Câu chuyện Vượt biển .
Blue Ridge (LCC19) Thiên Thần Áo XanhThay cho lời giới thiệu:
Lý Tuyết LêMột số lớn những người Việt tha hương (tỵ nạn) và những người đang lê lết một cuộc đời cùng khổ, đầy bất công, áp bức dưới chế độ CS tại quê nhà đều có những quảng đời - là những cuốn phim mà không một cuốn phim nào dầu chiếm được hàng bao giải thưởng cũng không sao sánh bằng; là những tập truyện mà không một tập truyện nào dầu thuộc loại bán chạy nhất cũng không làm sao qua mặt được. Những quãng đời đó dầu có thực sự được quay thành phim, viết thành truyện cũng không bao giờ có thể lột tả, nói lên được tất cả những gì đã xảy ra chung quanh họ, và những gì đã diễn ra trong lòng họ. Do đó chỉ có chính họ, là những người trong cuộc, là những chứng nhân, là những nhân vật trong cuốn phim, trong tập truyện của đời mình mới cảm nhận được tất cả những sự âu lo, phiền muộn, những nổi buồn xót xa, câm nín, những niềm hy vọng mong manh, thoáng chốc, những nỗi tuyệt vọng não nề, buông xuôi cho số kiếp, những sự sợ hãi, kinh hoàng đến chết ngất, những cơn đói khát vật vã, rã rời, những nỡi uất nghẹn đắng cay đến tột cùng, những nỗi tủi nhục tối tăm sâu thẳm, những nỡi mừng vui nghẹn ngào đầy nước mắt, những nỡi đớn đau quằn quại có lúc chất ngất trong lòng có lúc ray rức kéo dài như vô tận... Quãng đời họ là những cuốn phim không cần đạo diễn dàn dựng, là những tập truyện không cần hư cấu bởi nhà văn, là những câu chuyện sống thực cùng với nhịp tim, hơi thở và những cảm xúc của một đời người.Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 28 năm, tuy vậy ký ức tôi vẫn còn ghi rõ, vì đó là một kinh nghiệm đau thương, hãi hùng nhất trong cuộc đời tôi..
Trưa hôm đó (10/09/1980/ ) một buổi trưa gần cuối Thu, trời Đà Nẵng bổng dưng mây kéo về đen kịt, và mưa đổ không ngớt, tôi đang khe khẽ hát những câu ca dao ru con ngủ, nhìn con ngủ mà lòng xót xa, nghĩ rằng tương lai nó sẽ mù mịt như bầu trời ngoài kia, vì nó không may sanh ra trong một đất nước không có tự do. Nhà nội nó thì bị nhà nước trưng dụng, cả gia đình nội phải dồn vào một nhà kho chật hẹp tối tăm ẩm thấp để sinh sống. Không chỗ nương thân ba mẹ nó phải bồng nó chạy về nhà ngoại để tá túc...
Thình lình tiếng chuông trước cổng nhà vang lên cắt đứt dòng tư tưởng, tôi nhẹ nhàng xỏ vội đôi dẹp nhựt đi xuống lầu thì đã thấy má tôi mở cửa đón khách vào nhà. Đó là một chàng thanh niên, anh ta là người bà con với ông chủ tàu mà gia đình tôi có dịp bàn tính chuyện vượt biên. Sau khi được trấn an là không có ai khác ngoài má tôi, ông ngoại và tôi, thì người thanh niên này vô đề liền: "Bây giờ mưa to gió lớn và biển đang động, công an biên phòng không nghĩ rằng có ai to gan dám vượt biên trong thời tiết này, nên mình phải nắm lấy cơ hội". Rồi người thanh niên này bắt đầu cho biết giờ giấc, điểm hẹn và cách gặp người dẫn đường, xong anh ta vội vã đội mưa ra về.
Không khí trong nhà trở nên căng thẳng vì lòng mỗi người đầy những nỗi lo âu: chồng tôi đi làm chưa về, 2 em trai cũng không có mặt tại nhà, không có cách nào liên lạc được, còn ngoài kia trời mưa như thác lủ, vượt biên trong lúc này có nghĩa là đem mạng đi nạp cho thần biển.
Trong lúc má tôi và tôi đang rối lên không biết toan tính như thế nào, thì ông ngoại tôi bảo quỳ xuống để ông cầu nguyện. Khi ông ngoại tôi vừa dứt lời cầu nguyện thì hai em trai của tôi về tới, lúc đó gần ba giờ chiều. Và chúng tôi lại thêm một phen sốt ruột chờ chồng tôi nữa, rất may hôm đó chồng tôi về nhà sớm hơn mọi khi vì trời mưa nên bạn bè không rũ đi nhậu, cuối cùng rồi mọi người cũng về đầy đủ, cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu từ đó.
Theo như lời người thanh niên lúc trưa căn dặn, tôi và hai em trai tôi đi phà qua sông Hàn, lúc đó khoảng gần 5:30 giờ chiều, sau khi phà cập vào bến quận Ba, An Hải, chúng tôi phải đảo mắt kiếm người thanh niên nào có mang dây chuyền hình cái neo, trời lúc đó nhá nhem tối và mưa rất lớn nên rất khó cho chúng tôi tìm người mà mình chưa bao giờ biết mặt. Người dẫn đường nhận ra được dáng điệu dáo dác của chúng tôi, nên anh ta tiến tới trước mặt chúng tôi không nói gì hết rồi lặng lẽ bước đi (đó là mật hiệu), chúng tôi thấy nơi cổ của anh có sợi dây chuyền hình cái neo, do đó người này đi đâu chúng tôi cũng phải bám sát theo để không bị lạc.
Vì nhằm giờ cao điểm kẻ tan trường, người tan sở nên việc bám sát theo người này cũng rất khó, nhiều lần bị lạc, chúng tôi ngẫn ngơ quýnh quáng không biết mình đang ở đâu, tim chúng tôi đập thình thịch vì sợ công an nghi ngờ đến bắt, nhưng rồi người dẫn đường quay trở lại kiếm được chúng tôi. Sau đó anh đi vào quán bún bò Huế ven đường, chúng tôi cũng vào theo, sau này tôi mới hiểu, thì ra phải chờ thêm một nhóm năm người con của bạn ba tôi nữa. Sợ chủ quán nghi ngờ tôi gọi ba tô bún bò Huế cho ba chị em tôi, nhưng bún đem lên chưa kịp ăn thì người thanh niên dẫn đường đứng dậy rời quán vì đã thấy nhóm năm người kia sắp bước vào, chúng tôi vội vã trả tiền và rời theo làm chủ quán cũng ngơ ngác.
Rời quán bún, người dẫn đường đưa chúng tôi đến một khu nghĩa địa, anh bảo chúng tôi phải ở đó chờ người khác dẫn đường tiếp. Ba chị em chúng tôi núp ở một ngôi mộ có tấm bia thật lớn, thình lình người trong xóm cầm đuốc đi kiếm gà của họ bị lạc. Một lần nữa ba chị em chúng tôi lại một phen sợ hãi, tay chân run rẫy, tim hầu như ngưng đập vì thấy người đàn bà đó càng lúc càng tiến về nơi chúng tôi đang núp, ba chị em chúng tôi nhắm nghiền mắt và ôm chặt lấy nhau, hình ảnh nhà tù cộng sản hiện lên trong trí tôi thật kinh khiếp, nước mắt chúng tôi tuôn trào, không ai bảo ai chúng tôi cắn chặt môi cố nén tiếng khóc. Nhưng lạ lùng thay, Chúa đã ngăn trở bước đi của người đàn bà đó, khi tiếng chân của người đàn bà đến gần nơi chúng tôi ẩn núp trong gang tấc thì bà bắt được con gà của bà. Tiếng kêu oang oác của con gà làm chúng tôi bừng tỉnh lại, chúng tôi chỉ biết cúi đầu thầm tạ ơn Chúa.
Bây giờ thì trời đã tối hẳn, có một người thanh niên khác tìm đến nơi chúng tôi ẩn núp, anh ta không nói gì ngoài ba tiếng “đi theo tôi”. Anh dẫn chúng tôi đi qua những con đường đất ngoằn nghèo rồi cuối cùng dẫn chúng tôi vào một căn nhà nào đó mà bây giờ tôi không tài nào nhớ được, vì lúc đó trời tối đen như mực, ngay cả chị em chúng tôi cũng không nhìn thấy mặt nhau.
Họ để ba chị em chúng tôi tại đây cho đến khoảng 12 giờ khuya (sau này tìm hiểu tôi mới biết khoảng giờ đó) thì họ dẫn ba chị em tôi ra bờ biển thuộc vùng Thọ Quan, nơi đó có sẵn một cái thúng lớn, người này lật thúng lên thì đã có một người nằm chờ dưới thúng ngồi dậy, và họ đưa chúng tôi ra tàu cá đang chờ sẵn ngoài khơi. Nhưng ra đến nơi thì chúng tôi không thấy bóng dáng chiếc tàu cá đâu hết, chung quanh chúng tôi là vùng biển rộng mênh mông với một màu đen tối rợn người.
Chúng tôi ngồi trên thúng chồng chềnh theo làn sóng mà lòng bồn chồn lo lắng, rồi lần lượt những thúng khác chở ăm ắp người cũng chèo đến, gần hai tiếng đồng hồ sau thì tàu mới xuất hiện. Khi lên tàu rồi thì việc đầu tiên là tôi kiếm chồng và con tôi, vì hai người được dẫn đi đường khác. Thấy tôi, chồng tôi lên tiếng để trấn an, chồng tôi khen con tôi rất ngoan, tuy mới hơn ba tuổi nhưng dặn nó không được hỏi, không được nói, không được khóc nếu sợ bóng tối, thì nó rất ngoan ngoãn không lên tiếng trong suốt cuộc hành trình trong bóng đêm, có lẽ nó cũng cảm nhận được sự nguy hiểm vây quanh cha con nó.
Hai giờ sáng tàu bắt đầu chạy ra cửa biển, ra đến cửa biển sóng có phần êm hơn. Tàu chạy một lúc xa thì trời hừng sáng, mọi người thấy an tâm vì thoát được sự kiểm soát của công ban biên phòng. Bắt đầu từ đó tàu chúng tôi lênh đênh không định hướng, vì tài công là một thanh niên trẻ chỉ biết lái tàu đi đánh cá chứ không biết nhắm hướng cũng không biết xem la bàn.
Trên tàu ngoài gia đình tôi năm người, năm người con của bạn ba tôi, chín người của gia đình ông chèo thúng đưa khách, ba người anh bà con của tôi và hai con trai của họ, còn có một số thanh niên nam nữ bạn của người tài công trẻ chạy theo. Do đó số người trên tàu lên đến bốn mươi lăm người kể cả mười đứa con nít dưới mười tuổi. Trong khi đó thực phẩm chỉ tính đủ cho hai mươi lăm người chính thức có trong kế hoạch vượt biên này mà thôi. Đã vậy, sau này mới vỡ lẽ ra là trước đó, gần ngày vượt biên một số lương thực bị mất cắp.
Qua đến ngày thứ ba, một cơn bão biển suýt nhận chìm chiếc tàu mỏng manh của chúng tôi giữa lòng biển cả. Tôi không thể nào quên được cơn hãi hùng này, chiều hôm đó mây đen phủ kín cả vòm trời, gió mạnh như cơn lốc, và sóng biển cuồn cuộn trổi lên, vợ chồng tôi và cháu nhỏ cùng hai em trai tôi và vài người nữa đang còn ngoài khoang tàu trong khi hầu hết mọi người khác được ở trong cabin. Cửa cabin lúc ấy bị đóng chặt, chúng tôi đập cửa khóc lóc kêu gào thảm thiết.
Có lẽ những người bên trong không dám mở cửa cabin trong lúc này vì sợ nước biển tràn vào, một phần có lẽ tiếng gió và tiếng gầm thét của những đợt sóng khổng lồ át đi tiếng kêu gào của chúng tôi. Mãi đến 10 phút sau, gió càng mãnh liệt và sóng càng dữ dội hơn thì họ mở cửa cho chúng tôi vào ẩn mình.
Trong những giờ phút ngoài khoang tàu, tôi vô cùng kinh khiếp khi nhìn thấy từng đợt sóng khổng lồ nâng bổng chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi lên thật cao, rồi ném chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi xuống vực sâu tối ngòm, nhìn lên tôi thấy đợt sóng khác tới nó vươn lên như một bức tường thật cao và đổ ập xuống như muốn nhận chìm chiếc tàu của chúng tôi, nước văng tung toé, tay tôi ôm chặt thanh gỗ nơi cửa vào cabin vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết. Nhiều khi nghĩ lại, tôi tự hỏi làm sao chồng tôi có thể vừa giữ chặt con vừa bám chặt vào mạng thuyền, và tất cả chúng tôi ngoài khoang tàu không bị sóng biển ném tung ra khỏi tàu, làm sao chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi có thể sống còn qua cơn bão đó, chắc chắn phải có bàn tay vô hình nào đó che chở chúng tôi, bàn tay vô hình đó chính là bàn tay của Thượng Đế.
Trong những ngày đầu còn dầu, thì tài công không biết định hướng đi đến Hong Kong, anh ta cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà chạy cho đến khi cạn không còn dầu để chạy nữa thì lúc đó chúng tôi thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa. Thì ra tàu chúng tôi trôi giạt đến Nha Trang mà tưởng rằng đang ở gần đảo Hải Nam, lương thực và dầu đã cạn, có ba người thanh niên đưa ý kiến, ai có vàng hoặc tiền bạc, đồng hồ đeo tay thi giao cho họ, họ sẽ đi thúng vào dãy núi đó mua dầu và lương thực đem ra để đi tiếp. Đó là niềm hy vọng cuối cùng nên mọi người có vàng đưa vàng, có đồng hồ đưa đồng hồ, tôi cũng cởi chiếc nhẩn cưới đưa cho ba người này (sau này đến được bến bờ tự do, chúng tôi mới hay rằng ba người này đi thúng vào bờ và bị công an bắt tại Nha Trang).Ngày lại ngày trôi qua, nhưng bóng dáng 3 người đi mua dầu và lương thực vẫn biệt tăm. Chúng tôi chi biết cầu nguyện và phó thác đời sống mình cho Chúa. Không thức ăn, nước uống, chúng tôi phải uống nước tiểu và nước biển có bỏ đường hóa học để sống qua ngày, nhờ năm người con của bạn ba tôi có mang theo đường hóa học. Nói chung, gia đình tôi và năm người con của bạn ba tôi vì tin tưởng chủ tàu chuẩn bị lương thực chu đáo nên chúng tôi không mang theo bất cứ một lương thực nào, ngoài trừ chồng tôi trước khi đi anh có giấu được một lon sữa đặc trong túi quần cho con tôi và năm người kia có giấu theo một gói nhỏ đường hóa học. Hơn nữa, cũng để tránh cặp mắt nghi nghờ của mọi người, chúng tôi không mang theo bất cứ quần áo hay vật dụng cá nhân nào, trên người chúng tôi vỏn vẹn mỗi người chỉ có một bộ áo quần mình đang bận.Hơn mười ngày trôi qua không thức ăn, nước uống, trẻ con khóc lóc kêu gào thảm thiết, con tôi chỉ nước trên biển mà trách chúng tôi tại sao nước trên biển nhiều như vậy mà không cho nó uống, lòng tôi đau như đứt từng đoạn ruột khi nhìn thấy con tôi và những trẻ con khác rã rời, quằn quại, rên xiết vì đói và khát.
Rồi 1, 2, 3, 4, đứa con nít dần dần ra đi. Đêm hôm đó là đêm thứ mười sáu trên biển, tôi ôm con tôi vào lòng tuyệt vọng, thình lình một cơn mưa thật lớn đổ xuống, mọi người đều mừng rỡ, chồng tôi mau mắn hứng được một bình nước nhỏ, gắng sức trườn người vào cabin đưa cho tôi để tôi cho con uống, vì quá mừng nên tôi hút một hơi thật mạnh để nước chảy vào một ống nhỏ, xong tôi chuyền ống nhỏ đó vào miệng con tôi với hy vọng con mình sẽ được nuôi sống, nước vào miệng quá nhanh con tôi không kịp nuốt thì tắt thở ngay trên tay của tôi vì sức lực nó không còn nữa.
Quá đau khổ, tôi ôm con chặt vào lòng và khóc, khóc thật nhiều nhưng hầu như không có một giọt nước mắt nào tuôn ra. “Khi con người quá đau khổ thì không còn nước mắt để khóc", tôi nghe câu nói này nhiều lần nhưng cứ nghĩ rằng đó chỉ là một câu trong văn chương thôi, bây giờ thì tôi thật sự kinh nghiệm về điều đó. Sáng hôm sau, một tay ẳm xác con, một tay chống đỡ lê lết tấm thân kiệt sức của mình để đem xác con ra ngoài khoang tàu cho chồng và hai người cậu nó thấy mặt lần chót.
Vì chồng tôi và hai cậu nó ở cuối mõm thuyền, do đó con tôi được chuyền qua một vài người trước khi đến tay chồng tôi. Khi ở trên tay những kẻ xa lạ tôi không thấy điều gì lạ xảy ra, tuy nhiên khi chồng tôi vừa đưa tay ẳm lấy con tôi, thì tự nhiên môi con tôi sùi bọt nước miếng, và máu thật tươi tuôn ra từ lỗ mũi và hai lỗ tai của nó. Con tôi biết giờ đây nó được nằm trong vòng tay yêu thương của ba nó, một mối liên hệ phụ tử thiêng liêng được bày tỏ qua một thân xác không còn sự sống.
Dầu yêu thương con đến mức nào đi nữa cũng không thể nào giữ được xác con trong vòng tay của mình, chúng tôi đành lòng phải bỏ xác nó xuống lòng biển cả. Đặc biệt cái chết của con tôi được nhiều người thương và lo chu đáo, vài người trên tàu gỡ hai tấm ván nhỏ từ chiếc tàu của chúng tôi, họ đóng lại như hình chữ thập, đặt xác con tôi nằm trên đó, rồi dùng lưới cá quấn quanh thân hình nhỏ bé của con tôi.
Họ nói rằng phải đóng ván theo hình chữ thập thì mới thăng bằng không bị sóng đánh lật úp mặt nó xuống biển cá sẽ đến rĩa ăn, họ cho rằng nếu con tôi may mắn gặp một tàu cá nào đó, họ sẽ làm phước vớt đem vào bờ để chôn vì lúc đó chúng tôi vẫn còn thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa, nên chúng tôi chỉ biết hy vọng như vậy, (trong một bản tóm tắt chuyến vượt biên của chúng tôi bằng tiếng Anh có một sơ sót nhỏ là con tôi được cột vào cục đá để bỏ xuống biển thay vì cột vào 2 tấm ván thuyền). Sau đó một người anh bà con của tôi có mang theo quyển Kinh Thánh, anh mở ra đọc vài câu trong Kinh Thánh rồi cầu nguyện trước khi thả xác con tôi xuống biển, lúc đó tôi ngoảnh mặt đi nơi khác vì không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này.
Nước mưa hứng được đêm đó đã tạm nuôi sống chúng tôi trong một thời gian ngắn. Rồi một hôm (06/10/1980/ ) tôi nằm chờ chết trong cabin vì sức tôi đã quá kiệt quệ, 26 ngày không một chút gì trong bao tử ngoại trừ nước tiểu vì nước mưa hứng được hôm trước đã không còn một giọt. Thình lình có tiếng chồng tôi và vài người nữa ngoài cabin “có máy bay, có máy bay”, tôi nhìn ra thấy chồng tôi đang dùng cái áo thun trắng đã cũ mèm để vẩy ra hiệu, nhưng tôi vẫn không một chút hy vọng nào, vì đã bao lần chúng tôi thấy máy bay bay xa thật xa trên bầu trời nhưng họ nào có thấy chúng tôi đâu.
Nhưng rồi tiếng máy bay trực thăng dần dần nghe rõ dần, và tiếng mọi người mừng rỡ, hình như có một lực nào thật mạnh trong tôi vực tôi dậy và tự nhiên tôi có sức để bò ra ngoài khoang tàu. Tôi thấy chiếc máy bay trực thăng từ từ hạ thấp xuống, lúc đó một người trên tàu chúng tôi viết hàng chữ bằng tiếng Anh “Don't drop any food, Please rescue us”, thì ngay lập tức một quân nhân Mỹ trên máy bay trực thăng viết hàng chữ bằng tiếng Việt “chờ năm phút sẽ có tàu đến”. Rồi họ bắt đầu bắn những trái khói màu quanh tàu của chúng tôi để định vị trí cho tàu lớn đến cứu. Vài phút sau qua làn khói màu tản mác, từ đàng xa chúng tôi nhìn thấy một vật nhỏ di động rồi từ từ lớn dần, chẳng mấy chốc trước mặt chúng tôi sừng sững một chiếc tàu chiến khổng lồ cách tàu chúng tôi ở một khoảng cách an toàn. Đó là chiếc Soái Hạm (Command Ship) của Đệ Thất Hạm Đội có tên là “Blue Ridge LCC19”.
Chúng tôi vô cùng mừng rỡ như được sinh lại lần thứ nhì. Đoàn thuỷ thủ bắt đầu bỏ thang dây xuống và đi ca-nô qua tàu chúng tôi. Trên ca-nô có 4 người lính Hải Quân mang phao cá nhân, và nổi bật hơn hết là lá cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tung bay trước gió, nhìn lá cờ mà lòng tôi bồi hồi xúc động vì nó biểu tượng cho Tự Do và tình nhân loại. Họ dùng loa yêu cầu chúng tôi giữ bình tỉnh, anh Hải Quân cầm tay lái cố gắng điều khiển chiếc ca-nô cặp sát vào tàu chúng tôi, trẻ em và phụ nữ được ưu tiên di chuyển qua tàu chiến trước, sau cùng là nam giới.
Các thuỷ thủ, một tay kẹp chúng tôi và một tay chụp lấy thang dây để leo, hàng chục cánh tay thòng xuống kéo chúng tôi lên. Đối với tôi, đó là giờ phút vô cùng thiêng liêng và vô cùng xúc động, nó cho tôi thấy chỉ có những người của chủ nghĩa Tự Do mới thể hiện được tình yêu thương nhân loại và cảm thông được những đau thương mất mát của những người vì 2 chữ Tự Do mà liều mình vượt biển.
Khi tất cả chúng tôi được an toàn đưa lên chiếc Soái Hạm này rồi, thì điều đầu tiên là họ cho chúng tôi mỗi người 1 ly súp lỏng (clear soup) đang còn nóng hổi và sau đó họ bắt đầu khám tim mạch từng người. Tôi và em tôi cùng một vài phụ nữ khác vì quá yếu nên được chuyển lên Medical Clinic. Tại đây chúng tôi được chăm sóc sức khoẻ thật chu đáo, họ bồng chúng tôi đi tắm, dĩ nhiên là họ rất tôn trọng phụ nữ chúng tôi, nên họ chỉ mở nước điều chỉnh ở độ ấm vừa phải và dạy chúng tôi cách dùng thuốc gội đầu đặc biệt để giết chí, rồi họ đứng canh ngay cửa phòng tắm để đề phòng trường hợp chúng tôi bị té hay bất cẩn gì đó.
Chúng tôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng nhân ái bao la của những người lính Mỹ khác màu da, họ không màng đến thân hình xơ xác bẩn thỉu hôi hám của chúng tôi, trong khi chí trên đầu rơi rớt đồm độp, nhưng họ ôm chúng tôi vào lòng, bồng ẳm chúng tôi khi chúng tôi cần những phương tiện vệ sinh cá nhân. Sau đó họ phát cho chúng tôi mỗi người 1 áo thun trắng và đồ lót để bỏ đi những áo quần hôi hám mà suốt 26 ngày đêm dầm với mồ hôi, dầu nhớt, nước tiểu và nước biển mặn.
Tôi còn nhớ rõ một kỷ niệm rất buồn cười mà tôi đã làm những người trong đội y tế một phen cười nứt bụng, đó là ngay sau khi uống cạn ly súp đầu tiên khi vừa mới được chuyển lên tàu, một anh y tá hỏi tôi rằng “How do you feel”?, tôi trả lời ngay không chút suy nghĩ “I feel healthy” (ý tôi muốn nói là “tôi cảm thấy Khỏe”) tức thì cả đội y tế ôm bụng cười ngặc nghẻo trong khi đó thân hình tôi không khác nào bộ xương người chết. Thật ra, từ lúc bắt đầu được tàu Mỹ vớt thì bao nhiêu vốn liếng từ ngữ Anh Văn mà tôi học ở những năm trung học chưa có cơ hội thực hành thì giờ đây nó lần lượt kéo đến trong tâm trí tôi, chỉ có điều chữ nào thoáng đến trong đầu là tôi vụt nói liền không cần để ý đến văn phạm.
Nhưng rồi sau đó tôi rất ngại nói, nên tôi luôn dùng bút viết xuống những gì tôi cần nói, vì khi viết tôi có thì giờ sắp xếp câu kéo cho đúng văn phạm hơn.
Nhờ có chút vốn liếng Anh Ngữ nên tôi có cơ hội gần gũi với vị thuyền trưởng, các bác sĩ trong đó có 1 bác sĩ người Nhật, và các y tá, đặc biệt là anh Hải Quân đầu bếp (Mr. Clinton A. Eastwood), anh thường xuyên trò chuyện với tôi, hỏi thăm những món ăn anh nấu có ngon không, tôi có thích không (và anh cũng là người sau này thường xuyên liên lạc thư từ với gia đình tôi khi chúng tôi được đưa vào tạm cư ở trại tỵ nạn Palawan Philippines, nhờ đó mà tôi có được những bài báo và hình ảnh chụp được trong lúc được tàu vớt, và năm 1982 khi chiếc Soái Hạm Blue Rigde LCC19 đến cảng Sydney cách nơi tôi cư ngụ khoảng gần 1 tiếng lái xe, thì anh cũng tìm đến thăm gia đình chúng tôi, khi đó tôi vừa mới sanh được cháu thứ nhì khoảng mười lăm ngày (đứa thứ nhất đã mất trên biển)).
Trở về câu chuyện trên chiếc Soái Hạm, thì một hôm có phái đoàn báo chí bay trực thăng đến thăm người tỵ nạn trên tàu và để phỏng vấn.
Trước khi phái đoàn đến, tôi được khuyến khích để được quay một đoạn phim ngắn trong buổi phóng vấn nhỏ này vì tôi cứ lắc đầu từ chối, tôi cứ lấy tay che mặt và nói rằng “Tôi xấu lắm, tôi không muốn người khác thấy tôi trên truyền hình và tôi cũng không biết nói tiếng Anh nhiều”, nhưng anh y tá Hải Quân người luôn kề cận chăm sóc tôi (anh Robin) đưa cho tôi một cái gương và một cái lược, anh chãi đầu cho tôi và bảo tôi nhìn trong gương rồi anh nói “Look! You're beautiful!” (tôi chưa bao giờ thấy Chung Vô Diệm nhưng tôi tự nghỉ rằng mình cũng xấu như vậy) rồi anh nói tiếp “We're going to ask you a very very simple question, so don't worry, OK”.
Thế rồi trong phút chốc phái đoàn báo chí đến có luôn vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội nữa, và rồi hàng loạt đèn sáng choang chiếu thẳng đến cái giường tôi đang được đỡ ngồi, một anh phóng viên cầm máy nói gì nhiều lắm nhưng tôi không để ý vì tâm trí bận suy nghĩ không biết họ sẽ hỏi tôi điều gì. Thế rồi người phóng viên đó chậm rãi hỏi tôi từng chữ một “Why did you escape from Vietnam”? Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn “About freedom” và câu thứ hai là “How do you feel now?” lần này tôi đang tìm chữ nào khác với chữ “healthy” của hôm nọ thì anh y tá Hải Quân này mau mắn cất giọng hỏi khéo “Better”? nên tôi liền nói “Yes, I feel better”.Năm ngày tạm trú trên chiếc Soái Hạm này rồi cũng phải đến ngày chia tay, ngày cuối trước khi chúng tôi chia tay với vị Hạm Trưởng cùng toàn thể các thuỷ thủ, tôi được vinh dự đi cùng vị Tham Mưu Trưởng đến từng giường bệnh để phát cho họ mỗi người một bản danh dự “Anh Hùng Vượt Biển” và một số tiền là 32 Mỹ Kim cho mỗi đầu người, số tiền này là do sự đóng góp của vị Hạm Trưởng và của toàn thể các thuỷ thủ trên chiếc Soái Hạm này.
Tôi cũng được vinh dự đại diện cho nhóm người ty nạn trên phòng y tế này để ngỏ lời tri ân và bày tỏ lòng cảm kích của chúng tôi trước sự chăm sóc không hề mệt mỏi của toàn thể các thuỷ thủ trong các ngành. Chúng tôi luôn nhớ ơn nhân dân Mỹ nói chung và toàn thể mọi người trên chiếc Soái Hạm này nói riêng, lòng nhân đạo của họ là ngọn đuốc, là ánh sáng của thế giới Tự Do, nó sẽ chiếu sáng mãi mãi trong lòng chúng tôi, lòng của những người dân Việt tỵ nạn.Qua những kinh nghiệm đau thương trong suốt cuộc hành trình vượt biển này, chúng tôi nhận biết rằng mạng sống con người thật quý báu, nhưng Tự Do là điều quý báu hơn hết. Lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ đã để lại trong chúng tôi niềm cảm kích và sự tri ân sâu xa, tấm gương sáng này đã chứng minh được chỉ có con người của chủ nghĩa Tự Do mới có được những đức tính đó, chúng tôi đã học được từ quý vị lòng nhân ái, vị tha, và tình thương yêu nhân loại và những hình ảnh cao đẹp này sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng người dân Việt tỵ nạn yêu Tự Do của chúng tôi.
Chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đến vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông Lewis W Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D Chamberlain, cùng toàn thể thuỷ thủ đoàn của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 (dĩ nhiên trong đó có cả anh Hải Quân đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin). Hình ảnh của những vị đó sẽ không bao giờ nhạt nhòa trong ký ức chúng tôi. Chúng tôi luôn ao ước có cơ hội gặp lại những vị ân nhân này bằng xương bằng thịt để một lần nữa ngỏ lời tri ân đến họ và cũng để họ nhìn thấy gia đình chúng tôi - kết quả của việc làm nhân đạo quý báu mà họ đã thực hiện cách đây hơn 28 năm.
Tóm lại, vì quen sống trong một đất nước Tự Do Dân Chủ, vốn thừa hưởng được tất cả những quyền cơ bản của một con người, nên kể từ khi Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản thì tâm trí chúng tôi không ngừng nghỉ đến việc trốn thoát khỏi chế độ này. Vượt biên là con đường duy nhất và cái giá chúng tôi phải trả có thể là sự chia lìa (kẻ ở người đi, vợ xa chồng, con xa cha, ....), sự tù đày (chính bản thân mình và người thân cũng bị liên luỵ), cái chết (chính mạng sống mình và ngay cả mạng sống của những người thân yêu).
Bằng nhiều cách, chồng tôi trước đây đã vượt biên 2 lần, anh đi một mình vì chủ tàu không nhận con nít, tôi đành để chồng ra đi và ở lại với con. Tôi nghĩ thoát được người nào hay người đó, để chồng ra đi một mình là tôi chấp nhận sẽ vĩnh viễn mất chồng vì thời gian đó chính quyền Việt Nam chưa có sự bang giao với các nước ngoài về vấn đề “Đoàn Tụ Nhân Đạo”.
Nhưng hai lần vượt biên đó không thành công, lần thứ nhất bị lộ anh chạy thoát được nên không bị tù, còn lần thứ nhì thì đi với người em nhưng khi ra đến bến tàu, người chủ tàu thay đổi ý kiến chỉ nhận một người thôi nên chồng tôi nhường cho người em và người này đã đến được bến bờ Tự Do. Lần này là lần thứ ba chồng tôi được đi với vợ con vì người chủ tàu này nhận con nít, tưởng rằng lần ra đi này trọn vẹn không bỏ lại sau lưng người thân yêu của mình, nhưng cuối cùng chúng tôi vĩnh viễn mất đứa con yêu quí đầu lòng của mình, nỗi đau xót đó mãi theo chúng tôi đến cuối cuộc đời và đó chính là cái giá cho sự Tự Do mà chúng tôi đã chọn.
Hiện nay chúng tôi đang định cư tại Úc Đại Lơi, một quốc gia đầy lòng nhân ái, người dân ở đây đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và cưu mang gia đình chúng tôi trong suốt 28 năm qua và còn tiếp tục cho đến đời các con cháu của chúng tôi nữa. Không một lời nào đủ để diễn tả tấm lòng biết ơn sâu xa của gia đình chúng tôi đến với chính phủ và toàn thể nhân dân của đất nước này. Chúng tôi nguyện ghi khắc ơn sâu nghĩa nặng cho đến muôn đời.
Lý Tuyết Lê
(Viết tại Sydney ngày 09/03/09)
Vận nước chuyển đổi, sau ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh giữa Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) kết thúc! Thay vì hòa hợp, hòa giải dân tộc để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam phú cường thì ngược lại nhà cầm quyền Hà Nội say men chiến thắng, tạo dựng lên hằng trăm nhà tù lớn, nhỏ với mỹ từ “cải tạo” để giam giữ: Quân, Dân, Cán, Chính. Ðảng phái, Tôn giáo, giới trí thức, văn nghệ sĩ… của Việt Nam Cộng Hòa còn ở lại trong nước vì nhiều lý do khác nhau.
Qua thông cáo của Ủy Ban Quân Quản Saigòn và các địa phương họ đã ra lệnh tập trung thành phần trên trong thời hạn một tháng để học tập chính sách của đảng Cộng Sản. Bản chất Cộng Sản đã lộ nguyên hình khi họ ấn định thời gian ngắn hạn là “Một Tháng” để đánh lừa sự thành tâm của các viên chức và sĩ quan của miền Nam Việt Nam muốn thi hành đúng đắn mọi yêu cầu của kẻ chiến thắng để rồi an phận trở về với công việc canh tác, sản xuất… của người công dân trong thời hậu chiến. Nhưng tiếc thay, họ đã tráo trở lợi dụng cơ hội nầy để giam giữ những người chiến bại một cách dài hạn “không bản án” và được mệnh danh “Trại tập trung cải tạo”. Thời gian bị tù đã kéo dài ít nhất là 3 năm, còn lại đa số chịu đựng khổ nhục trong vòng 7, 10, 18 hay 20 năm.
Trong số tù nhân có hơn 30 tướng lãnh và trên 400 đại tá. Căn bản chính yếu để giam tù được căn cứ theo lý lịch của tù nhân để trả hận thù bằng nhiều hình thức như bắn bỏ, tra tấn, nằm nhà cùm, giam vào ngục tối để chịu đói lạnh, lao động khổ sai, bệnh nặng không thuốc men làm cho nhiều người phải vùi thây dưới tầng địa ngục.
Trong vòng ba mươi năm nửa, những quân nhân thuộc vào thế hệ trẻ nhất của cả hai bên đã tham gia vào cuộc chiến 1945-1975 sẽ lần lượt qua đời. Thế hệ kế tiếp muốn tìm hiểu lịch sử của thời cha ông sẽ phải tìm đọc những tài liệu, sách báo, phim ảnh có tính cách lịch sử do những người trong cuộc lưu lại.
Là tù nhân qua hai trại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh, tôi xin ghi lại những chuyện đau thương nhất mà chính tôi đã từng chứng kiến.
Các chuyện được hình thành không nhằm mục đích gây thêm lòng hận thù và chia rẽ mà chỉ nêu lên những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử cận đại để cho các thế hệ tiếp nối học được những kinh nghiệm quý báu hầu tránh được những lỗi lầm tai hại của những người đi trước vì thiếu đạo đức cũng như kiến thức trong việc lãnh đạo toàn dân mà chỉ dựa trên lòng đố kỵ và mưu đồ trả thù khiến cho tương lai của dân tộc Việt mỗi ngày một tuột xuống hàng thấp nhứt của lịch sử nhân loại.
Cưỡng chiếm các thành phố miền Nam xong, Ủy ban Quân Quản kêu gọi những viên chức, sĩ quan của chế độ cũ mang theo tiền ăn 1 tháng để học tập. Nhưng tại Ðà Nẵng vào sáng ngày 5-4-1975 Ủy Ban Quân Quản thông báo: “Ðúng 8 giờ sáng hôm nay, tất cả sĩ quan chế độ cũ tập trung đầy đủ, không chậm trễ tại số 2, Ðống Ða để nghe nói chuyện tình hình đất nước”. Tập đoàn Cộng Sản đã dùng nơi nầy như cái “nôm” để tóm gọn các sĩ quan. Ðến tối họ chuyển tất cả những người đã đến trình diện về Vĩnh Ðiện, Hội An để giam giữ.
Tại Quảng Nam Ðà Nẵng cộng sản đã thiết lập ngay những trại tù mang tên của những địa danh: Hội An, Vĩnh Ðiện, Hiếu Ðức, Hòa Cầm, Phú Túc, Thượng Ðức, An Ðiềm, Kỳ Sơn, Tiên Lãnh… là nơi ngục tù của các sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa.
Không đưa tù quan trọng ra Bắc:
Cuối năm 1975, Trung Ương ra lệnh chuyển ra Bắc tất cả các sĩ quan chế độ cũ trước đây giữ chức vụ quan trọng đang bị giam giữ tại Kỳ Sơn, Tiên Lãnh và An Ðiềm. Viên Tỉnh Ủy Quảng Nam Ðà Nẵng liền trình xin Trung Ương giữ tại chỗ các cải tạo viên qua các lý do sau đây:
- Quân đội Mỹ đã chọn Ðà Nẵng để đổ bộ đầu tiên 2 Tiểu Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến vào ngày 8-3-1965.
- Quảng Nam Ðà Nẵng đi đầu trong công tác diệt Mỹ cứu nước.
- Bộ đội, Công An Quảng Nam Ðà Nẵng có đủ khả năng, kinh nghiệm để quản lý cải tạo tốt, làm ra nhiều của cải vật chất để nuôi tù, cung cấp cho Tỉnh và đóng góp về Trung Ương.
Trung Ương đã chấp thuận đề nghị trên.
Trại tù “cải tạo” Kỳ Sơn:
Kỳ Sơn là tên của một xã thuộc huyện Tam Kỳ gần mỏ vàng Bông Miêu chừng 3 cây số, có đường trải nhựa và sông Bông Miêu chảy qua, rừng già âm u, thời tiết rất lạnh, có nhiều thung lũng để canh tác. Kỳ Sơn có 4 trại tù: trại 1, 2, 3 và 4 giam giữ toàn sĩ quan từ cấp Chuẩn Úy đến cấp Ðại Tá, phần đông phục vụ tại Quân Ðoàn I. Các trại trên trực thuộc Tổng Trại 2 do Bộ đội quản lý. Trung tá Việt Cộng Ngô Câu làm Tổng trại trưởng. Ðến ngày 28-9-1978, Tổng trại chuyển giao tù còn lại cho Công an quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Ðiềm.
Sau đây là những chuyện đau buồn nhất đã xảy ra tại địa ngục Kỳ Sơn:
Trung Tá Lê Ðình Ái, Ðại Úy Nguyễn Văn Lộc vượt thoát khỏi trại tù KỲ Sơn.
- Trung Tá Lê Ðình Ái, sinh ngày 12-3-1943 tại Huế, khóa 13 Ấp Chiến Lược, Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức, Quận Trưởng Quận Tiên Phước.
- Ðại Úy Nguyễn Văn Lộc, số quân 58/600.570, sinh tháng 10-1938 tại Ðịnh Tường, Trường Không Quân Việt Nam, Phi công Quan sát Sư Ðoàn 1 Không Quân.
Hai anh Ái và Lộc bị tù trại 1 Kỳ Sơn. Tuy khác Tổ trong lao động thường gặp nhau trò chuyện, cả hai đồng tâm muốn trốn trại nên bàn kế hoạch vượt thoát. Móc nối được người thân cung cấp cho giấy tờ. Ðúng 9 giờ sáng ngày 20-11-1975 hai người trốn khỏi nơi lao động gặp nhau tại điểm hẹn rồi tức tốc di chuyển nhanh bằng xe Honda chờ sẵn ra khỏi khu vực, băng theo đường rừng vượt thoát về hướng Nam. Hay tin tù trốn, Tổng Trại 2 bủa vây lục kiếm suốt 2 tuần không tìm được. Cuộc vượt thoát hết sức gian nan. Hai anh biết rất rõ địa thế rừng núi của 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi vì thường hành quân trước đây. Bài học mưu sinh thoát hiểm lúc học sĩ quan được áp dụng để sống còn.
Qua 27 ngày len lỏi trong rừng già khi ra đồng trống hết sức mừng vui nhìn thấy xe chạy ở Quốc Lộ 1 nên bàn nhau ra lộ đón xe đò đi tiếp. Tắm rửa, cạo râu, thay quần áo dân sự xong điền tên vào giấy tờ, nghĩ lấy lại sức rồi đến cầu Bà Di, Ðập Ðá Bình Ðịnh đón xe. Khi xe ngừng xui ơi là xui! Lại gặp ngay đoàn xe chở công an từ Bắc vào công tác trong Nam. Lỡ rồi, hai anh vẫn lên xe tự nhiên. Phụ xe cho ngồi ghế xếp phía sau. Qua cặp mắt nghi ngờ của tên công an ngồi cạnh. Ðến trạm kiểm soát Cam Ranh tên công an ngồi cạnh báo nhân viên kiểm soát để xét giấy tờ. Kiểm soát giấy thấy không nghi ngờ nên tiếp tục cho đi. Hú hồn! Hai anh vui mừng không xiết kể.
Về đến Sài gòn, anh Lộc tìm đường vượt biển. Thật tội nghiệp về sau nghe tin anh Lộc đã mất tích trên biển cả. Còn anh Ái gia nhập Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam. Ðến ngày 27-12-1977 lại bị bắt, tiếp tục ăn cơm tù. Tháng 9-1986 được thả ra rồi tổ chức vượt biển thành công. Tháng 4-1990 cả gia đình định cư tại Hoa Kỳ.
(Tuy cuộc vượt thoát của anh Ái thành công song những đau thương tan vỡ gia đình rồi tù tội từ ngày về lại Saigòn qua câu chuyện dài chính anh Ái kể lại hết sức thương tâm cho một chiến hữu VNCH đã gãy súng theo vận nước).
* Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương tự tử sau một năm trong tù!
Thiếu Tá Phạm Văn Lương số quân 54/226-453, sinh vào tháng 11/1934 tại Quảng Trị, xuất thân khóa 4 Cương Quyết Thủ Ðức, sau theo học ngành Quân Y. Nguyên Bác sĩ Trưởng khu Ngoại Thương, Tổng Y Viện Duy Tân Ðà Nẵng.
Trước 1975, qua hệ thống truyền thông và báo chí khá đông người Miền Nam biết đến Thiếu Tá Phạm Văn Lương qua các việc ông đã làm:
- Mang lựu đạn đến tiền đình Hạ Viện yêu cầu Hạ Viện điều tra làm sáng tỏ việc bắn chết Y sĩ Ðại Úy Hà Thúc Nhơn, người bạn cùng khóa Quân Y, phục vụ tại quân Y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang đã can đảm đứng lên chống bọn tham nhũng giết một sĩ quan tố tham nhũng tại bãi biển Nha Trang.
- Thực hiện thành công cuộc giải phẫu lấy đầu đạn M79 ghim trong người quân nhân Ðinh Né.
- Trách nhiệm tổ chức việc gom tử thi trên đại lộ Kinh Hoàng (mùa hè đỏ lửa 1972) đưa về mai táng, lập bia kỷ niệm tại Quảng Trị.
- Xây dựng làng Ðồng Thạnh tại Hội An, Quảng Nam định cư đồng bào phía Bắc Quân Khu 1 lánh nạn Cộng Sản (ngân khoản do Bác sĩ Phan Quang Ðán, Quốc Vụ Khanh, tài trợ).
- Ngày 29-3-1975, Cộng Quân cưỡng chiếm Ðà Nẵng, Bác sĩ Lương cùng một số bác sĩ khác ở lại nhiệm sở Tổng Y Viện Duy Tân cứu chữa đồng bào và thương binh. Cùng lúc Ðài BBC Luân Ðôn loan tin Bác sĩ Phạm Văn Lương đã được Cộng Sản cử làm Thị Trưởng Ðà Nẵng.
- Ngày 5-4-75, Cộng quân tập trung các Bác sĩ đưa vào giam tại Hội An, trong số có Bác sĩ Lương, rồi di chuyển đến Tổng Trại 2 Kỳ Sơn, Quảng Tín. Các Bác sĩ đều bị đưa về Trạm xá Kỳ Sơn làm việc chuyên môn ngoại trừ Bác sĩ Vương Ngọc Lâm cho đi lao động bởi gia đình ông chống Cộng triệt để.
- Ngày 25-8-75, có thêm Y sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Cơ (gốc Y sĩ Dù) nguyên Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế từ trại giam Hiếu Ðức chuyển lên Trạm xá.
Qua một năm trong Trạm Xá Tổng Trại 2 tù Kỳ Sơn, Bác sĩ Lương cùng các bác sĩ khác tận tình cứu chữa các bệnh nhân gồm Bộ đội, tù binh và dân chúng trong vùng.
- Chủ Nhật 28-3-1976 bà Ðỗ Khánh Niệm lên thăm chồng, trong dịp nầy Bác sĩ Lương ngồi bên vợ, bà Lương sắp thức ăn mời chồng. Ông không thiết tha việc ăn uống mà chỉ than cùng vợ: “Chắc anh khó về lắm em ơi!!! Có người tố cáo anh cùng Bác sĩ Phan Quang Ðán là CIA…”
Hai vợ chồng đang bịn rịn dặn dò việc nuôi dạy các con, bỗng có tiếng la lớn của vệ binh: “Hết giờ thăm nuôi, về lại Trạm xá”. Bác sĩ Lương và vợ đứng dậy, nước mắt bà Lương trào ra, chân ông Lương không dỡ lên được, đàng sau lưng tên vệ binh mang súng AK hối thúc đi về, bà Lương lau nước mắt nhìn đồng hồ lúc ấy là 12 giờ trưa. Ðó là giây phút biệt ly định mệnh của hai vợ chồng Bác sĩ Phạm Văn Lương. Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một xa thêm, rồi hình bóng Bác sĩ Lương khuất dần dưới ngọn đồi thăm nuôi trại Kỳ Sơn.
Một tuần sau, vào ngày 3-4-1976, Bác sĩ Lương đã uống nhiều viên thuốc ngủ cùng 10 viên cloroquine làm người ông quay cuồng, lăn lộn. Bằng mọi cách các bác sĩ tại trạm xá cố gắng cứu chữa nhưng ông Lương báo là đã uống quá nhiều thuốc nên không thể cứu được. Sau khi thốt lên lời từ biệt mọi người, mắt ông từ từ nhắm lại.
Tin Bác sĩ Lương tự tử được loan truyền nhanh chóng trong anh em tù, ngược lại Ban Chỉ Huy Trại cho biết Bác sĩ Lương chết vì trúng gió!
Ít ngày sau, thân nhân thăm nuôi đưa tin về Ðà Nẵng: Bác sĩ Lương đã tự tử chết.
Nhận được hung tin, bà Lương lên Trạm xá khóc lóc đòi biết rõ nguyên nhân cái chết của chồng mình. Lúc đầu cán bộ Trạm xá cho biết không có chuyện Bác sĩ Lương chết nhưng bà tiếp tục than khóc và la ầm lên. Thiếu tá Việt Cộng Ðinh Văn Nhất là Trưởng Trại 1 liền tới cho bà biết: Bác sĩ Lương chết vì trúng gió. Viên y sĩ Việt Cộng nói thêm là đã chôn cất Bác sĩ Lương cẩn thận. Số ván dự trù để đóng bàn mổ cho Bác sĩ Lương sử dụng lại được dùng vào việc đóng quan tài cho ông. Bà Lương xin chuyển xác chồng về Ðà Nẵng nhưng Trại không chấp thuận.
- 1984, mộ phần Bác sĩ Lương được dời về Hội An, an nghỉ trong nghĩa trang gia đình người bạn thân.
- 1985 Bà Quả phụ Phạm Văn Lương cùng 7 người con (4 trai, 3 gái) và các cháu được thân nhân bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ.
* Trung Tá Võ Vàng bị bắn chết như thế nào?
Trung Tá Võ Vàng, số quân 60/211.412, sinh tháng 10 năm 1940 tại Quảng Ngãi, khóa 17 Lê Lai, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 21/BÐQ.
Quân Sự Vụ Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
Ðược chỉ thị của Ban Chỉ Huy trại 1 Kỳ Sơn, hai Vệ binh Ðinh Văn Hương và Âu Thái Trương tức Bốn hướng dẫn toán tù binh thuộc nhà 9, khối 2 đi lao động tại khu Cò Bay, Bông Miêu. Sau khi cắt đặt lao động, hai vệ binh gọi đích danh anh Võ Vàng đi theo vệ binh Trương cắt đốt về làm chổi.
Ðộ chừng 15 phút, một loạt AK nổ dồn lúc ấy là 10 giờ sáng ngày 13 tháng 4 năm 1976. Anh em tù nghi là vệ binh Trương đã bắn anh Vàng vì ngày hôm trước có sự sắp đặt để cãi nhau giữa vệ binh nầy và anh Vàng tại khu thăm nuôi. Quả thật liền thấy tên Trương chạy ra hớt hải la lên: “Tên Vàng đá, đạp tôi để giật súng, may phát hiện kịp nên bắn chết nó rồi.”
Thật ra đây là một hành động sắp xếp bắn anh Vàng để trả thù của Cộng Sản. Trước đây Trung Tá Vàng đã chỉ huy Tiểu Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân tham chiến vào dịp Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Ðến năm 1973, anh chỉ huy Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2, tái chiếm cửa khẩu Sa Huỳnh. Tại hai nơi nầy đều gây tổn thất nặng cho Cộng Quân thuộc Liên khu 5.
Ít ngày sau bà Võ Vàng nhận được hung tin tức tốc đến trại Kỳ Sơn, tại đây Ban Chỉ Huy trại đã báo cho Bà biết là chồng bà đã đánh vệ binh, cướp súng nên bị bắn chết. Trại có trao cho bà 1 biên bản về sự việc xẩy ra trong đó có 5 chữ ký của đại diện trại và tù, cùng 1 biên bản kiểm kê tư trang.
Sau khi Trung Tá Vàng bị bắn chết, bà quả phụ Võ Vàng nhũ danh Lê Thị Ðường, giáo sư trung học tại Quảng Ngãi, bị nhà trường thông báo cho nghỉ dạy (trước 1975 bà Ðường là Hiệu Trưởng Trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi).
Ðể tránh hậu quả của việc xét lý lịch ba đời cho các con nên bà cùng 6 con (2 trai, 4 gái) đành liều chết vượt biển qua Hongkong. Cuối cùng gia đình cố Trung Tá Võ Vàng được may mắn định cư tại Hoa Kỳ vào tháng 8 năm 1984.
Ngôi mộ anh Vàng được cải táng vào năm 1997.
Âm mưu ám hại Trung Tá Võ Vàng đã được nhân chứng sống, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng, số quân 61/203.947, sinh tháng 10 năm 1941 tại Nam Ðịnh (cựu SVSQ khóa 20 Nguyễn Công Trứ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, bị Trung Cộng bắt giữ tại Quảng Châu, sau cuộc hải chiến với VNCH ngày 20-1-1974 tại quần đảo Hoàng Sa) trình bày rất chi tiết trong chương trình Huynh Ðệ Chi Binh của đài Truyền Hình SBTN do nhà văn Huy Phương phụ trách vào tháng 4 năm 2008.
* Trung Tá Nguyễn Văn Tố và Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt thoát chết trong đêm tối
- Trung Tá Nguyễn Văn Tố, sinh tháng 5 năm 1930 tại Thừa Thiên. Số quân 50/201.605, khóa 2 VBÐP Huế.
+ Tham Mưu Trưởng Tiểu khu Thừa Thiên.
+ Phó Thị Trưởng Thành phố Huế.
+ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Phú Yên.
+ Trung Tâm Phó Trung Tâm Ðiều Hợp Bình Ðịnh Phát Triển Quân khu 1.
- Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt sinh tháng 6-1940 tại Saigon, số quân 60/701.173, khóa 13 Ðệ Nhị Dương Cưu Trường HQNT.
+ Phân cuộc Trưởng Hải Cảng Sâu Tiên Sa Ðà Nẵng (con rể ông Nguyễn Văn Kiểu, nguyên Ðại Sứ VNCH tại Ðài Loan, bào huynh cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu).
Vào lúc 12 giờ 30 một đêm đầu tháng 7-1976 tại Trại 1 Kỳ Sơn, một Vệ Binh mang súng AK vào nhà 9 gọi anh Nguyễn Văn Tố và sang nhà 6 gọi anh Nguyễn Công Anh Kiệt đi nhanh ra ngoài rồi dẫn đến phía ngoài vọng gác cổng chính của trại. Nơi đây có sẵn vệ binh Trương tức (Bốn) tay cầm AK chờ sẵn. Anh Tố và Kiệt đoán chúng sắp đem mình đi bắn rồi vì trước đây vệ binh Bốn đã được chọn bắn Trung Tá Võ Vàng vào ngày 13 tháng 4 năm 1976 tại khu Cò Bay Bông Miêu.
Sau khi Bốn nhận 2 anh Tố và Kiệt xong chỉ tới ngồi nơi tảng đá gần đó. Tại đây anh Tố nói nhỏ với anh Kiệt: “Chắc chúng đưa mình ra bờ rào bắn rồi hô hoán là trốn trại. Sự tù tội chắc còn lâu dài lắm. Thôi chết sớm khỏe xác mình, vợ con bớt khổ trong việc lặn lội lên rừng sâu, núi thẳm thăm nuôi.” Qua lời anh Tố, anh Kiệt thở dài!!!
Thời gian lo lắng lần đến 2 giờ 30 sáng, thấy đèn pile lập lòe sáng rồi lần hồi một cán bộ từ Bộ Chỉ Huy xuống nói nhỏ gì với tên Bốn xong về lại. Lúc nầy hai anh Tố và Kiệt rất hồi hộp, chắc chúng sắp đem mình đi bắn rồi. Hai anh thầm cầu nguyện theo tôn giáo của mỗi người. Năm phút sau, tên Bốn gọi anh Tố và Kiệt đến rồi bảo hai anh về lại nhà ngủ để mai tiếp tục lao động.
Suốt đêm nầy hai anh không sao ngủ được và cứ lo lắng mãi, kể từ sáng hôm sau hai anh Tố và Kiệt luôn được Quản giáo theo dõi sát cho đến khi chuyển qua Trại 4 rồi đến Trại Tiên Lãnh.
Ðến ngày 28 tháng 9 năm 1978, toàn bộ tù nhân Kỳ Sơn được chuyển đến Trại Tiên Lãnh. Ba ngày sau khi đến Tiên Lãnh, hai anh Tố và Kiệt liền vào nhà cùm cùng với một số sĩ quan khác chúng cho là nguy hiểm.
Hai tháng sau khi đến Tiên Lãnh, một buổi chiều qua âm thanh rùng rợn của 2 tiếng kẻng, tất cả mọi tù nhân vào phòng đóng cửa sắt. Công An trang bị vũ khí rải canh giữ từng phòng một. Các cửa nhà cùm được mở ra, khoảng 100 tù nhân từ các phòng biệt giam được đưa ra ngoài trói lại bằng giây dù cột vào nhau với 5 người một do một Công An canh giữ rồi chuyển đến Trại Ðồng Mộ, Nhà Trắng để giam tiếp, trong số tù trên có hai anh Tố và Kiệt bị giam cho đến 1983.
Ðến 1988, cả hai anh Tố và Kiệt mới nhận giấy ra trại sum họp gia đình. Ngày 24 tháng 6 năm 1992, anh Tố cùng vợ và 4 người con được các con cháu cùng đông thân hữu vui mừng chào đón tại phi trường Los Angeles theo diện H.O. 10.
Anh Kiệt đã sang Hoa Kỳ và định cư tại Houston Texas. Chắc chắn hai anh Tố và Kiệt chỉ quên đêm tối ấy tại Trại 1 Kỳ Sơn khi nào được thuyên chuyển về Vùng 5 Chiến Thuật (thế giới bên kia, hy vọng bên ấy không có hận thù).
* Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại thành công, thời gian sau bị bắt lại
Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên sinh tháng 1 năm 1946 tại Thừa Thiên, Số quân 66/100.004, Thiếu Sinh Quân, khóa 20 Nguyễn Công Trứ/ Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Khối Kế Hoạch, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2 SVSQ Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị. Tiểu Ðoàn Trưởng/ Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
Vận nước đổi thay, Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên cũng như hằng trăm ngàn chiến hữu của mình không thoát khỏi ngục tù khổ sai Cộng Sản. Chúng đưa anh vào Trại 1 Tổng Trại 2 Kỳ Sơn Quảng Nam Ðà Nẵng.
5 tháng 9 năm 1976: Sau khi thả một số tù, Trại 1 giải tỏa, số tù còn lại nhập vào Trại 4. Chúng tôi khoảng 40 người đưa vào Nhà 9, Khối 4. Ða số cấp bậc Trung Tá, về Thiếu Tá có các anh Nguyễn Tâm Miên, Phạm Văn Hồng, Nguyễn Văn Lai và tôi. Ðặc biệt ít ngày sau có Thiếu Úy Ông Văn Tụng nhập vào! Từ đó chúng tôi rất dè dặt qua các câu chuyện khi có viên Thiếu Úy nầy!
Những Chiến hữu xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, Võ Bị Quốc Gia trong tinh thần giúp đỡ bao bọc khắng khít nhau với các bạn đồng khóa, đồng môn bất cứ hoàn cảnh nào nhất là trong lao tù Cộng Sản. Một phần thời gian họ học ở trường lâu dài, hơn nữa với nội quy, chương trình học được sắp xếp rất ư khoa học để khi tốt nghiệp trở thành cán bộ có đạo đức, văn võ song toàn. Cùng xuất thân khóa 20 Ðà Lạt nên hai Thiếu Tá Miên và Hồng chơi thân nhau, luôn chia sẻ ngọt bùi, lại có tâm ý trùng hợp là muốn trốn trại. Ðến khi thực hiện trốn trại tiếc thay Thiếu Tá Hồng không cùng đi được lý do bịnh hoạn kéo dài.
Sắp xếp xong với người thân qua chuyến thăm nuôi trước đó, người nhà đã đưa cho Miên 1 thẻ bầu cử chưa điền tên với đầy đủ chữ ký, con dấu cùng vài giấy tờ khác. Trước đó 1 ngày, chính Hồng là người đã điền tên vào chỗ trống lý lịch cho Miên sử dụng trong lúc đi đường.
Là Nhà Trưởng nên việc cắt đặt lao động do chính Miên phụ trách.
Một ngày đầu tháng 9-1977, sau khi phân công anh em đi lao động, Miên liền lấy cây rựa ra cổng trại báo cáo vệ binh đi đốn củi. Thật nhanh đến điểm hẹn có người chờ sẵn với xe Honda. Thay xong quần áo dân sự chạy nhanh vào hướng Saigon. Chiều lại, điểm danh thấy thiếu Miên. Trại báo động, tìm kiếm thâu đêm, lúc nầy Miên đã thoát ra khỏi khu vực trách nhiệm của Quân Khu 5 Việt Cộng.
Cuộc vượt thoát thành công, sống tại Saigon ít tháng, đáng tiếc! Vì lý do nào đó cán bộ Trại tìm được vào tận Saigon bắt Miên đem về Trại đưa vào nhà cùm.
28 tháng 9 năm 1978: Tất cả tù do Bộ đội quản lý được chuyển giao Công An Trại Tiên Lãnh trong đó có Miên và không thoát khỏi cảnh vào phòng biệt giam, qua nhiều năm kế tiếp.
Sau nầy nghe tin Thiếu Tá Miên đã sang Hoa Kỳ qua chương trình H.O.
* Trung Tá Ngô Hoàng, bị bắn tại Kỳ Sơn!
Trung Tá Ngô Hoàng, sinh vào tháng 2-1932 tại Thừa Thiên. Số quân 52/200.968, Khóa 10, Trần Bình Trọng, Võ Bị Ðà Lạt.
- Trưởng Phòng Phản Gián An Ninh Quân Ðội Quân Khu 2.
- Trưởng Ty An Ninh Quân Ðội, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Phú Yên.
- Sĩ Quan Thanh Tra Trung Tâm Ðiều Hợp Bình Ðịnh và Phát Triển Quân Khu 1.
1977: Từ Trại 1, Trung Tá Ngô Hoàng, Khối Phó khối 4 chuyển qua Trại 4 Kỳ Sơn. Ông bị cận thị rất nặng. Sau thời gian dài cùng anh em tù đến Phú Ninh, Tam Kỳ để khai hoang làm lòng hồ, khi trở về Trại 4 được ít tuần lễ thì xảy ra vụ Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại. Hai anh Hoàng và Miên thường ăn cơm chung với nhau.
1978: Vào một ngày đầu năm, khối 4 được lịnh sang Trại 2 để đào sắn. Cơm trưa vừa xong, vệ binh tên Tư đến bảo Ðại Úy Công Binh Nguyễn Ðắc Phúc (khối Trưởng) cho người theo anh ta để đi xem bãi sắn khác để ngày hôm sau đào tiếp.
Anh Phúc hỏi: Tôi đi với cán bộ? Vệ binh Tư lắc đầu và nói: Anh ở lại trông coi anh em. Anh cho anh Hoàng, Khối Phó, theo tôi. Anh Hoàng liền xách cúp đi theo. Vệ binh Tư bảo: rẫy có nhiều gai, anh đem theo rựa để phát quang tiện hơn. Sau khoảng 20 phút, nghe tiếng nổ của một loạt AK. Anh em tù nhìn nhau thở dài, ai nấy đều lo lắng, vì thầm nghĩ chắc anh Hoàng bị tên Tư sát hại. Quả nhiên, vài phút sau tên Tư cầm súng AK chạy ra và hô lớn: – Các anh ngồi yên tại chỗ, thằng Hoàng lấy rựa chặt tôi định giật súng, may tôi nhanh tay đỡ kịp, đã bắn nó chết rồi. Lúc nầy anh em tù nhìn khẩu súng của tên Tư không thấy dấu rựa chặt nơi báng súng. Nhưng đến khi Bộ Chỉ Huy Trại lập biên bản cần có chữ ký của anh Phúc, đại diện tù, thì khẩu súng trưng bày có dấu rựa chặt vào báng súng.
Liền sau đó, một số anh em tù trong đó có Trung Tá Lê Văn Thành (số quân 60/211.374, khóa 17, Lê Lai, Ðà Lạt) lấy ván tại khu nhà Trại 2 đóng quan tài chôn anh Ngô Hoàng tại rẫy sắn.
Có điều gây chú ý về con số 4 là con số “kỵ” đối với Trung Tá Võ Vàng và Trung Tá Ngô Hoàng vì hai vệ binh sát thủ gây cái chết cho hai anh, một có tên là Trương tự “Bốn” và một có tên là “Tư”.
Sau 2 cái chết oan nghiệt của anh Vàng và Hoàng, anh em tù Kỳ Sơn hết sức hoang mang lo lắng nhất là các anh cấp Tá. Người lo nhiều nhất là anh Tố và anh Kiệt vì khi anh Nguyễn Văn Tố làm Tỉnh Trưởng Phú Yên thì anh Hoàng là Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu. Anh Tố muốn báo tin cho chị Hoàng biết là anh Hoàng bị bắn rồi, chôn ở rẫy sắn, cây cối um tùm rất khó tìm. Khổ nỗi vì chị Tố đã đi thăm anh trong tuần vừa qua, nên anh phải chờ 3 tháng sau, trong lần thăm nuôi kế tiếp, anh mới nhờ vợ về báo tin cho chị Hoàng biết.
Nhận được hung tin, chị Hoàng cùng gia đình liền đến trại Kỳ Sơn 2 để tìm hiểu cái chết của anh Hoàng và xin bốc mộ chồng. Khi khai quật mộ, thi thể anh Hoàng chưa bị phân hủy nên phải dùng rượu để tuốt thịt ra đốt tại chỗ, còn xương thì đem về để mai táng. Cái chết đau thương đầy tủi hận nầy đã gieo vào lòng chị Hoàng một nỗi buồn sâu đậm khiến chị Hoàng phải lâm bịnh nặng trong một thời gian rất dài.
1992: Khi lập hồ sơ theo chương trình H.O. vì các con đã lớn và có gia đình, không hội đủ tiêu chuẩn để xuất ngoại nên chị Hoàng đã quyết định cùng ở lại quê nhà với con cháu.
1994: Từ Hoa Kỳ, anh Tố nhận được thư của chị Ngô Hoàng nhũ danh Nguyễn Thị Hương Thủy, nguyên là Y tá của bệnh viện Tuy Hòa trước năm 1975, cho biết về tình trạng gia đình đang gặp khó khăn. Anh Tố cùng một số anh em cựu tù Tiên Lãnh đóng góp được 700 Mỹ kim để gửi giúp chị Hoàng. Chị dùng số tiền nầy để mở quán cơm chay, rồi chuyển sang bán xì dầu, nhưng tiếc thay công việc mưu sinh của chị đều bị thất bại và từ đó anh Tố mất liên lạc với chị Hoàng.
Ngoài những chuyện nêu trên, Tổng Trại 2 Kỳ Sơn còn xảy ra những cái chết đau lòng khác:
- Thiếu Tá Lũy (Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn I) chết dưới suối do vệ binh sai bắt cá, không may bị đạp phải lựu đạn ném cá từ trước chưa nổ.
- Thiếu Tá Khóa (Phi công phản lực) đói lạnh kiệt sức nằm chết trong lùm cây bên bờ sông trong ngày mưa to, gió lớn.
- Thiếu Tá Bình (TTHL Hòa Cầm) ăn chay trường, quản giáo bắt ăn mặn, ông tuyệt thực đến chết.
Riêng tại Trại 2 Kỳ Sơn có nhiều sĩ quan trốn trại, nhiều ngày sau mới bị phát hiện, một số đã vượt thoát, số người bị bắt lại bị chuyển đến trại An Ðiềm để lãnh án tử hình. Còn nhiều chiến hữu khác đã qua đời tại các Trại 2, 3, 4 do trốn trại, đau bịnh, đói lạnh… (người viết không biết rõ chi tiết).
Ðến ngày 28 tháng 9 năm 1978, số tù còn lại tại Tổng Trại 2 Kỳ Sơn được Bộ đội chuyển giao cho Công An quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Ðiềm.
Trại tù Tiên Lãnh
Tiên Lãnh là một xã thuộc huyện Tiên Phước Quảng Nam, Ðà Nẵng. Thời VNCH là xã Phước Lãnh, Quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Tín. Trại tù mang tên Tiên Lãnh nằm cạnh ngã ba sông Tranh, cạnh trại có đường trải đá. Theo đường tỉnh lộ cách Tam Kỳ 50 cây số. Ngoài trại chính Tiên Lãnh còn các trại trực thuộc như: Trại Thôn Tư, Thôn Năm, Na Sơn, Ðồng Mộ và Trại Nữ do Công an quản lý. Khác với Trại Kỳ Sơn do Bộ đội quản lý chỉ giam sĩ quan chế độ cũ. Trại Tiên Lãnh ngoài sĩ quan còn có thành phần Hành Chánh, Ðảng phái, văn nghệ sĩ… VNCH, tù hình sự và tù phạm Cộng Sản. Các nhà giam xây gạch, cửa sắt, bao bọc bởi nhiều rào kẽm gai kiên cố. Ðặc biệt cán bộ quản lý Trại đều là cán binh, bộ đội từng hoạt động tại liên khu 5 trước tháng 4-1975.
Trước 1954 tại Tiên Phước có nhà tù khét tiếng Liên khu 5 mang tên nhà lao Tiên Hội.
Nhắc đến Tiên Lãnh có biết bao nhiêu điều cần nói. Xin kể hai sự cố đau lòng nhất như sau:
* Trung Tá Nguyễn Văn Bình và Ðại Úy Trần Văn Quy trốn trại Tiên Lãnh không thoát khỏi!
- Trung Tá Nguyễn Văn Bình, sinh tháng 10-1943 tại Thừa Thiên. Số quân 63/210.574, khóa 19 Nguyễn Trãi, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 51, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.
- Ðại Úy Trần Văn Quy, sinh tháng 9-1939 tại Kiến An. Số quân 59/153.270, Sĩ Quan Thủ Ðức. Tiểu Ðoàn 39 BÐQ.
28 tháng 9 năm 1978: Từ Trại tù Kỳ Sơn chuyển giao Công An quản lý tại Trại tù Tiên Lãnh. Sau khi đến Trại chừng 2 tháng, một buổi sáng nhân cơ hội đi vác củi từ xa về Trại. Trung Tá Nguyễn Văn Bình cùng Ðại Úy Trần Văn Quy liền bỏ trốn. Ðoàn tù về đến Trại, điểm danh lại thấy thiếu 2 người tù. Ban Chỉ Huy Trại tức tốc báo động lùng kiếm suốt một tuần không thấy. Trại báo các Buôn Thượng trong khu vực để theo dõi. Qua tuần lễ thứ 2 không rõ hai anh Bình và Quy qua mưu sinh thoát hiểm thế nào không may bị địch phát hiện. Anh Bình bị bắn chết còn anh Quy bị bắt sống. Thi hài anh Bình đưa về chôn bên vệ đường mòn nơi anh em tù thường đi lao động ngang qua. Anh Quy đưa vào nhà cùm sau một ngày trói ngay nơi cổng để dằn mặt anh em tù.
Nhân dịp nầy người viết xin ghi lại cử chỉ bất khuất của anh Nguyễn Văn Bình: Sáng hôm sau ngày nhập Trại Tiên Lãnh, anh em tù tập họp trình diện viên Ðại úy Công An để xác nhận lý lịch. Mỗi tù khi nghe đọc tên phải lấy mũ xuống rồi hô lớn có mặt. Ðến lượt anh Bình (đứng trước tôi) không lấy mũ, chỉ nói nhỏ có thay vì “có mặt” như anh em khác. Tên Ðại úy nhìn thẳng anh Bình giận dữ lớn tiếng: “Anh có biết lấy mũ xuống không? Anh coi thường tôi. Giờ nầy anh là tù phạm, không phải tù binh hay Trung Tá ‘ngụy’ đâu”. Anh Bình hết sức tức giận, trước kẻ thù anh đành nuốt hận!
Hành động của anh Bình, in đậm tâm trí tôi không bao giờ quên.
* Thiếu Úy Trần Quang Trân với bản án tử hình
Thiếu Úy Trần Quang Trân, sinh 30 tháng 9 năm 1949 tại Phú Lộc, Thừa Thiên. Sĩ Quan An Ninh, chi An Ninh Phú Lộc, Thừa Thiên.
Nói đến trại tù Tiên Lãnh phải kể vụ án Trần Quang Trân, một vụ án chấn động Quảng Nam Ðà Nẵng. Cuối 1975 tại Kỳ Sơn có phái đoàn địa chất của Tỉnh Quảng Nam Ðà Nẵng đã sử dụng máy dò tìm địa chất của Trung Cộng để tìm vàng tại Bông Miêu. Máy bị hỏng về Ðà Nẵng không tìm ra chuyên viên sửa chữa. Phái đoàn nhờ Tổng Trại 2 tìm cho người sửa. Anh Trân nhận sửa và máy hoạt động tốt trở lại. Từ đó anh Trân được đưa về Bộ Chỉ Huy Tổng Trại để sửa máy. Cán bộ có radio hỏng đều nhờ anh Trân sửa. Anh lén nghe đài BBC, VOA… có tin hay tìm cách phổ biến cho các bạn tù được tin tưởng biết hầu an tâm.
Ngày 28 tháng 9 năm 1978, Bộ đội bàn giao số tù còn lại tại Kỳ Sơn cho Công An trại Tiên Lãnh. Anh Trân được giao theo danh sách chuyên viên. Qua tin đồn anh Trân sửa máy giỏi Công An Trại nhờ sửa Radio. Có máy anh lén nghe các đài ngoại quốc về sau ráp 1 máy nhỏ để nghe. Những tin quan trọng như: Tôn Ðức Thắng qua đời, Việt Nam đánh qua Campuchia, Trung Quốc xâm lăng miền Bắc, nhất là Hoa Kỳ và Việt Nam thương thảo để chuyển tù Việt Nam Cộng Hòa sang định cư tại Hoa Kỳ,…
Ðược tin anh em tù hết sức vui mừng và phổ biến cho nhau. Ðầu 1981 vụ nghe lén Radio bị bại lộ. Ban Chỉ Huy trại cho điều tra, gom bắt gần 100 tù nhân liên quan trong tổ chức nghe radio đưa vào nhà cùm. Ðến ngày 5 tháng 11 năm 1981 Tòa án Nhân dân Quảng Nam Ðà Nẵng mở phiên tòa suốt một ngày tại Tiên Lãnh để xét xử 92 tù nhân với tội: “Âm mưu tổ chức lật đổ chính quyền nhà nước Việt Nam”.
Bản án tuyên đọc anh Trần Quang Trân tử hình. Một số khác từ chung thân, 20, 18, 13, 12, 10, 5 và nhẹ nhất là 3 năm còn lại 75 người miễn truy tố chỉ bị phạt giam. Ðặc biệt trong phiên xử anh Trân không gọi Ban xử án là Quan Tòa mà gọi các ông. Anh nói: “Các ông không xứng đáng và có quyền xử chúng tôi, lịch sử Việt Nam sẽ xử tội các ông.”.
Viên Chánh Án luôn đập bàn gọi anh Trân phải thưa Quan tòa không được gọi các ông. Sau khi tuyên án tử hình viên Chánh Án cho anh Trân nói lời cuối cùng. Anh không mất tinh thần, không sợ hãi và hùng hồn tuyên bố: “Tôi không có gì nói với các ông, chỉ tiếc là khả năng của tôi không có cơ hội để phục vụ tổ quốc sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ!!!”
Vào lúc 12 giờ trưa ngày 19 tháng 6 năm 1982, chúng đưa xe đến tận phòng giam rồi bịt mắt anh Trân để chuyển ra pháp trường. Khi xe ra đến cổng Trại anh cố hô to: “Ðả đảo Hồ Chí Minh! Ðả đảo Cộng Sản.”
Khoảng hai mươi phút sau nhiều tiếng súng oan nghiệt nổ để tiễn đưa linh hồn của một anh hùng Việt Nam Cộng Hòa thuộc Trại Tiên Lãnh đã hiên ngang đi vào lòng dân tộc.
Ngày 10 tháng 5 năm 1989 mộ phần anh Trân được gia đình cải táng và chôn tại xã Lộc Ðiền, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên.
Chị Trân nhũ danh Vũ Thị Rần cùng hai con là Trần Diễm Trang và Trần Diễm Nga đã lập thủ tục xin định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Công An Ðà Nẵng từ chối không cấp giấy khai tử nên hồ sơ chưa được giải quyết. Ngày 30 tháng 1 năm 2008, Ban Ðại Diện Hội Tù Tiên Lãnh gửi đơn đến Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cứu xét và giải quyết nguyện vọng của chị Trân.
***
Những người tù không bản án tại trại Tiên Lãnh không thể nào quên được. Hàng trăm người đã chết trong tù hoặc mang bệnh về nhà rồi chết. Trong số người chết trong trại người viết chỉ nhớ các bạn như sau:
- Trung Tá Trần Phước Xáng, khóa 10, Trần Bình Trọng Ðà Lạt, Tiểu Khu Phó Quảng Nam chết tại khu Nhà Trắng Thôn 5 do bịnh kiết lỵ kéo dài quá lâu.
- Trung Tá Nguyễn Trinh, khóa 4 Cương Quyết Thủ Ðức, Tham Mưu Phó CTCT Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Ðoàn I, chết vì bệnh nặng tại Tiên Lãnh.
- Trung Tá Huỳnh Như Xuân, khóa 19 Nguyễn Trãi Ðà Lạt, Trung Ðoàn Phó Trung Ðoàn 3 Sư Ðoàn 1 BB chết tại Ðồng Mộ do bịnh gan.
- Ông Ðinh Văn Biền, Bí thư Quốc Dân Ðảng Quảng Nam chết tại Ðồng Mộ do bịnh suyễn kinh niên.
- Thiếu Tá Hồ Minh, Phó Ủy Viên Chính Phủ Tòa Án Quân sự Thường Trực Quân khu 1 nhịn đói đến chết tại Nhà Trắng Thôn 5.
- Thiếu Tá Ðoàn Văn Luyến, Tiểu khu Quảng Nam, vì đói quá nên ăn nhiều lá sắn và môn, bị phù thủng và qua đời tại Tiên Lãnh.
- Thiếu Tá Trương Ðình Phước, Xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Thanh tra Quân Tiếp vụ Quân Khu 1. Chết vì bệnh nặng.
Thành phần Sĩ quan và tù chính trị tại Tiên Lãnh, do bị tù quá lâu nên anh em biết nhau nhiều. Ra hải ngoại rất đông anh em tiếp tục sinh hoạt chính trị, tiêu biểu trong số có người bạn tù chúng tôi hằng quý mến ngay từ trong trại như Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh:
* Y sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh cứu sống nhiều tù nhân Tiên Lãnh
Y Sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh, số quân 51/120.936, sinh tháng 10-1931 tại Quảng Nam, được trưng dụng vào Quân đội. Nhiệm vụ sau cùng là Bác sĩ chỉnh hình tại Trung Tâm Y tế toàn khoa Ðà Nẵng đồng thời Ông cũng là Giám đốc Dưỡng Ðường Ðộc Lập tại Ðà Nẵng (Dưỡng Ðường tư của Bác sĩ).
Anh em trại tù Tiên Lãnh không quên được một bạn tù đặc biệt như Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh. Tinh thần chống Cộng rất cao, khi vào tù trại bắt lao động rồi đưa vào trạm Y tế chữa bệnh cho anh em tù. Qua lần lao động sau cùng ông đạp nhằm đinh sét bị phong đòn gánh rất nặng phải đưa về Bệnh viện Tam Kỳ chạy chữa. Nhờ một số Bác sĩ tại đây là học trò cũ của ông đã tận tình chữa khỏi bịnh. Khi trở về Tiên Lãnh ông được tiếp tục giao phó việc chữa bệnh cho các anh em tù. Bác Sĩ Hạnh đã cứu sống biết bao đồng đội bịnh nặng sắp đi vào cõi chết.
Ông được phóng thích sau 12 năm tù, ông vượt biển vào năm 1989, sau đó được sum họp cùng phu nhân là bà Nguyễn Thị Bạch Nhạn và 7 người con gồm 4 trai, 3 gái tại Montréal, Canada. Hiện ông đang vui hưởng tuổi già cùng 8 cháu nội ngoại. Ðiều đáng ghi nhận là tất cả các con của ông đều thành đạt mỹ mãn.
Ông ghi lại những nỗi vui buồn của cuộc đời mình qua 2 tác phẩm:
- Tình Yêu Hiện Sinh, xuất bản năm 2000.
- Một Kiếp Người, xuất bản năm 2004.
Thay lời kết
Qua tâm ý của người viết cố hồi tưởng lại những gì mắt thấy, tai nghe trong thời gian bị tù Cộng sản tại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh cùng nghe qua lời kể của các bạn tù. Tham khảo ít tài liệu Quân đội trước 1975.
Xin cám ơn tất cả mọi người trong cuộc cùng thân nhân và anh em cựu tù Kỳ Sơn, Tiên Lãnh đã cung cấp hình ảnh, tin tức và khuyến khích tôi viết lại các câu chuyện đầy thương tâm để hoàn thành loạt bài này.
Nhân tiện người viết xin có mấy lời cùng các bạn trẻ thân mến:
Sau biến cố năm 1975, các bạn được cha ông tạo cơ hội vượt thoát khỏi chế độ bạo tàn Cộng Sản và may mắn có nhiều cơ hội để học hỏi và tiến thân mưu cầu một tương lai ổn định và tươi sáng. Sự thuận lợi các bạn đang có đã đánh đổi bao sự hy sinh của cha ông đã lâm vào cảnh lao lý. Các chuyện kể trên tiêu biểu cho hàng ngàn vụ đau thương xảy ra trong các trại tù trên toàn quốc.
Hiểu được lý do chính đáng về sự hiện diện của các bạn tại quê người, các bạn nên luôn ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đóng góp phần xương máu để xây dựng và bảo vệ miền Nam. Trước 1975 cuộc sống của đồng bào miền Nam được tự do, hạnh phúc hơn hẳn một số Quốc Gia trong vùng Ðông Nam Á, thủ đô Sài Gòn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Ðông. Các bạn hãy hãnh diện về thành quả trước đây, nỗ lực hơn nữa để phục hưng nước Việt trong tương lai được phú cường và không Cộng Sản hầu thực hiện nguyện vọng của toàn dân hiện đang mong ước từng ngày.
Hiện nay, tình hình chính trị trong nước đã chín mùi, ngày toàn dân mong ước không còn xa.
Bolsa, ngày 28 tháng 8 năm 2008
Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử
Tường An, thông tín viên RFA
2011-04-30
Hành trình vượt biên được nói nhiều, viết nhiều bởi những ngòi bút hải ngoại, nhưng bên cạnh cuộc vượt biên vĩ đại đó, những hình ảnh của cuộc di tản cũng không kém phần đau thương của người dân Việt Nam hầu như bị bỏ quên.
Nhà văn Tiểu Tử - hiện đang định cư tại Pháp - là một trong số rất ít những nhà văn đã ghi lại những hình ảnh này để nhớ lại một giai đoạn bi thảm trong hành trình tìm tự do. Thông tín viên Tường An trò chuyện với nhà văn Tiểu Tử và giới thiệu một vài đoản văn của ông về cuộc di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mời quý vị cùng nghe:
Với lối hành văn mộc mạc của người Nam Bộ, những truyện ngắn của nhà văn Tiểu Tử luôn luôn gây xúc động cho người đọc bằng những hình ảnh rất đơn giản trong cuộc sống hàng ngày: một chiếc nón lá, một tô cháo huyết, một cái quần rách, một bản vọng cổ. Những hình ảnh rất đời thường đó, qua giọng văn của ông đã biến thành những âm điệu quê hương khơi dậy nhiều dòng nước mắt.
Cuộc di tản kinh hoàng
Trong tâm tư người Việt hải ngoại, cuộc vượt biên đánh dấu một đoạn đời không thể quên, tuy nhiên nhà văn Tiểu Tử muốn nhắc cho mọi người nhớ lại một một cuộc hành trình khác không kém phần bi thảm đã xảy ra trên chính quê hương của mình trước ngày 30 tháng 4 năm 75. Đó là cuộc di tản từ miền Trung vào miền Nam, từ làng này sang làng khác của người dân để trốn chiến tranh. Ông cho biết lý do ông chọn đề tài này:"Mỗi một hình ảnh có một cái đau thương riêng của nó. Hình ảnh di tản là cái đầu tiên hết mà mình thấy, thành ra nó gây xúc động mạnh hơn cái hình ảnh của cuộc hành trình tị nạn. Mặc dù rằng hành trình tị nạn có nhiều cái ví dụ như chết ở dưới biển, bị Thái lan nó hãm hiếp rồi nó chặt đầu….này kia…Cái đó là cái mình thấy sau này. Tức là không phải cũng một lúc mà mình có ngần đấy hành trình tị nạn, nghĩa là, nó rời rạc.
Trong lúc đó, thì cuộc di tản nó ồ ạt, nó nhiều, nó đông và cùng một lúc. Thành ra những cái đau thương của cuộc di tản bị cái ồ ạt đó che lấp đi mình không thấy. Nếu mà mình thấy được, viết ra được tất cả những cái đau thương khổ cực trong lúc di tản. Mình sẽ thấy có nhiều hơn nhiều lắm. Bởi vì, nó đông, cái số người đi di tản cũng một lúc, đông lắm."
Nếu mà mình thấy được, viết ra được tất cả những cái đau thương khổ cực trong lúc di tản. Mình sẽ thấy có nhiều hơn nhiều lắm.
Nhà văn Tiểu Tử
Xin mời quý thính giả cùng nghe 1 đoạn tả lại một hình ảnh trong cuộc di tản:
Giữa cầu thang, một bà già, bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chỉ tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp.
Chuyện chỉ có vậy, nhưng hình ảnh đó đã đeo theo nhà văn Tiểu Tử từ bao nhiêu năm, ông thắc mắc:
"Bà già đó sợ gì mà phải đi di tản? Con cháu bà đâu mà để bà đi một mình? Rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao? Còn cậu thanh niên đã làm một cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu?... Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn tạp như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…"
Những bàn tay nhân ái
Đàn bà, trẻ con luôn luôn là những mảnh đời lau sậy, yếu đuối trong cơn lốc của chiến tranh, truyện của Tiểu Tử hầu như luôn có những bàn tay nhân ái đưa ra gánh vác những mảnh đời lau sậy này:Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ - chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy - người mẹ tiếp tục van lạy cầu khẩn.
Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…
Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem.
Nhà văn Tiểu Tử
Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu, rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội. Họ bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xốc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….
Hình ảnh người Mẹ lúp xúp chạy theo đứa con sắp chết của mình trong tay một người xa lạ, Hình ảnh ấy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng khi viết lại câu chuyện này, nhà văn Tiểu Tử vẫn:
"Cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm!"
Quê hương xa rồi
Cái nón lá, hình ảnh mộc mạc, thân quen đến độ người ta không còn nhớ đến nó, không để ý đến nó. Nhưng trong giờ phút chia lìa, nó bỗng trở thành một cái gì gắn bó, một cái gì thân thuộc mà nếu rời xa, người ta tưởng chừng như xa cả quê hương:Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh!
Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…
Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi. Yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà:
"Đó là cái nón lá! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ? Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương…"
Những cuộc chia tay xé lòng
Ngòi bút của ông trải dài qua nhiều đoạn đời bi thảm của cuộc di tản, nhưng hình ảnh thương tâm nhất đã ở lại mãi trong tâm hồn ông là cảnh chia tay xé lòng của hai cha con trên một bến tàu, cuộc chia tay không có tiếng còi tàu hú dài, cũng không có cả một lời từ biệt mà cả cha lẫn con đều biết là sẽ không có ngày gặp lại, nhà văn Tiểu Tử chia sẻ:"Cái hình ảnh làm tôi xúc động nhất có lẽ là cái hình ảnh mà thằng nhỏ mà Cha nó dẫn đi ra bến tàu. Cầu tàu kéo lên rồi Cha nó lạy lục những người trên tàu. Những người trên tàu thòng xuống cái sợi dây. Người Cha nắm được cái sợi dây cột ngang eo ếch của thằng con, rồi ra dấu cho ở trên kéo thằng con lên.
Thằng con không khóc, không giãy dụa. Nó nghiêng người nhìn xuống cái người đứng ở dưới, lúc đó tôi mới đoán ra cái người đứng ở dưới là Cha của nó. Người đứng ở dưới ra dấu "đi đi, đi đi". Rồi tự nhiên tôi thấy ông già đó úp mặt vô hai tay khóc nức nở, tôi thấy tôi cũng ứa nước mắt.
Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất! Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt!
Nhà văn Tiểu Tử
Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn teng dọc theo hông tàu, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói: "Đi, đi! Đi, đi!". Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất! Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt!
Không biết thằng nhỏ đó –bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi -- ở đâu? Cha con nó có gặp lại nhau không? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy."
Bên cạnh nghề chính là một kỷ sư hóa học. Nhà văn Tiểu Tử, với trên dưới 30 truyện ngắn ở hải ngoại đã cùng với Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Ngọc Tư đưa văn học miền Nam đến với người đọc bằng ngôn ngữ bình dị mà thắm thiết, lắt léo mà bao dung, đơn sơ nhưng chan hòa tình cảm.
Theo dòng thời sự:
- Ảnh của Trần Khiêm: Một khía cạnh khác trong sự kiện “Giải Phóng Miền Nam”
- Chuyện chưa kể của người lái trực thăng di tản
- Cuộc di tản hàng trăm trẻ mồ côi ở Sài Gòn năm 1975
- Slideshow: Những hình ảnh tư liệu của cựu phóng viên ABC, Trần Khiêm (phần 1)
- Hàng năm cứ vào cuối tháng tư…,
- Cái giá của Tự Do
- Những bàn tay cứu vớt
- Câu chuyện nhân ngày 30/4
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/stories-of-the-evacuation-of-tieu-tu-tan-04302011134349.html
No comments:
Post a Comment