Saturday, May 2, 2009

LICH SỬ THẾ GIỚI * HỘI TAM ĐIỂM

Tam điểm tại Việt Nam

Comments (0) TrackBacks (0)
TRUYỀN THÔNG- COMMUNICATIONS

Mùa Hạ 2007 - Số 24
Été 2007 N° 24

Phạm Hữu Trác

Người Pháp đã dùng văn hóa khai hóa dân “bản xứ”, hầu lôi kéo một số trí thức ngả theo văn minh Âu Tây, trong đó hoạt động của hội Tam Điểm Pháp góp phần đáng kể.

Bài viết dưới đây thử tìm lại hoạt động của Tam Điểm Pháp trên cõi Đông Duơng và sự tham dự của những người Việt Nam trong nửa đầu của thế kỷ 20.


Người Pháp đã dùng văn hóa khai hóa dân “bản xứ”, hầu lôi kéo một số trí thức ngả theo văn minh Âu Tây, trong đó hoạt động của hội Tam Điểm1 Pháp góp phần đáng kể.

Bài viết dưới đây thử tìm lại hoạt động của Tam Điểm Pháp trên cõi Đông Duơng và sự tham dự của những người Việt Nam trong nửa đầu của thế kỷ 20.


Hoạt động của giới trí thức Việt Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 có những giai đoạn chuyển mình rõ rệt, tuơng ứng với tình hình chính trị thuộc địa của người Pháp tại Đông Dương. Phong trào Cần Vương lấy sự chống Pháp bằng quân sự do hịch hiệu triệu của vua Hàm Nghi từ đất lưu vong Quảng Trị chẳng kéo dài bao lâu. Phong trào Duy tân và Đông du do nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục mà trụ cốt là Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu cũng tan rã trước sự đàn áp của chính quyền thuộc địa.

Người Pháp đã dùng văn hóa khai hóa dân “bản xứ”, hầu lôi kéo một số trí thức ngả theo văn minh Âu Tây, trong đó hoạt động của hội Tam Điểm2 Pháp góp phần đáng kể.

Bài viết dưới đây thử tìm lại hoạt động của Tam Điểm Pháp trên cõi Đông Duơng và sự tham dự của những người Việt Nam trong nửa đầu của thế kỷ 20.

Lúc Napoléon III quyết định mở cuộc xâm chiếm Việt Nam từ 1858 thì bộ trưởng hải quân Chasseloup-Laubat, một hội viên tam điểm, tán thành nhiệt liệt.

Nam kỳ vừa được hoàn toàn “bình định” tháng 12 năm 1867, ngay khi Saigon còn là một thành phố chưa mở mang với dân số khoảng 50.000 người (gồm cả Hoa kiều trong Chợ Lớn) và 500 người Pháp, ngày 10-11-1868, mười tám người Pháp đã thành lập loge tam điểm đầu tiên, lấy tên là “Le Réveil de l”Orient”. Tính đến năm 1870 loge này có 37 hội viên và năm 1876 đã có 69 người gia nhập.

Sau khi chiếm xong Trung và Bắc kỳ, năm 1887 Paris quyết định thành lập Union Indochinoise, gom lại dưới quyền cai trị thống nhất, ba miền Trung Nam Bắc Việt Nam, Cao Mên và Lào, Constans (Bộ Trưởng Nội Vụ tương lai), một hội viên tam điểm, mở đầu chế độ toàn quyền Đông Dương.

Ở Hà Nội, loge “Fraternité Tonki-noise” thành lập năm 1886 do bác sĩ Jean-Marie de Lanessan đứng đầu, gồm có các nhân vật: hai anh em nhà Schneider, thuyền trưởng Robin, trung úy Hossinger và ông Charles Halais. Lúc đầu có khoảng ba chục hội viên, năm 1892 lên tới 54 hội viên

Tại Hải Phòng “L’Étoile du Tonkin” thành lập năm 1892.

Năm 1907, Đà Nẵng thành lập loge “La Libre Pensée d’Annam” 1907, đến 1911 loge này chuyển về Huế.

Từ 1897, các Toàn Quyền tại Đông Dương phần nhiều đều là hội viên tam điểm: Paul Doumer, Beau (1902-1908) Klobukowski(1908-1911) Đến thời Albert Sarrault, thời kỳ trước thế chiến thư nhất, có rất nhiều loges thành lập: bốn loges thuộc hệ thống GLDF (Grand Loge de France). Nhân số năm 1906 có 500 hội viên.

Sau một thời gian ít hoạt động do chiến tranh 1914-1918, kể từ 1919 các loges trở lại hoạt động mạnh hơn: tại Saigon Les Abeilles d’Orient và la Fraternité d‘Extrême-Orient.

Cũng như trước thế chiến thứ nhất, các Toàn quyền sau đó phần nhiều là nhân viên tam điểm: Long, Merlin, Varenne.

Alexandre Varenne, thuộc nhóm xã hội rất được lòng giới trí thức cấp tiến, đã dùng nhiều người bản xứ trong hệ thống hành chánh của ông. Dưới thời Varenne có nhiều người Việt nam gia nhập tam điểm như sẽ trình bày sau.

Nhưng phe bảo thủ Pháp lo ngại, dưới sự điều động của Jean Lan, La Fraternité Tonkinoise chỉ trích Varenne là mị dân, bất tài. Năm 1927 chính phủ Point Carré thay thế Varenne bằng Pasquier. Khi Pasquier chết năm 1933, loge l’Avenir Khmer đề nghị tái bổ nhậm Varenne, nhưng cuộc vận động bất thành

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1930, Đông Dương có nhiều biến động. Người Pháp phải đối phó với cuộc vận động phục quốc của Quốc Dân Đảng, sự thành lập Cộng Sản Đông Dương, Toàn quyền Pasquier thi hành chính sách đàn áp. Tình trạng này chia rẽ giới tam điểm, Jean Lan thuộc loge Fraternité Tonkinoise đề nghị với Grand Loge tán trợ hành động của Pasquier, trong khi Jean Bouault thuộc Écossais du Tonkin và La Ruche d’Orient chỉ trích chính sách Pasquier, họ gọi đó là một chế độ độc tài cảnh sát (dictature policière).

Một số nhân vật tam điểm Pháp ở trong phe đàn áp, Maurice Weil, thuộc loge Khong Phu Tseu, chủ tọa tòa án đề hình, chỉ trong 5 ngày đã xử 121 người Việt Nam tham gia cách mạng, trong khi hai nhà giáo tam điểm khác, Constant Metter và Marcel Ner gửi phúc trình về ủy ban trung ương Ligue des droits de l’homme chỉ trích hành động của Weil.

Thời kỳ đen tối của Tam Điểm tại Việt Nam khi Chiến tranh 1939 bắt đầu tại Âu Châu, trong thời kỳ Đức chiếm đóng, chính quyền Pháp do thống chế Pétain cầm đầu cấm Tam Điểm họat động. Toàn quyền Decoux áp dụng chính sách cấm đoán các hội kín do Vichy chủ xướng từ tháng 8 năm 1940. Tài sản và của các loges bị xung công hay phát mãi. Luật ngày 11 tháng 8 năm 1941 cấm giới cao cấp tam điểm giữ các chức vụ công lập.

Hết chiến tranh thứ hai, người Pháp trở lại Đông Dương với Đô Đốc d’Argenlieu làm Cao Ủy, Tam Điểm khôi phục lại một cách khó khăn. Tại Sài gòn, ngay từ tháng 10 năm 1945 Ủy viên Cộng hòa Cédile thúc đẩy Maurice Weil làm sống lại các loges.

Ngày 11/12/1945, một cuộc họp khôi phục lại loge Khong Phu Tseu, gồm có 10 nhân vật, trong đó chỉ có một người Việt là bác sĩ Tân Hàm Nghiệp.


Theo chân tướng Leclerc vào Bắc Việt đầu năm 1946, tại Hà nội đã có vận động tái lập loge La Fraternité Tonkinoise. Hai loges Confucius và Les Écossais du Tonkin không hoạt động lại, Chỉ có La Fraternité tonkinoise hồi phục dưới sự chủ tọa của Eugène Berthet. Lúc đó độc lập và thống nhất Việt Nam là vấn đề then chốt, sự tham dự của người Việt trong tam điểm tại Hà Nội hầu như rất giới hạn.

Thời đệ nhất cộng hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, nhân số tam điểm ít dần, và hoạt động thưa thớt. Chính quyền thời đó bắt đầu ghé mắt đến trụ sở của hai loges “Khong Phu Tseu” và “Réveil de l’Orient”. Năm 1960, đô trưởng Sài gòn gửi văn thư cho l’Association Le Réveil de l’Orient và Khong phu Tseu yêu cầu hoàn lại bất động sản cho chính quyền Việt nam. Cũng trong thời kỳ này một số tam điểm Mỹ, mà nhân số lên đến 80 người, vận động thành lập tam điểm hệ thống Phi Luật Tân, nhưng không có kết qủa cụ thể.

Sang đệ nhị cộng hòa, năm 1965, Raymond Guilmet tổ chức lại tam điểm nhờ sự trợ giúp của một nhân viên trong Mission Culturelle, nhưng hoạt động yếu ớt, nhân số năm 1972 vẻn vẹn còn 10 người, rồi chấm dứt hoạt động hẳn từ 1975.


Người Việt Nam trong hội Tam Đìểm

Mặc dầu tam điểm đã hoạt động tại Việt Nam trong buổi đầu của chế độ thuộc địa, nhưng chỉ dành cho người Pháp. Tuy nhiên trong Franc-Macons d’Indochine, Jacques Dalloz có ghi lại một người Việt tên là Trần Nguyên Hanh đã gia nhập “Le Réveil de l’Orient” năm 1884, nhưng bị khai trừ vì không đóng niên liễm!


Đầu thế kỷ 20, thường chỉ có người Việt Nam sinh sống trên đất Pháp gia nhập tam điểm.

Ông Đỗ Hữu Trí, luật sư tại Paris, hội viên của loge “Libre Examen” từ 1903 đến 1904, sau vào loge Action de Paris.


Ông Cao Triều Phát, thuộc một dòng họ trung lưu Nam Kỳ, thông ngôn trong thế chiến thứ nhất, gia nhập tam điểm tại Bordeaux năm 1917. Khi trở về nước, ông hoạt động trong tam điểm tại Sài gòn, nhưng sau đó ông sang hàng ngũ Việt Minh.

Trong thập niên 20, một số người Việt Nam phần đông là các du học sinh tại Paris và tại các tỉnh phía nam nước Pháp, gia nhập các loges “Vrais Fidèles” và “A. Comte”. Có hai nhân vật nổi tiếng trong nhóm này, là Bùi Quang Chiêu và Dương Văn Giáo.

Ông Bùi Quang Chiêu sinh năm 1873 du học ngành canh nông tại Alger rồi sang Paris. Ông sáng lập đẳng lập Hiến năm 1919, ông vào loge tam điểm ”France-Colonnies” năm 1925, ông muốn lợi dụng tinh thần cấp tiến để cải tiến tình trạng thuộc địa. Trong cuộc bầu cử hội đồng thuộc địa, 10 người nhóm Lập Hiến của ông trúng cử và ông được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng, riêng ông bị cánh thực dân bảo thủ công kích, nên ông không tiến xa trong hệ thống của tam điểm.

Ông Dương Văn Giáo sinh năm 1988, du học tại Pháp, gia nhập loge Jean Jaurès năm 1924.

Cũng phải kể đến Hồ Chí Minh3, gia nhập loge Fedération Universelle năm 1922 dưới tên Nguyễn Ái Quấc, khai ngày sinh là 15-2-1895, nghề nghiệp thợ ảnh, do sự giới thiệu của Boulanger. Theo hồ sơ cảnh sát Pháp, trong năm 1922 ông Hồ có tham dự nhiều buổi họp của tổ chức tam điểm.


Một trường hợp đáng chú ý khác là cựu hoàng Duy Tân, bị chính quyền bảo hộ truất phế năm 1917, đầy sang đảo Réunion, làm nghề sửa máy radio, lúc ấy người Pháp gọi ông là hoàng tử Vĩnh San. Ông gia nhập loge “L’Amitié” năm 1927.


Trong khi tại chính quốc người Việt gia nhập tam điểm dễ dàng, thì ở trong nước, người Pháp tranh luận khá lâu để “cho phép” người “bản xứ” gia nhập Tam điểm.

Sau thế chiến 1914-1918, tam điểm thuộc hệ thống Grand Orient de France (GODF)có các loges “Le Réveil de l’Orient” và “Les Fidèles du Progrès” tại Sài gòn, loge “La Fraternité Tonkinoise” tại Hà Nội, loge “l’Étoile du Tonkin” tại Hải Phòng, loge “l’Avenir Khmer” tại Pnom Penh; thuộc hệ thống Grand Loge de France (GLDF) có loge “Ruche d’Orient” tại Sài gòn, và “Les Écossais du Tonkin” tại Hà Nội. Thành viên là người Pháp, hoặc người Việt đã gia nhập tam điểm tại Pháp, nhưng đối với dân thuộc địa thì lại khác. Cuộc tranh luận bắt đầu từ thập niên 20.


Năm 1922, Goupillon trao cho thuộc viên làm một cuộc nghiên cứu về vấn đề này. Trong tờ trình ngày 22-1-1924 gửi về tổng thư ký Grand Loge De France, ông đề cập đến dân bản xứ đến nay vẫn chưa có mặt trong các loge tam điểm, ông kết luận phải để dân thuộc địa gia nhập tam điểm vào các loges hiện hữu một cách khôn khéo, hoặc là thành lập các loges đặc biệt. Paris trả lời để cho địa phương tùy nghi, nếu thấy hợp lý, vì chưa bao giờ cấm sắc dân da vàng gia nhập tam điểm. Ngày 23 tháng 12 năm 1924, Goupillon trả lời “Les indigènes ne sont pas assez évolués et ne seront pas avant longtemps”.

Với sự tán trợ của Toàn quyền Maurice Long và Thống đốc Nam Kỳ Cognacq, Goupillon thiết lập một văn phòng bảo trợ (cho tập sự tam điểm) gồm có người Pháp và hai người Việt là Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Văn Thinh.

Một số hội viên tam điểm người Pháp chống lại các loge tam điểm mà người Việt Nam chiếm đa số, Jean Lan trong loge “Fraternité Tonkinoise”, Paquin thuộc loge “l’Étoile du Tonkin”, Bouault thuộc loge “Le Réveil de l’Orient”, đã tỏ ý lo ngại người Việt có thể biến tam điểm thành các tổ chiến đấu chống Pháp. Trong bức thư ngày 10 tháng 1 năm 1934 gửi về Paris cho Grand Orient de France, Jean Lan tố cáo loge Confucius chỉ có 8 người mà người Việt đã chiếm 5 chỗ với Phạm Huy Lục chủ tọa. Jean Lan đưa ý kiến là nếu một người Pháp làm chủ tịch loge sẽ tránh được các âm mưu bài thực dân. Vì vậy toàn quyền lâm thời hồi đó đã có dự định đóng cửa loge “Confucius” và được Jean Lan tán thành. Nhưng vì ngại nhiều phản ứng người Pháp chưa dám ra tay, loge “Confucius” vẫn tồn tại đến năm 1940.


Thời kỳ phát triển mạnh của tam điểm trong giới trí thức Việt Nam bắt đầu từ năm 1925. Tại Hà Nội Albert Janvier thành lập loge Confucius, loge này ủng hộ chính sách của Toàn quyền Varenne và nhận được cấp viện của chính quyền thực dân. Loge Confucius gồm có một số trí thức người Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, nổi bật hơn cả là các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Huy Lục, Phạm Quỳnh.

Ông Nguyễn Văn Vĩnh, sinh năm 1882, hơn Phạm Quỳnh 10 tuổi, nhưng hai người có nhiều điểm tương tự, cùng tốt nghiệp trường thông ngôn, thông thạo văn hóa Pháp và Việt, hiểu biết thêm về nước Pháp qua việc tham dự đấu xảo thuộc địa Marseille, hai ông cùng trong giới báo chí, dịch sách Pháp văn, truyền bá quốc ngữ.


Tuy nhiên Phạm Quỳnh thiên về quân chủ trong khi Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương cộng hòa. Sau này ông Phạm Quỳnh trở thành thượng thư trong triều đình Bảo Đại.


Ông Phạm Huy Lục, đảng viên đảng xã hội (SFIO), là Chủ Tịch Viện Dân Biểu Bắc kỳ

Tại Sài gòn, ngày 19-12-1929 có cuộc họp sơ khởi thành lập một loge mới, do Weil chủ trì, loge sẽ gồm một số trí thức, theo nghi thức écossais, niên liễm cao, làm việc bằng tiếng Pháp. Ngày 4-1-1930, lại họp để đặt tên cho loge, giữa các đề nghị Thích Ca, Khổng Mạnh, Lão Tử, cuối cùng theo đề nghị của Bùi Quang Chiêu, danh xưng “Khong Phu Tseu” được chấp nhận; buổi họp gồm có Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Cao Triều Phát, Cao Sĩ Tấn, Nguyễn Xuân Bái, Đỗ Hữu Bưu, Trần Văn Tý.

Loge Khong Phu Tseu gốm phần đông luật gia như Weil Lavau, đặc biệt có hai luật sư Việt từ Pháp về nước, các ông Trịnh Đình Thảo và Dương Văn Giáo.


Ông Trịnh Đình Thảo sinh năm 1901, con của một viên chức trong chính quyền thời đó, ông được thống đốc Cognacq giúp đỡ đi du học luật tại Aix-en-Provence, ở đó năm 1927 trong hội nghị Aix, với hơn trăm sinh viên “annamites”, ông chỉ trích chính sách thuộc địa. Năm 1931 ông gia nhập loge “La Ruche”, về sau vào loge “Khong Phu Tseu”. Năm 1935 ông ứng cử vào hội đồng thuộc địa Nam Kỳ, nhưng bị thống đốc Pagès từ chối. Trong hệ thống tam điểm ông có chức tước cao lên đến hàng 31 trong 33 trong phẩm trật tam điểm.
(Hình dưới: Trích Historia Special N48 Juillet - Aout 1997, trang 71).


tamdiem1.jpg

Dương Văn Giáo, vào tam điểm tại Pháp năm 1924, là chủ tich hội sinh viên Việt nam tại Pháp, ông đã tham dự và diễn thuyêt tại hội nghị Aix (congrès d’Aix). Là sáng lập viên của loge “Khong phu Tseu”, ông đã thay thế Weil năm 1934, và đắc cử vào hội đồng thuộc địa năm 1935. Nhưng ông bị khai trừ khỏi luật sư đoàn, ông rời Sài gòn và sang Thái Lan, trở thành cố vấn cho Pridi Banomyong, một nhân vật chính trị quan trọng trong việc canh tân Thái lan, mà ông đã quen biết khi còn là sinh viên luật bên Pháp.

Theo Nguyễn Ngọc Châu, loge “Carrefour International de Fraternité” được thiết lập năm 1935 tại Tây Ninh, gồm có nhiều nhóm khác nhau Trần Trọng Kim, Tạ Thu Thâu , Mỹ, tuớng Chennault và Stilwell, Anh, Nhật, Tầu và Phi Luật Tân (Osmena), Hợp tác với nhóm này còn có Bùi Quang Chiêu, Trần Quang Nghiêm, Cao Triều Phát, Đặng Trung Chu; về sau một số tách ra như Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Trần Trọng Kim...


Do sáng kiến của Dương Văn Giáo, hai loges La Ruche và Khong Phu Tseu đề nghị thành lập một loge cho Hoa Kiều tại Việt Nam, viện lý là mặc dù bên Tàu đã có Tam Điểm, nhưng chịu ảnh hưởng phe anglo-saxon (Tưởng Giới Thạch cũng là một hội viên tam điểm). Do đó, ngày 28 tháng 2 năm 1940, loge chinoise “Minh Luen Thang” (temple de Confucius) được thành lập với Tan Jou Ky làm chủ tịch.


Cũng nên kể tên vài nhân vật khác có sinh hoạt ít nhiều trong tam điểm, như Hoàng minh Giám, Lê Thước, Tạ Thu Thâu (hồi du học bên Pháp), Vương Quang Nhường, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Văn Quang, Thẩm Hoàng Tín, Vũ Đình Mân, Lê Thăng, Nguyễn Quang Oánh, Vương Tử Đại, Nguyễn Công Chiêu, Lê Thành Ý, Trần Văn Lai.



Vài nhận định

Dường như sau khi các cuộc vận động dành tự chủ bất thành, từ cần vương, duy tân, đông du, đến chính trị hay cách mạng, trong tình huống còn phải lệ thuộc người Pháp, một số trí thức Việt nam muốn chuyển sang con đường hoạt động văn hóa, kỹ thuật hay xã hội.


Mặt khác, người Pháp phải bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách ngăn ngừa các dòng tư tưởng văn minh khác của Anh và Đức xâm nhập vào Việt Nam, nhất là sau thế chiến thứ nhất, đã mở cửa cho người “bản xứ” vào hội tam điểm.


Toàn quyền Albert Sarraut trong hai nhiệm kỳ 1911-1913 và 1917-1919 chủ trương đem văn hóa Pháp ngăn chặn sĩ phu Việt nam thời đó thường ham chuộng các dịch phẩm Trung Hoa.


Sarraut báo cáo về bộ thuộc địa rằng dân Việt rất ít thông thạo về văn hóa Pháp. Ông viết tiếp Anh văn và Đức văn có rất nhiều ảnh hưởng tại viễn đông, các dịch phẩm xuất bản tại Thượng hải do các cửa biển đã du nhập vào VN. Ông tỏ ra bực bội khi thấy người Việt thích đọc Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu.


Trong bản tường thuật trên tờ Viễn Đông Bác Cổ năm 1911 về kỳ thi quan trường, Noel Péri tiết lộ rằng không thấy công luận chú trọng vào Pháp quốc, và sách báo Trung Hoa đầy rẫy trên các tủ sách của giới quan lại Việt Nam tại miền bắc, nhất là sách của Khang Hữu Vi, mặc dù đã có lệnh cấm.


Nhận xét thấy vào năm 1917 có khoảng 75.000 học sinh tại Việt nam, năm 1921 lên đến 150.000, năm 1931, số người đọc sách báo tại Bắc kỳ vào khoảng 10.000, người Pháp chú trọng trợ giúp giới trí thức Việt Nam để phát triển văn hóa Pháp. Các ông Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Vĩnh với các cơ quan ngôn luận Nam Phong, La tribune Indigène Đông Dương tạp chí, rồi Trung Bắc Tân văn là những ví dụ cụ thể.

Theo Vatrac, đến năm 1930 người Việt còn tiếp tục đọc sách báo Trung Hoa in tại Quảng Châu và Thượng Hải, bán rẻ với giá từ 10 tới 12 xu. Trong cuộc chiến văn hóa chính trị này, người Pháp liền mua sách nói về tư tưởng tây phương của Nguyễn Văn Vĩnh và phân phối miễn phí 65.000 tập sách và 1.800.000 truyền đơn.


Albert Sarraut tín nhiệm hai cố vấn chính trị văn hoá Marty và Schneider trong các kế hoạch dùng người Việt Nam và phương tiện văn hóa Việt Nam để ngăn chặn các ảnh hưởng văn hóa tây phương khác. Ông muốn đưa văn minh Pháp xích gần lại với người Việt nam.


Câu hỏi đặt ra là nhóm người Việt trong các hội tam điểm đã làm được những gì.

Âu hóa, duy tân theo phương cách của họ kết quả ra sao. Đáp số có lẽ cần một công trình nghiên cứu có chiều sâu đáng kể.


Tuy không lập thành một nhóm riêng biệt có mục tiêu rõ rệt, nhưng họ có địa vị uy tín. Từ khi Toàn Quyền Varenne nhậm chức, trong khoảng 16 năm (1925-1940), người “bản xứ” gia nhập đông đảo vào tam điểm, tiến cao thêm trong phẩm trật của hội kín. Dù có va chạm với một vài người Pháp (như Jean Lan, Paquet ...) hội viên vẫn còn mầu sắc bình đẳng trong sinh hoạt của họ, nhất là trong hai loges “Confucius” và “Khong Phu Tseu”, ở đó người Việt chiếm đa số. Về điểm này, có thể nói Tam Điểm là một trong ba tổ chức cấp tiến dưới chế độ thuộc địa hồi đó, hai tổ chức khác là đảng xã hội SFIO, và hội Nhân Quyền.

Thế nhưng hoài bão canh tân đất nước trong sự liên kết với chính quyền thuộc địa là một thất bại của những người tam điểm Việt nam, tuy họ có nhiều thiện chí và nhiệt thành. Không như các nước tự chủ Thái Lan và Nhật Bản đã thành công trong việc canh tân đất nước của họ đầu thế kỷ 20, ở Việt Nam sự thành công trong việc hợp tác với phe thống trị để dành lại chủ quyền cho người dân chưa có một kết quả nào đáng kể.

Sự nghiệp của nhiều nhân vật mai một dần. Dương Văn Giáo sang Thái Lan làm cố vấn cho ông bạn Pridi, Nguyễn Văn Vĩnh chết khi đi tìm vàng tại Lào, trong khi người bạn Thái lan Vichit Vathakan của ông trở thành bộ trưởng văn hóa, Trần Trọng Kim chưa làm được gì trong chức vụ thủ tướng, Nguyễn Văn Thinh oan nghiệt chấm dứt đời mình ngay khi còn tại chức thủ tướng, Tạ Thu Thâu bị Việt minh giết, Phạm Quỳnh tuy gây được sự nghiệp văn học, nhưng cuộc đời kết liễu thảm thuơng, một số khác theo đảng cộng sản.

Có thể lấy ngày 27-6-1952 đánh dấu cuộc chia tay tam điểm Việt Pháp. Hôm ấy, Thị trưởng Hà Nội Thẩm Hoàng Tín, trước đây là một nhân vật trong loge “La Fraternité tonkinoise”, gặp các nhân vật tam điểm Pháp (Gréberg, Barjon, Jiffard) yêu cầu Pháp trao trả độc lập hoàn toàn trong vòng 18 tháng cho Việt Nam. Vénérable Grébert phản kích đề nghị này, trong báo cáo về Paris ông mệnh danh nguời “anh em cũ” này thuộc bọn hăm hở bài Pháp (acharnés propagandistes antifrancais).


Cho đến năm 1954 ở Hà Nội không còn người Việt sinh hoạt trong tam điểm, tại Saigon bác sĩ Tân Hàm Nghiệp lẻ loi giữa đám người Pháp.


29/07/2007


tamdiem2.jpg

Trích Historia Special N48 Juillet - Aout 1997, trang 127


tamdiem3.jpg





HỒ CHÍ MINH VÀ HỘI TAM ĐIỂM
Trần Gia Phụng, Aug 13, 2007 1.- NGUYỄN ÁI QUỐC VÀO HỘI TAM ĐIỂM

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử hiện đại hoạt động kín đáo, thường thay tên đổi họ, và thường che giấu hành tung của mình. Một trong những điều được ông che giấu suốt đời là việc ông gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) Pháp năm 1922. Hồ Chí Minh đã dùng tên khác, viết sách để tự ca tụng mình, nhưng hoàn toàn không hé lộ một tý nào về việc ông gia nhập hội Tam Điểm. Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) cũng tránh né không nói đến trong các bản tiểu sử của Hồ Chí Minh.

Tài liệu bằng tiếng Việt đầu tiên và duy nhất lưu hành ở Hà Nội, nói về việc Hồ Chí Minh gia nhập Hội Tam Điểm có lẽ là sách Nguyễn Ái Quốc tại Pari 1917-1923, Nxb: Thông Tin Lý Luận ấn hành năm 1989, tác giả là bà Thu Trang. Trong sách nầy, bà Thu Trang viết rằng: “Theo một mật báo đã ghi ngày 14 tháng 6 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Franc-Maçonnerie (Tam điểm)...” (tr. 201.)

Mẩu tin nầy không bị ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đảng CSVN kiểm duyệt hay gạch bỏ, có thể nhờ câu tiếp theo của bà Thu Trang: “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ. Mặc dù theo truyền thống, Hội trên chỉ dành cho giới giáo sĩ, quý tộc hoặc những nhà trí thức bác học tên tuổi v.v... Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào hội nầy là do được sự giới thiệu (ít nhất phải có hai hội viên cũ giới thiệu) như một nhà báo lỗi lạc, hay một nhà cách mạng đã có tên tuổi? Khó mà đoán được...” (tr. 201.)

Cần chú ý các điểm: 1) Bà Thu Trang không phải là người Việt ở trong nước, mà bà đã định cư ở Paris từ năm 1961. Bà được Nhà xuất bản Thông Tin Lý Luận Hà Nội giới thiệu là “một nữ trí thức Việt kiều ở Pháp, với lòng tôn kính Bác Hồ”(Lời nhà xuất bản, tr. 5.) 2) Năm xuất bản là năm 1989, tức 20 năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời (1969). Năm đó, nhà cầm quyền cộng sản các nước trên thế giới tương đối cởi mở, kể cả Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nên mẩu tin nầy không có gì làm mất uy tín đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). 3) Đa số người Việt trong nước ít biết Hội Tam Điểm là hội gì, chủ trương như thế nào?

Hội Tam Điểm (Franc - Maçonnerie do tiếng Anh: Freemasonry) nguyên là một hội đoàn giáo dục, nhắm truyền bá cho hội viên một triết lý sống có đạo đức. Xuất hiện ban đầu ở Anh vào thế kỷ 17 như một nhóm nghề nghiệp (thợ nề, thợ chẻ đá). Về sau nhóm trở thành một hội đoàn hướng đến lý tưởng cao cả như bác ái (fraternity), bình đẳng (equality) và hoà bình (peace). Dần dần hội cho gia nhập cả những người giàu có hoặc có địa vị trong xã hội. Lý tưởng chấp nhận tự do tín ngưỡng và bình đẳng giữa mọi người của hội Tam Điểm đi đôi với chủ nghĩa tự do thời thế kỷ 18. Hội Tam Điểm phổ biến ở các nước nói tiếng Anh, bị Giáo hội Ky-Tô giáo La Mã chống đối, vì Giáo hội cho rằng hội Tam Điểm tranh quyền với Giáo hội. Do đó, hội Tam Điểm không được chấp nhận ở các quốc gia theo Ky-Tô giáo La Mã. Dầu vậy, dần dần hội Tam Điểm phát triển khắp nơi. Hiện nay, trên thế giới, hội Tam Điểm đông nhất là hội Hoa Kỳ, chiếm khoảng 75% hội viên toàn cầu. Có nơi hội Tam Điểm chia ra thành nhiều phái và có khi chống đối nhau.(1)

Như thế, tuy cùng đề cao lý tưởng và quyền lợi công nhân, nhưng hội Tam Điểm phóng khoáng, tự do, trong khi đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị độc tài và hai bên rất chống đối nhau. Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập đảng Cộng Sản Pháp từ cuối năm 1920 đầu năm 1921. Nguyễn Ái Quốc chuyển qua hội Tam Điểm là hội đối nghịch với đảng CS vào năm 1922. Bà Thu Trang giải thích rằng “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ...” Tuy nhiên, xin đừng quên một điều là lúc đó, đời sống Nguyễn Ái Quốc tại Paris rất khó khăn. Tình trạng nghèo khó nầy được ông mô tả lại khá rõ trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch dưới bút danh Trần Dân Tiên. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc vào hội Tam Điểm để tìm kiếm một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới?

Nguyễn Ái Quốc vào Hội Tam Điểm ngày 24-6-1922, thì trong tháng 7-1922, Nguyễn Ái Quốc hai lần gặp gỡ Phạm Quỳnh tại Paris, cũng là một nhân vật Tam Điểm Việt Nam. Nguyên lúc đó, vua Khải Định (trị vì 1916-1925) hướng dẫn phái đoàn Việt Nam sang dự cuộc đấu xảo (hội chợ triển lãm) ở Marseille (Pháp). Phạm Quỳnh tháp tùng theo phái đoàn nầy. Lúc đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo, nghị viên Hội đồng thành phố Hà Nội, và đã gia nhập Hội Tam Điểm ở Hà Nội.

Theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.

Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Xin xem phần tài liệu phía dưới.)

Vài tháng sau khi gia nhập Hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quốc ra khỏi hội nầy và suốt đời giấu kín việc vào hội Tam Điểm vì một điều dễ hiểu, hội Tam Điểm đối nghịch với đảng CS. Vậy phải chăng vì Phạm Quỳnh biết rõ chuyện Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm ở Paris sau hai cuộc tiếp xúc vào tháng 7-1922, mà Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc, ra lệnh thủ tiêu Phạm Quỳnh ngày 6-9-1945, tại một địa điểm cách Huế 20 km, để giấu kín bí mật của mình?

Theo lời tác giả Thu Trang, “Nguyễn Ái Quốc đã không ở lâu trong Hội nầy [Tam Điểm], vì cuối năm 1922 trên báp L'Humanité, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.”(sđd. tr. 201.) Thật ra, lý do chính Nguyễn Ái Quốc dứt điểm hội Tam Điểm, vì lúc đó ông được đại diện Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản mời sang Nga hoạt động. Lời mời nầy vẽ ra trước mắt ông một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới.

Nguyên vào tháng 10-1922, D. D. Manuilsky, đại diện ĐTQTCS, từ Moscow qua Paris dự Đại hội kỳ 2 đảng CS Pháp. Nhân đó Manuilsky mời Nguyễn Ái Quốc sang Moscow tham gia Hội nghị Quốc tế Nông dân vào năm 1923.(2) Sự việc nầy có nghĩa là Manuilsky chọn Nguyễn Ái Quốc để đưa qua Liên Xô huấn luyện. Nhận được lời mời Manuilsky, Nguyễn Ái Quốc vĩnh biệt hội Tam Điểm.

Ra khỏi hội Tam Điểm để gia nhập một tổ chức khác thích hợp với mình hơn, là chuyện bình thường. Chuyện bất bình thường ở đây là vào tháng 6 tuyên thệ gia nhập hội Tam Điểm, thì khoảng chưa đầy nửa năm sau, Nguyễn Ái Quốc lại “thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.”(Bà Thu Trang, đã dẫn.) Ngay từ lúc nầy, mới bước vào con đường chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã tự chứng tỏ là một con người “cơ hội chủ nghĩa”, vừa lật lọng, vừa phản bội.

Bên cạnh sách bằng tiếng Việt, bà Thu Trang, với tên Thu Trang-Gaspard viết lại chuyện Nguyễn Ái Quốc ở Paris bằng tiếng Pháp, nhan đề sách là Hồ Chí Minh à Paris (1917-1923), do Nxb. Éditions L'Harmattan ấn hành tại Paris năm 1992, nội dung giống sách trên.

Về việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm, ngoài những tài liệu của bà Thu Trang trên đây, còn có một số tài liệu chi tiết hơn của các tác giả Pháp. Một trong những người nầy là Jacques Dalloz. Ông viết sách Francs-maçons d'Indochine, Paris: Éditions Maçonniques de France, 2002. Sách nầy trình bày đầy đủ những nhân vật Tam Điểm ở Việt Nam, trong đó có Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc.

Riêng về Nguyễn Ái Quốc, ngoài sách trên, trong bài báo nhan đề “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue française D'Histoire d'Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d'Histoire d'Outre-mer, tr. 105, Jacques Dalloz viết: : “Vào đầu năm 1922, do sự giới thiệu của một nhà chạm trỗ tên là Boulanger, ông ta dự lễ gia nhập của tổ Fédération universelle (Paris GODF). Phiếu của ông ta ghi là: “Nguyễn Ái Quấc, sinh ngày 15-2-1895 (Việt Nam), thợ tô sửa hình, thợ vẽ.” (tạm dịch từ nguyên bản Pháp văn là: “Au début de 1922, il s'est présenté à l'initiation de la loge la Fédération universelle (Paris GODF), recommandé par le graveur Boulanger. Sa fiche indique: “Nguyen Ai Quâc, né le 15-2-1895 (Annam), retoucheur en photo, dessinateur”.) (3)

Trong mệnh đề nầy có hai điều đáng chú ý: Thứ nhất là danh xưng Nguyễn Ái Quấc và thứ hai ngày sinh của Nguyễn Ái Quấc.

2.- DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUẤC (QUỐC) và HỒ CHÍ MINH

Danh xưng Nguyễn Ái Quấc (Quốc) lúc đầu không phải là tên một người, mà là tên chung của bốn người. Đó là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành.(4) Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc, đồng ký bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn do Phan Văn Trường viết, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles (Paris) sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L'Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.

Trong bốn người cùng dùng chung biệt hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường sống và hoạt động chính trị tại Pháp khá lâu, đang bị mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt. Nguyễn Thế Truyền (1898-1969) là sinh viên du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để theo học ngành hóa học,(5) nên không thể công khai chống Pháp.

Chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám chú ý. Nguyễn Tất Thành tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại Nghệ An, con ông Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) và bà Hoàng Thị Loan. Lúc nhỏ, Nguyễn Sinh Cung học chữ Nho, rồi chuyển qua tân học, theo chương trình Pháp. Sau khi đậu tiểu học khoảng năm 17 tuổi, Nguyễn Sinh Cung vào học lớp nhất niên (năm thứ nhất bậc trung học tức lớp 6 ngày nay) trường Quốc Học (Huế) năm 1907.

Một người bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung ghi nhận lúc học Quốc Học, Cung vẫn mang tên nầy. Tài liệu nầy cho biết thêm rằng đang học lớp nhất niên trường Quốc Học [tương đương với lớp ngày nay], Cung cùng học sinh Quốc Học tham gia biểu tình trong vụ Trung Kỳ dân biến tại Huế tháng 4-1908. Pháp đàn áp cuộc dân biến. Cung lo sợ bị bắt, liền bỏ học, trốn vào nam.(6) Ông ghé Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, rồi làm giáo viên dạy Quốc ngữ và chữ Pháp ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào năm 1910, với tên mới là Nguyễn Tất Thành.(7) Như vậy, có thể Nguyễn Sinh Cung đổi tên thành Nguyễn Tất Thành trong khoảng thời gian nầy.

Trong khi đó, phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc) đang làm thừa biện [thư ký] bộ Lễ ở Huế, được bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5-1909, tức được thăng chức. Điều nầy chứng tỏ Pháp và triều đình Huế lúc đó không quan tâm đến hoạt động của học sinh Nguyễn Sinh Cung, nên không ghép Nguyễn Sinh Huy vào tội không biết dạy con và mới cho phụ thân của Cung thăng quan. Năm sau (1910), quan huyện Nguyễn Sinh Huy dùng roi mây đánh chết người nên bị sa thải.

Dạy học tại trường Dục Thanh được nửa năm, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911.

Sau hơn hai tháng có mặt ở Pháp, Nguyễn Tất Thành viết tay hai lá đơn đề ngày 15-9-1911, có nội dung giống nhau; một gởi cho tổng thống Pháp, một gởi cho bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp, xin vào học École Coloniale (Trường Thuộc địa) ở Paris, nơi đào tạo những quan chức cho các nước thuộc địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành bị người Pháp từ chối.

Nguyễn Tất Thành tiếp tục đi tàu biển một thời gian. Sau đó, ông cư trú ở Luân Đôn (London), thủ đô của Anh. Giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, tiếp xúc với nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Nhờ sự giới thiệu của ba người nầy, Thành bắt đầu làm quen với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ Pháp.

Sau khi cả bốn người cùng ký bản “Revendications du peuple annamite”, ba người trước tránh mặt vì lý do an ninh, Nguyễn Tất Thành thường đại diện nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Có thể do đó, dần dần Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của ông. Trong suốt cuộc đời còn lại, Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Ái Quốc còn có cả vài chục tên khác nhau, cho đến khi ông lấy tên cuối cùng là Hồ Chí Minh.

Có một điểm đáng chú ý: Nguyễn Sinh Cung bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng tên Nguyễn Ái Quốc và kết thúc sự nghiệp chính trị bằng tên Hồ Chí Minh. Hai tên nầy đều do Nguyễn Sinh Cung chiếm dụng của người khác.

Nguyên tại Nam Kinh (Trung Hoa), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh.(8) Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Trung Hoa lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan)... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942.(9)

Riêng danh xưng Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung rất thích thú với tên nầy. Theo Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội, trong bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", thì ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm, mà là con ông Hồ Sĩ Tạo. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Theo Trần Quốc Vượng, Hồ Sĩ Tạo thương đứa con rơi, mới gởi gắm Nguyễn Sinh Sắc vào học trương Quốc tử giám ở kinh đô Huế. Trần Quốc Vượng còn viết rằng: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm."(10)

3.- NGÀY SINH CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH

Khi đến Pháp năm 1911, Nguyễn Sinh Cung dưới tên mới là Nguyễn Tất Thành, làm đơn xin vào học trường Thuộc Địa Paris. Trong đơn, Nguyễn Tất Thành tự khai là sinh năm 1892.(Xin xem tài liệu phía dưới.) Nay trong đơn vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, tự khai là sinh ngày 15-2-1895. Theo tài liệu của đảng CSVN, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung lúc nhỏ, sinh ngày 19-5-1890. Ngày sinh nầy được đưa ra chính thức năm 1946, khi Hồ Chí Minh mới cầm quyền chưa được một năm.

Nhìn vào ba ngày hay năm sinh do chính Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành, rồi Nguyễn Ái Quấc, rồi Hồ Chí Minh, tự tay viết ra, rõ ràng hoàn toàn không giống nhau cả năm lẫn ngày tháng. Năm 1911, khi xin vào học trường Thuộc Địa, có thể lúc đó phải theo điều kiện tuổi tác ghi danh vào học, Nguyễn Tất Thành đề là sinh năm 1892, tức vừa trên 18 tuổi vào năm 1911. Năm 1922, khi xin vào hội Tam Điểm, không hiểu dựa vào đâu, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh năm 1895, tức 27 tuổi vào năm 1922.

Chuyện ngày 19-5, sinh nhật Hồ Chí Minh là một thủ thuật chính trị. Nguyên sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, theo quyết định của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, quân đội Nhật bị giải giới bởi quân Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16 và bởi quân Anh ở Nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư nầy không nói đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân Nhật bị giải giới, nên Pháp liền lợi dụng kẻ hở nầy, trở lại Đông Dương.

Ở nam vĩ tuyến 16 (từ Tam Kỳ trở vào), Pháp theo quân Anh, đến Sài Gòn rồi dần dần tái chiếm miền Nam. Ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp thương lượng với Trung Hoa, và đi đến hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, theo đó Trung Hoa chịu rút quân từ ngày 1 đến 15-3-1946, và chậm nhất là ngày 31-3-1946. Ngược lại, Pháp trả về cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương, miễn thuế người Hoa ở Hải Phòng, và người Hoa chuyên chở hàng hóa ngang qua Bắc Việt sẽ khỏi phải chịu thuế.

Sau hiệp ước nầy, sáng sớm ngày 6-3-1946, sư đoàn 9 bộ binh Pháp đến Hải Phòng, dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean Valluy. Túng thế, Hồ Chí Minh liền báo tin cho Pháp biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp. Vào buổi chiều cùng ngày, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, vội vàng ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký bản văn nầy, ngoài Hồ Chí Minh, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Về phía chính phủ Pháp, đại diện là Jean Sainteny.

Trong khi đó, từ tháng 9-1945, quân đội Pháp theo quân Anh đến Đông Dương, chiếm Nam Lào, nhưng không tiến lên phía Bắc, vì vùng nầy do quân đội Trung Hoa giữ. Sau hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, quân Trung Hoa rời khỏi Lào ngày 12-3-1946. Pháp liền chiếm Vạn Tượng (Vientiane hay Viang Chan) ngày 23-4-1946.

Giải quyết xong việc Trung Hoa chịu rút quân khỏi Việt Nam, từ ngày 14-5-1946, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, bắt đầu mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 lần đầu tiên. D'Argenlieu đến Vạn Tượng ngày 17-5-1946, và dự tính sẽ đến Hà Nội vài ngày sau.

Đô đốc D'Argenlieu là cao uỷ Pháp tại Đông Dương, nghĩa là vừa đại diện nước Pháp, vừa được xem là nhà lãnh đạo các nước Đông Dương. Việt Nam mới ký thỏa ước Sơ bộ 6-3-1946 theo đó điều 1 ghi rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh đón rước D'Argenlieu nghĩa là đón rước quốc trưởng đến thăm Hà Nội.

Việc Hồ Chí Minh ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp, chính thức hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với lời thề diệt Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945, gây sự bất bình trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Nay lại đón rước D'Argenlieu đến Hà Nội và phải theo đúng nghi thức quốc gia, ít nhất phải có treo cờ chào mừng. Chắc chắn điều nầy càng gây thêm bất bình nơi quần chúng. Tuy nhiên, nhà cầm quyền VM vẫn ra lệnh treo cờ trong ba ngày 18, 19 và 20-5-1946. Việt Minh cho biết treo cờ không phải để chào đón đô đốc D'Argenlieu, mà để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19-5. D'Argenlieu đến Hà Nội chiều ngày 18-5-1946. Hồ Chí Minh và D'Argenlieu gặp nhau hai lần trong hai ngày liên tiếp 19 và 20-5-1946, nhưng không đạt kết quả đáng kể.(11)

Trước sự kiện nầy, có dư luận cho rằng Hồ Chí Minh lúng túng trong việc phải treo cờ đón D'Argenlieu cho đúng nghi thức, mới có sáng kiến đặt chuyện treo cờ để mừng sinh nhật, nhắm làm cho ông ta và chính phủ của ông ta khỏi mất thể diện, đồng thời làm cho dân chúng khỏi bất bình. Dư luận nầy có phần hữu lý ở chỗ trước đó, Hồ Chí Minh không bao giờ nói đến chuyện sinh nhật của mình, nay tự nhiên bày ra chuyện mừng sinh nhật. Hơn nữa, có điểm đáng chú ý là trong đơn xin vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh ngày 15-2-1895; nay Hồ Chí Minh lại công bố sinh nhật của ông ta là 19-5. Thế là nghĩa làm sao?

*

Tóm lại, ngày nay, không ai lấy làm lạ về việc Nguyễn Sinh Cung đã đổi nhiều tên, nhiều họ, nhiều năm sinh, tháng đẻ khác nhau, cho đến tên cuối cùng là Hồ Chí Minh với sinh nhật là ngày 19-5-1890. Điều đặc biệt là ngày chết của Hồ Chính Minh cũng không phải là một ngày. Người Việt Nam xem ngày chết rất quan trọng, thường tổ chức kỵ giỗ để tưởng nhớ người quá cố. Thế mà ngày chết của Hồ Chí Minh cũng được đảng Lao Động chính trị hóa, để phỉnh lừa dân chúng.

Nhiều người cho rằng vì hoạt động chính trị, Nguyễn Sinh Cung phải hành động như thế. Điều nầy chẳng có gì sai trái. Vấn đề là những hoạt động chính trị của Nguyễn Sinh Cung đã đem lại được gì cho đất nước Việt Nam?

Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh nói rằng ông tranh đấu để giải phóng dân tộc. Cái giá của việc giải phóng theo kiểu Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt phải trả thật quá cao. Nếu chọn lựa đi một con đường khác, không phải là con đường cộng sản, thì có thể tốt hơn. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam ra khỏi tay thực dân Pháp thì rơi vào tay thực dân nội địa (autocolonisation) [chữ của nhà báo Pháp Jean Lacouture], tức đảng CSVN, còn ác độc hơn thực dân Pháp. Giải phóng là cởi bỏ xiềng xích thực dân chứ không phải thay đổi xiềng xích thực dân, và để tiến lên chứ không phải để đi xuống.

Hồ Chí Minh nói rằng ông ta chống Pháp để giành lại độc lập? Nước Việt Nam càng ngày càng nhượng bộ và lệ thuộc Trung Quốc. Hồ Chí Minh bảo rằng ông ta tranh đấu cho tự do dân chủ? Dân chủ của Hồ Chí Minh là dân chủ theo kiểu “đảng cử dân bầu”. Còn về tự do, sau năm 1954, khi các nhà trí thức, văn thi sĩ Bắc Việt yêu cầu trả văn học nghệ thuật lại cho văn nghệ sĩ, nghĩa là để cho văn nghệ sĩ được tự do sáng tác, thì Hồ Chí Minh và đảng Lao Động trả lời bằng cách bắt bớ, giam cầm, đày đọa cho đến cuối đời hàng lọat trí thức, văn thi sĩ, mà rõ nét nhất là vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội năm 1956.

Hồ Chí Minh cải cách ruộng đất, hứa hẹn để thăng tiến đời sống nông dân? Hơn hai trăm ngàn người chết vì cải cách ruộng đất, toàn bộ đất đai của dân chúng do cha ông để lại bị quốc hữu hóa vào tay nhà nước cộng sản. Hồ Chí Minh đánh Mỹ để cứu nước? Thật ra là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc... (12)

Đó là những câu trả lời về mục đích cuộc đời chính trị của một nhân vật lịch sử thay tên đổi họ, như tắc kè thay màu da, chỉ để làm những việc hại dân, hại nước, nhất là du nhập và ứng dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto 21-6-2007)

CHÚ THÍCH

1. Tam Điểm: Các hội viên Franc-Maçonnerie khi viết thư cho nhau, thường gọi nhau là huynh đệ/anh em (frère), hay thầy (maýtre), thường viết tắt: F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm (điểm) như 3 đỉnh hình tam giác đều. Vì vậy, người ta gọi hội Franc-Maçonnerie là hội Tam Điểm. (Tập san Historia Spécial, Paris: số 48, tháng 7-8/ 1997, tr. 127.)
2. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại 1892-1924, tập 1: 1892-1924, in lần thứ hai, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 224.
3. Hội Tam Điểm gồm nhiều “obédiences”, xin tạm dịch là “phân bộ”. Mỗi obédience gồm nhiều “loges”, xin tạm dịch là “tổ”. Ở đây, Nguyễn Ái Quấc gia nhập vào tổ (loge) Fédération universelle thuộc obédience (phân bộ) GODF. GODF là viết tắt của chữ : Grand Orient de France.
4. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ' Indochine au Vietnam [Hồ chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tt. 44-45.
5. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 374. Học bỗng lên tới 5,759.50 francs. Lúc đó, số tiền nầy khá lớn.
6. Lê Thanh Cảnh, tạp chí Hoài niệm Quốc Học, Huế: 1956, tr. 37-39. Ông Lê Thanh Cảnh là bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung.
7. Hồ Tá Khanh, Thông sử công ty Liên Thành, Paris: 1983, tr. 34.
8. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, sđd. t. 168.
9. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập 2, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 281.
10. Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tt. 256, 258.
11. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu tập A 1939-1946, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1996, tt. 333-334.
12. Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.

calitoday.com



1 Danh xưng Tam Điểm do cách viết trong nội bộ của hội từ 1775, dùng ba chấm, tượng trưng cho Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái.

2 Trích revue francaise d'Histoire d'Outre-mer 3e trimestre 1998


Hội tam điểm , Hội kín bí ẩn nhất Thế giới



Hội tam điểm hay còn gọi là hội kín Illuminati là 1 hội có từ xa xưa , ko ai biết chắc chắn nó bắt đầu từ đâu , theo tiếng Latin có nghĩa là những người được thần linh khai sáng. Illuminati có lẽ là hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên thế giới. . Hình như nó là 1 hội của các người thợ chuyên xây cất các thánh đường xa xưa vốn chứa nhiều điều bí ẩn . Các đoàn viên đều phải giữ bí mật nghề nghiệp nên dần dần trở thành 1 hội kín .
Các hội viên đều được tuyển chọn trong những phần tử trí thức và quyền quí . Mỗi hội viên khi gia nhập đều phải qua 1 nghi lễ rửa tội và nhận 1 con vật làm hộ mệnh . Mục tiêu của hội này là triệt hạ tất cả những tôn giáo , nhất là Thiên Chúa Giáo để xây dựng 1 tòa nhà lý tưởng cho nhân loại
Không dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn bộ hệ thống chính trị ở Hoa Kỳ và Anh là do... một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm soát.


Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng Ngoại giao, một hội đồng hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ (xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron Fagan), và một hội kín mang cái tên rất “hình sự” là Skull and Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền. Dấu vết cụ thể nhất của Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla Mỹ. Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có khẩu hiệu “Novus ordo seclorum” (có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”). Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng; trên đó thường có vẽ những biểu tượng bí ẩn. Nếu đúng là như thế, thế lực của Illuminati quả là đáng gờm khi khẩu hiệu và biểu hiệu của họ không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla.

Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy bí ẩn này đã chất chứa vô số giai thoại nổi tiếng .Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của con người và thống trị toàn thế giới, liên kết mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn cầu. Chính vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới”.
Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật kiểm soát các vấn đề của thế giới, trong hậu trường chính trị. Lực lượng của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách cấp tiến, trong đó có cả những văn tài thế giới như Goethe và Herder... Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được lôi kéo từ hội Tam Điểm dù không có bằng cớ chứng minh cho liên hệ này.

Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc tế; đặc biệt là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller.
Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều cơ quan có “bảng hiệu” khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại cho đến hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng cái tên Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ).
Ở Việt Nam Hội Illuminati
du nhập từ thời Toàn quyền Pháp P.Pasquier (1937) và bành trướng tại miền Bắc vào thời Thống Chế Petáin . Đến thời Bảo Đại dưới chính phủ Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm hội lại càng hoạt động mạnh và xâm nhập vào bộ máy chính quyền


No comments: