Chúng tôi xin lưu ý quý đọc giả các tài liệu do tác giả Lê tùng Minh trích dẫn dưới đây phần đông là những tài liệu mật của CSVN. Rất tiếc không có những tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa hay của Mỹ để có thể đối chất. Mong quý độc giả lượng thứ cho!
Trần Bạch
Đằng trút hơi thở cuối cùng vào ngày 16 tháng 4 năm 2007, thì đài BBC
nhạy cảm
đã phỏng vấn liên tiêp 3 vị: Nhà báo Phan Quang nguyên Tổng Thư Ký Hội
Nhà Báo
Việt Nam sau 1975). Nhà văn Đặng Tiến
(cư ngụ tại Pháp quốc). Ông Bùi Tín , nguyên đại tá Tổng Biên Tập Báo
Nhân Dân
Chủ Nhật, tị nạn chính trị tại Paris (Pháp) từ năm 1990.
Đầu tháng 5-2007, trên
mạng lưới internet “Tin Paris” có xuất
hiện bài “Chiến tranh Việt Nam – Ván bài đã lật ngửa” của
ông/bà Lê Quế Lâm (?), mà nôi dung chính là viết về
Trần Bạch Đằng,
nhưng trong đó – không biết tác giả nghiên cứu từ nguồn tài liệu nào,
hay nghe
ai nói, chẳng lẻ Trần Bạch Đằng đã kể cho tác giả nghe ?
Tuy không biết tường tận mọi
điều về ông
Trần Bạch Đằng, nhưng chúng tôi hiểu khá rõ trên những nét căn bản về
ông. Cho
nên, chúng tôi công bố bài viết này, và có những chi tiết ( sự thật)
không đúng
như các vị ở trên nói! Chúng toi không có ý nói ai sai, ai đúng, mà chỉ
mong,
với bài nghiên cứu này, có thể cống hiến cho bạn đọc ở hãi ngoại - đặc
biệt đối
với những ai muốn biết về ông Trần Bạch Đằng --
NGƯỜI CỘNG SẢN ĐA TÀI, NHƯNG
BẤT ĐẮC CHÍ CHO ĐẾN KHI NHẮM MẮT, LÌA ĐỜI!
Trần Bạch Đằng tên thật là Trương Gia Triều, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926 tại Giồng Riềng - Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay). Cha ông là một nhà báo nổi tiếng ở Ban Kỳ, trong những năm 1930 – ông Trương Gia Kỳ Sanh (xin đừng nhầm lẫn vói “Trương Gia Kỳ Sanh”, dân biểu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa – Miên Nam Việt Nam – 1965-1975).
Năm 17 tuổi (1943) Trương
Gia Triều vừa
tốt nghiệp Ban Thành Chung (Diplôme), thì không học tiếp Ban Tú Tài
(Baccalauréat) mà đi tham gia Phong Trào
Thanh Niẻn Giải Phóng do Xứ ủy Cộng sản Nam kỳ lãnh đạo” (1944).
Trương Gia
Triều được phân công làm công tác vận động Thanh niên và Học sinh –
Sinh viên
thành phố Sàigòn. Trương Gia Triều đổi tên là Trần Bạch Đằng từ đó.
Cuối năm
1944, Trần Bạch Đằng đã được Thành ủy Cộng Sản Sàigòn kết nạp vào Đảng
CSVN.
Mùa Thu năm 1945, Trần Bạch
Đằng được
Thành ủy Sàigòn cử làm Đoàn trưởng Thanh Niên Cứu Quốc Thành phố Sàigòn
(năm 20
tuổi), để lãnh đạo Thanh Niên Sàigòn tham gia cướp chính quyền tại
Sàigòn
(23-8-1945). Trong những ngày Cách Mạng
Tháng Tám do Đảng CSVN lãnh đạo (núp dưới danh nghĩa Mặt Trận Việt
Minh), Trần
Bạch Đằng đã được Xứ ủy Cộng sản Nam kỳ (do Trần Văn Giàu làm Bí thư)
đánh giá
là “một Cán bộ Lãnh đạo Thanh niên đầy
triển vọng!” (Theo lời của Giáo sư Trần Văn Giàu)
Tháng 9 năm 1945, lịch sử
Việt Nam lại
bước vào cuộc chiến tranh mới! Phía Bắc thì quân Quốc Dân Đảng Tàu (của
Tưởng
Giới Thạch) so tướng Lư Hán cầm đầu, dưới danh nghĩa Đồng Minh “tước
khí giới
quân Nhật”, tran ngập từ Lạng Sơn đến vĩ tuyến 16, đê dọa sự sống còn
của chế
độ Cộng sản non trẻ (với danh nghĩa Nhà nước Viêt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa). Ở Nam
bộ, ngày 23 tháng 9 năm 1945, cướp chính quyền mới được một tháng
(23/8/1945 –
23/9/1945) quân Pháp đã theo gót quân Đồng Minh Anh-Ấn, tiến vào tái
chiếm
Saigòn … Nam Bộ Kháng Chiến bắt đầu từ
23-9-1945, đánh giặc trước cuộc Kháng Chiến Toàn Quốc (19-12-1946) đến
gần một
năm!
Sau những
ngày lãnh đạo Thanh niên, Học sinh-Sinh viên Sàigòn chiến đấu một cách
kiên
cường trên các đường phố Sàigòn, lan ra cả Chợlớn và Gia Định … Nhưng vì lực yếu, thế yếu, nên, Trần Bạch
Đằng cũng như bao Cán Bộ lãnh đạo của các đoàn thể khác, của các ngành
thuộc
chính quyền Nam bộ nói chung, của Sàigòn nói riêng, đã được Đảng ra
lệnh rút
vào bưng biền, lập chiến khu, tiến hành Trường
Kỳ Kháng Chiến! Và cuộc đời tham gia cách mạng của Trần Bạch Đằng
cũng tiến
nhảy vọt từ đây!
Năm 1946, Trần Bạch Đằng được Xứ ủy Cộng sản Nam bộ (do Lê Duẫn ở tù Côn đảo về, làm Bí Thư. Trần Văn Giàu đã bị gọi ra Việt Bắc) cử làm Phó Bí Thư Xứ Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ (Anh Trần Nam Hưng làm Bí thư Xứ Đoàn). Đầu năm 1947, anh Trần Nam Hưng trong một chuyến đi công tác xuống địa phương Đồng Tháp, đã bị lính Pháp bắn chết trong một trận đại càn quét chiến khu Đồng Tháp Mười Cuối năm 1947, Trần Bạch Đằng đã được Lê Duẫn trực tiếp chỉ định lên giữ chức Bí Thư Xứ Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc (TNCQ) Nam Bộ, đồng thời là Xứ ủy viên dự khuyết Xứ ủy Cộng sản Nam bộ (Trần Bạch Đằng vừa đúng 22 tuổi).
TạI sao Lê
Duẫn không chọn ai khác
(như Mai Thế Đồng, Phó Bí thư xứ đoàn, Võ Văn Kiệt Tỉnh ủy viên Cộng
sản kiêm
Bí thư Tỉnh Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc tĩnh Bạc liêu) mà chỉ chọn Trần
Bạch Đằng?
Theo
lời của ông Ung Văn Khiêm, Thường vụ
Xứ ủy Cộng sản lúc ấy (1947-1954) giải thích cho một số Cán bộ cấp Nam
bộ, có
thắc mắc, rằng: “Đồng chí Trần Bạch Đằng,
tuy trẻ tuổi, nhưng có quá trình tham gia cách mạng tử tiền khởi nghĩa.
Hơn
nửa, đồng chí Trần Bạch Đằng có thành tích trong công tác vận động
Thanh niên,
Học sinh-Sinh viên, khó có cán bộ Thanh niên cùng lứa tuổi, hoặc lớn
hơn, có
khả năng như đồng chí ấy! Anh Ba Duẫn đã nhìn thấy tài năng tiềm ẩn của
đồng
chí Trần Bạch Đằng, nên mới mạnh dạn giao nhiệm vụ lãnh đạo Thanh Niên
Nam bộ
cho đồng chí ấy!” (Theo tư liệu “Lịch Sử Thanh Niên Cứu Quốc Nam
Bộ” – lưu
trử tại Thư viện KHXH thành phố HCM) – (Sau 1954, ông Ung Văn Khiêm là
ủy viên
Bộ Chính Trị kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, rồi Bộ trưởng Nội vụ)
Xứ Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc
Nam Bộ có vai
trò rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam
bộ: Động
viên Thanh Niên đi tòng quân, gia nhập Vệ Quốc Đoàn, giết giặc nơi tiền
tuyến.
Động viên Thanh niên, Thanh nữ tham gia Dân quân Du kích, xây dựng
“làng chiến
đấu” ở các địa phương, để bảo vệ hậu cứ kháng chiến trên toàn Nam bộ…
Nhờ vậy,
Nam Bộ mới có khả năng cùng với nhân dân cả nước tiến hành Trường Kỳ
Kháng
Chiến đến thắng lợi (7-1954). Trong thành tích đó, công lao của Trần
Bạch Đằng
không nhỏ. Ông đã cùng đội ngũ Cán bộ lãnh đạo Thanh Niên Cứu Quốc toàn
Nam Bộ,
vận động và tổ chức Thanh niên-Thanh nữ các giới (công hân, Nông dân,
Trí thức)
tham gia kháng chiến chống Pháp, trên các mặt trận: Quân sự, Kinh tế,
Chính trị
và Văn hoa-Xã hội. Có thể nói: Không có
Thanh Niên Cứu Quốc cuộc kháng chiến
chống Pháo sẽ không thành công!
Tuy còn trẻ
tuổi, nhưng Trần Bạch
Đăng đã được nhiều Cán bộ lãnh đạo Thanh niên ở Xứ
Đoàn, cũng như ở các
Tỉnh Đoàn, Huyên Đoàn (lớn tuổi hơn) ĐỀU KHÂM PHỤC TÀI
ĐỨC CỦA Anh! Mai Thế Đồng, 27 tuổi (lớn hơn
Trần Bạch Đằng 5 tuổi) là Phó Bí Thư Thường trực Xứ Đoàn, đã có nhận
xét về
Trần Bạch Đằng như sau: “Đồng chí Trần
Bạch Đằng tuy nhõ tuổi nhất trong hang ngũ cán bộ lãnh đạo của Xứ Đoàn,
nhưng
đồng chí ấy có đủ tư cách hơn ai hết để giữ trọng trách Bí thư Xứ đoàn
Thanh
Niên Cứu Quốc Nam Bộ! Đồng chí Trần Bạch Đằng vừa có tài nhưng không tự
cao,
vừa có đức nhưng không tự mãn, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
cấp dưới.
Đồng chí Trần Bạch Đằng, qua kiểm nghiệm của thực tiển , đã xác nhận
đồng chí
ấy là con người của quản đại quần chúng! Đồng chí Trần Bạch Đằng là
điển hình
gương mẩu nhất trong chúng tôi về việc thực hiện “chính sách 3 cùng “:
Cùng ăn,
cùng ở, cùng làm với nhân dân, trong khi đi công tác ở các địa phương” (Tư liệu “Lịch sử TNCQ Nam Bộ”, đã dẫn)
(Mai Thế Đồng, tên
thật là Nguyễn Văn
Sung sinh quán tại làng Viên An, huyện Long Phú, tỉnh Sóc trăng. Sinh
ra trong
gia đình phú hào, anh cắp sách đến trường từ lúc 6 tuỗi (1926) và 12
năm sau,
anh thi đổ Tú Tài toàn phần (1938). Anh chuẫn bị đi sang Pháp du học
thì chiến
tranh thế giới làn thứ II sắp bùng mỗ (1939-1940). Năm 1941 anh được
người chú
là đảng viên Cộng sãn kéo anh tham gia Nam Kỳ Khởi Nghĩa . Sau khi Nam
kỳ Khởi
nghĩa bị thất bại, anh phải tị địa về Tân Trụ (Tân An). Ở Tân Trụ, anh
được ông
Nguyễn Văn Trấn giác ngộ, và gia nhập Đảng CSVN (1948). Mùa Thu năm
1945, anh
được Đảng điều động trở về quê hương làm Đoàn trưởng Thanh niên Cứu
Quốc tỉnh Sóc trăng. Khi giặc Pháp tái
chiếm Sóc trăng
ở Bạc liêu, anh rút vào bưng, và được Đảng cử làm Phó Bí Thư Xứ Đoàn
TNCQ Nam
bộ, cùng lúc với Trần Bạch Đằng. Sau 1954, anh ở lại miền Nam, làm Phó
Bí thư
tỉnh ủy Cộng sản bí mật tỉnh Cần thơ. Anh là một trong những cán bộ
cộng sản,
đã công khai tranh luận chủ nghĩa Marx với ông Nguyễn Trân tỉnh trường
Mỹ Tho
hồi 1956.
Cuộc Kháng Chiến Nam Bộ có
nột giai đoạn
được gọi là “Quá Chỉnh Vi Linh” Đó là
nhưng năm 1949-1951! Những năm này, giặc Pháp tập trung lực lượng càn
quét mạnh
ở chiến khu Đồng Tháp nhằm hủy diệt căn cứ đầu nảo của Nam bộ. Do đó,
các cơ
quan Nam Bộ phải di chuyễn về chiến khu IX, và U Minh Hạ được coi là
“An Toàn
Khu” của các cơ quan đầu nảo Nam Bô. Giai đoạn này, tinh thần “cầu an
sợ chết”
nảy sinh khá mạnh trong hang ngủ Vệ Quốc Đoàn, trong các đơn vị đang
trú đúng
tiếp cận với vùng địch chiếm. Do đó, tình trạng bỏ ngũ về địa phương,
cưới vợ,
đi buôn bán … Tệ hại nhất là, trong vùng giải phóng,
ở địa phương nào có binh sĩ hay cán bộ đào
ngủ, thì có sự tụ tập
ăn nhậu, đàn ca vọng cổ thâu đêm suốt sáng . Đây chính là nỗi lo lắng
lớn nhất
đối với những Cán bộ Lãnh đạo cuộc Kháng chiến Nam bộ!
Lúc bấy giờ, Lê Đức Thọ đang
là Phó Bí
Thư thường trực Xứ ủy Cộng sản Nam Bộ, đã chủ trương: “Phái
Vệ binh vũ trang đi bắt Cán bộ, Binh sĩ đào ngủ về nhốt và lập
tòa án binh xử án thật nặng để răn
những kẻ khác; cấm nấu rượu và bán rượu, nếu ai không
chấp hành sẽ bị bắt vô Trại Giáo Hóa và tịch thu toàn bộ tài sản;
cấm đàn ca vọng cổ, nếu ai không tuân lệnh thì tịch thu đàn, đập bỏ, và
bắt đi
làm khổ sai môt đến hai năm ờ trong rừng sâu.”(Chủ trương miệng chớ
không
cò giấy tờ, và Lê Đức Thọ đã được dân Kháng C hiến Nam Bộ tặng cho biệt
hiệu
“Sáu Búa” từ đó – Theo tiêt lộ của ông Hoàng Dự Khương, chánh ủy Phân
Liên Khu
Miền Tây Nam Bộ vào những năn 1952-1954)
Có vài Cán bộ Xứ ủy đả ra
mặt phản đối
chủ trương cực đoan này của “Sáu Búa”, trong đó có Trân Bạch Đằng. Tại
cuộc họp
Xứ ủy mở rộng, vào tháng 12-1950, ở một địa điểm trong xã Khánh Lâm,
huyện Trần
Văn Thời, để “Kiểm Điểm Chủ Trương Dân
Vận Phục Vụ Kháng Chiến” trong 2 năm 1949-1950, Trần Bạch Đằng đã
phát
biểu, có đoạn như sau:
“Chúng
ta chủ trương cấm nấu rượu và bán rượu, đồng thời bắt đi Trại Giáo Hóa
và tịch
thu tài sản, nếu ai không chấp hành chủ trương của chúng ta, thật là
phạm sai
lầm về chính sách Dân vận! Bởi vì, chính sách Dân vận của chúng ta là
“Động
viên mọi tài lực của nhân dân để phục vụ kháng chiến thành công! Những
người
nấu rượu và bán rượu đều có đóng thuế cho kháng chiến. Có lý nào chúng
ta coi
họ như tòng phạm, bắt giam ở Trại Giáo Hóa, mà còn tịch thu tài sản
nửa. Rõ
ràng là không có luật pháp gì hết! Hậu quả của sự sai lầm này không thể
lường
hết được, Cái hại trước mắt là có hang trăm gia đình nấu rượu và bán
rượu vì
quá sợ hải, đã cuốn gói chạy vào sống ở cùng địch chiếm. Còn chủ trương
cấm ca
vọng cổ, tịch thu đàn, đập bỏ, còn bắt người đi làm khổ sai, thật là
khó tưởng
tượng. Chủ trương cực đoan đó, tự mình
cô lập mình đối với sinh hoạt văn hóa truyền thống của nhân dân Nam Bộ,
cũng có
nghĩa là chúng ta đã hủy diệt một nét
văn hóa truyền thống của dân gian Nam Bộ, và hậu quả là đã gây nên sự
bất mãn
lan rộng trong quần chúng nhân dân, hoàn toàn bất lợi cho cuộc kháng
chiến
chống Pháp, bởi vì quần chúng sẽ xa lánh và không ủng hộ chúng ta!
Nhưng, kết
quả thì chúng cũng không cấm được. Không cho ca hát ban ngày, thì họ ca
hát vào
ban đêm. Không cho họ ca hát trong nhà, thì họ kéo nhau ra giũa đồng
nội hay
vào rừng để ca hát …Đau lòng lắm! Nếu các đồng chí đi “3 cùng” với quần
chúng,
sẽ nghe họ lên án “Luật Rừng” đó của chúng ta!” (Theo hồ sơ “Biên
Bản” các
cuộc họp của Xứ ủy Nam Bộ trong thời Kháng chiến chống Pháp - tập
1949-1950,,
lưu trữ tại Cục Lưu trữ Trung Uơng).
Vì dám nói thẳng như vậy,
cho dù cách lý
giải của Trần Bạch Đằng còn có kẻ hở, nhưng Lê Đức Thọ vẫn không thích!
Và từ
đó “Sáu Búa” đã ghìm không cho Trần Bạch Đằng trở thành Xứ ủy viên
chính thức,
mà xét theo tiêu chuẩn về tài lẩn đức thì Trần
Bạch Đằng rất xứng đáng và đủ tư cách ngồi vào ghế Xứ ủy viên chính thứ
tư
1950!
Trong
những năm “Quá Chỉnh Vi Linh”, Trần
Bạch Đằng đã chủ động đề nghị với Ban Thường Vụ Xứ ủy, cho phép Xứ Đoàn
phát
động “Phong
Trào Thanh Niên Cứu Quốc tình nguyện Vì Tổ Quốc Quên Mình, Vì Nhân Dân
Hy
Sinh!”
Và sau khi là lể phát động phong trào tại ATK (An Toàn Khu) , Trần Bạch Đằng và cả ủy viên Xứ Đoàn (chỉ để lại một ủy viên thưòng trực cơ quan) phân công nhau, đi xuống các địa phương, trực tiếp chỉ đạo phát động phong trào tận cơ sở xã ấp.Riêng Trần Bạch Đằng trực tiếp chỉ đạo 2 tỉnh Rạch Giá và Bạc-Liêu. Đây là hai tỉnh có vùng giải phóng rộng nhất, nên cán bộ, binh sĩ đào ngũ ở các tĩnh khác như Bến Tre, Cần Thơ, Long Châu Hà, Long Châu Sa, cũng chuồn về hai tỉnh nổi tiếng “ăn nhậu đờn ca vọng cổ” này.
Căn cứ vào thực trạng ăn
chơi của đám
thanh niên “cầu an hưởng lạc” đó, Trần Bạch Đằng quyết Định thuyết phục
và giác
ngộ họ bằng “Phương Thức Văn Nghệ” Trần Bạch Đằng đề nghị với Huỳnh Văn
Tiểng –
Giám đốc Sở Thông Tin Văn hóa Nam Bộ - chỉ đạo cho can bộ văn nghệ nào
có khả
năng sáng tác Vọng Cổ, tập trung sang tác những bài ca vọng cổ “ca
ngợi những anh hùng chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam. Ca ngợi
những anh
hùng liệt sĩ chóng Pháp. Và ca ngợi, động viên Thanh Niên đi tòng quân
giết
giặc cứu nước, cứu nhà. Ca ngợi những cuộc tình chung thủy: Chồng hăng
hái đánh
giặc ở tiền tuyến, vợ tích cực sản xuất ở hậu phương … “ Sở Văn hóa-Thông tin chịu trách nhiệm in và
phổ biến khắp trong hai tỉnh Rạch Giá và Bạc-Liêu. Đồng thời, Trần Bạch
Đằng
cũng đề nghị thành lập một “Đoàn Ca-Múa-Kịch” gọn nhẹ, giao cho hai
nhạc sĩ
Trần Kiết Tường, bà Trương Bỉnh Tòng phụ trách, đi cùng Đoàn phát động
phong
trào do chính Trần Bạch Đằng chỉ đạo, để biểu diễn sau buổi lể phát
động phong
trào, ở khắp trong hai tỉnh này.
Trong
thời gian này Trần Bạch Đằng mới trổ tài sang thơ và kịch để cho Đoàn
biểu
diễn. Ba vở kịch lịch sử của Trần Bạch
Đằng được quần chúng hoan nghênh nhất là: “Triệu
Trinh Nương phất cờ khởi nghĩa.”, “Lời Thề Bất Hủ của Trần Bình Trọng”
và “Người
Anh Hùng Áo Vải Nguyễn Trung Trực” (Không chỉ có sáng tác Kịch cho
“Đoàn
Ca-Múa-Kịch” biểu diễn, mà có khi Trần Bạch Đằng còn tham gia diễn
kịch. Ông đã
từng đóng vai Trần Bình Trọng rất xuất sắc.) Ông Huỳnh Văn Tiểng đã
nhận xét về
con người văn nghệ của Trần Bạch Đằng như sau: “Anh Trần
Bạch Đằng không chỉ giỏi về công tác Thanh Vận, nà anh còn có
khả năng Văn Nghệ nửa! Xem những vở kịch lịch sử của anh sáng tác, xem
nột số
bài thơ của anh viết, đã chứng tỏ khả năng và tâm hồn văn nghệ của
anh!” )Theo
lời kể lại của nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng)…
Chỉ trong vòng 6 tháng cuối
năm 1950,
Đoàn phát động “Phong Trào Thanh Niên Cứu Quốc Tình Nguyện Vì Tổ Quốc
Quên
Mình, Vì Nhân Dân Hy sinh” của Trần Bạch Đàng , đi tuyên truyền vận
động Thanh
niên tòng quân, kêu gọi những chiến sĩ bỏ ngủ trở về đơn vị, và tổ chức
động
viên “Hậu Phương Yểm Trợ Tiền Tuyền”, trong phạm vi hai tỉnh Rạch Giá
và
Bạc-Liêu, đã đạt kết quả rất khả quan: Hơn 200 cán bộ và chiến sĩ đang
bỏ ngủ
đã tự nguyện trở về đơn vị. Hơn 1000 Thanh niên tình nguyện tòng quân
giết giặc
cứu nước!
Trong thời
gian này, Trần Bạch
Đàng đã chủ trương cho một số cán bộ Đoàn (Từ Xứ Đoàn đến Tỉnh Đoàn và
Huyện
Đoàn) chuyển sang Vệ Quốc Đoàn, bổ sung cho đội ngủ Cán Bộ Chính Trị
trong quân
đội. Đồng thời,Trần Bạch Đằng cũng chủ trương tuyển chọn một số cán bộ
Đoàn có
học vấn, còn trẻ và có sức khỏe, cho đi thụ huấn ở các trường quân sự
(Quân
Chính Quang Trung hay Lục Quân Trần Quốc Tuấn) để đào tạo Cán Bộ Chỉ
Huy cho
quân đội. Chủ trương này của Trần Bạch Đằng đã được Xứ ủy thông qua, và
trở
thành chủ trương chung của các cơ quan Dân-Chính-Đảng Nam Bộ, với khẩu
hiệu: “Tất Cả Cho Tiền Tuyến”!
Khi cuộc
Kháng Chiến Toàn quốc bước vào giai đoạn“Chuẩn Bị Tổng Phản Công” (1952-1953) thì
cuộc
kháng chiến của Nhân dân
Nam bộ đã bước vào thế tấn công giặc Pháp ở khắp mọi nơi, Vùng giải
phóng đã mở
rộng đến sát căn cứ của giặc Pháp! Năm 1952,Trần Bạch Đằng đang ở tuổi
27
(1925-1952), nên không muốn ngồi trên xứ đoàn, lãnh đạo theo lối “Ông Qua Kháng Chiến” (theo lời chỉ
trích của một số cán bộ đang lăn lộn
ở
chiến trường!”.Cho nên, anh đã trực tiếp đề nghị với Lê Duẩn (Bí thư Xứ
ủy Cộng
sản Nam bộ) là nên để anh Nai Thế Đồng làm Bí thư Xứ đoàn TNCQ Nam bộ,
và cho
anh chuyển sang làm công tác Chính Trị ở một đơn vị tác chiến! Nhưng,
Lê Duẫn
không chấp thuận và khuyên Trần Bạch Đằng cố làm tốt hơn nửa công tác
lãnh đạo
Thanh Niên trong giai đoạn quyết định này!
Giữa tháng 12-1952, Xứ ủy
triệu tập cuộc
hội nghị mở rộng , nhằm tổng kết công tác chuẩn bị Tổng Phản Công, đồng
thời
xét duyệt công tác Nhân Sự, trong đó có duyệt xét việc đưa Trần Bạch
Đằng lên
Xứ ủy viên chính thức. Nhưng, Lê Đức Thọ thừa dịp tổng kết “công tác tư
tưởng”,
đã phê phán Trần Bạch Đằng rất nặng, là “có
thái độ coi thường công tác Thanh Vận,có tư tưởng đứng núi này trông
núi nọ,
chứng tỏ còn mang nặng tính chất Tiểu
Tư sản, nên cần phải tự tu và rèn luyện nhiều
hơn
nửa.”
(Theo Hồ
sơ Biên Bản các cuộc họp của Xứ ủy Nam Bộ, đã dẫn) Do đó,
Trần Bạch Đằng vẩn chưa được thừa nhận đủ tiêu chuẩn ngồi vào
ghế “Xứ ủy viên chính thức” (?!)
Về
vấn đề này, Trần Bạch Đằng có tâm sự với Mai Thế Đồng, người bạn-người
đồng chí
tin cậy nhất của anh ở Xứ Đoàn, rằng: “Lúc
ông Sáu Thọ chụp mũ tôi, nói thật là
tôi tức muốn ói máu, định cự thẳng với ông ta một mach, rồi ra sao thì
ra,
nhưng nhớ lại lời anh khuyên “chớ nên đụng thẳng với thằng cha Sáu Búa,
chỉ có
hại chớ không được cái giải gì hết!”, nên tôi đành nuốt sự tức giận vào
trong
bụng… Vì vậy mà cả ngày hôm sau, tôi không cần ăn cơm cũng thấy no.”
Sau
lời tâm sự của Trần Bạch Đằng, Mai Thế
Đồng đã viêt một nét châm biếm về Lê Đức Thọ như sau: “Quả
thật! Gả Sáu Búa thật đáng ghét hơn cả thằng cha Hương Quản ác ôn
của làng tôi. Sáu Búa vì muốn lấy vợ nhỏ, gả mới bày vẻ ra cái chỉ thị
kỳ cục rằng: “Nếu Cán bộ lãnh đạo nào mà đã xa vợ 300
ngày, nhưng không có điều kiện về quê thăm vợ, thì Đẳng cho phép cưới
vợ mới,
để có tinh thần kháng chiến cứu nước!” Thật
ra, gả Sáu Búa bày ra cái trò hề đó, chỉ là để cho gã và anh Ba D. của
gả cùng
nhau lấy vợ bé mơn mởn đào tơ, mặc cho hai bà vợ già ở xứ Nghệ mòn mỏi trông chờ!” (Theo
cuốn Hồi Ký
“Vui Buồn Kháng Chiến” của Mai Thế Đồng, chưa xuất bản, hiện lưu trữ
tại tủ
sách gia đình.)
Không được trực tếp làm Cán
bộ Chính trị
ở tiền tuyến, thì Trần Bạch Đằng trực
tiếp chỉ đạo Cán bộ Xứ Đoàn, Tỉnh Đoàn thực hiện chủ trương “Tích Cực
Tham Gia
Chuẩn Bị Tổng Phân Công”, bằng hành động thực tế là tiến hành ngay cuộc
vận
động, tổ chức “Phong Trào
Thanh Niên Cứu Quóc hăng hái gia nhập các “Đội Tuyên Truyền
Xung Phong” , ngay trong vùng địch chiếm, kêu gọi các giới: Học
sinh-sinh viên
bải khóa; công nhân-viên chức bải công; Thương gia-Tiểu thương bải thị,
góp sức
chuẩn bị cho cuộc Tổng Phản Công thắng lợi hoàn toàn!
Và chỉ trong vòng một
năm (1953), dưới sự trực tiếp của Trần
Bạch Đằng, hầu hết cácTỉnh Đoàn TNCQ thuộc
Nam Bộ đều tổ chức được “Đội Tuyên Truyền
Xung Phong” (TTXP). Riêng Xứ Đoàn đã thành
lập được một “Tiểu
đoàn Thanh niên Xung kích”. (TNXK). Các Đội viên của tiểu đoàn TNXK,
phần đông
được tuyển chọn từ những Thanh niên tiên tiến ở các địa phương thuộc
Phân Liên
Khu Miền Tây Nam Bộ. Nhiệm vụ của Tiểu
đoàn TNXK là: “Đi bất cứ nơi nào, làm bất
cứ việc gì, khi cuộc kháng chiến cần! Không từ nan bất cứ nhiệm vụ nào
của Nhân
dân, Đoàn và Đảng giao phó! Hoàn thành xuất mọi công tác Chuẩn bịTổng
Phản Công
cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp của Nhân dân ta thắng lợi hoàn
toàn!” (Theo
tư liệu Lịch Sử TNCQ, Nam Bộ đã dẫn) Nhiệm vụ này do Trần Bạch Đăng
viết và
trình lên cho Thường vụ Xứ ủy duyệt, đã bị Lê Đức Thọ vạch lá tìm sâu
rằng: “Đồng chí Trần Bạch Đằng có ý gì mà để Đảng
sau Đoàn và Nhân dân?Phải sửa lại là “Không từ nan bất cứ nhiệm vụ nào của
Đảng, Đoàn và Nhân dân giao phó!” (Theo Hồi Ký của Mai Thế Đồng, đã
dẫn).
Trong cuộc họp của Ban
Thường vụ Xứ Đoàn
TNCQ Nam bộ(1-1953), Mai Thế Đồng cắc cớ hỏi Trần Bạch Đằng rằng:“Anh đã gặp sao “ Địa Kiếp” chiếu Mệnh hay
sao mà Sáu Búa cứ không “Búa” ai, cứ đè anh ra để “Búa” vậy?”
Trần
Ngọc Sơn, nguyên Phó Bí thư Tỉnh Đoàn
TNCQ Tỉnh Bạcliêu, mới được điều lên Xứ Đoàn và bổ sung vào Thường vụ,
đặc
trách công tác Thiếu Nhi Cứu Quốc Nam bộ, cưới nói tếu
rằng: “Lúc
còn ở Tỉnh Đoàn,khi tham gia sinh hoạt Thiếu Nhi, có em hỏi: Nghe đồn
có ông
Sáu Búa đi vô rừng gặp Cọp, ổng nhướng mắt lên, Cọp sợ đến té đái .. Có
phải
không?” Trần Bạch Đằng đưa nắm tay lên ,
làm động tác giả vờ đấm vào mặt Trần Ngọc Sơn, hạ giọng nói: “Coi chừng ổng xé xác em đó nghe
em thiếu nhi!” theo Hồi Ký của Mai Thế Đồng,
đã dẫn).
Sau tháng 7 năm 1954, Trần Bạch Đằng, Mai Thế Đồng, Trần Ngọc Sơn, đều tình nguyện ở lại Nam Bộ, để cùng đồng bào đấu tranh buộc đối phương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Nghi Genève, nhằm đạt được Hòa Bình Thống Nhất vào tháng 7-1956 (?) Xứ ủy Cộng sản Nam Bộ đã chấp thuận, và bố trí công tác bí mật cho Trần Bạch Đằng làm Thành ủy viên Thành ùy bí mật Sàigòn, đặc trách Ban Trí Vận (bao gồm Học sinh-Sinh viên).
(Mai Thế Đồng làm Thường vụ Tỉnh ủy bí
mật Cầnthơ. Trần Ngọc Sơn làm Thường vụ Tỉnh ủy bí mật Rạch Giá – Theo
tài liệu
“Tối Mật” của của Xứ ủy Cộng sản Nam Bộ: Sau tháng 7-1954, đã có gần
60.000
đảng viên cài lại trên toàn Nam Bộ, để hoạt động bí mật, chuẩn bị lực
lượng,
chờ đợi thời cơ “giải phóng hoàn toàn Miền Nam Việt Nam, Thông Nhất
nước nhà
dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN!” )
Thật ra, Trần
Bạch Đằng và các
cán bộ ở lại miền Nam sau tháng 7-1954, đã biết rất rõ rằngl “Không có chuyện tập kết ra Bắc chỉ 2 năm là
đã Hòa Bình Thống Nhất! Đó chỉ là cách nói để ổn định tinh thần cán bộ
và chiến
sĩ miền Namĩ an tâm đi tập kết ra miền Bắc mà thôi!” “Trần Bạch Đằng và
chúng
tôi – Mai Thế Đồng và Trần Ngọc Sơn,đã xác định ngay từ khi quyết định
ở
lại Miền Nam: Đây là một cuộc
đấu
tranh lâu dài và gian khổ trăm bề!”(Theo Hồi Ký của Mai Thế Đồng,
đã dẫn)
Sau
cuộc Hội nghị thành lập Xứ ủy Cộng sản bí mật tại U Minh Hạ vào tháng
10-1954,
thì tháng 11-1954, Trần Bạch Đằng cải trang , đóng vai “phóngviên” báo
“Đuốc
Nhà Nam của ông Trần Tấn Quốc, đi xe đò từ CàMau về Sàigòn. Tại Sàigon,
ông
không ở một nơi bào nhất định. Nhưng có 3 điểm mà ông thường lui tới
là:
1/-
Ngôi biệt thự của một luật sư nổi tiếng ở
Sàigòn lúc ấy, tọa lạc trên đường Phan Thanh Giản (trước 1975).
2/-
Ngôi biệt thự của một Giáo sư nổi tiếng ở
Sàigòn vào thời đó, tọa lạc trên đường Nguyễn Trải (trước 1975)
3/-
Ngôi biệt thự của một Đại Thương Gia người Hoa Klều ở Chợ Lớn, tọa lạc
trên
đường Trần Hưng Đạo (trước 1975). Từ nay, Trần Bạch Đằng giao dịch với
mọi người
với cái tên Tư Ánh.
Về đền Sàigòn không được bao lâu, Trần
Bạch Đằng đã bắt tay vào việc bí mật chỉ đạo “Phong Trào
Đấu Tranh Bảo Vệ Hòa Bình, Đòi Hiệp Thương Tổng Tuyển Cử,
!” (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là người ra mặt, công khai lãnh đạo
phong trào
này) Đầu năm 1955, phong trào
phát triển rất mạnh: Hàng trăm “Ủy Ban
Đấu Tranh Vì Hòa Bình “đã được thành lập, tiêu biểu là “Phong Trào Hòa Bình
Sàigòn-Chợlớn”. Tuy nhiên, đấu tranh chỉ bằng tay không và lời
hô hào,
làm sao đương đầu lâu dài với súng đạn và xe tăng thiết giáp (!) .Chính
quyền
Ngô Đình Diệm đã bóp chết Phong trào Hòa Bình từ đầu năm 1956, Luật sư
Nguyễn
Hữu Thọ và những trí thức tham gia phong trào đều bị bắt! Sở Mật Vụ của
Bác Sĩ
Trần Kim Tuyến đã phát hiện: “Một nhân vật tên
Tư Ánh là người bí mật chỉ
đạo phong trào nội loạn ngay giữa Sàigòn, nhưng chưa bắt được!”
Do đó,
Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đã cho Hãi Con -Trưởng Phòng An ninh Đặc biệt
“phải truy
lùng cho ra tên Tư Ánh!”
Từ giữa năm 1956, Trần Bạch Đằng phải bôn
tẩu khắp nơi trong thành phố Sàigòn-Chợlớn, và luôn luôn thay hình đổi
dạng, để
qua mặt đám an ninh, chỉ điểm! Trong Thành ủy bí mật có người khuyên
Trần Bạch
Đằng tạm rút khỏi Sàigòn một thời gian. Nhưng, Trần Bạch Đằng nói: “Nếu rút lui rời bỏ Sàigòn trong lúc khó
khăn nhất, tức là dao động chạy trốn, cũng đồng nghĩa với chịu thua!
Cho dù khó
khăn cách mấy, tôi vẫn kiên quyết bám trụ đến cùng!” (Theo Giáo sư
Dương
Văn Thới, thân phụ của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, là một trong những nơi
đã chứa
chấp Trần Bạch Đằng trong những năm 1955-1960)
Từ thực tiển của cuộc đấu tranh chính trị
đơn thuần, Trần Bạch Đằng chính mắt thấy bao nhiêu người bị giết, bao
nhiêu
người vào tù (!?) Thời gian này ở Nam Bộ chỉ còn có 5.000 đảng viên (bị
giết
chết hết 55.000 đảng viên). Vì vậy, Trần Bạch Đàng đã mạnh dạn đề xuất
lên Xứ
ủy rằng: “Trung ương ở xa nên không thực
tế, cứ chủ trương đấu tranh chính trị đơn thuần thỉ sẽ có bao nhiêu
người phải
chết nửa? Tôi đề nghị phải tiến hành vũ trang cho các đội tuyên truyền
và vũ
trang cho các đội tự vệ.”
Đề nghị này của
Trần Bạch Đằng
đã được Xứ ủy Nam Bộ chấp nhận! Cho nên, cuộc Hội Nghị Xứ ủy Nam Bộ vào
tháng
12-1956, đã quyết định “tiến hành tuyên truyền
vũ trang và tự vệ vũ
trang, để hổ trợ cho đấu tranh chính trị. Và đến một thời cơ nào đó sẽ
biến nó
thành lực kượng vũ trang của cách mạng Giải phóng Miền Nam Việt Nam!”.
Rõ ràng Trần
Bạch Dằng đã có công đóng góp cho chủ trương lớn này của Xứ ủy
Cộng sản Nam bộ!
Thế
nhưng, ông lại bị Trường Chinh, đương kim Tổng Bí Thư Đảng lúa ấy, phê
bình là
quá khích (?) (Theo lời kể của Trung tướng Trần Hãi Phụng, nguyên Tư
Lệnh Quân
Giải Phóng Đặc khu Sàigòn-Giađịnh-Chợlớn).
Tuy
nhiên, thực tiển bao giờ cũng thắng giáo
điều! Tháng 10-1957, tại Chiến khu Đ. Căn cứ
chủ yếu của Xứ ủy Cộng sản Nam bộ, Đại
Đội 250, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của cái gọi là “Giải Phóng
Quân
Miền Nam” đã được thành lập. Mầm họa đối
với Chính phủ Ngô Đình
Diệm bắt đầu từ đó. Đến cuối năm 1957, , Cộng sản Nam Bộ đã có 37 Đại
Đội vũ
trang. Từ đầu năm 1958, Cộng sẳn Nam Bộ đã thật sự phát động đấu tranh
vũ trang
kết hợp với đấu tranh chính trị và Binh vận (tứ là chiến thuật “Ba Mủi
Giáp
Công”)
Nhưng, Lê Duẩn – Bí thư Xứ
ủy Nam Bộ có
cái nhìn khác hơn Trường Chinh. Là người trực tiếp sống trong chiến
trường, nên
Lê Duẫn rất coi trọng ý kiến về sự “kết
hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị”. Chính Lê Duẫn đã đưa
đề xuất
vào trong “Báo Cáo tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới ở miền Nam”, đem
ra Bắc,
đọc tại Hội Nghị Trung ương lần thứ 15, họp tại Hànội (1-1959). Nhờ báo
cáo đó,
mà ông Hồ Chí Minh kêu Lê Duẫn ở lại Hànội, để chuẩn bị Báo Cáo Chính
Trị cho
Đại Hội Đại Biểu Đảng Toàn Quốc lần thứ III (9-1960). Trong Đại Hội
III, Lê
Duẫn được bầu làm Tổng Bí thư, nên đã trụ luôn ở Hànội! Nhưng, Lê Duẫn
chắc
không bao giờ quên công của Tư Ánh đã cứu ông thoát khỏi cuộc vây bắt
của Cảnh
Sát Quốc Gia, tại đường Colonel Lizé (Phan Thanh Giản) Sàigòn (?).
[Nguyên là: Trước khi ra
Hànộu dự Hội
Nghị Trung ương lần thứ 15, Lê Duẩn ra
kệnh cho Thành ủy Sàigỏn bố trí cho ông ta bí mật vào trong nội thành
Sàigòn để
gặp một số trí thức, nhân sĩ thuộc “Lực
Lượng Thứ Ba”, trao đổi về việc thành lập một “Mặt
Trận Dân Tộc chống Mỹ-Diệm”. Thành ủy Sàigòn giao nhiệm vụ khó
khăn, nguy hiểm đó cho Tư Ánh! Tư Ánh cho người đón Lê Duẫn từ mật khu
về
Sàigòn vào lúc thành phố đã lên đèn. Chính Tư Ánh đón và đưa anh Ba Nam
(tức Lê
Duẫn) đến ngụ tại nhà vị luật sư, tọa lạc trên đường Colonel Lizé. Theo
thông
báo lần đầu thì anh Ba
Nam chỉ vào Sàigòn có 3 ngày. Nhưng, hết ngày thứ ba, thì anh Ba Nam
cho biết
là ở thêm 2 ngày nửa, để gặp vài vị trí thức nửa.Tư Ánh đành phải chìu
theo ý
của anh Ba Nam. Nhưng, Tư Ánh rất lo, vì nhập thành theo phương thức bí
mật, mà
không giữ nguyên tắc như vậy, là phá vở kế hoạch báo vệ đã bồ trí trước
(!)
Điều bát ngờ đối vơi Tư Ánh,
là cô giao
liên đưa anh Ba Nam vô Sài gòn vào ba hôm trước, đến ngày thứ tư lại
được Thành
ủy giao nhiệm vụ vào thành để đón anh Ba Nam. như anh Ba Nam đã hẹn. Và
rủi
thay, khi cô giao liên vừa bước xuống xe thì bị “Cảnh sát
áo trắng” (tức cảnh sát đặc biệt) của Nha Đô
Thành bắt vì tình nghi. Cô gái giao liên 19 tuổi đã bị tra tấn rất dã
man,
nhưng ngày đầu cô một mực kêu oan! Qua ngày hôm sau, cô đã đinh ninh
anh Ba Nam
đã về tới mật khu rồi, nên chịu khai để khỏi bị tra tấn tiếp! Thế là
vào khoảng
7 giờ tối ngày hôm đó (tức ngày cuối cùng của Ba Nam ở Sàigòn), Nha
Cảnh sát Đô
thành đưa một đại đội Cảnh sát Dã chiến đến bao vây ngôi biệt thự của
vị luật
sư ở đường Colonel Lizé, để bắt Ba Nam! Trong khi đó, gia đình vị luật
sư đang
chuẩn bị tiệc chiêu đãi Ba Nam và Tư Ánh.
Khi nghe viên Đại úy chỉ huy
Cảnh sát dã
chiến phát loa rằng: “Những người trong nhà nghe đây: Chúng tôi được
lệnh xét
nhà! Vì vậy “nội bất xuất, ngoại bất
nhập”, ở đâu ngồi yên chỗ đó. Không ai được đi tới đi lui, nếu không
tuân lệnh,
chúng tôi coi như các người cố tình cản trở công vụ!”, anh Ba Nam hơi
tái mặt,
ngó Tư Ánh, ngầm hỏi: “Bây giờ phải tính sao?” Tư Ánh bình tỉnh hỏi vị
luật sư
chủ nhà rằng: “Ông có sẵn 1.000 Mỹ kim không? Vị luật sư gật đầu! Tư
Anh bèn kề
tai nói nhỏ, chỉ cho với vị luật sư nghe thôi (?) Sau đó, Tư Ánh kéo Ba
Nam lên
lầu, rồi nói: “Anh phải cải trang thành ông già ngay, để khi ông chủ
nhà nói
chuyện với viên chỉ huy cảnh sát xong, thì tôi sẽ đưa anh đi khỏi nhà
này tức
khắc! Trong khi đó vị luật sư ra mặt nói với viên Đại úy chỉ huy Cảnh
sát rằng:
“Tôi có quyền không mở cửa cho các ông vào, cho đến khi có mặt của ông
Biện lý
Tòa Thượng Thẩm, vì tôi là luật sư của Tòa đó! Nhưng, nể ông chấp hành
công vụ,
tôi chỉ cho phép ông vào, đưa cho tôi xem lệnh xét nhà, nếu thấy hợp lý
thì tôi
sẽ cho ông xét!” Viên Đại úy cảnh sát đồng ý làm theo lời của vị luật
sư. Vị luật sư chủ
nhà ra lệnh cho người cận vệ, chỉ mỡ hé cánh
cổng sắt, cho một mình viên Đại úy vào, rồi khóa lại ngay!
Vị luật sư mời viên Đại úy vào phỏng khách và bảo viên Đại úy đưa lệnh xét nhà cho ông xem. Nhưng, ông chỉ xem lướt qua, rồi bảo viên Đại úy rằng: “Ông Đại úy! Bây giờ tôi cho ông lựa chọn một trong hai điều kiện: Một, ông chịu khó chờ tới ngày nào có lệnh của Ngài Biện Lý của Tòa Thượng Thẩm thì hảy trở lại xét nhà tôi! Hai, ông nhận 1.000 Mỹ kim và rút quân đi khỏi đây trong vòng một tiếng đồng hồ, rối trở lại, tôi sẽ cho ông xét nhà!” Viên Đại úy cảnh sát suy nghĩ chừng 5 phút, rồi nhận điều kiện thứ hai…. Đại đội Cảnh sát Dã chiến vừa rút đi khuấy dạng, thì vị luật sưcho tài xế lái chiếc Traction đời mới. đưa ông và hai vị khách trị giá 1.000 Mỹ kim” ra khỏi nhà, chạy vế hướng Củ Chi… Nửa giờ sau chiếc Traction quay về, trên xe chĩ có tài xế và vị luật sư khả kinh! (Theo lời kể của Trung tướng Trần Hãi Phụng)]
Trong những năm 1957-1959, Trần Bạch Đằng
vẫn bám trụ ở Sàigòn-Chợlớn-GiaĐịnh để trực tiếp chỉ đạo “Phong
Trào Đấu Tranh Chính Trị của Trí Thức và Học sinh-Sinh viên”, nhằm
chống cái mà Cộng sản gọi là “chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm” và
“chống
sự can thiệp của đế quốc Mỹ”! Đồng thời, gây sự náo loạn ngay trung tâm
đầu não
của nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa, để hổ trợ cho “Phong Trào
Đồng Khởi” mà bắt đầu là cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre, do
Nguyễn Thị Định lãnh đạo (17-1-1960) Qua phong trào này, Trần Bạch Đằng
đã tổ
chức được một lực
lượng
Hoa Sinh-Sinh viên yêu nước ngay tại thành phố Sàigòn-Chợlớn,khả dĩ có
thể huy
động hàng chục ngàn Học sinh-Sinh viên của Sàigòn-Giađịnh-Chợlớn, bải
khóa,
biểu tình, lôi kéo theo thợ thuyền bải cộng, tiểu thương bải thị … có
thể kéo
dài trong vòng 3 ngày đến một tuần lể, làm ngưng mọi sinh hoạt của
thành phố.
(Nhiều Cán bộ trưởng thành trong Phong Trào Học Sinh Sinh viên Sàigòn
do Trần
Bạch Đằng chỉ đạo, như Nguyễn Văn Vịnh, Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy,
Hồ Hữu
Nhật,Lê Hiếu Đằng,Trương Tấn Sang, Nguyễn Minh Triết v.v …)
Chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của
chính quyền Ngô Đình Diệm diễn ra rất quyết
liệt trong những năm 1956-1958, đã tiêu diệt đến 9/10 số cán bộ, đảng
viên của
Xứ ủy Cộng sản Nam bộ! Nhưng, cũng vì thế mà thúc đẩy Xứ ủy Cộng sản
Nam bộ
quyết tâm đấu tranh vũ trang, theo Quy
Luật Đấu Tranh Sinh Tồn, nghĩa là: “Có
áp bức thì có đấu tranh! Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng mạnh!”. Đến khi Luật 10-59 “đặt Cộng sản ra ngoài
vòng pháp luật” của Chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành, máy chém lê
khắp nơi,
thì Trần Bạch Đằng cũng không thể trụ yên
tại Sàigòn! Sở Mật Vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến
Đã bị ông Cố vấn Ngô
Đình Nhu quở trách nặng nề rằng: “Chỉ có
một tên Tư Ánh mà không bắt được, cứ để hắn nhởn nhơ ở Sàigòn thật là
không ra
gì!” (Theo tiết lộ của Hãi Con - tứ Võ Văn Hải, đã dẫn). Vì vậy, từ
cuối
năm 1959, Trần Bạch Đằng bị Sở Mật Vụ truy lùng ráo riết, kèm theo giải
thưởng
3.000.000 động nếu ai bắt được Tư Ánh! Cho nên Tư Ánh một ngày cải dạng
mấy
lần, mỗi đêm phải thay đổi chỗ ngủ! Có lúc, Trần Bạch Đăng phải trốn ra
Vũng
Tàu, chuồn lên Đà Lạt …Vậy mà Trần Bạch Đằng cũng cố luồn lách trở về
Sàifòn
chỉ đạo hàng vạn Học sinh-Sinh viên hội họp với các giới quần chúng lao
động,
thợ thuyền, buôn bán nhỏ, \
xuống đường, biểu tình rầm rộ khắp Sàigòn - Giađịnh - Chợlớn,suốt ngày 20-7-1960, chống “chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm!”, chống “sự Mỹ đưa quân vào miền Nam Việt Nam!”
xuống đường, biểu tình rầm rộ khắp Sàigòn - Giađịnh - Chợlớn,suốt ngày 20-7-1960, chống “chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm!”, chống “sự Mỹ đưa quân vào miền Nam Việt Nam!”
Tháng 9 năm 1960, Xứ ủy Cộng sản Nam bộ
(do Mười Cúc-tức Nguyễn Văn Linh, làm Bí thư) rút Tư Ánh vào mật khu để
chuẩn
bị thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN). Ngày
20 tháng 12 năm 1960, MTDTGPMNVN ra đời, do
luật sư Nguyễn Hữu Thọ
là Chủ Tịch. Trần Bạch Đằng được cử làm Ủy viên Chủ tịch đoàn, đặc
tránh Tuyên
Huấn.
Khi Đại Hội Đại biểu Đảng Toàn quốc lần
thứ III (từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960) mộ số cán bộ Đảng Nam bộ, thấy
thành
tích công tác của Tư Ánh như vậy, đều nghĩ rằng:Trần Bạch Đằng phải
được vào
Trung ương hay ít ra là ủy viên Trung ương dự khuyết ?
Nhưng,
kết quả thì chỉ có 5 người sau đây là ủy viên trung ương chính thức:
Nguyễn Văn
Linh, Phan Văn Đáng, Võ Toàn, Phạm Văn Xọ và Nguyễn Chánh. Còn 3 ủy
viên trung
ương dự khuyết là Võ Văn Kiệt, Phạm Thái Bường và Lê Toàn Thư. Danh
sách các ủy
viên này, vì điều kiện cọng tác bí mật, nên không công bố công khai!
(Theo Lịch
sừ Đảng CSVN, tập 2 (1954-1975), Nhà XBCTQG, Hànội1995,trang 143).
Tại
sao Trần Bạch Đằng không được giới thiệu vào Trung ương Đảng khóa III? Tại vì Nguyễn Văn Linh
báo cáo rằng:
“Đồng chí
Trần Bạch Đằng tuy lập được nhiều thành
tích xây dựng phong trào Trí thức, Học sinh-Sinh viên ở Sàigòn-
Giađịnh-Chợlớn,
và bản thân đồng chí ất cũng rất dũng cảm, Không sợ nguy hiểm, bám sát
phong
trào! Tuy nhiên, đồng chí Trần Bạch Đằng đã phạm một sai lầm nghiêm
trọng là
coi nặng trí thức và Học sinh-Sinh viên, mà coi nhẹ giai cấp công nhân,
và lao
động thành thị!”
Lê Đức Thọ
lại phán thêm rằng: “Như vậy là có tư
tường hữu khuynh, mất lập trường giai cấp làm sao giới thiệu vào Trung
ương
được!” (Theo tiết lộ của Phan Triêm, Phó Ban Tổ Chức Trung ương
Đảng)
Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương Đảng khóa
3, vào ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung ương
Cục Miền Nam.Và theo tinh thần của quyết định đó thì “Trung
ương Cục miền Nam (TƯCMN) là một bộ phận của Ban Chấp Hành trung ương
Đảng, làm
nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền Nam, chủ yếu là Nam bộ…” “
Nguyễn Văn
Linh được chỉ định làm Bì thư TƯCMN, và 7 ủy viên là Trần Lương, Phan
Văn Đáng,
Phạm Văn Xô, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Phạm Thái Bường và Trần Văn
Quang.”
(Theo LSĐCSVN, tập 2, đã dẫn, trang 163).
Nhiều đồng chí, bằng hữu đã từng vào sinh
ra tử với Trần Bạch Đằng, đã biết khả năng công tác vận động, tổ chức
và tài
lãnh đạo quần chúng làm cách mạng của Tư Ánh, đều thắc mắc:”Tại
sao Trung ương lại không đề bạt Trần
Bạch Đằng vào Ban Lãng Đạo TƯCMN?”
Đối với cá nhân
Trần Bạch Đằng,
trong thâm tâm, ông không hề bất mản khi TƯC phân công cho ông làm Phó
Ban
Tuyên Huấn của TƯCMN; nhưng Trần Bạch Đằng hoàn toàn không
phục cách đánh giá của Trung ương Đảng đối với ông, như Nguyễn
Văn Linh và Lê Đức Thọ đã phát biểu trong Đại Hội Đảng lần thứ III! Tâm sự này, ông chẳng bao giờ nói cho ai
biết, ngoài người vợ và là đồng chí của ông – Bà Nguyễn Thị Chơn,
nguyên Thứ
trưởng Bộ Tư Pháp của Chính phủ Cách nạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên,
Trần Bạch Đằng vẫn thổ lộ tâm sự này rất
tế nhị, trong một số bài thơ của ông, đã in trong
tập “Hành Trình” với
bút danh Hưởng Triều! (nhà XB Giải Phóng,
Sàigòn, 1970)
Đến tháng 10-1963, Quân ủy và Bộ Tư Lệnh
Miền của Cộng Sản Miền Nam được thành lập. Nguyễn Văn Linh Bí thư TƯC
được cử làm
Bí thư Quân ủy, Trung tướng Trần Văn Trà ủy viên trung ương Đảng làm Tư
Lệnh
Miền, Thiếu tướng Trần Độ ủy viên trung ương Đảng là Phó Chính ủy Miền.
Tình hình chính trị tại Sàigòn đang sôi
động hơn bao giờ hết Có tin tức tình báo cho biết “Mỹ sắp
thay ngựa giữa đường” – nghĩa là Mỹ sẽ cho đảo chính hai
anh em ông Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu! Trong khi đó, đặc khu ủy Cộng
Sản
Sàigòn-Giađịnh-Chợlớn (T4), do Võ Văn Kiệt làm Bí thư, đang cần , một cán bộ lãnh
đạo có khả năng chuyên trách về Trí thức,
Học sinh-Sinh viên, để đáp ứng tình hình mới. Thường vụ TƯC xét đi xét
lại,
không ai có khả năng hơn Tư Ánh! Cho dù
Nguyễn Văn Linh không muốn, nhưng cả Ban Thương Vụ TƯC đều thông qua và
chính
Võ Văn Kiệt đã trực tiếp đề nghị, nên Nguyễn Văn Linh buộc phải đồng ý cử Trần Bạch Đằng làm Phó Bí thư
Đặc
khu ủy T4 kiêm Phó Ban Tuyên Huấn
TƯC (R).Từ đây, bộ phận
Trí Vận và Thanh Vận (bao gồm Học sinh-Sinh) do Trần Bạch
Đăng trực tiếp lãnh đạo, trụ tại Mật Khu Hố Bò (Củ Chi) (Theo lời kể
của ông
Nguyễn Hộ, Phó Ban Công Vân R. và làThường vụ Đặc khu ủy T4 – thời kỳ
1964-1975).
Phải
nói cho đúng sự thật rằng: Với cương vị Phó Bí Thư Đặc Khu ủy T4, ông
Trần Bạch
Đằng, là một Cán Bộ Lãnh Đạo (ở tuổi 40) xuất sắc nhất, trong sự chỉ
đạo phong trào đấu tranh chính trị của Trí thức
và Học sinh – Sinh viên Sàigòn - Giađịnh – Chợlớn! Trần Bạch
Đằng là một cán bộ lãnh đạo biết kết hợp giữa thực tiển và lý luận. Ông
không
sung bái “chủ nghĩa giáo điều” mà
cũng không tôn thờ “thực tế chủ nghĩa”,
nên ông đã được nhiều trì thức và Học sinh-Sinh viên mến phục, và tình
nguyện
dấn thân theo sự chỉ đạo của ông, vì chính ông cũng dấn thân hành động như một chiến sĩ thực thụ! ( Lời nhận
xét của Giáo sư Dương Văn Kiết, nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục của Chính phũ
CMLT
miền Nam Viêt Nam)
Ngày 18-6-1965,Chính phù
Johnson bật đền
xanh cho các Tướng Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh tướng
Nguyễn Khánh,
để lập một chính quyền quân sự hóa. Vá đến ngày 17-7-1965, tổng thống
Mỷ
Johnson đã chuẩn y đề nghị tăng quân Mỹ cho chiến trường Miền Nam Việt
Nam (từ
75.000 quân tăng lên 184.000 quân vào cuối năm 1965), đồng thời chấp
thuận kế
hoạch “Tìm và Diệt” của Tướng Westmoreland. Nhạy bén trước tình hình
đó, ông
Trần Bạch Đằng đã có nhận định như sau:
“Đế quốc
Mỹ đang đẩy cuộc “Chiến Tranh Đặc Biệt” trên
chiến
trường Miền Nam lên đến mức độ cao, bao gồm một số yếu tố của “Chiến
Tranh Cục
Bộ” , do đó chiến tranh sẽ vượt khỏi phạm vi Miền Nam, leo thang ra
miền Bắc
nửa!”
(Theo lời kể của Trung tướng Trần Hải Phụng, về buổi
thuyết trính của anh Tư Ánh cho toàn thể sĩ quan của quân khu T4 vào
cuối tháng
12-1965). Thực tế lịch sử “Chiên Tranh Việt-Mỹ” đã diễn
ra đúng như nhận định của Trần Bạch
Đằng! Và
cũng nhờ nhận định sáng suốt này mà quân khu T4 đã bảo toàn được lực
lượng và
chống kế hoạch “Tìm và Diệt” của quân Mỹ có hiệu quả, trong những năm
1966-1967!
Trong cuộc Tổng
Tấn Công và Nổi Dậy vào dịp Tết Mậu Thân (1968), Trần Bạch
Đằng với cương vị “Chánh ủy” của một cánh quân, đột nhập vào Chợlớn tứ hướng Bình Chánh vào Phú Lâm, tiến tới chợ
Bình Tây và khu vực Tổng đốc Phương … Theo lời kể của
một số sĩ quan và chiến sĩ quân khu T4 (cánh quân do
Trần Bạch
Đằng làm Chánh ủy) rằng: “Khi tiến thì
anh Tư Ánh luôn luôn đi theo Đội tiên phong! Nhưng, khi rút lui thì anh
Tư Ánh
lại đi cùng với đội thu quân, là đơn vị có nhiệm vụ rút sau cùng!”
Sau cuộc
Tổng Tấn Công và Nổi Dậy lần thứ I (từ 31-1 đến
25-2-1968), trong cuộc
họp “sơ kết Tổng Tấn Công và nổi Dậy đợt
I” tại chiến trường Sàigòn-Giađịnh-Chợlớn của quân khu T4, để rút kinh
nghiệm
cho cuộc “Tổng Tấn Công và nổi Dây đợt II”, Trần Bạch Đằng đã đề nghị
lên TƯC
và Bộ Tư Lệnh Miền rằng: “Không
nên tiếp tục “Tổng Tấn Công và Nổi
Dậy đợt II và đợt III” nửa, bởi vì không còn yếu tố bất ngờ đối với
địch
nủa. Chắc chắn quân Mỹ đã có phòng hờ
và đang giăng bẩy để tiêu diệt quân ta ngay trong các thành phố. Chúng
ta phát
huy thắng lợi của đợt I (nên nhớ, trong đợt I, chúng ta cũng bị tiêu
hao sinh
lực không ít) để
củng cố hậu phương, xây dựng lực lượng, mỡ rộng vùng giải phóng áp sát
các
thành phố và các trục giao thông chính, hình thành thế bao vây, cắt
vùng lãnh
thổ của địch thành từng lõm. Và ngay trong vùng địch chiếm ta cũng xây
dựng
“lỏm giải phòng và lực lượng du kích bí mật. Chờ thời cơ chin muồi, cả
thành
thị và nông thôn cùng nổi dậy giải phóng hoàn troàn miềnNam!” (Theo
Báo Cáo Sơ Kết “TTC và ND đợt I” của Quân khu T4, tháng 4-1968, lưu trữ
tại BTL
QĐND thành phố HCM).
Chính
vì ý kiến sáng suốt
này,(tuy nhất
thời không được chấp nhận) mà sau năm 1968, Bộ Chính Trị Trung ương
Đảng đã
quyết định đưa Trần Bạch Đằng lên làm Bí
Thư Đặc khu ủy T4, thay Võ Văn Kiệt (Võ Văn Kiệt chuyễn về làm Bí
thư Liên
khu ủy Miền Tây Nam Bộ) [Lịch Sử Đẳng
CSVN đã cố tinh viết sai sự thật rằng: Từ
năm 1969 “Nguyễn Văn Linh làm Bí thư thành ủy Sàigòn - Giađịnh”
(xem tập I,
đã dẫn, trang 445) nhằm mục đích phủ nhận vai trò của Trần Bạch Đằng và đề cao Nguyễn Văn Linh!]
Phải thừa nhận rằng: Trần Bạch Đằng là
người có công đầu trong việc vận động và
tổ chức
“lực lượng thứ ba” ở miền Nam, liên
minh với MTDTGP, đẽ chống Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, trong
thời kỳ
1967-1972.
(Hai Cán bộ Phụ tá đắc lực
trong công tác
Trí Vận cho ông Trần Bạch Đằng, là Tạ Bá Tỏng (Tám Cần) và Dương Văn Lễ
(Chín
Quyền). Năm 1968, khi hình thành Câu Lạc Bộ Những Người Khánh Chiến Cũ,
ông Tạ
Bá Tòng là người thứ hai (sau Nguyễn Hộ) trong Ban Lãnh Đạo. Sau năm
1990,
Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng đều trả thẻ Đảng và bị Đàng cho Công an bắt
giam vì tội
“chống Đảng” )
Chính Trần Bạch Đằng là
người trực tiếp
chỉ đạo việc tổ chức đưa những trí thức lớn trong “lực lượng thứ ba”
vào chiến
khu để thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”, như Luật sư Trịnh Đình Thảo,
Giáo sư
Nguyễn Văn Kiết, Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, Kỹ sư Trương Như Tảng Giáo sư
Bùi Thụ
Mè, Nhà văn Thanh Nghị v.v…
{Tháng
6 năm 1969, Bộ Chính Trị Trung ương Đãng ở Hànội, quyết định triệu tập “Đại
hội Đại biểu Quốc dân MiềnNam để thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam”!
Thực chất
của quyết định này, nhằm mục đích hổ trợ cho phái đoàn ngoại giao của
MTDTGPMNVN đang họp với Mỹ ở Paris,
và làm áp lực buộc Hoa Kỳ chấp nhận cái
gọi là “giải pháp 10 điểm” (8-6-1969), trong đó nêu ra 2 vấn đề chủ yếu là:
Mỹ phải rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt
Nam; và nộI bộ của miền Nam do hai bên miền Nam giai quyết với nhau,
nước ngoài
không được can thiệp! }
Cuối năm 1969, sau đám
tang ông Hổ Chí
Minh (9-1969), Lê Duẫn trực tiếp triệu Trần Bạch Đằng ra Hànội, vừa báo
cáo
tình hình miền Nam nói chung và Sàigòn nói riêng, vừa bồi dưởng cả tinh
thần
lẫn vật chất. Trần Bạch Đằng đi ra
Hànội bằng đường Hàng Không: Từ Phnompenh (Cambodia) bay qua Bắc Kinh
(Trung
Quốc), từ Bắc Kinh qua Hànội. Tại Hànội, Trần Bạch Đằng được sắp xếp ở
tại “Khu
Biệt Thự Nghỉ Mát của Trung ương”, tọa lạc bên bờ Hồ Tây, phía trên
dinh thự
nghỉ mát của Hoàng Cao Khải (trước nam 1954), ngay ấp Nghi Tàm, đi về
hướng
làng Chèm. Trần Bạch Đằng đã được hưởng thụ, ăn uống theo chế độ “Đặc
Táo” (rập
khuôn theo Trung Cộng) (Theo
Trung
Cộng có 4 chế độ ăn uống cho các cấp bậc khác nhau như sau: Đại Táo
dành cho
binh sĩ và nhân viên cùng cán bộ sơ cấp! Trung Táo dành cho sĩ quan, từ
Thượng
úy đến Thiếu tá, và cán bô Trung cấp. Tiểu Táo dành cho sĩ quan từ
Trung tá đến
Thiếu tướng và Cán bô cao cấp. Đặc Táo dàng cho ủy viên Trung ương Đảng
và từ
Trung tướng đến Đại tướng cùng hàng Bộ trưởng trở lên!).
Trước khi trở về B2 (chiến
trường Nam Bộ)
chính ông Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã hứa với Trần Bạch Đằng là: “Trong
kỳ họp Trung ương lần thứ 19 (khóa III, sẽ
đề nghị bổ sung
đồng chí (Trần Bạch Đằng) vào hang ủy viên trung ương chính thức,theo
trường
hợp ngoại lệ đặc biệt!” (Theo tiết lộ của Trần Quỳnh, Tổng Cục
Trưởng Tổng
Cục Thông Tin, nguyên Bí thư riêng của Lê Duẫn).
Vào giỡa
tháng 4-1970, Trần Bạch Đằng đi xe lửa “Quốc Tế Liên Vận” sang Bắc
Kinh, và từ
Bắc Kinh bay về Phnompenh (Campuchia), rồi
vào mật khu B2. Vào những năm 1970-1973, mật khu
B2. nằm trên lãnh
thổ Campuchia, rải ra trong các khu
rừng thuộc tỉnh Stungtreng, Kampongcham, Preyveng, Xoairiêng, Tàkeo …
Đặc khu
ủy T4 do ông Trần Bạch Đằng (Tư Ánh) làm Bí Thư; Mai Chí Thọ (Năm Xuân)
làm Phó
Bí thư; Nguyễn Hộ (Tám Yến) làm ủy viên thường trực Ban Thường vụ; Trần
Hãi
Phụng (Ba Đặng) làm ủy viên thường vụ kiêm Tư Lệnh Quân khu …Thời gian
này, T4
trú đóng tại tỉnh Preyveng, trong khu rừng Tuaxàke, và di chuyễn sang
Kongpongcham (trong khu rưng dọ theo con sông Bé) mỗi
khi có động! [ Trong thời gian 1970-1972, TWC miền
Nam đo Phạm Hùng (Sáu Hồng) làm Bí Thư, Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm
Phó Bí
thư kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn]
Từ cuối năm 1969, vùng “nông
thôn giải
phóng” thuộc quyền kiểm soát của MTDTGPMNVN (3/4 nông thôn Nam bộ), đã
bị Liên
quân Mỹ-VNCH tái chiếm và bình định gần hết. Do đó, các cơ quan đầu não
của TƯC
miền Nam, từ cấp Miền, Khu, Tỉnh, thậm chí cả Huyện, đều lên ẩn trú
trêm lãnh
thổ Campuchia (tại các tỉnh đã nói ở trên).
Cho nên, khi từ Hànôi trở về
đến T4, Trần
Bạch Đằng triệu tập ngay một cuộc họp
bất thường của Ban Chấp Hành Khu ủy T4, để trao đổi chủ trương “Trở
về chiến trường T4, quyết chọc thủng phòng tuyến bình định của địch, mở
nhiều
lỏm giải phóng sát nách thành phố Sàigòn - Giađịnh - Chợlớn vào cuối
năm 1970,
đầu năm 1971!”(Theo tiết lộ của Hai Việt, nguyên Chánh văn
phòng khu ủy
T4. Chính Hai Việt được cử làm thư ký hội nghị này) Có thể
nói, đây là một chủ trương rất táo bạo!
Sau khi bàn bạc cụ thể về
mọi mặt, trong
việc “tương quan Thế và Lực của Ta và
Địch” ,cả hội nghị đều nhất trí với lết luận củ Trần Bạch Đằng
rằng: “Địch mạnh hơn Ta cả về Thế và Lực! Ta chỉ
hơn Địch là có niềm tin và quyết biến niềm tin thành sức mạnh để giành
thắng
lợi cuối cùng!” (Theo tiết lộ của Hai Việt, đã dẫn)
Sau khi thống nhất chu
trương trên, theo
đề nghị của Trần Bạch Đằng, hội nghị sẽ quyết nghị hai việc cụ thể như
sau: Một, tổ chức “Hội nghị Đại biểu toàn Đặc khu
T4” lấy tên là “Hội nghị Bình Giả 5” vào dịp Tết Tân Hợi (cuót tháng
1-1971)
Hai, tổ chức ngay môt “lực lượng xung kich” gọn nhẹ, nhưng có khả năng
tác
chiến cao, làm công tác xây dựng cơ sở giỏi, cho luồn về hoạt động ngay
tại
vùng ven Sàigòn - Giađịnh - Chợlớn, chuẫn bị cho đại bộ phận của Đặc
khu ủy T4
trở về chiến trường, sau khi Hội nghị Bình Giả 5 kết thúc!” (Theo tiết lộ của Hai
Việt, đã dẫn)
Chủ trương chiến lược và
hành động cụ thể vừa nêu trên, đều được báo cáo về
cả hai nơi, cung một thời gian: Một, điện thẳng cho ông Lê Duẫn ở Hànội
để báo
cáo và xin ý kiến chỉ đạo (như Lê Duẫn đã chỉ thị trực tiếp cho Tư Ánh
trước
khi về B2) Hai, gửi hỏa tốc về TƯC để báo cáo và xin ý kiến lãnh đạo
trực tiếp!
Có
một lực lượng đã ngấm ngầm chống Trần Bạch Đằng và đang tìm cơ hội để
đẩy ông
ra khỏi cái ghế Bí Thư Đặc Khu ủy T4! Nhưng, không hiểu Trần Bạch
Đằng có
“ngửi” thấy cái “mùi tranh đoạt quyền vị trước mủi súng của kẻ thù”"
hay
không? Và Hội nghị Bình Giả 5 chính là cơ hội “ngàn năm có một” cho
những kẻ
đang có dự mưu lật đổ ông Bí thư Đặc khu ùy Sàigòn – Giađịnh - Chợlớn!
Kẻ chỉ huy từ xa để thực hiện “cuộc đảo
chánh hòa bình” này là Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Tổ
chức
Trung ương Đảng. Kẻ nàm ngay cạnh Trần Bặch Đằng, làm phản gián nội bộ
để báo
cáo những sơ hở có thể qui kết thành sai lầm về tư tưởng lãnh đạo của
Trần Bạch
Đằng, là Mai Chí Thọ (em ruột của Lê Đức Thọ) đang là Phó Bí Thư Đặc
khu ủy T4.
Kẽ trực tiếp tiến hành “cuộc đảo chánh hòa bình” là Nguyễn Văn Linh,
đương kim
Phó Bí Thư TƯC miền Nam.(Tiết lộ của ông Sáu Hoàng (Cao Đăng Chiếm) Phó
Ban An
Ninh Cục R.Theo lời kể lại của Bảy Nam, Phó Ban An Ninh Đặc khu T4.)
“Hội
nghị Bình Giả 5” vào cuối tháng 1-1971, họp tại mật khu ở vùng Sông
Bé,
thuộc tỉnh Kongpongcham (Campuchia).Thành phần tham dự hội nghị gờm có:
Toàn bộ
cán bộ Trung-Cao cấp của các ngành thuộc Đặc khu T4, kể cả đại biểu các
cơ sở
nội thành Sàigòn-Giađịnh-Chọlớn (Trí thức, Sinh viên-Học sinh, Công
nhân, Phụ
nữ, Tôn giáo, Đảng phái) Ngoài ra, cỏn có một số cán bộ lãnh đạo đầu
ngành của
TƯC cũng được mời tham dự. Ông Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư TƯC, thay
mặt TƯC trực
tiếp chỉ đạo hội nghị Bình Giả 5!
Theo dự định, Hội nghị Bình Giả 5 chỉ gói
gọn trong vòng một tuần lể. Nhưng, do nảy sinh vấn để “”Đấu
tranh Tư tưởng giai cấp trong Công tác
Lãnh đạo Đặc khu T4”, do Nguyễn Văn
Linh nêu ra, vào lúc
chương trình hội nghị sắp kế thúc!
Cho nên, hội
nghị Bình Giả 5 phải chia làm hai chương trình: Chương trình I là
chương trình
mở rộng như Đặc khu ủy đã dự định!
Chương trình II kà chưong trình thu hẹp, những đại biểu tham dự chỉ gồm
Ban
Chấp Hành Đảng bộ Đặc khu T4 và các Bí thư-Phó Bí thư các quận ủy thuộc
T4,
cùng với phái đoàn của TƯC do Nguyễn Văn Linh dẫn đầu. Chương trình II
sẽ họp
trong vòng một tuần!
Tại sao Nguyễn Văn Linh lại có cớ để nêu
ra vấn đề “Đấu tranh Tư tưởng Giai Cấp trong
Công tác Lãnh đao Đặc khu T4”?
Nguyên nhân là từ nội dung “Báo Cáo Chính
Trị” của ông Trần Bạch Đằng , trong 2 ngày đầu của hội nghị. Trong đó
ông đã
nêu ra hai vấn đề về tư tưởng có tầm
chiến lược, trong công tác lãnh đạo công cuộc giải phóng đô thị:
-Một là: Trong nền kinh tế
thị
trường của Chủ nghĩa Tư bản Thực dân mới Mỹ ở miền Nam Việt Nam, bản
chất của
giai cấp công nhân đã biến chất, không cò đóng vai trò tiền phong, lãnh
đao
phong trào cách mạng ở đô thị như trước năm 1945 nửa!
Chủ
lực quân
của phong trào cách mạng ở đô thị hiện thời, qua thực tiển đấu tranh từ
1955
đến nay, đã cho thấy: Học sinh – Sinh viên nói riêng, Thanh niên các
tầng lớp
nói chung (không phân biệt giai cấp, tôn giáo) là quân chủ lực của
phong trào
cách mạng đô thị miền Nam Việt Nam. Trí thức và Tôn giáo yêu nước là
lực lượng
liêm minh rất quan trọng trong công cuộc giải phóng đô thị!
-Hai là, tư tưởng chiến
lược “Lấy Nông Thôn Bao Vây Thành Thị” của Mao Trạch
Đông, đã lỗi thời
đối với tình thế cách mạng giải phóng của miền Nam hiện nay! (Nông thôn
giải
phóng của chúng ta hiện đã nằm trong sự kiểm soát của địch, lam gì có
nông thôn
giải phóng để bao vây thành thị?) Chúng
ta phải tiến hành song song hai cuộc cách mạng giải phóng: Giải phóng thành thị để mở đường giải phóng nông thôn!
Giải phóng nông thôn để hổ trợ giải phóng thành thị!
(Cả hội trường vổ tay hoan
hô nhiệt liệt
đối với luận điểm này của Trần Bạch
Đằng!-Theo lời kể lại của Nguyễn Hồ (Tám Hồ) nguyên ủy
viên Ban Thư Ký hội nghi Bình Giả 5, sau 1975 là Chánh Văn
phòng Thành ủy Thành phố HCM)
Nguyễn Văn Linh tỏ vẻ khó
chịu ra mặt, bởi vì trong bài thuyết trình của
ông, trước đây hơn một tháng, ở TƯC, và đã in gửi cho các các cấp
ủy toàn miền học tập, trong đó ông đặc biệt đề cao tư
tưởng
chiến lược “Lấy Nông Thôn Bao Vây Thành Thị”
của Mao Trạch
Đông! Vì
vậy, Nguyễn Văn Linh đã nghĩ rằng Trần Bạch Đằng cố
ý phê phán ông ta (?) Cho nên nhân cơ hội Tràn Bạch Đằng đề
cao thanh phần Học sinh – Sinh viên, Trí thức và Tôn giáo mà
coi nhẹ giai cấp công nhân (?) Nguyễn Văn Linh lấy tư cách là
Phó Bí Thư TƯC triệu tập Hội nghị Thu hẹp, được xem như chương
trình II của “Hội nghị Bình Giả 5”!
Trong cuộc Hội nghị Bình Giả
5 thu hẹp
(đầu tháng 2-1971). Tại khu rừng
trong vùng Sông Bé, tỉnh Kongpongcham, Nguyễn Văn Linh
quyết liệt phê phán Trần Bạch Đằng, như sau:
“”Đồng
chí Tư Ánh đã phạm sai lầm “Hữu Khuynh”rất nghiêm
trọng về nặt “Tư Tưởng Lãnh Đạo” của Đảng,
đối với phong trào
cách mạng giải phóg của quần chúng ở đô
thị! Sự sai lầm nghiêm trọng đó, đã
thể hiện ở
những điểm cụ thể như : « Một là, coi thường vai trò tiền
phong và
lãnh đạo của giao cấp công nhân! Hai là, coi trọng vai trò của trí
thức, Sinh
viên-Học sinh và tôn giáo, trong công cuộc cách mạng giải phóng ở đô
thị, thậm
chí đã đưa “thành phần không có lập trường kiên định” lên “vai trò xung
kích”?
Ba là, xa rời “tư tưởng chiến lược” có tính chất kinh
điển trong cuộc cách mạng giải phóng miền Nam là “lấy nông
thôn bao vây thành thị”, cũng có nghĩa là không triệt để chấp
hành đường lối cách mạng giải phóng miền Nam của
Đảng!”
(Theo Biên Bản về “cuộc
họp phê phán những sai lầm về tư tưởng lãnh đạo của
đồng chí Tư Anh” – Tháng 2-1971, trong Hội nghị Bình Giả 5 thu hẹp –
Lưu trử
tại Ban Tổ Chức Đặc khu ủy T4 – Sau 30-4-1975 là Ban Tổ Chức Thành ủy
Thành phố
HCM)
Đáng chê trách nhất là: Những
người vổ tay hoan hô nhiệt liệt bảng
“Báo Cáo Chính Trị” của Trần Bạch Đằng, trong những ngày đầu của Hội
nghị Bình
Giả 5 mở rộng, thì bây giờ lại vổ tay hoan hô nồng nhiệt những lời phê
phán của
Nguyễn Văn Linh
đối
với Trần
Bạch Đằng. Tuy nhiên cũng còn một số
người có tư cách, mặc dù họ không ra mặt phản đối Nguyễn Văn Linh,
nhưng họ vẫn
không ra mặt hoan hô ông Phó Bí Thư TƯC! Đó là các ông: Trần Hải Phụng
(Tư Lệnh
Quân khu T4), Nguyễn Hộ (Trưởng Ban Công Vận T4), Tạ Bá Tòng (Phó Ban
Trí Vận
T4).
Rõ ràng, những lời phê phán của Nguyễn
Văn Linh đối với Trần Bạch Đằng, là những lời
của phe bảo thủ, giáo điều cà
tả khuynh, đang lộng hành trong Ban Chấp Hàng trung ương Đảng khóa III.
Nguyễn
Văn Linh dựa vào thế của phe đó, để thực hiện xí đồ cá nhân, cũng để
tiến hành
âm mưu của nhóm Mười Cúc-Năm Xuân là đẩy Tư Ánh ra khỏi ghế Bí thư Đặc
khu ủy
T4, đồng thời chận hẳn con đường vào Trung ương (như lời hứa của Lê
Duẫn đối với
Tư Ánh).
Chắc chắn Trần Bạch Đăng cũng nhận thấy
xí đồ của Nguyễn Văn Linh! Do đó, ông đã kiên
quyết không chấp nhận lời phê phán có ý đồ xấu của Nguyễn Văn Linh! Cho
nên, Trần Bạch Đằng đã phát biểu lời cuối cùng rằng:
“Tôi nói thật lòng với
các đồng
chí có mặt trong cuộc họp bất thường, không theo nguyên tắc dân chủ này
rằng:
Mấy hôm nay, tôi đã suy xét cặn kẻ những lời phê phán của đồng chí Mười
Cúc, và
cuối cùng tôi khẳng định trên tinh thần khách quan là,tôi không phạm
sai lầm
như những lời phê phán nặng mùi Bảo Thủ Cực Tả và Giáo Điều Chủ Nghĩa
của đồng
chí Mười Cúc! Tôi quyết bảo lưu ý kiến này, và sẽ kháng nghị cùng một
thời gian
lên cả hai cấp lãnh đạo: Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng và Trung Uơng
Cục miền
Nam!”
Phát biểu lời cuối cùng xong, Trần Bạch
Đằng đã tự động bỏ cưộc họp, trước khi “Hội Nghị Bình Giả V thu hẹp” bế
mạc!
(Theo tiết lộ của Hai Việt, Trưởng Ban Thư Ký Hội Nghị Bình Giả V)
Sau Hội Nghị Bình Giả V, theo đề nghị của
Nguyễn Văn Linh, Thương vụ TƯC quyết định: Hạ chức Trần Bạch Đằng từ Bí
thư Đặc
khu ủy T4 xuống Phó Bí thư thứ hai, chuyên trách công tác Tuyên huấn
(!?)
Nguyễn Văn Linh Phó Bí thư TƯC sẽ kiêm chức Bí Thư Đặc khu ủy T4, Mai
Chí Thọ
giữ chức Phó Bí thư thứ nhất, đặc trách An Ninh, Thanh vận và Trí vận. Đến đầu năm 1972 thì Trần Bạch Đằng bị mất
luôn chức Phó Bí thư thứ hai của Đặc khu ủy T4, bị rút về TƯC để “kiểm
thảo tư tưởng hữu khuynh đã phạm trong
thời gian lãnh đạo Đặc khu ủy T4”!
Suốt 6 tháng cuối năm 1972, ăn nằm ở ATK
(An toàn khu) của TƯC, tại khu rừng bên hữu ngạn sông Mékong, thuộc
tỉnh
Stungtreng (Campuchia), Trần Bạch Đằng phải viết bản tự kiểm thảo theo
yêu cầu
của TƯC. Nhưng, ba lần bốn lượt, kiểm điểm tới, kiểm điểm lui, trước
sau Trần
Bạch Đằng vẫn không nhận có sai phạm về điều gọi là “tư tưởng cơ hội, hữu khuynh
trong lãnh đạo Đặc Khu ủy T4” (!?) Trần Bạch Dằng kiên quyết
bảo lưu ý
kiến, chờ đưa ra Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lầm thứ IV của Đảng Cộng
Sản Viêt
Nam (?).
Nuôi chí lớn để trở thành “Lãnh
tụ Cộng
sản Cấp tiến” của Trần
Bạch Đằng đã trở thành “Người Cộng sản
Bất Đắc Chí” kể từ nhửng ngày bị rút về R.
Sở dĩ sau Hội Nghị Bình Giả
V, Trung ương
Cục Miền Nam chưa đẩy Trần Bạch Đằng ra khỏi Thưởng vụ Đặc khu ủy T4 là
vì
Thường vụ TƯC phải chờ ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí Thư Lê Duẫn.
Bởi vì,
sau cuộc Tổng Tấn Công năm 1968, chính Lê Duẫn trực tiềp quyết định đưa
Trần
Bạch Đằng kên làm Bí Thư Đặc khu ủy T4. Và cũng vì “vụ Tư Ánh” mà Lê
Duẫn và Lê
Đức Thọ đã cải nhau! Khi mới nhận được báo cáo của TƯC về “sai lầm hữu
khuynh
trong tư tưởng lãnh đạo” của Trần Bạch Đằng; đồng thời cũng nhận được ý
kiến
bảo lưu và kháng nghị của Trần
Bạch Đằng;
Lê Duẫn có vẻ bực tức nói với Lê Đức
Thọ rằng: “Cái tay ăn trầu như đàn bà ấy
(ám chỉ Nguyễn Văn Linh) nó không nễ tớ chút nào! Trần
Bạch Đằng muốn chạy trước thiên hạ, nhưng không coi thời
thế. Tuy nhiên hắn có tài, cứ để hắn chạy thử coi có vấp ngã không. rồi
sẻ tính
cũng chưa muộn. Đảng ta đang cần những cán bộ dám sáng tạo cách mạng về
cả hai
mặt: Lý luận và Thực tiển!”
Lê Duẩn
hoàn toàn không biết chính Lê Đức Thọ chỉ đạo cho Nguyễn Văn Linh và
Mai Chí
Thọ tiến hành lật đổ Trần Bạch Đằng (?)
Vì thế, Lê Đức Thọ làm sao bằng lòng với anh Ba Duẫn được! Lê Đức Thọ
mới nói
khéo rằng:
“Anh
Ba nặng về tình cảm với Tư Méo
(tức Tư Ánh) rồi đó! Mười Cúc và Năm Xuân cũng vì sự nghiệp của Đảng mà
phê
phán Tư Méo, chỉ mong nó thấy sai và thành khẩn sửa chửa thì đâu có gì,
phải
không? Đáng này, Tư Méo ỷ thế của anh Ba, không chịu nhận lỗi, mà còn
kháng
nghị lung tung, cho nên không thể không kỷ luật đâu anh Ba! Thôi,
chuyện Tư Méo
để tổ chức giải quyết! Anh Ba hảy lo bồi dưỡng mấy “bà nhí” của anh, để
khỏi
tùm lum ra,phải đến tôi can thiệp thì
khó xử lắm đó anh Ba!”
(Theo tiết lộ
của Phan Triêm,
Phó Ban Tổ Chức Trung ương Đảng, Phụ tá đặc trách phản gián cho Lê Đức
Thọ)
Số
phận của Trần Bạch Đằng từ nay (1972) đã được định đoạt bới nhóm bảo
thủ cực tả
có quyển lực: Lê Đức Thọ-Nguyễn Văn Linh! Trần Bạch Đằng phải rút
vào trong
cái vỏ bọc “Sáng tác Thơ-Văn vá Nghiên
Cứu Lý Luận Marxisme-Léninisme.”
Từ 1973 đến
1975, ông Trần Bạch
Đằng sống như “Ẩn Sĩ”! Ông cùng viên thư ký (Sáu Hậu, người Hànội. Sau
30-4-1975 được làm Phó Văn phòng UBND Thành phố HCM), cô y tá, cô thư
ký đánh
máy chữ và một tiểu đội bảo vệ, đã dựng lều bằng lá trung quân (loại lá
cây
không cháy), trong một cánh rừng bằng lăng, bên thượng nguồn dòng Vàm
Cỏ Đông,
thuộc vùng đất Lò Gò của tỉnh Tây Ninh, giáp giới với tỉnh Preyveng
(Campuchia). Trong những năm này, về hình thức, Trần Bạch Đằng vẫn là
Phó Ban
Tuyên Huấn TƯC, nhưng thực chất thì “có Danh mà không có Quyền” (Theo
tiết lộ
của Hai Khuynh, Chánh Văn Phòng, thường vụ Đảng ủy của
Ban Tuyên Huấn TƯC).
Từ giữa năm 1974 cho đến ngày 30 tháng Tư
năm 1975, là thời gian khổ tâm nhất của Trần Bạch Đằng! Các cơ quan
trực thuộc
TƯC rộn rịp chuẩn bị ra mặt trận, tham
gia chiến dịch Hồ Chí Minh! Ngay đối với Ban Tuyên Huấn do ông phụ
trách (trên
danh nghĩa), ông cũng không cùng họ chuẩn bị ra mặt trận, bởi vì Thường
vụ TƯC
đã gợi ý rằng: “Đồng chí Tư Ánh chưa
“khỏe” hẳn, để đồng chí nghỉ thêm một thời gian nửa! Đảng ủy B anh
Tuyên Huấn
phải lo chỗ ăn chỗ ở thật chu đáo cho đồng Tư Ánh…”(Theo tiết lộ
của Hai
Khuynh, đã dẫn). Nhờ sự “quan tâm” của Thường vụ TƯC, mà Trần Bạch Đằng
“an
tâm” ngồi hoàn thanh bản thảo lần thứ nhất của bộ tiểu thuyết tình báo
(6 tập)
với đề tựa là “Ván Bài Lật Ngửa”…
[ Bộ tiễu thuyết này với nhân vật chính là Nguyễn Thành Luân, mà tác giả Nguyễn Trường Thiên Lý (tức Trần Bạch Đằng) đã hư cấu từ nhân vật thật là Phạm Ngọc Thảo - Tình Báo viên cao cấp của CSVN, trong những tháng năm Phạm Ngịc Thảo trá hàng, trở về với chính nghĩa quốc gia” (!) Sau năm 1978, Trần Bạch Đằng đã sửa chửa, hoàn chỉnh bản thảo lần cuối cùng, đua cho Ban Tuyên Huấn kiểm duyệt, đặng ấn hành trước năm 1980, nhưng đã bị Tố Hữu, ủy viên Bộ Chính Trị đặc trách Tuyên Huấn, cho “ngâm tôm” đến năm 1985 sau khi bắt buộc Tác Giả sửa chửa một số sự kiện và quan điểm đánh giá nhân vật, mới chấp thuận cho in. nhưng chỉ giao cho nhà xuất bản tỉnh ấn hành – nhà xuất bản Tổng Hợp Hậu Giang. Thế là bộ tiểu thuyết “Ván Bài Lật Ngữa” của Nguyễn Trường Thiên Lý đã ra mắt độc giả trong nước vào năm 1987. Đến năm 1989, trên thị trường sách Việt ngữ ở Hoa Ký, độc giả thấy xuất hiện cuốn “Ngô Đinh Nhu” của tác giả FW.09 (?) do nhà xuất bản Nguyễn Thị Muôn (?) ấn hành. Sự thật, FW.09 là một kẻ “đạo văn” trắng trợn! Ông thay tựa “Ván Bài Lật Ngửa” thành tựa « Ngô Đình Nhu”, và đổi tên Nguyễn Thành Luân thành Phạm Ngọc Thảo (!?)…].
Sau 30-4-1975 đến Đại Hội
Đại Biểu Toàn
Quốc lần thứ IV của Đảng CSVN (12-1976) Trần Bạch Đằng về Sàigòn ở,
nhưng chưa
được Đảng giao chức vụ gì trong Đảng, trong chính quyền hay trong Mặt
Trận gì cả! Ông chỉ được một “ân huệ” duy
nhất
của Thành ủy Thành phố HCM, là cấp cho một biệt thự ở đầu đường Mạc
Đỉnh Chi.
Thời gian này Trần Bạch Đằng chỉ làm “cố vấn” cho mấy tờ báo như Sàigòn
Giải
Phóng, Công An, Tuổi Trẻ, Thanh Niên … Và ông cũng được “Hội Trí Thức
Yêu Nước”
, do Tạ Bá Tòng phụ trách, mời thuyết trình về :Chính sách của Đảng với
trí
thức” cho trí thức của chế độ cũ nghe, nhưng chỉ với tư cách là nguyên
Phó Ban
Tuyên Huấn của TƯC, chớ không giới thiệu chức vụ gì sau ngày 30 tháng
Tư năm
1975 (?)
Trong Đại Hội lần thứ IV (12-1976) ý kiến bảo lưu của Trần Bạch Đằng về sai lầm “hữu khuynh trong tư tưởng lãnh đạo” cũng đã bị “chìm xuồng” luôn! Từ Đại Hội IV đến Đại Hội V (12-1976 đến 3-1982) Lê Duẫn vẫn tiếp tục được “bầu” làm Tổng Bí Thư Đảng CSVN, nhưng “Anh Ba Xe Lửa” (tục danh trong thời kỷ hoạt dộng bí mật của Lê Duẫn), vẫn không có cách nào nâng đở “đàn em Tư Ánh” (hay vẫn đánh bài lờ?)
Theo tiết lộ của Mười Quảng
(Lê Xuân
Tùng), bí thư riêng của Nguyễn Văn Linh, thì sau Đại Hội IV Lê Duẫn đã “gợi ý” cho Sáu Búa (Lê Đức Thọ) là nên
tạm thời để Trần Bạch Đằng làm Phó Ban Dân Vận Trung ương, cho đến Đại
Hội V,
nếu Tư Ánh được “bầu” vào Trung Ương thì sẽ nâng lên chức Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương (?). Bề ngoài, chìu ý của
“Anh Ba Xe Lửa”, Sáu Búa cho gọi Trần Bạch Đằng ra Hànội để “nhận công
tác mới”
Nhưng, khi Trần Bạch Đằng đã ra tới Hànội, Lê Đức Thọ cứ để nằm ở nhà
khách
“ngồi chơi xơi nước”, viện cớ là đồng chí
Trưởng Ban
Tổ Chức bận đi công tác đột xuất ở các địa phương trên miêề n Bắc(?)
Mãi đến 3
tháng sau Lê Đức Thọ mới ra mặt \tiếp Trần Bạch Đằng..
Lê Đức Thọ vốn biết Tư Ánh
có lòng tự tôn
rất nặng, nên đã thọc vào yếu điểm đó! Khi tiếp xúc với Trần Bạch Đằng,
Lê Đức
Thọ đã huấn thị rằng: “Tôi thay mặt Bộ
Chính Trị truyền đạt cho đòng chí quyết định của Ban Chấp Hành Trung
Ương Đảng
khóa IV, là nếu đồng chí nhận sai lầm và tự nguyện xin rút “ý kiến bảo
lưu” của
đồng chí từ năm 1972, thì Trung ương sẽ chiếu cố quá trình công tác mà
cử đồng
chí giữ chức Phó Ban Dân Vận Trung Ương?”
Trần Bạch
Đằng rất tức giận
về thái độ niềm nở giả tạo của Sáu Búa, thấy rỏ xí đồ của ông Trưởng
Ban Tổ
Chức Trung ương là không muốn tải điều kiện cho Trần Bạch Đằng vào
Trung ương
khóa V, nên Trần Bạch Đằng đã nói thẳng với Sáu Búa rằng: “Nếu
Trung ương không giải quyết dứt khoát ý kiến bảo lưu về sai lầm
“tư tưởng hữu khuynh trong lãnh đạo”, thì tôi không dám nhận bất cứ
chức vị
lãnh đạo nào do tổ chức phân công!”
Thế là …
Trần Bạch Đằng lại quay trở về Sàigòn, sống
một cuộc đời của một Cán Bộ Cộng Sản, đang bị Đảng CSVN vùi dập theo
chính sách
“vắt chanh bỏ vỏ”, mà những kẽ có quyền thực hiện thủ đoạn này là Lê
Đức Thọ
(Trưởng Ban Tổ Chức Trung ương) và Nguyễn Văn Linh (Bí Thư Thành ủy
Thành phố
HCM) cấu kết với nhau, vứt bỏ một tài năng lãnh đạo, có khả năng vượt
qua đầu
của họ, nếu Trần Bạch Đằng được vào Trung ương Đảng khóa V (!?
)
Năm 1985, khi “Hôi
Truyền Thống Kháng Chiến Thành Phố Hờ Chí Minh” thành lập, do
Nguyễn Hộ làm Chủ Tịch, Trần Bạch Đằng (cùng
tướng Trần Văn Trà) làm Cố vấn. Nhưng, khi Lê
Đức Thọ chi cho phép
thành lập “Câu Lạc Bộ Những Người Kháng
Chiến Cũ Thành Phố Hồ Chí Minh” (16-5-1986) tự nhiên không thấy
tên ông
Trần Bạch Đằng trong Ban Cố Vấn (?). Phải chăng, vì chuyện ông bị tập
đoàn Lê
Đức Thọ-Nguyễn Văn Linh loại bỏ Trần Bạch Đằng ra khỏi “Danh Sách Đại
Biểu” đi
dự Đại Hội VI (15-12-1986), mà ông chán đời (hay sợ liên lụy) nên ông
Không dám
tham gia cái Câu Lạc Bộ mang tính đối kháng sự lãnh đạo của Đãng CSVN?
Chính vì
thế mà nhiều “đồng chí kháng chiến cũ”
đã chê trách ông là cầu an hưởng lạc!?
Có lẻ Trần Bạch Đằng đã nhận
thấy sự phũ phàng về thân phận của người trí
thức theo Đảng CSVN, mà bằng chứng sờ sờ trước mắt như bi kịch
chính trị
của Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Giàu (Nguyên Bí Thư Xứ ùy CS Nam kỳ trong
những
năm 1941-1945, và cũng là người thầy đưa ông vào Đảng?) Và bao nhiêu
tấm gương
trí thức theo Đảng từ Cách mạng tháng Tám 1945, đã bị vắt chanh bỏ vỏ
sau ngày
gọi là “Thống Nhất Đất Nước”, như Trần
Bửu Kiếm,
Huỳnh Tấn Phát, Lưu Hữu Phước v.v…… Do đó, Trần Bạch Đằng đành phải tự
vệ, bằng
cách rút vào cái vỏ bọc “Viết báo và nghiên
cứu lịch sừ”.
Trong thời gian 20 năm cuối đời (1987-2007) Trần Bạch Đăng tập trung tinh thần và trí tuệ vào công việc của nhà viết chính luận - suốt trong 20 năm này, tên của Trần Bạch Đằng hầu như không hề vắng mặt trên các nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san và nguyệt san, không chỉ trên các báo của thành phố Sàigòn , mà còn trên bác báo của các địa phương Nam bộ, và cả các báo ở trung ương. Có thể nói: Ngày nào trong suốt 7.300 ngày đó, không có ngày nào không có bài của Trần Bạch Đằng, không đăng ở báo này thì đăng ở báo khác! Do đó, có một số anh em viết báo chuyên nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh nói vui rằng: “Ông Trần Bạch Đằng đâu cần ăn lương Nhà nước, chỉ riêng tiền nhuận bút là sống phè phởn rồi!” (Theo Lâm Tấn Tài, Tổng thư ký Hội Nhiếp Ảnh Thành phố HCM).
Những bài báo của Trần Bạch
Đăng chủ yếu
là viết theo thể loại Chính Luận. Dư
luận chung của độc giả trí thức đều thừa nhận rằng: Bài
viết của Trần Bạch Đằng khá sâu sắc, có nhiều ý kiến độc đáo! Tuy
nhiên, cũng có một số độc giả có hiểu biết đều nhận xét một số bài viết
của
Trần Bạch Đằng rằng: “Không dám phê bình, chỉ
trích thẳng sự sai
lầm của Đảng và Nhà nước như một nhà “Đối Kháng”, mà chỉ “nói xa nói
gần”…”
Và có một số Cán Bộ Kháng Chiến Cũ còn chê trách rằng: “Trần Bạch Đằng ngày nay không
còn là Trần Bạch Đằng trong thời kháng chiến
nửa!”
(Theo Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng …)
Ngoài công việc viết báo, Trần Bạch Đằng
còn cộng tác với Giáo sư Tiến sĩ Sử học Trần Văn Giàu, và Phó Tiến sĩ
Dân Tộc
học Mạc Đường, cùng biên soạn Bộ Lịch Sử Việt
Nam (4 tập) từ thời Cổ đại
đến thời Hiện đại. Họ đã hoàn thành và đã ấn hành 3 tập, và chuẩn bị ấn hành tập 4 thì Trần Bạch
Đằng đã qua đời!
Trong khi nhắm mắt lìa đời, chắc chắn
ông Trần Bạch Đằng còn mang theo nhiều
niềm ân nỗi oán, suốt trong cuộc đời đi theo Cộng Sản? Chẳng cần nói
đến cao
vọng làm Lãnh Tụ Cộng Sản Cấp Tiến của
Trần Bạch Đăng (!). Chỉ cần nói đến ý muốn xuất bản một cuốn sách do
ông nghiền
ngẫm từ trong kháng chiến, mà cũng không đạt (!). Đó là cuốn “Vai trò của Thanh Niên Tiển Phong trong
cuộc Cách Mạng Tháng Tám 1945!”. Chính Trần Bạch Đằng là một nhân
chứng
lịch sử, đồng thời là một cán bộ lãnh đạo Thanh Niên Tiền Phong trong
những
ngày “làm nên lịch
sử” đó!
Ông đã viết xong tác phẩm lịch sử này từ năm 1980, Nhưng khi đưa cho
Ban Tuyên
Huấn duyệt để xuất bản. Nhưng đã bị Tố Hữu cho vào kho “Lưu Trữ Bản
Thảo có Vấn
đề về Chính Trụ”; bởi vì theo quan điểm lịch sử của Đảng CSVN, Thanh
Niên Tiền
Phong là đoàn thể do đế quốc Nhật dựng lên (?) Ân
hận thay! Biết rõ ràng là đồng chí ủy viên Bộ
Chính trị kiêm Trưởng
Ban Tuyên Huấn – ông Tố Hữu đã bóp méo lịch sử mà Trần Bạch Đằng vẫn
phải im
hơi lặng tiếng, để cho đứa “con tinh thần” bị chết oan uỏng (!)
Đông Bắc
Mỹ
Ngày 15 tháng 6
năm 2007
Lê Tùng Minh
No comments:
Post a Comment