Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, (un vrai labyrinthe avec des souterrains) một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn thì sẽ dễ bị lạc.
Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đốí phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hỏi và đáp (H & Đ) để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.
Tôi xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau:
------------------------------------------------------
I- Tạo ra tiền (create money).
H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vậy ở bên Mỹ cơ quan nào có quyền phát hành dollar?
Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của C
H-: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ có Federal Reserve (
H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?
Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.
H-: Ai nợ ai?
Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao lại có chuyện đó?
Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên C
H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy C
Đ-: Khác, vì
H-: Privately owned thì ai own nó?
Đ-: Federal Reserve (
Fed Bank của
H-: Nhưng trong Ban Quản Trị (Board) của
Đ-: Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm (với sự chấp thuận của Senate) ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị (Chairman of The Governing Board) của
Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi
Mặt khác ban Quản Trị (Board) không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank
Hãy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty (corporate director) cho J.P. Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của
H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là của
Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của
H-: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?
Đ-: Phần 90% còn lại là tiền ma (phantom money).
H-: Tiền ma là tiền gì?
Đ-: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chỗ không có gì hết (money created from nothing), do cái trò ảo-thuật cho vay (gọi là “loan”) tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu được.
Đ-: Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không (create money out of nothing) dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đạo-luật tạo ra
Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 (tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm) Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà bank có quyền phát ra $200,000 (tức có $180,000 là tiền ma). Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 (để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác) thì nhà bank cho ảnh mượn (dưới hình thức loan) $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời (x %) dưới hình thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoặc 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc nhờ việc làm (như phòng mạch) của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đã “create money out of nothing”.
Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẫu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v. cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ (american money supply) năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật (tangible currency) chỉ có $ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card (Visa, Master Card, American Express v.v.) với một lải xụất (% interest) còn cao hơn gắp bội.
II- Một chút lịch sử.
H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-: Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví
H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.
Ở Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà (tea tax) một buổi tiệc trà được tổ chức ở
Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.
1-Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát (inflation) hay sự kém phát (deflation) nên giá vật và giá công (product and service) vẫn được đều hòa và thăng bằng, nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng (The streets are covered with beggars and tramps). Thì các chủ nhà bank Anh (the British bankers) lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc (do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành). Vua George
2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU (I owe you.) nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins (vàng hay bạc) sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Thì mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế (dính liền với tài chánh).
3- Vì thấy tiền Continental gần như không còn giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc (the Founding Fathers), không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” (thay vì “create money”) và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ (“and to borrow money on the credit of the United States). Thì các nhà bank của mẫu-quốc Anh cũ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hòa-Lan (Amsterdam) nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó (the enormous loophole) mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins (bằng vàng hay bạc) ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.
4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung bình hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Thì nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.
5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đòan các nhà bank (the banking cartel) là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát (inflation) rồi bằng sự kém phát (deflation) các nhà bank và các công ty (corrporations) sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận tái bản cho đặc quyền (renew the charter) cho First U.S.Bank. Thì chiến tranh với Anh quốc (the War of 1812) bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát (inflation) và nợ nần (debt). Vì những lý do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền 20 năm (a twenty year charter) cho Second Bank of The United States vào năm 1816.
6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền cho Second Bank of the
Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh (Treasury Secretary) mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang (state banks) thì ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm thì T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái vật rồi” Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senate không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát (deflation) bằng cách hồi (call in) các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh (a financial panic) xẩy ra trong dân chúng, thì báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của
Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện (House of Representatives) với 134 phiếu thuận và 82 phiếu chống, đã hủy bỏ việc tái bản đặc quyền (rechartering) cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 thì T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-1- 1835, khi T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà bank trung ương (Central Bank) thì tiền giấy được dùng là những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia (national currency).
7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức thì Nội Chiến Nam-Bắc (The Civil War) bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” (Slavery). Các nhà bank của vùng Đông (tức là thuộc về
Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ còn là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ (industrial giant), kỹ nghệ thép (steel industry) được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên lục-địa được xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy việc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng mức sản xuất lao động (labor productivity) lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những việc ấy thực hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị T.T.Lincoln chặt.
Nhưng đến ngày 14-4-1865, thì một kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẫn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Thì các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.
III- Tân hydra chào đời.
H- : Tai sao có Luật đó?
Đ-: Vì năm 1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủng Tài Chánh” (a Financial Panic) nên năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich (bên ngoại của David Rockefeller Sr.). Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách hòan tòan bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đóng vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york (thuộc vào tài sản của Rothschild).
“First Name Club” được triệu tập đến một hòn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, họp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ (the banking and currency legislation) sẽ trình cho Congress.
H-: Trong dự luật có cái gì là đặc biệt?
Đ-: Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét. nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ (chớ không phải là Central Bank) và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ý: như trong Lời Mở Đầu (Preamble) của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho
Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “(rediscounting) nghỉa là gì? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư (a private central bank) tạo ra tiền từ chỗ không có gì hết (create money out of nothing) rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bơm phòng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn (control the national money supply, expanding or contracting it at will.)
H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-: Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. (bố của phi công trứ danh Lindbergh) nói:” Luật tạo ra
Và cũng còn một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25-6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì, hoặc là vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”
Bởi vậy cho nên ngày 18-9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện thì ngày 19-12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng ý nên đã sửa lại. Thì sau khi Thượng Viên biểu quyết, hai Viện phải ngồi chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weekend. Cho nên ngày Thứ Hai 22-12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.thứ 28 của Mỹ ký thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23-12-1913.
Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress (Thượng và Hạ Viện) thảo luận và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” (thường thường là kể từ 15, 17 Dec.) và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành Pháp (Chánh Phủ) ký một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch” của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hợp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. ký thành Luật.
Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lập cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hợp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí (đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”) thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai câp.
H-: Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hợp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?
Đ-: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói gì lạ vậy, đứa em song-thai nào?
Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật
H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi.
H-: Đã được hợp-pháp-hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không?
Đ-: Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hợp-pháp-hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.
H-: Tai nạn gì?
Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng (The Great Depression) năm 1930.
H-: Bằng cách nào?
Đ-: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên
Còn Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”
H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-6-1963 T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh (an Executive Order số 11110) cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua
Năm tháng sau, ngày
H-: Như thế thì phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi không dám trả lời là phải hay là không (yes or no) vì tôi không đọc được sách nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực Tiền Tệ (the Monetary Power) hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp (the Robber Barons) về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế. Cho nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.
Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát.
Tài liệu được tham khảo:
The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium,
The Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research Institute Staunton, 1993
Modern Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of
The Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf.
NLV
Hydra tiên tệ trên trường quốc tế.
B.S.Nguyễn Lưu Viên.
--------------------------------------
Lời nói đầu:
Trong bài “Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ, chúng ta đã thấy con hydra tiền tệ Mỹ có tên là Federal Reserve (
------------------------------------------
Nhắc lại một sự kiện lịch sử:
Ngày 18-th.6-1815, cuộc chiến tại Waterloo đang diển tiến, ông Nathan Rothschild, lúc đó đang là một trong số những chủ ngân hàng lớn nhứt của London, nắm được tin Hoàng Đế Napoléon sẽ đại bại trước nhà cầm quyền Anh 24 tiếng đồng hồ. Ông Rothschild liền tung tin nói rằng Napoléon sẽ đại thắng. Giá cổ phiếu trên tòan bộ thị trường chứng khóan lập tức tuột xuống tận dáy. Thì Ông Nathan Rothschild liền tay mua gom, vét hết, các cổ phiếu với giá rẻ mạt. Cuối cùng khi chiến thắng của Tướng Wellington được lan truyền khắp thủ đô
Đó là chuyện thời xưa. Bây giờ chúng ta hãy xem xét chuyện thời nay.
Thỏa Hiệp Bretton Woods. (The Bretton Woods Accords)
Báo chí thường hay nhắc tới cụm từ Bretton Woods. Vậy nó là gì, ở đâu? Tra Từ-điển Webster mới biết đó là tên của một nơi nghĩ mát (resort) trong núi
Hội nghị đưa đến một thỏa hiệp được gọi là Thỏa Hiệp Bretton Woods (the Bretton Woods Accords) Theo Thỏa Hiệp này thì bản-vị vàng (the gold standard) vẫn được giữ và được đồng dollar yểm trợ (backed by the US dollar) vì đồng dollar được coi là “tốt như vàng” (as good as gold ) và Mỹ cam kết sự có thể đổi (convertibility) dồng dollar ra vàng theo giá $35 dollars một ounce vàng. Bản vị vàng của Bretton Woods (the Bretton Woods gold standard) “chạy đều” được một thời gian, vì ít có nước nào đổi dollars của mình ra vàng, và người ta còn tin tưởng nơi khả năng trả được (solvency) của Hoa Kỳ.
Nhưng kể từ năm 1965 chiến tranh ViệtNam đã kéo nước Mỹ vào vòng xoắn của nợ nần (the spiral of debt) thì T.T. De Gaulle của Pháp, nhận thấy Mỹ tiêu xài quá cái mức vàng được dự trữ, nên đòi Mỹ phải trả lại cho Pháp số vàng tương đương với $300 triệu dollars mà Pháp đang có. Mỹ làm đúng theo lời yêu cầu của De Gaulle. Nhưng kho dự trữ vàng của Mỹ bị “xẹp” đến nỗi mà năm 1971 T.T.Nixon phải rút dollar ra khỏi bản-vị vàng (took the dollar off the gold standard) và hủy bỏ luôn việc đổi dollar ra vàng. Thì các ngân hàng tư nhân và
Rồi lại thêm một trò ảo-thuật mới nữa được gọi là “short selling” là một thứ “mượn đầu heo nấu cháo” dựa trên hai nguyên tắc căn bản của “Kinh Tế Thị Trường” là: 1- Luật cung cầu: Hể cung (offre) mà nhiều hơn cầu (demande) thì giá hàng xuống, và hể cung mà ít hơn cầu thì giá hàng tăng lên. 2- mục đích hoạt động của một công-ty là làm sao cho có lợi có lời cho người có cổ phần (shareholder) và ý muốn của người (hay của nhóm người) nắm đa số cổ phần là “ý muốn của vua” giám đốc công ty phải tuân theo.
Và đây là lối hành động của “short selling”. Thí dụ như tôi đã nghiên cứu và khám phá ra được một lối chế tạo một món hàng mà tôi cho rằng sẽ được dân chúng thích, thì tôi phải dựng lên một công ty để sản xuất món hàng đó; nhưng vì không có đủ tiền nên tôi phải kêu gọi người ngoài hùn vốn bằng cách “bán cổ phần” thí dụ như tung ra một triệu cổ phần, mỗi cổ phần giá là $50 dollars. Nhờ có nhiều người hưởng ứng vì thấy món hàng tốt sẽ được dân mua dùng, nên người thì mua vài chục, kẽ thì mua vài trăm, có khi một mhóm kinh doanh mua vài ngàn cổ phần. nên tôi có được 50 triệu dollars để dựng lên “Công ty V”có nhà máy sản xuất, có cơ sở giao dịch, có văn phòng, v.v… Nhờ hàng tốt dân chúng thích, mua nhiều, nên “Công-ty V” phát đạt. Giá trị của cổ phần công ty mỗi ngày một tăng. lên tới thí dụ như $70 dollars mỗi cổ phần. Thường thường người muốn mua cổ phần là mua qua một môi-giới (“broker”) và gởi giấy số cổ phần đó cho “broker” giữ, chớ đâu có đem về nhà. Một ông chủ nhà bank B, thấy “Công ty V” phát đạt nên muốn chiếm lấy nó. Thì ổng (là “bồ tèo”có khi là chủ nhân thật của tên broker) đến “mượn” một số X cổ phần của “Công ty V” và tung số đó ra càng ngày càng nhiều vào thị trường... Thì trên thị trường số cung (của cổ phần “Công ty V”) càng ngày càng tăng, mà số cầu thì có hạn, nên giá của cổ phần càng ngày càng xuống. Những người ở nơi khác có cổ phần “Công ty V” thấy giá cổ phần xuống liền liền, thị vội vã biểu broker của mình bán mau mau cổ phần “Công ty V” của mình, thì trên thị trường tràng ngập cổ phần “Công ty V” với giá rẻ, thí dụ như chĩ còn có $25 dollars mỗi cổ phần. Thì Ông B lấy tiền của nhà bank mình quơ (rafler) hết các cổ phần “Công ty V” có trên thị trường. Ông trả lại cho broker “bồ tèo” của ổng số X cổ phần mà ổng đã “mượn”. Còn phần Y còn lại thì ổng giữ như là của. riêng của ngân hàng B.
Bây giờ ông B có thể có hai quyết định: Một là để cho “Công ty V” vẩn sống, thì ổng bớt hẳn số cung (bán ra) cổ phần Công ty V trên thị trường làm cho giá của nó tăng lên trở lại để đem cái lời cái lợi về cho các chủ cổ phần (mà chính ngân hàng B được hưởng thụ nhiều nhứt vì là nắm đa số cổ phần )
Hai là ổng có thể giết chết luôn Công ty V, vì trong hội nghị hằng năm, hay hằng tam cá nguyệt của công ty, “ý muốn của người có đa số cổ phần là ý muốn của vua” nên ổng quyết định dẹp bỏ công ty vì quá lỗ lã. bán mau mau với giá rẽ, tất cả máy móc cơ sở của công ty (không còn tên trong danh sách các cơ sở), thì một “bồ tèo” hay một “tay sai” của ổng mua hết máy móc dụng cụ cơ sở đó, để dựng lên một Công ty mới có tên khác, sản xuất cùng một thứ hàng mà dân đã thích mua. Còn tôi, người tìm ra phương pháp chế tạo hàng thì được mướn ở lại làm công như một kỷ-sư chuyên môn, hay là bị đuổi đi. Thế là “Công ty V” mà trong bao nhiêu năm tôi đã tốn không biết bao nhiêu thì giờ và công khó nhọc để nghiên cứu, suy nghĩ, thử đi thử lại mới chế tạo ra được món hàng được dân ưa thích và tạo dựng lên được một cơ sở mà tôi lấy làm hãnh diện, trong chốc lát, đã bị nhà bank B nuốt hết, nhờ cái trò ảo thuật “short selling”
Trên bình diện quốc tế, nếu có một tổ chức nào mạnh và giàu, đem áp dụng trò ảo-thuật “short selling” đó vào một quốc gia yếu và nghèo, thì cả hệ thống kinh tế và hệ thống kỷ nghệ còn non nớt của quốc gia ấy, sẽ bị “nuốt” mất hết ……….Mà tổ chức mạnh và giàu đó đã có rồi ……..Đấy là :.
IMF & World Bank. Ngoài việc đưa đến một Thỏa Hiệp, hội nghị ở Bretton Woods nói trên còn đẽ ra được hai con hydra khổng lồ là:
IMF (the International Monetary Fund Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế) và World Bank (the International Bank for Reconstruction and Development Ngân Hàng Quốc Tế) Nói là để giúp Đệ Tam Thế Giới (the Third World) và các quốc gia đã bị chiến tranh tàn phá. Nhưng trên thực tế thì khác hẳn, vì IMF và World Bank sẽ áp dụng cho Đệ tam Thế Giới hai trò ảo-thuật “loan” và “short selling” cộng với hai quan niệm “cho chắc ăn” rất đặc biệt như sau:
1- Để “cho chắc ăn”, các nhà bank thích “chơi” với các chánh phủ “vững chắc”, nghĩa thông thường là các chánh phủ độc tài (The banks preferred “stable” governments for clients. Generally that meant governments controlled by dictators. Theo sách: “The Web of Debt” tr.215)). Còn từ đâu các nhà độc tài đó có được quyền hành và họ làm gì với tiền, thì không phải là mối lo của các ngân hàng. Cho nên một số quốc gia ở Nam-Mỹ dược thí nghiệm. Ở ChíLợi, ngày 11-th.9-1973 TT... Salvador Allende, một vị tổng thống được dân bầu một cách dân chủ, bị Tướng Augusto Pinochet đảo chánh. Ở Peru chánh phủ bình dân (populist) của T.T. Alan Garcia bị cho vào “sổ đen”(black list) của IMF, nên ngày 28-th.7-1990 thì bị chánh phủ của T.T. Alberto Fujimori thay thế để áp dụng cái gọi là “economic shock therapy” của IMF. Rồi đến
2- Để “cho chằc ăn” các thứ tiền viện trợ cho y-tế, cho giáo-dục, cho sức khỏe trong các quốc gia mắc nợ phải bị bỏ đi, theo lệnh của IMF, để cho các nhà bank được trả nợ đúng kỳ (Public spending for health, education and welfare in debtor countries was slashed, following IMF orders to ensure that the banks got timely debt service on their petrodollars..Theo sách:”The Web of Debt” tr.215.) Cho nên trong các quốc gia có nhận viện trợ của IMF,(như Bengladesh, Bolivia, Brazil, Peru Ethiopia, Somalia, Uganda, Việt Nam và một số quốc gia trong khối Liên Bang Soviet URSS củ), con nít đi học phải trả tiền, người đau ốm vào bệnh viện phải trả tiên, chớ không còn được miển phí như trước. Kết quả là ở trong đa số các quốc gia ấy (trong đó có VN thời “bao cấp”) nền giáo dục bị phá tan (Destruction of Education), hệ thống bảo vệ sức khỏe bị sụp đổ (Collapse of the Health System ), thì các bệnh nhiễm trùng tái phát (Resurgence of Infectious Diseases).
Riêng ở Việt
Ngoài các tai hại về y tế và giáo dục nói trên, IMF còn gây ra nhiều tai họa khác độc ác hơn nữa, như đem nước sông vào ruộng để cày cấy mà phải trả tiền nước (ở Bolivia Nam Mỹ) nạn đói (như ở Somalia, Ethiopia) nạn thiếu dinh dưởng (ở cùng hêt) nạn thiếu an ninh, lọan vì biểu tình chống đối và đàn áp (ở cùng hết), nạn nội chiến vì chủng tộc (như ở Uganda) có thể đưa đến nạn diệt chủng (như ở Rwanda) ,v.v. mà các sách tôi đã tham khảo diễn tả rất đầy đủ trong vài ba trăm trang. Tất cả việc đó xẩy ra sau khi áp dụng cái được gọi là “ IMF shock therapy” với “privatization” (tư-hửu-hóa), với “deregulation” (bỏ luật lệ ràng buộc) để “giúp đở”, để “khuyến khích” để “chỉ dẩn” cho dân địa phương. Luôn luôn, dưới chiêu bài là “để thực hiện dân chủ”, “ để gia nhập kinh tế thị trường” và để xây dụng một “Nền Trật Tự Mới”(a New World Order).
No comments:
Post a Comment