ĐÊM NĂM CANH, NGÀY SÁU KHẮC
NGUYỄN PHÚ THỨ
Thuở xa xưa, những bậc tiền nhân thường dùng Thập Nhị Địa Chi tức12 con Giáp để gọi cho Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Số 12 con Giáp tức 12 con vật tượng trưng đó được sắp theo thứ tự như sau : Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mão hay Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó) và Hợi (Heo).
Ngoài ra, phương cách dùng để tính các tháng theo con Giáp thì : GIÊNG (Dần = Cọp), HAI (Mão hay Mẹo = Mèo, BA (Thìn = Rồng), TƯ (Tỵ = Rắn), NĂM (Ngọ = Ngựa), SÁU (Mùi = Dê), BẢY (Thân = Khỉ), TÁM (Dậu = Gà), CHÍN (Tuất = Chó), Mười ( Hợi = Heo), Mười Một (Tý = Chuột) và Chạp (Sửu =Trâu).
Nhưng tại sao, thời kỳ xa xưa đó lại đặt tháng Giêng là tháng đầu năm mà không gọi là tháng Một?
Theo thiển nghĩ của tôi, bởi vì lúc bấy giờ, dưới thời quân chủ còn Vua Chúa, thường dành con số Một để chỉ nhà Vua, là thiên tử (con trời) để cai trị dân chúng tức nhứt nhân (người đứng đầu, người lớn hơn hết), từ đó trong thiên hạ phải kiêng cử, cho nên mới đặt tháng Giêng?
Ngoài ra, khi sanh con đẻ cái cũng không thể gọi con đầu lòng là con Một mà chỉ gọi là con Trưởng hay con Hai hoẵc con Cả, vì sợ húy kỵ đến nhà vua, bằng chứng ở Việt Nam không có nhà nào gọi con đầu lòng là con Một là thế đó !.
Còn tháng Giêng tại sao là Tháng Dần ?
Căn cứ theo sách xưa, xin trích dẫn như sau :
Nhân sinh ư Dần
(Loại người sanh ra ở hội Dần).
Nhứt niên chi kế tại ư Xuân
(Kế hoạch trong 1 năm phải được sắp đặt ở mùa Xuân)
Nhứt nhựt chi kế tại ư Dần
(Kế hoạch trong 1 ngày phải sắp đặt ở giờ Dần).
Hơn nữa, trong 12 con Giáp, con Cọp là chúa sơn lâm, rất mạnh bạo hơn 11 con Giáp kia, cho nên người xưa chọn tháng Giêng là tháng Dần cho con Cọp cầm tinh là như thế?
Người xưa, tại sao tháng gọi tháng Chạp là tháng cuối năm mà không là tháng Mười Hai như năm
Theo thiển nghĩ của tôi, nước chúng ta thời bấy giờ phần đông làm ruộng, cho nên tháng cuối cùng của một năm, ruộng đã làm xong, đã đem lúa vô bồ, vì thế phần đông dành thời gian này lo các lễ cúng, tiệc tùng để tạ ơn Thần Nông hoặc cúng Đình Thần sau khi vụ mùa đã hoàn tất, hết nhà này đến nhà khác, có khi kéo dài cho đến Tết Nguyên Đán.
Hơn nữa, chữ Chạp là lễ cúng. Vì thế, nó còn có các tên lễ cúng khác như : Giỗ Chạp, Chạp Miếu, Chạp Mả...
Do vậy, thay vì gọi tháng Mười Hai là tháng Chạp là thế đó !.
<>
Ngoài ra, phải nói đến Hát Bộ (có người gọi Hát Bội) để cúng Thần, thông thường
Thời xưa, các nghệ sĩ nào được
Còn trái lại, các nghệ sĩ nào bị
Mặc dù,
Vì thế, trong dân gian mới có câu :
Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ gác cu, cầm chầu.
(*) Được biết, thời xưa Ban Hội Tề trong làng có 12 vị Hương Chức như sau : Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Bộ, Hương Quản, Hương Thân, Hương Hào, Xã Trưởng là người có bổn phận giữ con dấu để thâu thuế Điền, thuế Thân trong làng và Chánh Lục Bộ là người có bổn phận giữ Sổ Bộ Đời như : Khai Sanh, Khai Tử, Hôn Thú ...)
Đêm Năm Canh, Ngày Sáu Khắc
Được biết, niên lịch cổ truyền Á Đông đã xuất hiện từ đời Hoàng Đế bên Tàu, 2637 trước Thiên Chúa năm 61.
Còn đối với : Đêm Nam Canh, Ngày Sáu Khắc như thế nào ?.
Chúng ta để ý sẽ thấy : Ngày tính Khắc, Đêm tính Canh, cho nên chúng ta đã từng nghe thấy như sau :
Canh Một dọn cửa, dọn nhà
Canh Hai dệt cửi, canh Ba Đi nằm...
Hoặc là : Nửa đêm giờ Tý canh Ba
Theo thiển nghĩ, chúng ta thấy câu :
Nửa đêm giờ Tý canh Ba
thì chúng ta có thể đoán được chữ nửa đêm (tức khoảng 12 giờ đêm hoặc 0 giờ), còn giờ Tý canh Ba (tức khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng). Bởi vì, các bậc tiền nhân dùng 12 con vật cầm tinh tuợng trưng tức12 con Giáp, để phân chia bảng Giờ trong một ngày có 24 giờ như sau :
Bảng giờ trong 1 ngày cûa 12 con giáp
Giờ | Thời Gian | Giờ | Thời Gian |
Tý | Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng | Ngọ | Từ 11 giờ đến 13 giờ trưa |
Sửu | Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng | Mùi | Từ 13 giờ đến15 giờ xế trưa |
Dần | Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng | Thân | Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều |
Mão | Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng | Dậu | Từ 17 giờ đến 19 giờ tối |
Thìn | Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng | Tuất | Từ 19 giờ đến 21 giờ tối |
Tỵ | Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng | Hợi | Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya |
Căn cứ sự phân chia giờ ở trên, chúng ta thấy :
a)- Ban ngày dài được 14 giờ, còn ban đêm dài được 10 giờ và thấy được giờ Tý canh Ba, từ đó chúng ta tính được bảng 5 Canh như sau :
Thời Gian | |
Canh 1 | Từ 19 giờ đến 21 giờ tức giờ Tuất |
Canh 2 | Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya tức giờ Hợi |
Canh 3 | Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng tức giờ Tý |
Canh 4 | Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng tức giờ Sửu |
Canh 5 | Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng tức giờ Dần |
Do vậy, nếu chúng ta đem so sánh Canh với giờ, thì có hai giờ bằng một Canh và nếu đem so sánh bảng Giờ trong một ngày của 12 con Giáp ở trước sẽ thấy đúng.
b)- Mỗi ban ngày dài 14 giờ, đươc chia cho 6 khắc như bảng sau đây :
Tên Khắc | Thời Gian | Tên Khắc | Thời Gian |
Khắc 1 | Từ 5 giờ đến 7 giờ 20 sáng | Khắc 4 | Từ 12 giờ đến 14 giờ 20 xế trưa |
Khắc 2 | Từ 7 giờ 20 đến 9 giờ 40 sáng | Khắc 5 | Từ 14 giờ 20 đến16 giờ 40 chiều |
Khắc 3 | Từ 9 giờ 40 đến12 giờ trưa | Khắc 6 | Từ 16 giờ 40 đến 19 giờ tối |
Như vậy, nếu chúng ta đem so sánh Khắc với Giờ, thì có 2 giờ 20 phút bằng 1 Khắc. Bởi vì, ban ngày dài 14 giờ, đem chia đều cho 6 Khắc, thì đuợc 140 phút, tức là 2 giờ 20 phút.
Thế nên, chúng ta thường thấy câu : Đêm Năm Canh, Ngày Sáu Khắc là quả đúng vậy.
No comments:
Post a Comment