Sunday, June 17, 2012

LÊ XUÂN NHUẬN * ĐỨC MẸ LA VANG I



Tòa Thánh Vatican, trong tuần-báo “L'Osservatore Romano”,
tiếng nói chính-thức và có thẩm-quyền nhất của Ky-Tô-Giáo La-Mã,
trong số ra ngày 12-19/8/1998,
đã thành-thật và thẳng-thắn xác-quyết rằng:

Tiếc thay, không có một văn-bản tài-liệu nào
chứng-minh các lần Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang”

chỉ vì một lý-do đơn-giản:
Đức Mẹ không hề hiện ra tại La Vang!






LỜI GIỚI-THIỆU:

            Nhân dịp kỷ-niệm “200 Năm Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang (1798-1998)”, các nhân-vật tên-tuổi Ky-Tô-Giáo Việt-Nam và ngoại-quốc đã đặc-biệt biên-soạn và tham-khảo những bài tiêu-biểu tổng-lược sự-tích ấy, để làm tài-liệu căn-bản cho lịch-sử của “biến-cố” nói trên.
            Chúng tôi xin trích nêu ra các đoạn chủ-yếu sau đây, để độc-giả khắp nơi thưởng-lãm.
                                                                Ðức Cố LÊ

CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC HAI TIẾNG “LA VANG”

A/  TÀI-LIỆU:

          Báo “Thằng Mõ” (918 S First St, San Jose, CA 95110, USA), số 832 ra ngày 28-3-98, có đăng bài “Tinh Thần La Vang” của Trần Văn Trí.  Một trong các tiểu-mục của bài này là “Tên La Vang”:
          Trong hạt Dinh Cát có một họ đạo tên là Cổ Vưu được thành-lập từ thế-kỷ 17, nay còn gọi là xứ Trí Bưu.  Người dân sống bằng nghề “làm củi” (chính-yếu là chặt những cây nhỏ dùng để nấu bếp).  Theo linh-mục Stanislaô Nguyễn Văn Ngọc, đặc-điểm trong vùng là đồng-bào Công Giáo và không-Công-Giáo đoàn-kết mật-thiết với nhau.  Từ thế-kỷ 16, dân đi làm rú, còn gọi là “đi củi”.  Họ phá một sở rẫy giữa rú xanh cách Cổ Vưu độ 7 cây số để trồng khoai sắn và cấy lúa.  Người dân đặt tên vùng đó là La Vang.
          Đức giám-mục Hồ Ngọc Cẩn cho biết:  “Ban đêm, phường La Vang không có sự thinh lặng.  Đêm nào người ta cũng la lối om sòm.  Họ đánh mõ, đánh thùng rộn ràng, để đuổi các thú dữ như heo rừng, voi, cọp từ rú xanh ra phá khoai, sắn, lúa, nên người ta gọi là phường La Vang.” (Lm Lê Văn Thành: Đức Mẹ La Vang, 1955, tr. 15-16).
          Nhưng giải-thích sau đây của linh-mục Philipphê Lê Thiện Bá, gốc Cổ Vưu, có cơ-sở hơn:  “Trong sổ bộ lập từ đời nhà Lê, nơi đó, tức sở rẫy của dân Trí Bưu, gọi là phường Lá Vằng, vì có nhiều cây lá vằng, một thứ cây có hột đen ăn được và lá là vị thuốc mà phụ-nữ xứ Dinh Cát dùng để uống sau khi sinh đẻ.  Về sau người dân đọc Lá Vằng ra La Vang, và nơi Đức Mẹ hiện ra được gọi là linh-địa La Vang.” (Lm Stanislaô Nguyễn Văn Ngọc: Linh-Địa La Vang, tr. 32-34 và Lm Hồng Phúc: Đức Mẹ La Vang, tr. 30-31).

B/  NHẬN-XÉT:

           La Vang đã trở thành một “linh-địa”, và các nhà viết sử, chủ-yếu là các tu-sĩ Ky-Tô-Giáo, không thể không tìm hiểu và viết về nó, kể cả nguồn gốc của địa-danh này.  Nhưng ở đây lại có hai lời giải-thích khác nhau của các tu-sĩ:  một bên là giám-mục Hồ Ngọc Cẩn do linh-muc Lê Văn Thành kể lại (“La Vang”); một bên là các linh-mục Lê Thiện Bá, Nguyễn Văn NgọcHồng Phúc (“Lá Vằng”).

a)  Bản-thân các tài-liệu:

          1- Tài-liệu của Lm Lê Văn Thành được xuất-bản năm 1955 (vào đầu thời-kỳ chấp-chính của tổng-thống Ky-Tô-Giáo Ngô Đình Diệm, và căn-cứ vào lời của Gm Hồ Ngọc Cẩn (“La Vang”).
          2- Tài-liệu của Lm Nguyễn Văn Ngọc được xuất-bản năm 1978 (ba năm sau khi CSVN đã chiếm Miền Nam) và căn-cứ vào lời của Lm Lê Thiện Bá, người được xem là gốc Cổ Vưu (“Lá Vằng”).
          3- Tài-liệu của Lm Hồng Phúc được xuất-bản năm 1997 (sau khi CSVN đã “đổi mới” và Giáo Hội Ky-Tô-Giáo trong nước (được CSVN chấp-thuận) đã chuẩn-bị cho đại-hội La Vang sẽ diễn ra vào năm 1998) (“Lá Vằng”).

b)  Thắc-mắc:

          1-  Báo “Saigon USA” (345 E Santa Clara St, #108, San Jose, CA 95113, USA), số 97 ra ngày 14-9-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang”, trong đó có đoạn: “... dưới thời hai Cha Sở: Bonin (Ninh) và Cadière (Cả). Cha này đã công-tác rất nhiều trong việc kiến-thiết Linh-Địa La Vang lúc ban đầu” (năm 1903).  Đó là vào đầu thế-kỷ 20, gần với sự-tích Đức Mẹ La-Vang hơn các tác-giả kể trên.  Lm Cadière là một học-giả người Pháp thông-thạo về Việt-Nam (hiểu biết và có thể giải-thích nhiều điều, kể cả các điển-tích lịch-sử Trung-Hoa và các ẩn-dụ văn-học trong Truyện Kiều của Nguyễn Du), là một nhân-vật nổi bật trong Hội Ái-Hữu Cố-Đô Huế (AAVH=Association des Amis du Vieux Hué) cũng như Trường Viễn-Đông Bác-Cổ của Pháp.  Hơn nữa, ông đã từng là Cha Xứ Cổ-Vưu (Trí-Bưu) coi cả La Vang.  Tại sao Lm Cadière (cha Cả) không hề nói gì về nguồn gốc hay ý-nghĩa của hai tiếng La Vang?

          2-  Giám-mục Hồ Ngọc Cẩn (theo Nguyễn Lý Tưởng trong “Linh-Địa La Vang”, là một nhà thông-thái, gốc Quảng-Trị là Tỉnh của La Vang) đã được đồng-bào cả trong lẫn ngoài Ky-Tô-Giáo biết đến.  Sau khi ông Ngô Đình Diệm chấp-chính (1954-1963), chính-quyền họ Ngô nói chung và giáo-hội Ky-Tô-Giáo Việt-Nam nói riêng đã nhắm ít nhất là hai chủ-đích: giúp cho tổng-giám-mục Ngô Đình Thục (anh của ông Diệm) được phong hồng-y bằng cách gia-tăng tín-đồ ; và phát-triển tầm quan-trọng của La Vang, vì một cảnh-trí Đức Mẹ hiện ra chắc hẳn sẽ làm cho quốc-gia sở-tại nổi tiếng khắp thế-giới và lôi-cuốn đông-đảo tín-hữu cũng như du-khách từ xa đến hành-hương.  Do đó, lời giải-thích của Gm Hồ Ngọc Cẩn (La Vang là la-lối om-sòm), hồi đó hẳn là đáng tin-cậy nhất nên Lm Lê Văn Thành đã trích dẫn và xuất-bản vào năm 1955 (là năm ông Diệm lên làm tổng-thống sau khi mới làm thủ-tướng có hơn một năm).  Hơn nữa, tại sao suốt nhiều năm trời, kể cả sau khi họ Ngô không còn, không hề có ai, nhất là trong giới tu-sĩ Ky-Tô-Giáo (thí-dụ giám-mục Lê Hữu Từ) đưa ra một lời giải-thích nào khác hơn?
          3-  Thế thì Lm Lê Thiện Bá, được xem là gốc Cổ Vưu, làm gì, ở đâu, trong lúc lời giải-thích của Gm Hồ Ngọc Cẩn đã được công-bố từ năm 1955, mà mãi đến năm 1978 (23 năm sau, và 3 năm sau khi CSVN đã chiếm Miền Nam), mới lên tiếng cãi lại rằng La VangLá Vằng?

          4-  La Vang hay Lá Vằng thật ra không thành vấn-đề, mà vấn-đề chính là:  Một “tài-liệu” của một giáo-phẩm cao-cấp Ky-Tô-Giáo (giám-mục Hồ Ngọc Cẩn) xuất-bản năm 1955 (giữa thế-kỷ 20 tiến-bộ này) mà đã bị một số tu-sĩ cấp dưới (thí-dụ linh-mục Hồng-Phúc), thuộc cùng giáo-hội,  phản-bác, cho là không đúng sự thật; vậy thì làm sao tin được các “tài-liệu” khác của những người cùng giáo-hội ấy viết ra, từ một thế-kỷ chậm tiến trước đó, lui về cho đến thế-kỷ 16 xa xưa?

CHƯƠNG II:
MỨC-ĐỘ KHẢ-TÍN
CỦA LINH-MỤC HỒNG-PHÚC

A/  TÀI-LIỆU:

            Báo “Mẹ Việt-Nam” (67 E Hedding St, San Jose, CA 95112, USA), số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Đốt Lò Hương Cũ: Cụ Ngô-Đình Diệm và La Vang” của Lm Hồng-Phúc.

            1)  Lm Hồng-Phúc viết:  “Tập sách “Đức Mẹ La-Vang và Giáo-Hội Việt Nam”... Bản thảo của tập sách bị thất-lạc.  Cha Giuse Lê-Văn-Thành đã thu-thập lại được một ít tài-liệu, nhờ linh-mục Hồng Phúc ấn-loát gấp 10.000 quyển gởi ra trước kiệu Đại Hội lần thứ 12, tháng 8-1955Cuối tháng 7, tôi nhận được điện-tín của ngài cho biết máy bay không nhận chở ra Huế.  Tôi về viếng Mẹ La-Vang xin Mẹ giúp.  Chúng tôi cùng với một cha bạn quen với họ Ngô, vào xin yết-kiến Tổng-Thống.  Văn-phòng Phủ Tổng-Thống cho biết là Tổng Thống rất bận.  Họ nói với chúng tôi:  Đúng 5 giờ, Tổng Thống có thói quen ra thở không-khí trời vài phút...  Tôi nói ngay sự việc và xin Tổng Thống giúp...”
            Ý-kiến:            
                  Độc-giả không cần nhớ lại lịch-sử, vì Lm Hồng-Phúc đã viết trong một đoạn trước của cùng bài ấy: Từ khi lên làm Tổng Thống (tháng 10-1955), mỗi lần có dịp ra Quảng Trị việc đầu tiên là tới La Vang cầu-khẩn với Đức Mẹ”.
            Việc chuyên-chở sách đạo và đại-hội La Vang xảy ra vào tháng 8-1955, vào thời-gian ấy ông Ngô Đình Diệm còn là Thủ Tướng của chính-phủ Bảo Đại (Diệm phải đợi đến ngày 23 tháng 10-1955 (hai tháng sau) mới lật đổ Bảo Đại để lên làm Tổng Thống), thế mà Lm Hồng Phúc đã gọi ông Diệm là Tổng-Thống thay vì sự thật là Thủ Tướng.

            2)  Lm Hồng-Phúc cũng viết: Ngày 16-8-1961 Cụ đến kính viếng Đức Mẹ”.  Nhưng ông lại ghi-chú dưới bức ảnh tổng-thống Ngô Đình Diệm đang bước trên các bực cấp của nhà-thờ La Vang, đăng cạnh đó:  “Tổng-Thống Ngô Đình Diệm trong ngày Đại-Lễ Đức Mẹ La-Vang 15-8-1961”.
             Ý-kiến:
            Tổng-Thống đến dự Đại-Hội vào ngày lễ chính, thế mà Lm Hồng Phúc không nhớ chính-xác là vào ngày nào, cũng không thấy là mình đã ghi hai ngày khác nhau trong cùng một bài viết.

            3)  Trong một đoạn khác, Lm Hồng Phúc viết:  “Những lần Cụ đến Dòng Chúa Cứu-Thế...  Ra đi có cận-vệ, quân-cảnh, còi hụ...”.
             Ý-kiến:
            Lm Hồng Phúc rõ-ràng không nhớ rằng vào thời ấy lực-lượng hộ-tống Thủ-Tướng (sau đó là Tổng-Thống) Ngô Đình Diệm là Cảnh-Sát, Công-An, và Hiến-Binh, chứ không phải là (vì chưa có) Quân-Cảnh.

B/  NHẬN XÉT:

            Linh-mục Hồng-Phúc là một trong các tác-giả viết về đề-tài La Vang, nhưng ông không có trí nhớ sáng-suốt.  Ông không nhớ được những gì xảy ra lâu hơn, và chỉ chọn nhận những gì mà ông thích hơn.  Thế thì làm sao mà những bài viết của ông là đúng sự thật và đáng tin-cậy?
            Hơn nữa, không phải chỉ có một mình Lm Hồng Phúc là như thế đó.
CHƯƠNG III:
NHỮNG SỰ VIỆC SAU ĐÂY
XẢY RA VÀO THỜI-ĐIỂM NÀO?

I/  Phong-Trào Văn-Thân Yểm-Trợ Thành-Công Cho Nguyễn-Huệ Lên Ngôi Vua?

A)  TÀI-LIỆU:

            Báo “L'Osservatore Romano”, cơ-quan truyền-thông chính-thức của Tòa Thánh Vatican ở La Mã, số ra ngày 12/19-8-98, có đăng bài “Ky-Tô-Hữu Việt-Nam Sùng Kính Đức-Mẹ La-Vang:  Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Đến Với Giáo-Dân Trong Rừng La-Vang Ở Việt-Nam”, trong đó có đoạn:
            Vào cuối thế-kỷ 18, lãnh-thổ Việt Nam bị chia thành 2 vương-quốc:  Đàng Ngoài thuộc quyền chúa Trịnh đóng đô ở Hà Nội; và Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn đóng đô ở Huế.  Các chúa trong Nam muốn đánh ra Bắc nên nhờ người Pháp giúp đỡ.  Nhưng có một nhóm trí-thức, gọi là Văn Thân, chống lại sự can-thiệp của người Pháp và đã thành-công trong việc giúp vua Quang Trung lên ngôi.  Ông này chiếm được miền Bắc, nhưng từ-trần sớm, để lại ngai vàng cho con là vua Cảnh-Thịnh, tuổi mới lên mười...

B)  NHẬN XÉT:

            Theo “Việt Nam Sử-Lược” của Trần Trọng Kim, Tập II, Chương X (Tình-Thế Nước Nam Từ Năm Giáp-Tuất Về Sau), thì:
            Đoạn I.  Văn-Thân nổi loạn ở Nghệ An.  Tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, đất Nghệ An có hai người tú-tài là Trần Tấn Đặng Như Mai hội-tập cả các văn-thân trong hạt rồi làm một bài hịch gọi là “Bình Tây, Sát Tả”, đại-lược nói rằng:  “Triều-đình dẫu hòa với Tây mặc lòng, sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết...”  Bọn Văn-Thân cả thảy độ non ba nghìn người, kéo nhau đi đốt phá những làng có đạo...
            Và, trong cùng sách, cùng Tập, Chương XV (Việc Đánh Dẹp Ở Trung-Kỳ Và Bắc-Kỳ):
            Đoạn 8.  Ông Phan-Đình-Phùng mở đồn-điền ở Vũ Quang, Hà Tĩnh, rồi cho người đi sang Tàu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày khởi-sự.  Sau ông ấy đứng đầu đảng văn thân để chống-cự với quân Pháp... (1893-1895)
            Thiển-nghĩ vì tin vào các tài-liệu của các Ky-Tô-Hữu Việt-Nam cung-cấp mà báo “L'Osservatore Romano”, tiếng nói có thẩm-quyền cao nhất của Ky Tô Giáo, đã để độc-giả thấy rõ là không biết đúng về lịch-sử Việt Nam, nhất là về những sự việc liên-hệ mà họ kể lại.  Chỉ vì vua Cảnh Thịnh ngược-đãi tín-đồ Ky Tô Giáo, mà hội Văn Thân thì cũng hành-động như thế, cho nên bài báo ấy đã kết-hợp cả hai phía lại thành cùng một nhóm, mặc dù hai lực-lượng nói trên hiện-hữu vào hai thế-kỷ khác nhau.  Thật ra, dưới thời các vua Quang Trung Cảnh Thịnh, vào cuối thế-kỷ 18, không có Văn Thân.  Nhóm kháng-Pháp này chỉ mới bắt đầu thành-hình sau khi quân Pháp đã chiếm lấy nhiều phần đất của Việt Nam, dưới thời vua Tự Đức, và sau khi nước Pháp đã đặt nền đô-hộ trên nước Việt Nam dưới thời vua Thành Thái, vào cuối thế-kỷ 19.
            Sự-kiện lịch-sử mà bị viết sai như thế thì làm thế nào mà đúng sự thật trong những chuyện khác, như chuyện Đức Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang?


II/  Các Cuộc Bách-Hại Ky-Tô-Giáo Tại Việt-Nam Thật-Sự Bắt Đầu Xảy Ra Vào Thời-Điểm Nào?

A)  TÀI-LIỆU:

              1-  Theo báo “L'Osservatore Romano” thì:  “Vào tháng 8-1798, triều-thần của vua Cảnh-Thịnh ra lệnh đàn-áp Thiên Chúa Giáo.  Giáo-dân cùng với gia-đình chạy trốn vào vùng La Vang.  Một hôm, Đức Mẹ hiện ra với họ lần đầu, có bồng Đức Chúa Hài-Đồng trong tay, có hai thiên-thần vây quanh, hứa sẽ che-chở và cứu-vớt họ.  Sau đó còn có những lần hiện ra tiếp theo...”
            2-  Vào ngày 19-6-1998, giáo-hoàng John Paul II có nói:  Kể từ 1533, nghĩa là từ khi Thiên Chúa Giáo bắt đầu truyền sang Đông Nam Á-Châu, trừ vài thời-kỳ yên-ổn, Giáo-Hội Việt Nam đã bị ngược-đãi suốt 3 thế-kỷ...”  Nhưng trước đó, linh-mục Pierro Gheddo, tác-giả “Cây Thập-Tự và Cây Bồ-Đề”, đã viết trong cuốn sách ấy:  “Thí-dụ, tại Bắc-Kỳ, các cuộc trấn-áp dữ-dội đã bắt đầu vào các năm 1696, 1713, 1721, 1778, v.v...”

B)  NHẬN XÉT:

            1-  Lm Pierro Gheddo thì viết rằng các sự kỳ-thị trở nên khắc-nghiệt vào năm 1696; báo “L'Osservatore Romano” của Vatican thì viết rằng tàn-ác nhất là vào năm 1798 nên Đức Mẹ phải hiện đến để “che chở” các tín-đồ Ky Tô Giáo tỵ-nạn tại La Vang; và giáo-hoàng John Paul II thì nói rằng các sự ngược-đãi ấy (dù có một số thời-kỳ lắng yên) đã bắt đầu từ năm 1533.
             Nhưng, để tìm hiểu các cuộc đàn-áp ấy thật-sự xảy ra vào thời-gian nào (từ 1533 đến 1696), ta hãy tra-cứu các sách lịch-sử và các tài-liệu khác nữa đã được phổ-biến công-khai.
            2-  Tác-giả Ky Tô Giáo Nguyễn-Văn-Thông đã viết chi-tiết cụ-thể về các cuộc giết hại giáo-dân, nhưng chỉ kể năm 1630 là năm giết đạo gay-gắt đầu tiên.  Sử-gia không-Công-Giáo Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử-Lược, trái lại, đã kể những vụ cấm đạo xảy ra sớm hơn trước đó rất nhiều:
            Năm bính-thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người giáo-sĩ Tây Ban Nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo ở trong Nam trước hết cả.  Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây Ban Nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ý quấy-nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi...  Năm bính-dần (1626) đời vua Lê Thần Tông, giáo-sĩ là Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi...  Năm tân-vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn Phúc Lan cấm không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước...  Năm giáp-thìn (1644) chúa Hiền ở Miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà Nẵng...  Năm quí-mão ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo-sĩ và cấm không cho người mình theo đạo Gia-Tô...  Năm bính-tí (1696) đời vua Lê Hi Tông, Trịnh Cán bắt đốt phá hết cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước...
            3-  Rốt cuộc, ta không tìm thấy tài-liệu về việc ngược-đãi (dù không gay-gắt) Ky Tô Giáo vào 60 năm đầu tiên, từ lúc khởi đầu giảng đạo vào năm 1533 cho đến năm 1596 (là năm chúa Nguyễn Hoàng đuổi giáo-sĩ và tàu chiến Tây Ban Nha, mặc dù không bắt và không gây thiệt-hại gì cho họ cả), chưa kể các thời-kỳ yên-ổn khác về sau.  Thế thì việc giảng đạo Ky Tô tại Việt Nam quả đã không bị trở-ngại suốt sáu thập-niên đầu tiên.  Ai nấy đều biết tại sao sau đó nó đã trở nên cay đắngCho nên, đáng lẽ Vatican không nên tảng lờ về 60 năm êm-thắm đầu tiên, mà lại mập-mờ gán cho Việt Nam là vốn kỳ-thị tôn-giáo từ đầu.


III/  La-Vang Được Chọn Làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc Từ Bao Giờ?

 A)  TÀI-LIỆU:

            1-  Báo “Mẹ Việt-Nam”, số đặc-biệt 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” của Nguyễn Lý Tưởng, với đoạn kết-luận như sau:  “Hội-Đồng Giám-Mục (Việt Nam) họp ngày 01-05-1980 đã chấp-thuận chọn La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.
            2-  Trong bài báo của Vatican đăng trên “L'Osservatore Romano” kể trên, có đoạn:  “Qua Bức Thư Chung (của Hội-Đồng Giám-Mục Nam Việt-Nam) đề ngày 8-8-61, La Vang đã được công-nhận là Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.  Sau ngày 30-4-75, tất cả giám-mục của Việt Nam, họp tại Hà Nội ngày 1-5-80, đã long-trọng chấp-thuận việc tiếp-tục chọn La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc...

B)  NHẬN-XÉT:

            L'Osservatore Romano” viết đúng hơn Nguyễn Lý Tưởng, vì khắp Việt Nam chỉ có một La Vang, và La Vang đã được chọn làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc vào ngày 8-8-61, cho nên các giám-mục trước kia ở Miền Bắc mà nay họp chung với các ông lâu nay ở Miền Nam thì chỉ làm có một việc hình-thức là đồng-thuận với một việc đã rồi, mà trong thâm-tâm họ đã đồng-thuận từ 8-8-61.
            Bài viết của Nguyễn Lý Tưởng rất dài, gồm nhiều chi-tiết, nhiều mặt, nhưng thiếu chính-xác về điểm nói trên:  Hội-Đồng Giám-Mục họp tại Hà Nội ngày 1-05-80 không phải chấp-thuận chọn La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc (như thể đây mới là lần đầu tiên) mà là chấp-thuận việc tiếp-tục chọn La Vang (là một việc đã được chấp-thuận và có giá-trị thi-hành từ năm 1961 rồi).  Có chăng, đây là việc được (CSVN) chấp-thuận cho chấp-thuận.


IV/  Nhà-Thờ La-Vang Đã Được Nâng Lên Hàng Vương-Cung Thánh-Đường?

A)  TÀI-LIỆU:

            Trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, tác-giả Trần Văn Trí viết:  “Đền thờ Đức-Mẹ La Vang là Vương-Cung Thánh-Đường đã được xức dầu Thánh ngày 22-8-61 theo sắc-chỉ Tòa Thánh dưới thời Đức Giáo-Hoàng Gioan...”

B)  NHẬN-XÉT:

            Trong bài “Ky-Tô-Hữu Việt Nam Sùng Kính Đức-Mẹ La Vang” đăng trên báo “L'Osservatore Romano” nói trên, có đoạn: Vào ngày 22-8-61, nhà thờ La Vang đã được giáo-hoàng John XXIII nâng lên hàng Tiểu-Vương-Cung Thánh-Đường.”
            La Vang chưa phải là một Vương-Cung Thánh-Đường như Trần Văn Trí viết.  Hệ-thống tổ-chức của Giáo-Hội Ky-Tô-Giáo không cho phép lẫn-lộn giữa giám-mục và tổng-giám-mục, v.v..., do đó, không thể lẫn-lộn giữa Tiểu Vương-Cung với Vương-Cung.  Sự sai lầm của Trần Văn Trí, cũng như của các người khác, quả đã góp phần gia-tăng mối nghi-ngờ về sự chính-xác của vấn-đề La Vang.


V/  Người tử-đạo đầu tiên tại Việt Nam là ai, vào thời-điểm nào?

A)  TÀI-LIỆU:

           1-  Báo “L'Osservatore Romano” ra ngày 27-6-98 có đăng lời của giáo-hoàng John Paul II“... Linh-mục Vincent Liem, thuộc dòng Đa-Minh, đã tử-đạo vào năm 1773; ông là người tử-đạo đầu tiên trong số 96 người tử-đạo có quốc-tịch Việt Nam...”
            2-  Báo “Thằng Mõ”, số 852 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Sự-Kiện La Vang: Trang Sử Tử-Đạo” của Nguyễn Văn Thông, trong đó có đoạn:
            Năm 1630, thời-gian giáo-sĩ Đắc Lộ truyền đạo ở Đàng Ngoài, có Phan Sinh... không chịu bỏ đạo... bị đao-phủ bổ đầu làm đôi.  Phan Sinh vị tử-đạo đầu tiên ở Đàng Ngoài và trên toàn cõi Đại Việt”.
             3-  (Ghi nhận thêm vào tháng 8 năm 2008):  Ngày 25-7-2008, "tại nhà thờ Mằng Lăng, thuộc giáo-hạt Phú Yên, giám mục giáo phận Qui-Nhơn Phê Rô Nguyễn Soạn đã chủ sự thánh lễ đồng tế mừng sinh nhật trên trời lần thứ 364 năm của á thánh Anrê Phú Yên, vị chứng nhân tiên khởi của Hội Thánh Việt Nam".  Theo cuốn sách "Người chứng thứ nhất" của Phạm Đình Khiêm, André Phú Yên là "Chứng Nhân Tử Đạo” đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam" (http://andrephuyen.org/home.php).

B)  NHẬN-XÉT:

           Trong bài viết (đầy những sai lầm) nói trên, trước khi kể đến trường-hợp tử-đạo của Phan Sinh, Nguyễn Văn Thông đã viết:  “Về các sử-liệu liên-hệ, chúng ta có khá nhiều để đối-chiếu một số cách trình-bày thiên-vị... với các sử-liệu như thư viết tay, sổ-sách ghi tên giáo-hữu..., những bản phúc-trình của từng khu-vực truyền-giáo gởi về Bộ Truyền-GiáoRoma, ở Paris, ở các nhà dòng Tên, dòng Đa Minh... có chi-nhánh ở Macao, Penang, Nhật, Phi Luật Tân, Thái Lan... đã bổ-túc cho ta biết những sự-kiện khách-quan và xác-thực hơn.  Dưới đây chỉ là đôi ba nét lấy ra từ trang sử tử-đạo của Giáo-Hội Công-Giáo Việt Nam...”
            Thế mà, trong lúc báo “L'Osservatore Romano” của Tòa Thánh Vatican đăng lời của giáo-hoàng John Paul II nói rằng “Lm Vincent Liem người Việt Nam đầu tiên tử-đạo vào năm 1773”, thì Nguyễn Văn Thông lại xác-quyết trên báo “Thằng Mõ” rằng “Phan Sinh người đầu tiên trên toàn cõi Việt Nam tử-đạo vào năm 1630”.
             Và Phạm Đình Khiêm thì viết rằng vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Ky Tô Giáo Việt Nam chính là Anrê Phú Yên.

            Cũng thế, người nào tử-đạo đầu tiên, vào ngày tháng nào, không phải là vấn-đề chính; mà vấn-đề chính là: “tài-liệu” nào, của tác-giả nào, thuộc gốc-gác nào, là “thật-sự” chính-xác; và khi mà đã có nhiều trái nghịch với nhau như thế, thì liệu những điều nói ra, viết ra, như đã trích trên, có đáng được sự tin-cậy của mọi người hay không?


CHƯƠNG IV:
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA-VANG
NHƯ THẾ NÀO?

A/  TÀI-LIỆU:

           1)  Báo “L'Osservatore Romano” của Vatican, ra ngày 12-8-98, có đăng bài “Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Ra Tại Rừng La-Vang Ở Việt-Nam” trong đó có đoạn:
            “... Cùng với gia-đình, các Ky Tô Hữu vào trốn trong rừng La Vang, cách xa nhà họ chừng 60 cây số.  Họ họp hằng ngày dưới một cây lớn và đọc kinh lần chuỗi vinh-danh Đức Mẹ.  Một hôm, Đức Mẹ với hai thiên-thần vây quanh và bồng Chúa Hài-Đồng trong tay, hiện ra với họ lần đầu tiên, hứa sẽ bảo-vệ và an-ủi họ.  Sau đó, còn có những lần hiện ra tiếp theo...”
            2)  Báo “Églises d'Asie” (EDA), số 270 ra ngày 1-9-98, có đăng bài “Ky Tô Hữu Hành-Hương Tại La-Vang”, trong đó có đoạn:
            ... Việc hành-hương tại La Vang bắt nguồn từ cuối thế-kỷ 18.  Năm 1798, dưới triều Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh đã ban-hành một cuộc đàn-áp rất khắc-nghiệt khiến cho giáo-dân phải chạy trốn vào trong một thung-lũng, tập-trung cầu-nguyện ở một khoảng đất trống lẻ-loi giữa rừng dày đặc nằm về hướng Tây của Tỉnh Quảng-Trị.  Họ họp nhau quanh một bức tượng Đức Mẹ đặt trên cành của một cây đa lớn, xin đước đấng mà họ gọi là “Mẹ” an-ủi và ban cho sức mạnh.  Vào cuối thế-kỷ 19, một nhà thờ được dựng lên chỗ đó...
            3)  Báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, có đăng bài “Tinh-Thần La Vang” của Trần Văn Trí, trong đó có đoạn:
            ... Lm Ng. V. Ngọc kể: “Trong lúc lánh nạn tại đây, ban đêm họ họp nhau cầu-nguyện và lần chuỗi.  Bỗng nhiên họ thấy một bà đẹp-đẽ mặc áo choàng hiện ra gần một cây đa đại-thụ, mà họ nhận biết ngay là Đức Mẹ, có bồng Chúa Hài-Đồng, hai bên có hai thiên-thần cầm đèn chầu...
            4)  Báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” của Nguyễn Lý Tưởng, trong đó có đoạn:
            ... Tương-truyền Đức Mẹ đã hiện ra tại gốc cây đa cổ-thụ.  Dân làm rừng thường đến đó van-vái, về sau họ nghe nóimột Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa, gọi là nền vọng, và rào chung quanh.
            5)  Báo “Saigon USA”, số 97 ra ngày 14-9-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” trong đó có đoạn:
            ... Cây đa đại-thụ:  Theo cổ-truyền ngày xưa Đức Mẹ đã hiện ra gần gốc nó, nay không còn tăm dạng gì...
            ... LM Giuse Nguyễn Xuân Cảnh (Kim Long) đã ở Phó tại Cổ Vưu dưới thời hai Cha Sở: Bonin (Ninh) và Cadière (Cả)...
            ... Đến sau Cha Cadière (Cả) đã sắm một bàn kiệu...

B/ NHẬN XÉT:

            1)  Báo “L'Osservatore Romano” là cơ-quan chính-thức của Vatican, có uy-tín và khả-tín nhất, trên tất cả, đã đơn-giản kể lại việc Đức Mẹ hiện ra lần đầu như thế nào trước giáo-dân tại La Vang: bài báo không nói cụ-thể xuất-hiện ở vị-trí nào so với cây đa đại-thu, và cũng không đề-cập đến áo choàng cùng với đèn chầu.
            2)  Thư tin song-ngữ “Églises d'Asie” của các Hội Truyền-Giáo Ngoại-Quốc tại Paris, chuyên về Á Châu, cũng có tầm-vóc quốc-tế, đã không đề-cập đến việc “Đức Mẹ xuất-hiện” mà chỉ mô-tả cảnh tín-đồ Ky Tô Giáo hội họp để cầu-nguyện ở đó, với “bức tượng” của Đức Mẹ, và nói rõ là tượng ấy được đặt trên cành cây -- những chi-tiết không thấy có trong các “tài-liệu” khác.  Không có Chúa Hải-Đồng và hai thiên-thần, là những chi-tiết được xem là quan-trọng nhất trong lần hiện ra đầu tiên.
            3)  Trần Văn Trí trên báo “Thằng Mõ”, căn-cứ vào Lm Nguyễn Văn Ngọc, thì xác-nhận rằng Đức Mẹ hiện ra lần đầu (“bỗng nhiên họ thấy”) không phải trên cành, mà là gần (bên cạnh) cây đa.
            4)  Nguyễn Lý Tưởng trên báo “Mẹ Việt-Nam” thì khẳng-định rằng dân La Vang đã tụ họp ở đó để cầu nguyện trước khi họ nghe nói rằng xưa kia có một Bà Linh-Thiêng xuất-hiện ở đó, và do nghe nói như thế họ mới đắp cái “nền vọng” dưới gốc cây đa.  Ngoài ra, bài viết không đề-cập đến Chúa Hài-Đồng và hai thiên-thần, là những chi-tiết tiêu-biểu hầu như không-thể-thiếu cho sự-tích này.
            5)  Báo “Saigon USA” thì đề-quyết rằng Đức Mẹ hiện ra gần gốc cây đa.  Bài viết rất dài, tỷ-mỷ, nhưng lại không đả-động gì đến Chúa Hài-Đồng và hai thiên-thần, mà đáng lẽ phải được kể ra, nếu có, vì đó là những điểm chính quan-trọng hơn mọi nét tả linh-tinh khác.

C/  Ý-KIẾN:

            1)  Theo báo “Églises d'Asie” thì (kể từ đời Cảnh Thịnh) mãi cho đến cuối thế-kỷ 19 mới có một nhà thờ được dựng lên.  Nhưng theo Nguyễn Lý Tưởng trong “Linh-Địa La Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 thì ngay từ “khoảng đầu đời Minh Mạng (1820-1840= đầu thế-kỷ 19) ba làng đồng-thuận nhường chỗ đó lại cho bên Công Giáo... và cha xứ đã cho sửa-sang nơi đó thành một nhà thờ bằng tranh.  Đây là ngôi nhà thờ đầu tiên tại La Vang.”
            2)  Các tác-giả viết về “sự xuất-hiện của Đức-Mẹ tại La Vang”, vì muốn tô vẽ thêm cho sự-tích tăng phần khả-tín mà lại chỉ căn-cứ vào cổ-truyền, lời đồn (nghe nói), đồng-thời dựa vào ấn-tượng và tưởng-tượng cá-nhân, một chiều, cho nên thiếu cơ-sở trung-thực, khiến mâu-thuẫn nhau, làm cho người đọc thấy sự bịa-đặt rõ-ràng.
            3)  Khi mà chính sự hiểu biết của giám-mục tên tuổi Hồ Ngọc Cẩn còn bị cấp dưới là linh-mục Lê Thiện Bá (cả hai đều có gốc-gác Quảng Trị) bác bỏ, và cứ như thế, thì làm sao mà người đọc có thể tin được các tác-giả khác trong cùng đề-tài, khi mà chính họ không hề đích-thân trực-tiếp tiếp-cận với các sự-việc hoặc bằng-chứng chính-xác về sự-việc lúc đang xảy ra của sự-tích “lịch-sử” này?
            4)  Tóm lại, ngay chính báo “L'Osservatore Romano” cũng đã đưa ra kết-luận, liền sau đoạn viết về sự xuất-hiện của Đức Mẹ tại La Vang: “Tiếc thay, hiện nay không có một tài-liệu viết nào viết về những lần Đức Mẹ hiện ra: những tài-liệu ấy có lẽ được lưu-trữ ở Huế và đã bị tiêu-hủy trong hai cuộc chiến địa-phương, năm 1833 dưới thời Minh Mạng, và năm 1861 dưới thời Tự Đức”* (hơn một thế-kỷ trước khi có lễ “kỷ-niệm 200 năm” này, là cơ-hội tốt để các tác-giả kể trên tha-hồ đặt điều, phịa chuyện).

            *CHÚ-THÍCH 1:
            Nguyễn Lý Tưởng trong bài “Linh-Địa La Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” đã viết: “Lm Stanilas Nguyễn Văn Ngọc đã trích dẫn một đoạn trong bức thư của Lm Lôrensô Lâu, ở vùng Dinh Cát (Quảng Trị) đề ngày 17-2-1691 gởi về Roma”.  Như thế rõ-ràng là các báo-cáo từ vùng Dinh Cát (gồm có La Vang) đã được gởi về thấu tận Roma từ hơn một thế-kỷ (1691-1798) trước khi có vụ gọi là “Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La Vang.
            Và Trần Văn Trí trong bài “Tinh-Thần La Vang” trên báo “Thằng Mõ” cũng đã viết: “Vài Nét Lịch-Sử Về La-Vang: 1717-1739: xảy ra một số xáo trộn mà Tòa Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...”  Đây cũng là một bằng-chứng nữa rằng Roma đã theo dõi sít-sao tình-hình cộng-đồng Ky Tô Giáo tại La Vang hơn năm thập-niên (1739-1798) trước vụ gọi là Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang.
            Theo-dõi nắm vững tình-hình La Vang sít-sao từng chi-tiết suốt hơn cả một thế-kỷ từ trước như thế, mà rồi vẫn không ghi-nhận được một chữ nào về biến-cố trọng-đại có tầm-vóc quốc-tế là vụ "Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang", một chuyện động trời, động đất đối với giáo-hội ấy.  Tất-nhiên, ai nấy đều thấy:  sở-dĩ hiện nay không có tài-liệu viết về vụ này lưu-trữ tại Vatican, chỉ vì một lý-do quá đơn-giản:  Đức Mẹ Không Hề Hiện Ra Tại La Vang.

            *CHÚ-THÍCH 2:
            Nguyễn Lý Tưởng còn viết:  “Năm 1886 Đức Giám-Mục Caspar Huế mới quyết-định xây nhà thờ bằng gạch... phải mất 15 năm mới hoàn-thành.  Đại-Hội Đức-Mẹ La Vang lần thứ I và khánh-thành nhà thờ vào các ngày 6, 7 và 8 tháng 8 năm 1901.
            Vậy thì trong suốt thời-kỳ 15 năm này (từ 1886 đến 1901), hơn 88 năm sau vụ gọi là “Hiện Ra” vào năm 1798 (1798-1886), và ít nhất là 25 năm sau lần “tài-liệu bị tiêu-hủy dưới thời Tự Đức” vào năm 1861 (1861-1886), tại sao không có người nào tìm ra được một tài-liệu nào khả-tín, nếu có, về sự xuất-hiện của Đức Mẹ tại La Vang?

 *
*    *

            Vấn-đề bây giờ là:  những chi-tiết mới được thêm-thắt trong các bài viết dẫn trên, nếu không được làm sáng tỏ, thì hẳn là sẽ bị sử-dụng như là “tài-liệu căn-bản”, “bằng-chứng lịch-sử” để tiếp-tục lưu-truyền Sự Giả (nghịch với Sự Thật) cho các thế-hệ con cháu của chúng ta trong tương-lai.

The truth about
 "
http://lexuannhuan.tripod.com/LaVang.html

No comments: