Vượt thoát Doc de nho lai nhung thang ngay trong "lao tu CS"
Thứ Tư, 10 tháng Tư năm 2013 04:06
Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Tù chuyển trại trên những chiếc xe GMC bịt bùng, dù rất kín đáo, nhưng
dân chúng hai bên quốc lộ vẫn phát hiện được đoàn xe chở tù. Nhìn qua
khe hở của tấm bạt phủ xe, tù nhân nhìn thấy hai cụ gìa giậm chân la
khóc, tay vẫy vẫy về hướng đoàn xe khiến cho anh em tù xúc động rơi nước
mắt.
Vài chiếc honda rượt theo cố lượm những mảnh giấy nhắn tin của tù thả
rơi đang cuộn bay trong bụi đường. Tù hy vọng những tờ giấy nhắn tin ấy
sẽ đến tay thân nhân của họ ở tận các vùng Kinh tế mới xa xôi.
Nhà tù mới, nằm sâu trong khu rừng già. Trại được xây dựng kiên cố.
Tường thành bằng gạch xi măng bọc quanh khu nhà giam. Tường cao trên hai
mét, đầu tường cơi thêm ba đường dây kẽm gai. Phòng giam mái ngói, vách
gạch, một cửa ra vào và bốn khung cửa sổ nhỏ. Sáu mươi tù nhân chen
chúc trong một diện tích chưa đầy tám mươi mét vuông. Mỗi người có năm
tấc bề ngang chia đều trên hai dãy sạp bằng thân cây nứa đập dập. Chính
sách giam giữ tù chính trị không thời hạn lại đặt vào thành phần nguy
hiểm của chế độ.
Lối hành xử của công an là trút hận thù bằng những ngón đòn vô cùng tàn
độc. Bản nội quy là sợi dây trói chặt tù không còn cựa quậy, khắc nghiệt
hơn cả thời Bắc thuộc.Tù xây nhà giam để nhốt mình, lao động sản xuất
đủ mọi ngành nghề để nuôi sống bản thân và nuôi cán bộ cả nước. Trong
sản xuất, chúng buộc tù phải tăng chỉ tiêu tối đa. Ngược lại, tiêu chuẩn
phần ăn hạ mức tối thiểu đến tàn nhẫn. Không cho tù ăn no. Những người
từng ở tù qua bốn chế độ: Pháp, Nhật, Quốc gia và Cộng sản, đã so sánh
và khẳng quyết rằng: Không có nhà tù nào vô nhân đạo bằng nhà tù Cộng
sản. Ðói, lạnh, lao động khổ sai và đàn áp tinh thần là bốn biện pháp
giết người tối độc. Ðức quốc xã tiêu diệt dân Do thái tại lò hỏa thiêu
bằng hơi ngạt, Cộng Sản tiêu diệt tù chính trị bằng cách tiêu hao sinh
lực lần mòn. Cái chết đến từ từ, kéo dài sự đau đớn triền miên. Không
chết vì mất sức, bệnh tật trong trại giam,cũng chết vì bệnh nan y sau
khi ra khỏi tù.
Một cái Tết thứ tư trong tù ngắn ngủi vô vị xói mòn niềm hi vọng được
trở về với gia đình. Cái mốc thời gian ngồi tù mù mù tăm tăm! “Lao động
tốt, cải tạo tiến bộ”là tiêu chuẩn để xét duyệt tha tù, chẳng khác gì
bức tranh vẽ cánh đồng cỏ nhử trước mắt loài ngựa nức lòng đi tới. Qua
Tết, trại bắt đầu khởi công xây chiếc cầu treo nối liền hai bờ sông Côn.
Cầu dài gần trăm mét. Vật liệu phần lớn do tù tự chế và góp nhặt. Người
đứng ra vẽ kiểu và thiết kế cây cầu là tù nhân Trần Xuân Lộc, một cựu
sĩ quan Công binh đã từng tu nghiệp tại Hoa Kỳ. Sáu tháng ròng rã, Lộc
miệt mài trong công việc. Anh phơi nắng dầm mưa, xông xáo từ nơi này đến
nơi khác cùng với một toán tù được tuyển chọn gồm những tay chuyên môn
thuộc các ngành liên hệ. Họ làm việc không ngơi nghỉ nhưng thích thú và
tự hào. Niềm vui trong công tác này là Lộc được phục vụ cho người dân
địa phương đã mong ước bao đời nay có một cây cầu để qua lại con sông
trong mùa nước lũ.
Cuối cùng, công trình hoàn tất mỹ mãn. Chiếc cầu treo trông khá đẹp mắt
và nên thơ. Nổi bật trên hai môi cầu là bốn trụ vươn cao bằng những
thanh sắt đường rầy xe lửa ghép đôi làm điểm tựa cho hai đường dây cáp
bằng thép giăng qua sông. Từ xa, trông chiếc cầu duyên dáng như một cây
đàn dây. Cầu đứng sừng sững, hiên ngang vượt qua dòng nước cuồn cuộn
chảy. Ngày khánh thành có cả đại biểu cấp Quân khu và Tỉnh về tham dự
cùng với đồng bào địa phương. Ban giám thị trại nhận bằng tuyên dương đã
thực hiện thành công tốt đẹp công trình có phẩm chất cao. Người ta
chẳng đá động gì đến công lao của người đứng ra lãnh trách nhiệm như một
Công trình sư. Từ bản vẽ thiết kế đến điều hành đều do một tay Trần
Xuân Lộc.
Trong buổi lễ, Lộc ngồi trong đám tù khổ sai với chiếc áo rách tả tơi.
Chiếc áo mà anh vẫn mặc hàng ngày suốt thời gian xây dựng cây cầu dưới
mưa nắng. Kẻ bất tài; cướp công được vinh danh cười rạng rỡ. Buồn thay
cho thân phận Lộc, anh chỉ là một tù nhân!
o 0 o
Thời tiết đã qua khỏi ngày Ðông chí. Cơn mưa dầm dứt hẳn. Bầu trời quang
đãng. Những lọn mây trắng bắt đầu bay lơ lửng trên đỉnh rừng già. Mặt
trời đi trốn suốt mùa Ðông cũng trở về mang ánh nắng vàng vọt rải đều
trên đồi nương ngọn cỏ,. Nắng bị khuất phục bởi khối lạnh cắt da đang
ngự trị trong miền thung lũng. Màu nắng trở nên yếu ớt xanh xao vàng vọt
như màu da bệnh hoạn của đám tù đang phơi mình dưới ánh nắng đầu mùa.
Những khuôn mặt trắng bệch thũng nước và thân hình vẹo vọ với làn da
nhăn nheo bày ra đầy đủ những góc cạnh, xương xẩu trên thân thể con
người. Nhìn vào những bộ xương cách trí ấy, không một ai có thể ngờ rằng
trước đấy không bao lâu, họ là những người trai cường tráng đầy sinh
lực đã từng sống một thời oanh liệt.
Từ bốn ngày qua, đội 3 được điều động đi khai phá thung lũng Bảy Mẫu
trồng khoai lang. Ðội phải xuất trại đầu tiên và nhập trại sau cùng.
Ðường đến khu sản xuất mất gần hai giờ di chuyển. Cuốc và rựa được cột
lại thành bó rồi phân công tù vác đi ở cuối hàng. Sáng nay, khí trời giá
buốt, sương núi mờ mịt làm ướt sũng cây rừng.
Toán 1 phụ trách chặt cây và phát quang quanh khu vực. Họ phải mặc áo
mưa trong lúc làm việc. Số người khác giẫy cỏ, cuốc đất, vun thành từng
vồng cao rồi giâm những đoạn dây rau lang xuống đấy. Họ âm thầm làm việc
như đám người máy không ngưng tay. Tiếng rựa chặt cây, tiếng cuốc bổ
vào lòng đất tạo thành những âm thanh khô khốc, như nỗi chai cứng của
tâm hồn người tù. Chốc chốc lời quở trách của quản giáo dội xuống đầu tù
nhân làm việc lơi tay như ngọn roi quất vào tâm não làm tăng thêm cơn
đói rã rời.
Cứ mỗi mười lăm phút điểm danh một lần. Theo thông lệ, anh đội trưởng tù
là người số một, rồi người kế cận đếm số hai và cứ như thế cho đến anh
cuối cùng. Cách thức kiểm tù này là một trong những khuôn mẫu tại các
trại tập trung mà Cộng sản Liên Xô đã áp dụng sau cuộc cách mạng tháng
Mười đẫm máu tại nước Nga. Không một tù nhân nào bỏ trốn mà không bị
phát hiện kịp thời.
Thời gian chờ đợi tiếng còi nghỉ ăn trưa dài thê thảm. Những lát sắn
luộc buổi sáng đã hết sạch trong bao tử tự bao giờ. Phần ăn trưa vẫn là
chén cơm ghế sắn thêm một ít canh rau lang với muối và bột ngọt. Lượng
thức ăn như thế, nào có đủ ca-lo-ri cho một cơ thể phải làm việc cật lực
trong suốt tám tiếng đồng hồ, chưa kể thời giờ phải lội bộ lên dốc
xuống đèo trên con đường đầy đất đá. Ngoài xã hội, Việt cộng áp dụng
chính sách bần cùng hóa nhân dân. Thu tóm mọi nguồn tài sản về cho Ðảng.
Ðời sống của cả nước chẳng khác gì một nhà tù. Mác ví tư bản là con đỉa
hai vòi. Một vòi hút máu dân trong nước, vòi kia hút máu dân thuộc địa.
Trên thực tế, chế độ Cộng Sản như loài đỉa nhiều vòi. Mỗi cấp chính
quyền, mỗi xí nghiệp quốc doanh là những vòi đỉa bu vào đồng bào ruột
thịt hút đến giọt máu cuối cùng và vươn cái vòi “thuộc địa” để hút máu
của dân tộc láng giềng bằng một hành động rất thâm độc cộng sản: “tinh
thần quốc tế vô sản”! Âm mưu ấy bị thế giới chận đứng ngay trên xứ Chùa
tháp nên chúng “co vòi” luôn.
Rồi giờ ăn cũng đến. Tiếng còi vừa thổi là cả đội gom cuốc rựa vào một
nơi. Ðám tù được lệnh tập trung quanh khu vực có bóng cây. Họ ăn vội vã
để dành chút thì giờ ít ỏi ngả lưng trên lá khô hay dựa vào gốc cây hầu
lấy lại sức. Chẳng mấy chốc, giờ lao động buổi chiều lại bắt đầu, tù
nhân được kiểm tra kỷ lưởng.
Lần này, cả đội đếm tới đếm lui vẫn thiếu bốn người. Sự hốt hoảng hiện
rõ trên khuôn mặt tên quản giáo và ba công an võ trang. Hắn đích thân
đếm từng người một rồi hét vào mặt anh đội trưởng tù: “Bốn thằng đó tên
gì?” Thoạt nhìn, ai cũng biết ngay bốn anh vắng mặt là Ngọc, Huệ, Lộc và
Hạp. Họ thuộc tổ 1 làm công tác chặt phát những cây dại trong khu đất
trồng khoai.
Ðai úy Nguyễn Ngọc, nguyên là Ðai đội trưởng Ðịa phương quân thuộc tỉnh
Tuyên Ðức ( Lâm Đồng). Nhà tù bây giờ là trại biệt kích thuộc lực lượng
cũ của anh đồn trú ngày xưa, nơi xuất phát các cuộc hành quân đột kích
vào mật khu VC. Do vậy Ngọc rất am tường địa thế trong vùng rừng núi
Thượng Ðức nầy. Trương văn Huệ là sĩ quan trong phái đoàn Quân sự Bốn
Bên Kiểm Soát Ðình Chiến Hiệp định Paris thông thạo Anh ngữ và tiếng Khờ
me. Lê Hữu Hạp, trung úy phi công lái phản lực cơ được đào tạo tại Hoa
kỳ. Hạp còn là một hướng đạo sinh vững vàng về mưu sinh thoát hiểm.
Riêng Trần Xuân Lộc ai cũng biết con người đa dạng của anh, can đảm và
xông xáo. Với thành phần ấy, bạn tù tin tưởng họ sẽ thành công trong
cuộc trốn thoát.
Tên quản giáo đích thân kiểm tra lại dụng cụ lao động mới phát hiện
thiếu bốn cây rựa. Hắn lập tức ra lệnh tên công an bảo vệ cấp tốc về
trại báo. Ðội tù được lệnh ngồi gom lại một chỗ. Ba nòng súng chĩa thẳng
vào đám tù với tư thế sẵn sàng nhả đạn. Nửa giờ sau, hai chiếc xe GMC
chở đội công an vũ trang đến áp tải tù nhân về trại. Số còn lại cùng với
hai con chó lùng sục chung quanh khu vực. Công an truy bắt tù vượt ngục
từ thành phố cũng được điều động đến ngay. Chúng ïthiết lập các nút
chặn trên tuyến đường chính, lục soát tất cả các loại xe di chuyển trên
trục lộ.
Từng ngày trôi qua là từng ngày bạn tù hồi hộp, lo âu nhưng cũng không
che giấu được niềm vui trên ánh mắt họ. Nói về toán trốn trại (*). Thừa
lúc lộn xộn trong giờ ăn trưa, họ lủi vào rừng mang theo thức ăn và cây
rựa giấu trong áo mưa. Giờ đầu tiên, họ luồn lách rất nhanh theo đúng kế
hoạch đã tính toán. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, đội tù mới được kiểm số
trở lại trước khi làm việc.
Khi phát hiện, họ đã vượt ra khỏi vòng đai mà lực lượng truy bắt tù
không thể bủa vây. Năm ngày dài băng rừng, toán vượt ngục đã đi được một
quãng đường khá xa. Thức ăn khô mang theo chỉ còn đủ cho ba ngày nữa.
Họ phải bẻ măng rừng, hái trái bòn bon ăn giặm. Ngày đi, đêm ngủ tại
những hốc cây cổ thụ hay trong hang đá. Cuối cùng thức ăn đã cạn. Cơn
đói hành hại suốt hai ngày khiến họ hết kiên nhẫn đành phải quyết định
vào rẫy đào trộm sắn. Sắn chưa kịp nhổ lên, bất ngờ một tên du kích
người thượng bắt gặp. Mặc dầu khai là dân đi rừng nhưng hắn vẫn áp giải
họ về cơ quan của bản làng.
Trên đường đi, Ngọc bị trật quai dép lùi lại phía sau. Nhanh như chớp,
anh trở sống rựa đập vào đầu tên du kích, cướp khẩu các-bin cùng cả toán
chạy vào rừng. Ngọc không cố ý giết tên du kích, nhưng vì cú đánh khá
nặng tay nên hai ngày sau hắn lên cơn động kinh rồi tắt thở. Người
Thượng rất dễ tin nhưng cũng khó tha thứ. Cái chết của tên trai làng đã
làm tăng thêm sức thuyết phục lòng trung thành của họ đối với chế độ
hiện hữu. Cơn đói đã khiến cho toán trốn trại mỗi ngày mỗi chậm lại. Cần
thức ăn để có sức tiếp tục băng rừng, thế nên buôc lòng họ phải tìm đến
rẫy sắn.
Rút kinh nghiệm lần trước, lần nầy họ vào rẫy ban đêm. Toán trốn tù
không ngờ cái chết của tên du kích đã khiến cho dân bản Thượng quyết tâm
phục hận. Vừa đặt chân bên trong hàng rào là bị ngay những loạt đạn nả
vào họ. Lê Hữu Hạp bị trúng đạn gãy chân, ba người còn lại tẩu thoát vào
rừng. Chúng kéo Hạp về buôn Thượng và triệu tập dân trong bản Thượng
chứng kiến cảnh xử tội kẻ thù. Với thân thể lõa lồ, Hạp bị cột căng hai
tay hai chân vào bốn trụ đóng nơi sân cờ của cơ quan Xã, rồi cả đội du
kích vừa hò reo vừa phóng những cây lồ ô vót nhọn vào thân thể Hạp như
đâm một con trâu để tế thần.
Chúng giết Hạp để trả thù cho đồng đội. Sáng hôm sau, Ban Giám Thị trại
tù cho người khiêng Hạp về đặt xác bên cổng trại ra vào kèm theo một tấm
bảng ghi hàng chữ: “Tên Lê Hữu Hạp trốn trại bị cách mạng xử lý ” thay
cho một lời cảnh cáo! Nhìn thi thể Hạp, không một ai khỏi ghê tởm cách
giết người dã man đến thế.
Ðôi tròng mắt bị nát bấy bởi thanh lồ ô đâm suốt qua so nãọ. Ðôi mắt chỉ
còn là hai lỗ thủng sâu máu đọng đen sì. Ôi, Lê Hữu Hạp, người phi công
tài ba đã một thời ngang dọc trên bầu trời quê hương. Giờ đây anh chết
thảm thương bởi những bàn tay man rợ nhất loài người. Công an đã xác
định được tọa độ của toán vượt ngục. Chúng khoanh vùng dồn lực lượng vào
một nơi. Toán tù kỳ vọng vào rau rừng, măng le sẽ nuôi sống họ một thời
gian, chờ khi yên tĩnh sẽ lần mò xuống đồng bằng. Nhưng khốn thay, đồng
bào Thượng bị đói quanh năm nên đã vét sạch, bứt sạch những gì có thể
ăn được trên rừng già. Biết điểm đứng đã bị lộ nhưng phải có chút gì để
ăn hầu đổi hướng đi. Họ bị khuất phục bởi cơn đói nên đành liều mạng trở
lại rẫy sắn.
Ðúng ngày thứ mười sáu kể từ khi chạy trốn, toán vượt trại bị bao vây
tại một đồi sắn. Trương văn Huệ mở đường máu bằng những loạt các-bin và
thoát được vào rừng, Ngọc và Lộc đều bị bắt sống. Chúng nhốt hai người
tại hai phòng kiên giam riêng biệt. Ba ngày sau, Ngọc bị giết trong cùm
bằng phương cách rất thông dụng của công an giữ tù: Dùng thanh sắt đè
vào cổ nạn nhân cho đến khi tắt thở. Cách giết người như thế thường lưỡi
của người bị chết lè ra thật dài và đôi tròng mắt lồi ra ngoài hố mắt.
Ngọc đã chết thê thảm như vậy bởi anh cương quyết không chịu khai một
điều gì cả.
Ngay chiều hôm đó, một phái đoàn giới chức từ thành phố đến trại khám
nghiệm tử thi, chụp hình. Phần kết luận trong bản phúc trình hẳn nhiên
là: “Phạm nhân Nguyễn Ngọc đã cắn lưỡi tự tử”.Đây là hình thức che mắt
của CS giết tù nhân trong các trại giam mà bọn công an thường xuyên áp
dụng. Trần Xuân Lộc bị giải về Ty Công an để khai thác kẻ đồng mưu cung
cấp thực phẩm, thuốc men và viết diễn tiến cuộc trốn trại. Lộc còn phải
liệt kê các địa điểm mà đồng bạn anh đã ngủ đêm cùng những dự định cho
những ngày sắp tới khi chưa bị bắt...
Sau mười ngày hỏi cung, Lộc được trả về trại để ra trước một phiên tòa
cấp tỉnh mở ngay tại trại tù. Thành phần tham dự gồm ban giám thị, đội
công an bảo vệ và gần ngàn tù nhân. Mở đầu phiên tòa, một đại diện của
hội đồng xét xử đọc bản cáo trạng của bên công tố. Tiếp theo, tên Thư ký
tòa đọc bản tường thuật của Lộc về diễn tiến cuộc trốn tù. Theo thứ tự
lớp lang được sắp xếp làm nhiều màn, nhiều cảnh. Xen vào mỗi màn là cảnh
một già làng sắc tộc thiểu số than khóc, kể lể về cái chết của tên du
kích và yêu cầu tòa kết án tử hình bị cáo để đền mạng.
Phiên tòa xử án mà ta có cảm tưởng họ đang trình diễn một tuồng kịch với
đám diễn viên vụng về. Sự lố bịch của phiên tòa là diễn xuất theo kiểu
“tòa án nhân dân” xét xử theo nguyện vọng của nhân dân. Cái nguyện vọng
nào có lợi cho đảng và tập đoàn cầm quyền là chúng tận dụng. Còn nguyện
vọng nào bất lợi chúng dùng chuyên chính vô sản đàn áp. Đó là Pháp luật
của đất nước nằm trong bàn tay bạo quyền. Phần kết thúc phiên tòa, tên
chánh án tuyên bố: “ Phạm tù Trần Xuân Lộc được phép phát biểu ý kiến
sau cùng”. Cả hội trường im phăng phắc, chờ đợi lời phát biểu của anh
Trần Xuân Lộc. Lộc mặc aó quần tù màu xám nhạt, hai tay bị khóa còng số
8, hai chân mang xích sắt.
Anh đứng sau vành móng ngựa, đối diện với hội đồng xét xử có bốn công an
võ trang trấn bốn góc. Khuôn mặt Lộc gầy rộc, hốc hác, nổi lên hai gò
má nhô cao. Mái tóc hớt ngắn cùng với bộ râu quai nón của anh vừa mới
cạo để lộ ra màu da trắng xanh. Anh quay mặt về hướng người tham dự, đưa
ánh mắt nhìn bạn đồng tù rồi dõng dạc nói: “Thưa các ông, thưa các bạn,
tôi bác bỏ hoàn toàn bản cáo trạng buộc tội tôi giết người, nhưng tôi
không phủ nhận rằng tôi có tội. Vâng, tôi có tội với nhân dân miền Nam
vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của người sĩ quan của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà và...” Nói chưa hết câu, tên công an vũ trang đẩy vào miệng
Lộc một báng súng. Máu miệng và mũi trào ra loang đầy cả ngực áo. Lộc
ngã gục xuống nền nhà.
Nhiều tiếng lao xao trong đám tù nổi lên, tiếp theo là tiếng lách cách
lên đạn “cảnh cáo”của đám vệ binh đang bủa vây xung quanh hội trường.
Ðáng lẽ tòa dành mười phút để nghị án, nhưng với tình huống nầy chúng
chẳng cần phải trình diễn tiếp vở tuồng. Tên chánh án vội vã mời mọi
người đứng dậy và tuyên án “… Tử hình phạm tù Trần Xuân Lộc”! Không có
một ai ngạc nhiên với cái án tử hình ấy.
Một phiên tòa xét xử tội đại hình mà chẳng có luật sư biện hộ và chẳng
có nửa lời đối chất của bị cáo. Người ta thật sự đau xót cho thân phận
con người sống trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, một chế độ dùng baọ lực đè
bẹp công lý, một chính quyền dung dưỡng dối trá và hận thù. Chẳng đợi
mười lăm ngày theo thủ tục kháng án hay xin ân giảm, mà ngay trong đêm
hôm sau, chúng giết Lộc trên đồi sắn rồi chôn anh tại đó. Một tấm bia
bằng gỗ xẻ mỏng được viết ngoằn ngoằn tên Trần Xuân Lộc bằng sơn.
Mùa mưa đến, nước trên đỉnh núi đẩy xuống san bằng luôn nấm mộ. Từ khi
đó, nếu ai để ý trên ngôi mộ Lộc sẽ thấy từ từ xuất hiện những viên đá
cuội, mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Rồi những năm tháng sau này nấm mộ Lộc trở
thành đống đá vun cao. Lộc nằm đó, thân xác tiêu hủy theo thời gian
nhưng gương can trường của người chiến sĩ miền Nam vẫn còn sáng ngời
trong long mọi người. Bạn tù đã điếu tang anh bằng bài thơ truyền khẩu
sau đây: Anh vượt thoát khỏi gông cùm nghiệt ngã Tìm tự do nơi đất Chúa vĩnh hằng, Ðêm hiện về sáng lồng lộng ánh trăng Anh ngạo nghễ giữa bầu trời xanh ngát Trước họng súng thù cất cao tiếng hát Ðể máu trào chuyển mạch vạn con tim. Tiễn người đi cơn uất nghẹn im lìm Trong bóng tối khóc thầm thương tiếc bạn Anh chí cả ôm vầng dương chiếu rạng Ta nhỏ nhoi như hạt bụi giữa đời Người đi vào trang hùng sử, Lộc ơi!
Về phần Trương Văn Huệ, sau khi thoát thân vào rừng, công an truy lùng
khắp mọi nơi và tiếp tục phục kích các khu rẫy sắn nhưng chẳng có một
kết quả nào. Các anh đã vượt thoát vĩnh viễn khỏi miền đất tù ngục nầy.
Tự Do hay là chết? Các anh đã chọn cái chết để được Tự Do. Chúng tôi ở
lại tiếp tục bị đày đọa với tháng ngày bất tận khổ đau, nhưng gương bất
khuất của các anh là ngọn lửa luôn luôn sưởi ấm trong lòng chúng tôi.
Hãy ngừng tay, hỡi những ai có mưu đồ tiếp sức cho Cộng Sản Việt Nam.
Ðừng vì quyền lợi riêng tư mà xúi giục tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại đem
tài năng về nước phục vụ cho một chính quyền bá đạo đang kéo đất nước
vào bóng tối mịt mùng.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích (*) dựa theo lời tường thuật của Trần Xuân Lộc trong bản thẩm cung.
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông Ơn Đời Biển Rộng Nguyễn Sĩ Minh
Tôi choàng mình thức giấc. 5 giờ sáng, 19 tháng 10, 1979. Căn phòng nhỏ
vẫn còn tối mịt. Như cái tối tăm mù mịt đã theo tôi suốt 4 năm dài đại
học. Những sách vở nặng tính giáo điều đến ngô nghê. Những đêm nội trú
ngủ trong lời nhồi sọ chính trị từ loa phóng thanh. Những hôm bị gọi lên
phòng Tổ Chức vì bị tố "không vững lập trường giai cấp". Và còn nhiều
nữa...
Tôi đã đè nén bao căm hờn, để chuyển thành sinh lực. Học cho bằng được
ngành cơ khí. Lắp đặt và sửa chữa bằng được máy tàu. Tôi đã nhìn vào
biển rộng, và thề sẽ tạo dựng một cuộc đời mới. Tự do hay là chết. Đã
mấy lần vượt biển không thành. Bị bắt, và bị kỷ luật tại trường. Hôm nay
có lẽ là lần vượt biển cuối cùng, vì dấu tích đã quá nhiều trong sổ bìa
đen. Nghĩ đến những điều xấu nhất có thể xảy ra, miên man nhớ đến những
người thân yêu tôi sắp rời xa trong chuyến hải trình đơn độc, tôi trầm
ngâm sắp xếp chuyện phải làm, rồi ứa nước mắt cương quyết đứng lên. Ngày
đầu cho cuộc vượt biển đã điểm. Xếp vội một bộ quần áo, vài gói thuốc
lá, vài viên thuốc cần thiết vào một ba lô rất nhỏ, tôi từ giã gia đình,
ngồi ghế sau xe gắn máy của ba tôi, để trực chỉ về Hàng Xanh, Thị Nghè.
Những xe lam, xe đò chở khách về miền duyên hải đã chờ sẵn. Tôi bước vào
quán điểm tâm, gặp gia đình người chú, và một người hướng dẫn vượt
biển. 10 giờ xe lam bắt đầu chuyển bánh đi Vũng Tầu, xa dần bàn tay vẫy
vẫy của ba tôi, xa dần Thị Nghè nơi ấp ủ bao năm tháng mối tình thơ mộng
của một thời sinh viên. Chuyện tình thủa nọ bắt đầu bằng tia mắt trao
nhau trong chân lấm tay bùn một ngày Chủ Nhật "lao động Xã Hội Chủ
Nghĩa", rời bao buổi tối đèn sách bên nhau, bao cuối tuần hẹn hò.
Những dịu êm đến day dứt mở lại từ ký ức, theo cảnh bên đường hiện đến,
rồi lùi vội về phía sau. Trùng trùng điệp điệp. Đến trưa, xe đi ngang
một làng nhỏ trong tỉnh Bà Rịa. Người hướng dẫn vượt biên ra dấu xuống
xe. Bẩy người bước theo, đi hàng một, giữ khoảng cách 5 m, cúi đầu để
tránh tia nhìn của người địa phương, và không một lời nói chuyện. Ba bốn
căn nhà lá đã sẵn sàng đón toán vượt biên. Tôi gia nhập vào một nhóm
mười sáu người nằm ngồi la liệt trong một gian nhà. Mọi cửa được đóng
kín. Trong bóng tối lờ mờ, người ta nhìn thoáng nhau trầm ngâm, yên lặng
chờ đợi một bước ngoặt của cuộc đời. Thỉnh thoảng cơm nước được đem
đến.
Những miếng nuốt vội, và những giờ chờ đợi dài dằng dặc. Đến 10 giờ đêm,
người hướng dẫn bước nhẹ vào nhà, gọi khẽ: - Đến giờ ra ghe rồi. Mọi
người chạy hàng một. Đêm nay không trăng, tối lắm. Người sau nắm lưng áo
người trước mà đi. Tuyệt đối im lặng nghe bà con. Công an đồn này dữ
lắm đó. Chúng đã bắt nhiều người, và đôi khi bắn nữa. Bắt đầu đi thôi.
Người sau nắm áo người trước, tạo thành ba con rắn dài ngoằng, quằn quại
thoăn thoắt xuyên qua những đồng cỏ và bùn lầy mênh mông, tiến về bờ
sông. Một thằng em họ 7 tuổi nắm chặt áo tôi để chạy đằng sau. Thỉnh
thoảng tôi lại gọi: - Bình! Còn chạy nổi không em? Bỗng dưng, tôi không
nghe nó trả lời nữa. Quay lại thì một người khác đang nắm áo tôi. Rời
hàng, tôi tất tả chạy ngược lại tìm nó. Hàng vẫn tiếp tục chạy về phía
trước. Tôi điếng người quờ quạng tìm trong im lặng, không dám gọi lớn.
Hàng mỗi lúc một cách xa. May quá, tôi nhìn thấy Bình đang lồm cồm bò
lên từ một cái hố. Trời tối như mực.
Không nhìn thấy đoàn đâu nữa. Tôi kéo tay Bình cắm đầu chạy trối chết,
đuổi theo tiếng thình thịch xa xa phía trước. Khi bắt kịp đoàn, thì đã
đến bờ sông. Khoảng mười ghe nhỏ đang chờ sẵn. Người hướng dẫn hối: -
Lên ghe nhanh lên. Hình như bị lộ rồi. Hồi nãy bà con chạy mạnh chân
quá. Nhanh nhanh giùm bà con ơi. Chết hết cả đám bây giờ. Năm sáu người
một ghe. Những ghe nhỏ tròng trành dữ dội, vì chở nặng và hành khách
nhảy lên, hối hả rồ máy đuôi tôm, lao mình ra sông lớn. Văng vẳng từ bờ
vọng đến tiếng quát tháo, như của công an tuần tra. Trong bóng tối dầy
đặc, một ngọn đèn bão soi dật dờ con thuyền mẹ, đang chờ ở giữa dòng
sông lớn. Đèn pin nhấp nháy tín hiệu nhận nhau giữa thuyền mẹ và 10 ghe
con. Đến phiên ghe tôi cập, thuyền mẹ sừng sững hiện ra, cải biến từ
thuyền đánh cá, độ 18x4m. Khoảng hơn 50 người lần lượt lên thuyền.
Thuyền trưởng và phó, thợ máy đều còn rất trẻ. Biết chút ít về cơ khí,
tôi bắt đầu phụ anh thợ máy chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài trên
biển.
Gần 12 giờ khuya, khi dầu và lương thực đã chuyển lên đầy đủ, việc điểm
danh hành khách đã xong, thuyền bắt đầu rẽ nước chạy nhẹ nhàng ra cửa
biển. Dọc đường đi, thuyền lại nhấp nháy đèn ra hiệu để đón thêm ba tốp
nữa. Tổng cộng số người là 81, sau này trở thành một cái tên nhắc nhở
đến nhiều trong các tài liệu quốc tế. Một ghe khác, làm mồi, tiến ra, đi
trước dò đường. Nếu bị công an chận, ghe chính đằng sau, sẽ lủi đường
khác chạy trốn. Thuyền đang lướt nhẹ nhàng, bỗng "Rộp" thật lớn vang
lên. Tài công chửi thề: - Thuyền mắc cạn rồi. Ghe nặng quá mà. Tầu tuần
tra qua thì bỏ mạng cả đám. Từng đợt thanh niên nhảy xuống cho nhẹ ghe,
và cố đẩy ra chỗ sâu. Hì hục cả nửa tiếng mới xong. Mọi người thở phào
nhẹ nhõm. Ghe lại lướt sóng nhanh hơn, cố tiến gần hải phận quốc tế
trước khi trời sáng. Mọi người phải chui rúc dưới khoang tầu để tránh
tia mắt công an và các tầu bè qua lại. Khi ghe vào cửa biển, sóng bắt
đầu nhồi mạnh. Hành khách bắt đầu ói mửa.
Đủ thứ mùi cuộn lẫn với khói máy và dầu làm tôi cũng choáng váng. 8 giờ
sáng ngày 20 tháng 10, tôi bước lên boong thuyền. Sóng biển cao và đen
ngòm. Hải phận quốc tế đây rồi. Tôi hít thật sâu không khí tự do sau hơn
bốn năm dài xa cách. Một phấn chấn tuyệt vời không thể nào quên. Đến
tối thì một trận bão kéo đến. Gió giật mạnh và sóng cao như những tòa
nhà cao tầng dồn dập đổ tới. Con thuyền mong manh lao đao giữa biển khơi
điên cuồng. Sóng bắt đầu đổ ập vào khoang ghe, cuốn bay la bàn, và một
số lớn thùng uống nước. Tài công bắt đầu đánh hiệu SOS cầu cứ tầu bè
ngoại quốc qua lại. Nhưng họ đều làm ngơ. Thuyền mấy lần xuýt lật úp.
Biết tiến tới là dấn thân vào cõi chết, tài công quay hướng thuyền trở
lại Việt Nam. Khi thuyền gần đến, gặp tàu sắt đi tuần tra. Công an bắt
loa nói gì không rõ. Khi thuyền đến gần, có thể nhầm với thuyền ngoại
quốc đến đánh cá lậu, họ bắt đầu bắn vào chúng tôi. Thuyền lại một lần
nữa quay nhanh ra ngoài khơi. Máy được rồ hết ga để chạy khỏi đường đạn.
Không thể tiến vào trận bão đêm qua, thuyền hướng về Nam chạy qua Thái
Lan.
Chạy được một lúc thì bỏ xa tầu công an. Máy nóng quá, anh thợ máy tắt
đi cho nguội bớt và sửa chữa những hư hại trong cuộc chạy quá ga vừa
rồi. Hai giờ sau, tài công đề máy để tiếp tục cuộc hành trình. Hỡi ơi,
cả hai bình điện bị sóng bão ngập hôm qua, không làm việc nữa. Thế là
thuyền lênh đênh trên biển. Những chiếc áo được cởi ra để làm buồm. La
bàn đã bị sóng cuốn, phải dùng mặt trời để định hướng. Buồm quá thô sơ,
không điều khiển được. Thuyền tiếp tục lênh đênh, không phương hướng.
Thỉnh thoảng có vài tầu bè qua lại xa xa. Họ vẫn làm ngơ trước tín hiệu
cầu cứu.
Nước uống đã gần cạn, mỗi người chỉ được thấm môi. Một số người đã phải
uống nước tiểu của chính mình, rồi bắt đầu mê sảng la liệt trên thuyền.
Những thanh niên còn sức thì luân phiên tát nước 24 giờ một ngày. Đã 20
ngày lênh đênh trên biển. Hy vọng sống tắt dần. Tiếng cầu kinh cứ rỗi
bắt đầu vang lên. Mọi người ứa nước mắt tìm chỗ nằm thanh thản trên con
thuyền, mong thuyền sẽ trở thành mộ phần cho cả nhóm. Tờ mờ sáng ngày 10
tháng 11, khi mọi người đang chờ chết, thì một tầu đánh cá từ từ tiến
đến. Nhiều gười mừng quá đến khóc ròng. Tầu đánh cá Thái Lan. Sống rồi.
Sống thật rồi. Thoát Cộng Sản rồi.
Thoát thật rồi. Tàu Thái tiếp tế nước uống, thức ăn, và cho mượn bình
điện để đề máy. Máy lại nổ đều. Mọi người tháo nhẫn vàng, đồng hồ, dây
chuyền tặng cho những người Thái đã cứu mình. Thuyền rẽ sóng nhắm hướng
mặt trời lặn trực chỉ Thái Lan. Ba bốn tàu nữa cặp vào ghe. Bây giờ
không phải những người Thái nhân hậu nữa, mà là hải tặc. Chúng tra khảo
tiền bạc, và dúng kèm bẻ cả răng vàng của các cụ già. Những tiếng thét
thất thanh và máu bắt đầu nhỏ xuống khoang thuyền. Nhiều người muốn
chống cự, nhưng sợ bọn Thái sẽ húc tầu chết cả đoàn, như những chuyện đã
từng xẩy ra. Đến hoàng hôn thì nước biển bắt đầu có rác, ghe đang tiến
vào bờ.
Cuộc vui chưa chọn vẹn, thì một tàu Thái không tìm được gì quí giá còn
lại, kéo ghe vào đảo hoang xa xôi Koh Kra ở vùng đông nam Thái Lan, gần
Mã Lai. Chúng đuổi đoàn lên đảo, để lấy máy và bánh lái của ghe. Ngày
hôm sau, tàu hải quân và những đất nước tự do đã rộng vòng tay chào đón
thuyền nhân, Cao Ủy Tị Nạn, Hội Y Sĩ Không Biên Giới, Hội Cứu Nguy Giúp
Người Vượt Biển, những người hùng như ông Schweitzer, bà Thanh Thủy,
vv... Xin tạ ơn người, ơn đời, ơn thuyền và biển rộng. San Jose, 14
tháng 2, 2003
Chúng con, con cháu Eva bị đọa đày, kêu lên Mẹ lời than khóc
Gửi lên Mẹ tiếng thở dài, rên siết, tang tóc
Trong thung lũng nước mắt này...
(Kinh cầu Đức Mẹ Maria, từ thế kỷ XI)
1. Thung lũng nằm tít phía trong quốc lộ I, dưới chân một ngọn núi
khá cao được gọi là Núi Sạn, cách thành phố Nha Trang khoảng bảy, tám
cây số về hướng Bắc. Trái với tên gọi, Núi Sạn cây cối um tùm, leo lên
mới thấy vài phiến đá to, lởm chởm, tuyệt nhiên không có viên sỏi, viên
sạn nào, hiểu theo nghĩa đen, và đường vào núi cũng không quanh co, hiểm
trở gì để phải liên tưởng đến “sạn đạo” của đất Ba Thục ngày xưa.
Hồi nhỏ, vào những ngày nắng chói chang, tôi và các bạn thường đạp xe ra
thung lũng để đá bóng, trên những bãi cỏ mượt êm, hoặc leo núi, cắm cờ,
chơi trò trốn bắt. Rồi rủ nhau ra biển, bơi lội, sẩm tối mới về nhà.
Những cánh đồng chung quanh biếc xanh một màu với thân lúa cao vút, cúi
rạp, uốn khúc la đà, triền miên như sóng, mỗi lần có ngọn gió lùa qua.
Thuở ấy, dân cư thưa thớt, rải rác vài xóm nhà tranh vách đất, đèn dầu
leo lét. Nơi nào cũng gặp thiên nhiên tươi mát, chim chóc đua nhau hót
vang, trái cây rừng phủ cành, như cam thảo, chùm bao, long nhãn, và sim
tím, hái xuống ăn thỏa thuê. Và hàng thùy dương trên bãi Hòn Chồng, gần
nhà tôi, nghiêng bóng lung linh trong ánh chiều tím ngát. Khung cảnh
hoang dã, đầy thơ, tịch mịch, dễ gây hồn mộng mơ, lãng mạn, và cô
liêu...
Nhưng rồi chiến tranh ùa đến, mịt mờ khói lửa. Tôi
khoác áo chiến binh, xa Nha Trang, biền biệt, lê gót phong sương trên
các nẻo sa trường Cao Nguyên. Chợt trở về, từ trại Vĩnh Phú, cuối 1983,
sau tám năm tù khổ sai cải tạo tiếp theo ngày đại nạn của dân tộc, để
ngậm ngùi thấy tất cả đã biến đổi, thương hải tang điền! Người từ miền
Bắc, miền Trung đến lập nghiệp tại quê tôi, tấp nập, xô bồ, cất nhà chi
chít, dọc ngang đủ kiểu, trên cả những nghĩa địa cũ, chiếm đất của người
chết, lấn sâu vào tận chân
Núi Sạn, dọc hai bên đường rầy xe lửa, ra đến bãi Dương, Hòn Chồng. Cây
cối trên núi và hàng phi lao ven biển bị đốn gục. Ruộng vườn biến mất.
Núi Sạn chỉ còn trơ sườn đá đen loang lổ, có vẻ thấp xuống –như phẩm giá
con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa– ngang bằng một ngọn đồi trọc.
Thung lũng trở thành một nghĩa địa mới, nằm bên một trại cùi tân trang
cùng mang tên Núi Sạn. Cỏ cây không mọc nổi nữa. Đạp xe đi tìm, không
thấy đâu sân đá bóng và những trái rừng ngày trước. Đau biết mấy, như
nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan trước một Thăng Long Thành hoang phế:
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Trình diện phường
khóm và đồn Công an khu vực xong, tôi được chỉ định về thung lũng Núi
Sạn “công tác” tại một hợp tác xã dệt vải thô, thứ vải dùng để tẩm liệm,
may áo tang, hoặc trải giường. Hợp tác xã là một căn nhà rộng, hai
tầng, gần Tháp Bà, tịch thu của một thương gia chạy thoát năm 1975. Bên
ngoài hợp tác xã là một cái chợ tên Chợ Bàu, sát quốc lộ, trước kia là
một cái ao to ngập nước.
Công việc của tôi khá đơn giản: buổi sáng quét sân xi măng, buổi chiều
vào dọn phía trong, lau những khung dệt, sau khi hai mươi lăm cô thợ
xong việc, sửa soạn ra về. Và mỗi cuối tháng, tôi và một nam công nhân,
tên Võ Minh Thiện, đạp xe ba gác qua phố Nha Trang chở vải nộp cho các
cơ quan, đại lý. Thiện phụ trách sửa chữa những khung dệt, tay nghề rất
vững. Anh lịch sự với tôi, ưa giúp đỡ người khác, kín đáo, ít nói, lại
càng ít nói về mình, dù đôi lần tôi đến bắt chuyện, như một bạn đồng
nghiệp. Nhìn Thiện, tôi nhớ chắc anh là cựu SVSQ khóa 4 trường
ĐH/CTCT/ĐL, nơi tôi đã từng phục vụ trong tư cách sĩ quan Văn hóa vụ,
nhưng khi được hỏi Thiện chỉ cười cười, không chối, cũng không nhận, và
lảng sang chuyện khác. Biết thế, tôi chẳng hỏi han gì nữa. Sau này,
Thiện lấy một cô rất hiền, dễ thương, lớn tuổi nhất trong đám thợ dệt
“choai choai”, và đám cưới của hai đồng nghiệp tất cả nhân viên hợp tác
xã dệt đều đi dự.
Mỗi ngày, giữa hai công việc, để
giết thời gian, tôi ra quán giải khát trước cổng, ngồi uống nước mía,
hút thuốc, trầm ngâm ngắm nhìn người qua lại trong chợ. Điều này làm lão
chủ nhiệm người Quảng Ngãi –trước 75 có thời làm công cho gia đình tôi–
khó chịu, cằn nhằn hoài. Nhưng tôi bất cần, vì biết bọn công an bắt tôi
đến hợp tác xã chỉ cốt nhờ người kiểm soát việc đi đứng của tôi thôi.
Cũng như mỗi tuần một lần, bất thần sau nửa đêm bọn chúng nhảy tường,
xông vào nhà, bắt mở cửa, lục lạo các phòng ngủ, kể cả phòng của hai em
gái tôi, Bội Trân và Huyền Trân, xem tôi còn đó hay đã đi rồi. Chúng dư
biết sớm muộn gì tôi cũng tìm đường vượt biên, nên ra sức canh, rất kỹ.
Lão chủ nhiệm, một thứ anh hùng cách mạng 30 tháng 4, bảo hoàng hơn vua,
không hiểu, nhất định bắt tôi “lao động tốt, chấp hành nghiêm chỉnh
lệnh trên”.
Còn các cô thợ, hầu hết lớn lên
sau 1975 như Huyền Trân, khi nghe nói tôi là sĩ quan “ngụy” cải tạo về,
mới để ý liếc dòm tôi từ đầu đến chân, một cách chăm chú, nửa như thương
cảm, nửa như tò mò muốn biết một ông “đại úy ngụy” chánh hiệu ra sao,
có giống con giáp nào không. Sau đó, các cô tự động quét dọn sạch sẽ khu
vực dệt, lau chùi những khung cửi, trước khi về, bớt việc cho tôi. Khi
thân nhau hơn, trong giờ giải lao, vài cô chọc tôi, hỏi “chú có vợ chưa,
để em giới thiệu bà dì út của em cho”, hoặc “khi nào đại úy đi vượt
biên cho em theo với”. Tôi cười dễ dãi, nhưng không nói gì. Một bữa,
thấy tôi thơ thẩn trong sân, một cô đến gần, nói nhỏ vào tai: “Em là
Thanh, bạn thân của Huyền Trân, đi nhiều lần bị bể hoài. Khi nào có
mánh, anh cho em biết với nhé!”. Tôi hoảng hốt, sợ bị gài bẫy, lắc đầu
quầy quậy, lên lớp: “Không, tôi không đi đâu cả. Tôi sẽ ở lại với đất
nước, đồng bào”.
Sáu tháng sau, một buổi trưa, tôi đang
ngồi ở quán nước, lão chủ nhiệm sai người ra gọi vào. Lão yêu cầu tôi
leo lên mái nhà, quét dọn rong rêu. Mái nhà cao chênh chếch, gần như
thẳng đứng. Công việc khá nguy hiểm, rủi trợt chân té xuống, chết oan,
dại gì! Dĩ nhiên, tôi kiếm cớ từ chối. Lão la lớn, sỉ vả tôi nào là
“chây lười, chưa lao động cải tạo tốt”, nào là “phản động, cãi lệnh cấp
trên”. Tôi cũng không vừa, to tiếng chửi lão là “đồ cách mạng dỏm”, “thứ
ăn cháo đái bát”.
Lão uất khí, gọi công an đến xin giải quyết. Tên công an phường họp tất
cả lại, hỏi các nhân chứng. Đám đàn ông thanh niên không ai dám nói một
lời bênh đỡ tôi. Võ Minh Thiện xanh mặt, nhìn tôi với vẻ ái ngại, lo
lắng cho tôi. Còn các cô thì tranh nhau phát biểu, cho lão chủ nhiệm
“phản ứng quá đáng”, “lạm dụng quyền hành”, “nhiệm vụ của người ta là
quét sân mà bắt leo lên mái nhà, như vậy không đúng!” Nghe xong, tên
công an không biết phân xử thế nào, chỉ bắt tôi làm tờ kiểm điểm, rồi bỏ
đi. Tôi nhìn các cô, gật đầu, tỏ dấu biết ơn. Và nghiệm lại lời bàn của
ông thầy tử vi trước kia: số tôi có sao Hồng Loan chiếu mệnh, nên
thường gặp “nữ quới nhân phò hộ”.
2. Sau vụ này, tôi bị
thuyên chuyển về trại cùi Núi Sạn. Nhiệm vụ như cũ, nghĩa là quét dọn
vệ sinh, đổ rác. Mẹ tôi lo lắm, dặn tôi bớt ngang bướng. Kệ chúng nó, mẹ
bảo, đất nước này đâu phải của mình nữa đâu. Ráng nhịn đi con, chờ ngày
thuận tiện trốn đi. Nhà mình toàn “ngụy quân” là mục tiêu cho chúng
nhắm. Lúc ấy, Nguyễn Kim Trọng, em kế tôi, cựu trung úy dạy Anh văn tại
Võ Bị, đang bị truy lùng về “tội” vượt trại tù Đồng Trăn, về nhà được mẹ
và anh em cưu mang, che chở, suốt ngày tự giam lỏng, đọc sách, ăn ngủ
tại chỗ, trong căn gác hẹp –có một ô gỗ vuông ăn thông với mái nhà, khi
biến động là gỡ ra, nhảy tót lên trần.
Cũng may, trước đó không lâu, chúng đã trả lại nửa căn nhà bị tịch thu
làm trụ sở phường. Mẹ sợ, nếu vì tôi mà công an “ghé thăm” thường xuyên
thì rất nguy cho Trọng. Mẹ nói thế cũng oan cho tôi, vì hai cô con gái
đẹp, độc thân, của mẹ cũng là nam châm cực mạnh hút đám thanh niên, và
đặc biệt bọn công an phường và khu vực, không mời mà đến nườm nượp. Tuy
nhiên, tôi hứa từ nay sẽ ngoan ngoãn, cho mẹ yên tâm. Để chuẩn bị công
việc mới, tôi ra chợ trời mua một đôi găng tay, một khẩu trang, một bộ
đồ lính cũ, và mấy chai cồn rửa tay.
Trại cùi,
được dời về Núi Sạn từ một địa điểm khác, trước 1975, đã do các tu sĩ
dòng Phan-xi-cô địa phương sáng lập và điều hành, như vậy về lý là một
trại tư, nhưng nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý luôn, chẳng phải thương
yêu gì đám bệnh nhân khốn khổ kia, nhưng cốt bỏ túi món tiền viện trợ
béo bở của các hội từ thiện thế giới. Trại tương đối rộng rãi, ngăn nắp,
còn khang trang hơn những trại tù cải tạo –nơi tôi đã bị giam nhiều
năm. Ba dãy nhà mái tôn khá lớn, nằm song song, loang loáng ánh mặt
trời. Một bệnh xá kiểu dã chiến để bác sĩ, y tá làm việc và bệnh nhân
đến uống thuốc. Việc nấu nướng do hai chị bếp ở ngoài mướn vào đảm
trách. Một dãy hố tiêu sát hàng rào kẽm gai, được đổ vôi trắng khử trùng
chung quanh, nặc mùi diêm sinh, và những con ruồi xanh to bay vo ve,
thấy ớn. Dọn vệ sinh hố tiêu và nhà ở do các bệnh nhân tự lo, đỡ cho tôi
lắm. Tôi chỉ giữ
việc dọn dẹp bệnh xá, quét sân và đào lỗ
để chôn rác, hoặc chôn người chết. Mỗi ngày đứng trước cái sân đất rộng
thênh thang và những thùng phuy to ngập rác đặt ở bốn góc, thấy mà ngao
ngán. Đồng nghiệp “thâm niên công vụ” của tôi là một ông già ốm tong
teo, tên Mân, lụ khụ, răng chỉ còn vài chiếc, mà lần đầu mới gặp tôi
nghĩ chắc chả làm được tích sự gì, có khi tôi phải cáng đáng công việc
giùm ông. Nhưng rất may, ông còn khoẻ, quét dọn nhanh thoăn thoắt, thỉnh
thoảng còn giúp ngược tôi. Cũng không cần găng tay, khẩu trang. Ông
nói: “Tui tứ cố vô thân, lại già rồi mà cậu! Trước sau rồi cũng chết. Ở
cái xã hội chó đẻ này bây giờ, chết sớm càng khỏe mà cậu. Ủa, cậu phạm
tội gì mà bị phạt vô đây? Bộ ngụy cải tạo về hả? Còn tui, nhậu say ở
quán, chửi chế độ, bị giam ba tháng, sau bị đày vô đây... Tổ sư chúng
nó, bọn khốn kiếp. Chỉ giỏi ăn hiếp người cô thế.”
Đây cũng là lần đầu tôi giao tiếp gần gũi với bệnh nhân phong cùi. Cảm
thấy ghê ghê trước những vết thương chảy máu mủ, những ngón tay, ngón
chân co quắp, bị cụt, những cặp mắt mờ đục, có khi mù hẳn, những thân
người tiều tụy, những bước đi thất thểu, xiêu vẹo. Ôi, những con cháu
Eva bị đọa đày trong Thung Lũng Nước Mắt –cũng như tôi và dân miền Nam, ở
một bối cảnh khác, rộng lớn, có khi bi đát hơn– hằng van xin Nữ Vương,
Mẹ Maria Nhân Ái, mở lòng cứu độ, như lời kinh cầu mà cả nhà tôi vẫn đọc
đêm đêm, từ thời ấu thơ.
Phải mất một tháng, tôi mới quen dần. Trong số khoảng ba trăm bệnh
nhân, có vài gia đình gồm cha mẹ và những đứa con nhỏ đủ lứa tuổi, đang
được điều trị. Họ nhìn tôi một cách dửng dưng, như vô cảm. Còn tôi, lòng
buồn bã, xót thương họ vô cùng, vì thấy đời mình đâu có gì khá hơn. Rồi
bỗng dưng nhớ đến Hàn Mặc Tử và những vần thơ bi thiết:
Ta muốn
hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta.
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu)
Tôi không biết trại trưởng là ai. Nhưng trại phó điều hành kiêm
thông dịch viên giao tiếp với người ngoại quốc là một tu sĩ Phan-xi-cô,
thầy Pierre, quen biết ba mẹ tôi ngày trước. Bác sĩ trưởng là Nguyễn
Phúc Vĩnh Phương, vừa ra trường thì nước mất, chuyên về bệnh “da liễu”
(dermatology), người hiền lành, dễ mến, gặp tôi chào hỏi tử tế. Một bác
sĩ Pháp tuổi độ ba mươi, Jean-Luc de Neuville, thuộc tổ chức Médecins
Sans Frontières (Y Sĩ Không Biên Giới), và một nữ y tá người Úc trẻ đẹp,
Ann Mary, tình nguyện đến giúp đỡ. Tất cả nhiệt tình, chăm sóc bệnh
nhân chu đáo.
Dưới mắt mọi người, tôi chỉ là một
cái bóng trên sân đất, một công nhân vệ sinh giữa những công nhân khác.
Một hôm, như thường lệ, tôi quét dọn xong bệnh xá, trước giờ phát
thuốc, có bác sĩ de Neuville ngồi làm việc. Lần đầu, anh ngước nhìn tôi,
nói cám ơn. Và cũng lần đầu, tôi thấy rõ mặt anh. Trắng trẻo, đẹp trai,
vẻ tự mãn như tất cả những anh Tây có “máu xanh” (sang bleu, quý tộc)
và chức phận. Tôi gật đầu, toan bước ra, thì anh gọi giật lại, nói thật
chậm, kéo dài từng chữ, vừa nói vừa ra dấu tay:
- Tôi được
Frère Pierre cho biết rằng trước kia anh là một quân nhân (Jean-Luc làm
động tác bóp cò súng) của miền Nam. Một cựu sĩ quan mà phải quét nhà
(anh ta làm động tác quét), tôi thấy không xứng đáng, vous...
com...pre... nez... Anh hiểu chứ?
Tôi bật cười, rồi nghiêm trang bảo anh ta:
- Trước hết, bác sĩ có thể nói với tốc độ bình thường như khi nói
với đồng hương của bác sĩ, và khỏi cần ra dấu tay. Tôi hiểu được. Thầy
Pierre nói đúng: tôi là một cựu đại úy VNCH, và xin bác sĩ đừng ái ngại
cho tôi, vì việc quét dọn tại trại cùi này không là gì cả so với những
năm lao động khổ sai tôi đã phải trải qua sau khi chiến tranh chấm dứt.
Một điều mà thầy Pierre, và dĩ nhiên bác sĩ nữa, không biết, và cực
chẳng đã tôi phải nói ra, khi cần thiết thôi, là trước khi vào lính tôi
đã học trường Pháp, có văn bằng Pháp, dạy trường Pháp Collège français ở
đây, và được chính phủ Pháp cho đi tu nghiệp sư phạm tại Grenoble, quê
hương của Stendhal, ba tháng hè năm 1965, chưa kịp đi thì bị gọi nhập
ngũ...
Nghe tôi nói một hơi, với giọng chua chát,
không vui, Jean-Luc có vẻ rất ngạc nhiên, mặt đỏ dần, đứng lên, đến bên
tôi, bắt tay, và nói:
- Ồ, tôi thật không ngờ. Hân hạnh biết
anh! Chỉ nghe anh nói một lần tôi tin anh ngay. Xin lỗi anh. Bây giờ
chúng ta là bạn, nếu anh cho phép. Ở đây một mình, tôi cần một người bạn
cùng nói một ngôn ngữ để tâm sự. Từ nay, chúng tôi sẽ không để anh quét
dọn bệnh xá nữa. Chúng tôi sẽ nhờ le père Mân làm thay.
- Tại sao? Dù sao, tôi cũng cám ơn Jean-Luc.
Từ hôm đó, Jean-Luc lúc rỗi rảnh thường đi tìm gặp tôi bên những
thùng rác, trên các băng gỗ dành cho nhân viên tạp dịch ngồi nghỉ mệt.
Một cách nhanh chóng, chúng tôi trở thành thân đến độ tutoyer, “toa moa”
với nhau.
Jean-Luc kể về mình và gia đình ở Lyon. Còn
tôi, vì phản xạ tự nhiên sau những năm sống chung với Việt Cộng, chẳng
dám hé môi nói điều gì về gia đình, hoặc chính trị, kể cả những khi
Jean-Luc lên tiếng “tiếc thay cho một người có tài như anh mà không được
chế độ mới trọng dụng”, hoặc “chất xám, tài nguyên của đất nước, đã bị
phí phạm”. Tôi lắc đầu:
- Bọn họ chưa giết là may rồi,
Jean-Luc. Tôi không bao giờ nuôi ảo tưởng về hạnh phúc, về thương yêu,
về hận thù, về cuộc đời, về ý thức hệ này nọ. Đúng hơn, ảo tưởng đã mất.
Illusions perdues, anh còn nhớ tác phẩm của Balzac? Giờ chỉ còn là thực
tế phũ phàng và đôi mắt mở to để nhìn cho rõ. Tôi mong được yên thân
ngày nào hay ngày nấy.
Và để đổi hướng câu chuyện, tôi
hay bàn về văn chương, về Stendhal, Baudelaire –những tác giả tôi yêu
mến. Jean-Luc thú thật không biết nhiều về văn học sử Pháp, chưa đọc hết
Le Rouge et le Noir, tiểu thuyết nổi tiếng của Stendhal, và tuy
Grenoble không xa Lyon bao nhiêu mà anh cũng chưa có dịp đến và chỉ biết
Grenoble giáp giới với Thụy Sĩ, có rặng núi Grande-Chartreuse buổi sớm
sương mờ vây phủ và con sông Isère, dài lắm, đi qua thành phố trước khi
nhập vào sông Rhône –những điều anh đã học được trong lớp địa lý. Như
tôi.
Một buổi trưa, tôi đang nghỉ giải lao trên băng gỗ,
dưới một bóng cây to, thì bác sĩ Vĩnh Phương đi ngang qua. Thấy tôi, anh
dừng lại, mỉm cười chào, ngồi xuống, rồi nói:
- Anh làm việc
chắc mệt lắm hỉ? Tôi nghe thầy Pierre và bác sĩ de Neuville nói nhiều về
anh, toàn là tốt. Thấy anh làm việc chăm chỉ, đường hoàng, tôi muốn kết
bạn với anh, anh nghĩ sao?
Bị hỏi bất ngờ, tôi lúng túng, đúng hơn, ngờ vực, chưa biết trả lời sao, thì Phương tiếp:
- Anh đừng nghi ngại, tôi cũng thuộc thế hệ “ngụy”, rất nể phục và
thương cảm những sĩ quan cải tạo trở về. Hơn nữa, tôi khoái thái độ bất
cần đời và vẻ ngang tàng điếc không sợ súng của anh. Trước khi anh đến
đây, tôi đã được báo cáo đầy đủ về vụ anh cự lão chủ nhiệm hợp tác xã
dệt và nhận chỉ thị phải theo dõi anh sát nút, nhưng đời nào tôi làm cái
chuyện khốn nạn đó, tôi là bác sĩ mà, đâu phải công an. Tôi thật sự...
Tôi gật đầu, bắt chặt tay anh. Phương vui lắm. Từ đó, anh
thường mời tôi và Jean-Luc lên văn phòng anh uống cà-phê hoặc đạp xe ra
các quán dọc theo quốc lộ ăn trưa –như tôi vẫn làm một mình hằng ngày.
Rồi một chiều thứ bảy, Phương mời chúng tôi và cô y tá Ann Mary
đến dùng cơm, tại nhà ở tận Cầu Đá. Chúng tôi nói tiếng Anh, vì có Ann
Mary. Cô cười, khen nịnh, nhưng thực ra là chê: “Nghe mấy ông, you guys,
nói tiếng Anh biết là dân Tây liền, vì accent lạ lắm!” Phương giới
thiệu vợ, hai con nhỏ, và đặc biệt, bà mẹ vợ và cô em út của vợ, tên
Loan, từ Sài Gòn vừa ra Nha Trang thăm gia đình anh và tắm biển. Loan
cùng tuổi hai mươi với Huyền Trân và các cô thợ ở hợp tác xã dệt. Tôi
liếc nhanh, để kịp thấy một dáng mảnh mai, gương mặt đẹp, mái tóc dài
bới gọn, tai đeo hai vòng khuyên lớn, vẻ thông minh, bặt thiệp. Nhưng
tôi không để ý lắm, vì chê Loan còn con nít, và vì tâm hồn khi ấy nặng
trĩu những ưu phiền và đầu óc chỉ nghĩ đến mỗi một chuyện: vượt biên.
Còn Loan, trong bữa ăn, tò mò nhìn tôi, lịch sự coi tôi chỉ là một anh
“ngụy” cải tạo về, không hơn không kém, và là người bạn mới của ông anh
rể. Thế thôi.
3. Bội Trân đạp xe ra trại cùi tìm tôi bất
ngờ, một buổi trưa nắng, trong lúc tôi và ông Mân đang hì hục khiêng
thùng phuy đầy rác đổ vào hố. Thấy cảnh này, em chớp mắt, như muốn khóc.
Có lẽ nhớ lại những lần theo mẹ ra thăm tôi ở Vĩnh Phú và thăm Kha, hôn
phu của em, tại Thanh Hóa. Tôi tháo khẩu trang, găng tay, choàng vai
em, nói nhỏ:
- Thì cũng giống như hồi anh còn ở trại Vĩnh Phú
thôi. Tại đó, anh còn hốt phân nữa mà. Không sao đâu. Mà em ra đây có
việc gì?
- Mẹ bảo em mang ra cho anh dĩa xôi lạp xưởng mẹ mới nấu để anh ăn trưa.
Ông Mân đứng bên nãy giờ, lên tiếng hỏi:
- Ai vậy cậu Hai? Bà xã hả?
Tôi quay lại:
- Ấy chết, tôi quên giới thiệu, xin lỗi bác Mân. Đây là Bội Trân, em gái của tôi.
Em gật đầu chào ông. Ông nhìn em, tấm tắc khen:
- Trời ơi, cô đẹp quá, giống cô đào xi-la-ma gì đó, có chồng con gì chưa cô?
Hai anh em nhìn nhau cười, không trả lời. Bội Trân ngỏ ý muốn đi
xem trại. Tôi chia một nửa phần xôi cho ông Mân, và nhờ ông làm nốt công
việc, rồi đến xin phép thầy Pierre. Chúng tôi vào các dãy nhà ở. Nơi
nào Bội Trân cũng thăm hỏi bệnh nhân một cách ân cần, và mủi lòng, nước
mắt lưng tròng, khi thấy những em bé ngồi thẫn thờ, buồn bã nhìn qua
khung cửa sổ hẹp mảnh không gian xanh ngắt và bầy chim nhỏ đậu trên cành
hót líu lo, như mời gọi. Rời nhà ở, chúng tôi tạt qua gian bếp trong
giờ phát cơm. Thấy món ăn có cơm, khoai mì, cá khô, nước mắm và canh
rau, tôi nói với Bội Trân: “Khá hơn nhiều so với các trại tù cải tạo của
anh”. Rồi đến bệnh xá. Jean-Luc đang ngồi viết, thấy chúng
tôi
bước vào, bật đứng dậy. Tôi giới thiệu: “Marie-Amélie, em gái tôi!”. Em
giơ tay cho anh ta bắt, và nói liền bằng tiếng Pháp, một cách rất tự
nhiên, khiến Jean-Luc sửng sốt, buột miệng, hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Như vậy cả nhà anh đều nói tiếng Pháp à?
- Không, mẹ tôi và những đứa em lớn lên trong chế độ này không biết nói tiếng Pháp.
Sau hôm đó, Bội Trân xin thầy Pierre cho vào trại cùi, tình nguyện
phụ bếp, hai lần một tuần. Những ngày khác, em qua chợ Đầm phụ bán nước
mía cho Huyền Trân. Mẹ tôi đồng ý ngay. Các con thương người thì Chúa
sẽ thương các con, mẹ bảo. Em lãnh việc chia thức ăn, phát nước cho bệnh
nhân. Sắc đẹp tự nhiên, cách ăn mặc đơn giản, cử chỉ dịu hiền, thái độ
đoan trang của em đã chinh phục mọi người. Jean-Luc có vẻ cũng thích em
lắm. Những ngày em đến, anh ta ghé nhà bếp, dù chỉ để nói bonjour, tu
vas bien? và chuyện trời mưa trời nắng với em.
Một buổi
chiều tan việc, trên đường về nhà, ngang nghĩa địa, Bội Trân dừng lại,
dưới một tàn cây, chỉ tay vào phía trong, bảo tôi:
- Lệ Ngà đang nằm trong đó, chắc anh biết? Cũng tội. Hay là anh vào thăm mộ một chút.
Tôi lắc đầu. Thôi em, hãy để thời gian làm quên những si mê, đớn
đau, và hờn tủi. Tình yêu dù thiết tha đến đâu một ngày rồi cũng trôi
qua như nước chảy dưới cầu. Sous le pont Mirabeau. Thơ Apollinaire đó
em. Buổi tối xa xưa nào, em nhớ không, nửa năm trước ngày nước mất nhà
tan, em và Kha lên Đà Lạt thăm anh và Lệ Ngà. Kha vừa từ phi vụ ở Phù
Cát trở về, chưa kịp thay đồ bay. Em mặc jupe xanh, áo màu hồng nhạt,
đeo bông tai vàng lóng lánh của ngày đính hôn. Tụi mình vào quán L’Eau
Vive của các nữ tu người Pháp thuộc Domaine de Marie, gọi món
bouillabaisse mà em thích, bifteck và rượu Bordeaux, vừa ăn vừa chuyện
trò khe khẽ dưới ánh đèn mờ ảo, giữa tiếng đàn dương cầm dặt dìu, nhè
nhẹ của một ma-sơ.
Thật là tuyệt diệu. Do Kha yêu cầu, Lệ Ngà xin phép lên đánh một bản.
Bản Appassionata, sonate 23 của Beethoven đó, để tặng riêng anh, vì biết
anh mê nó lắm. Anh mê nó, vì nghe nỗi khổ đau tột cùng, mà vẫn đằm
thắm, của tình yêu nát tan đã chết theo mùa thu phai úa, trên đôi môi
hững hờ, bởi những chia lìa, mất mát, và phản bội –dàn trải ngút ngàn
qua suốt bản sonate, trên từng phím đàn thánh thót, đứt quãng, chìm
xuống như từng giọt lệ ngân. Kha cắn môi, ngồi bất động, còn em thì nép
vào ngực Kha, lắng nghe, nước mắt giàn giụa. Các thực khách ngừng ăn.
Khi nốt nhạc cuối cùng dứt hẳn, tiếng vỗ tay vang lên, kéo dài, và Lệ
Ngà trở lại bàn, đôi mắt long lanh ngấn lệ. Anh ôm siết Ngà vào lòng,
hôn mái tóc đầy hương, như siết ôm hạnh phúc thật, mà mong manh, không
cho bay đi.
Anh nghĩ, một người nếu, như tụi mình, thực sự đã nghe sonate
Appassionata một lần rồi sẽ không còn muốn oán thù ai nữa. Và anh đọc ở
đâu đó, Lénine có nói rằng nếu cứ tiếp tục nghe bản nhạc này ông ta sẽ
không hoàn thành nổi cuộc cách mạng vô sản. Lúc ấy, tụi mình còn trẻ,
đời còn đẹp, mộng còn đầy. Anh yêu buổi tối ấy quá, cũng như anh yêu em,
yêu Lệ Ngà, Kha, và mọi người. Rồi ngờ đâu, Kha và Lệ Ngà đều ra đi,
vĩnh biệt cõi đời. Chỉ còn hai anh em mình, ở lại với bóng mờ của hạnh
phúc phù du, và riêng anh, dư âm xót xa của Appassionata ngày cũ. Thôi
em, hãy để Ngà ngủ yên và thời gian làm quên...
Thêm một đợt bệnh nhân bình phục được rời Thung Lũng Nước Mắt
về với gia đình. Trên mặt và tay chân họ còn rất ít dấu vết của căn bệnh
quái ác, dữ dằn. Mỗi người nhận một xắc tay màu xanh, quà của Liên Hiệp
Quốc, một bộ quần áo mới, và các vật dụng khác. Từ nay, họ không còn
sống cô lập, không lây cho ai nữa, vì các bác sĩ, sau khi thử máu, biết
chắc vi trùng đã hoàn toàn bị tiêu diệt nhờ các loại thuốc viện trợ rất
hữu hiệu.
Nhưng, tôi thầm hỏi, còn những kẻ cùi hủi tâm hồn thì lấy thuốc gì chữa
đây? Buổi tiễn đưa diễn ra đơn sơ, nhưng đậm tình người, trước sân bệnh
xá, dưới sự chứng kiến của thầy Pierre, hai bác sĩ, các y tá. Có những
vòng tay ôm cho người về, có những lời chúc lành cho bệnh nhân ở lại.
Bội Trân và tôi nhìn theo và mừng cho họ. Từng người lần lượt ra cổng.
Cuối cùng, còn lại một bé gái, khoảng tám tuổi, vẫn đứng yên, thút thít
khóc. Bội Trân tiến nhanh đến hỏi em và được biết em tên Trang, mồ côi
cha mẹ, không thân nhân, lúc lên ba đã bị ai đem bỏ trước cổng trại. Bé
không biết về đâu. Một lúc sau, Bội Trân trở lại, nói với tôi:
- Em muốn nhận nuôi bé Trang, xin phép anh trước. Em sẽ nói với mẹ sau.
Rồi
không chờ tôi trả lời, em đi thẳng đến chỗ thầy Pierre, bác sĩ de
Neuville, và Vĩnh Phương, nói gì đó với họ mà tôi thấy ba người gật đầu
lia lịa. Em lại đến bên bé Trang, vuốt tóc bé, xách giỏ đồ, nắm tay, dắt
về phía tôi. Em hớn hở khoe:
- Thủ tục nhận nuôi rất đơn giản, đặc biệt cho em, nhờ thầy Pierre. Tí nữa em sẽ ký vài giấy tờ là xong.
Tôi nhìn kỹ bé Trang, mừng rỡ thấy bé mặt trắng hồng, tươi tắn,
tay chân lành lặn, bình thường, không ai có thể ngờ bé đã phải ở trong
Thung Lũng Nước Mắt đã năm năm. Jean-Luc, sau này, bảo tôi rằng bé Trang
không nhiễm bệnh, vì theo y khoa bé thuộc loại người có kháng tố bẩm
sinh chống lại phong cùi dù chung đụng với bệnh nhân. Đáng lẽ bé phải
rời trại lâu rồi, nhưng các nhân viên hành chánh quên bẵng sự hiện diện
và hồ sơ của bé, cho đến hôm ấy.
Bé Trang về ở với gia đình tôi, mẹ tôi vui lắm, hôn Bội Trân, và ôm bé Trang vào lòng.
Rồi, một đêm trăng sáng, Bội Trân kéo tôi ra ngồi trên ghế đá
trong vườn nhà, dưới vòm lá bưởi, bên những chậu hoa ngát hương. Em nói:
- Em muốn tâm sự với anh về một chuyện riêng. Cách đây một tuần,
Jean-Luc ngỏ lời yêu em và hứa nếu được lấy em, anh ta sẽ mang em ra
khỏi vùng đất bất công này về một nơi có ánh sáng, có tình yêu muôn
thuở, có tương lai rực rỡ hơn... Anh nghĩ thế nào?
Tôi cười, hỏi ngược:
- Chuyện tình cảm là tùy em quyết định, anh biết gì. Còn em thấy sao?
Em trả lời liền, như đã suy nghĩ lâu lắm:
- Jean-Luc có đầy đủ điều kiện để trở thành một người chồng lý
tưởng cho các thiếu nữ, có cả em, mơ ước, một cơ hội bằng vàng cho những
cô muốn thoát ra khỏi địa ngục này. Anh ta lại đẹp trai, tính tình
phóng khoáng, dễ thương, có địa vị, con nhà danh giá. Anh ta chỉ thiếu
một điều, đối với em, rất quan trọng: đó là kinh nghiệm khổ đau trong
đời. Như anh, các anh Trọng, Hiệp, như Kha, như biết bao sĩ quan VNCH
còn đang bị đọa đày trong các trại tù cải tạo mà em đã từng gặp trên
đường đi thăm các anh. Như những bệnh nhân phong cùi mà mới đây em có
dịp tiếp xúc. Một người, em nói chung thôi, sung sướng và thành công từ
tấm bé, không biết đau khổ, sẽ khó thông cảm khổ đau của người khác, sẽ
tự phụ, sẽ ích kỷ...
Tôi ngắt lời em:
- Nhưng Jean-Luc đã tình nguyện đến giúp trại...
- Đúng thế. Nhưng có thể vì trách nhiệm nghề nghiệp của một bác
sĩ. Trong mắt anh ấy, em chưa đọc thấy tấm lòng xót thương, em muốn nói,
compassion, bao la, tuyệt đối, như của giám mục Seitz ở Kon Tum, của
linh mục Damien ở Polynésie, hay các nữ tu trại cùi Qui Hòa, mà em chỉ
nghe nói đến, hoặc ít ra của thầy Pierre mà em biết rõ...
Ngập ngừng một lúc, em thở dài, tiếp:
- Hơn nữa, anh ấy đánh giá em hơi thấp. Đâu phải lấy anh ấy để mong
thoát khỏi nơi này? Có khác gì tên công an trưởng khu vực năm nào đã
năn nỉ nếu em yêu và lấy nó nó sẽ bảo lãnh các anh về hết.
Tôi gật gật đầu, im lặng nghe, rồi cười, nói:
- Tình yêu mà em đem mổ xẻ như thế thì còn gì là tình yêu?
Em cũng cười, và tiếp:
- Thì cũng chính vì vậy mới là
không yêu, và hồn em mới mãi giá băng, từ khi em mất Kha. Kỷ niệm và
hình bóng của Kha còn chất ngất trong em. Kha đã ở lại, vì em, và chết
thảm trong tù. Em không thể yêu ai được nữa.
Tôi hỏi:
- Em sẽ nói sao với Jean-Luc?
- Một lần thôi, tế nhị, dứt khoát. Rồi em xin nghỉ, không đến trại
nữa. Jean-Luc sẽ hiểu.
4. Hơn hai mươi năm trôi qua, kể từ ngày đó. Trọng vượt biên trước tôi,
đến Indonesia. Hiệp, một người em khác, cán bộ Trung Ương Tình Báo, lúc
ấy còn trong tù Z30, và sau mười bốn năm, mới được thả và đến Mỹ theo
diện HO. Đầu năm 1984, sau những chuyến đi hụt, bị lừa, bị bắt, cuối
cùng tôi đến được Subic Bay, Philippines, từ Nha Trang, cùng với Bội
Trân, trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, vượt bao giông tố hãi hùng. Ba
tháng trước đó, em và tôi đã ra Thanh Hóa, tìm đến trại cải tạo, đem hài
cốt của Kha về chôn tại nghĩa trang Núi Sạn bên các ngôi mộ của gia
đình tôi.
Em cũng đã bàn giao bé Trang cho Huyền Trân. Đến đảo Phi, Bội Trân xin
tôi cho em đi Pháp sống với người chị kế, Thể Trân, định cư tại Nanterre
từ 1978. Một năm sau, em xin vào tu trong dòng kín Carmel ở Lisieux,
quê hương của thánh nữ Thérèse, giữa tuổi thanh xuân, giã biệt thế gian
và tháng ngày khổ nạn, để “tìm bình an cho tâm hồn và béatitude, hạnh
phúc của Chúa ban”, như em nói với Mẹ Bề Trên, và để, tự dưng tôi nghĩ
đến Lệ Ngà, bắt chước các mỹ nhân tự thuở xưa mãi mãi “bất hứa nhân gian
kiến bạch đầu”. Ngày em khấn dòng, anh em chúng tôi từ Mỹ đến dự lễ, ôm
em, khóc cười, buồn vui lẫn lộn. Do tôi mời, bác sĩ de Neuville từ Lyon
cũng đến, đặt những grosses bises (cái hôn tình bạn) trên đôi má em.
Jean-Luc vẫn còn độc thân. Ann Mary về nước, lấy một Việt Kiều Úc.
Vĩnh Phương được đi tu nghiệp một năm tại Bordeaux, trở về làm bác sĩ
bệnh viện Nha Trang. Các cô thợ dệt đều có chồng con, tay bồng tay bế.
Cô Thanh, người đã một lần xin tôi chỉ “mánh” vượt biên, hiện làm chủ
một tiệm ăn ở Orange County. Thầy Pierre và ông già Mân đã chết. Qua đặc
san của Tổng Hội Cựu SVSQ/ĐH/CTCT/ĐL, tôi được biết NT4 Võ Minh Thiện
cũng đã từ trần. Bé Trang nay là một thiếu nữ ba mươi tuổi, đẹp và hiền
thục, giống như hai mẹ nuôi Bội Trân và Huyền Trân. Xưởng dệt đóng cửa.
Thung Lũng Nước Mắt vẫn còn.
Còn Loan, cô em vợ của bác sĩ
Vĩnh Phương? Năm 1992, Loan theo mẹ, cựu nhân viên sở Mỹ, định cư tại
San José, do người anh đi trước bảo lãnh. Ở đó, Loan chơi thân với một
cô em họ của tôi. Từ Cheney, Washington, nơi đang dạy học, tôi xuống San
José nghỉ hè, và tình cờ, tại nhà cô em, được gặp lại Loan –mà mười năm
trước tôi đã thầm chê là con nít. Rồi chạy trời không khỏi nắng, ba năm
sau, “con nít” Loan trở thành vợ tôi và sau đó nữa là mẹ của hai đứa
nhỏ. Như một kết thúc có hậu trong những truyện cổ tích. Hay đúng hơn,
một định mệnh an bài, huyền diệu mà những ông thầy tử vi và bói toán
trên cõi đời này bó tay, không đoán trước được.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến nữ văn hữu Jennifer Clement, Chủ tịch Văn Bút Quốc Tế
và văn hữu Carles Torner, Giám đốc Điều Hành Văn Bút Quốc Tế.
Hoạt động của Trung tâm Văn Bút Tây Tạng Hải Ngoại.
Ngày 4 Tháng Năm 2017, tại Dharamsala Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thân
mật tiếp kiến nữ văn hữu Jennifer Clement, Chủ tịch Văn Bút Quốc Tế và
văn hữu Carles Torner, Giám đốc Điều Hành Văn Bút Quốc Tế. Vị lãnh đạo
tinh thần và tôn giáo của dân tộc Tây Tạng vui mừng khi biết Văn Bút
Quốc Tế liên tục ủng hộ các nhà văn Tây Tạng tị nạn ở hải ngoại. Đức Đạt
Lai Lạt Ma xác định rằng bênh vực và bảo vệ dân tộc Tây Tạng hiển nhiên
là vấn đề bênh vực và bảo vệ Nhân Quyền phổ biến trên toàn thế giới.
Ngài nhấn mạnh về sự kiện đó bao hàm cả quyền chính trị bởi vì người Tây
Tạng có quyền tự quản trên đất nước của mình.
Ngài bày tỏ mối quan tâm sâu xa về thảm họa chế độ Bắc Kinh hủy hoại môi
trường, đất đai, thiên nhiên và các dòng sông. Ngài rất lo lắng vì các
con sông lớn bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng nuôi sống hàng tỉ người
khi chảy xuống các bình nguyên và đồng bằng. Đức Đạt Lai Lạt Ma ủng hộ
cuộc vận động của Văn Bút Quốc Tế đặc biệt dành cho các nhà văn bị buộc
phải lưu đày xa quê hương trong thời gian tới đây. Nhân dịp này, Ngài
nhờ nữ văn hữu Jennifer Clement và văn hữu Carles Torner chuyển một
thông điệp của Ngài đến cộng đồng Văn Bút Quốc Tế : thực hành một tâm
thức hiếu hòa cho một thế giới đầy lòng trắc ẩn.
Được biết Chánh phủ của người Tây Tạng tị nạn cộng sản hoạt động với các
cơ sở trung ương tại Dharamsala. Trung tâm Văn Bút các Nhà Văn Tây Tạng
Hải Ngoại cũng đặt văn phòng tại thành phố Ấn Độ này. Phái đoàn cao cấp
Văn Bút Quốc Tế đã được văn hữu Lhoudoup Paldang, chủ tịch và ban Chấp
hành Trung tâm Văn Bút các Nhà Văn Tây Tạng Hải Ngoại hướng dẫn đi thăm
các tổ chức Xã Hội Dân Sự Tây Tạng lưu vong. Những công tác do các văn
hữu Tây Tạng đã thực hiện với lòng dũng cảm rất đáng được vinh danh.
Các bạn đó đã đưa ra khỏi nội địa Tây Tạng bị Trung cộng chiếm đóng được
nhiều sách viết trong vòng bí mật vì bạo quyền nghiêm cấm. Rồi cho in
những tác phẩm đó để phổ biến tại Ấn Độ. Anh em cầm bút Tây Tạng đã công
bố một bản phúc trình về sự đàn áp quyền tự do phát biểu và diễn đạt
quan điểm cùng với thảm kịch các nhà văn Tây Tạng bị cầm tù. Nhờ các tài
liệu của Văn Bút Tây Tạng Hải Ngoại, chúng ta được biết nhiều hơn về
tình cảnh cực kỳ bi thương đến phẫn nộ của người phụ nữ Tây Tạng dưới
chế độ độc tài đế quốc đỏ.
Nhứt là thảm kịch phụ nữ Tây Tạng bị cưỡng hôn với đàn ông Trung cộng.
Anh em văn hữu Tây Tạng chiến đấu không ngừng nghỉ từng ngày để bênh vực
và bảo vệ ngôn ngữ Tây Tạng. Nữ văn hữu Jennifer Clément và văn hữu
Carles Torner thay mặt Hiệp Hội Nhà Văn Thế Giới thật hãnh diện được
đích thân tuyên dương thi ca, âm nhạc và ca vũ Tây Tạng. Cả hai văn hữu
Văn Bút Quốc Tế cũng tham dự những hội nghị được tổ chức trong các tu
viện, đền đài và các nữ chủng viện. Tại những cơ sở văn hóa và Phật giáo
đó, Văn Bút Tây Tạng Hải Ngoại đang khai mở và phát triển nhiều chương
trình dành cho thanh thiếu niên Tây Tạng tị nạn cộng sản.
Genève ngày 5 tháng Năm 2017
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue Vietnamienne des Droits de l'Homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland.
Nguồn tin, tài liệu: Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ và nhà thơ
Nguyên Hoàng Bảo Việt, phó chủ tịch Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại (Ủy ban
Bênh vực Nhà Văn bị cầm tù).
Tại các nước kỹ nghệ phát triển, thịt cá là một phần quan trọng trong đồ
ăn. Riêng tại Hoa Kỳ giàu có, thịt là món ăn chính trong bữa đối với
nhiều người. Nhưng trong những thời gian gần đây, ăn chay đã trở thành
một phong trào. Đồ chay chế biến đủ loại bày bán trong các tiệm thực
phẩm sức khỏe (health food stores). Trong khung cảnh này, người ta ăn
chay vì những lý do khác nhau: Bảo vệ môi sinh, chăm lo sức khỏe, thương
yêu súc vật, lý do thời thượng, và cả vì lý do thương mại.
Khi có người ăn chay thì có người chế tạo đồ chay theo phương pháp kỹ
nghệ đem bán. Và dĩ nhiên để gia tăng doanh số cũng như lợi tức thì
người ta đề cao ích lợi của ăn chay nhằm gia tăng số người tiêu thụ đồ
chay. Ở đây đề cập đến ăn chay như là một hiện tượng xã hội Âu Mỹ này,
mà chỉ suy nghĩ về ăn chay trong Phật giáo, và dưới khía cạnh dinh dưỡng
tổng quát.Ăn Chay Trong Đạo Phật:
Người Việt Nam thường cho rằng ăn chay là một yêu cầu tu tập của các
tăng sĩ và các Phật tử. Các tăng sĩ phải ăn trường chay, tức là hoàn
toàn không trong trường hợp nào được ăn thịt cá. Các tín đồ thì tùy tâm
nguyện mà ăn chay một hay nhiều ngày trong tháng hoặc theo trường chay.
Nói cho đúng thì yêu cầu ăn chay chỉ áp dụng với các tăng sĩ theo Phật
giáo Đại thừa, truyền từ Trung Hoa sang, gọi là Phật giáo Bắc Tông, các
tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, hay Nam Tông, có truyền thống khất thực,
thì không bắt buộc ăn chay, mà ăn các thực phẩm do quần chúng tùy duyên
trao tặng.
Sự khác biệt này đã khiến một số nhà nghiên cứu tìm tòi sách vở để xem
lời Phật dạy đối với vấn đề ăn chay ăn mặn ra sao, nhằm phân định phải
trái. Những dẫn chứng dĩ nhiên là khác nhau tùy theo nguồn kinh sách và
tùy theo định kiến cá nhân đối với ăn chay.
Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng Đức Phật không phải là người ăn chay,
không đặt vấn đề chay mặn, và hàng tỳ kheo đi khất thực đón nhận, không
phân biệt, thực phẩm dân chúng đóng góp cúng dường. Ngược lại ăn chay là
một nhu cầu tu tập bắt buộc trong các kinh điển Phật giáo Đại thừa
Trung Hoa. Vì thế, nhiều người cho rằng ăn chay là một nét đặc thù của
Phật giáo Đại thừa. Thực sự thì ta nên biết rằng một số tu sĩ Nhật Bản
thuộc Phật giáo Đại thừa cũng ăn thịt. Ngoài ra, một giáo phái Đại thừa
Tây Tạng (áo đỏ) cũng ăn thịt. Ngay một số để tử Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc
sang Mỹ thuyết giảng khi được hỏi về thực phẩm cũng không đặc vấn đề
chay mặn. Trong sách "Quan Điểm Về An Chay của Đạo Phật" tác giả Tâm
Diệu đã viết rằng "ăn chay không phải là nét đặc thù của Phật giáo Đại
thừa nói chung và của Phật giáo Đại thừa Trung Hoa nói riêng". Tâm Diệu
đã dẫn chứng một số tài liệu để khẳng định "ăn chay đã có trong thời kỳ
Phật còn tại thế và được phát triển mạnh mẽ vào thời đại Asoka, vị hoàng
đế Ấn Độ trị vì từ n ăm 274 đến năm 232 trước Thiên Chúa giáng sinh".
Tác giả Tâm Diệu vừa viện dẫn kinh sách, vừa lý luận dựa trên một số tài
liệu khoa học và bài viết hiện đại về môi sinh để cổ võ việc ăn chay.
Bài này không nhằm mục đích đó mà chỉ muốn đưa lên một số suy nghĩ về ăn
chay, trên cơ sở hiểu biết cá nhân về đạo Phật cũng như về dinh dưỡng.
Các tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng sự giải thoát không do nơi ăn
uống, mà do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý. Ăn chay mà thân khẩu
không lành, ý chứa gươm đao, giới luật không giữ thì không lợi ích gì.
Luận cứ này không khác gì mấy lối nghĩ của người bình dân "ăn mặn nói
ngay còn hơn ăn chay nói dối". Cái lý luận bình dân này xét ra cũng hơi
có tính bài bác ăn chay.
Ngược lại, theo Phật giáo Trung Hoa, ăn chay là một phần của việc thì
hành giáo pháp. Triều đại nhà Lương (thế kỷ thứ 6 sau Thiên Chúa), nhà
vua cấm thịt cá trong các yến tiệc hoàng cung, kêu gọi dân chúng ăn chay
và cấm giết thú vật trong các nghi lễ Đạo giáo. Thời Minh (thế kỷ
16-17), hòa thượng Vân Thế Châu Hoằng là người cổ võ ăn chay mạnh mẽ, vì
thế có người đã cho rằng ăn chay bắt đầu từ thời này. Bênh vực cho yêu
cầu ăn chay trong việc hành trì đạo pháp, có nhiều luận cứ trong kinh
sách Đại thừa, như Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn? Chủ yếu coi
ăn chay là thi hành giới cấm sát sinh, và cũng là thực hành hạnh từ bi.
Ngoài ra, ăn chay cũng là để tránh ăn thịt lẫn nhau, trong đó có thể có
người thân thích cật ruột của mình bị trầm luân theo luật luân hồi. Nếu
nhận rằng giới cấm sát sinh và hạnh từ bi không chỉ áp dụng với người mà
còn phải áp dụng với mọi loài từ con sâu cái kiến trở đi, thì ăn thịt
sinh vật không thể nào biện giải được. Nếu tin tuyệt đối vào luân hồi,
làm kiếp người hay kiếp thú vật hoàn toàn tùy duyên nghiệp nhân quả
quyết định, thì rõ ràng ăn thịt động vật cũng là ăn thịt con người. Tuy
nhiên cái lòng tin tuyệt đối này cũng như sự diễn dịch giáo lý của Phật
có khác nhau, tùy theo văn hóa và trình độ phát triển của từng dân tộc
cũng như tùy sự hiểu biết cá nhân.
Truyện kể lại rằng vào đời nhà Trần trong một bữa tiệc do hoàng thái hậu
Nguyên Thánh Thiên Cảm thết đãi có cả món chay lẫn món mặn, thì Tuệ
Trung Thượng Sĩ, người sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam,
đã điềm nhiên ăn thịt cá. Thái hậu ngạc nhiên hỏi: "Anh tu thiền mà ăn
thịt cá thì thành Phật sao được?" Ngài cười đáp: "Phật là Phật, anh là
anh. Anh không cần làm Phật. Phật không cần làm anh". Tuệ Trung Sĩ là
một bậc tu hành giác ngộ. Lời nói của Ngài không phải là lời kẻ tục tử
đáp xằng. Việc ăn thịt cá của Ngài Tuệ Trung dĩ nhiên là trái hẳn kinh
sách Đại thừa. Vậy thì sự thật ở đâu? Ăn chay là phải, hay ăn mặn là
phải trong việc tu hành theo Phật pháp?
Câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ hàm ý cho thấy cái quan trọng của tâm tu và cái phá chấp trong phương tiện tu hành.
Thời nay, ta thấy có những trường hợp các bữa cơm chay trong chùa đầy
rẫy các món như giò, chả, thịt kho, cá hấp, tôm xào? làm bằng đồ chay.
Về vật chất, đúng rằng các món này thuần làm bằng rao đậu, không có cá
thịt. Nhưng về tinh thần, cái ý thức ăn giò, chả, thịt kho, cá hấp? rõ
ràng biểu lộ sự trói buộc vào trong những ý niệm quy ước nặng nề thân
khẩu ý, không giúp ích chút nào cho sự tu trì. So với một tu sĩ Phật
giáo Nguyên Thủy, đón nhận tự nhiên mọi thực phẩm dân chúng cúng dường,
không chú ý tìm cái ngon trong đó, coi ăn như một nhu cầu bình thường và
tự nhiên để sống và tu hành, thì người ăn chay với các món cầu kỳ sửa
soạn để phục vụ khẩu vị, sắc hương?, chưa chắc đã là người tiến gần hơn
đến chỗ giác ngộ. Nói như vậy cũng không phải để bênh vực những kẻ cố
tình khai thác cái ý "phá chấp", "cốt ở tâm tu" để mà sa đà ăn mặn, dối
mình, gạt người.
Ăn Chay Và Dinh Dưỡng:
Ăn, khởi thủy vốn là một yêu cầu tự nhiên để sống còn, nhưng dần dần đã
trở thành một cái dục thú lớn ở đời, và là một trong những động lực thúc
đẩy con người vật lộn đấu tranh. Từ chỗ sống nhờ ăn, người ta trở thành
khổ vì ăn. Khổ trong sự tìm kiếm đồ ăn đã đành, khổ còn vì ăn không
đúng mà trở thành đau bệnh. Trong cái mạch suy nghĩ này, nếu giữ cho cái
ăn không trở thành một ám ảnh, với những yêu cầu phức tạp thêm thắt
quanh đó thì đã là một bước diệt dục. Người Mỹ có câu "you are what you
eat", ý nói rằng thực phẩm ảnh hưởng nhiều vào con người. Một cách đơn
giản, ăn đường mỡ béo bổ nhiều thì dễ mập phì, sinh bệnh tim mạch hay
ung thư v.v? Câu này thường nêu lên bởi những nhà dinh dưỡng, mục đích
là nhằm khuyên con người để ý về việc chọn đồ ăn tốt cho sức khỏe mà
tránh những thức độc hại dầu ngon miệng, hợp khẩu vị.
Các cụ ta ngày xưa không nói như người Mỹ nhưng cũng có quan niệm rằng
những giống vật ăn thịt thường là bạo tạo tợn, như hổ báo, còn các giống
ăn cỏ thường là hiền lành như hươu nai trâu bò. Nền văn hóa của những
giống dân du mục, sống bằng săn thú và thịt động vật cũng có những nét
hung dữ năng nổ hơn là văn hóa của những giống người sống bằng nông phẩm
trồng trọt. Đối với con người thì rượu nồng dê béo? thường được coi là
những món ăn khích động thú tính con người. Và không lấy gì làm lạ là
những người tham dục thường tìm đến nào là huyết chim sẻ, máu rắn hổ
mang, thịt dê đực vân vân, chứ ít ai tìm ăn rau cỏ trái cây.
Tóm lại thức ăn ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể và tinh thần con người.
Sự quan trọng này của thực phẩm đã được trường phái dưỡng sinh Osawa gạo
lức muối mè khai triển triệt để trong cách phòng bệnh cũng như chữa
bệnh nan y, và được chú ý tại Việt Nam thập niên 60-70. Tuy nhiên, những
luận lý chứng minh đưa ra của trường phái này đã trộn lẫn những dữ kiện
khoa học Tây phương với những dữ kiện y lý và huyền bí Đông phương như
ngũ hành sinh khắc, hàn nhiệt? gán cho các loại thực phẩm một cách tùy
tiện. Vì thế người theo Osawa không chỉ dựa trên lý luận và tri thức mà
còn phải có cả yếu tố lòng tin ở những phán truyền này.
Nhiều người, trong sự hăng say cổ võ ăn chay, đã đi tới chỗ khẳng định
ăn chay tốt hơn và làm con người khỏe hơn ăn mặn (tức là ăn thịt cá?)
Ngược lại, những người tin tưởng mù quáng vì không hiểu nhiều y học Tây
phương lại cho rằng cá thịt? là những thực phẩm không thể thiếu để làm
cho cơ thể khỏe mạnh. Thực sự vấn đề không đơn giản như thế. Có nhiều
người Ấn Độ ăn chay từ nhỏ đến lớn mà vẫn khỏe mạnh không tật bệnh. Có
nhiều người chỉ ăn thịt cá mà bệnh tật ốm đau đủ thứ. Nói chung, ăn mà
không đúng cách thì bất kể chay mặn đều là không tốt. Riêng nói về ăn
chay, thì có thể khẳng định rằng các thực phẩm chay đủ cung cấp cho
người ta các yếu tố dinh dưỡng cơ bản cần thiết cho cơ thể, gồm chất
bột, chất béo, chất đạm, chất sơ và các chất sinh tố cũng như muối
khoáng. Ngày nay người ta đã phân biệt ra ba loại ăn chay.
Loại thứ nhất gồm các loại nông phẩm như rau, đậu, hạt, trái cây, trứng
sữa và phó sản (như bơ, kem, phó mát?). Loại ăn chay thứ hai cũng gồm
các thực phẩm như trên, trừ trứng. Loại thứ ba chỉ gồm có rau đậu trái
cây mà không có trứng và sữa cùng các phó sản. Người Việt Nam trước đây,
vì không phát triển chăn nuôi, ít có sữa và ít dùng sữa, và coi trứng
là có đời sống, nên ăn chay thuộc loại thứ ba. Về phương diện khoa học,
trứng chỉ là một tế bào trong một môi trường dinh dưỡng. Nếu có thụ tinh
thì trứng mới trở thành một bào thai và phát triển thành sinh vật khi
có nhiệt độ thuận lợi do ấp trứng thiên nhiên hay trong máy ấp. Một cách
thực tế là gà nuôi kỹ nghệ để cho đẻ lấy trứng thì không có thụ tinh và
trứng chỉ là một tế bào, như nhiều người tế bào khác loại ra hằng ngày.
Nói chung, lối ăn chay có trứng sữa không ngại thiếu dinh dưỡng nếu
không biết đặc tính của từng loại thực phẩm để mà chọn lựa sử dụng theo
những tỷ lệ thích hợp. Thực vậy, trong các loại đậu, đặc biệt là đậu
nành thì có chất đạm, các hạt như hạt vừng (mè), hạt điều thì có nhiều
chất béo? Nếu ăn chay nhà nghèo theo kiểu Việt Nam ngày xưa chủ yếu toàn
rau mà thiếu đậu cùng các loại hạt và những phó sản (đậu phụ, dầu, sữa,
đậu nành?) thì suy dinh dưỡng là chắc chắn. Ngược lại, người Việt tại
Mỹ hiện nay, trong cách sửa soạn đồ chay thường rộng rãi sử dụng dầu, mè
(vừng), đậu phụng, nước cốt dừa, đường v.v để cho các món ăn ngon lành,
bùi béo. Do đó đã tạo nên một loại dinh dưỡng không thăng bằng, không
tốt cho cơ thể. Lý do chỉ vì dùng chất béo và chất đường quá nhiều, là
những thứ dễ sinh bệnh tim mạch và tiểu đường. Tóm tắt lại thì nếu biết
rõ đặc chất dinh dưỡng của từng loại đồ chay để mà chọn lựa ăn chay một
cách quân bình theo những hiểu biết khoa học, thì ăn chay có khả năng
dinh dưỡng không khác gì ăn mặn, mà còn có những lợi điểm giúp con người
trầm tĩnh xuống, thích hợp cho sự tu hành yên lắng của tâm hồn. Ăn Chay
Và Tu Hành Phật Pháp:
Nếu cứ viện dẫn và diễn dịch kinh điển để nói rằng tu hành theo Phật
giáo là phải hay không phải ăn chay thì cuộc luận bàn tìm đúng sai này
sẽ không bao giờ chấm dứt. Bởi vì như trên đã nói, kinh điển khác nhau
tùy theo nguồn gốc Đại thừa hay Nguyên thủy. Những luận cứ Đại thừa cũng
như Nguyên thủy đều có những cái lý của chúng. Đạo Phật lại đã trải qua
một thời kỳ trầm lắng gần ba thế kỷ sau khi Đức Phật viên tịch khiến
cho sách vở cũng như những diễn truyền không tránh khỏi khác nhau. Vả
lại những kỳ tập kết của các đệ tử trong khoản vài trăm năm sau khi Phật
viên tịch để thảo luận về giới luật đã không có sự hoàn toàn thống nhất
ý kiến.
Ở đây chỉ xin trình bày một cách nhìn thực tiễn về ăn chay, không mang
tính cách trường phái, giáo điều. Như đã tóm lược ở trên, thực phẩm chay
có đầy đủ các chất chính cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người
(chất đạm, chất béo, chất bột, chất sơ, sinh tố và các khoáng chất).
Cho nên ăn chay đúng cách không khác gì ăn mặn về khía cạnh dinh dưỡng.
Ngoài ra nhìn chung thực phẩm chay còn có những ảnh hưởng tĩnh lặng lên
phản ứng con người, ngược với những đồ ăn gốc động vật.
Đứng về phương diện khẩu vị, tất cả chỉ là thói quen. Nếu quen ăn nhiều
mỡ và thịt cá thì không thể thích các đồ ăn chay nhiều chất bột chất sơ.
Ngược lại, nếu không ăn thịt cá quen thì chỉ thấy ngon miệng với rau
đậu. Con người vốn thuộc loại ăn tạp (omnivore), nghĩa là ăn đủ thứ, nếu
bỗng nhiên chỉ ăn có một loại thực phẩm chay thì sẽ có khó khăn. Vượt
qua khó khăn này chính là một nỗ lực tu hành, gạt bỏ những trói buộc của
thân khẩu ý. Tuy nhiên, khi đã ăn chay mà còn bày vẽ vọng tưởng, nào là
giò, chả, cá, thịt, thì tinh thần này lại làm cho con người bị trói
buộc mà giảm mất ý nghĩa của sự chọn lựa ăn chay.
Nhìn ra như vậy người cư sĩ Phật giáo sẽ chọn được cho mình một thái độ
thích hợp đối với vấn đề ăn chay trên con đường tìm đến thân tâm an lạc.
Một cách dung dị và thực tế, có thể nói ăn chay là một phương tiện tu
hành hữu ích./.
Lời nguời chuyển :
Cách đây mấy tháng, tôi đi đám ma của một người bạn cũ (thời ĐH Vạn Hạnh
ở Sàigòn), Cô là đệ tữ của thầy HT. Tôi không biết Cô ăn chay trường từ
hồi nào, nhưng cách đầy gần 4 năm, Cô qua Dallas, TX thăm 1 người bạn,
thấy Cô ốm yếu, xanh xao, Cô bạn đưa Cô đến một BS về dinh dưỡng
(nuitritionist), BS khám, thử máu, hẹn vài ngày sau đến gặp. BS hỏi về
ăn uống, thì Cô cho biết Cô ăn chay. BS khuyên Cô đên thay đổi cách ăn
uống, nếu không, Cô sẽ chết trong vòng hai năm. BS giaỉ thích : Cô ăn
quá nhiều đậu nành (soy bean), máu của Cô bị nhiễm độc (quá nhiều độc tố
từ đậu nành), không tốt cho sức khỏe của Cô. Trỡ lại Nam Cali, tôi
không hiểu Cô có thay đổi cách ăn uống hay không, nhưng khi đi đám ma
của Cô, gặp bạn cho biết, vài tuần cuối đời, Cô rất đau đớn, nằm ở nhà
thương trên Long Beach, họ không thể rút máu của Cô từ mạch máu (tôi
nghe kể lại) mà xẻ đùi của Cô để lấy máu, lọc đi, rồi truyền vào cơ thể
trở lại, nên rất đau đớn. Tôi không chứng kiến việc này, mà chỉ đến thăm
Cô lần cuối ở nhà quàn.
Tôi cũng có đọc một bài trên internet (khá lâu rồi) về đậu nành, nếu
dùng vừa phải thì tốt, protein thay cho thịt cá, nhưng lạm dụng thì
không tốt. Tôi thấy tất cả món ăn chay, đều làm từ đậu nành, khi đã
nguyện ăn chay, thì tại sao phải ăn thức ăn giống ăn mặn ? (chà giò, bún
bò Huế, giò, chả, thịt kho, cá kho.....tất cả những thứ này làm từ đậu
nành. Khi đã nguyện "ăn chay" mà tại sao vẫn muốn ăn giống món mặn, tức
là lòng chưa thanh tịnh, tại sao không không ăn uống bình thường (tốt
cho sức khỏe) mà lòng thanh tịnh. Đạo Phật không bắt buộc ăn chay.
Tóm lại, tôi thấy "ăn chay" như là một phong trào (thời thượng), nhưng
ít ai nghỉ tới lợi ích thiết thực của việc ăn chay. Tôi xin có mấy lời.
Kể chuyện tình nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện PHẠM TRONG CHÁNH
[Đọc sách "Chuyện một người đàn bà.. năm con" của Lê Khắc Thanh Hoài].
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại
Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người
viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ
khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy
Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng
chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là
khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là
triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà
không cần một văn bằng nào ?
Đâu là sự thật, đâu là huyền thoại ?
Được chị Lê Khắc Thanh Hoài tặng cho quyển tiểu thuyết đầu tiên của chị :
Chuyện một người đàn bà năm con, tôi đọc say mê, với lối văn giản dị
trong sáng tôi đọc một mạch, tôi không ngờ chị viết hay và hấp dẫn như
thế về cuộc đời khổ đau gian truân của chị với một thi nhân, triết gia
mà thời niên thiếu tôi đã từng say mê tác giả : Ý thức mới trong văn
nghệ và triết học , Phạm Công Thiện.
Sách trang bìa hình tháp Eiffel Paris, nơi xảy ra câu chuyện và bức
chân dung chị Lê Khắc Thanh Hoài ký tên Phạm Công Thiện vẽ, ngày anh
tỏ tình cùng chị, chị không dấu tên người bạn đời. Người đàn bà có năm
con cùng triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011) kể lại cuộc đời
mình dẫn nhập bằng cuộc đối thoại với cháu ngoại, mừng sinh nhật bà,
trao phong bì : một bài thơ bằng tiếng Pháp và lì xì : 10 Euro cho
bà, vì thấy bà ngoại nghèo quá thật là dễ thương, ngộ nghĩnh và cảm
động. Từ đó chị kể lại cuộc đời mình qua 13 năm sống chung. Thời gian mà
anh sang Pháp năm 1970, từ bỏ áo nhà tu Thích Nguyên Tánh và sau
năm 1985 anh sang Mỹ cư ngụ tại Los Angeles và qua đời tại Houston..
Tuổi học sinh Trung học, tôi say mê khi đọc Phạm Công Thiện, tôi biết về
thơ Appolinaire, Rimbaud, Pierre Emmanuel..về các triết gia mới Tây
Phương qua anh.
Bây giờ thì tôi viết về anh qua truyện kể của chị Thanh Hoài, nhìn anh
qua những Vidéo các buổi nói chuyện của anh. Tôi muốn tìm hiểu cuộc đời
Hiện tượng Phạm Công Thiện, một thời làm mưa làm gió tại Miền Nam những
năm 1966-1970. Và dư âm những mưa gió ấy tại Hải ngoại từ 1970 đến năm
2011. Tôi muốn hiểu Phạm Công Thiện là ai ? anh là một thiên tài thần
đồng, hay một một Trạng Quỳnh của một thời ?. Những kiến thức anh lấy
từ đâu ? nguyên do gì anh đã mê hoặc cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam
trong thời điểm đó. Đâu là sự thật của đời anh, đâu là huyền thoại do
anh và mọi người thêu dệt. Những người Phạm Công Thiện quen biết tôi
đều có dịp gặp gỡ : từ chùa Hải Đức Nha Trang, đến Paris, đến Viện Đại
Học Vạn Hạnh : Họa sĩ Vĩnh Ấn, nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, nhà thơ Nhị Tay
Ngàn đến Hoà thượng Minh Châu Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Thiền
sư Nhất Hạnh, chị Thanh Hoài người bạn đời từng chung sống với anh 13
năm, và có 5 con với anh.
Chị Thanh Hoài sinh năm 1950 tại Huế, con một vị bác sĩ nổi tiếng tại
Huế trong Phong Trào tranh đấu Phật Giáo miền Trung, năm 1963 từng bị
tù dưới chế độ Ngô Đình. Năm 1969 chị học Triết học Đông Phương tại Viện
Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1970 chị lên đường sang Bruxelles du học. Gặp và
kết hôn với Phạm Công Thiện tại Paris. Chị Thanh Hoài còn là một nhạc
sĩ đàn dương cầm, từng học Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế, tác giả nhiều
CD, và hàng trăm nhạc phẩm.
Trước nhất Phạm Công Thiện là một nhà thơ : tập Ngày sinh của rắn in năm 1988, có những bài thơ đẹp, và lạ lùng :
VI : Tôi chấp chới/ đắng giọng/ giữa tháng ngày mơ mộng, nốt ruồi của
hương/ hay nốt ruồi của rigvêda/ tôi mửa máu đen/ tôi mửa đêm paris/ tôi
giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng/ tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài
người/ cho quế hương nằm ở nhà thương điên trí nhớ/ mặt trời có
thai/mặt trời có thai/ sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt.
VIII : Mười năm qua gió thổi đồi tây/ tôi long đong theo bóng chim gầy/
một sớm em về ru giấc ngủ/bông trời bay trắng cả rừng cây/ gió thổi đồi
tây hay đồi đông/ hiu hắt quê hương bến cỏ hồng/trong mơ em vẫn còn bên
cửa/ tôi đứng bên đồi mây trổ bông/gió thổi đồi thu qua đồi thông/mùa hạ
ly hương nước ngược dòng/tôi đau trong tiếng gà xơ xác/một sớm bông
hồng nở cửa đông.
Anh nổi tiếng thần đồng, 15 tuổi đã công tác viết bài cho tạp chí Bách
Khoa, một tạp chí nổi tiếng giới trí thức miền Nam thời bấy giờ, anh
thông thạo 5, 6 ngoại ngữ, một quyển sách anh được Nguyễn Hiến Lê giới
thiệu. Nguyễn Hiến Lê là một học giả tự học viết khoảng 60 quyển sách từ
sách : Tự học làm người, Rèn luyện nhân cách, đến Triết Học Trung Hoa.
Một kiến thức đáng kính phục. Có lẽ Phạm Công Thiện đã học phương pháp
tự học và làm việc của học giả Nguyễn Hiến Lê. Muốn học một ngôn ngữ,
học bằng cách dịch quyển sách mình ưa thích, mỗi ngày đều đặn, chỉnh
tề, ngồi vào bàn viết.. lúc đầu khó khăn, sau thành thói quen viết dễ
dàng nhanh chóng. Tôi hiểu anh không nói ngoa, anh đã viết 20 quyển sách
thời niên thiếu và đốt đi. Đó là cách tập luyện viết sách, đọc một
quyển sách mình mô phỏng theo, viết một quyển tương tự, ban đầu mình
chịu ảnh hưởng nhiều từ từ mình tạo ra một phong cách riêng, tiến đến
một sáng tạo hoàn toàn.
Anh giỏi tiếng Pháp. Anh có tài dịch thơ lưu loát và quyến rũ. Anh đọc
các triết gia Tây Phương và các Thiền sư Phật Giáo và diễn tả lại gọn
gàng dễ hiểu. Anh đáp ứng được nhu cầu giới trẻ đương thời đang muốn mở
ra tiếp xúc với Tây Phương, nhưng không đủ vốn liếng ngôn ngữ để đọc
trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức văn chương Tây Phương từ
sau cuộc tiếp xúc với Văn chương lãng mạn thời Thơ Mới với Baudelaire,
Edgar Poe... Các Triết gia Hiện Sinh, hiện đại như thế nào ? Anh đáp
ứng được một nhu cầu muốn tìm hiểu của đương thời. Thuở còn học sinh
Trung Học tại Phan Thiết, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ, thường gặp
nhau bàn về những điều Phạm Công Thiện viết. Trong không khí ngột ngạt
của chiến tranh Việt Nam, thân phận thanh niên rồi sẽ đi lính, rồi sẽ
chết trên chiến trường như bao bạn bè. Trong không khí thành thị miền
Nam thời đó, thanh niên cần một lối thoát ra khỏi không gian tù túng, mơ
ước một chân trời khác , đọc được Phạm Công Thiện hay Bùi Giáng tên
tuổi các triết gia Hy Lạp, triết gia bên Tây tên tuổi nghe mù mờ, có
người tóm lược giảng giải nên lấy làm thích thú. Lâu lâu lại khen chữ
nghĩa, tâng bốc văn hóa Việt Nam, làm hừng chí tự ti dân tộc. Phạm
Công Thiện nổi danh trên mảnh đất trống tư tưởng đó.
Phạm Công Thiện là một người quyến rũ, có sức thôi miên người đối thoại. Chị Thanh Hoài viết tr 167:
« Gặp Chàng là gặp người bằng xương bằng thịt, không phải là người trong
văn chương tiểu thuyết. Chàng rất chân thật, không giả dối kệch cởm.
Chàng phản ảnh đúng những gì Chàng viết. Thẳng thắn. Táo bạo. Nẩy lửa.
Sức hút dữ dội. Quyến rũ lạ lùng. Người đối diện chỉ còn biết buông xuôi
và.. trôi theo bấp bênh cùng Chàng !
Phải rồi ! Bấp bênh và.. vô định ! Tự dưng nàng linh cảm mãnh liệt điều
đó. Đến với chàng là chấp nhận bấp bênh và vô định. Không chờ đợi, không
đòi hỏi. Vô điều kiện. Là quăng bỏ quá khứ và tương lai. Là phiêu lưu
không cần địa bàn định hướng. Chỉ có một chiếc kim chỉ nam là tấm lòng,
là con tim, là sự thành thật. Đó mới là kho tàng vô giá. »
Thời tôi và chị Thanh Hoài đi du học, số nam sinh viên luôn luôn đông
hơn nữ, tỷ lệ có thể đến 1/20. Được một cô sinh viên du học xinhđẹp
mới qua là có ít nhất hàng tá chàng trai Việt chạy theo. Các gia đình
thượng lưu trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ, gửi con gái đi du học với
niềm hy vọng : nếu nó học không xong cũng hy vọng có được tấm chồng trí
thức, bác sĩ, kỹ sư, tương lai bảo đảm. Con gái nếu không thành công,
thì có con rể vinh hiển cũng được nơi nương tựa yên ổn. Chị Thanh Hoài
đã từ chối bao kỹ sư, bác sĩ đến với chị để nghe tiếng gọi của trái tim
yêu một thi sĩ, một triết gia, âu cũng là một sự lựa chọn cho cuộc đời
gian truân của chị.
Phạm Công Thiện là ai ? anh được đào tạo từ đâu ? hay anh là một thiên
tài, đã học từ bao nhiêu kiếp trước, nay sinh ra đã trở thành một triết
gia không cần học ai ?
Theo tiểu sử anh sinh ra từ một gia đình theo đạo Công Giáo, anh theo
học một trường tư thục Công giáo dạy bằng tiếng Pháp, anh được cha mẹ
mướn người dạy kèm học tại tư gia, nhưng năm 1963, anh ra Nha Trang quen
biết với nhà thơ Quách Tấn. Quách Tấn đưa anh đi thăm viếng chùa Hải
Đức, nơi đây anh tập thiền và quy y thọ giới Sa Di pháp danh Nguyên
Tánh với Thầy Trí Thủ, một vị cao tăng Phật Giáo.
Phạm Công Thiện không viết hồi ký nên không rõ anh có bằng Tú Tài II
hay không, nhưng giỏi sinh ngữ như anh việc thi thí sinh tự do, lấy
bằng Tú Tài toàn phần không phải là chuyện khó, rất nhiều học sinh học
trường Pháp, thi thí sinh tự do lấy bằng Tú Tài II Ban Sinh Ngữ Văn
Chương trường Việt thật dễ dàng. Học sinh trường Pháp thi môn Anh Văn,
Pháp Văn kỳ thi Tú Tài Việt được 18, 20 dễ dàng, các môn Triết Học, Sử
Địa chỉ cần học một lượt cũng được trung bình là kỳ thi qua trót
lọt.Triết Học lại là môn anh Thiện ưa thích lại quen viết bằng tiếng
Việt. Để có học bổng tại Viện Đại Học Yale, để đi du học Hoa Kỳ khoảng
đầu năm 1964, Phạm Công Thiện phải có bằng Tú Tài Toàn Phần hạng Ưu hay
Bình. Phạm Công Thiện xong B.A (Cử nhân)tại Yale, và chuyển sang
Columbia, nơi thầy Nhất Hạnh từng học, thì anh bỏ học ra đời.
Trong quyển Hố Thẳm Tư Tưởng, Lá Bối, Sài Gòn Xuất bản 1968, trong bức
thư cho Nhị Tay Ngàn, chương đầu Phạm Công Thiện viết :« Thời gian tao ở
Hoa Kỳ, tao đã bỏ học, vì tao thấy những trường đại học tao học, như
trường đại học Yale và Columbia, chỉ toàn là những nơi sản xuất những
thằng ngu xuẩn, ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu
xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao. Qua Pháp ta đã
sống nghèo đói thế nào, thì mày đã biết rõ rồi, những lúc tao nằm ngủ
tại những vỉa hè Paris, vào những đêm đông đói lạnh, những lúc đói khổ
như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn là ngồi nghe mấy thằng giáo
sư trường đại học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay
Hégel, và Heidegger hay Héraclite. »
« Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước
mặt tao cũng không thèm nghe nữa. Tao là học trò của tao, và chỉ có tao
là thầy của tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không muốn ai
làm thầy của tao. Còn các văn sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các
anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng,
sự lập đi lập lại vô ý thức hay có ý thức, trí thức 15 xu, ái quốc nhân
đạo 35 xu, triết lý tôn giáo 45 xu..
Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hégel hay Karl Marx. Không
cần phải đọc Khổng Tử, Lão Tử. Không cần phải đọc Upanisads và Bhagavad
Gita. Chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nội tại tiếng Việt
Nam là bổng nhiên nhìn thấy tất cả đạo lý, triết lý cao siêu nhất của
nhân loại đã nằm sâu trong ba tiếng Việt đơn sơ như : Con, Cái, Chay,
Cháy, Chày, Chảy, Chạy và còn bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà
chúng ta bỏ quên một cách ngu xuẩn.»
Phạm Công Thiện, sang Pháp, anh ghi danh ở Rennes, Bretagne, ở với người
anh đã sang Pháp trước nhưng rồi không thuận với anh, ông lên Paris
khoảng năm 1966. Lúc này tại Paris, Thầy Nhất Hạnh lập Hội Phật Tử
Việt Kiều Hải Ngoại, chi bộ Pháp do anh Võ Văn Ái làm Tổng Thư Ký, trụ
sở tại Maison Alfort, ngoại ô Paris. Phạm Công Thiện thân thiết với anh
Ái và cùng ở nơi này.
Năm 1966, Hòa Thượng Minh Châu đến Paris tìm người trợ giúp Viện Đại
Học Vạn Hạnh. Gặp Phạm Công Thiện, thầy thuyết phục anh làm lễ xuất
gia, thọ giới Tỳ Kheo cho anh, Đại Đức Thích Nguyên Tánh và đưa anh
về Viện Đại Học Vạn Hạnh.
Phạm Công Thiện phụ trách Khoa Khoa Học Nhân Văn ; Sáng lập tạp chí Tư Tưởng, và soạn chương trình cho Viện Đại Học Vạn Hạnh.
Niên khoá 1968-1969 ; Thanh Hoài học môn Triết Đông với Thầy Nguyên Tánh.
Năm 1970 Thanh Hoài lên đường đi du học tại Bruxelles. Cũng năm này Phạm
Công Thiện đi dự một Hội Nghị Phật Giáo cùng Hoà Thượng Minh Châu, anh
xin ở lại ghi tên làm luận án Tiến Sĩ . Tại Paris, Thanh Hoài gặp lại
Phạm Công Thiện tại nhà họa sĩ Vĩnh Ấn. Thanh Hoài quyết định bỏ
Bruxelles sang Pháp chung sống cùng Phạm Công Thiện. Cuộc sống phiêu lưu
đầy gian nan, sống với học bổng của anh trong 4 năm. Sau đó anh xin
được một việc làm văn phòng Đại học Toulousse. Nhân có một chân phụ
giảng trống anh làm đơn xin việc. Phạm Công Thiện được giáo sư hướng dẫn
giới thiệu ‘ Sinh viên ưu tú xuất sắc hạng nhất, bốn năm cao học đã
hoàn tất ‘ (tr 252). Điều này chứng tỏ Phạm Công Thiện đã xong văn bằng
tốt nghiệp Ecole Pratique des Hautes Etudes (tương đương với Master)
tại Sorbonne, và học xong một năm D. E. A. Diplôme Etudes Approfondies,
(theo tổ chức đại học Pháp lúc đó, ngày nay đã đổi thành Master I,
Master II và bỏ văn bằng Tiến sĩ Đệ Tam cấp và Tiến sĩ Quốc Gia, chỉ
còn một văn bằng Tiến sĩ duy nhất). Anh làm việc này giao kèo gia hạn
mỗi năm, chức vụ cuối cùng là Giảng sư (Maître de Conférence) tại Đại
Học Toulousse II... Công việc tạm ổn định, chị Thanh Hoài sinh năm con,
bốn cháu trai và một cô gái út, quần quật với bầy con : đưa rước đi học,
ăn uống tắm rửa, bếp núp, chị còn làm việc ráp linh kiện cho hãng máy
bay Airbus, nhưng Phạm Công Thiện lại rơi vào vòng nghiện rượu, sống
cuộc sống đầy bè bạn quên mất chuyện gia đình.
« Và nơi ngôi biệt thự xinh xắn đó, nơi mà đáng lý ra chỉ có hương hoa
và sắc màu của một vị ngọt là hạnh phúc, thì trớ trêu thay, nơi đây
suốt bảy năm trời chỉ mang một vị đắng. Vị đắng của khổ đau. Vị chua
chát của rượu… Chàng đã thỏa hiệp với con ma rượu.
« Anh không thấy gì hứng thú vì cứ phải lải nhải triết lý để kiếm tiền
nuôi vợ con ». « Anh chỉ là chiếc bóng đằng sau bầy con. Điều này cũng
làm anh đau khổ.. Lải nhải triết lý xong thì anh chỉ còn biết lè nhè . »
« Thì giờ của em dành cho con quá nhiều và em đã bỏ rơi anh.. Hay là em.. tránh né anh.. ? »
Tránh né anh vì em ghê sợ mùi rượu. Vậy anh hãy ngừng uống rượu..
Đúng là lẫn quẩn không lối thoát !
Bảy năm trời trôi qua trong cái vòng lẩn quẩn không lối thoát đó, nơi
cái biệt thự màu hồng đó. Nàng thì vẫn cứ xoay mòng với bầy con năm đứa.
Chàng thì cố gắng làm tròn công việc dạy học, cho dù nỗi chán chường
mỗi ngày một chồng chất, nhưng bọn sinh viên vẫn ào ào tới càng ngày
càng đông hơn, giới trí thức trong tỉnh lần lần nghe tiếng và bạn bè lũ
lượt kéo đến càng nhiều hơn. Những buổi trà dư tửu hậu lại tiếp nối
nhau. Khói thuốc vẫn mịt mù lan toả. Mùi rượu vẫn nồng nặc xông lên..
Cho đến cái ngày mà giọt nước đã tràn đầy ly thì cái vòng lẩn quẩn đó tự động ngừng quay. »
Một ngày Thanh Hoài bị suyển nặng, ho vì dị ứng phấn hoa, nhờ anh đi mua
thuốc. Anh ra đường gặp bạn bè rủ đi ăn nhậu, quên mất chuyện thuốc
cứu cấp cho vợ, sáng hôm sau mới về mang một hộp trứng, hỏi thuốc, anh
quên mất.
« Sáng hôm ấy, vì quá mệt, Nàng đưa toa của bác sĩ nhờ Chàng ghé tiệm
thuốc mua giùm Nàng. Mười lăm phút, hai mươi phút, ba mươi phút trôi
qua, Nàng ngong ngóng Chàng về đưa thuốc cho đỡ nghẹt thở. Rồi một giờ,
hai giờ, ba giờ trôi qua.. vẫn không thấy bóng Chàng. Nửa ngày trôi qua.
Một đêm trôi qua. Nàng vẫn ngong ngóng. Nhưng vẫn không thấy bóng chàng
đâu. Một đêm đã trôi thật quá dài, quá dài tưởng như bất tận. Không ngủ
được vì ho, vì nghẹt thở. Nàng đã trải nghiệm cảm giác thế nào là kề
cận cái chết. Nàng không đủ sức để tức giận, vì nàng nghĩ nếu chết trong
sự tức tối, chỉ tự mình hại mình, sẽ không được đầu thai tốt, lại còn
rơi vào đọa xứ nữa không chừng ! Chi bằng cứ thản nhiên, chấp nhận số
phận và thanh thản niệm Phật. Đây là điều cần làm trong lúc này, chẳng
phải là sự tức giận !
Nàng nhắm mắt chờ thần chết rước đi. Nhưng không, không được ! Nàng sực
tỉnh ! Mà kia mình đã quên mất bầy con, mình chết thì chúng sẽ ra sao
đây ? Mình có thể bỏ chúng để ‘ tiêu diêu ‘ nơi phương trời nào đó được
chăng ? Từ bỏ cái thân thể bệnh hoạn khổ sở thì mình cũng hết nợ với thế
gian này, nhẹ nhàng thanh thản cho mình, nhưng không thể chỉ nghĩ đến
mình mà quên bầy con. Không được rồi, không đúng rồi.. Không mình phải
sống, phải ngồi dậy, đứng thẳng và không còn nghẹt thở. Mình phải tự bảo
vệ mình, không thể buông xuôi ! Mình nhớ đã từng được dạy dỗ ‘ thân
người khó được ‘, phải bảo vệ nó cơ mà ! Không sát sanh, không hại vật,
nhưng khi nguy cơ đến thì cũng phải biết tự bảo vệ để không mất mạng chứ
! Có thể nào chết dễ dàng như vậy được ? Không, ta phải sống !
Khi trời vừa tờ mờ sáng thì Nàng nghe tiếng cửa mở. Chỉ cần thấy dáng bộ
xiêu vẹo, ngả nghiêng của Chàng là nàng thừa hiểu tất cả. Trông Chàng
còn thê thảm hơn cả Nàng nữa ! Thôi thì chẳng còn gì để hỏi, để nói, để
trách nữa. Chắc chắn là không có thuốc cho Nàng rồi.
Dù gì thì Nàng cũng đã quyết định rằng Nàng phải sống, Nàng phải thở, Nàng phải đứng thẳng dậy và đi tiếp.
Nhưng đoạn đường đi tiếp của Nàng chắc chắn là sẽ không đi cùng Chàng.
Không vì tức giận hay oán trách, mà chỉ vì không còn giải pháp nào khác
hơn.
Thế là Nàng lặng lẽ sắp đặt cuộc ra đi của Nàng. Rồi đến ngày hôm đó,
không báo trước, không nói năng. Nàng âm thầm dắt bầy con ra khỏi ngôi
biệt thự màu hồng . »
Thanh Hoài quyết định chia tay cùng anh, chị thu xếp cùng năm con ra đi.
Phạm Công Thiện cũng mất việc đại học vì khế ước không được gia hạn và
ghế giảng sư cũng không còn, anh được Hoà Thượng Mãn Giác mời sang dạy
tại Viện Quốc Tế Phật Giáo, tai Los Angeles. Anh lại trở về cư ngụ tại
chùa, tại nhà bạn bè.
Tại xã hội Pháp nuôi nấng năm con không phải là điều dễ dàng, thường mỗi
gia đình chỉ dám có 2,3 con. Thanh Hoài vừa làm mẹ, vừa làm cha, khi
dạy đàn dương cầm, khi làm quản gia và các công việc khác, nuôi năm con
cho đến khi trưởng thành, thành người : Cậu trai đầu , tốt nghiệp École
Normal Supérieur rue d’Ulm, Tiến sĩ Vật lý , giảng dạy Vật Lý Viện Đại
Học Paris Orsay. Cậu thứ hai Tốt nghiệp Cao Đẳng Thương Mại tại
Bordeaux, Giám Đốc Thương Mại, cậu thứ ba Tốt nghiệp trường Mỹ Thuật
tại San José Hoa Kỳ, Họa sĩ, cậu thứ tư giống bố ở chỗ thích Triết Học
và cô gái út Bác sĩ Nhi Khoa. Chị có đầy đàn cháu nội, cháu ngoại.
Phạm Công Thiện qua đời năm 2011 tại Houston, các con đều sang dự đám tang cha.
« Nhờ âm nhạc, qua âm nhạc, bà luôn luôn đi sát cạnh cuộc đời, ở trong
cuộc đời, thăng hoa cuộc đời, biến những nỗi buồn thành niềm vui, những
chán chường thành lạc quan yêu đời, cô đơn thành cảm thông chia sẽ. »
Đứa cháu ngoại đã hỏi chị :
-« Bà ơi ! Bà có giận ông ngoại không ?
- Bà chẳng hề giận !
- Thực ra, con cũng thấy thương ông ngoại làm sao ấy..
Cháu bà giỏi lắm, các cậu và mẹ con cũng thế, luôn yêu thương ông ngoại, không hề ghét bỏ hay trách móc.
- Mỗi lần gặp lại ông, con chỉ muốn ôm ông hôn và không cần phải nói
nhiều.. Con biết ông không hề có ý làm khổ bà, vì chính ông là người khổ
trước tiên nếu phải làm khổ ai…. Ông ngoại vẫn luôn bảo tụi con phải
yêu thương bà hết mực, vì nhờ bà mà mẹ con, các cậu con nên người. Có
điều.. ông vẫn nghĩ là bà còn giận ông !
- Con có nghĩ như vậy khi bà kể chuyện cho con ?
- Không, Con nghĩ bà vẫn còn yêu ông ngoại !
- Thực ư.. Chính bà cũng không biết ! »
Khép lại trang sách tôi ngẫm nghĩ. Tiếc là sách bằng tiếng Việt, nếu
viết bằng tiếng Pháp, các cháu nội, cháu ngoại chị Thanh Hoài đọc được
sẽ nghĩ rằng : ông bà mình thiếu thông tin cho nhau. Nếu ông đi đâu,
điện thoại cho bà một tiếng, hay nếu có điện thoại di động, bà gọi ông
nhắn ông đem thuốc về gấp thì sẽ không có chuyện gì xảy ra. Tiếc thay
oan Quan Âm Thị Kính nằm ở chổ, thời ấy chưa có dao cạo râu : Thị Kính
phải vác con dao phay to tướng cắt râu cho chồng. Bà giận ông : vì thời
ấy chưa có điện thoại di động. Nếu không bà sẽ điều khiển từ xa, ông
chồng triết gia lãng trí hay quên của mình.
Các cháu Việt Nam sinh ra tại Pháp xem xong vở tuồng Quan Âm Thị Kính
thường tức tối và hỏi : Où est sa bouche ?. Cái miệng bà Thị Kính ở đâu ?
Sao bà không nói ? Sao ông không nói ? Tiếc thay khi ông bà giận nhau
các cháu chưa ra đời !
Khép lại đọc trang cuối bìa tập sách là lời Phạm Công Thiện viết khi gặp
nhau lần cuối : « Ở nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và
tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những âm thanh của
dịu dàng đầm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều Không Thể
mà vẫn Có Thể. Hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể. »
Khép lại trang sách chuyện kể một cuộc tình, hai cuộc đời không trọn vẹn
cùng nhau đến cuối đời. Nhưng lời kể chuyện trong trẻo, thanh thoát
khiến cho chúng ta vẫn còn nghe vang lên một dư âm tiếng đàn dương cầm
chị Thanh Hoài.
Xin giới thiệu tiểu thuyết “Chuyện một người đàn bà.. năm con » của Lê
Khắc Thanh Hoài do nhà xuất bản Thời Đại xuất bản tại Hà Nội và Sài Gòn
cùng đọc giả trong và ngoài nước. Qua câu chuyện một kinh nghiệm sống
cuộc đời, chị đã vẽ ra một khung cảnh người Việt trên đất Pháp, nó cần
thiết cho các bạn trẻ, cho phụ huynh khi con em lên đường du học. Truyện
còn giúp ta hiểu hơn về Phạm Công Thiện một nhà thơ, một triết gia một
thời danh tiếng tại miền Nam Việt Nam.
Ký giả Vũ Uyên Giang, hiện cư ngụ tại thành phố Oakland, thuộc miền bắc
California cho biết, khoảng thượng tuần tháng 6 tới đây, ông sẽ cho ấn
hành tác phẩm thứ ba nhan đề “100 Khuôn mặt văn nghệ sĩ.”
Như tên gọi, tác phẩm “100 Khuôn mặt văn nghệ sĩ” sẽ gồm 100 chân dung
những nhân vật văn nghệ nổi tiếng trước cũng như sau 1975 tại Việt Nam
cũng như ở quê người. Những chân dung này do Vũ Uyên Giang khởi công ký
họa từ nhiều năm qua. Bên cạnh mỗi chân dung tác giả qua nét vẽ của Vũ
Uyên Giang, còn có một bài viết ngắn về nhân vật đó. Bài viết ấy sẽ do
nhà báo kỳ cựu Hồ Nam (còn ở Việt Nam,) hoặc Vũ Uyên Giang viết. Vì thế,
nhà báo, nhà văn Vũ Uyên Giang nhấn mạnh, ông nhìn tác phẩm “100 Khuôn
mặt văn nghệ sĩ” như là một công trình chung của Vũ Uyên Giang và Hồ
Nam.
Vẫn theo tác giả của tác phẩm “100 khuôn mặt văn nghệ sĩ” thì:“Cá nhân
tôi đã hoàn tất phần ký họa trên 100 chân dung văn nghệ sĩ miền nam Việt
Nam. Để tránh cho cuốn sách in ra qua dầy, cuốn đầu chúng tôi chọn ra
100 tác giả và, cuốn thứ hai hy vọng, cũng sẽ với một số lượng tương tự
gọi là “100 Khuôn mặt văn nghệ sĩ” tập 2.”
Trả lời câu hỏi, tại sao không vẽ lại chân dung văn nghệ sĩ bằng chủ
viết mà lại dùng nét vẽ ? Vũ Uyên Giang nói: “Mục đích của tôi là muốn
phác họa bằng nét vẽ của riêng tôi, những khuôn mặt văn nghệ ở thời của
chúng tôi, để giữ lại cho đời sau những hình ảnh của các nhân vật ấy.
Tôi không dùng văn chương vì việc làm ấy đã có nhiều người thực hiện...”
Trả lời câu hỏi ở tác phẩm “100 Khuôn mặt văn nghệ sĩ” tập 1 sẽ gồm
những ai ? Ký giả, nhà văn Vũ Uyên Giang cho biết: “Trong sách, chúng
tôi sẽ sắp xếp theo alphabê – và lấy chữ đầu tiên làm tiêu chuẩn. Do đó,
độc giả sẽ tuần tự gặp lại những tác giả mà họ từng yêu mến (gồm cả
những người đã khuất,) như An Sơn, Bình Nguyên Lộc, Bùi Giáng, Cao Mỵ
Nhân, Chu Tấn, Chu Vương Miện, Cung Trầm Tưởng, Diên Nghị, Doãn Quốc Sỹ,
Du Tử Lê, Duy Lam, Duyên Anh, Dương Hùng Cường, Dương Kiền, Dương
Nghiễm Mậu, cùng nhiều tên tuổi khác nữa.
Được biết ký giả, nhà văn Vũ Uyên Giang tên thật là Nguyễn Quang Vinh.
Ông sinh năm 1943 tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1965 tới năm 1975, ông
là ký giả của các báo như nhật báo Miền Nam, nhật báo Hòa Bình. Là cựu
sĩ quan của QLVN cũ, sau thời gian bị tù cải tạo, ông cùng gia đình được
định cư tại Hoa Kỳ, trong chương trình H.O. năm 1981.
Những năm tháng ở quê người, ký giả Vũ Uyên Giang từng là chủ nhiệm
nguyệt san Thời Việt ở Chicago, Illinois; rồi chủ nhiệm nguyệt san Đất
Sống ở Charlotte, North Carolina... Trước khi di chuyển về miền bắc tiểu
bang California, nhà văn Vũ Uyên Giang cũng có thời gian ở Orlando,
Florida.
Năm 1970, tại Saigòn, nhà văn Vũ Uyên Giang đã xuất bản tập truyện
“Đi trên nỗi buồn,” và năm 1999, ở Hoa Kỳ, ông cho ra đời tập truyện thứ hai, nhan đề “Trên đường biên giới”.
Giới Thiệu Sách "100 KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ SĨ " - Hồ Công Tâm -
Nhà
xuất bản Đất Sống [14391 Washington Ave., San Leandro, CA 94578] vừa
cho phát hành cuốn sách 100 KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ SĨ (tập I, 500 trang) của
Hồ Nam và Vũ Uyên Giang. Cả hai tác giả, là những nhà văn kiêm ký giả hành nghề lâu năm tại Sài
Gòn trước năm 1975, nay thì một ở trong nước và một ở hải ngoại, đã hợp
tác chặt chẽ với nhau để hoàn thành bộ sách tài liệu văn học hiếm quý
được thu thập và phê phán dưới quan điểm chính trị, văn học, nghệ thuật
của người Việt Quốc Gia chân chính và tuy có phần chủ quan nhưng tương
đối ngay thẳng và dựa trên những sự thật.
Tác giả chẳng những là người cầm bút có
tấm lòng thiết tha với nền văn học nghệ thuật của người Việt Quốc Gia mà
còn, vừa có kiến thức sâu rộng và vừa quảng giao mới có thể thu thập
được những dữ kiện rải rác trong khoảng không gian và thời gian dài và
rộng, vốn không dễ thu thập trong hoàn cảnh đặc biệt hiện nay.
Những khuôn mặt văn nghệ sĩ được đề cặp
trong sách được sắp xếp theo thứ tự A,B,C… không phân biệt nam nữ, già
trẻ hoặc khuynh hướng. Đặc biệt kèm theo mỗi khuôn mặt văn nghệ sĩ là
một phác họa chân dung do chính nhà văn Vũ Uyên Giang (có biệt tài vẽ
chân dung) thực hiện.
Rải rác qua những trang sách, người đọc
sẽ gặp những tài liệu sống, linh hoạt, thú vị mà không phải ai trong
giới cầm bút cũng biết. Những giai thoại văn học, văn nghệ được ghi
nhận trung thực và can đảm, đôi khi “bốp chát” không ngại mất lòng những
khuôn mặt lớn làm cho người đọc thích thú như được chia sẻ những phát
giác thâm cung bí sử trong giới văn nghệ sĩ.
Xin hai tác giả Hồ
Nam và Vũ Uyên Giang cho phép tôi được trích ra đây một vài trong hàng
ngàn chi tiết rất thú vị rài rác trong bộ sách. … 8. Chu Vương Miện:
“…
Chu Vương Miện là người hay “làm phiền” bạn bè khi cứ photocopy gửi
hàng chục, hàng vài chục bài thơ đăng trên các báo chợ ở hải ngoại đến
bạn bè, xong “bắt” bạn bè đọc và so sánh xem thơ của Chu với Du Tử Lê
ra sao, so với Hà Thúc Sinh ra sao; thơ của ai hay hơn, v.v…”
Chẳng hạn như bài sau đây được của Chu đã được đăng trên báo Hồn Việt ở quận Cam:
Cuối năm em gửi cho cái card Noel chúc phát lộc/ tài phát khùng Xin đa tạ cô vợ 5 kiếp nữa Chuyện kỳ đà - cắc ké - kỳ nhông Tháng 6 mẹ tôi lăn ra chết … (Chu Vương Miện)
“Tôi chẳng hiểu thơ như vậy nó hay ở
chỗ nào? Nhưng anh vẫn miệt mài gửi đến ngoài những bản photocopies trên
báo chợ, báo chùa; anh còn gửi cả bằng e-mail cho đầy hộp thư của tôi.
Tôi không hiểu sao lại có báo can đảm đăng những bài thơ như trên ở báo
họ được; thật coi thường độc giả quá đáng.” [100 KMVNS trang 40, 41]
12. Du Tử Lê, nhà thơ đa tình:
“Du
Tử Lê thường tự khoe là nhà thơ tình nổi tiếng của thế giới tự do, lâu
lâu được một trường đại học ở Mỹ mời tới nói chuyện về thơ (nhưng nhiều
người lại nói là DTL tự in flyers nói về việc “mình được trường Đại học
Mỹ mời nói chuyện” trong khi thật ra là do Hội Sinh Viên VN ở trường đó
tổ chức cho Du Tử Lê Ra Mắt Sách hoặc ngâm thơ và mượn Hội Trường của
Trường Đại học để tổ chức). Người ta tưởng Du Tử Lê yên phận với vòng
nguyệt quế đang đội trên đầu, không ngờ Du Tử Lê lại thậm thụt về thành
phố Sài Gòn giao du với đám “văn nô” Việt Cộng rồi in thơ tình ở đây.” “Du Tử Lê là người no người chán nết
thích của lạ, đang ngoài vòng cương tỏa cứ tưởng rằng in thơ tình ở Việt
Nam là ngon lành lắm, có biết đâu bạn đọc ở Việt Nam đã từ lâu coi sách
vở in ở Việt Nam như giấy vệ sinh, chẳng ai thèm ngó ngàng tới cả.” … “Nhà thơ Hồ Công Tâm ở Austin đã có thơ rằng:
Du Tử Lê và vụ xì-căng-đan về nước in Thơ
Bố mẹ đặt tên con Cự Phách Mà con lươn lẹo, con luồn lách! Hổ ngươi tên tuổi giới làm thơ Chẳng xứng danh tao nhân mạc khách! Di tản trở cờ nhục nhã thay Văn nhân thậm thụt về in sách Đôi co ?! - Sự thể đã rành rành Đốn mạt như vầy thà chết quách! (Hồ Công Tâm)
Du Tử Táo (1)
Rõ là phường phản trắc lưu manh! Xanh vỏ đỏ lòng chớ chối quanh! Thậm thụt lòn trôn cầu lợi nhuận Lom khom liếm gót kiếm hư danh Dạn dày quen thuộc trò Ưng Khuyển Tráo trở lạ gì thói Sở Khanh! Du Tử Táo hề Du Tử Táo! Nhân gian ai hiểu ??? Hề cho đành! (Hồ Công Tử)
(1) (Ghi chú của nhà xuất bản: Du Tử Táo là cá tên do Thế Phong, người viết tựa Tập Thơ đầu tay của Du Tử Lê đặt cho DTL).” [100 KMVNS trang 52, 53, và 54]
18. Đặng Tiến với giấc mộng làm Thánh Thán:
…
“Là nhà văn có tác phẩm trong tay được in ấn đàng hoàng. Đặng Tiến mon
men về Hà Nội kiếm chút danh chút lợi. Xuất thân từ nghề ngoại giao,
Đặng Tiến rất giỏi vào luồn ra cúi, bắt tay được khá nhiều quan chức
trong giới văn nô ở Hà Nội tưởng rằng làm như thế sẽ trở thành nhà văn
cầm cạc ở Hà Nội một ngày nào đó; nhưng không ngờ bọn xỏ lá này đi ăn đi
chơi thì đi, còn đăng bài thì dè dặt lắm, chỉ đăng những bài vô thưởng
vô phạt và chỉ cho ký bút hiệu tắt ĐT mà thôi. Hơn 30 năm bon chen làm lý luận văn
học, làm phê bình văn học, ngược xuôi khá vất vả, sự nghiệp của Đặng
Tiến không hơn một cuốn sách bàn chuyện văn chương chữ nghĩa bị đời chê
là lẩm cẩm. Đặng Tiến quay ra viết chân dung văn học.
Với lối văn khệnh khạng kiểu ta đây,
kiểu bố thằng kẻ trộm, Đặng Tiến viết về thiên hạ thì ít, viết về mình
nhiều hơn, thôi thì đủ thứ sách vở được đưa ra triển lãm trong bài viết
khiến người đọc hoa cả mắt.” “Ghi chú của nhà xuất bản: Đặng Tiến
còn có bút hiệu Nam Chi. Sinh ngày 30.3.1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam, du
học tại Pháp từ năm 1966. Hiện định cư tại Pháp. Tác phẩm đã xuất bản:
Vũ Trụ Thơ (Giao Điểm, 1972).” [100 KMVNS trang 91 và 92]
22. Hà Thượng Nhân, nhà thơ trào phúng bất đắc dĩ:
“Hà
Thượng Nhan họ tên trong căn cước là Phạm Xuân Ninh, nhưng tên cha mẹ
đẻ lại là Nguyễn Sĩ Trinh. Cái tên Hà Thượng Nhân ra đời khi chủ nhân
của nó mang cấp hàm Thiếu tá đồng hóa Quân Đội Quốc Gia và đảng viên
đảng Cần Lao Nhân Vị của lãnh tụ Ngô Đình Nhu cùng Phạm Việt Tuyền và Lê
Văn Tiến với sự yểm trợ của bác sĩ mật vụ Trần Kim Tuyến “cướp” tờ báo
Tự Do của đám Tam Lang, Đinh Hùng, Mặc Thu, Mặc Đỗ nên Phạm Xuân Ninh
đã sáng tác ra bút hiệu Hà Thượng Nhân để phụ trách mục thơ trào phúng
Đàn Ngang Cung thay Thần Đăng bút hiệu của nhà thơ Đinh Hùng. Theo những
người thân của Phạm Xuân Ninh thì ông vốn là cán bộ Việt Minh ở Thanh
Hóa, từng cùng nhà thơ Hữu Loan đi cướp chính quyền ở Thanh Hóa năm
1945, do đó khi dinh tê về Hà Nội ở nhờ nhà ông Đốc học Phạm Xuân Độ đã
xin làm con nuôi ông Đốc học Phạm Xuân Độ, rồi đổi tên là Phạm Xuân Ninh
và năm 1954 nhờ là em cột chèo với luật sư Lê Ngọc Chấn nên khi luật sư
Chấn làm Bộ trưởng Phụ tá Quốc Phòng trong chính phủ Ngô Đình Diệm, ông
này đã nhân danh Bộ trưởng phụ tá Bộ Quốc Phòng ký Nghị định đồng hóa
Phạn Xuân Ninh làm Đại úy Quân Đội Quốc Gia.” [100 KMVNS trang 116, 117]
24. Hải Bằng nhà báo không chấp nhận nói dối:
… “Vợ chồng Hải Bằng dù bận trăm công ngàn việc đã bỏ hết, giúp đỡ Nguyễn Ngọc Hạnh hoàn thành bức ảnh “Vá Cờ”. “Chụp
xong bức ảnh “Vá Cờ”, Nguyễn Ngọc Hạnh được giải thưởng Văn Học Nghệ
Thuật Quốc Khánh (dỏm) của Mặt Trận Phở Bò. Sau đó một thời gian, bỗng
nhiên người ta thấy Mặt Trận Phở Bò tung ảnh “Vá Cờ” ra bán với mục
đích quyên tiền nói là để giải phóng và cứu quốc hay dể làm gì đó vợ
chồng Hải Bằng không hề quan tâm; nhưng Nguyễn Ngọc Hạnh và Mặt Trận Phở
Bò lại dựng lên một câu chuyện thương tâm (bài này do chính Hoàng Cơ
Định viết) nói là nhân vật ngồi vá cờ trong hình là quả phụ tử sĩ và bức
ảnh vá cờ Nguyễn Ngọc Hạnh chụp ở Huế sau Tết Mậu Thân. Nay Mặt Trận in
hình Vá Cờ bán lấy tiền giúp cho người quả phụ tử sĩ còn cơ cực ở Việt
Nam. Thấy chuyện gian dối và láo toét đến như vậy nên vợ chồng Hải Bằng
không thể chấp nhận được đã phải lên tiếng nói rõ người trong hình là
nhà báo vợ Hải Bằng chứ chưa bao giờ là “quả phụ tử sĩ” cả và hình chụp
tại nhà Hải Bằng ở Mỹ chứ không hề chụp ở Huế bao giờ. Mấy ông Mặt
Trận Phở Bò hung hăng con bọ xít hăm dọa vợ chồng Hải Bằng đòi phải im
tiếng. Bọn chúng lau nhau lên diễn đàn Liên Mạng như bầy chó cạy đông
cắn hùa, còn chụp mũ cho Hải Bằng là VC.” [100 KMVNS trang 121] 25. Hoài Điệp Tử, nhà văn, nhà báo chết cho Tự Do Ngôn Luận.
…
“Hoài Điệp Tử là nhà báo thứ ba nằm trong nghi vấn bị bọn Mặt Trận Phở
Bò tàn sát. Người thứ nhất là nhà báo Đạm Phong. Người thứ hai là nhà
báo Lê Triết. Và người thứ ba là Hoài Điệp Tử. Nhưng giết tới
người thứ ba là Mặt Trận Phở Bò mạt luôn, bằng chứng là người cầm đầu tổ
chức mafia này cũng đã phơi xác và tổ chức bịp cũng bị phơi bày trước
ánh sáng công luận và nhóm người này cũng bị chia thành năm bè bảy phái
và xóa tên, cải danh, cải tánh để biển lận nuốt trọn số tiền máu và nước
mắt của đồng bào hải ngoại nặng lòng với việc đấu tranh giải thể chế độ
cộng sản ở quê nhà đóng góp.” [trang 126, 127]
57. Nguyễn Ngọc Ngạn, nhà văn bán miệng… nuôi trôn! …
“Một ông nhà văn nọ đã chuyển nghề làm người giới thiệu chương trình ca
nhạc. Một hôm gặp một ông nhà văn bạn đang mở một nhà hàng để sinh sống
tại một thành phố nhỏ. Ông nhà văn MC hỏi: - Ủa! Sao ông lại đổi nghề đi bán phở là thế nào? Ông nhà văn kia trả lời: - hì cũng như anh đổi sang nghề “bán miệng nuôi trôn” đấy thay! Ông MC mặt đỏ như gấc, bèn tìm cách chuồn cho nhanh. [trang 263]
62. Nguyễn Tuân, nhà văn không vượt được cái bóng “Vang Bóng Một Thời”.
…
“… Nguyễn Tuân.. khóc và nói với Vũ Bằng: “Cái ngu nhất trên đời Nguyễn
Tuân là nhắm mắt làm văn nô cho cộng sản, vừa sống cực hơn chó, vừa
nhục nhã trăm điều. Làm đầy tớ bọn ngu thật chẳng ra làm sao cả.” …
“Nguyễn Tuân… nói với Tam Lang rằng: “Thằng thực dân Pháp nó còn cho
anh viết Tôi Kéo Xe, còn cho tôi viết Vang Bóng Một Thời, chứ bọn cộng
sản thì đừng có hòng, anh may mắn hơn đàn em được sống thoải mái 20 năm
có chết cũng nhắm mắt được; chứ Tuân chết ân hận lắm, không làm sao nhắm
mắt được. Ân hận vì lỡ một thời làm “văn chương tôi đòi” mà bọn chủ thì
lại chẳng ra chủ, chỉ là một lũ chó má phàm phu tục tử, vừa ngu vừa
dốt, vừa khùng. Tuân đau lắm anh ơi!” [trang 278]
[Nhân đây
cũng xin mở một dấu ngoặc để được phát biểu thêm rằng không biết đến
ngày nào, ở hải ngoại này, bọn văn nô, thi nô, bồi bút chó má, trí thức
mơ ngủ chạy theo đám băng đảng mafia Phở Bò Việt Tân mới tỉnh ngộ, phục
hồi nhân phẩm, biết tìm về đường ngay nẻo thẳng cho bớt cái nỗi nhục nhã
phải làm tay sai cho bọn tay sai Cộng Sản nằm vùng hoạt động phá hoạt ở
hải ngoại hôm nay (Ghi Chú của Hồ Công Tâm)]
64. Thích Nhất Hạnh: Nhà sư “tiếp cận” nữ giới!
…
“Có người lên án Nhất Hạnh là nhà sư phá giới khi chủ trương nam nữ tu
sĩ Phật giáo quan hệ thoải mái, có gia đình thoải mái, sinh hoạt tình
dục thoải mái vợ chồng con cái đề huề. ..” … “Người ta gọi nhà sư
Nhất Hạnh là một hiện tượng tu hành giống như hiện tượng tu hành của Vô
Thượng sư Thanh Hải, một người nữ ngạo mạn tu hành kiểu làm dáng có
nhiều đời chồng, chỉ lấy Phật giáo làm phương tiện kinh doanh làm giàu
cho cá nhân. Vô Thượng sư Thanh Hải đã khiến cho đạo Phật chịu nhiều
tiếng xấu. Nhất Hạnh cũng làm cho Phật giáo mang tiếng xấu không ít.” … “Nhà thơ Thảo Đường Cư Sĩ ở Charlotte, North Carolina có mấy vần thơ “khen” Nhất Hạnh như sau:
Thiền Sư Nhất Hạnh
Tu chi nhất hạnh vẫn chưa xong Phá giới ni cô lại lấy chồng Lập khối tân tăng thầy có vợ Trầm luân sắc dục há chân không
Thiền sư nhất chỉ thấu chân không Oan nghiệt sanh con để nối giòng Quả báo muôn đời trong địa ngục Mê đồ đệ tử có Tây Đông (Thảo Đường Cư Sĩ) [trang 287, 288]
66. Nhật Tiến, nhà văn đánh đu với quỷ dữ:
…
“Thế rồi cộng sản Việt Nam đổi mới cộng sản Việt Nam tuyên bố cởi trói
cho văn nghệ sĩ. Nhật Tuấn, em ruột Nhật Tiến được Dảng yêu cầu làm
tuyên vận chiêu dụ Nhật Tiến về nước. Và, Nhật Tiến đã nghe lời em về
nước tham gia phong trào văn nghệ “hòa hợp hòa giải dân tộc”, khi trở về
Mỹ cổ vũ cho đường lối văn nghệ quên quá khứ, hướng về tương lai không
đả động gì tới chế độ cộng sản phi nhân chống lại con người, chống lại
dân tộc, chống lại đất nước ở Hà Nội nữa, chỉ viết những chuyện vô
thưởng vô phạt.” [trang 298]
68. Phạm Duy, chàng nhạc sĩ đầy tai tiếng:
…
“Dù bị dư luận lên án đủ điều, Phạm Duy vẫn cứ sống, cứ làm việc. thiên
hạ nói rằng Phạm Duy là con ngoại hôn của bà Phạm Duy Tốn [vì lúc bà
Tốn có thai Phạm Duy, ông Tốn bị tai biến mạch máu não bán thân bất
toại, bà tốn ngoại tình với bạn của chồng là nhà giáo Trần Trọng Kim,
mang thai Phạm Duy] loại con ngoại hôn thú thường bất trị, …”. … “Phạm Duy về mua nhà ở Sài Gòn tổ
chức đêm nhạc Ngày Trở Về. Thiên hạ ồn ào lên án Phạm Duy là người không
có liêm sỉ, nhổ rồi lại liếm. Phạm Duy bỏ ngoài tai mọi sự đàm tiếu của
thiên hạ, vẫn nhơn nhơn sống!” “Nhà thơ Hà Huyền Chi, trong một bài
phỏng vấn của Đài Phát Thanh Quê Hương Arizona, khi được hỏi nếu chỉ
cần tóm gọn trong 5 chữ để mô tả nhạc sĩ Phạm Duy, nhà thơ đã cho là
Phạm Duy: Kẻ có tài, vô hạnh! Nhà thơ Hồ Công Tâm đã có thơ “khen” tài nhổ rồi lại liếm của Phạm Duy như sau:
Phạm Duy Hồi Hương
Tráo trở thiên tài mắt chửa đui Nhổ ra liếm lại sạch như chùi Lập trường chính trị xem đồ bỏ Danh vọng tiền tài ngỡ trở lui Di tản (!) tưởng xa bày quỷ đỏ Hồi hương (!) phỏng được mấy ngày vui! Thân già muối mặt van xin đảng Liêm sỉ buông trôi thật ngậm ngùi! (Hồ Công Tâm, trích Thi Tập Một Thời Lưu Vong) [trang 305, 306]
71. Đức Phổ, nhà thơ làm thầy Số Tử Vi:
…
“Làm thơ chẳng ra làm sao nhưng Phổ Đức đi đâu cũng khệnh khạng ta đây
là người làm thơ cùng thời với Đinh Hùng khiến có một lần Hoàng Hương
Trang đã nổi cơn tam bành chửi cho một trận tắt bếp: nào thi sĩ gì loại
bám váy vợ, đầu lúc nào cũng bóng lộn như váy lĩnh Mỹ A vậy! Cùng thời
với Đinh Hùng hay điếu đóm Đinh Hùng phải nói cho rõ!” [trang 326]
79. Thế Phong, nhà nghiên cứu văn học viết không chính xác.
…
“Chuyện Thế Phong mang tiếng nhất ở đời này là viết bài ca ngợi nhà thơ
Tố Hữu là nhà thơ dân tộc và là nhà thơ lớn của dân tộc Việt.”
“… một kẻ vong bản như Tố Hữu khóc Staline hơn khóc cha, bị mọi người
khinh khi, nguyền rủa mà xưng tụng là nhà thơ lớn của dân tộc thì chỉ có
một mình Thế Phong có cái can đảm ấy, cái can đảm nâng bi bợ đỡ không
thua gì các văn thi sĩ trong dòng văn chương tôi đòi, hạ đẳng của cộng
sản.” [trang 383]
91. Uyên Thao, nhà phê bình văn học bất túc.
… “Uyên
Thao trốn tránh vào lịch sử, viết những đề tài dã sử để mập mờ đánh lận
con đen hòng “đi đêm” với bọn Việt Cộng phi nhân và lén lút nhiều lần
về Sài Gòn, về Đà Lạt xin chút cháo”. “Con người ta sống ở đời
cứ nhắm mắt sống bừa, sống lấy được thế mà dám xông vào địa hạt văn học
nghệ thuật bằng những trò tiểu xảo như Uyên Thao thì sớm muộn cũng bị
lật tẩy thôi.
“Nhắc tới Uyên Thao, văn giới, báo
giới ở Sài Gòn trước năm 1975, ai cũng ngoảnh mặt quay đi nhổ nước bọt
vì ghê tởm chuyện Uyên Thao ghen ăn tức ở sao đó đã sai sát thủ đi bắn
chết tươi nhà thơ nhà báo Vân Sơn Phan Mỹ Trúc. Ai cũng gọi Uyên Thao là
quân giết người và tẩy chay không một người nào chịu bắt tay Uyên Thao
cả”. [trang 442, 443]
Tác
phẩm 100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ do Hồ Nam và Vũ Uyên Giang biên soạn, gồm
nhiều tập, mỗi tập đề cặp tới 100 tác giả nhà văn nhà thơ Việt Nam xuất
hiện sinh hoạt trong khoảng nửa thế kỷ qua (1954-2006] là một tập tài
liệu đồ sộ, rất cần thiết cho bất cứ ai muốn tìm hiểu bề sâu và bề rộng
của các sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt là Miền Nam Việt
Nam trước và sau năm 1975 cũng như ở Hải Ngoại ngày nay. Những
tài liệu sống, với đầy rẫy những dữ kiện sinh động nếu không có người bỏ
công phu sưu tập thì thực là một sự thiếu sót, thiệt thòi chẳng những
cho chúng ta hôm nay mà cho cả các thế hệ sau này muốn tìm hiểu và tiếp
tục sự nghiệp cầm bút của một thế hệ đàn anh đàn chị vậy.
Austin, February 11, 2007
Hồ Công Tâm
Mua
sách 100 Khuôn Mặt Văn Nghệ sĩ Xin liên lạc về : Nhà xb ĐẤT SỐNG . Ô.
VINH NGUYỄN- 14391 Washing ton Ave. - San LeanDro, CA94578. Tel: (510)
277-2518 eMail datsong2@yahoo.com / vuuyengiang@sbcglobal.net
Sau Chân dung Nhà
văn bằng thơ của Xuân Sách, một số người cũng tiếp nối ông viết chân dung Nhà
văn theo cảm nhận của riêng mình. Nhà thơ Nguyễn Khôi hiện cũng đi theo hướng
này. Xin giới thiệu Chân dung 99 Nhà văn của ông.
Lời tác giả Nguyễn Khôi:
Thân gửi các anh chị Bạn Thơ của Nguyễn Khôi,
Sau khi đọc và gửi "310 Chân dung các Nhà văn Việt đương đại"của
Nhà thơ Đỗ Hoàng sang Berlin
cho Nhà văn Lê Xuân Quang, anh Quang phúc đáp :
"...Tôi nghĩ rằng nếu anh viết/ vẽ Chân dung của các Nhà văn nối tiếp
Xuân Sách thì sẽ rất thú vị. Mần đi Ông bạn già ; Mần cú chót này sẽ
"đã" lắm. Mắt tôi kém không viết được nữa nhưng đọc thì vẫn nhúc nhắc.
Tôi chờ Ông đó, cố lên nhé ! Chúc Ông thành công. LXQ".
Nguyễn Khôi tôi như bị "kích"...nên trăn trở mãi rồi
hạ bút...theo mô-typ của Xuân Sách ? Nhưng khác ở chỗ : -Ở Xuân Sách: anh viết
/vẽ Chân dung bằng thơ tự do, thoáng, thoải mái, đã nói lên được những điều
khá bức xúc/ cấm kỵ...100 Nhà văn ấy đều là những người "tài" thành danh
cả rồi. -Còn ở Nguyễn Khôi: là mượn Nhân vật/ sự kiện gắn với tên tuổi Nhà văn/
nhà thơ từ người có Địa vị cao nhất nhì Nước (như Sóng Hồng, Lê Đức Thọ,
..), rồi 3 chủ soái Thơ thời chống Mỹ (Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật), tới
những dân thường như Bảo Sinh, Nguyễn Thanh Lâm, Văn Thùy… với nhiều giai tầng
xã hội khác nhau, nhằm viết/ vẽ lên 1 bức tranh thời đại với những thân phận
con người (đầy hãnh tiến hoặc bị vùi dập...) của 1 thời để nhớ...mà Nguyễn
Khôi được chứng kiến. Dựng chân dung bằng 4 câu thơ xúc tích theo kiểu chân
dung/ chân tướng Nhà văn (riêng Tố Hữu 4 câu đầu viết từ năm 1991, nay phải
thêm 4 câu mới thỏa đáng, Chế Lan Viên cũng vậy).
Xin lưu ý Các Bạn Thơ : đây là 99 Chân dung các Nhà văn mà Nguyễn
Khôi"mến mộ" (chứ không so "Tài văn thơ") ,
nhưng có sự theo dõi / chú ý dài dài , “cân nhắc” để "tạc" sao
cho đúng bản chất/ chân tướng Nhà văn, tạo nên bức tranh toàn cảnh Văn/
thi đàn Việt Nam thời Nguyễn Khôi đã và đang sống. Có Chân dung nóng hổi như Phạm
Lưu Vũ: anh này chỉ có chuyện "chị cả Bống" với hay "chém
gió" trên Fb về Đinh La Thăng, tính Thời sự nóng hổi nên Nguyễn Khôi
"tạc" để nhớ cái thời "đả hổ/ diệt ruồi" hôm nay có nhiều
điều thú vị.
Đôi điều gan ruột/ bếp núc... xin được chia sẻ để các Bạn Thơ thông cảm,
có điều gì bất cập xin được chỉ giáo để Nguyễn Khôi tiếp thu, sửa chữa...
1. TỐ HỮU
Tự nhận mình là Lành
Mọi người thấy rất dữ
Mác lê bọc bằng thơ
Đã đâm chỉ có “tử”.
Tung hoa máu
xung trận
là Hịch chống
xâm lăng
lời Thề với
Đảng, Bác
“Từ ấy”, “Sáng
tháng Năm”
2. CHẾ LAN VIÊN
Tài thơ đến nhưChế
Đờithật khó khen chê
Bẻ cành phong lan bể
“Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”.
Bắn pháo hoa Tư tưởng
Vờ khóc nước non Hời
Tháp Bay On bốn mặt
Giấu đi mặt ma trơi.
3. SÓNG HỒNG
Thơ văn là bom đạn
Lật đổ/ phá cường quyền
“Đổi mới” phải sự thật
Đọc Ức Trai đêm đêm.
4. LÊ ĐỨC THỌ
Thơ: mực hòa máu viết
Người hùng - quyền thứ hai
Giải Nô ben thứ thiệt
Ai thấy cũng bye bye. (bai bai)
5. HOÀNG VĂN HOAN
Anh Ba quy: Việt gian
Sang nương vây lão Đặng
Xuống địa phủ viết văn
Gặp cụ Hồ đặng đặng?
6. XUÂN THỦY
Trùm đàm phán Paris
Lịch lãm và trí thức
Bị “nạn” thì làm thơ
“Không giam được trí óc”
7. TRẦN ĐĨNH
Chính sự theo “đèn cù”
“Bất khuất” nên bị thiến
Đang diễn hề hầu vua
Hí trường đột tai biến!
8. VIỆT PHƯƠNG
“Cửa mở” hở hậu cung
“Lụy” mấy ông xuất bản
-Ta
cái gì cũng Hồng
-Địch
cái gì cũng Xám
-Trảm!
9. HỮU THỈNH
“Thư mùa đông”
cho lính
Thơ xoàng xĩnh lên ngôi
Điếu văn “hot” tới đỉnh
Trơ ghế cao anh ngồi.
10. NGUYỄN PHAN HÁCH
Đẹp duyên “làng quan họ”
Thơ hay không có tiền
Cho in thơ thả cửa
Bán giấy phép đầu tiên.
11. BÚT TRE
Người bút lông, bút sắt
Lão quê mùa bút tre
Dám “biên tập” lời Bác
Vào Đền Hùng khắc bia (1).
………………….
(1)Câu “Các vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” là do Bút Tre (Phó ty Văn hóa
Phú Thọ) đã “văn bản hóa” câu nói của Bác (biên tập lại) và cũng qua nhiều vị
tham gia chỉnh sửa.
12. TRẦN ĐĂNG KHOA
Thần đồng thơ trẻ xóm
Hóm tếu văn “giải thiêng”
“Chân dung và đối thoại”
Đằm chất quê hồn nhiên.
13. HOÀNG CẦM
Váy Đình Bảng chùng xuống
Đâu thấy lá diêu bông ?
Mưa Thuận Thành tầm tã
Ngây ngất ả phù dung.
14. TRẦN DẦN
Còn hai câu bia mộ:
“Tôi khóc những chân trời…
…Những người bay không có…”
“Nhất định thắng” … công toi !
15. LÊ ĐẠT
Tù túng thành “phu chữ”
Đẽo / tỉa bay mất hồn
Người chết / thơ còn, hết?
“Đường chữ” nẻo cô thôn.
16. LÒ NGÂN SỦN
"KHÁT" khi thấy Người Đẹp
Chiều biên giới nắng tươi
Giữa lều nương Bát Xát
Cởi áo ra...em ơi !
17. HOÀNG CÔNG KHANH
Tù Tây lại tù ta
“Quyền được rên” chẳng có
Bởi luôn đòi tự do
Gánh văn là gánh khổ.
18. LƯU TRỌNG LƯ
Chỉ một cái “tiếng thu”
Để ngàn đời ngơ ngác
Mộng Phù Tang phiêu du
Con nai vàng có “tác” ?
19. QUANG DŨNG
“Tây tiến” thơ hứng khởi
“Mắt Sơn Tây” đoạn trường
Sống: Mai Châu gái đẹp
Chết vì dáng kiều thơm.
20. PHAN KHÔI
“Tình già” liếc như ông
Mắt xuyên qua thế kỉ
“Nắng (thì) cứ nắng…. ong ong
Thời thế… ông chẳng thế!
21. XUÂN DIỆU
“Đồng tính” bị đấu tố
Cụt hứng làm thơ tình
Thôi thì ca “Ngói mới”
Đi “nói chuyện thơ” mình.
22. HUY CẬN
Tắt “Lửa thiêng” đón “mỗi ngày lại
sáng
“Con cá song lấp lánh đuốc đen hồng”
Thằng con cả bùng tuốt sang Mỹ sống
Chết đã lâu mãi chẳng có tên đường.
23. KHƯƠNG HỮU DỤNG
Xuất khẩu câu thần cú
“… chim kêu sáng cả rừng”
Để nhớ Khương Hữu Dụng
“Thôi xao” sánh thơ Đường.
24. YÊN THAO
Ngang ngửa thơ kháng chiến
“Nhà tôi” mất hút rồi
Thơm má người vợ trẻ
Đừng “nã pháo” – người ơi!
25.CẦM GIANG
Lên sông Mã tắm truồng
Liều "trộm xem em tắm"
"Nhớ vợ"...ở chiến trường
Núi Mường Hung xa thẳm.
.26. HUY ĐỨC
Lật tấy "Bên thắng cuộc" "Bên thắng cuộc" chống lưng Vung bút : đối phương gục Vinh, nhục thời Thị trường
Việc xuất khẩu khí gas hóa lỏng của Mỹ sẽ được hưởng lợi từ việc tan
băng trong quan hệ thương mại với Trung Quốc
Hoa Kỳ và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận thương mại gồm 10 điểm theo
đó mở ra thị trường Trung Quốc cho các hãng xếp hạng tín dụng và các
công ty tín dụng Mỹ.
Theo thỏa thuận, Trung Quốc cũng sẽ dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu thị bò Mỹ và khí gas hóa lỏng từ Mỹ.
Để đổi lại, gà đã qua chế biến của Trung Quốc sẽ được phép vào thị
trường Mỹ, và các ngân hàng Trung Quốc có thể được hoạt động trong thị
trường này.
Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ Wilbur Ross nói thỏa thuận sẽ giảm bớt mức
thâm thủng thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuối năm 2017. Trump nhận lời thăm Trung Quốc Trump nghênh đón 'người bạn' Trung Quốc Kinh tế Trung Quốc vượt kỳ vọng quý I
Tuyên bố đánh dấu các kết quả thiết thực đầu tiên đạt được trong các cuộc đàm phán thương mại vốn đã bắt đầu hồi tháng trước.
Thỏa thuận được coi như chỉ dấu cho thấy Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump
đang áp dụng cách tiếp cận ít đối đầu hơn với Bắc Kinh so với những gì
ông đã cam kết trong quá trình vận động tranh cử.
Dịch vụ đường sắt Trung Quốc qua nhiều nước châu Âu tới London chở quần áo, túi xách và các vật dụng khác.
Ông Trump ban đâu fđe dọa sẽ coi Trung Quốc là một "kẻ lũng
đoạn tiền tệ" và áp dụng thuế quan thương mại với hàng hóa Trung Quốc,
nhưng sau đã có quan điểm nhẹ nhàng hơn.
Ông cũng nỗ lực kết nối các cuộc thảo luận thương mại Mỹ-Trung với các
quan ngại quanh tham vọng hạt nhân của Bắc Hàn, và thúc giục Bắc Kinh
gây áp lực nhiều hơn lên Bình Nhưỡng.
Tuy nhiên, sau khi thỏa thuận thương mại được công bố, Thứ trưởng Tài
chính Trung Quốc Chu Quang Diệu nói không nên chính trị hóa các vấn đề
kinh tế. http://www.bbc.com/vietnamese/business-39872818
Bắc Hàn lại phóng tên lửa đạn đạo
RFA 2017-05-13
Diễn tập bắn tên lửa của Quân đội nhân dân Triều Tiên. Ảnh được KCNA phát hành hôm 21/7/2016
AFP photo
Bộ Quốc Phòng Nam Hàn thông báo Bắc Hàn vừa phóng tên lửa đạn đạo vào sáng sớm Chủ Nhật 14/05/2017.
Bản thông cáo phổ biến từ Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nam Hàn cho hay
tên lửa của Bắc Hàn được phóng đi từ một địa điểm nằm gần thành phố
Kusong của Bắc Hàn.
Thông cáo chỉ nói tên lửa này bay được 700 cây số trước khi rơi xuống
vùng biển Nhật Bản. Thông cáo cũng nói các chuyên gia quân sự Nam Hàn
và Hoa Kỳ đang phân tích mọi chi tiết sơ khởi ghi nhận được.
Vụ phóng tên lửa xảy ra trong lúc binh sĩ Hoa Kỳ, Nam Hàn và 2 nước
Châu Âu đang thao diễn quân sự chung ở Thái Bình Dương, và xảy ra chỉ
vài ngày sau khi Nam Hàn có tân tổng thống.
Tin từ Seoul cho thấy Tân Tổng Thống Moon Jae-In đã triệu tập phiên họp khẩn cấp với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.
Tại Tokyo, Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe lên tiếng phản đối hành động
của Bắc Hàn, gọi là hành động tạo thêm bất ổn cho bán đảo Triều Tiên,
vi phạm những quy định mà Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã thông qua,
buộc Bình Nhưỡng phải đình chỉ mọi chương trình liên quan đến kế hoạch
chế tạo võ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo.
Sẵn sàng đối thoại với Hoa Kỳ
Một ngày trước khi vụ phóng tên lửa xảy ra, bà Choe Son-Hui, giám đốc
văn phòng đặc trách Bắc Mỹ của Bộ Ngoại Giao Bắc Hàn nói rằng Bình
Nhưỡng sẵn sàng đối thoại với Washington khi điều kiện cho phép.
Bà Choe nói điều này với báo chí khi từ Oslo, Na Uy đến Bắc Kinh, chờ
đợi lên máy bay để về lại Bình Nhưỡng. Tại Oslo, bà đã tiếp xúc với 2
cựu viên chức ngoại giao cao cấp của Mỹ là ông đặc sứ Liên Hiệp Quốc
Thomas Pickering và ông Robert Einhorn, cố vấn đặc biệt của chương trình
giải giới và kiểm soát võ khí.
Hai tuần trước đây, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump có nói là ông sẵn
sàng gặp lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-Un để giải quyết căng thẳng đang xảy
ra, nhưng nhấn mạnh cuộc gặp gỡ chỉ thành hình với những điều kiện hữu
lý.
Ngay sau đó, phát ngôn viên Nhà Trắng giải thích rõ hơn, nói rằng
cuộc gặp gỡ giữa hai nhà lãnh đạo My-Bắc Hàn chưa thể thành hình vì Bình
Nhưỡng vẫn theo đuổi mục tiêu chế tạo võ khí hạt nhân và tên lửa đạn
đạo.
Trung Quốc cũng thường xuyên trình bày quan điểm về tình hình an ninh
bán đảo Triều Tiên, gần nhất là tuyên bố của Ngoại Trưởng Vương Nghị
cho rằng đối thoại là giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề. Ông Vương
Nghị cũng kêu gọi tất cả những nước liên quan bình tĩnh, đừng có thêm
những hành động khiến tình hình trở nên nan giải hơn.
Tuần rồi, Ngoại Trưởng Sergei Lavrov của Nga cũng tuyên bố tương tự,
đồng thời nhắc nhở Hoa Kỳ không nên tấn công Bắc Hàn bằng quân sự, gọi
đó là hành động có thể dẫn tới hậu quả không thể lường trước được.
Người dân Hàn Quốc xem một chương trình thời sự nói về vụ phóng tên lửa của Bắc Hàn hôm 14/5.
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dự kiến sẽ tổ chức một phiên họp khẩn về vụ phóng thử tên lửa mới nhất của Bắc Hàn vào ngày 16/5.
Mỹ, Nhật và Hàn Quốc yêu cầu phiên họp này sau khi Bình Nhưỡng hôm 14/5
phóng một tên lửa gồm 2 tầng, dùng nhiên liệu lỏng, có khả năng bay tới
4.500 km.
Theo một thông cáo của Nhà Trắng, vụ việc cho thấy “tất cả các quốc gia
cần phải thực hiện các biện pháp trừng phạt thực sự mạnh hơn nữa nhắm
vào Bắc Hàn”.
Sau đó, đại sứ Mỹ ở Liên Hiệp Quốc, bà Nikki Haley, nói rằng đã đến lúc
nhiều quốc gia “gửi một thông điệp đoàn kết và mạnh mẽ rằng điều này
không thể chấp nhận được”, và rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục “gây áp lực” lên
Bình Nhưỡng.
Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, bà Nikki Haley, nói đã đến lúc gửi một thông điệp mạnh mẽ hơn nữa tới Bắc Hàn.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đầu tháng này nói rằng ông “hân hạnh” gặp lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un “trong hoàn cảnh thích hợp”.
Nhưng bà Haley nói rằng “phóng thử tên lửa không phải là cách để đàm
phán với tổng thống [Trump] bởi vì ông chắc chắn sẽ không bao giờ làm
vậy”.
Liên Hiệp Quốc lần đầu tiên trừng phạt đối với Bắc Hàn năm 2006 và đã
thắt chặt các biện pháp này sau khi quốc gia cộng sản tiến hành 5 vụ thử
hạt nhân và hai vụ phóng thử tên lửa tầm xa.
Nhật và Hàn Quốc nhanh chóng lên án vụ phóng thử mới nhất của Bắc Hàn,
coi đó là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với khu vực, và vi phạm các
nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Trong khi đó, Trung Quốc, một đồng minh chính của Bình Nhưỡng, kêu gọi
kiềm chế, tránh gây căng thẳng thêm trong khu vực, đồng thời phản đối
việc Bắc Hàn vi phạm các nghị quyết của Hội đồng Bảo an.
Còn một phát ngôn viên của điện Kremlin trước đó nói rằng Tổng thống Nga
Vladimir Putin, hiện thăm Bắc Kinh, “quan ngại” về vụ phóng trên.
Bộ Quốc phòng Nga nói rằng đường bay của quả tên lửa đạn đạo mà Bắc Hàn
phóng đi hôm 14/5 khá xa lãnh thổ Nga và không đe dọa gì tới nước này,
theo Reuters. http://www.voatiengviet.com/a/hoi-dong-bao-an-lien-hiep-quoc-hop-khan-ve-bac-han/3851274.html
Hội thảo tại Thượng viện Mỹ: Tìm công lý cho nạn nhân Formosa
Thanh Trúc, phóng viên RFA 2017-05-11
Hội thảo về pháp lý và ô nhiễm môi sinh đã diễn ra tại quốc hội Hoa Kỳ hôm 10/5/2017.
RFA photo
Hội thảo quốc tế về môi trường sau sự cố Formosa
00:00/00:00
Hơn một năm sau sự cố Formosa gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khu
vực biển miền Trung, buổi hội thảo về pháp lý và ô nhiễm môi sinh đã
diễn ra tại quốc hội Hoa Kỳ với sự tham dự của các chuyên gia luật và
chuyên gia môi trường ở Hoa Kỳ và Canada. Gây ô nhiễm môi trường là phạm tội
Hôm thứ Tư 10 tháng Năm lần đầu tiên một buổi hội thảo về môi trường
liên quan đến Việt Nam diễn ra tại tòa nhà Rusell của thượng viện Hoa Kỳ
kể từ khi biển miền Trung Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng bởi chất thải
độc hại từ công ty gang thép Formosa ở Hà Tĩnh hồi tháng Tư 2016 đến
nay.
Cuộc hội thảo được coi như một hội nghị quốc tế vì có 7 diễn giả gồm các
vị giáo sư luật và các chuyên môn về môi trường của Mỹ và Canada, chưa
kể một số người Việt đến từ Canada, Australia và các tiểu bang khác của
Hoa Kỳ.
Đứng ra kêu gọi buổi hội thảo là Việt Nam For Progress, tạm dịch là Việt
Nam Vì Tiến Bộ, tổ chức NGO của người Việt ở Washington DC, Hoa Kỳ và
Ontario Canada.
Bác sĩ Thể Bình, chủ tịch tổ chức Việt Nam Vì Tiến Bộ:
Trong vụ Formosa thì yêu cầu của tôi là phải bàn bạc phải bằng mọi cách
chứng minh là nạn nhân phải được bồi thường một cách xứng đáng.
- Luật sư Warren Perrin
Chúng tôi rất mừng vì tổ chức mà qui tụ được những chuyên gia về các
lãnh vực luật pháp cũng như môi trường. Sau phần phát biểu của họ thì
chúng ta có lẽ học hỏi được rất là nhiều và từ đó chúng ta mong sẽ sử
dụng những tin tức và kiến thức này để giúp đỡ cho những nạn nhân của
Formosa cũng như giúp cho môi trường của đất nước Việt Nam.
Đến từ Toronto, Canada, luật sư Trịnh Quốc Toàn, thành viên của tổ chức
Việt Nam Vì Tiến Bộ, nói rằng cuộc hội thảo này một lần nữa nhằm lôi kéo
sự chú ý của thế giới:
Về thảm họa môi trườngđang xảy ra tại Việt Namvà để
giúp những người muốn đi tìm hiểu phương pháp hoặc biện pháp nào đó để
khác phục hoàn cảnh. Hy vọng là trong khả năng chuyên môn thì chúng tôi
có thể cung cấp cho cộng đồng những kiến thức đến từ những diễn giả
chuyên gia về lãnh vực đó.
Đến từ Australia, ông Nguyễn Văn Bon, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Úc Châu:
Hơn một năm qua nhà cầm quyền Việt Nam chả làm cái gì cả, tức là họ
có cơ sở pháp lý để kiện Formosa ra tòa, câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao
họ không đóng cửa Formosa. Việt Nam có cơ hội cao nhất để làm điều đó
nhưng họ chọn họ không làm.
Lên tiếng với đài Á Châu Tự Do trước buổi hôi thảo, cựu công tố viên
Liên Hiệp Quốc, nguyên đại sứ lưu động Mỹ của Global Justice Công Lý
Toàn Cầu thuộc chính phủ Hoa Kỳ, ông Steven Rapp, nói rằng các tác nhân
gây ô nhiễm môi trường đều là tội phạm hình sự:
Tôi được mời đến đây để trình bày vấn đề mà các tổ chức dân sự và nạn
nhân có thể làm được những gì cho dù đôi khi hoàn cảnh không có mấy hy
vọng. Thông điệp của hội thảo này là nếu biết tham khảo, biết thu thập
tài liệu cũng như lôi kéo sự chú ý của dư luận về những hệ lụy những tác
hại vô cùng to lớn của ô nhiễm môi trường thì người ta có thể đòi tác
nhân gây hại trả lại công lý cho mình, đặc biệt khi vụ việc ra trước tòa
hình sự quốc tế.
Cũng vậy, nói đến sự kiện cá chết hàng loạt bên Việt Nam, ngư dân
mất việc vì không thể đánh bắt cá, giá cả thủy sản xuống dốc vì nguồn
nước bị ô nhiễm..... thì tôi cũng sẽ trình bày luôn thể về nhũng hành
động gọi là vô ý thức của tác nhân gây hại, làm sao buộc họ chịu trách
nhiệm đã làm môi sinh bị ô nhiễm. "Cần phải kiện Formosa"
Luật sư Warren Perrin tại buổi hội thảo. RFA photo
Đối với luật sư Warren Perrin, chuyên về các vụ án dân sự ở New Orleans,
Hoa Kỳ, với kinh nghiệm phụ trách những hồ sơ pháp lý về môi trường thí
dụ như sự cố tràn dầu ở Louisiana do công ty BP gây ra trước kia, đến
với cuộc hội thảo hôm nay điều ông muốn trình bày là :
Những việc như thế có những sắc thái và những vấn đề khác nhau trong
việc gặt hái kết quả thông qua hệ thống tố tụng dân sự. Dựa vào kinh
nghiệm đã qua tôi muốn mọi người làm thế nào có thể vận dụng mọi chứng
cứ mọi dữ kiện cụ thể về những tác hại lâu dài hầu đưa vào hồ sơ tố
tụng.
Trong vụ Formosa thì yêu cầu của tôi là phải bàn bạc phải bằng mọi
cách chứng minh là nạn nhân phải được bồi thường một cách xứng đáng, có
nghĩa là đồng tiền bồi thường phải hợp lý phải ngang bằng với những hệ
quả mà họ gánh chịu. Không chỉ tập trung vào việc bồi thường thỏa đáng
cho nạn nhân, tôi còn muốn nói đến việc làm sao giảm thiểu càng nhiều
càng tốt mức độ độc hại mà ô nhiễm môi trường gây ra cho nạn nhân, bởi
vì được bảo vệ và được phòng tránh khỏi ô nhiễm môi sinh là quyền của
con người.
Tôi sẽ dựa trên luật quốc tế về môi trường để nhấn mạnh đến phương cách
tiến hành một vụ kiện tội phạm gây ô nhiễm môi trường ra tòa án quốc tế.
- Giáo sư Malaika Dussault
Tác hại của ô nhiễm môi trường biển không chỉ là cá chết hay nguồn nước
bị nhiễm độc mà còn là vấn đề lây lan thực phẩm độc hại, ảnh hưởng vô
cùng đến sức khỏe các cộng đồng dân cư quanh đó về lâu về dài, là những
lời mở đầu bài phát biểu của bà Malaika Bacon Dussault, giáo sư luật đại
học Morton ở Canada. Nói với đài Á Châu Tự Do, bà khẳng định:
Tôi sẽ dựa trên luật quốc tế về môi trường để nhấn mạnh đến phương
cách tiến hành một vụ kiện tội phạm gây ô nhiễm môi trường ra tòa án
quốc tế. Trong tư cách một luật sư hôm nay tôi sẽ phân tích về những
phương thức tiến hành hồ sơ tố tụng để có cái nhìn bao quát hơn và để
xét xem có thể áp dụng vào trường hợp ô nhiễm môi trường từ chất thải
hóa học ở Việt Nam như thế nào.
Từ Viện Hóa Học ở Toronto, Canada, sang Washington tham dự hội nghị quốc
tế về tác hại Formosa hôm thứ Tư, chuyên gia John Purdy cho biết vì đã
làm việc nhiều năm trong lãnh vực môi trường nên ông có mối quan tâm sâu
sắc đến vấn đề Formosa Việt Nam :
Tôi nghĩ đây không còn là vấn đề của riêng Việt Nam của riêng một
nước mà đây là vấn đề chung của thế giới. Tôi cho rằng Việt Nam cần
được sự hợp tác và trơ giúp quốc tế để khắc phục thảm họa ô nhiễm này.
Ngoài trợ giúp quốc tế, Việt Nam cũng cần đặt mình dưới áp lực quốc tế
hầu bảo đảm họ đã hành động đúng trước vấn đề. Với tôi 500 triệu Đô La
tiền bồi thường từ Formosa thực sự không thấm vào đâu so với tác hại
khôn lường từ chất thải hóa học mà họ xả thẳng ra biền Việt Nam như vậy.
Buổi hội thảo quốc tế về ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra ở Việt Nam
hôm thứ Tư cũng là ngày mà Hội Đồng giám sát liên ngành của Việt Nam
cho phép Formosa vận hành thử nghiệm lò cao số 1, xưởng luyện thép và
các công trình phụ trợ trong thời hạn 6 tháng.
Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Scott Busby phát biểu tại lễ kỷ niệm Ngày Nhân quyền cho Việt Nam 11/05/2017.
Photo: RFA
Hoa Kỳ sẽ tiếp tục gây áp lực với Việt Nam về nhân quyền
00:00/00:00
Nhân ngày Nhân quyền cho Việt Nam 11 tháng 5, giới chức ngoại giao và
các đại diện lập pháp Hoa Kỳ lên tiếng thúc giục chính quyền Việt Nam
cải thiện tình hình nhân quyền trong nước và trả tự do cho các tù nhân
lương tâm.
Tiếp tục vi phạm nhân quyền
“Hạn chế các quyền tự do của người dân, sách nhiễu những người bất đồng
chính kiến”, là những bước lùi trong năm qua về tình hình nhân quyền ở
Việt Nam theo phát biểu của ông Scott Busby, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại
giao phụ trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động tại buổi lễ kỷ niệm Ngày
Nhân quyền cho Việt Nam lần thứ 23 được tổ chức tại Thượng viện Hoa Kỳ ở
thủ đô Washington DC hôm 11/5/2017.
Trong bài phát biểu trước đông đảo cử toạ là những đại diện của Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ, đại diện Quốc hội Hoa Kỳ và các hội đoàn người Việt tại
Mỹ, ông Busby cũng lên tiếng chỉ trích tình hình đàn áp tôn giáo tại
Việt Nam:
Chính phủ Việt Nam vẫn phân biệt đối xử đối với một số nhóm tôn giáo.
Chúng tôi vẫn thấy những báo cáo về các vụ bắt giữ, giam cầm.
Ô. Scott Busby, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
“Chính phủ Việt Nam vẫn phân biệt đối xử đối với một số nhóm tôn giáo.
Các hạn chế còn tồn tại đặc biệt nghiêm trọng trong các trường hợp tôn giáo của người dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và một phần vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Chúng tôi vẫn thấy những báo cáo về các vụ những người theo các đạo giáo này bị bắt giữ, giam cầm”.
Có cải thiện, nhưng rất ít
Bà Libby Liu, Tổng giám đốc RFA phát biểu tại lễ kỷ niệm Ngày Nhân quyền cho Việt Nam 11/05/2017.Photo: RFA
Người đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thừa nhận Việt Nam đã có những cải
thiện trong vấn đề tự do tôn giáo trong năm qua nhưng không đáng kể:
“Chúng tôi cũng thấy một chút tiến bộ trong vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã ra luật tôn giáo tín ngưỡng mới thả lỏng hơn quá trình đăng ký, phê duyệt và giảm thời gian chờ đợi trong quá trình công nhận một tôn giáo mới.
Tuy nhiên một số nhóm tôn giáo chẳng hạn như Cao Đài, Hòa Hảo và một số nhóm Phật giáo vẫn bị chính quyền can thiệp vào quyền được thực thi tôn giáo của họ.”
Quốc hội Việt Nam thông qua đạo luật về Tín ngưỡng và Tôn giáo hồi tháng
11/2016, tuy nhiên nhiều tôn giáo đồng phản đối đạo luật mới ban hành
vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của người dân.
Ông Busby cũng nói rằng trong một vài năm qua không thể phủ nhận rằng
Việt Nam đã có một số tiến bộ về nhân quyền nhưng tất cả còn rất hạn
chế. Ông cho biết những tiến bộ này thể hiện qua số tù nhân chính trị
trước đây khoảng 160 người, nhưng giờ đã giảm xuống chỉ còn khoảng 90.
Chúng tôi cũng thấy một chút tiến bộ trong vấn đề tự do tôn giáo. Tuy
nhiên một số nhóm tôn giáo vẫn bị chính quyền can thiệp vào quyền được
thực thi tôn giáo của họ.
Ô. Scott Busby, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
Đàn áp các nhà hoạt động
Ông Scott Busby cũng nêu ra những vấn đề còn rất quan ngại liên quan đến
việc đánh đập, xách nhiễu, bắt giữ những blogger, nhà hoạt động, những
người tham gia lên tiếng phản đối thảm họa môi trường do Formosa gây ra
hồi năm ngoái ở các tỉnh miền Trung:
“Năm ngoái chúng tôi đã chứng kiến Việt Nam bắt giữ ít nhất 6 nhà hoạt động dân chủ bao gồm các blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hay còn gọi là Mẹ Nấm.
Cô bị bắt tháng 10 năm ngoái sau khi viết những bài phản ánh quan ngại của cô về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, nạn tham nhũng và ô nhiễm môi trường và hiện tại vẫn chưa được tòa xét xử.”
Đề cập đến Đối thoại Nhân quyền Việt Mỹ lần thứ 21 diễn ra vào cuối
tháng này, ông Scott Busby cho biết Hoa Kỳ sẽ yêu cầu Hà Nội phải trả tự
do ngay lập tức cho các tù nhân lương tâm, xóa bỏ các điều luật mù mờ
vẫn dùng để kết án những người bất đồng chính kiến và cho phép các nhóm
tôn giáo được hoạt động bao gồm cả các nhóm chưa được đăng ký.
Hoa Kỳ sẽ không xem nhẹ nhân quyền
Đại diện lập pháp Hoa Kỳ, Dân biểu Chris Smith phát biểu tại lễ kỷ niệm
Ngày Nhân quyền Việt Nam, khẳng định đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng
nhân quyền để có quan hệ đối tác tốt hơn với Mỹ.
Ông cũng nói Hoa Kỳ sẽ không vì quyền lợi của mình mà đặt nhẹ nhân quyền với Việt Nam:
“Hoa Kỳ cần phải đảm bảo là Việt Nam hiểu được rằng mối quan hệ hữu nghị Việt – Mỹ về thương mại, an ninh…phụ thuộc vào những tiến bộ của Việt Nam về vấn đề nhân quyền, tự do và dân chủ.”
Hoa Kỳ cần phải đảm bảo là Việt Nam hiểu được rằng mối quan hệ về thương
mại, an ninh…phụ thuộc vào những tiến bộ của Việt Nam về vấn đề nhân
quyền, tự do và dân chủ.
Dân biểu Chris Smith
Dân biểu Chris Smith cho biết ông dự định sẽ giới thiệu một dự luật mới
ra Hạ Viện trong hai tuần tới. Nếu được thành luật, Hoa Kỳ sẽ ngưng viện
trợ không liên quan đến nhân đạo đối với Việt Nam, nếu chính quyền
không cải thiện trong việc đối xử với tù nhân tôn giáo và chính trị.
Tham dự ngày Nhân quyền cho Việt Nam, luật sư Dina Nguyễn, Giám đốc
Thủy cục quận Orange, bang California cho biết cô quan tâm đến vấn đề
nhân quyền Việt Nam. Cô mong muốn rằng người dân Việt Nam hãy đồng lòng
lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ:
“Quốc hội Mỹ là một chính quyền rất mạnh trên thế giới và có thể ảnh hưởng đến tình hình chính trị ở Việt Nam để họ có sự thay đổi và không còn tình trạng đàn áp nhân quyền tại Việt Nam.
Đây không phải là điều sẽ đạt được qua đêm, nhưng với sự đóng góp của những người quan tâm tại Hoa Kỳ thì một ngày nào đó chắc chắn chúng ta sẽ có tự do, nhân quyền cho người dân Việt Nam.”
Cuối tháng này, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ sang thăm chính thức Hoa
Kỳ theo lời mời của Tổng Thống Donald Trump. Những người quan tâm đến
tình hình Việt Nam hy vọng vấn đề nhân quyền sẽ được chính phủ Mỹ chú
trọng trong các đàm phán sắp tới với Việt Nam.
Nhật, Việt, Philippines thao dượt chung vào tháng 6
Tuần duyên Nhật Bản, Philippines thao dượt chung tháng 7/2016
Nhật Bản sẽ thao dượt chung với Việt Nam và Philippines vào tháng 6 tới.
Đây là một biện pháp để Nhật tăng cường nỗ lực trợ giúp các nước đang
đối mặt với các bước tiến hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông.
Cuộc thao dượt sẽ diễn ra ngày 3/6 ở Davao, miền nam Philippines. Năm
2016, Nhật Bản cung cấp một tàu nhỏ dài khoảng 40 mét cho lực lượng tuần
duyên Philippines. Tàu này sẽ được sử dụng trong cuộc thao dượt về cách
chống hải tặc. Tuần duyên Philippines cũng sẽ được hướng dẫn cách vận
hành các xuồng cao su cao tốc mà tàu mang theo.
Tàu Echigo 3.100 tấn có khả năng mang theo trực thăng của Nhật Bản sẽ tham gia thao dượt.
Sau đó, ngày 16/6, tàu Echigo và các nhân viên tuần duyên Nhật sẽ đến Đà
Nẵng để thao dượt chung. Một tàu nhỏ do Nhật cung cấp cho cảnh sát biển
Việt Nam năm 2015 sẽ cùng thao dượt với tàu Echigo. Trong khuôn khổ
chương trình, cảnh sát biển Việt Nam sẽ được huấn luyện cách xử lý các
tàu cá hoạt động bất hợp pháp.
Việt Nam và Philippines đều có tranh chấp chủ quyền biển với Trung Quốc ở
Biển Đông trong khi Nhật có tranh chấp với Trung Quốc về quần đảo
Senkaku ở Biển Hoa Đông.
Hồi mùa xuân năm nay, lực lượng tuần duyên Nhật đã lập một chức vụ mới
là trưởng ban hợp tác quốc tế về tuần duyên, chuyên trách cung cấp trợ
giúp cho các nước Đông Nam Á.
Cuộc thao dượt chung với Philippines là lần đầu tiên quan chức này nắm trách nhiệm phụ trách một cuộc huấn luyện.
Trước đây, đã có các cuộc thao dượt chung với Việt Nam và Philippines,
sử dụng những tàu nhỏ hơn, liên quan đến tìm kiếm, cứu nạn. Đây là lần
đầu 3 nước dùng các tàu lớn hơn để chống các hoạt động bất hợp pháp.
Trung Quốc đã triển khai nhiều tàu tuần duyên ở Biển Đông kèm theo việc xây các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo.
Dùng các tàu hải quân để ngăn chặn có thể dẫn đên xung đột quân sự, vì
vậy Việt Nam và Philippines tìm cách hợp tác với tuần duyên Nhật vốn có
nhiều kinh nghiệm trong việc đối phó với các hành vi xâm nhập lãnh hải.
Hồi năm 2013, chính phủ Nhật thông báo họ sẽ cung cấp cho Philippines 10
tàu tuần tra mới dài 40 mét. Kể từ đó, Nhật đã công bố kế hoạch cung
cấp cho Philippines 2 tàu tuần tra lớn mới dài 90 mét, cho Malaysia 2
tàu tuần tra lớn đã sử dụng dài 90 mét, và cho Việt Nam 6 tàu mới.
(theo Japan News, Ashahi Shimbun) http://www.voatiengviet.com/a/nhat-viet-philippines-thao-duot-chung-thang-6/3850973.html
'Bộ cánh' của tân Tổng thống Pháp nói lên điều gì?
Tân Tổng thống Pháp và phu nhân trong lễ nhậm chức hôm 14/5.
Bộ complet trị giá 450 euro (dưới 500 đôla) mà tân Tổng thống Pháp
Emmanuel Macron mặc trong lễ nhậm chức 14/5 được cho là một nỗ lực tạo
hình ảnh “bình dân” của nhà lãnh đạo này.
Theo Reuters, việc nhân viên của ông Macron tiết lộ giá thành của “bộ
cánh” ông mặc, cũng như chuyện bộ đồ của phu nhân của ông, bà Brigitte,
được hãng Louis Vuitton cho mượn, là điều đáng chú ý.
Từng là một ứng viên được ưa thích, trong chiến dịch tranh cử, đối thủ
của ông Macron, ông Francois Fillon, bị cuốn vào vụ bê bối tài chính,
trong đó có món quà từ một doanh nhân giàu có là hai bộ complet được may
riêng cho ông trị giá tới 13 nghìn đôla.
đối thủ của ông Macron, ông Francois Fillon, bị cuốn vào vụ bê bối tài chính.
Hãng tin Anh viết rằng, với các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy rằng trung
thực là một trong các phẩm chất mà cử tri Pháp trông chờ vào nhà lãnh
đạo, việc lựa chọn “bộ cánh” khiêm tốn của tân tổng thống phát đi một
thông điệp rằng ông sẽ khác biệt so với những người tiền nhiệm.
Cựu tổng thống thuộc phe bảo thủ Nicolas Sarkozy, từng lãnh đạo Pháp từ
năm 2007 tới 2012, được đặt biệt danh là “tổng thống thích trưng diện”
vì phong cách ăn mặc hào nhoáng.
Người tiền nhiệm ngay trước ông Macron, ông Francois Hollande, vốn tự
coi là “tổng thống bình dân” đã bị chỉ trích vì trả gần 10 nghìn đôla
một tháng cho người tạo mẫu tóc.
Ông Macron nhậm chức hôm 14/5 trong một buổi lễ tại Dinh Tổng thống ở
Paris, trở thành nhà lãnh đạo Pháp trẻ nhất thời hậu chiến. http://www.voatiengviet.com/a/bo-canh-cua-tan-tong-thong-phap-noi-len-dieu-gi/3851130.html
Trung Quốc chi mạnh cho Con đường Tơ lụa mới
Ông Tập Cận Bình phát biểu khai mạc diễn đàn kéo dài hai ngày ở Bắc Kinh hôm 14/5.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 14/5 cam kết chi 124 tỷ đôla vào kế
hoạch Con đường Tơ lụa mới, đồng thời kêu gọi chấm dứt mô hình hợp tác
cũ dựa trên sự tranh giành quyền lực ngoại giao.
Theo Reuters, ông Tập sử dụng hội nghị thượng đỉnh với sự tham dự của
nhiều nhà lành đạo và các quan chức hàng đầu thế giới, trong đó có Chủ
tịch Việt Nam Trần Đại Quang, để củng cố vị trí lãnh đạo của Trung Quốc
trên thế giới.
Chính sách củng cố thương mại tự do với sự tham gia của nhiều nước được
đưa ra trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump thúc đẩy chiến lược
“Nước Mỹ đầu tiên”, đồng thời đặt dấu hỏi về các thỏa thuận thương mại
tự do trên thế giới.
Phát biểu khai mạc diễn đàn kéo dài hai ngày ở Bắc Kinh, ông Tập nói:
“Chúng ta cần phải xây dựng một nền tảng hợp tác mở và duy trì cũng như
mở rộng một nền kinh tế mở trên thế giới”.
Ông Tập chụp ảnh chung với các quan chức dự hội nghị thượng đỉnh.
Trung Quốc coi sáng kiến với tên gọi chính thức là “Vành đai và Con đường” là một cách thức mới nhằm củng cố phát triển.
Ông Tập công bố kế hoạch này năm 2013 nhằm mở rộng sự hợp tác giữa châu
Á, châu Phi và châu Âu với hàng tỷ đôla đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Reuters dẫn lời nhà lãnh đạo Trung Quốc nói rằng thế giới cần phải tạo
ra "các điều kiện thúc đẩy phát triển và khuyến khích việc xây dựng các
hệ thống luật lệ và thương mại đầ tư toàn cầu công bằng, hợp lý và minh
bạch”.
Vài giờ trước khi hội nghị thượng đỉnh khai mạc, Bắc Hàn lại phóng thử
một quả tên lửa đạn đạo, trắc nghiệm sự kiên nhẫn của Trung Quốc, đồng
minh chính của Bình Nhưỡng.
Hoa Kỳ hôm 12/5 đã gửi công hàm ngoại giao tới Bắc Kinh, phản đối sự tham dự của Bắc Hàn tại hội nghị thượng đỉnh. http://www.voatiengviet.com/a/trung-quoc-chi-manh-cho-con-duong-to-lua-moi/3850981.html
TQ đầu tư 124 tỷ USD vào dự án 'Vành đai, Con đường'
14 tháng 5 2017
Bản quyền hình ảnhPool/GettyImage caption
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố khoản đầu
tư lớn cho đại dự án Một Vành đai, Một Con đường tại lễ khai mạc hội
nghị thượng đỉnh hôm 14/5/2017
Chính phủ Trung
Quốc sẽ đầu tư hàng chục tỷ đô la như một phần trong kế hoạch kinh tế
đầy tham vọng để xây dựng lại các cảng, đường sá và mạng lưới đường sắt.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cam kết sẽ chi 124 tỷ đô la cho chương trình có tên gọi "Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường". VN ở đâu trong 'Vành đai và Con đường' của TQ? Con đường Tơ lụa không của riêng ai Hào quang một thời Con đường Tơ lụa
"Thương
mại là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế," ông Tập nói tại
hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo thế giới đang nhóm họp ở Bắc Kinh.
Kế hoạch này nhằm mở rộng mối liên kết thương mại giữa
châu Á, châu Phi, châu Âu và xa hơn. Nó lần đầu tiên được công bố hồi
năm 2013.
Một phần trong nỗ lực tài trợ khổng lồ nhằm tăng cường
mối quan hệ với các đối tác thương mại của Trung Quốc, bao gồm 60 tỷ
nhân dân tệ (9 tỷ đô la Mỹ) để hỗ trợ cho các nước đang phát triển và
các tổ chức quốc tế thuộc dự án Vành đai và Con đường nói trên.
Ông
Tập đã sử dụng bài phát biểu của mình để đảm bảo với các nhà ngoại giao
phương Tây rằng kế hoạch, được mô tả như Con đường Tơ Lụa mới, không
chỉ đơn giản là một nỗ lực nhằm quảng bá ảnh hưởng của Trung Quốc trên
toàn cầu. 'Mở cửa, cùng có lợi'
Ông
Tập nói: "Trong tiến trình thực hiện Vành đai và Con đường, chúng tôi
sẽ không quay trở lại lối chơi cũ giữa những kẻ thù. Thay vào đó, chúng
tôi sẽ tạo ra một mô hình hợp tác mới, các bên cùng có lợi," ông Tập nói
trong lễ khai mạc hội nghị thượng đỉnh hai ngày 14-15/5, được tổ chức
tại Bắc Kinh.
Ông nói thêm: "Chúng ta nên xây dựng một nền tảng hợp tác mở, duy trì và phát triển nền kinh tế thế giới mở." Bản quyền hình ảnhPool/GettyImage caption
Hàng chục nguyên thủ quốc gia và giới chức cao cấp
lãnh đạo các nước đã hiện diện tại sự kiện được cho là đang tạo dấu ấn
quan trọng cho Trung Quốc và Chủ tịch Tập Cận Bình.
Ông Tập nói đã đến lúc thế giới thúc đẩy sự phát
triển cởi mở và khuyến khích xây dựng hệ thống "các quy tắc về thương
mại và đầu tư toàn cầu công bằng, hợp lý và minh bạch".
"Trung
Quốc sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm phát triển của mình với tất cả các
nước. Chúng tôi sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác," ông nói.
"Cho dù họ đến từ châu Á, châu Âu, châu Phi hoặc
châu Mỹ, họ đều là các đối tác hợp tác trong việc xây dựng Vành đai và
Con đường."
Ông Tập không đưa ra khung thời gian cho việc phân bổ ngân quỹ cho các dự án được đưa ra vào Chủ Nhật.
Các
nhà lãnh đạo đến từ 29 quốc gia đang tham dự diễn đàn Một vành đai, Một
con đường, bế mạc vào thứ Hai, trong đó có Tổng thống Nga Vladimir
Putin và Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayep Erdogan.
Chủ tịch Việt
Nam Trần Đại Quang, người đang có chuyến thăm chính thức tới Trung Quốc
trong thời gian 11-15/5, cũng có mặt tại diễn đàn.
Một số nhà lãnh
đạo châu Âu khác, bao gồm các thủ tướng của Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp và
Hungary, cũng tham dự hội nghị thượng đỉnh. http://www.bbc.com/vietnamese/world-39913441
PARIS, ngày 10.5.2017 (PTTPGQT) - Viện Hoá Đạo vừa gửi đến Phòng Thông
tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Bản tường trình số 1 về Đại lễ Phật
Đản do Viện Hoá Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tổ
chức tại Tu viện Long Quang, Huế.
Qua bản tường trình mới thấy rõ những ngăn cản, úc hiếp của Công an đối
với một lễ nghi tôn giáo quan trọng có từ hàng nghìn năm trên đất nước
Việt Nam : Đại lễ Phật Đản của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Đạo hữu Lê Công
Cầu, Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo và hai Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Ngô
Đức Tiến và Nguyễn Văn Đê bị công an triệu đi “làm việc”. Nói là “làm
việc” nhưng kỳ thực là nhận chịu sự thoá mạ của công an đối với
GHPGVNTN. Không chỉ thoá mạ mà còn bắt buộc người “làm việc” phải cam
kết từ bỏ GHPGVNTN, cam kết không về Tu viện Long Quang tham gia Đại lễ
Phật Đản. Dưới đây là toàn văn Bản tường trình số 1.
Đạo hữu Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội GHPGVNTN Hải ngoại tại
Hoa Kỳ cũng vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến
Thư Kêu góp đóng góp tịnh tài cho những Phật sự cùa Giáo hội trong nước.
Chúng tôi xin đăng tải thư ấy dưới đây.
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HOÁ ĐẠO
Tu Viện Long Quang – Thị Xã Hương Trà - Tỉnh Thừa Thiên Huế
Phật lịch 2561
Số 06.17/ VHĐ/BT
ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN QUỐC NỘI
PHẬT LỊCH 2561-2017
(Bản Tin Số I)
Ngưỡng trình : - Đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN
Kính trình :
- Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
- Chư Tôn Đức Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN
- Hòa Thượng Chủ Tịch HĐĐH/GHPGVNTNHN/HK
Kính gởi :
- Ông Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam
- GS Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế.
- CS Giám Đốc Phòng Liên Lạc Phật Giáo Quốc Tế.
- Đồng bào Phật Tử trong và ngoài nước
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Ngưỡng Bạch Chư Tôn Đức,
Kính thưa liệt Quý Vị,
Mùa Phật Đản đã đến, ngày Đại Lễ Chính Thức đã gần kề, Bản Tin nầy ngoài
việc tường trình Phật Sự lên Chư Tôn Đức và đồng bào Phật tử các giới,
tôi xin trân trọng kính gởi đến Ông Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm
Người Việt Nam, GS Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế và CS Giám
Đốc Phòng Liên Lạc Quốc Tế với nỗi niềm sau :
Chư Tăng, Phật tử đưa 3 Vòng hoa đến Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo
I/. HAI HUYNH TRƯỞNG CAO CẤP GĐPT BỊ MỜI LÀM VIỆC :
Ngày 28.4.2017, Công An Huyện Phú Vang đã mời :
*Huynh Trưởng Cấp Dũng Ngô Đức Tiến, Ủy Viên Tổ Kiểm Ban Hướng Dẫn Trung ương Gia Đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN).
*Huynh Trưởng Cấp Tấn Nguyễn Văn Đê, Ủy Viên Nội Vụ Ban Hướng Dẫn Trung ương Gia Đình Phật tử Thừa Thiên.
đến Trụ Sở Công An huyện Phú Vang làm việc.
Vẫn nội dung cố hữu như những năm qua, mà công an thẩm vấn 2 anh là :
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một tổ chức bất hợp pháp
- Các Ông tham gia GHPGVNTN là các Ông vi phạm luật pháp.
- Các Ông phải cam kết từ bỏ GHPGVNTN.
- Các Ông phải cam kết là không được đến Chùa Long Quang.
Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo cạnh Cầu Trường Tiền Huế
Hai Huynh Trưởng đã cương quyết giải thích GHPGVNTN là một tổ chức hợp
pháp mà bằng chứng hiển nhiên là Đảng và Nhà Nước đã không có một văn
kiện nào giải thể hay ngăn cấm chúng tôi sinh hoạt, cho nên việc khủng
bố, ngăm cấm chúng tôi sinh hoạt là Nhà Nước đã vi phạm pháp luật chứ
không phải chúng tôi vi phạm.
Phía Công An đã đưa ra một công văn xa xưa do Ông Ngô Hòa, nguyên Phó
Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế ký, nội dung ngăn cấm một buổi lễ
của GHPGVNTN Tỉnh Thừa Thiên Huế (lâu quá tôi không còn nhớ rõ) để
chứng minh là Nhà Nước đã có văn bản ngăn cấm cụ thể, buộc 2 Huynh
Trưởng phải thi hành.
Hai Huynh Trưởng đã phản bác rằng GHPGVNTN là một Giáo Hội không những
có tầm cở Quốc Gia mà cả Quốc Tế, vậy nên một ông Phó Chủ Tịch Thành Phố
không đủ tư cách ra văn bản ngăn cấm, do đó đối với chúng tôi văn bản
ấy chẳng có giá trị gì cả. Chúng tôi yêu cầu Nhà Nước muốn ngăn cấm hay
giải thể thì hãy chính thức ra văn kiện rõ ràng trước Toàn Dân và Quốc
Tế, nếu đúng với Hiến Pháp và các Công Ước Quốc Tế của LHQ về Tự Do Tôn
Giáo chúng tôi sẽ thi hành.
Hai Huynh Trưởng đã cương quyết bảo vệ quan điểm của mình cho nên Công
An trách hai Ông “lỳ” và ép buộc hai Huynh Trưởng phải viết cam kết.
Trước sự quyết liệt của Công An, hai Huynh Trưởng trả lời : Chúng tôi
không viết cam kết, nếu các ông éo buộc, chúng tôi phát nguyện Tự Thiêu
để bảo toàn Lý Tưởng của mình.
Buổi làm việc nầy có mục đích gì ? — Theo tôi, đây là một đòn phủ đầu,
gây tâm lý hoang mang, lo sợ, e dè cho Phật Tử nói chung và Đoàn Viên
GĐPT nói riêng để gián tiếp ngăn cản Phật Tử đến tham dự Đại Lễ Phật Đản
PL 2561-2017 tại Lễ Đài Long Quang. Lý do khác, là 2 Huynh Trưởng Ngô
Đức Tiến và Nguyễn Văn Đê là những Huynh Trưởng tiêu biểu của tỉnh Thừa
Thiên, lại cư trú tại Huyện Phú Vang mà tiềm năng của GHPGVNTN tại Huyện
Phú Vang là một trong những cơ sở lớn nhất trong toàn Tỉnh, nên họ nhắm
đánh vào các cơ quan đầu não.
Chư Tăng Niêm hương Bạch Phật trước Đài Kỷ niệm
II/. TỔNG THƯ KÝ VIỆN HOÁ ĐẠO KIÊM VỤ TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VỤ, BỊ MỜI LÀM VIỆC :
Ngày 03.5.2017 (08.4.âm lịch) sau khi làm lễ đặt vòng hoa tại Đài Kỷ
Niệm Thánh Tử Đạo xong, vừa về đến nhà lúc 7g tối thì tôi, Lê Công Cầu,
nhận được giấy mời làm việc với Công An lúc 8g sáng ngày 4.5.2017.
Trong một ngày làm việc, Công An khai thác nội dung bản Tâm Thư Số 1 của
tôi và Thông Bạch Phật Đản PL 2561-2017 do Phòng Thông Tin Phật Giáo
Quốc Tế phổ biến.
Thực tế mà nói, nội dung làm việc không có gì gay gắt lắm, tôi trình bày
có tình, có lý và họ đã lắng nghe, cũng như tôi đã lắng nghe họ (tôi sẽ
xin tường trình trong Tâm Thư Số 2 sắp tới vì bản tin nầy hơi dài).
Vậy mục đích chính của buổi làm việc nầy là gì ? Vì Tâm Thư Số 1 — Không
! Vì Thông Bạch Phật Đản — Không ! Việc mời tôi làm việc một cách cấp
bách, chỉ trước Phật Đản một tuần lễ, sự việc nầy sẽ được loan truyền
khắp Tỉnh Thừa Thiên Huế, ảnh hưởng không ít đến tâm lý hoang mang, lo
sợ, e dè cho Đồng Bào Phật Tử, nhất là Đoàn Viên GĐPT, cho nên mục đích
chính không gì khác hơn là gián tiếp ngăn cản Phật Tử đến tham dự Đại Lễ
Phật Đản tại Tu Viện Long Quang, nơi đặt văn phòng Viện Hóa Đạo
GHPGVNTN như tôi đã trình bày về hai Huynh Trưởng nêu trên.
______________________
Lẽ ra tôi phải gởi Kháng Thư lên các cấp Chính Quyền, tuy nhiên qua kinh
nghiệm tôi thấy Chính Quyền đã biểu lộ sự vô cảm và khinh thị đối với
công dân nên tôi gởi nỗi niềm bị bức hiếp nầy đến Ông Chủ Tịch Ủy Ban
Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam, Gíao sư Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật
Giáo Quốc Tế và Cư sĩ Giám Đốc Phòng Liên Lạc Phật Giáo Quốc Tế, giúp
lên tiếng bảo vệ anh em Huynh Trưởng chúng tôi, bảo vệ Gia Đình Phât Tử
chúng tôi, bảo vệ Giáo Hội chúng tôi đã chịu đựng quá nhiều đau đớn
trong quá trình phụng sự Đạo Pháp và Dân Tộc.
III/. LỄ KHAI KINH PHẬT ĐẢN VÀ ĐẶT VÒNG HOA TẠI ĐÀI KỶ NIỆM THÁNH TỬ ĐẠO, HUẾ.
Theo tinh thần Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2561-2017 do Hòa thượng
Viện Trưởng Viện Hóa Đạo ban hành, được Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc
Tế phổ biến ngày 26.4.2017, thời Khai Kinh Đại Lễ Phật Đản khai diễn lúc
8 giờ sáng ngày mồng 8 tháng 4 Đinh Dậu (03.5.2017) tại Tu Viện Long
Quang nơi thiết trí Lễ Đài Chính của GHPGVNTN.
Buổi lễ đặt dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Minh Quang, Chánh
Văn Phòng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, Trú trì Tu viện Long Quang, phần nghi
lễ do Chư Tăng bổn tự phụ trách với sự tham dự của Phật tử địa phương.
Các Huynh trưởng GĐPT đứng quanh Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo
Cũng theo tinh thần Thông Bạch, lễ đặt vòng hoa tại Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo gần cầu Trường Tiền khai diễn lúc 15g 30 cùng ngày.
Năm nay duyên lành, Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thanh
Quang không bị chận đường như năm ngoái, Ngài đã cùng chư Tăng Ni, và
các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn GĐPT Quảng Nam Đà Nẵng vượt chặng
đường hơn 100 cây số, hiện diện tại nơi hành lễ rất sớm.
Tại đây, phái đoàn Chư Tăng Tu Viện Long Quang, đại diện Đạo Tràng Thập
Thiện và Bồ Tát Giới, đại diện các đơn vị Gia Đinh Phật Tử Bắc Thừa
Thiên từ các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, các đơn vị Tả
Ngạn, Hữu Ngạn, Nội Thành Huế, đại diện các đơn vị phía Nam từ các huyện
Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc đều có mặt, nhất là các đơn vị rất xa như
Hải Nhuận, Lăng Cô, Nước Ngọt…
Đặc biệt có sự tham dự của Hòa Thượng Thích Toàn Lạc, trú trì Chùa Kim
Quang, Huế, luôn đồng hành trong các hoạt động của Giáo Hội.
Lễ Tưởng Niệm Chư Thánh Tử Đạo trùng thời điểm với Festival Làng Nghề do
Nhà Nước tổ chức, vì thế Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo nằm lọt trong khuôn
viên trưng bày của lễ hội cho nên Chư Tăng và Phật Tử rất lo lắng sẽ gặp
trở ngại. Tuy nhiên dù hiện trường còn ngổn ngang nhưng buổi lễ đã
thành công viên mãn.
Đúng giờ hành lễ, 3 vòng hoa được đặt trước Đài Kỷ niệm, mang các giòng chữ :
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM
ĐẠO TRÀNG THẬP THIỆN VÀ BỒ TÁT
TU VIỆN LONG QUANG
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM
Các chị Huynh trưởng GĐPT nhiễu quanh Đài Kỷ niệm Thánh Tử Đạo
Theo sau ba vòng hoa, là Hòa Thượng Viện Trưởng cùng Chư Tăng tiến vào
Lễ Đài, sau Chư Tăng là đại diện Gia Đình Phật Tử và đại diện Đạo Tràng
trang nghiêm cử hành lễ Tưởng Niệm.
Hòa Thượng Viện Trưởng niêm hương Bạch Phật và dâng lời tác bạch lên Chư
Thánh Tử Đạo, tất cả đồng đảnh lễ tam bái, rồi Hòa Thượng Viện Trưởng
cùng tất cả Phật Tử nhiễu ba vòng quanh Lễ Đài bày tỏ lòng tri ân và
thương cảm với những người đã nằm xuống bên giòng sông Hương thơ mộng,
bên cầu Trường Tiền lịch sử để mở đầu một giai đoạn hào hùng của Dân Tộc
và Đạo Pháp.
Buổi lễ kết thúc lúc 16g, Chư Tăng và Phật Tử cung tiễn Hòa Thượng Viện
Trưởng hồi trú xứ, các phái đoàn lưu luyến chia tay, hẹn gặp nhau tại Tu
Viện Long Quang ngày Thế Tôn thị hiện. Lúc 8 giờ tối, tôi trở lại Đài
Kỷ Niệm thì những băng rôn trên các vòng hoa đã bị “ai đó” tháo gở như
các năm trước.
NAM MÔ LÂM TỲ NI VIÊN VÔ ƯU THỌ HẠ
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Phật Lịch 2561 – Tu Viện Long Quang,
ngày 6 tháng 5 năm 2017
Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (đã ấn ký)NGUYÊN CHÁNH LÊ CÔNG CẦU
Thư kêu gọi đóng góp tịnh tài cho Lễ Huý nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang
THƯ KÊU GỌI ĐÓNG GÓP TỊNH TÀI
TỔ CHỨC LỄ HUÝ NHẬT
ĐỨC CỐ ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG THÍCH HUYỀN QUANG
KÍnh Bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni,
Kính Thưa Quý Đạo Hữu Đồng Hương Phật Tử,
Thấm thoát đã 9 năm trôi qua từ ngày Đức Đệ Tứ Tăng Thống xả bỏ báo thân
(2008) rời xa tất cả chúng ta, sau 88 năm có mặt nơi cõi ta bà này.
Nhất là 33 năm cuối đời bị tù tội, lưu đày, quản chế, rồi lâm trọng
bệnh, vì Ngài cùng với Đức Đệ Ngũ Tăng Thống kiên cường, bất khuất bảo
vệ tính pháp lý lịch sử của GHPGVNTN không để cho nhà đương quyền giải
thể.
Năm nay, lễ húy nhật của Ngài được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 6 măm
Đinh Dậu (tức 26 tháng 6 năm 2017) tại Tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình
Định.
Để tỏ lòng cung kính tưởng niệm và tri ân công đức sâu dày của bậc chân
tu, vị lãnh đạo tối cao GHPGVNTN đã quên mình, dốc lòng hy sinh cho Đạo
Pháp, cho Dân Tộc quyết mang lại Tự Do Tôn giáo, Dân Chủ ,và Độc Lập dân
tộc cho quê hương. Phổ Chiếu xin hết lòng mời gọi Chư Tôn đức và đồng
bào Phật tử các giới hãy nhín chút tịnh tài, cùng nhau chung sức đóng
góp cho đại lễ Huý nhật Ngài được viên thành. Số tịnh tài này nhằm trang
trải lễ huý nhật, đồng thời giúp đỡ phương tiện di chuyển cho hàng Giáo
phẩm cùng một số Phái đoàn Gia Đình Phật tử ở xa về Tu viện Nguyên
Thiều tham dự.
Biết rằng lễ Phật Đản chung của GHPGVNTN được tổ chức tại chùa LIÊN HOA,
thành phố Houston và ngày Húy nhật của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống gần kề
nhau, nhưng mỗi đại lễ mang một ý nghĩa quan trọng khác nhau, nhất là
cho Phật sự của Giáo hội chúng ta ở quốc nội, mỗi năm chỉ có một lần.
Đây cũng là cơ hội để chúng ta biểu tỏ lòng biết ơn, và ghi tâm khắc cốt
hình bóng của bậc cao Tăng thạc đức đã gìn giữ mạng mạch Chánh Pháp của
GHPGVNTN trong thời đại điêu linh của đất nước : Ngài đã “Một Đời vì
Đạo vì Dân”.
Phổ Chiếu kính xin bày tỏ trước, lòng tri ân đóng góp của Chư Tôn Đức Tăng Ni, và Quý Đạo Hữu Đồng Hương Phật Tử.
Mọi đóng góp tịnh tài, xin gửi về :
Đạo hữu Thanh Tâm Huỳnh Hồ Hương, Tổng Thủ quỹ GHPGVNTN-HN/HK
Chùa LIÊN HOA
6709 Howell-Sugar Land Road - Houston TX. 77083
Chi phiếu xin ghi tên người nhận là : GHPGVNTN – HNHKMemo (ghi chú tiền gửi) : Yểm trợ Húy nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống
Nam Mô Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
P.l. 2561 - Houston, ngày 10 tháng 5 năm 2017
Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ Thiện Xã hội
No comments:
Post a Comment