỗ lại qua,
          Hồ  Tây, Phượng Chuỷ cùng là  Châu Long.
                (Chơi động Tiên Lữ)  – Hoa Bằng dịch
     
Qua những phân tích trên, chúng ta thấy: Cao Bá Quát đích thực là một con người viên mãn và ưu việt trước khi là nhà thơ. Và chính sự viên mãn, ưu việt ấy đã quyết định tính ưu việt của thơ ông, đã khiến ông được đời suy tôn bằng một danh hiệu cao quí “Thánh Quát”!   
Tóm lại, chúng ta chỉ có thể hiểu được thơ Cao Bá Quát trên cơ sở tìm hiểu bản chất con người ông và lịch sử cuộc đời ông. Cũng giống như các trường hợp của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ…, con người ông, đời ông là một với thơ ông và quyết định phẩm chất thơ ông cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Điều đó phân biệt ông với những “thi nhân”… rởm, suốt đời chỉ làm thơ trên “đầu môi chót lưỡi” bằng cách học mót nghệ thuật thơ của thiên hạ, bởi vì họ bị thiếu những cái vốn không thể thiếu đối với một người làm thơ: một con nguời đích thực và một cuộc đời đích thực!
Cao Bá Quát hiểu hơn ai hết về “nguyên lí sáng tạo thơ” ấy, và ông đã rung chuông cảnh cáo các “thời bệnh”: kẻ kém cỏi thì làm thơ  dễ dãi, kẻ có sức học dồi dào một chút thì mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo nhưng tinh thần còn thấp… (Đề cuối tập thơ của Miên Thẩm). Ông cực lực phê phán những kẻ làm thơ chỉ cốt “ham khoe nhiều những điều… không quan hệ gì đến tính linh cả” (nói theo ngôn ngữ bây giờ, đó là thứ “thơ không hồn”).
Bất luận viết về đề tài nào, thơ Cao Bá Quát cũng chứa chất cái “hồn” và cái khí lực rất mạnh mẽ của tinh thần ông. Vì vậy, nghệ thuật thơ của ông có phong cách rất gần với thơ Nguyễn Gia Thiều, hay thơ Hàn Mạc Tử sau này: đó là thứ thơ huyết lệ. Ông luôn vứt bỏ không khoan nhượng tất cả những gì “không phải thơ” cho dù chúng được người đời ưa chuộng, sùng bái đến mấy. Và chính vì luôn sáng suốt nhìn ra được những yếu tố đích thực là thơ mà ông có được những sáng tạo kì diệu như bài thơ “tả chân” sau đây:
          Sương nặng gầu đôi mới kéo lên,
          Môi run, bụng lép, chiếc tơi quèn.
          Ven đê cỏ vỡ ngoài trăm dặm,
          Dăm thước vừa gieo mạ  ruộng trên.
          (Thợ tát nước trên  đồng cao buổi sáng) – Khương Hữu Dụng dịch
Rõ  ràng bài thơ này (cũng như bài Dương phụ hành) có thể được coi là những bài thơ tiên khu của dòng thơ hiện thực trữ tình sẽ phát triển mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỉ XX, nhất là trong thời kì Thơ Mới. Cao Bá Quát đã đi trước thời đại mình đến gần một thế kỉ! Thiên tài thơ của ông thật đáng khâm phục biết bao!


CAO BÁ QUÁT =NGUYỄN VĂN SIÊU = NGUYỄN HÀM NINH = TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ

CAO BA QUAT

Mấy bồ chữ của Cao Bá Quát
       Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Lược Sử
II) Lời tuyên bố cao ngạo
III) Cái SAI của Cao Bá Quát
IV) Chẳng phải tuyệt thế thông minh
V) Hay chữ không có nghĩa là giỏi kinh luân
VI) Phải tu học, tu luyện
VII) Vô Sở Đắc , một đặc điểm của Thiền Tông
VIII) Đắc Vô Sở Đắc : phải tu luyện
__________________________________________
I) Lược Sử
Tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Hiên, quê gốc ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh cũ
Năm 1831, ông 22 tuổi, đậu á nguyên trường thi Hà Nội
Năm 1841 sung chức Hành tẩu bộ Lễ, sau thăng chức Lang trung.
Cuối năm 1841, làm sơ khảo ở Trường thi hương Thừa Thiên cùng với Tiến sĩ Phan Nhạ. sửa mấy quyển thi phạm húy, cả hai đều bị kết vào tội chết ; sau ông được vua Thiệu Trị giảm tội và phát phối vào Đà Nẵng
1843, theo sứ bộ Đào Trí Phú sang Tân Gia Ba công cán, đ lập công chuộc tội (gọi là đi "dương trình hiệu lực") . Xong việc bị thải hồi về quê .
1847, được bổ vào Viện Hàn lâm, rồi thăng làm chủ sự, sưu tầm và xếp đặt văn thư.
Năm 1850, làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, năm sau lấy cớ mẹ già ông xin từ chức.
Năm 1854, làm quân sư cho Lê Duy Cự ( giặc Châu Chấu). Ông bị bắt rồi bị hành quyết cùng với 2 con trai . Anh Đạt b bắt, rồi t t.
Người đương thời phong ông làm "Thánh Quát" (Thánh văn chương).
Tác phẩm : Cao Chu Thần thi tập, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập và bài phú Tài Tử Đa Cùng
II) Lời tuyên bố cao ngạo
Cao Bá Quát là người cao ngạo, đã từng tuyên bố như sau :
{{  Trong thiên hạ có 4 bồ chữ.
Một mình  tôi giữ hết 2 bồ.
Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn văn Siêu giữ một bồ.
Còn một bồ phân phát cho thiên hạ !   }}
III) Cái SAI của Cao Bá Quát
Câu tuyên bố trên SAI bét vì :
       Giả sử thiên hạ có 4 bồ chữ.
       Nếu Cao Bá Quát học  hết 2 bồ.
       Thì thiên hạ vẫn còn lại 4 bồ chữ.
Làm gì mà có chuyện : Còn một bồ phân phát cho thiên hạ!
IV) Chẳng phải tuyệt thế thông minh
Cao Bá Quát chẳng phải là người tuyệt thế thông minh
Tôi đã chứng minh điều này. Vì tôi đã chứng minh rằng lời tuyên bố cao ngạo của Cao Bá Quát có một lỗ hổng lớn.
Nay thử xét tài năng của ông Cao Bá Quát :
1) Thơ : thơ Cao Bá Quát tuy hay, nhưng thử so sánh với hai nhân vật cách đó mấy chục năm :
       so với Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát không bằng
       Cao Bá Quát không xuất khẩu thành thi hơn được Lê Quí Đôn
2) Tài thao lược : vừa mới làm quân sư mấy tháng là bị bắt ngay ! Thua xa Lê Quí Đôn !
3) Sự nghiệp của ông có gì, ngoài những giai thoại ngông nghênh ?
Những tập thơ văn của ông để lại chẳng thể sánh bằng Lê Quí Đôn. Lê Quí Đôn tiên-sinh là nhà bác học nhân văn vĩ đại của nước ta, để lại cho hậu thế một sự nghiệp kếch sù . Ngoài ra, Lê tiên sinh còn tinh thông Phật Pháp , tử vi, vv . . .
Sở dĩ  tôi so sánh ông với vĩ nhân Lê Quí Đôn là vì ông tự cho, tự xưng là người tuyệt thế thông minh ; phải so sánh với người thông minh tuyệt thế !
V) Hay chữ không có nghĩa là giỏi kinh luân
Nhà nho xưa thường tự cho là giỏi kinh luân, lược thao gồm tài. Tu thân , tề gia, trị quốc mà.
Kẹt một cái là họ có tu thân đâu, người được khen là giỏi chỉ là hay chữ.
Mà hay chữ không có nghĩa là giỏi kinh luân.
Vấn đề này chẳng phải là mới lạ chi. Ngay từ đời Hán , nhiều nho gia cũng đã chê bai lối học khoa cử. Vua chúa cũng có người biết thế. Nhưng khoa cử vẫn cứ để đó ; có lẽ vì họ không tìm ra cách hay hơn để chọn nhân tài.
Và hậu quả là nhà nho xưa cứ tự cho là giỏi kinh luân.
Thật không có gì lầm hơn. Việc kinh bang tế thế đâu phải chuyện tầm thường. Viết văn làm thơ nào phải kinh luân.
Trong Phật Pháp cũng thế ; tu hành đâu phải là thuộc lòng kinh điển.
VI) Phải tu học, tu luyện
Dẫu tuyệt thế thông minh thì vẫn cần phải tu học, tu luyện.
Trong ngành văn chương cũng thế. Cao Bá Quát thì dậm chân tại chỗ, còn Lê Quí Đôn thì tiến xa, nhờ trau chuyên, nghiên cứu.
Kinh bang tế thế, thì phải cần luyện. Phải đọc kỹ lời Khổng Tử, suy nghĩ thật kỹ, xem ngài dạy ra sao (Khổng Tử là nhà chánh trị) .Phải nghiên cứu cách hành sự của các nhà trong Bách Gia. Phải nghiên cứu binh thư. Phải tiên liệu, với mỗi biến cố quan trọng, phải làm gì. Rồi còn phải trau dồi tính tình . . .
Tôi thấy ông Cao Bá Quát chẳng tu luyện , chỉ lấy cái hay chữ, cái lanh trí ứng đối cho là kinh luân. Ông nói những gì "kiến cơ nhi tác", "Nghiêu Thuấn quân dân" nhưng đó chỉ là nói khoác, ông nào có biết làm cách nào mang lại "Nghiêu Thuấn quân dân" !
Ông còn chưa biết làm thế nào để tu học cho có kinh luân !
Cho nên, vì bất đắc chí, cuối cùng ông làm loạn. Thân thì mất, mà còn di hại cho gia đình . . .
VII) Vô Sở Đắc , một đặc điểm của Thiền Tông
Cũng như bồ chữ trong thiên hạ ở trên, Chân Như trong vũ trụ chẳng thêm chẳng bớt khi có người  Kiến Tánh
Tại sao? Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh; chứng ngộ Phật Tánh của chính ta!
Phật Tánh của ta vốn sẵn có từ Vô Thủy, vốn là  Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Chỉ vì bị ngăn che nên không thấy ! Khi Kiến Tánh thì ta chẳng thêm gì và Chân Như chẳng bị mất gì!
Chân Như trong vũ trụ chẳng thêm chẳng bớt.
Người Kiến Tánh cũng chẳng đắc gì, vì chỉ chứng ngộ  Phật Tánh có sẵn của chính ta!
Đây là chân chính Vô Sở Đắc!
Một đặc điểm của Thiền Tông!
Tôi có hai câu thơ, diễn tả điều này :
       Dừng tâm đứng lại: thân, tâm, tánh
       Một niệm vuông tròn: tâm đắc tâm !
             (Dừng tâm, Anh Chí)
VIII) Đắc Vô Sở Đắc : phải tu luyện
Phật Pháp chủ ở sự thực chứng. Cần phải đắc ! Chứng tầng thiền này, tầng thiền nọ ; rồi cuối cùng đắc đạo.
Nhưng cái cao siêu nhất của Phật Pháp là cái Vô Sở Đắc.
Cái cao siêu nhất của Phật Pháp là Đắc cái Vô Sở Đắc.
Thiền Tông là vậy : Đắc Vô Sở Đắc. Tức là chứng ngộ Phật Tánh, cái có sẵn ở mọi chúng sinh.
Nhưng muốn Đắc cái Vô Sở Đắc thì phải tu luyện. Chẳng thể đi khơi khơi, khơi khơi nói khoác ; rồi đùng một cái, tự nhiên Ngộ.
Không có chuyện chẳng tu mà thành !
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Sách tham khảo
       Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Sử quan đời Trần và Lê
       Hoàng Lê nhất thống chí , Ngô gia văn phái
       Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú
       Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
       Các nhà khoa bảng Việt nam, chủ biên Ngô Đức Thọ
       Đông Châu Liệt Quốc
       Hán Sở Tranh Hùng
       Sử Ký , Tư Mã Thiên
       Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, La Quán Trung, dịch giả Tử Vi Lang
       Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
       Thơ văn Lý Trần, Ủy ban khoa học xã hội Việt nam
       Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm
Trang Nhà   Lê Anh Chí


SÔN TRUNG * CHÂU TỬ LONG TIÊN SINH

CHÂU TỬ LONG TIÊN SINH

Lúc bấy giờ Tây Sơn nổi lên, một số đại học sĩ, học sĩ, và nho sĩ trong triều đã theo Tây Sơn. Một số bỏ cha mẹ, vợ con theo Tây Sơn lên rừng chiến đấu, nhưng đa số ăn bổng lộc chúa Nguyễn lại lảm nội ứng cho Tây Sơn.

Tiên sinh Châu Tử Long là người Đồng Nai, giữ chức dại học sĩ tại Chiêu Văn quán của chúa Nguyễn. Tiên sinh là người hiền hậu, thật thà, ai ai cũng quý mến. Thân thể to cao, mặt mũi tròn trịa, là tướng phúc hậu nhưng lưỡi luôn thò ra liếm mép, là tướng ưa hưởng thụ , hay chơi bời, và cũng là kẻ bội nghĩa vong ân. Tiên sinh xuất thân con nhà đại điền chủ ở Rạch Giá, đi du học, đỗ tiến sĩ Sử học, sau về dạy Chiêu Văn quán. Có kẻ nói xấu tiên sinh rằng tiên sinh học dốt, đi du học để chơi bời, luận án tiến sĩ của tiên sinh là do mướn người làm. 
Tin đồn này làm cho nhiều người tin vì suốt đời tiên sinh không hề viết lách, lúc dạy học thì không soạn giáo án gì hết, tiên sinh cứ đọc từng trang sách của sĩ phu Bắc Hà và Tây Sơn như Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ , Nguyễn Thiếp cho sinh viên chép. Dẫu sao, điều đáng khen là Tiên sinh rất bình dân, giản dị, cho nên sinh viên cũng như một số giáo quan trẻ trong Chiêu Văn quán rất thich tiên sinh. Thỉnh thoảng, Châu tiên sinh mở cuộc ăn uống, mời một số giáo quan trẻ tới vui chơi. Trong Chiêu Văn quán hay tại những buổi ăn uống này, Châu tiên sinh luôn luôn tươi cười, nửa thật nửa đùa, bảo rằng ông là bạn thân của Trần Văn Kỷ tiên sinh là một quân sư của Nguyễn Nhạc.
Sau ngày quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, các giáo quan cũ phải đến Chiêu Văn quán trình diện, nhưng tiên sinh thì vắng bóng. Hình như tiên sinh đã được bổ nhiệm một chức vụ nào trong cơ quan trung ương của tân triều, bên cạnh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Trần Văn Kỷ. Lúc này, đám giáo quan trẻ mới biết tiên sinh thât sự theo Tây Sơn. Trước đây, tiên sinh thường tổ chức những cuộc họp mật của thành bộ Tây Sơn, mà cuộc ăn uống với các giáo quan triều đình chỉ để che mắt cơ quan an ninh nhà Nguyễn. Rất lâu, đám giáo quan cũ cũng gặp tiên sinh và đến dinh thự mới nhưng không nghe tiên sinh nói tiên sinh giữ chức vụ gì ở cơ quan nào. Tiên sinh ở dinh thự của một vị đại thần của chúa Nguyễn bỏ lại. Nhưng điểm đáng nói là tân triều không cấp hẳn cho tiên sinh một biệt thự , mà lại cấp chung với một võ quan Tây Sơn. Tiên sinh ở lầu trên, võ quan Tây Sơn ở lầu dưới. Không hiểu vì đâu hai ông xung khắc nhau thường xuyên. Ông võ quan Tây Sơn đã có lần đấm vào mặt ông và chỉ mặt ông mà mắng:

‘’Mày là thằng ngụy, chui vào hàng ngũ cách mạng để quấy phá. Mày ăn bơ sữa của đế quốc, mày là bọn tư sản phản động. không xứng đáng hưởng ân huệ triều đình. Cả cái dinh thự này là của tao vì tao đã dày công xông pha mặt trận, còn mày là đồ chó ghẻ. Mày cút đi!

Ôi! Hai cọp không thể ở chung một rừng! Ông võ quan Tây Sơn tất nhiên là muốn nắm độc quyền, độc chiếm. Người xưa đã nói:

Sống mỗi người một nết;
Chết mỗi người một mồ’’

Dù Châu Tử Long là một chiến sĩ thực thụ của Tây Sơn thì cũng bị đánh đuổi huống hồ tiên sinh chỉ là một giống ‘’ngụy Nguyễn’’, chỉ biết ăn chơi, không phải là một chiến sĩ anh hùng như các đô đốc Tây Sơn từng xông pha tên đạn, đánh đông dẹp bắc. Dưới mắt các đô đốc Tây Sơn, Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ich cũng chỉ là một thứ con ghẻ của chế độ, người ta lợi dụng họ, đánh bóng họ để tuyên truyền. Trần Văn Kỷ tiên sinh còn bị khinh miệt huống hồ Châu tiên sinh! Họ coi tiên sinh chỉ là một kẻ ăn theo, vô giá trị, không xứng đáng đứng chung hàng ngũ với họ.Thực ra triều đình có chút không phải với Châu Tử Long tiên sinh. Nguyên chúa Nguyễn truớc đây xây dựng khu làng Quốc tử giám cho các giáo sư đại học ở.
 Lúc quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, họ chiếm khu làng Quốc Tử Giám làm một Cấm thành, cho các quan lớn Tây Sơn ở, mặc dầu các quan lớn đã chiếm nhiều dinh thự ở Gia Định thành. Họ đuổi các giáo sư ra ngoài, và cấp các giáo sư các căn nhà khác. Châu tiên sinh có biệt thự rộng rãi, mát mẻ trong làng Quốc Tử Giám, là nơi mà các thầy trẻ ở Quốc tử giám , sống ở bên ngoài, thường được Châu tiên sinh mời đến để uống rượu, ngâm thơ hoặc chơi cờ tướng như đã kể ở trên. Dù có công trạng nuôi dưỡng chiến sĩ Tây Sơn hay cộng tác với Tây Sơn, Châu tiên sinh cũng bị đẩy ra ngoài. Tại sao người ta không cấp riêng cho gia đình Châu tiên sinh một căn nhà mả lại cấp chung với một võ quan Tây Sơn cho ra nông nỗi này?

Nghe nói ông võ quan Tây Sơn sau đó đóng cầu thang lại không cho tiên sinh và gia đình tiên sinh xuống nhà. Ngày xưa, cơ cấu kiến trúc dinh thự còn cổ lỗ, Những bếp núc, phòng tắm, phòng vệ sinh đều ở dưới đất. Như vậy thì làm sao tiên sinh đi làm? Con tiên sinh đi học, và Châu phu nhân đi chợ? Nhất là làm sao tắm rửa, giải quyết vấn đề vệ sinh? Không hiểu sau này Ban quân quản Kinh Đô giải quyết ra sao, nhất là Trần Văn Kỷ tiên sinh có giúp gì cho tiên sinh không, và sau này Châu tiên sinh đi về đâu? Trong bức màn sắt, con người xa lạ, khép kín, không ai biết ai nữa.


Trời đất từ nay khép chặt cửa,
Mưa gió, hoa mai rụng suốt đêm!

Trong trận đấu này ai thắng ai có lẽ khá rõ rệt. Viên võ quan Tây Sơn là chiến sĩ Tây Sơn thật sự, còn Châu Tử Long tiên sinh dẫu sao cũng chỉ là kẻ ngoại đạo tân tòng. Con nuôi sao bằng con đẻ! Hình như người con gái duy nhất của Châu tiên sinh sau này cũng đã tìm đường vưọt biên.


TRẦN LÊ SÁNG * THƠ NGUYỄN VĂN SIÊU

THƠ NGUYỄN VĂN SIÊU
PGS. TRẦN LÊ SÁNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguyễn Văn Siêu (1796-1872) tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ, sinh ở Kim Lũ (làng Lủ), mất ở Thọ Xương - Hà Nội, táng ở Lủ nay còn mộ và bia Thần Đạo.
Nguyễn Văn Siêu để lại một tập thơ lớn, đó là tập Phương Đình thi loại 方 亭詩 類, tập thơ này được in năm Tự Đức thứ 4 (1851) bằng ván khắc, chữ chân, hiện ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.188/1-2.
Phương Đình thi loại gồm 4 tập, đó là: Vạn lý tập 萬 里 集, Anh Ngôn tập嚶 言 集, Lưu lãm tập流 覽 集và Mạn hứng tập漫 興 集. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu từng tập:
1. Vạn lý tập: năm Kỷ Dậu (1849), Nguyễn Văn Siêu được vua Tự Đức phái đi sứ nhà Thanh với chức Phó sứ. Sắc chỉ: "Khanh thiên tính thông minh, học vấn uyên bác, thành thử nghi thu thập kiến văn, tác trẫm nhĩ mục, lịch lãm Bắc triều chư danh lam thắng cảnh, cập chư địa phương phong tục, tức mệnh quản thành tử chu tường, sĩ hồi trình tiến lãm, tá trẫm minh kiến vạn lý chi ngoại". Nghĩa là: "Khanh thiên bẩm thông minh, học vấn uyên bác, đi chuyến này nên thu thập những điều mắt thấy tai nghe, làm tai mắt cho trẫm, qua các nơi danh lam thắng cảnh cùng phong tục các nơi bên Bắc triều, phải ghi chép kĩ càng, đợi về dâng lên, giúp trẫm thấy được ngoài muôn dặm". Vâng theo sắc chỉ, Nguyễn Văn Siêu quan sát các nơi đã đi qua và ghi chép lại. Khi về nước, ông dâng lên tập Như Yên lịch trình tấu thảo (Bản tấu về chuyến hành trình đi Yên Kinh), chép lại cảnh vật mười ba nơi đoàn sứ bộ đi qua, từ Nam Quan sơn lộ đến Bắc Bình, phong vật mỗi nơi đều nêu được nét đặc sắc với bút pháp hết sức điêu luyện. Học giả đương thời xưng tụng "văn như Siêu, Quát". Văn ông Quát đáng tiếc nay còn lại quá ít nên khó biết rõ, văn ông Siêu thì còn lại khá nhiều, vì vậy chúng ta thấy rõ các học giả xưa bình phẩm rất tinh. Văn ông Siêu viết về địa lí thì có lẽ danh sĩ quê Hán cổ cũng kính nể. Đồng thời với việc thực hiện tập Như Yên lịch trình theo sắc chỉ, Nguyễn Văn Siêu còn làm nhiều thơ trong chuyến đi sứ, khi trở về tập hợp thành tập thơ Vạn lý tập (Tập thơ muôn dặm).
Vạn lý tập gồm 165 bài, bài thứ nhất là bài Xuất Tây môn khẩu chiếm (Cảm xúc khi ra khỏi cửa Tây ở Kinh đô):
"Minh triêu bái tiện điện
Bạc vãn xuất đô môn
Thánh ý tại căng tồn
Tính danh thông đại quốc
Nhật dịch tẩu do hiên
Vạn lý thử vi biệt
Tuần nhật quá gia viên".
Dịch:
Sáng nay lạy ở điện,
Chập tối xuất đô môn.
Lòng thần vừa run sợ,
Ý chúa lại ôn tồn.
Họ tên đưa đại quốc,
Chuyển vận có xe chuyên.
Vạn dặm tạm ly biệt,
Mười hôm đến gia viên.
Bài cuối cùng là bài Vấn Mai Hộ sứ nhập Yên phụng lão mẫu hoàn gia, nhân trí sổ vận tương úy (Vấn Mai Hộ sứ vào Yên phụng mẹ già về nhà, nhân gửi mấy vần úy lạo):
"Thánh trạch đàm phu Nhị thủy lưu
Thanh danh văn vật tế trung châu
Tính truyền Vân hán đồng xưng Nguyễn
Lộ nhập Tiên nguyên bất nhượng Lưu
Tứ thủ thành xuân nhất đại thịnh
Kỳ nhân như ngọc kỷ sinh tu
Liên ban vạn lí triều thiên tử
Chế cẩm phàm gương học sĩ chu".
Dịch:
Đức trạch vua ban đến Nhị Hà
Thanh danh văn vật khắp nước nhà
Họ truyền là Nguyễn nơi Vân hán
Đất đến chàng Lưu chốn Tiên ra
Thịnh ấy một thời xuân đã lại
Tu nên thành được dáng ngọc ngà
Một đoàn vạn dặm chầu thiên tử
Gấm chế buồm gương học sĩ ta.
Thơ làm từ buổi ra đi ở kinh đô Huế, qua Hà Nội rồi sang nước Thanh, từ Mục Nam Quan cho đến Yên Kinh, rồi lại từ Yên Kinh cho đến về nước. Nhiều bài tả phong cảnh sinh động, hiện thực:
Yên Kinh
“Vương khí do tại Yên
Đông phương mộc đắc tuế
Bắc điện triền chư hầu
Cung điện giai Minh chế
U tính khí dĩ thuần
Mãn Hán văn tương tế
Căn bản Bát kỳ trung
Xu hướng thiên hạ thế
Tam quý uy nghi phồn
Nhất tâm cung kiệm thể
Lâu các bạch vân nhàn
Trí đài mạn thảo ế
Trùng môn vô thốn binh
Bách chấp nhược hư để
Xa giá tại Minh Viên
Thành thị tự giao tế”.
Dịch:
Yên Kinh (Bắc Kinh)
Vương khí còn ở Yên,
Phương đông cây được tuổi.
Mặt bắc chư hầu chầu,
Cung điện thời Minh chế.
Khí cũ nay đã thuần,
Mãn Hán văn tương tế.
Gốc rễ trong Bát kỳ,
Mở ra thiên hạ thế.
Hoa thơm dấy uy nghi,
Một lòng cung kiệm thể.
Lầu gác mây trắng bay,
Ao đài dây leo kĩ.
Trùng môn không tấc binh,
Trăm chỗ không như thế.
Xe vua ngự Minh Viên,
Thành thị vẫn giao tế.
Về buổi được tiếp kiến ở vườn Viên Minh - Bắc Kinh, Nguyễn Văn Siêu viết:
Viên Minh viên tiểu kiến
"Cổ thụ nhàn viên lí
Ty cung hữu chí tôn
Thanh sơn hoành ngự tháp
Khê thủy nhiễu hoàn viên
Khanh sĩ tây liên bộ
Thân vương hạ đại ngôn
Chính trung từ bái khể
Kỷ vấn phụng ôn tồn".
Dịch:
Cổ thụ đầy vườn trắng,
Hành cung bậc chí tôn.
Non xanh ngoài sập ngự,
Suối biếc bọc tường biên.
Khanh sĩ hiên tây bước,
Thân vương thay vua truyền.
Trang nghiêm cúi đầu vái,
Thăm hỏi gửi ôn tồn.
v.v..
Nếu như Yên Kinh lịch trình tấu thảo trong Phương Đình văn loại cho chúng ta biết được một cách khá ngọn ngành về một số danh lam thắng cảnh phương bắc thì Vạn Lý tập ở Phương Đình thi loại lại cho chúng ta cảm nhận được đa dạng hơn, sinh động hơn về những nơi này. Khi đi sứ về, Nguyễn Văn Siêu có đưa Vạn lý tập cho Cần chính điện Đại học sĩ Đoan Trai (tức Trương Đăng Quế) xem, Đoan Trai có đề tựa, bài tựa có câu: "Nguyễn tử Phương Đình là người học rộng hay thơ… Ông đi sứ về đưa Vạn lí tập cho tôi xem và xin viết tựa, tôi đã xem những bài viết về sơn xuyên thắng cảnh, cổ kim linh tích đều thấy cấu tứ chặt chẽ xác đáng". Thơ đi sứ của nước ta có sớm và hết sức phong phú, xứng đáng là một chuyên đề nghiên cứu, nhưng Vạn lí tập của Phương Đình vẫn có chỗ đặc sắc, chỗ đặc sắc ấy là tả thực nhiều nơi mà đoàn Sứ bộ đi qua, tả thực với ý thức thực hiện sắc chỉ của vua Tự Đức mà ở trên chúng ta đã biết. Bởi vậy, trong Vạn lí tập bao gồm được cả ba yếu tố tình, cảnh, sự; tập thơ này trở thành tài liệu tham khảo quý về phương diện bang giao cho triều đình và đặc biệt cho các đoàn sứ bộ về sau; và tập thơ này cũng có ý nghĩa về phương diện văn học, văn hóa.
2. Anh ngôn tập: đây là tập thơ về tình bạn bè, nhưng cũng có nhiều bài thơ tả cảnh sông núi, đền miếu… gồm 282 bài. Mở đầu là bài Nhị Hà gồm 2 bài (ở đây chọn 1):
"Vạn cổ càn khôn nhất thủ lưu
Lâm lưu cố lũy hám tân lâu
Đông minh nhật xứ thiên nguyên định
Tây lĩnh vân trung vạn hác phù
Sự khứ bi lai quan thước cảm
Hoa phi xuân giảm khúc giang sầu
Tự hành tự chỉ yên ba lí
Thùy vấn ngư ông độc điếu châu".
Dịch:
Vạn thuở càn khôn cứ chảy lâu,
Bên sông lũy cũ thấy tân lầu.
Biển đông trời mọc nghìn dòng tụ,
Tây lĩnh mây trôi vạn hốc phù.
Việc cũ để buồn chim cuốc gọi,
Hoa nay xuân giảm khúc giang sầu.
Tự đi tự đứng trong mây khói,
Ai hỏi ngư ông một lá câu.
Cuối tập Anh ngôn là bài Sơ xuân khai bút:
"Ngô bút vị thường hạp
Thiên biến dã bất cùng
Hóa công chân điểm xuyết
Vạn tử dữ thiên hồng".
Dịch:
Nắp bút chưa từng đóng,
Bầu trời cũng chẳng dừng.
Thợ trời khéo điểm xuyết,
Vạn tía với nghìn hồng.
Nguyễn Văn Siêu có nhiều bạn, trong Kim Lũ Nguyễn thị chính phả ông kể đến các bạn thân thiết là Tạ Hiên Chu Doãn Trí ở Dục Tú, Lê Nhận Trai ở Nhân Mục, Vũ Mẫn Tốn Phủ ở Nghệ An, Vũ Đình Lễ ở Lương Đường, Chí Đình Nguyễn Văn Lý ở Đông Tác, Lỗ Am Vũ Phan ở Tự Tháp, Phúc Duyên Lê Duy Trung ở Thượng Phúc, Dương Đình Ngô Thế Vinh ở Bái Dương, Thành Tư Trần Văn Vi ở cùng thôn(1)... Khi xem Phương Đình văn loại và các tập thơ trong Phương Đình thi loại chúng ta còn thấy bạn ông đông hơn rất nhiều, chí ít phải kể thêm Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật Thận, Trần Đức Anh, Nguyễn Như Cát… Siêu, Quát, Ninh, Thận được học giả đương thời xưng tụng là "Tràng An tứ kiệt". Trần Đức Anh từng làm nhà bên Hồ Gươm (Hà Nội) và thường cùng Nguyễn Văn Siêu bàn về chuyện viết sử cho hồ Gươm; còn Án sát Nguyễn Như Cát lại là người đầu tiên bàn với Nguyễn Văn Siêu về việc trùng tu đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc. Trong Anh ngôn tập, Nguyễn Văn Siêu thu thập thơ xướng họa, viết tặng các bạn như Ngô Dương Đình, Lê Phúc Xuyên, Vũ Hoán Phủ, Lê Thường Lĩnh, Trần Thận Tư, Hoàng Phúc Đình, Chu Tạ Hiên, Nguyễn Tuần Phủ, Vũ Ngọc Khê, Hà Tốn Phủ… cũng có bài tác giả làm khi đi chơi với một nhóm bạn, lại cũng có bài chỉ làm khi một mình trước phong cảnh; có thể nói, với nhà thơ thì người, cảnh, vật đều có thể tâm tình như bạn. Điều đặc biệt là toàn bộ người, cảnh, vật trong Phương Đình anh ngôn thi tập đều là người, cảnh, vật nước nhà, bởi vậy, tập thơ vô hình trung trở thành tài liệu nghiên cứu cho giới nghiên cứu văn hóa cổ dân tộc. Mặt khác, những vần thơ vui buồn vì bạn, xúc cảnh sinh tình, ngâm hoa vịnh nguyệt, hoài cổ sâu xa này nay đọc vẫn cảm thấy tinh thần được di dưỡng.
3. Lưu lãm tập: đây là tập thơ viết về chu du quan lãm, gồm 305 bài. Mở đầu là bài Tam cử lễ bộ đáo kinh thân cổ lai tự cựu (Lần thứ ba được thăng ở bộ Lễ vào Kinh đô Huế đi thăm người quen cũ).
"Giang sơn ngô phục chí
Hội ngộ nhật trùng tân
Cộng vấn hương quan sự
Kiêm tồn lão bệnh nhân
Hưng liêm thi lực phiếm
Tình cấp tửu bồi thân.
Giáp trúc đào hoa phát
Ly ly các bán xuân".
Dịch:
Sông núi vẫn như xưa,
Bạn gặp như mới ra.
Đều hỏi quê các việc,
Sức khỏe của ông bà.
Thương nhau khó nói hết,
Cho vào rượu chan hòa.
Dậu trúc hoa đào nở,
Xuân đã đến bên nhà.
Cuối tập là bài Tống Bùi Hữu Trúc chi Tuyên Quang Án sát (Tiễn Bùi Hữu Trúc (Ngọc Quỹ) đi nhận chức Án sát ở Tuyên Quang):
"Vãn niên vật vọng chú danh khanh,
Quan sát kim vi viễn tái hành.
Mãn tọa thanh sơn giai bạch phát
Nhất cùng thọ trúc bạn tiên sinh
Đàm tâm thư quán vi ngôn kỉ,
Phân thủ đô môn bách cảm tinh.
Hùng tản thao đà thiên cổ tráng
Vị ưng chính khí nhật trầm huynh".
Dịch:
Cuối đời lại được quý quan khanh,
Xem xét biên cương cuộc viễn hành.
Khắp chốn non xanh in tóc bạc,
Một đời trúc cứng bạn tiên sinh.
Chuyện trò thư quán lời khôn hết,
Từ biệt đô môn biết mấy tình.
Hùng tản thao đà ngàn thuở tráng,
Khí thiêng không thể để trần khuynh.
Thơ trong tập Lưu lãm của Nguyễn Văn Siêu, phần lớn là thơ làm về bạn bè, nhưng chủ yếu là bạn bè đang làm quan, khung cảnh là ở kinh đô Huế. Bởi vậy, tìm hiểu về không khí quan trường và phong cảnh cố đô Huế đương thời, tập Phương Đình lưu lãm thi có thể tính là tư liệu tham khảo sinh động; tất nhiên, tập thơ này có giá trị trước hết về phương diện văn học, văn hóa.
4. Mạn hứng tập đây là tập thơ tùy hứng mà Nguyễn Văn Siêu làm chủ yếu với bạn bè ở Hà Nội. Tập thơ này có 325 bài thơ. Mở đầu là bài Thừa chu yết Định tỉnh, nhân dĩ trung thu, Ngô Dương Đình dữ Tô Thúc Nho lưỡng gia tử nữ hôn lễ, Dương Đình dĩ thi lai cố yếu, toại lưu thưởng tiết kiêm phúc dĩ tặng. (Đi thuyền vào gặp Niết đài ở Nam Định, nhân dịp tết Trung thu, Ngô Dương Đình và Tô Thúc Nho làm lễ thành hôn cho trai gái hai nhà, Dương Đình gửi thơ cố mời nên ở lại chơi tết, làm thơ này để tặng lại).
Phóng lãm Đằng xuyên nhập Vị Xuyên
"Lưỡng thành yên hỏa nhất hồ thiên
Bất lao thử dạ sầu vô nguyệt
Thử dạ kim thu lạc hữu liên
Úy ngã hoàng trì sờ giải giáp
Xân nhan thi tận phục thôi kiên
Hữu gia hữu thất tư hà hoạn
Tảo dĩ Cam đường tục thử thiên".
Dịch:
Xuất phát Đằng Xuyên tới Vị Xuyên
Hai thành khói lửa một trời liền.
Buồn chi tối đến trăng không sáng,
Phấn chấn thu nay được mùa màng.
Trong buổi loạn li vừa mới ổn,
Vào ngày thơ họa lại dấy lên.
Có nhà có cửa sao trăn trở,
Sớm nối Cam đường viết tiếp thêm.
Cuối tập là bài Hải thiên thu hứng; kì tam (Hứng thu trời tiếp biển, bài thứ ba):
"Đoàn phiến tuy thu thử bất tàng,
Phổ y tần điển bệnh tương phương.
Hồn vong nhạn tín lai viên hỏa,
Yếm kiếm loan thanh thoại đoản trường.
Hương thủy lưu quy minh hải khoát
Tùng sơn khí áp viễn phong thương.
Nhàn lai cách hữu đăng cao hứng,
Băng định phồn ưu lưỡng mẫn hương”.
Dịch:
Quạt gấp vào thu vẫn chửa rời,
Áo khăn mà bệnh vướng thêm thôi.
Muốn quên tin nhạn đưa nồng nực,
Ghét thấy oanh kêu tiếng ngắn dài.
Hương thủy chảy về nơi biển rộng,
Tùng sơn khí chạy với non ngoài.
Khi nhàn muốn được lên cao ngắm,
Rửa sạch lo phiền trắng tóc mai.
Cả bốn tập thơ là Vạn lý tập, Anh ngôn tập, Lưu lãm tập và Mạn hứng tập gồm 1077 bài thơ. Đây là con số không nhỏ đối với một nhà thơ. Thơ Nguyễn Văn Siêu có nội dung phong phú, tình cảm chân thực, sâu sắc, ông lại học rộng, viết giỏi như câu phê của vua Tự Đức "phú học, công thi" như tựa Vạn lý tập mà Trương Đăng Quế viết. Tùng Thiện Vương Miên Thẩm khen thơ Nguyễn Văn Siêu là:
"Lăng vân lão bút khí phiêu phiêu,
Thi thảo do ưng nhiến mãn biều".
Nghĩa là:
Khí bút già dặn cao trên tầng mây vời vợi,
Bài thơ mới làm nên kèm bầu rượu đầy”.
(Ký Nguyễn Phương Đình)
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm trong bài Hoài Nguyễn Phương Đình Học sĩ (nhớ Học sĩ Nguyễn Phương Đình), Cao Bá Quát trong bài Phục giản Phương Đình (lại đưa thư cho Phương Đình). Cho đến Ngô Thế Vinh, Chu Doãn Chí… và nhiều nhà thơ, học giả đương thời đã đánh giá cao tác phẩm, tác giả Phương Đình.
Thơ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu ngoài số hơn một ngàn bài trong bốn tập thơ nói trên, chúng ta còn thấy thơ ông trong các tập văn, trên trang trí nhà thờ ở quê làng Lủ(2)… Nhưng cho đến nay, ngoài một số tác phẩm văn xuôi mới được dịch(3), thơ Nguyễn Văn Siêu được dịch nhiều nhất có lẽ chưa quá trăm bài(4), đây là lỗi của chúng ta đối với một danh nhân, một người có nhiều đóng góp cụ thể cho việc xây dựng Hà Nội(5) như cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu. Nhân dịp kỉ niệm 1000 năm lịch sử Thủ đô, chúng tôi nghĩ nên có sự giới thiệu thỏa đáng về tác phẩm, tác giả Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, có thể trích tuyển thơ Nguyễn Văn Siêu viết về Hà Nội, và đặc biệt, nên có kế hoạch dịch toàn bộ Phương Đình thi loại(6); làm được vậy là đóng góp thiết thực cho lễ kỉ niệm lớn và cũng là để đáp tạ công lao của cụ Phương Đình đối với Thủ đô, trả lời sự trăn trở của nhân dân:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn.
Đài nghiên tháp bút chưa mòn,
Hỏi ai xây dựng nên non nước này?
(Ca dao)
Chú thích:
(1) Kim Lũ Nguyễn thị chính phả hiện do ông Nguyễn Tự Huy, Đạo diễn điện ảnh, hậu duệ cụ Nguyễn Văn Siêu cất giữ ở nhà thờ Đại Kim, Hà Nội.
(2) Chúng tôi đã về dập, sao chép được phần lớn.
(3) Phương Đình tùy bút lục, Trần Lê Sáng dịch, Nxb. Văn học, H. 1996.
Phương Đình văn loại (Hà Nội văn vật); Trần Lê Sáng dịch; Nxb. Văn học, H. 2001.
(4) Thơ Nguyễn Văn Siêu thường mới chỉ được dẫn trong một số bài viết hoặc sách lịch sử văn học; chỉ có tập sách nhỏ Nguyễn Văn Siêu, thi ca và tiểu sử của Nguyễn Như Thiệp, Nguyễn Văn Đề soạn; Nxb. Tân Việt, H. 1994 là sưu tầm, dịch được 52 bài.
(5) Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có công trùng tu cụm di tích đền Ngọc Sơn ở Hồ Hoàn Kiếm; Cụ là Thành hoàng đình Giáp Giang Nguyên, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
(6) Ông Nguyễn Tự Huy, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Siêu có viết cho chúng tôi một bức thư nhan đề: "Thư nhờ cậy và ủy nhiệm", ủy nhiệm cho chúng tôi giới thiệu và quyền dịch toàn bộ Phương Đình thi loại. Nhân đây, chúng tôi mong được mọi người giúp đỡ và xin mời người quan tâm đến thơ Phương Đình hợp tác./.
Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (78) 2006; Tr.3-9
Trần Lê Sáng


HOÀNG MINH TIẾN * NGUYEN HAM NINH

Chân dung văn học: Nguyễn Hàm Ninh
15:07 | 07/12/2012
HOÀNG MINH TIẾN

Nhắc đến các bậc danh nhân văn chương triều Nguyễn không ai không nhớ câu truyền tụng: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Thế mà cả Tùng Thiện Vương và Cao Bá Quát đều rất quí trọng tài năng thơ Nguyễn Hàm Ninh(1).
Chân dung văn học: Nguyễn Hàm Ninh
Khu lăng mộ Nguyễn Hàm Ninh - Ảnh: internet



Nhận xét nhiều bài thơ trong tập "Tĩnh Trai thi tập" của Nguyễn Hàm Ninh, Tùng Thiện Vương phê: "Thạnh Đường duy trứ, bách độc bất yếm" (Một bài thơ hay đời Thịnh Đường sót lại, đọc trăm lần không chán) còn Cao Bá Quát thì phê: "Phi thiện học Thiếu Lăng yên đắc linh diệu nại dư?" (Nếu không phải đã học được tài thơ của Đỗ Phủ thì làm sao mà linh diệu được đến thế?). Tài thơ là cái duyên để các cụ liên kết và tìm đến nhau, nhưng tình thơ, tình đời, tình người mới là cái cốt để các cụ tâm đầu hợp ý, "đồng bệnh tương lân".
Nguyễn Hàm Ninh là một con người thông minh, vui tính và hay đùa nghịch. Từ lúc còn nhỏ thiên tư ấy của cụ đã được bộc lộ khá rõ. Người ta kể rằng: Lúc cụ mới lên tám tuổi, một hôm có người bà con mang đến cho mấy chiếc bánh, cụ thân sinh nói đùa: Trong nhà hễ ai lớn hơn cả thì được. Nguyễn Hàm Ninh bèn hỏi lại: Thế thầy tuổi gì? Tuổi Mùi - Thế mẹ tuổi gì? Tuổi Thân. Nguyễn Hàm Ninh cười một cách tự tin và nói: Thế là cái bánh thuộc về phần con. Vì con tuổi Thìn, mà Thìn đã rồi mới đến Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân chứ!(2).
Một lần khác khi gia đình cụ đã dời về làng Trung Thuần, trong làng có một người bà con đi cưới vợ ở Thượng Sơn, cụ cũng được mời đi. Qua bến Kênh Kịa (3) Nguyễn Hàm Ninh đi sau, tự nhiên thấy cả đoàn người đứng sững lại, rồi có người ở phía trước đem đến một câu đối, cụ liền chạy lên trước, thấy các bậc đàn anh đang ngơ ngác trước mảnh giấy hồng rải trên một cái hương án mà người ta đặt chắn ngang đường để đòi nộp cheo, Nguyễn Hàm Ninh vội vàng cầm lên xem, nội dung câu đối là: "Chân giậm, tay mò bơn - Cá lờn bơn hói kia", biết câu đối ra lởm cụ cũng nhanh trí đối lởm lại: "Má kề, miệng ngậm bống - Cá bống khe Dang". Thật là một sự thông minh ứng xử tuyệt vời.
Bản tính nghịch ngợm, thông minh sẵn có góp phần tạo nên bản lĩnh và nhân cách trong con người cụ. Năm 1836 cụ đồ Nguyễn Hàm Ninh được Minh Mạng vời ra làm Quốc học độc thư. Năm 1838 khi đổi qua Tôn Nhơn phủ chủ sự, một lần trông thấy hai câu đối sơn son thiếp vàng trên điện Thái Hòa:
"Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân"
(Con thừa được nghiệp cha, tôi trả tròn ơn chúa)
Cụ không ngần ngại gì mà lấy bút phê vào bên cạnh rằng: "Tối hảo, tối hảo! Cương thường điên đảo" (hay tuyệt, hay tuyệt, song cương thường ngược hết!). Khi Minh Mạng phát hiện được, triệu Nguyễn Hàm Ninh vào tra hỏi thì cụ thản nhiên và đáp rằng: Chỉ vì chữ "Tử" đứng trước chữ "Phụ", chữ "Quân" nằm sau chữ "Thần". Minh Mạng bắt cụ chữa lại, cụ liền đọc:
"Phụ nghiệp tử năng thừa
Quân ân thần khả báo.
(Nghiệp cha con thừa được, ơn chúa tôi trả tròn).
Chỉ thay đổi vị trí của mấy chữ thôi mà ý tứ câu đối sáng sủa hẳn lên. Minh Mạng thấy thế thì lấy làm thỏa mãn và tha tội "phạm thượng" cho cụ.
Chưa hết, năm 1847 nhân sự kiện vua Thiệu Trị băng hà, rồi Tự Đức đăng quang. Lẽ ra ngôi báu này phải thuộc về Hồng Bảo (anh ruột Tự Đức) nhưng vì một lý do riêng, khi gần nhắm mắt Thiệu Trị lại truyền ngôi này cho Tự Đức (Hồng Nhậm). Sau đó Hồng Bảo bị giam đến chết vì âm mưu liên lạc với Pháp, lật đổ ngôi vàng của em. Cảnh nồi da xáo thịt, anh em giết hại nhau chỉ vì ngôi báu ấy đã làm cho Nguyễn Hàm Ninh chán nản, buồn rầu. Một hôm nhân khi Tự Đức ăn cơm vô ý cắn răng vào lưỡi lại còn ra đầu đề xướng họa cho các thi nhân, Nguyễn Hàm Ninh thừa dịp đó làm ngay mấy câu có ý ám chỉ việc Tự Đức giết anh:
"Thuở Bác (lưỡi) sinh ra chú (răng) chửa sinh
Tự sinh ra chú, bác làm anh
Tâm can từng lúc cùng san sẻ
Cốt nhục đang tâm nghiến đứt tình"
(4)
Tự Đức nghe thơ biết Nguyễn Hàm Ninh muốn lên án mình nhưng không có lý gì để hạch tội Ninh nên phải ngậm bồ hòn mà khen thơ hay.
Sinh thời cùng một năm với Cao Bá Quát (1808) bản tính của hai cụ có nhiều nét giống nhau. Đó là cái tính ngang tàng, phóng túng và sẵn sàng châm chĩa lại triều đình những lúc có thể châm chĩa được. Tuy chưa có được thế mạnh như Cao Bá Quát nhưng Nguyễn Hàm Ninh cũng đã thể hiện rõ nhân cách của mình. Điều cần nói thêm là bên cạnh cái tinh nghịch có phần ngang tàng ấy, những ngày làm quan ở Huế Nguyễn Hàm Ninh còn là người đa tình đa cảm. Mối tình thơ và tình đời của cụ với ba cô công chúa hay thơ em gái Miên Thẩm, đặc biệt với bà Mai Am đã để lại cho cụ nhiều bài thơ tình nổi tiếng(5). Con người ấy, thiên tư ấy sau này ở tuổi ngoại tứ tuần khi trở về quê cũng vẫn tinh nghịch để rồi còn "Say rượu Kịa lại mơ rượu Cầu" (6). Thông minh, vui tính và hay đùa nghịch là điều dễ thấy ở Nguyễn Hàm Ninh, nhưng điều đó mới là một phần của con người cụ. Phần nữa đáng chú ý hơn là một Nguyễn Hàm Ninh với những tâm sự u buồn, chua xót trước thời vận của nước nhà và cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ mà nhà thơ có dịp được chứng kiến. Sinh thành trong một gia đình nông dân nghèo túng trên mảnh đất Phù Kinh quanh năm đói khổ, ngay từ những ngày còn nhỏ Nguyễn Hàm Ninh đã có một tình thương đồng loại khá sâu đậm. Sau này khi đã trở thành một ông quan, Nguyễn Hàm Ninh vẫn sống trong sự nghèo thiếu. Trong sáng tác của mình, ông đã than thở: "hai mươi năm làm quan chỉ mua được một chữ nghèo (Nhất Bần). Làm quan có trăm thứ lo, trong đó có cái lo vì "Vợ con đợi gạo khóc" (Thê na đãi mê khấp), có trăm nỗi buồn nhưng điều đáng buồn hơn của nhà thơ là nỗi buồn của kẻ làm tôi mà không can gì được vua, làm quan mà không ích gì được cho dân". Đọc lại những vần thơ tâm sự của cụ chúng ta càng có dịp hiểu thêm con người ấy, tâm sự ấy, nhân cách ấy:
"Trong mưa tàu chuối khóc
Ngọn nến đóa mai cười
Đêm đỗ đặt lưng ngủ
Giường cao ôm bụng ngồi"
Nguyễn Hàm Ninh đặc biệt yêu thương và cảm thông với người nông dân lao động nghèo khổ. Những câu thơ Nguyễn Hàm Ninh viết về người dân lao động bao giờ cũng thể hiện rõ tình cảm và trách nhiệm của mình:
"Trời nung nấu gay gắt
Hoàng Hà nước đục ngầu
Hạn hán kéo dài mãi
Nông dân biết tính sao?
Cầu cúng không tin cậy
Ai tả nỗi dân đau
Các quan chính là kẻ
Làm ra hạt mưa rào"
(7)
Câu hỏi nhà thơ nêu ra đồng thời cũng là nỗi đau day dứt đi suốt cuộc đời ông. Căm tức, uất hận trước những điều chướng tai, gai mắt của xã hội lúc bấy giờ, nhiều khi Nguyễn Hàm Ninh đã muốn: "Gẫm nhân tình gươm rít muốn reo lên" và những ngày cuối đời, về sống ở quê "gươm rít" ấy đã lại "reo lên" qua bản "Phản Thúc ước" (8) đầy tính chiến đấu. "Phản Thúc ước" chính là tiếng "réo lên" cào xé bộ mặt thật của bọn quan lại ăn bám bất lương trên quê hương nhà thơ, đồng thời nó cũng là tiếng réo chung tố cáo một xã hội đầy rẫy sự bất công vô lý mà một người có lương tâm như Nguyễn Hàm Ninh không thể nhắm mắt vô tình.
Yêu thương xót xa trăn trở cùng nỗi khổ của người dân quê, Nguyễn Hàm Ninh còn luôn lo lắng đến thời vận của nước nhà. Tình yêu con người trong lòng nhà thơ lúc nào cũng tràn đầy (bài Cẩm sự). Có điều yêu thương nhưng không bi lụy. Nguyễn Hàm Ninh vẫn tìm ra nơi để gửi gắm niềm tin vào nước non này:
Mùa xuân đứng trên núi Lệ Sơn trông xa
Ở nơi đồn thú binh cũ, khói mây dày đặc sau trận mưa đêm trước.
Hoa núi khắp nơi, bao quanh thân áo ta
Ánh chiều trên nghìn ngọn núi, chiếu qua đồng đội,
mây nổi ngoài muôn dặm cuốn khắp trời xanh
Núi sông nước Nam quyết không thể xoay chuyển
Giặc cướp phương tây muốn làm trò trống gì?
Dường nghe trên chín bệ đã cất nhắc vị đại tướng
Hằng ngày mong mỏi trông thấy Cam Tuyền báo tin thắng trận
(9)
Một con người luôn trăn trở vì vận nước, luôn day dứt vì cuộc sống của dân nhưng giữa thời buổi loạn ly lúc bấy giờ Nguyễn Hàm Ninh không thể thực hiện được ước muốn của mình. Tất cả sự căm giận ấy nhiều khi nhà thơ để bật ra lời nói, ở câu đối, ở thơ văn với những lời lẽ và ý tứ sâu sắc. Nhưng cũng chính vì cái tính ngang tàng ấy mà bọn nịnh thần ngu dốt đã tìm mọi cách để gán tội cho cụ và đẩy cụ ra khỏi chốn cung đình. (Lần đầu vào năm 1840). Có điều thật lạ, tuy bị gán ép, bị đày đọa nhưng dường như không bao giờ Nguyễn Hàm Ninh tỏ ra bất lực, lép vế. Trái lại, qua mỗi lần sóng gió như vậy chí khí trong con người cụ lại trào sôi hơn, mạnh mẽ hơn. Bài thơ "Tức sự" cụ viết trong những ngày ở quê sau khi bị Minh Mạng cách chức lần đầu (1840) không chỉ bộc lộ tâm sự của một thi nhân trước cảnh vật, cây cỏ và thiên nhiên quê nhà mà nó còn là lời thách đối với thời cuộc
Đồi bên kia suối suối bên đồi
Phú quí nên xưa có một chồi
Mây sớm dậy trời bay cửa trước
Chim hôm về tổ ruỗi thành ngoài
Cửa vườn cá ruộng nhờ lộc đất
Cơm tương canh lẻ trẻ dáng người
Lui được ngày nào ngày ấy khỏe
Cười ai, ai hỡi chớ cười ai?
Một con người khảng khái, giàu bản lĩnh như cụ thời bấy giờ kể ra cũng không nhiều lắm. Chính vì vậy sự bất đắc dĩ lắm cụ phải tạm lánh mình, còn bao giờ Nguyễn Hàm Ninh cũng ưa hoạt động với một mong muốn tha thiết là làm sao cho dân đỡ khổ. Nhà thơ chưa bao giờ có ý định trốn chạy thực tại, dẫu thực tại đó nhiều khi hết sức cay đắng. Chứng cớ là sau bao lần bị cách chức đày đi đây đó nhưng lúc nào được nhà vua phục chức trở lại làm việc cụ đều sẵn sàng. Đương nhiên điều mong ước của nhà thơ chưa thể nào thực hiện được trong điều kiện hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Nỗi buồn của cụ Nguyễn Hàm Ninh trong những ngày làm quan ở Huế là nỗi buồn của kẻ làm tôi mà không can gì được vua, làm quan mà không ích gì được cho dân. Bi kịch cuộc đời của cụ và cũng là bi kịch của lớp nho sĩ có nhiệt huyết như cụ phải có một khoảng thời gian gần một thế kỷ sau mới được giải phóng. Cao Bá Quát bạn thơ thân tình và người sinh thời cùng tuổi với cụ đã gửi gắm tất cả nỗi niềm tâm sự qua bài thơ "Tiễn biệt", có lẽ đó cũng là tâm sự cuộc đời của lớp nhà nho yêu nước lúc bấy giờ mà bây giờ đọc lại chúng ta chỉ còn biết cảm thông cùng họ:
"Lênh đênh bèo bọt phận đôi ta
Sùi sụt vì ai lúc bước ra
Bóng kính bao hề rời hạc một
Ngấn mày sao nỡ dứt non xa
Tanh rình mùi máu hàng thư hận
Say ngấy hồn hoa chén rượu đưa
Rồi nữa mỗi người thành mỗi ngả
Mịt mù mưa gió biết đâu là...
Vào những năm cuối đời về quê ở Quảng Lưu (huyện Quảng Trạch), Nguyễn Hàm Ninh vẫn tiếp tục viết văn, làm thơ. Nội dung các tác phẩm thơ, văn, mà tiêu biểu là bản "Phản Thúc ước" tiếp tục chủ đề tố cáo sự tàn ác vô lương của bọn cường hào sâu mọt ở nông thôn và cảnh sống khổ cực của người dân lao động. Nguyễn Hàm Ninh cũng giành thời gian lâu lâu lại vào Huế thăm Miên Thẩm, thăm các bạn thơ và ra Nghệ An, Thanh Hóa để hiểu rõ hơn chuyện thời cuộc, chuyện đời...
Tìm hiểu thơ văn và cuộc đời của Nguyễn Hàm Ninh chúng ta lại nhớ về một nhà thơ thông minh, vui tính, ham đùa nghịch, một nhà thơ dường như suốt đời nghèo túng nhưng rất mực yêu thương dân.
Huế, 11-1986
H.M.T
(SH24/4-87)
-----------------
1. NGUYỄN HÀM NINH (1808 - 1867) tự là Thuận Chi, hiệu Tĩnh Trai, người làng Phù Kinh (nay là Phù Hóa) sau dời đến làng Trung Ái (nay là Trung Thuần), phủ Bình Chánh (huyện Quảng Trạch), tỉnh Quảng Bình. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ, sau nhờ một người cô không con nuôi ăn học. Đậu giải nguyên năm 23 tuổi (tức năm Tân Mão 1831). Đời làm quan của ông thăng giáng nhiều, một lần bị Minh Mạng cách chức (năm Canh Tý 1840 tức năm Minh Mạng thứ 21). Một lần đang làm Án sát tỉnh Khánh Hòa (1846) bị thuyền buôn lừa bắt chở sang Trung Quốc, khi trở về bị triều đình cách chức lần nữa và đày vào Đà Nẵng sung quân. Sau đó một thời gian ngắn được phục chức rồi làm trước tác Viện Hàn lâm và một lần nữa lại bị cách chức. Ông là bạn thân của Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương. Về sáng tác còn để lại hai tập thơ "Nhâm Sơn thi tập" và "Tĩnh Trai thi sao", một bài văn tứ lục chữ nôm, "Phản Thúc ước" và nhiều bài ca trù khác.
2. Theo "Đời tài hoa" bản chép tay, mùa thu năm Mậu Ngọ 1878 Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên trang 4.
3. Kênh Kịa: Một địa danh thuộc thị trấn Ba Đồn ngày nay.
4. Sinh ngã chi sơ nhữ vị sinh
Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh
Trân tu tằng kỷ đồng cam khổ
Khiết chỉ hoàn vong cốt nhục tình.
(Bản dịch của Nguyễn Văn Đề - s.đ.d. trang 24)
5. Xem thêm "Mối tình trong những lời thơ ấy" (Lương An - Sông Hương số 6).
6. Ngoài vợ chính của cụ ở làng Tô Xá (sinh được ba trai, hai gái), cụ hỏi thêm một bà người Kẻ Kịa. "Còn mơ rượu Cầu" ý là cụ còn muốn ghẹo thêm cô đào người Kẻ Cầu (Kẻ Cầu và Kẻ Kịa là hai nơi nổi tiếng rượu ngon trong phủ Quảng Trạch).
7. "Thơ tức sự gửi các bạn" Tập tuyển thơ văn Việt Nam 1858 - 1920 Nhà xuất bản Văn học - Hà Nội 1984 trang 151, 152.
8. "Phản Thúc ước" Nguyễn Hàm Ninh viết nhằm chống lại bản "Thúc ước". Theo tục lệ trước kia ở nông thôn hàng năm thường có lễ tế thần. Trong lễ tế ấy người ta đọc một bài văn gọi là Thúc ước. Nội dung nhằm khuyên răn dân làng giữ thuần phong mỹ tục, sống yên phận thủ thường mà thực chất là khuyên họ nhẫn nhục chịu sự bất công trong xã hội.
9. Lệ Sơn: Tên một dãy núi phía tây huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ở đây thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn có lập đồn binh canh phòng. Cam Tuyền: Tên một dãy núi ở Thiểm Tây (Trung Quốc), trên núi có cung Cam Tuyền của Nhà Hán đời Hán Văn Đế; Hung nô xâm lấn Trung Quốc khói lửa suốt từ núi Cam Tuyền tới Trường An.
(Chú thích của Lê Thước - s.đ.d trang 149).


TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ






Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865), tự: Diên Phương, hiệu: Đoan Trai, biệt hiệu: Quảng Khê; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu TrịTự Đức trong lịch sử Việt Nam. Trong 43 năm làm quan, có 20 năm ông giữ trọng trách lớn (có hai lần nhận di chiếu tôn phò vua mới). Ngoài ra, ông còn là nhà thơ, nhà sử học, là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện VươngTuy Lý Vương.


Mục lục

Thân thế

 

 

Trương Đăng Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi [1].
Tiên tổ của ông là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Lê Hy Tông thứ 10 (1622), tổ đời thứ sáu là Trương Đăng Trường vào Nam, làm quan đến Cai quản, tước Nham Lĩnh bá. Nhân thế, ông Trường làm nhà ở tại làng Mỹ Khê.
Trải qua bốn đời truyền nối làm quan, đến đời cha ông Quế là Trương Đăng Phác, làm Tri phủ cho triều Tây Sơn. Vợ ông Phác là bà Đỗ Thị Thiết, sinh hạ được 8 người con (4 trai, 4 gái), trong đó Trương Đăng Quế là người con thứ 5.

Sự nghiệp

Làm quan trải bốn triều

Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế có tiếng văn hay. Năm 1801, khi ông lên tám tuổi, thì cha mất. Tuy nhiên, nhờ chăm học, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân, đây là học vị cao nhất lúc bấy giờ). Theo sử Nguyễn thì ông chính là người "đầu tiên" ở Quảng Ngãi đạt được học vị này [2].

Dưới triều Gia Long, Minh Mạng

Ban đầu, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Biên tu. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Hữu Thận lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được cử lên và được dùng[3].
Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Thị độc sung Tán Thiện (1826), Thượng bảo thiếu khanh quản lý phòng văn thư (1828), Thị lang bộ Công sung làm việc ở Nội các (1830); lại đổi sang bộ Lễ sung chức khảo trong kỳ xét hạch giáo chức các tỉnh tại Quốc Tử GiámHuế (tháng 6 năm 1830).
Năm 1831, vua Minh Mạng sai ông đi Bắc Thành điểm ngạch sổ binh, khi về được nhắc lên Tham tri bộ Hộ kiêm quản Vũ khố, sung chức Độc quyển thi trong kỳ thi Đình. Tiếp theo, thăng ông lên làm Thượng thư bộ Binh, kiêm giữ ấn triện viện Đô sát, sung Cơ mật viện đại thần.
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống NguyễnGia Định. Là Thượng thư bộ Binh, Trương Đăng Quế lo trù tính phương cách đối phó. Đến tháng 7 năm 1835, cuộc nổi dậy này bị đánh dẹp, xét công, ông được thưởng hàm Thái tử thiếu bảo, sung Chủ khảo kỳ thi Hội.
Đầu năm 1836, nhà vua chọn ông làm Kinh lược đại thần đi kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Hoàn thành tốt công việc, ông được khen và được thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện, nhưng vẫn coi giữ bộ Binh.
Khoảng thời gian ấy có Quách Tất Công và Quách Tất Tại, sau khi bị đánh thua trong cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở vùng Hòa Bình, lại tôn phò Lê Duy Hiển khởi binh chống NguyễnThanh Hóa. Quan quân đánh dẹp mãi không xong. Thấy vậy, Trương Đăng Quế bèn xin đi, được vua sung chức Kinh lược sứ tỉnh Thanh Hóa (cuối năm 1836). Thắng trận trở về, ông được gia thưởng Kỷ lục quân công (1837). Cũng trong năm này, ông được cử quản lý Khâm thiên giám.
Năm 1838, cho ông kiêm coi Quốc tử giámHuế, lại sung làm Chủ khảo kỳ thi Hội và Độc quyển kỳ thi Đình.
Năm 1839, tấn phong ông là Tuy Thịnh nam, sau lại kiêm giữ ấn triện bộ Lễ.
Năm 1840, sung ông chức Tổng lý coi việc làm lăng của vua. Cũng trong năm này, ông nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn phò Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) lên ngôi.

Dưới triều Thiệu Trị

Thiệu Trị năm đầu (1841), nhà vua chuẩn cho Trương Đăng Quế làm Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh, kiêm Cơ mật viện, kiêm sung chức Tổng tài ở Quốc sử quán.
Năm 1842, nhà vua đi tuần ra Bắc, sung ông làm Ngự tiền đại thần. Khi về, nhà vua tấn phong cho ông tước tử, và thưởng một đồng kim tiền hạng nhất.
Năm 1844, vì có bệnh, Trương Đăng Quế xin phép nghỉ. Trong khoảng thời gian này, ông xin bổ dùng con cháu của Mạc Thiên Tứ, được vua nghe theo.
Năm 1846, nhà vua gả con gái là An Mỹ công chúa cho con trai ông là Trương Đăng Trụ.
Năm 1847, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế lên tước Tuy Thạnh bá, và cho khắc tên vào cỗ súng lớn có tên là "Bảo đại định công" (cỗ thứ nhất). Tháng 9 năm này, lại sung ông làm Phụ chính đại thần, nhận di chiếu tôn phò Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức Tự Đức) lên kế vị.

Dưới triều Tự Đức

Sau khi lên ngôi, Tự Đức phong ông làm Công chính điện đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), bắt đầu đặt viện Tập hiền, Trương Đăng Quế được cử làm Kinh diên giảng quan.
Tháng Giêng năm sau (1850), ông nhận mệnh đi duyệt binh. Kỳ đại kế [4] năm ấy, ông được vua ban thưởng một kim khánh có khắc 4 chữ "Tam Triều Thạc Phụ".
Năm 1853, nhà vua lại sung ông làm Chánh sứ Bắc Kỳ hà đê. Sau khi đi kinh lý miền Bắc trở về, đề xuất việc sửa sang đê điều, đều được nhà vua nghe theo. Sau đó, lấy cớ sức yếu, ông xin thôi việc, được vua chấp thuận và cho giữ nguyên phẩm hàm. Nhưng chỉ được ít lâu, thuận theo lời tâu của các quan đứng đầu sáu bộ, nhà vua lại triệu ông vào triều tiếp tục giữ bộ Binh. Năm 1855, Trương Đăng Quế xin về hưu, nhưng nhà vua không cho.
Tháng 7 (âm lịch) năm 1858, có 12 chiếc tàu Pháp đến bắn phá các bảo đài ở cửa Hàn (Đà Nẵng, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam). Theo sử Nguyễn, buổi đầu ông cùng Phan Thanh Giản đều tâu là "chiến không bằng hòa". Tuy nhiên theo ông Quế, thì trước khi hòa, "cần phải giữ vững đã". Được vua cho là phải, sau đó ông nhận lệnh đi khắp Quảng Nam đôn đốc việc xây đắp đồn lũy để phòng thủ...[5]
Sau khi bị ngăn cản ở Đà Nẵng, quân Pháp kéo vào Nam, đến tháng 2 năm 1859, thì thành Gia Định bị đối phương đánh hạ. Thấy quân xâm lược cứ lấn tới, mà mình thì đã già không thể làm tròn trọng trách, tháng 9 (âm lịch) năm 1860, Trương Đăng Quế xin về nghỉ. Trích lời tâu của ông:
Từ người Tây dương (chỉ quân Pháp) sang đây đã 3 năm nay, thần ê mặt với các quan trong triều, vì không thi thố được một kế nào để đuổi chúng lui, thì tội (của thần) tránh sao được...(Nay thần) lại bóng dâu gần ngã, tật bệnh liên miên, hầu như sắp chết, nghĩ thẹn vì cố giữ địa vị...
Lần này, nhà vua cho ông về nhà riêng dưỡng bệnh, 10 ngày hoặc 5 ngày mới phải vào chầu một lần [6].
Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công, vì để cho "bốn cõi nhiều loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần". Vua không chuẩn cho. Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói: Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí...Nhà vua phải gượng làm theo ý ấy [7]
Sau, Trương Đăng Quế còn dâng sớ xin về hưu mấy lần nữa, vua Tự Đức mới thuận cho ông về nghỉ hẳn tại quê nhà vào tháng 3 (âm lịch) năm 1863. Mặc dù vậy, khi có việc hệ trọng, nhà vua cũng thường cử người đi hỏi ý kiến ông. Có lần, được nhà vua hỏi về việc nước, ông gửi sớ tâu 5 điều, trong đó đáng chú ý là: "Đường lối trị nước, cần ở dùng người, nhất là quan lại cấp huyện; Muốn quan thanh liêm, không gì bằng bớt viên chức đi, mà tăng lương bổng; Của dùng thiếu, tùy theo trường hợp, có thể cho phạm nhân được nộp thóc hay vàng chuộc tội",...Sớ tâu này được vua giao cho đình thần bàn bạc để thi hành [8].
Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Trương Đăng Quế lâm bệnh nặng mất ở tuổi 72. Nghe tin, nhà vua cho nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông hàm Thái sư, ban tên thụy là Văn Lượng, cho khắc trên bia mộ dòng chữ: Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lượng chi mộ (nghĩa là mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lượng).
Năm Tự Đức thứ 28 (1876), nhà vua cho thờ ông trong Thế miếu tại Huế, theo lời dụ trước đây của vua Thiệu Trị.

Điểm lược một số công lao nổi bật

Đóng góp cho văn học, sử học

Vốn có một kiến thức uyên bác, một tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ, được sử Nguyễn khen là "bình hòa điển nhã", được Phan Thanh Giản khen là: "Không có sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca" [9]. Ông có chân trong Tùng Vân thi xã (còn gọi là Mặc Vân thi xã) do Tùng Thiện Vương (là học trò và là con rể ông) làm "chủ súy".
Sáng tác của Trương Đăng Quế khá nhiều, tiêu biểu là các tập:
  • Quảng Khê văn tập (Tập văn Quảng Khê)
  • Trương Quảng Khê thi văn (Thơ văn Trương Quảng Khê)
  • Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự (Tuyển tập của tiên sinh Trương Quảng Khê)
Khi làm Tổng tài ở sử quán, ông tham gia biên soạn các bộ sử và điển lệ:
Ngoài ra, thơ văn của ông còn được chép trong các sách: Đại Nam anh nhã tiền biên (Lời hay ý nhã của nước Đại Nam, phần tiền biên), Quốc triều hàn quyển (Vườn văn của bản triều), Thi tấu hợp biên (Hợp biên các bài thơ và tấu), Thịnh thế giai văn tập (Tập văn hay đời thịnh), Thúy Sơn thi tập (Tập thơ về núi Thúy Sơn), Từ uyển xuân hoa (Hoa xuân vườn văn),v.v...
Nói riêng về thơ Trương Đăng Quế, trong sách Từ điển văn học (bộ mới) có đoạn viết:
Thơ ông khoan hòa, diễn nhã…Phần nhiều là thơ xướng họa, đáp tặng, vịnh sử, vịnh cảnh…Nhưng trước hết thơ ông vẫn là tiếng nói trung hậu, ngay thẳng của một bậc đại thần danh vọng cả về tài năng và nhân cách [10].

Lập địa bạ, đinh bạ Nam Kỳ năm 1836

Đầu năm 1836, vua Minh Mạng cho là sáu tỉnh Nam Kỳ, sau khi xảy ra sự biến thành Phiên An, việc binh đinh, điền thổ cần phải sửa sang nên chọn Trương Đăng Quế làm Kinh lược đại thần đi kinh lý Nam Kỳ, và ông đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 2 năm đó.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì chỉ trong 5 tháng, Trương Đăng Quế đã hoàn tất mọi việc, và thành công nhất là công tác duyệt tuyển và đạc điền. Ông viết:
Cuộc kinh lý năm 1836 đã giải quyết nhiều việc như duyệt dân tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chính, xếp đặt lính tráng bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định thưởng, định việc thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp,v.v…Song đáng kể hơn cả là lập được đinh bạ và đia bạ cho mỗi thôn xã ở Nam Kỳ; đối với nhà nước, thì đỡ tình trạng trốn xâu lậu thuế hay lẩn vào bưng biền để "tụ tập khởi loạn"; đối với xã hội thì "bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản". Cách làm sổ bộ đó khá chính xác. Sau này, người pháp cai trị thuộc địa cũng rất thán phục, nhất là "địa bạ", có trường hợp, đến đầu thế kỷ 20, họ vẫn lấy đó làm căn cứ để giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất.
Kết quả cụ thể của cuộc kinh lý năm 1836, là tạm thời làm chậm tình trạng phân hóa giai cấp ở nông thôn Nam Kỳ [11].

Giúp trị an trong và ngoài nước

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vua Minh Mạng thăng Trương Đăng Quế lên Thượng thư bộ Binh. Kể từ đó, ông ra sức giúp việc trị an trong và ngoài nước.
Lược kể mấy việc nổi bật theo sử Nguyễn:
  • Năm Minh Mạng thứ 14 (1833),Lê Văn KhôiGia Định, Nông Văn VânCao Bằng cùng khởi binh chống Nguyễn. Thư cáo cấp liên tục gửi về kinh. Bấy giờ "Đăng Quế ngày đêm mưu tính, các việc được đúng khớp, đến sau việc yên. Quế được thưởng gia hàm Thái tử thiếu bảo"…[12]
  • Năm 1836, khi nhận trọng trách đi kinh lược Nam Kỳ (1836), song song với việc lập đinh bạ và đia bạ cho mỗi thôn xã, Trương Đăng Quế còn xin và được chấp thuận việc đặt phủ lỵ, đồn bảo ở nơi trọng yếu để "bên trong làm phên che cho Gia Định được vững, bên ngoài làm cho tăng thêm thanh thế của Trấn Tây" (Chân Lạp)[12].
  • Cuối năm 1836, thuận theo lời xin của Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng sung ông làm Kinh lược sứ Thanh Hóa để tiễu trừ cuộc nổi dậy của Quách Tất Công và Quách Tất Tại. Đến nơi, ông cho quân đóng ở Lang Chánh rồi vừa chiêu an, vừa chia quân xây đánh. Tháng 3 (âm lịch) năm sau (1837), quan binh bắt sống được Quách Tất Tại. Đến tháng 4 (âm lịch), lại bắt sống được hai nhân vật trọng yếu của quân nổi dậy là Lê Duy Hiển (minh chủ) và Hoàng Nguyệt Đồng (quân sư, dọc đường cắn lưỡi chết). Sang khoảng tháng 5 (âm lịch) thì Thanh Hóa được yên, sau khi các viên chỉ huy quân nổi dậy bị bắt hoặc bị diệt gần hết.
Để giữ yên tỉnh Thanh lâu dài, Trương Đăng Quế xin đắp một bảo lớn (gọi là bảo Ninh Lương), đắp đồn ở động Khương Chánh và ở Trịnh Vạn...Ngoài ra, ông còn xin chia động Trịnh Vạn ra làm 2 tổng (Trịnh Vạn và Quân Nhân), đồng thời xin lấy tổng Như Lăng (thuộc huyện Nông Cống) và tổng Luận Khê (thuộc huyện Lôi Dương) làm thành châu Thường Xuân...Tất cả đều được vua y cho [13].
  • Về việc giữ yên đất Chân Lạp và vùng đất biên giới phía Nam, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có chép lời tâu của Trương Đăng Quế:
Vua (Thiệu Trị) nhân bàn đến việc Trấn Tây (Chân Lạp), Đăng Quế tâu: "Bọn thổ phỉ khởi loạn (ở Chân Lạp), cũng là do quan địa phương xử trí không khéo, không trách (bọn ấy) được...Nay Trấn Tây lui quân, thì Hà Tiên thế cô cần phải giữ được vô sự. Với Quảng Biên ruộng đất tốt màu, là bức tường che của Hà Tiên. Thần trộm nghĩ cho là không nên bỏ...[14]
Năm 1847, trong một sắc của vua Thiệu Trị, những đóng góp của ông về việc này lại được nói đến như sau:
Ta chịu mệnh trời đất Tổ khảo, cai trị nước Đại Nam. Năm trước đất miền Tây (thuộc Nam Kỳ) chưa được mở mang, thường lấy làm thẹn. Năm Ất Tỵ (1845), cất quân đi đánh nước Chân Lạp, dẹp được. Năm Bính Ngọ (1846), ta lên thọ 40 tuổi, đến 30 lần ân dụ ban ra, năm ấy nước Xiêm phục, nước Miên hàng, nộp lễ cống, chầu hầu. Năm nay (1847), tướng quân kéo về, tâu thắng trận, thôi không đi đánh, võ công cáo thành, sai công thần trông nom chế ra ba cổ súng đồng thượng tướng quân, truyền đến con cháu, giữ thứ bảo khí ấy lâu dài, không say mê tửu sắc, nghĩ làm việc mới, noi việc cũ, theo noi mưu mô công liệt, trọng văn tạp võ ức muôn năm làm mạnh nước Đại Nam ta. Vả lại, ngự ban cho cố mệnh lương thần, Thái bảo, Tuy Thạnh bá Trương Đăng Quế, trước kia vâng cố mệnh của tiên đế khi gần băng hà để lại, cùng ta trù tính việc biên cương, rồi thành tựu được võ công, giúp rập đức tốt, thực không phụ ơn tri ngộ. Vậy cho khắc vào cỗ súng thứ nhất[15].

Là thầy giỏi, là viên quan tốt

Trương Đăng Quế là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện VươngTuy Lý Vương. Các công chúa như Nguyệt Đình, Huệ Phố, Mai Am..., dù không theo học, nhưng vẫn xưng là học trò ông. Đương thời, ông được đông đảo giới trí thức lúc bấy giờ kính trọng về học vấn sâu rộng và nhân cách khiêm nhường [16].
Về vai trò của một ông quan, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có đoạn chép về ông như sau:
(Trương Đăng) Quế lúc làm quan, giữ mình khiêm tốn, chính trực, kiến văn nhiều, xử đoán khéo, trài làm quan hơn 40 năm, ngồi ở chức Tể tướng; thế mà ăn mặc giản tiện sơ sài, không khác gì lúc còn chưa làm quan, và lại có tính siêng năng như bộc sạ họ Phòng (tức Phòng Huyền Linh), có mưu trí như Ngụy Công họ Hàn (tức Hàn Kỳ), đã biết thì không điều gì không nói, đã nói thì không có điều gì không nói hết lời. Triều đình lấy làm trọng, các tiên thánh vốn vẫn chọn dùng...Các danh thần lúc bấy giờ, như Tráng liệt bá Nguyễn Tri Phương, mà vua cũng bảo là phong độ không bằng (Trương Đăng) Quế. Sau khi (Trương Đăng) Quế chết, hoàng thượng (Tự Đức) thương nhớ, triều đình lấy làm tiếc. Các hoàng thân, công chúa và sĩ phu trong ngoài đều làm thơ văn câu đối đem đến phúng. Ấy là (Trương Đăng) Quế làm cho người ta cảm mộ đến như thế...[17].
Ghi nhận công lao Trương Đăng Quế, hiện ở quận Gò Vấp thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông.

Thông tin khác

Liên quan đến việc "phế, lập"

Sau khi vua Thiệu Trị mất (1847), đình thần triều Nguyễn, đứng đầu là Trương Đăng Quế, đã đưa Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên nối ngôi theo di chiếu, lấy niên hiệu là Tự Đức. Việc "phế trưởng, lập thứ" này lập tức gây xôn xao dư luận đương thời. Người ta nghi rằng có sự mờ ám trong việc này và quy cho người gây nên mọi sự chính là Trương Đăng Quế. Từ đó nảy sinh hai nghi vấn:
-Nguyễn Phúc Hồng Nhậm chính là con ruột của đại thần Trương Đăng Quế, được đánh tráo làm con của vua Thiệu Trị, và vị đại thần này đã dùng quyền uy của mình ép nhà vua đưa Hồng Nhậm lên ngai vàng.
-Trương Đăng Quế tư thông với Thái hậu Từ Dũ, sinh ra Hồng Nhậm, nên hai người này đã tìm mọi cách đưa Hồng Nhậm lên kế vị.
Hai luồng dư luận trên, có lẽ, xuất phát từ một loạt các sự kiện liên quan đến việc tranh giành quyền lực giữa hai anh em là Nguyễn Phúc Hồng Bảo (con trưởng nhưng không được nối ngôi) – Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, và sự can thiệp của Trương Đăng Quế để bảo vệ ngai vàng của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), dẫn đến việc Hồng Bảo "nổi loạn" vào năm 1851, bị vua Tự Đức tống giam và chết trong ngục thất vào năm 1854; và việc Đoàn Hữu Trưng cầm đầu "Loạn Chày vôi" vào tháng 9 năm 1866, âm mưu lật đổ vua Tự Đức, đưa con trai của Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngai vàng, nhưng đã bị thất bại. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản bác các lời đồn đãi trên, và tìm cách chứng minh sự vô can của Trương Đăng Quế trong việc "phế, lập" của vua Thiệu Trị, và cũng không hề có chuyện dan díu giữa vị Cố mệnh đại thần này với Thái hậu Từ Dũ. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề "vua Tự Đức là con của ai?" vẫn còn là một nghi vấn [18].

Hậu duệ

Đại thần Trương Đăng Quế có 5 con trai:
-Trương Đăng Trụ lấy công chúa An Mỹ, được bổ làm Phò mã Đô úy, tập phong tước hầu.
-Trương Quang Đản lấy Ngọc Lê quận chúa, làm quan trải đến chức Phụ chính đại thần, Tổng tài Quốc sử quán.
-Trương Văn Để, được bổ làm Chủ sự, dần trải đến chức Tham tri bộ Binh. Năm 1885, ông phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, nhưng vì bệnh phải ở lại Cam Lộ. Sau vâng ý chỉ của Tam cung đưa xa giá về kinh (Huế), nên theo vua không kịp, rồi ốm chết ở Quảng Trị. Khi Đồng Khánh lên ngôi cho tước hết chức hàm của ông, đến năm Thành Thái thứ hai (1890), nhờ Trương Quang Đản dâng sớ kêu oan, nhà vua mới cho khai phục nguyên hàm.
-Trương Quang Du, được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu, rồi Thương viện tỉnh vụ Quảng Ngãi.
-Trương Quang Duyệt, được bổ làm Hàn lâm Cung phụng.
Trong số cháu của Trương Đăng Quế, có Trương Quang Chử (con Trương Quang Trụ), sau cũng lấy công chúa; và Trương Đăng Trình, là người thi đỗ Tiến sĩ "đầu tiên" của tỉnh Quảng Ngãi [19].
Đầu năm 1836, Trương Đăng Quế nhận lệnh vua đi kinh lược xứ Nam Kỳ. Trước cảnh hoang tàn của thành Phiên An, cảm xúc ông làm bài thơ:
Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm
(Cảm xúc khi lên thành Phiên An cũ)
Dịch nghĩa:
Trải xem chiến trường mà xót xa,
Một khối thành vững chắc đã gây nên mầm họa.
Nhân dân bỗng dưng gặp phải kiếp nạn,
Tướng sĩ chinh chiến dãi dầu gió bụi.
Tường đổ vách tan phá làm bờ lũy,
Kích gãy thương hư chất lại thành đống.
Đáng giận kẻ bề tôi tầm thường [20] đã làm điều sai lầm cho nước,
Nhớ lại việc đã qua, mấy phen ngậm ngùi.
(Trương Quảng Khê thi tập)
Một người bạn thân đi vào Nam để lo việc chống ngăn quân Pháp, Trương Đăng Quế làm thơ tiễn, đồng thời gửi gắm tình ý qua bài:
Tống Gia Định Phương Bá Huỳnh Kiện Trai
(Tiễn đưa Gia Định Phương Bá Huỳnh Kiện Trai)
Dịch nghĩa:
Ông với tôi kết giao đã ba mươi năm nay, chúa cũng biết,
Một đời ông ngay thẳng nên được mọi người tôn trọng.
Nay ông đi vào Nam, tôi làm thơ giãi bày nỗi buồn mùa thu,
Đông Phố [21] đang lúc thiết tha mong đợi cảnh thịnh trị.
Nơi đó đất ruộng rất màu mỡ, việc cày bừa gieo trong thuận lợi,
Nhưng nhân dân vừa trải qua nạn binh lửa, ông nên vỗ về họ.
Chính tôi từng đặt bước tới đó [22] để liệu biện công việc,
Và thấy nơi đấy phảng phất như cảnh Đào nguyên.
(Trương Quảng Khê thi tập)
Chú thích
  1. ^ Theo [1]. Nguyễn Đình Đầu ghi là "làng Mỹ Khê Tây".
  2. ^ Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 430.
  3. ^ Theo Quốc triều sử toát yếu (bản dịch), tr. 145.
  4. ^ Đại kế là kỳ xét công các quan để nghị thưởng, cứ 3 năm tổ chức một kỳ.
  5. ^ Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 446-447.
  6. ^ Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 448.
  7. ^ Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 449-451.
  8. ^ Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 454-456.
  9. ^ Trích trong Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 464) và bài Tựạ của Phan Thanh Giản đề cho Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự.
  10. ^ Quách Thị Thu Hiền, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1860.
  11. ^ Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I, tr. 214). Những chữ nằm trong dấu ngoặc kép được trích trong Đại Nam thực lục, tập 17, tr. 290 (ghi chú của tác giả).
  12. ^ a ă Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 431.
  13. ^ Lược kể theo Quốc triều sử toát yếu (tr. 266-269) và Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 433-434).
  14. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 435.
  15. ^ Đại Nam thực lục (Tập 6). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007, trang 1040-1041.
  16. ^ Theo Quách Thị Thu Hiền, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1860.
  17. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 459 và 464.
  18. ^ Lược theo Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập thượng, tr. 13-16) và bài viết ở đây: [2].
  19. ^ Phần hậu duệ lược kể theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 464-466.
  20. ^ Chỉ Lê Văn Khôi.
  21. ^ Đông Phố, nghĩa hẹp chỉ tỉnh Gia Định, nghĩa rộng chỉ chung cả 6 tỉnh Nam Kỳ.
  22. ^ Ý tác giả muốn nhắc đến lần đi kinh lý xứ Nam Kỳ vào năm 1836.

Sách tham khảo

  • Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2004.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều sử toát yếu (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
  • Nguyễn Đình Đầu, phần Địa lý lịch sử thành phố trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
  • Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập Thượng),Sài Gòn, 1962.
  • Quách Thị Thu Hiền, mục từ "Trương Đăng Quế" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.



Danh thần Trương Đăng Quế : Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương 
 Lê Ngọc Trác


Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu Đoan Trai, Quảng Khê, xuất thân trong một gia đình nhà Nho thanh bạch. Ông sinh vào năm 1794 tại làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi (có tài liệu cho rằng: ông sinh tại làng Mỹ Lại thuộc huyện Bình Sơn, nhưng chính xác làng Mỹ Khê thuộc xã Tịnh Khê, quận Sơn Tịnh).






Ông là một người thông minh, hiếu học. Năm 1819, Gia Long năm thứ 18, Trương Đăng Quế đổ Hương tiến tại trường thi hương Thừa Thiên. Có thể coi Trương Đăng Quế là người khai khoa đầu tiên của Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn.






Minh Mạng là một vị vua thông minh, hết lòng chăm lo việc nước, sáng suốt trong việc dùng người. Dưới thời Minh Mạng những người được bổ nhiệm làm quan đều có thực tài và thực học (không câu nệ bằng cấp). Trương Đăng Quế là một người tài năng, có tầm hiểu biết rộng về chính trị, văn hoá và quân sự. Chính vì vậy, tuy Trương Đăng Quế chỉ thi đậu hương tiến, năm 1820, vua Minh Mạng vẫn mạnh dạn bổ ông vào làm hành tẩu bộ lễ. Đến năm 1831, bổ nhiệm ông làm việc ở Hàn Lâm Viện và được vua Minh Mạng phân công dạy các hoàng tử và công chúa. Ông được thăng tiến nhiều chức vụ quan trọng: Thượng Thư bộ lễ, bộ lại, bộ công và bộ binh. Năm 1833, năm 1835, Trương Đăng Quế lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược chỉ huy đánh giặc Thổ phỉ ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Hoá để an dân. Năm 1836, tiếp tục lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ. Trương Đăng Quế chỉ đạo việc đạt điền lập địa bạ công điền công thổ ở các tỉnh phía Nam tổ quốc. Và, quy hoạch, phân chia địa giới từ cấp làng, xã đến tỉnh trong toàn miền Nam, tạo cho nhân dân có cuộc sống an cư lạc nghiệp. Theo Sử gia Trần Trọng Kim: “Công cuộc kiểm tra lập địa bạ định lại việc đinh điền và thuế khoá ở Nam Kỳ vào năm 1836 đã tạo cho đất nước có bước phát triển vững chắc về kinh tế và quốc phòng. Toàn Nam Kỳ sau khi đạt điền, đã tính ra được số ruộng đất đưa vào sản xuất lên đến trên 630.075 mẫu. Các thứ thuế điền thổ cũng được định lại một cách tương đối hợp lý”. Năm 1853, ông lãnh sứ mệnh kinh lược xứ Bắc Kỳ để lãnh đạo việc đắp đê điều lo phát triển kinh tế cho các tỉnh ở phía Bắc.






Trương Đăng Quế được triều đình cử làm Chánh chủ khảo các kỳ thi Hội vào các năm 1835, 1838 và thi Đình vào các năm 1838, 1844,… nhằm tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Dưới triều Minh Mạng, ông là một đại thần của viện Cơ mật, được thăng Hiệp điện đại học sĩ. Đời vua Thiệu Trị, Trương Đăng Quế là Phụ chánh đại thần, Văn minh điện đại học sĩ. Sang đời vua Tự Đức, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được phong tước Tuy Thạnh Quận công. Trương Đăng Quế được cử làm Tổng tài ở Quốc sử quán chủ biên các bộ sách lớn của Triều Nguyễn: Đại Nam thực lực tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam hội điển toát yếu,…






Dưới thời Tự Đức, trước tình hình binh lực hùng mạnh và tân tiến của Pháp, nhiều người lo sợ, muốn giảng hoà với giặc. Trương Đăng Quế là người cầm đầu phe chủ chiến tại Triều đình, quyết tâm đánh Pháp đến cùng (năm 1861, Pháp chiếm Định Tường, Thượng thư bộ hộ Nguyễn Bá Nghi làm khâm sai kinh lý ở Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết không thể chống được quân Pháp đã dâng sớ về triều xin nghị hoà với Pháp. Trương Đăng Quế cực lực phản đối, ra lệnh cho Nguyễn Bá Nghi phải tìm mọi kế để đánh Pháp bảo vệ đất nước).






Năm Tự Đức thứ 16 (1863), sau nhiều lần xin cáo lão từ quan, Trương Đăng Quế mới được triều đình đồng ý cho nghỉ hưu. Ông trở về quê hương Quảng Ngãi sống một cuộc sống thanh bần như một người dân quê bình thường.


Trương Đăng Quế mất vào ngày 14 tháng 2 năm Ất Sửu (1865), thọ 73 tuổi. Nghe tin ông qua đời, vua Tự Đức bãi triều 3 ngày tổ chức quốc tang, ban tặng ông hàm Thái sư tên thụy là Văn Lương.


Trương Đăng Quế là một nhà thơ lớn của Triều Nguyễn.






Xuân giang khúc






Tạc dạ vũ thủy hạ


Xuân giang vi lãng sinh


Thiếp tâm hữu sở cảm


Diên ngạn tự vi hành






(Đêm qua có mưa nhỏ


Lòng sông sóng gợn mờ


Lòng em sao xuyến bấy


Ven sông bước bước hờ)






Bản dịch của Hoàng Tạo






Đọc bài ca sông xuân của Trương Đăng Quế, chúng ta nhận thấy một vị quan đại thần, một nhà chính trị kiệt xuất của Triều Nguyễn có một tâm hồn rộng mở và cũng đầy lãng mạng.


Giáo sư Vũ Khiêu đã có những nhận xét tinh tế về thơ của Trương Đăng Quế: “Thơ của ông sâu sắc về nội dung, chặt chẽ về cấu trúc, tràn đầy tình yêu và đạo lý làm người, đặc biệt là tấm lòng của ông đối với quê hương Quảng Ngãi”.






Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương






Xuân phong tống chinh nghích


Thuấn tức việt trùng ba


Lộ chỉ cố hương quá


Tinh huyền du tử đa


Không hoài Tang tử Kính


Trùng xướng Thử miêu ca


Khởi lập thuyền đầu vọng


Dao thôn ẩn nguyệt la






(Gió xuân đưa nhẹ thuyền xuôi,


Liếc nhìn theo lớp sóng dồi xa xa.


Bên đường thấp thoáng quê nhà,


Tình vương lữ xót xa can trường


Nỗi niềm Tang tử mang mang,


Thử miêu ca khúc âm vang chẳng ngừng.


Dựa đầu thuyền ngóng mông lung


Nhà thôn dần khuất theo cùng chồi cây)






Bản dịch của Giáo sư Vũ Khiêu






Bài thơ trên, Trương Đăng Quế viết khi nhận lãnh trách nhiệm kinh lược xứ Nam Kỳ. Trương Đăng Quế và đoàn tùy tùng đi bằng đường biển, thuyền của ông đi sát dọc theo Quảng Ngãi quê hương ông. Nhưng vì mệnh vua và là một người có trách nhiệm với công vụ, không thể dừng lại thăm quê nhà, đứng ở đầu thuyền, nhìn về quê nhà, Trương Đăng Quế xúc động thành thơ với tấm lòng dạt dào thương nhớ quê hương.






Trương Đăng Quế sáng tác văn học rất nhiều. Những danh sĩ cùng thời với ông như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ đều rất quý mến ông về tài học và tài thơ. Trương Đăng Quế đã để lại cho đời những tác phẩm sau đây: Thiệu Trị văn gia, Quảng Khê thi văn tập, Học văn dư tập,…






Sự nghiệp chính trị của Trương Đăng Quế gắn liền với triều đình Nhà Nguyễn trong suốt thời kỳ đất nước và triều đình phong kiến Nhà Nguyễn còn tự chủ. Trương Đăng Quế đã có những đóng góp xuất sắc với lịch sử. Nhất là trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, văn chương và học thuật.






Tài liệu tham khảo:


- Từ ngàn xưa cho đến mai sau của Giáo sư Vũ Khiêu (2005).


- Đất thiêng người tài của Trường Lưu (Văn hiến số 5 – 2005).


- Tịnh khê xã Văn hiến của Cao Chư (VHNT số 7 – 2007).


- Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.


- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Bá Thế


Nguyễn Quang Thắng (1999).

Thái sư, Tuy Thạnh Quận công Trương Đăng Quế -

  Trương Quang Cảm


. Các tham luận tại hội thảo khoa học về Trương Đăng Quế lần 1, Sở Văn hóa thông tin và thể thao, Quảng Ngãi, 1994.


2. Cao Văn Chư, Nhìn lại Sơn Mỹ, Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình, 1988.


3. Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1993.

4. Đoàn Thu Vân, Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỷ XI thế kỷ XIV, Luận án phó tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 1995.

5. Huỳnh Như Phương, Dẫn vào tác phẩm văn chương, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1986.

6. Lê Bá Hán và các tác giả khác, Tự điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1992.


7. Lê Trí Viễn, Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ X - Giữa thế kỷ XIX, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 1985.

8. Lê Trí Viễn, Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
9. Lê Trí Viễn và các tác giả khác, Lịch sử văn học Việt Nam tập 3, NXB Giáo dục, 1976.

10. Ngô Văn Chương, Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lý xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1973.

11. Nguyễn Công Trứ, Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn học Hà Nội, 1983.


12. Nguyễn Du, Thơ chữ Hán, NXB Văn học, Hà Nội, 1988.

13. Nguyễn Đắc Xuân, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, NXB Thuận Hóa, Huế, 1992.

14. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội, 1993.

15. Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển, Hội văn học bình dân Sài Gòn, 1960.


16. Nguyến Khắc Thuần, Thế thứ các triều vua Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.


17. Nguyễn Khuê, Tâm trạng Tương An Quận Vương qua thi ca của ông, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970.

18. Nguyễn Lộc, Nguyễn Du con người và cuộc đời, NXB Đà Nẵng, 1990.
19. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Đại học, Hà Nội, 1976 tập I.

20. Nguyễn Minh Tấn và các tác giả khác, Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, 1988.

21. Nguyễn Q. Thắng- Nguyễn Bá Thế, Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB KHXH, Sài Gòn, 1993.


22. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1968.

23. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Khuê, Trần Khuê, Sài Gòn Gia Định qua thơ văn xưa, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1987.

24. Nguyễn Thông, Tác phẩm Nguyễn Thông, Sở Văn hóa thông tin, Long An, 1984.


25. Nguyễn Văn Khôn, Hán Việt Từ Điển, NXB Khai trí, Sài Gòn, 1960.

26. Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh , Trương Đăng Quế cuộc đời và sự nghiệp – NXB Văn học, 2008.


27. Phạm Trung Việt, Non nước xứ Quảng tân biên, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1971.

28. Phạm Trung Việt, Khuôn mặt Quảng Ngãi, NXB Nam Quang, Sài Gòn, 1973.

29. Phạm Văn Diêu, Văn học Việt Nam, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1960.

30. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 5 (Việt Nam kháng Pháp sử), Thư lâm ấn quán, Sài Gòn 1962.


31. Phương Lựu, Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, 1985.

32. Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, NXB Nghĩa Bình, 1990.

33. Quốc Sử Quán, Đại Nam chính biên liệt trụyện, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.

34. Đại Nam nhất thống chí quyển 6, tỉnh Quảng Nghĩa, Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1964.

35. Đại Nam thực lục chính biên, quyển 28 tập 30, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.


36. Quốc triều chánh biên toát yếu, Nhóm nghiên cứu sử địa, Sài Gòn, 1972.

37. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Tân việt, 1958.

38. Trần Văn Giàu và các tác giả khác, Địa chí thành phố Hồ Chí Minh, NXB Khoa học Xã hội, 1987.

39.Trần Mạnh Thường, Các tác giả văn chương Việt nam, NXB Văn hóa thông tin 2009.


40. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân tự điển, Tu thư Siêng học, Sài Gòn, 1966.
41. Trương Quang Gia, Học văn dư tập (bản dịch)

42. Tùng Thiện Vương, Thơ Tùng Thiện Vương, NXB Thuận hóa, Huế, 1994.

43. Ưng Trình - Bửu Dưỡng, Tùng Thiện Vương, tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1970.


44.Vũ Ngọc Khánh, Mai Am công chúa, NXB Thuận Hóa, 1992.

45. Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội sử học Việt Nam, Hà Nội, 1993.


II. Tạp chí:


1. Bửu Kế, Khi viết về giặc chày vôi ông Nguyễn Quang hay tôi xuyên tạc lịch sử? Tạp chí Bách khoa số 84 - 85, Sài Gòn 1-7-1960 vài 15-7-1960.


2. Lê Trí Viễn, Một đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam: Vô ngã - Tạp chí Thông tin khoa học 1985.


3. Minh Tú - Đôi điều hiểu biết về Trương Đăng Quế, Tạp chí Toàn cảnh, số11, Tp. Hồ Chí Minh, 1992.


4. Nguyễn Quang. Minh oan Hồng Bảo và Đoàn Trưng, Tạp chí Phổ thông, số 40, Sài Gòn 15/8/1960.


5. Nguyễn Quang. Giặc chày vôi của Đoàn Trưng mưu toan truất phế vua Tự Đức như thế nào? Tạp chí Phổ thông, số 31-32, Sài Gòn 1/4/1960.


6. Nguyễn Viết Trung, Bài thơ Cù Huân Vãn Bạc trong Học văn dư tập của Trương Đăng Quế, Tạp chí Trầm hương Khánh Hòa tháng 8/1992.


7. Trúc Khê Bài tựa của Trương Đăng Quế giới thiệu Mai Am với tập thơ “Diệu Liên thi tập”, Tạp chí Văn học, số 150 ra ngày 1/7/1972 Sài Gòn.


8. Trương Quang Cảm, Chống tham nhũng dưới triều Nguyễn, Tạp chí Thế giới mới, số 52/1993.


9. Trương Quang Cảm, Minh oan Trương Đăng Quế, Tạp chí Cảo thơm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật và đời sống, số 2 /1992.


10. Trương Quang Cảm, Quảng Khê thi tập (tức Học văn dư tập) tác phẩm bị bỏ quên, Tạp chí Dân trí, số 19/1995.


11. Trương Quang Cảm, Tác phẩm Học văn dư tập Trương Đăng Quế, Tạp chí Nha Trang, số 6 -1992.


III. Bộ gia phả dòng họ Trương










MỤC LỤC






Chương I: Đời người 04


1. Quê hương 04


2. Gia đình 08


3. Bản thân 10


Chương II: Mạch thơ Mặc Vân 22


1. Tao đàn Mặc Vân 25


2. Quan điểm thơ 31


3. Các đề tài thơ 35


4. Thể thơ 50


5/ Ngôn ngữ thơ 51


Chương III: Thơ Học văn dư tập 60


1. Tấm lòng trung quân ái quốc 60


2. Tình yêu thiên nhiên đất nước quê hương 68


3. Tình gia đình 93


4. Tình bằng hữu 128


5. Tình bác ái 141


6. Nỗi niềm tâm sự 151


Kết luận 162


Phụ lục 169


1. Hà Nội hoài cổ, Thăng Long thành hoài cổ, hai bài thơ một tâm hồn 170


2. Chuyện tình lãng mạn của Thái sư Trương Đăng Quế 175


3. Nhân cách Trương Đăng Quế 186


4. Văn bia của ông Trương Đăng Quế viết cho thân sinh là ông Trương Đăng Phác 193


Tư liệu tham khảo 198









TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ, ĐỜI NGƯỜI ĐỜI THƠ


Khảo luận của Trương Quang Cảm






Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Cừ


Biên tập: Triệu Xuân, Hồng Ngọc






Trình bày: Thiên Hương


Bìa: Họa sỹ Đỗ Duy Ngọc


Sửa bản in: Chi nhánh
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC


18 Nguyễn Trường Tộ - Hà Nội


ĐT: (84.4) 3829 4685 * Fax: (84.4) 3829 4781
E-Mail: NXBvanhoc@gmail.com
CHI NHÁNH TP HỒ CHÍ MINH


290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, TP.HCM


ĐT: (84.8)3 848 3481; 3846 9858


* Fax: 3 848 3481


E-Mail: xuantrieuwriter@gmail.com


Website: www.trieuxuan.info


__________________________________________


In … cuốn, khổ 14.5 x 20.5 cm tại Xí nghiệp in ….


Số đăng ký KHXB: 1133-2009/CXB/21-125/VH. Quyết định xuất bản số 919/QĐ-VH do NXB Văn học cấp ngày 23-12-2009. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01- 2009.

No comments: