Wednesday, May 24, 2017
TRẦN NGỌC BÌNH * TÙ VƯỢT NGỤC
-Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa!
Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng
anh đội phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền
Bắc khi phải sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người”
trong đó mỗi người dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông
sau xem có người thứ ba nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá
“tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn
nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:
- C. trốn trại rồi.
Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cách chim tung trời tim
đường đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn
tù của mình nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát
ly được gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc
chắn là cho đến ngàn sau thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải
công nhận là đúng, là không sai chạy dù một ly, đã được diễn tả trong
câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng
cả ngàn năm ở ngoài).
Kể từ hôm đó, những anh em tù chúng tôi sau khi bị xúc động về việc này,
có bàn ra tán vào thì cũng chỉ rỉ tai nhau rồi đâu lại vào đấy, lại lao
động triền miên cho đến mệt lử, chiều về ăn chén cơm tù độn khoai, hay
sắn hoặc cái “chuông xe đạp mỏng teng” (đây là chữ anh em dùng để chỉ
chiếc bánh mì luộc) rồi lên “chuồng” cố dỗ giấc ngủ cho qua cơn đói để
rồi sáng mai lại trở lại kiếp tù lao động khổ sai không án nên chẳng
biết ngày nào “tung cách chim tìm về tổ ấm” để gặp lại những người thân
trong gia đình để “cho bõ lúc sầu xa cách nhớ”.
Kiếp tù đầy cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên
lại trở về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:
Ngày nào gặp nhau, yêu nhau rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một người nhớ thương một người
Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã
“tiên tri” được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù
đã được ngụy trang là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi,
đâu có đánh lừa được ai, ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ
cho biết là: “Ba đi học tập” thì bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu
quá vậy, sao không về nhà?”. Vào thời kỳ đó và ngay cả cho đến bây giờ,
dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở chỗ tù lớn hay tù nhỏ
mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát biểu khi vượt
thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi.” để nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.
Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:
-Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.
Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm
cá” và ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng
tôi khỏi noi theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật
sự tung cánh về miền tự do rồi.
Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng
đẹp trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt
nhìn mà cứ tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về
Trại Nam Hà vào cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một
tay còn tay kia thì bị còng dính vào tay của một anh nữa, mà tôi không
biết tên, anh này thì một cánh tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao
đó, nghĩa là cứ hai người chung nhau một còng để mà hưởng cái hạnh phúc
không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người tù khốn khổ mỗi khi
chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự chuyển trại là
do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm đối với
dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp ủ
trong tâm khảm.
Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng
tôi không ai bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy
mẫu khai này rồi điền vào “ chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.
Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để
nghe nói chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen
làm việc “ban đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc
tự thấy là không chính trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay, mà điển hình là khi họ ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt”
của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà không dám công khai cho toàn
dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái bản chất coi thường,
khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn rêu rao để mị
dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị thua
đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các
anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay
đắng cho tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng
tôi ra xử công khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết
là chúng tôi vẫn còn có một quê hương để mà bảo vệ.
Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này,
chẳng thấy đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng
nói vòng hoài à!”
Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Kiều.
Tôi, như trong câu Kiều nói trên, đã phải chịu “phong trần” từ năm 1979
là năm tôi biết được phần đầu của câu chuyện và mãi cho tới năm 1985 tức
là 6 năm sau, khi có cái may mắn thoát chết vì bệnh phù thũng để rồi
qua bao lần chuyển trại và có lẽ do định mệnh hay do ông Trời sắp xếp
nên đã được nằm cạnh anh C. và mừng hết lớn, tôi không quên hỏi anh về
câu chuyện trốn khỏi trại tù hồi đó.
Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện của anh.
Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch
do tù hình sự đảm trách. Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường
hay ngồi cùng với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý,
sau một thời gian thì điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần
thu hẹp lại khoảng cách biệt và từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật
dẫn đến sự trao đổi tâm tình.
Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như
không nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “ hỏa tiễn made in
North Viet Nam” như đ...m..., đ....b... bay ra ầm ầm, làm choáng váng
người nghe, phải nói như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục, về con
người của “xã hội chủ nghĩa Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình
sự Miền Nam ở Long Giao những anh em tù này tuy là hình sự nhưng tôi
không bao giờ thấy các anh em này sử dụng các loại “hỏa tiễn” nói trên.
Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn luôn tỏ ra có sự trân
trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em chúng tôi ở phía
xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng gẫy cánh se
sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi tuy
rằng chúng tôi là những người thất thế.
Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi
trụy có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong
thiên đường của Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự !
Thế thì các trại tù như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở
Miền Bắc chắc là để nhốt muỗi hay sao đây!
Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét
mặt lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi làm quen, ngay từ lời nói
đầu tiên, tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê
với tôi, và cứ mỗi ngày một chút dần dần hai chúng tôi hiểu nhau nhiều
hơn và một khám phá nữa càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng
tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng
thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ như là bàn tay có 5 ngón!
Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm
ra là chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi
tắt là B. cho tiện, mới tiết lộ:
“Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?”
Tôi hỏi lại B:
“Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?”
Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố
quan trọng nào ở Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về
Việt Na. Đi cùng có 2 người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục
với chỉ thị nếu ai định đào tị sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm
nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải thanh toán, phải giết người vì người
đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm hư hỏng và lần nào cũng vậy,
cả ba phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3 người thì B là chính
còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói cho biết.
Cho đến một hôm, Tòa Đại Sứ nhận được công điện của Bộ Ngoại Giao trao
tặng cho B. một huân chương vì những thành quả đạt được và triệu hồi B.
về nước để nhận, dĩ nhiên Ông Đại Sứ rất mừng và cho làm tiệc tiễn hành
một nhân viên xuất sắc dưới quyền khiến ông được thơm lây theo như phong
tục của người Việt ta.
Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy Công An “dàn chào” cẩn
thận không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay
lập tức với lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra
là B. đã manh nha những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ
không có bằng chứng gì là phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không
cần tòa án xét xử dù cho chỉ có hình thức thôi, vì tòa án cũng là của
Đảng mà.
Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế
nào, vì nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là
Đảng sẽ chẳng ngại ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền
thống trị hơn nữa như là Đảng đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù
rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì
người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là đêm không cùng, chừng nào
mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó thì “tớ” mới có cả
ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay sinh sát của
mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng miền
Nam để chết thay cho “tớ”!
“Còn vợ của tôi ư, hiện nay bà ấy đang dạy học ở Đại Học Tổng Hợp Hà
Nội, thế nhưng bị kết tội như tôi, nhất là tội về “tư tưởng”, thì kể như
tiêu tán đường rồi và mình nên kiếm chước “tẩu vi thượng sách” là hơn
và cứ coi như mình hay vợ mình đã chết thì mình mới dễ dàng quyết định.
Đây là dịp để mình thử thời vận như các cụ ta vẫn thường nói: “Được ăn
cả, ngã về không”, vả lại, đời tôi kể như bỏ rồi!”
Kế đến anh nói một câu gở miệng:
“Đằng nào cũng chết, không chết trước thì cũng chết sau mà”.
Rồi như một thi sĩ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, B. , tằng hắng lấy giọng rồi ngâm khe khẽ:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tới
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
Như vậy, đối với B. thì đã xong, ngoài ra tôi còn rủ thêm được người bạn
thân của tôi là Th. T/N. cùng tôi trốn trại nữa, N. là bạn thân của tôi
từ hồi nào đến giờ. Là người trầm tĩnh, kín đáo, N. rất dè dặt từng lời
nói do đó mới có thể bảo mật được kế hoạch trốn trại vì người Pháp đã
chẳng có câu: “Sự bí mật của hai người là sự bí mật của tất cả mọi
người” đó sao và đúng như sự đánh giá của tôi, N. quả thật đã không phụ
sự kỳ vọng mà tôi tin tưởng nơi anh.
Việc nhín chút cơm, chút muối thì B. lo, cho đến ngày đã định, chúng tôi
kiếm cớ vào rừng lấy củi về nấu nước cho anh em rồi dông một mạch. Vì
tù đông nên mỗi đội khoảng từ 35 đến 40 người được cấp phát một đôi
thùng để nấu nước uống phát cho anh em ngay tại hiện trường lao động,
còn nhà bếp của Trại chỉ lo việc ẩm thực mà thôi.
Cứ ngày nghỉ đêm đi, vì nếu đi ban ngày dân thấy thì bị lộ, chẳng bao
lâu thì đã đến con sông phân chia ranh giới hai nước vì trại tù Phong
Quang chỉ cách Trung Quốc có 16 cây số đường chim bay mà thôi.
Tới được nơi đây thì cả ba đã quá mệt mỏi, nên sau khi thảo luận tất cả
đều đồng ý là hãy nghỉ cho khỏe rồi lúc mát trời vào lúc xế chiều sẽ đốn
chuối làm bè qua sông, tự do đã ở trong tầm tay chỉ với ra là nắm, là
bắt được liền vì nhìn qua phía bờ bên kia chúng tôi đã thấy một vài
người Hoa đang làm ruộng đầu đội nón rộng vành ờ phía xa xa, và đó là sơ
sót thật là đáng trách khiến về sau này chúng tôi cứ ân hận mãi. Thật
là không có cái dại nào giống cái dại nào, cơ hội đã đến lại để vuột
mất, y chang cái túi khôn của người Tây Phương đã được diễn tả trong
câu: “Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai cả”.
Sau khi đã quyết định như vậy rồi, chúng tôi mỗi người tìm một bụi cây
rồi chui và ngủ, và vì quá mệt mỏi nên cả ba đều ngủ quên đến khi nghe
tiếng chó sủa thì lúc đó trời đã tối đen, B. vội lao mình xuống sông
nhưng không kịp nữa rồi, một tràng AK vang lên trong đêm trường tịch
mịch và tiếp theo đó là một tràng AK nữa khi Th.TN. lao mình tiếp theo
cùng với B. Riêng phần tôi, một con chó berger Đức ở đâu gầm gừ lao tới
mõm đớp chặt ống quần khiến tôi không cục cựa gì được, một tên Công An
chĩa súng AK vào ngay mặt tôi, miệng quát lên:
“Động đậy ông bắn chết bây giờ.”
Sau đó là màn đòn thù liên tiếp giáng xuống, khỏi cần nói cũng biết là
thê thảm đến như thế nào rồi, riêng B. vì đạn trúng tim nên chết tại
chỗ, còn N. thì đạn trúng cánh tay phải nên bị gẫy tay. Khi về đến trạm
Công An biên phòng lại một trận đòn thù còn thê thảm hơn thế nữa khi họ
khám phá ra là chúng tôi là tù trốn trại chứ không phải là những người
buôn lậu.
Cuộc trốn trại không thành công nhưng tôi vẫn tự hào là tôi và những
người cùng tham gia đã giữ được bí mật đến phút chót, đã qua mặt được
đám cai tù chỉ có một điều ân hận là không biết cái chết của anh B. có
được thông báo cho gia đình anh ấy không, chắc chắn là nếu có, thì họ
cũng giấu nhẹm lý do anh ấy bị chết, vì đó là bản chất của họ.
Tôi tự an ủi là phần tinh anh của con người không bao giờ chết, chả thế mà trong Kiều có câu:
“Thác là thể phách, còn là tinh anh.”
Và chắc chắn là anh B. khi qua bên kia thế giới vĩnh hằng anh đã không
còn điều gì ân hận vì phần tinh anh của anh giúp anh biết được là anh đã
chết và chết như một con người tự do.
Sao Nam Trần Ngọc Bình.
PHẠM TIẾN NAM * HÀNH TRÌNH GIAN NAN
Phạm Tiến Nam
Tôi tên Phạm Hùng, bút hiệu Phạm Tiến
Nam (trở về nước Nam, hoài bão lớn nhất trong đời tôi ). Sinh quán Bắc
Ninh, vào Nam khi đất nước bị chia cắt, bỏ nước ra đi đến bến bờ tự do
năm 1080, sau nhiều lần bị tù tội. Đến năm 12 tuổi tôi vẫn còn bị mù chữ
( sinh năm 1941, đến tuổi đi học thì quê huogn chinh chiến! Theo gia
đình chạy giặc đến gần biên giới Hoa Việt. Trước năm 1975 tôi là giám
đốc ngân hàng, giảng sư đại học. Định cư tại quận Cam từ năm 1981 đến
nay, làm nghề tự do, tự học lấy bằng Master Of Business Administration,
và sau đó hoàn tất học vị tiến sĩ Quản Trị Hành Chánh ( Doctor Of
Business Administration ) Suốt tuổi trẻ, mò cua bắt ốc, mù chữ, những
kinh nghiệm tránh pháo rất già dặn, hai lần bỏ xứ ra đi, tôi nhấn mạnh
trong vài dòng tiểu sử này như một thông điệp đến những người trẻ sau
tôi.
Đến hải phận rồi, anh “nái” đi. Người tài công, cũng là chủ tàu – một
thuyền đánh cá chưa đầy 12m chiều dài, chòng chành, ọp ẹp – niềm hãnh
diện của hắn: Ghe ba “đầu bạc” (máy mạnh, có khả năng đi xa ). Hắn lui
ra sau, tôi ra hiệu bảo hắn tiếp tục lái, “lấy 23 độ tây nam”, tôi nói.
Tôi rùng mình nghe rờn rợn luồn vào sau gáy, chạy dọc sống lưng! Lần đầu
tiên trong đời điều khiển Con thuyền, gần trăm sinh mạng nương tựa vào
tôi. Từ Phước Tỉnh, hắn vào Sài Gòn cưới vợ thành thị. Do người bạn tù
vượt biên môi giới, tôi quen được hắn, tôi loè hắn nói không ngượng mồm,
rằng tôi học giỏi, nói tiếng Anh giỏi, giỏi nghề đi biển, hắn chỉ lái
tới hải phận, sau đó mình tôi “bao dàn”, tới Mã ngay chóc.
Tôi cố thuyết phục hắn cho chuyến đi này, vì đã nhiều lần tanh bành tù
tội, hắn tin tôi lắm, còn cho bớt nửa cây vàng nữa, mỗi đầu người hắn
lấy 3 cây. Hắn mười mấy năm “đi chã” (đánh cá ngoài khơi ), kinh nghiệm
dầy dạn, còn tôi vừa mới học lóm được vài điều sơ đẳng từ đứa cháu học
trường Hàng Hải Thương Thuyền, cháu dặn: “ Cậu lấy 23 độ tây nam khi tới
hải phận quốc tế để đến Mã nếu đi từ Vũng Tầu, biển mình sâu chừng 60
fathom, tháng tư tây có gió Monsoon (gió nồm), trời tháng ba bà già đi
biển mà cậu!” Hành trang mang theo của tôi còn cuộn dây dài gần 60 sải,
có một cục sắt nhỏ ở đầu dây để dò nông sâu đáy biển, một ít lương khô,
sắm cái ống nhòm và hai viên hỏa pháo. Đi hơn một ngày đường, người tài
công reo lên: “Đến rồi, đến rồi”. Sao mà mau thế, tôi không tin hỏi hắn:
“ tàu em chạy mấy hải lý một giờ?”.
Hắn nhăn nhó lắc đầu cười hềnh hệch. Tôi móc trong túi ra cuộn dây, thả
xuống biển, hết cả cuộn dây mà có cột cục sắt vẫn chưa đụng đáy. Tôi la
lên thuyền quay lại hướng cũ. Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chính hắn hớt
ha hớt hải la to, bảo rằng thuyền đang đi ngang qua Côn Đảo, mọi người
nằm rạp xuống. Mấy thanh niên vội giăng lưới lên, giả làm thuyền đi đánh
cá. Phải vài tiếng sau, núi đồi Côn Đảo mới mờ dần trong tầm mắt. Giã
từ quê hương yêu dấu! Lúc ở nhà tôi vò đầu suy tính, đi Thái Lan thì
gần, nhưng sợ hải tặc, bọn chúng tàn ác, qua Phi hay Nam Dương, phải
vượt đại dương, đi Mã, chọn lựa sau cùng. Bốn ngày đêm đã qua, mịt mờ bờ
bến, chỉ toàn nước trời mênh mông. Dầu đã cạn cùng với lương khô và
nước uống. Đàn bà, trẻ con, người già yếu, rũ rượi la liệt ngổn ngang
nằm trên mạn thuyền, vài ngày nữa mà không đến là chết cả thuyền.
Vì công an theo dõi ngặt ngèo, sơ hở một tí là bị tóm ngay, nhiều người
phải mang dầu đi chôn. Riêng tôi dặn hắn lấy ruột tượng đựng lương khô,
bỏ dầu vào bao nylon, quấn ngang người, tải từ từ lên ghe, ròng rã nhiều
thàng trời mới mang được chừng năm ngày dầu. Biển lặng, có gió nồm thổi
xuôi Nam. Xa xa có một con tàu, lấy ống nhòm ra chỉ thấy được một
khoảng cách vài thước, bèn bắn pháo báo nguy, pháo xịt cả hai viên! Tàu
lại gần hơn, mọi người vẫy tay khẩn nài. Những cánh tay rã rời buông
xuống, tiếng kêu tuyệt vọng dâng lên, tàu hải tặc đụng vào mạn thuyền
chúng tôi, mấy tên đen ngòm, tóc xoăn, mắt trắng dã, mặt như quỷ dữ man
rợ rợn người, quấn loại sà rông sắp tụt, lâm râm van vái, có tên còn lần
tràng hạt! Sau màn cầu nguyện, chúng la hét, sấn sổ nhẩy qua ghe chúng
tôi, mã tấu, súng dài bắn loạn xạ.
Chúng lùa trai tráng vào góc thuyền, phụ nữ người già lùa vào một nơi.
Chung nắn, bóp, xé quần xé áo, lột cả nịt ngực quần lót ra xem! Tháo
nhẫn dựt giây chuyền, bứt bông tai, miệng hét, tay nắn, chân đạp, đồng
bọn đứng gác lăm le nổ đạn. Chúng dùng dao rạch các túi hành lý, lục lọi
tung toé, chọn những thứ gì có giá bỏ vào những túi lớn chúng mang
theo. Sau đó quay sang đánh đập, khảo tra đám trai tráng. Không ai dám
chống, trẻ nhỏ cũng im thin thít, ai nấy im lặng chờ những nhát chém
lạnh như thép phậm vào sau gáy. Bỗng có chiếc thương thuyền đang tiến
lại gần, bọn hải tặc lơ láo vội rút đi. Thương thuyền lướt qua, nhiều
người quỳ xuống van lậy, xì xụp kêu gào, tế như tế sao!
Chiếc thương thuyền vẫn lặng lẽ rẽ sóng, để lại sau lưng nhiều lọn sóng
cao, thuyền con chúng tôi như muốn lật nhào, tiếng khóc òa lên, vật vã
kêu gào, thần chết chập chờn lởn vởn! Gần năm ngày đêm ròng rã, chỉ toàn
mênh mông biển rộng, biển xanh liền với chân trời. Mây vàng đỏ ối nơi
cuối chân trời, có bầy hải âu bay lượn, người tài công reo lên, nói rằng
thuyền đã gần đến bờ, hắn bỏ tay lái để chỉ cho mọi người nhìn rác rến
trôi lềnh bềnh trên mặt biển. Tôi lấy cuộn dây trong túi thả xuống nước,
một nắm dây vẫn nằm trong lòng bàn tay, mà đầu dây đã chạm đến đáy
biển.
Tôi lẩm bẩm “ba mươi fathom, đến thật rồi!” Tôi cho thuyền chạy hướng
chính tây để đâm vào bờ, gần nửa đêm nhìn bằng mắt thường cũng thấy đất
liền, ánh đèn lập loè, tử thần đã đi qua! Khôgn cặp thẳng bờ, tôi cho
thuyền xuôi nam song song bờ biển, lánh xa vùng Bắc Mã có du kích Mã
Cộng. Dự định vào đến bờ phải gặp ngay các cơ quan thiện nguyện và giới
truyền thông, lọt vào tay bọn lính biên phòng, trước khi truyền thông
biết là đại họa: Thuyền bị đục thủng, hút cạn hết dầu, cho tàu chiến kéo
thuyền tị nạn ra khơi, chặt đứt dây. Nhiều thuyền đầy ắp người, bị kéo
ra giữa khơi mùa biển động, rồi sau đó chẳng ai nghe gì về những con
thuyền bạc mệnh ấy!
Trời đã sáng nhìn rõ mặt người, dầu cũng hết, tôi cho thuyền vào bờ,
thuyền cặp bãi cát của thành phố nghỉ mát Kuantan một buổi sáng đầu
tháng 6 năm 1980, bãi vắng hoe, thành phố còn thiu thiu ngủ. Mọi người
chạy ùa lên bãi cát, gặp ngay anh Mỹ đen, tôi khẩn nài nhờ anh giúp. Một
lát sau anh quay trở lại cười báo tin vui rằng anh đã gọi được nhiều
nhà báo, báo với cả Liên Hiệp Quốc, anh còn cho một cây thuốc lá Mã
Stuf, ân cần dặn dò và chúc may mắn.
Tôi ngậm ngùi xiết chặt tay anh. Chiếc thuyền cưu mang chúng tôi đã chìm
hẳn, nếu không thì tôi cũng phải đục thủng nó, mọi người yên
lòng: thuyền đã chìm, đã gặp được nhiều nhà báo, bọn Mã
không dám đẩy chúng ta ra lại ngoài khơi. Mãi quá trưa quân đội
mới tới, bốn tên lính Mã quân phục xộc xệch, đi dép nhựa, đeo
súng săn, tay cầm gậy dài, hỏi chúng tôi ai là người trưởng
đoàn, đập vào đầu tôi mấy hèo dằn mặt! Không đau đòn, nhưng đau
lòng, tủi phận. Sau này trên đường đi định cư Hoa Kỳ, tôi được ghé Hồng
Kông để đổi máy bay, bọn chúng tôi rách rưới. Mấy tên cảnh sát phi
trường dùng dùi cui xua đuổi, hăm dọa đánh đập những ai đi ra khỏi chỗ
ngồi qui định. Ai đã đưa dân tộc Việt nam đến tình cảnh khổ nhục này?
Pulau Bidong là một hoang đảo ở giữa đại dương, rộng vài cây số vương,
lởm chởm núi đá, mấy chục ngàn người chen chúc, dựng lều ven vách núi
chui rúc, lúc cao điểm gần 60 ngàn người. Trước ngày tôi đến đảo vài
tháng, thế giới đã phải kêu lên rằng “ có phép mầu, bệnh dịch mới không
xảy ra”. Ban ngày người ta chen nhau đi như buổi chợ phiên, bụi mù mắt,
nắng cháy da, tiếng ồn ào như vỡ chợ. Có những vùng đất trống, phân
người và nước tiểu lầy lội lên đến mắt cá, ruồi nhặng vù vù bay kín
trời, mùi hôi thối nồng nặc, nắng trưa khắc nghiệt tăng độ nồng, cơn gió
nóng thổi qua, đẩy dội ngược lại đằng sau, những ai hít phải sặc sụa
cúi gập người xuống ôm ngực. Chuột từng bầy, to bằng bắp chân trẻ con,
trụi lông, thân mình đỏ lòm lở lói, hai cục hạch to bằng hai viên sỏi,
khệnh khạng di chuyển chậm chạp lền khên, nhìn thấy lần đầu nhiều người
nôn mửa! Dọc theo con suối cạn, xác chuột nằm rải rác kín hai bên bờ, đi
hứng nước tắm phải khéo lắm mới không dẫm phải xác chuột đã sưng vù.
Hằng ngày nhiều thanh niên đi nhặt xác chuột bốn năm cần xế bự đầy vun
tới bốn năm thanh niên lực lưỡng khiêng mới nổi. Trong trại, những băng
đảng nổi lên cướp bóc, hãm hiếp, mãi sau nhờ lính Mã tăng viện mới dẹp
được. Những tranh giành lều chiếu, nơi ở tiện nghi, rồi nào tham ô,
những lạm với những đổi chác để mong sớm được rời đảo. Có chợ mọc lên
buôn bán, hàng hóa lính Mỹ đem qua từ đất liền, tiệm ăn, quán cà phê mọc
lên ven bãi cát. Những máy tàu cải chế thành máy phát điện, gạo tẻ và
khí đá chế thành rượu để uống say mèm quên đời lưu vong. Thời gian tạm
trú trên đảo thường thì trên dưới một năm, một năm cũng là dài đăng
đẳng! Những cuộc tình vội vàng, chắp nối nở rộ. Lộng ngôn mới gọi đó là
những cuộc tình, thật ra chỉ là những chung đụng thân xác, được vài ba
tháng thì lại chia tay nhau, mỗi người đều có phận riêng.
Thuốc ngừa thai được Liên Hiệp Quốc phát không rộng rãi. Thế nhưng vẫn
có tiêng khóc chào đời, tiếng khóc dư thừa ngoài mong đợi. Chưa kể những
thai nhi bị xóa đi dấu vết sau “những cuộc tình trên đảo”... Ở Bidong
tôi làm việc trong phòng điều tra tội ác hải tặc, tôi thường phỏng vấn
đồng bào tị nạn khắp nơi dạt vào đảo, xin kể ra đây những cảnh Kinh
hoàng, tất cả là sự thật, vì trí tưởng tượng của loài người không thể
nào có thể dựng lên, dù chỉ bằng phần nhỏ, những chuyện tôi sắp kể... Có
thuyền trôi dạt, đáp vào bờ cát Bidong, thuyền gần trăm người, chết còn
mươi mạng, chết vì đói, chết vì khát, bị hải tặc chém đầu ném xác xuống
biển cho cá dữ rỉa thây.
Có thuyền bị cháy nám, lờ đờ trôi gần đảo, con thuyền ma không còn ai
cầm lái, thanh niên Bidong chèo ghe ra kéo thuyền vào bờ cát, thuyền còn
lại mươi người thoi thóp, nằm la liệt trên mạn thuyền, xác người ngổn
ngang bốc mùi, có những bé thơ chết hồn nhiên nằm ôm vú mẹ. Có bà mẹ
được dìu xuống bến, vẫn ôm chặt đứa bé trong tay, bỗng òa lên khóc, đứa
bé đã chết từ lâu, bà vật vã gào thét không ra tiếng khóc, bà
vẫn mớm con bằng chính nước dãi của mình, bà vẫn lấy nước
tiểu của con, vàng khè quánh đặc, để rửa kinh trong những ngày
có tháng! Có mấy em gái khệnh khạng, áo quần tả tơi, bê bết
vết máu đã khô đen, lờ đờ lảo đảo lên bờ trên cát, em chợt
ngồi xuống ôm mặt thều thào gọi mẹ cah, em khóc không ra nước
mắt. Lúc sau tỉnh lại, em gặp được mẹ được cha, được cả anh
và cả thằng em trong đống xác người vừa mới được chuyển từ
thuyền lên bãi cát, những cái xác tô hô nằm trên cát nắng thiêu
người, không manh chiếc rách để liệm!
Có mấy bé trai, vùng dậy sau khi được mớm sữa, bé chạy tung
tăng đi tìm cha mẹ, những người từ tâm ôm em vào lòng dỗ dành
bảo rằng em sẽ được gặp lại cha mẹ! Vài người sống xót chẳng
hiểu vì sao mình hãy còn sống, nghẹn ngào kể lại chuyện đau
buồn, hải tặc bắn xối xả vào thuyền, nhiều người đã bị chết
ngay lúc đó, nhiếu người hốt hoảng nhảy xuống biển, mùa biển
động cá dữ đói ăn, nghe mùi máu tanh kéo đến từng bầy, vẫy
vùng giành nhau phanh thây xé xác, thịt xương, áo quần, ruôt gan
lóng thòng, nổi lềnh bềnh trong vũng nước đỏ ngầu, chỉ trong
khoảng khắc bầy cá dữ tha đi hết thịt xương, để lại đại dương
một vùng nước đỏ ngòm. Bắn xong chúng nhẩy qua thuyền, chém
loạn cuồng, mã tấu bửa xuống đầu, chẻ lên vai, phạm ngang lưng,
đâm vào bụng, ruột lòi ra lóng thòng trắng hếu! Máu đỏ từng
vòi phun tung toé.
Tay chém, miệng gầm, áp đảo xong chúng bắt đầu cướp, lùa đàn
bà con gái xuống khoang thuyền, những thân gái bị quăng quật,
xé nát áo quần. Bọn chúng dành nhau những thân gái yếu đuối!
Những xác thân trần truồng quì xuống van lậy, chúng vẫn cười
đùa chẳng tha, nhiều cô nằm thoi thóp, chúng lấy dao chích máu,
rạch đùi, cắt đầu nhũ hoa, đam vào hạ bộ cười hô hố. Trước
khi bỏ đi còn mang theo vài người nhan sắc, đem bán cho những
thanh lâu, hay đem đến một cái hải đảo hoang vu nơi có sào huyệt
của bọn chúng, nhốt ở đó để thỉnh thoảng ghé vào hành hạ,
chán chường thì đem đi bán, hoặc bỏ trôi trên biển, khi chúng
cướp thêm được gái mới.
Báo chí có loan tin, vài cô trốn được kể lại những chuyện
thương tâm. Hải tặc thường đâm thủng thuyền, đốt phá, tạo kinh
hoàng rồi cướp bóc, cướp tất cả giết nhiều người dù không
chống cự, hiếp cả người già...Sau đó cho đánh đắm thuyền để phi
tang, nhiều người may mắn dạt được vào bờ thác loạn thần
kinh, ngập ngừng không trả lời câu hỏi rằng đã có ăn thịt người
chết để sống không? Không chắc...vì trong cơn thoi thóp có
người mớm cho ăn, cũng chả hiểu tại sao còn sống được! Có
những thiếu phụ mất tất cả chồng con, ôm trong lòng cái thai
oan nghiệt. Có những ông chồng còn lại một mình lầm lủi.
Những em nhỏ côi cút nước mắt chưa khô không còn ược sống hồn
nhiên, có những bé trai khôi ngô mắt sáng sống đời ám ảnh cảnh
mẹ, cảnh chi bị dày vò, có những em gái đẹp hiền dễ thương,
sớm bị đọa đày sống đời buông thả. Ít có gia đình còn được
đầy đủ, dọc đường mất mát. Hay lúc ra đi không thể đi chung phải
phân tán nhỏ để lỡ có bề nào còn chỗ nương tựa. Bên cạnh
những buông thả cuồng loạn, cũng còn những thủy chung,mực
thước, đời sống đơn sơ đạm bạc, nhìn về tương lai. Bidong được
chia ra làm nhiều nơi cư trú. Khu C có bãi cát vàng, nổi
lên những quán cà phê, cuối bãi có ngọn núi trọc, nơi an nghỉ
sau cùng của những người chưa tìm được tự do đã vội đi vào
lòng đất, nơi đây cũng là nơi an nghỉ của những cái chết đau
thương. Bidong trước ngày đóng cửa vĩnh viễn đã là nơi xẩy ra
những cuộc biểu tình đẫm máu của những người bị cướp đi
quyền tị nạn, có nhiều người đã tự mổ bụng mình hoặc tẩm
dầu thiêu rụi xác thân cháy như ngọn đuốc tự do, quyết không trở
lại quê hương ngục tù.
Có nhiều trăm ngàn người đã bỏ xác trên biển đông, cũng có
hàng trăm ngàn người đã chịu nhục nhằn, nhưng cả triệu người
không chùn bước lũ lượt ra đi, triệu người muôn đời không phủ
nhận quê hương, muôn đời hãnh diện tổ quốc, tự hào dân tộc.
Chúng tôi chỉ phủ định chế độ nên chúng tôi ra đi, coi nhẹ nguy
hiểm, khinh thường cái chết, lánh xa bạo quyền. Mảnh đất tạm
dung sẽ đến nếu là hoang vu cằn cỗi, nếu là sa mạc buồn tênh,
liệu có triệu người bất kể sinh mạng liều chết ra đi? Tự do
chất chứa cái quyền được sống là người, nhân quyền ấp ủ cuộc
sống no lành. Đường đi tới tự do gian nan, phủ đầy máu lệ,
thịt xương vương vãi dọc đường. Những gì thuyền nhân Việt nam
đã trải qua chưa một lần xảy ra trong nhiều nghìn năm lịch sử
loài người. ::: Phạm Tiến Nam:::
|
NGUYỄN VĂN SÂM * TRƯỜNG PETRUS KY
Nguyễn Văn Sâm
Vì theo gia đình di chuyển nhiều lần trong chiến cuộc, tôi học lớp Nhứt 4
(lớp 5) tại trường Tiểu học Trương Minh Ký niên khóa 1953-54 khi đã 13
tuổi. Trường tọa lạc ở góc đường Kitchener và Galliéni, nay là trường
Nguyễn Thái Học cũng ở góc đó nhưng tên đường đã thay đổi: Nguyễn Thái
Học và Trần Hưng Đạo, Saigon.
Những ngày cuối năm, thầy Đại nói trong lớp vài ba lần: ‘Cả lớp nầy tao
thấy không có đứa nào đậu vô trường Petrus Ký được hết, đứa nào đậu về
đây tao thưởng, muốn gì được nấy!’ Là một trong ba đứa giỏi nhứt lớp lúc
đó, nghe thầy nói thì nghe, không biết bạn bè cùng lớp thì sao, chứ tôi
không có ý kiến gì. Ừ thi thì thi chứ biết làm gì khác hơn? Anh Thơm
tôi đã đậu năm trước. Con đường đi đã sẵn thì phải đi thôi, cũng không
biết là có trường nào khác dễ đậu hơn hay không vì nhà tôi chẳng có đàn
ông để biết chuyện ngoài xã hội, bỏ thí hai anh em tôi cho trời đất,
nghe ai xúi biểu gì thấy phải phải thì làm, may nhờ rủi chịu.
Khi có giấy báo danh tôi phải tự mình đi trước nhiều lần cho quen đường
đề phòng trễ giờ ngày thi. Sáng sớm đi bộ từ nơi đương ở là cái quán nho
nhỏ bán đồ bazaar của cô tôi ở góc đường Quai de Belgique (nay là Bến
Chương Dương) và Yersin, theo đường Yersin ra tới đường Galliéni. Năm
đó có sự kiện đất nước bị chia hai và có sự người Bắc di cư vào Nam. Một
số được cho tạm trú tại trường Trương Minh Ký. Mặc dầu đi đâu, khi
ngang trường cũ, ngó vô cảnh tượng nhộn nhịp, thế nào tôi cũng bước vô
cửa nhìn ngó vì thấy những người mới tới lạ trong cách nói và giọng nói.
Ngó chán thì thằng nhỏ băng qua lộ đón xe autobus đi tới trạm Nancy
xuống để quẹo mặt vô đường Nancy (nay là đường Nguyễn Văn Cừ) lội bộ tới
trường.
Khoảng đường nầy, độ chừng hai cây số, với con trai tuổi 14 thì không xa
lắm, đường rộng, hai bên đường có hàng cây dầu mát mẻ. Thỉnh thoảng có
vài cái ao nho nhỏ. Có lần đi về trễ, mặt trời xuống thấp mau, tiếng ếch
nhái hòa nhạc đã bắt đầu, khiến thằng bé bước dồn lẹ chưn hơn.
Nhớ là thi ba buổi: Luận văn, Câu hỏi thường thức và Toán. Mỗi môn có hệ số của nó, nhưng môn Toán có hệ số lớn nhứt.
Luận văn thì làm dễ dàng vì từ lúc biết chữ cho tới lúc đi thi
tôi ngốn hết cả trăm quyển tiểu thuyết tiền chiến, Tự Lực Văn Đoàn và
gần như thuộc lòng hầu hết các câu chuyện trong mấy bộ truyện Tàu của
nhà xuất bản Tín Đức Thư Xã ở đường Sabourin (sau nầy là Tạ Thu Thâu) vì
cái sạp của cô tôi có bán thơ truyện. Thêm nữa, trong khi học lớp Nhứt,
tôi thuờng tới nhà thằng Trang mượn nhiều tiểu thuyết ở ngoài tiệm
không có bán vì gia đình ba nó giàu, trước chiến tranh đã mua sách thẳng
từ Hà Nội.
Câu hỏi thường thức và Sử ký Địa lý thì tôi trả lời theo cách của
mình, viết câu văn của mình, theo lời thầy Đại dạy: ‘Tụi bây ráng học
cho hiểu rồi theo đó mà viết, đừng học thuộc lòng mà trả lời theo sách.
Giám khảo cả ngày đã chấm cả mấy trăm bài, chán tới bản họng nên cho
điểm sàng sàng không lớn dầu mầy làm trúng một trăm phần trăm, gặp bài
thằng nào viết đúng mà giọng văn riêng của nó thì hứng chí cho lớn
điểm.’ Tôi cứ theo cái chỉ nam đó mà thực hiện, lại còn vẽ hình như đã
làm trong các kỳ thi Lục Cá Nguyệt ở lớp mỗi khi bài cần hình vẽ con nầy
con kia hoặc là hình dễ hơn nhưng có tính cách minh họa cho bài như hai
cái thùng trong bình thông nhau, hay kiểu cất rượu để hơi rượu chạy qua
lò so xoắn nhúng trong bồn nước lạnh…. Nhớ là hôm đó tôi có vẽ hình với
sự hồi hộp giám khảo không coi đó là dấu hiệu để gian lận.
Bài Toán làm rồi kiểm tra ba bốn lần vẫn còn dư giờ, tôi ngồi ngó bâng quơ, liếc thấy thí sinh kế bên trả lời ,
nay kêu làđáp số, khác mình thì dò lại lần nữa, thấy mình đúng thì
quyết định đưa bài cho giám thị với câu an ủi trong lòng. Nó trúng thì
nó đậu, mình trúng thì mình đậu. Tuy nói vậy nhưng tôi tin tưởng là mình
trúng vì đã dò đi dò lại nhiều lần, trước khi trao cho giám khảo còn
đứng xớ rớ dò tới dò lui lần chót. Thường thì loại Toán miếng đất hình
chữ nhựt bề dài… bề ngang… bốn góc có cắt ra bốn hình chữ nhựt nhỏ cho
người khác. Còn lại thì rào, tiền rào mỗi thước là… Hỏi tốn bao nhiêu
tiền hàng rào… Nếu cần thì thêm câu hỏi giá mua mỗi mét vuông là... thì
tất cả phải mất bao nhiêu tiền. Kiểu nầy tôi vẽ hình ra cho lớn thì thấy
rõ ràng. Một trong cái khó là phải làm toán nhơn với số lẻ, làm xong
sau khi thử bằng số 9, còn phải làm lại lần nữa coi có giống không mới
chắc ăn vì thử bằng số chín mau mà có thể sai.
Hơn sáu chục năm qua, không còn nhớ mấy bài thi tuyển năm đó thế nào,
dầu sao cũng tương tợ như trong chương trình lớp Nhứt đã học.
Trường báo tin sẽ có kết quả ngày đó tháng đó, nhưng một tuần trước tôi
nóng lòng đã đi tới trường cầu may coi có công bố kết quả chưa. Vậy mà
đã có sớm. Thấy tên mình đậu thứ 119 trong số 400 học sinh được chọn,
với sỉ số hơn bốn ngàn. Tôi mừng quá, khi xuống xe autobus thì chạy u
liền về báo tin lung tung cho mọi người. Rồi cả tuần nầy mỗi ngày tôi
đều lên trường coi cái bảng phong thần kia còn hay mất, sợ rằng người ta
làm lộn gì đó, lấy vô sửa lại không có tên mình thì ‘chết cha’, hút gió
không kêu. Thêm nữa, cũng sợ cái bảng đó không phải bảng kết quả.
May quá đâu vẫn còn đó. Chỉ có điều là nhiều tên có viết nguyên tử quẹt
tới quẹt lui do ai đó thò viết vô lỗ lưới gạch dưới tên con em của mình.
Vậy mà tới ngày chánh thức có kết quả, tôi cũng tới, chen lấn coi bảng
như mọi người khác, cũng bị người lớn ép gần ngộp thở để vô cho được
hàng trong cùng trình diện cái bảng. Nó nằm đó, giống y chang bao lần
mình dò trước đây. Vậy là chắc ăn không còn lo sợ gì nữa.
Rồi cô tôi sắm cho quần Tây dài, giày sandale da do người thợ giày quen
ngồi ở góc đường trước tiệm chụp hình Phong Lai gần cầu Ông Lãnh đóng
theo ni chưn, dưới đế còn được tăng cường thêm miếng sắt, người thợ nói
để cho gót da khỏi bị mòn. Giày mới đi nghe lộp bộp oai vệ như người lớn
khi đi làm với nón nỉ, cặp da. Cô tôi nhắc đi hớt tóc. Cho tiền mua
cái đồng hồi cũ o lại của ông thợ sửa đồng hồ trước tiệm nước của chú ba
tàu mập chuyên môn bận áo thun ba lỗ và quần xà lỏn lòi rún. Chưa tới
ngày đi học nhưng được đeo đồng hồ lần đầu tiên tôi lâu lâu ngó xuống
cườm tay mình ra điều hãnh diện.
Đi học trường nhỏ, học trò ăn bận lôi thôi… vô trường lớn, phải bận quần
xanh áo trắng bỏ vô quần, chúng tôi thấy mình đã lớn. Lại còn có phù
hiệu bằng sắt, lúc đó kêu là ensigne, đeo lên túi áo, tưởng chừng như
con gái cùng lứa thế nào cũng ngó trầm trồ.
Tôi được xếp vô lớp Đệ Thất G, trong đó có trò Nguyễn Tuấn Anh đậu vô
hạng nhứt. Nghe nói anh ta đậu hạng nhứt tôi nể quá, chắc là mình không
theo kịp, phải cố gắng tối đa. Học chung với nhiều bạn rất dễ mến như
Châu Thành Tích, anh nầy học có một năm thôi, vậy mà sau nầy lớn lên gặp
nhau ở CA, qua phôn, hai đứa nói chuyện xưa mệt nghỉ. Thằng Khâm rất dễ
mến vì nói năng nhỏ nhẹ trong khi nó lớn con đen bóng vì tập tạ và chơi
đá banh cả năm trước. Sau nầy Khâm làm thầy giáo, bị động viên sau Tết
Mậu Thân rồi mất không lâu sau đó. Thằng Quách Văn Thành ngồi kế bên 2
năm liền, đã có vẻ người lớn trong khi đa phần chúng tôi còn tánh tình
con nít.
Tiếc là ra đời chỉ gặp lại có một lần ở tỉnh lẻ miền Tây rồi không bao giờ gặp lại nữa. Còn nhiều đứa nữa: Trí bớt, hiện ở CA, Trí Đinh làm luật sư ở Sàigòn, Lễ cây xăng sau nầy phát nguyện tu hành, Nam cao, Mẫn chị Hai,
Hàn Minh Đức, Lê Cảnh Tuệ tất cả sau nầy cũng đều thành đạt, ra đời có
chức vị nhưng không bị tai tiếng gì…… Sang năm thứ hai, lớp Đệ Lục G thì
có đứa bạn, thằng Mai T. Tr., cái tên lạ lùng mà dễ nhớ, đã cùng học
chung lớp ở trường Trương Minh Ký được tuyển vô lớp Đệ Lục. Bạn bè trước
ở trường nhỏ, gặp nhau ở trường mới thiệt là hạnh ngộ. Chúng tôi gắn bó
từ đó. Ra đời cùng làm nghề giáo ở Sàigòn, liên hệ với nhau thường, qua
Mỹ gặp nhau lại, giao tình như ngày cũ.
Năm học bắt đầu với những vị thầy mà chức vụ kêu là Giáo Sư, mỗi Giáo Sư
phụ trách một hay hai môn, tới giờ thì đi tới lớp mình phụ trách. Học
trò thì ở nguyên trong lớp đợi sẵn. Điều nầy rất lạ đối với học trò
Tiểu học mới lên như tôi. Còn nhớ Anh Văn thầy Nguyễn Văn Thái cao, ốm
đen, răng hô, nói nhiều, bắt học trò phiên âm quốc tế mệt nghỉ, nhờ vậy
mà sau nầy tôi phiên âm quốc tế rất chì. Một lần tôi gặp ái nữ của thầy
đang sanh sống ở Orange County, cũng mừng!
Sử Địa Bà Dung mặt thiệt nghiêm, không thấy cười bao giờ, học trò sợ
xanh mặt khi bà đưa cây viết trên cuốn sổ điểm danh rà rà kêu tên, đứa
nào chỉ con sông từ cửa biển vô là lãnh trứng vịt lộn, nghe đâu sau nầy
bà định cư ở Canada và qua đời bên đấy. Cô Sâm trẻ trung, vui tánh, dạy
Việt Văn, học trò đứa nào cũng thích. Sau nầy khi ở Mỹ về, tôi thường
ghé thăm cô, rất đau lòng khi thấy người cô thần tượng của mình, cuối
đời bệnh hoạn. Toán Giáo Sư Nguyễn Thạch dạy năm đó rồi năm sau ra làm
huấn luyện viên Thể Dục, Vạn Vật Giáo Sư Trần Huệ, người thầy hiền mà
sau nầy trên đường đời tôi có duyên được gặp trong nhiều giai đoạn. Nhận
xét là các Giáo Sư đều dạy tận tâm, nếu có khắt khe là vì tương lai và
lợi ích của học sinh chớ không vì gì khác.
Năm đó, tôi bày đặt mua báo Ciné Monde và Ciné Revue để coi hình tài tử
thì ít mà dò coi có cô đầm trẻ nào thì viết thơ chơi correspondent. Cuối
cùng cũng liên lạc được 2 cô trong 2, 3 năm gì đó, tới giờ già đầu rồi
mà vẫn còn nhớ tên các nàng tuy rằng quên tuột tỉnh thành của họ. Lần
nào thầy giám thị Phấn đi xuống, tay chấp sau đít có cầm cái bao thơ thì
tôi run run vì mừng biết rằng mình sẽ có thơ từ tuốt bên trời Tây xa
lắc lơ. Thầy Phấn lần nào đưa thơ cũng nói: ‘Học không lo học, thơ với
từ.’ Mười hai năm sau, khi về dạy lại ở trường cũ, tôi chào kính các
thầy cô xưa của mình, khi nhắc với thầy Phấn về chuyện thơ từ của mình
thì thầy cười: ‘Nhớ chứ sao không nhớ, lúc đó Giáo Sư là một trong hai
ba học sinh có thơ từ bên Pháp qua thường xuyên.’ Ôi thời trẻ sao mà
ngông nghênh, dám đưa tay lên tính ngắt sao trời! Nói theo bây giờ: Yếu
mà đòi ra gió!
Năm đó 1955, tháng ba, có trận đụng độ giữa quân đội của chánh phủ và
quân đội Bình Xuyên. Một đơn vị Bình Xuyên có tên là Công An Xung Phong
đóng trong trường từ lâu. Một đơn vị Nùng tấn công để đuổi họđi. Chúng
tôi học trò các lớp nhỏđương giờ học thì súng nổ lốp bốp điếc tai. Đứa
nào đứa nầy sợ xanh mặt nhưng vẫn ngồi yên chờ sự chỉ dẫn của Giáo
sưđương dạy. Chúng tôi đương học giờ Pháp Văn với thầy Phạm Văn Thới.
Thầy từ tốn ra lịnh cho tất cả nằm xuống đất. Tất cả lẹ làng làm y theo
nhưng đứa nào cũng lén liếc lên coi thầy làm gì. Thầy Thới ung dung đi
qua đi lại trong phòng, hút thuốc, thỉnh thoảng bước ra ngoài hành lang
nghe ngóng khi súng đã êm êm trước khi dứt hẳn.
Chúng tôi chưa từng nghe tiếng súng quá gần, đứa nào cũng phục thầy.
Thầy bình tĩnh, giữ lớp thiệt kỷ luật, không có đứa nào chạy lộn xộn,
không đứa nào khóc la. Thầy luôn miệng trấn an: ‘Mấy toi nằm xuống là đạn không trúng đâu, có lính vô đây moi
sẽ đuổi họ ra.’ Mà hình như lớp nào cũng vậy, êm re, không nhốn nháo
dầu chưa thực tập để biết phải làm sao trong tình huống nầy.
Vậy mà ban Giám Đốc trường đã làm nhiệm vụ mình tuyệt vời. Ông Hiệu
Trưởng Phạm Văn Còn yêu cầu viên Đại Úy có trách nhiệm tấn công lúc đó
ngừng bắn để cho tất cả học sinh ra về. Chúng tôi lục đục ra lấy xe đạp
về, vẫn là theo kỷ luật như mọi ngày chớ không chạy giành trước giành
sau chen lấn gì hết.
Hôm sau đi học lại, tôi còn nhớ một xác chết đầy máu nằm trên hành lang
bên tay trái, học trò đứa nào đi ngang cũng né. Và tượng ông Petrus Ký
bị một viên đạn bắn vô má bên tay mặt, chúng tôi sau nầy thường nhắc lại
với nhau với vẻ buồn buồn: ‘Chiến tranh cho ông học giả của chúng mình
một đồng tiền trên má!’
Năm đầu tiên Trung Học, tôi có nhiều ấn tượng tốt với sự ngưỡng mộ các
Giáo sư của mình, hỏi các bạn trong các lớp khác cũng có cảm tưởng y
chang như vậy. Quí thầy chăm lo việc học của chúng tôi và tạo được tình
thương cũng như sự kính nể của học trò. Hơn sáu mươi năm qua, bạn bè
thất lạc, mất còn, quí thầy cũng đi về miền miên viễn hầu hết, nhưng
hình ảnh trong tâm trí tôi, và chắc chắn các bạn khác, cũng vậy, không
phai.
Tại sao vậy? Tôi nghĩ đó là truyền thống lâu đời của ngôi trường danh
tiếng, ngôi trường đến nay đã ngót nghét một thế kỷ, đào tạo được nhiều
người tài nặng lòng giúp nước thương dân. Mà cũng nhờ truyền thống
tương quan thầy trò ngày xưa. Một tương quan bên nầy thương, bên kia
kính mà ngày nay hình như đương bị xói mòn.
TỪ THỊ CẢNH * NHỮNG MÙA XUÂN ĐÃ QUA
Những mùa xuân đã qua
Từ thị Cảnh
Những cơn gió lạnh bắt đầu thổi về miền Nam Cali báo hiệu những ngày đông đang về trên xứ người. Mùa đông ở đây không lạnh lắm nhưng cũng đủ làm cho người viễn xứ cảm dâng một nỗi buồn man mác. Có đi xa mới nhớ nhiều về xứ sở, có xa quê mới da diết mong một ngày về. Chắc họ cũng như tôi đang chạnh nhớ về những ngày đầu xuân ở quê nhà. Chiều nay, khi ánh nắng vàng dần tắt, lòng tôi chợt nhớ lắm những mùa xuân đã qua trong cuộc đời mình…
…Cuối thập niên 1950, Miền Nam đã được 5 năm sống trong thanh bình. Nhà nhà bình yên, cuộc sống sung túc, nông dân được mùa, người thương gia có nhiều lợi tức. Mùa xuân đến với chúng tôi trong hạnh phúc ấm no. Tôi nhớ biết bao về những ngày xuân trên quê hương Bình Dương. Ngày Tết cũng là ngày mà tất cả mọi người đều hân hoan đón mừng mùa xuân mới. Từ sau ngày 23 tháng chạp âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời thì mọi nhà dù sang hay hèn, từ thôn quê đến thành thị ai nấy đều chuẩn bị sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc trong nhà. Bàn thờ phải được dọn dẹp sạch sẽ với bộ lư đồng chùi bóng loáng và được chưng trên bàn thờ bên cạnh những bông hoa và mâm ngũ quả để chuẩn bị đón rước ông bà về ăn Tết với gia đình. Đối với những người có người thân đã qua đời, các mồ mả phải được dẫy cỏ, sơn lại cho sạch sẽ trước ngày 30 Tết. Chợ hoa Bình Dương được mở ra ở bờ sông Bạch Đằng với hằng trăm chậu hoa mai, cúc, thược dược cùng khoe sắc với rất nhiều loại hoa khác, đẹp không làm sao kể xiết. Ngoài ra còn có rất nhiều loại trái cây được bày bán khắp nơi. Đó là những trái dưa hấu rất ngon, những trái bưởi, trái cam, trái thơm từ miền Tây mang lên. Chợ Tết lúc nào cũng đông đúc người đi, xe cộ qua lại.
Ở nhà tôi và nhà ông ngoại ở kế bên, nhà cửa được sơn mới. Những cây mai đã được lặt lá từ hôm rằm, tới ngày 30 đã tròn nụ xanh biếc và chắc chắn sẽ nở bung vào đúng sáng ngày mùng một. Mọi nhà đều cúng giao thừa để mừng năm mới. Lúc đó những tràng pháo Tết được đốt lên dòn dã để xua đuổi tà ma, đón mừng xuân mới. Trên bàn thờ có đầy đủ bông hoa, trái cây, bánh mứt để cúng ông bà. Sau đó người ta rủ nhau đến chùa, nhà thờ để hái lộc đầu năm, đem về đặt lên bàn thờ với lòng mong ước một năm mới bình an trong gia đình. Sáng mùng một, con cháu mặc áo mới, chúc Tết ông bà cha mẹ và nhận được những phong bao lì xì màu đỏ thắm...
Lúc tôi còn nhỏ, cũng như những đứa trẻ trong xóm, chúng tôi đều mong Tết mau đến để được mặc quần áo mới, được nhận tiền lì xì từ ông bà, cha mẹ, và bà con họ hàng gần xa. Ngoài ra, Tết còn là lúc bọn trẻ chúng tôi được vui chơi, đánh bài... Vui nhất là chơi lắc bầu cua, cá, cọp. Vào buổi tối, cả nhà quây quần chơi đánh bài coi ai hên xui. Người lớn và con nít đều được tham gia. Tôi thích nhất là được đánh bài cào với ông bà, cha mẹ và các anh, chị, em. Đây là lúc chúng tôi cùng cười đùa vui vẻ và thắt chặt thêm tình thân trong gia đình. Dịp Tết còn là thời gian để thăm viếng và ăn những bữa cơm thân mật cùng họ hàng và bạn bè thân thuộc.
Năm ấy, tôi đang ở lứa tuổi 17, 18 là thời điểm thơ mộng nhứt của cuộc đời. Tôi có rất nhiều bạn trai lẫn gái. Các bạn rất quý mến tôi. Ngày mồng 3 Tết, bạn bè tụ họp. Chúng tôi cùng đến nhà thầy cô để chúc Tết. Sau đó, chúng tôi thăm viếng nhà của nhau và chúc những câu tốt lành trong năm mới.
Những năm sau, tôi lớn khôn thêm và càng có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ trong việc dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa đồ đạc trong nhà như chuẩn bị lá chuối để gói bánh tét, bánh ít. Sau đó lại phải mua thịt, cá để chuẩn bị thết đãi bà con và bạn bè trong ba ngày Tết. Từ ngày 23 âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời, tôi phải phụ má của tôi bán quần áo ở chợ Thủ vì những ngày giáp Tết, bà con ở vùng quê mới có thời gian ra chợ mua sắm quần áo cho con của họ. Những ngày nầy, chợ Bình Dương thật đông đúc và mọi người tất bật mua sắm, chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Không khí những ngày cận Tết ở Bình Dương thật là nhộn nhịp, hân hoan.
Ngày xưa, những ngày cận Tết ở chợ Thủ sự buôn bán thật rộn rịp. Hoa trái từ thôn quê đem ra chợ rất nhiều. Củ cải, củ kiệu là những món truyền thống mà nhà nào cũng mua về để làm dưa. Hoa kiểng ở địa phương như vạn thọ, cúc, mồng gà được những phụ nữ gánh ra chợ bán. Nhiều người còn gánh vào các thôn xóm để bán tận tay người mua. Nhờ đó, chúng tôi mua được hàng giá rẻ mà họ cũng mau chóng bán được hàng.
Chợ đêm được mở ra để bán các loại thiệp chúc Tết, pháo, phong bao lì xì, các loại bánh mứt như mứt gừng, mứt bí, mứt mãng cầu, thèo lèo cứt chuột... Dưới bờ sông, những ghe thuyền cũng chở bông hoa, trái cây từ miền Tây lên bán nữa. Có ghe chở đầy những trái dưa hấu thật hấp dẫn. Tuy nhiên cuộc sống của những thương buôn nầy rất cực nhọc. Họ phải ăn ngủ ở dưới ghe cả tháng, tới chiều ba mươi, họ mới lui ghe về quê ăn Tết…
Năm 1993, chúng tôi đi định cư ở nước ngoài. Những năm đầu tiên ở xứ người, phải lo bươn chải để kiếm sống. Trong khi đó, ngày Tết đến không có gì để chuẩn bị như ở quê nhà vì nếu không trùng ngày thứ bảy hoặc chủ nhật thì vợ chồng, con cái đều phải đi học, đi làm. Đối với chúng tôi lúc đó, Tết ở nước ngoài không có gì vui cả!. Chúng tôi tưởng rằng ngày Tết cổ truyền Việt Nam đã không còn đến trong cuộc sống của mình nữa!
Sau nầy, nhờ số đông người Việt Nam về sống ở vùng Little Saigon, cho nên ngày Tết ở đây đã khởi sắc hơn lên. Những ngày gần Tết chợ búa cũng trang hoàng rực rỡ với bánh chưng, bánh tét, các loại mứt bánh truyền thống. Chợ hoa được mở ra ở trước cửa Phước Lộc Thọ bán đầy đủ mọi loại hoa mai, hoa đào, hoa cúc. Còn bánh mứt thì đủ thứ không thiếu một món nào. Thêm vào đó, con cái chúng tôi đã có việc làm ổn định, có đứa đã mua được nhà. Đứa con út đã tốt nghiệp đại học, sau đó lại có bằng Cao Học (Master) về công chánh. Từ đó, chúng tôi cũng cảm thấy bớt buồn, tuy rằng đối với tôi, Tết ở nước ngoài cũng không bao giờ bằng Tết ở quê hương ngày xưa .
Năm 2007, sau hơn 14 năm xa xứ, tôi có dịp về quê thăm mẹ già và đón một cái Tết ở quê hương. Má tôi, mắt đã loà vì mong chờ con cái và giờ đây đã không còn thấy rõ nữa, nhưng tôi thấy trong lòng của bà một niềm hân hoan khi đón người con thân yêu trở về đoàn tụ. Năm đó, tôi có dịp đón xuân ở quê nhà. Tết ở Việt Nam những năm sau nầy tuy khá giả hơn và cũng có mai vàng, dưa hấu đỏ nhưng không làm cho tôi có cảm giác vui thích như thuở ấu thơ vì giờ đây anh em lưu lạc mỗi người mỗi nơi. Biết làm sao tìm được cảnh sum họp vui vẻ ngày xưa?.
Ngày Tết là ngày họp mặt bà con, cô bác đến thăm viếng và chúc sức khoẻ lẫn nhau. Tết cũng là thời điểm để chúng ta có thêm một tuổi thọ. Tuy nhiên, chắc chỉ có các em nhỏ là thích Tết nhất vì đây là thời gian các em được vui chơi thoả thích, được mặc quần áo mới và nhận được tiền lì xì từ người lớn .
Là những người xa quê hương, ngày Tết là ngày tôi vừa vui, vừa buồn. Tôi vui vì đã được thêm một tuổi thọ. Tôi buồn vì bây giờ phải ở xa quê hương, không có cơ hội được hưởng không khí vui vẻ của những ngày đầu năm với họ hàng thân thiết và bạn bè. Dù ở đâu đi nữa, ngày Tết cũng là ngày bắt đầu một năm mới. Thôi chúng ta hãy cùng nhau chào đón mùa xuân mới với những gì có được. Mong rằng một ngày nào đó, chúng ta lại được cùng nhau về lại quê hương để tận hưởng mùa xuân vui vầy, hạnh phúc. Trước khi kết thúc, kính chúc quý thầy cô và các bạn một năm mới nhiều sức khoẻ, vạn sự như ý ./.
Từ thị Cảnh
Những cơn gió lạnh bắt đầu thổi về miền Nam Cali báo hiệu những ngày đông đang về trên xứ người. Mùa đông ở đây không lạnh lắm nhưng cũng đủ làm cho người viễn xứ cảm dâng một nỗi buồn man mác. Có đi xa mới nhớ nhiều về xứ sở, có xa quê mới da diết mong một ngày về. Chắc họ cũng như tôi đang chạnh nhớ về những ngày đầu xuân ở quê nhà. Chiều nay, khi ánh nắng vàng dần tắt, lòng tôi chợt nhớ lắm những mùa xuân đã qua trong cuộc đời mình…
…Cuối thập niên 1950, Miền Nam đã được 5 năm sống trong thanh bình. Nhà nhà bình yên, cuộc sống sung túc, nông dân được mùa, người thương gia có nhiều lợi tức. Mùa xuân đến với chúng tôi trong hạnh phúc ấm no. Tôi nhớ biết bao về những ngày xuân trên quê hương Bình Dương. Ngày Tết cũng là ngày mà tất cả mọi người đều hân hoan đón mừng mùa xuân mới. Từ sau ngày 23 tháng chạp âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời thì mọi nhà dù sang hay hèn, từ thôn quê đến thành thị ai nấy đều chuẩn bị sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc trong nhà. Bàn thờ phải được dọn dẹp sạch sẽ với bộ lư đồng chùi bóng loáng và được chưng trên bàn thờ bên cạnh những bông hoa và mâm ngũ quả để chuẩn bị đón rước ông bà về ăn Tết với gia đình. Đối với những người có người thân đã qua đời, các mồ mả phải được dẫy cỏ, sơn lại cho sạch sẽ trước ngày 30 Tết. Chợ hoa Bình Dương được mở ra ở bờ sông Bạch Đằng với hằng trăm chậu hoa mai, cúc, thược dược cùng khoe sắc với rất nhiều loại hoa khác, đẹp không làm sao kể xiết. Ngoài ra còn có rất nhiều loại trái cây được bày bán khắp nơi. Đó là những trái dưa hấu rất ngon, những trái bưởi, trái cam, trái thơm từ miền Tây mang lên. Chợ Tết lúc nào cũng đông đúc người đi, xe cộ qua lại.
Ở nhà tôi và nhà ông ngoại ở kế bên, nhà cửa được sơn mới. Những cây mai đã được lặt lá từ hôm rằm, tới ngày 30 đã tròn nụ xanh biếc và chắc chắn sẽ nở bung vào đúng sáng ngày mùng một. Mọi nhà đều cúng giao thừa để mừng năm mới. Lúc đó những tràng pháo Tết được đốt lên dòn dã để xua đuổi tà ma, đón mừng xuân mới. Trên bàn thờ có đầy đủ bông hoa, trái cây, bánh mứt để cúng ông bà. Sau đó người ta rủ nhau đến chùa, nhà thờ để hái lộc đầu năm, đem về đặt lên bàn thờ với lòng mong ước một năm mới bình an trong gia đình. Sáng mùng một, con cháu mặc áo mới, chúc Tết ông bà cha mẹ và nhận được những phong bao lì xì màu đỏ thắm...
Lúc tôi còn nhỏ, cũng như những đứa trẻ trong xóm, chúng tôi đều mong Tết mau đến để được mặc quần áo mới, được nhận tiền lì xì từ ông bà, cha mẹ, và bà con họ hàng gần xa. Ngoài ra, Tết còn là lúc bọn trẻ chúng tôi được vui chơi, đánh bài... Vui nhất là chơi lắc bầu cua, cá, cọp. Vào buổi tối, cả nhà quây quần chơi đánh bài coi ai hên xui. Người lớn và con nít đều được tham gia. Tôi thích nhất là được đánh bài cào với ông bà, cha mẹ và các anh, chị, em. Đây là lúc chúng tôi cùng cười đùa vui vẻ và thắt chặt thêm tình thân trong gia đình. Dịp Tết còn là thời gian để thăm viếng và ăn những bữa cơm thân mật cùng họ hàng và bạn bè thân thuộc.
Năm ấy, tôi đang ở lứa tuổi 17, 18 là thời điểm thơ mộng nhứt của cuộc đời. Tôi có rất nhiều bạn trai lẫn gái. Các bạn rất quý mến tôi. Ngày mồng 3 Tết, bạn bè tụ họp. Chúng tôi cùng đến nhà thầy cô để chúc Tết. Sau đó, chúng tôi thăm viếng nhà của nhau và chúc những câu tốt lành trong năm mới.
Những năm sau, tôi lớn khôn thêm và càng có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ trong việc dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa đồ đạc trong nhà như chuẩn bị lá chuối để gói bánh tét, bánh ít. Sau đó lại phải mua thịt, cá để chuẩn bị thết đãi bà con và bạn bè trong ba ngày Tết. Từ ngày 23 âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời, tôi phải phụ má của tôi bán quần áo ở chợ Thủ vì những ngày giáp Tết, bà con ở vùng quê mới có thời gian ra chợ mua sắm quần áo cho con của họ. Những ngày nầy, chợ Bình Dương thật đông đúc và mọi người tất bật mua sắm, chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Không khí những ngày cận Tết ở Bình Dương thật là nhộn nhịp, hân hoan.
Ngày xưa, những ngày cận Tết ở chợ Thủ sự buôn bán thật rộn rịp. Hoa trái từ thôn quê đem ra chợ rất nhiều. Củ cải, củ kiệu là những món truyền thống mà nhà nào cũng mua về để làm dưa. Hoa kiểng ở địa phương như vạn thọ, cúc, mồng gà được những phụ nữ gánh ra chợ bán. Nhiều người còn gánh vào các thôn xóm để bán tận tay người mua. Nhờ đó, chúng tôi mua được hàng giá rẻ mà họ cũng mau chóng bán được hàng.
Chợ đêm được mở ra để bán các loại thiệp chúc Tết, pháo, phong bao lì xì, các loại bánh mứt như mứt gừng, mứt bí, mứt mãng cầu, thèo lèo cứt chuột... Dưới bờ sông, những ghe thuyền cũng chở bông hoa, trái cây từ miền Tây lên bán nữa. Có ghe chở đầy những trái dưa hấu thật hấp dẫn. Tuy nhiên cuộc sống của những thương buôn nầy rất cực nhọc. Họ phải ăn ngủ ở dưới ghe cả tháng, tới chiều ba mươi, họ mới lui ghe về quê ăn Tết…
Năm 1993, chúng tôi đi định cư ở nước ngoài. Những năm đầu tiên ở xứ người, phải lo bươn chải để kiếm sống. Trong khi đó, ngày Tết đến không có gì để chuẩn bị như ở quê nhà vì nếu không trùng ngày thứ bảy hoặc chủ nhật thì vợ chồng, con cái đều phải đi học, đi làm. Đối với chúng tôi lúc đó, Tết ở nước ngoài không có gì vui cả!. Chúng tôi tưởng rằng ngày Tết cổ truyền Việt Nam đã không còn đến trong cuộc sống của mình nữa!
Sau nầy, nhờ số đông người Việt Nam về sống ở vùng Little Saigon, cho nên ngày Tết ở đây đã khởi sắc hơn lên. Những ngày gần Tết chợ búa cũng trang hoàng rực rỡ với bánh chưng, bánh tét, các loại mứt bánh truyền thống. Chợ hoa được mở ra ở trước cửa Phước Lộc Thọ bán đầy đủ mọi loại hoa mai, hoa đào, hoa cúc. Còn bánh mứt thì đủ thứ không thiếu một món nào. Thêm vào đó, con cái chúng tôi đã có việc làm ổn định, có đứa đã mua được nhà. Đứa con út đã tốt nghiệp đại học, sau đó lại có bằng Cao Học (Master) về công chánh. Từ đó, chúng tôi cũng cảm thấy bớt buồn, tuy rằng đối với tôi, Tết ở nước ngoài cũng không bao giờ bằng Tết ở quê hương ngày xưa .
Năm 2007, sau hơn 14 năm xa xứ, tôi có dịp về quê thăm mẹ già và đón một cái Tết ở quê hương. Má tôi, mắt đã loà vì mong chờ con cái và giờ đây đã không còn thấy rõ nữa, nhưng tôi thấy trong lòng của bà một niềm hân hoan khi đón người con thân yêu trở về đoàn tụ. Năm đó, tôi có dịp đón xuân ở quê nhà. Tết ở Việt Nam những năm sau nầy tuy khá giả hơn và cũng có mai vàng, dưa hấu đỏ nhưng không làm cho tôi có cảm giác vui thích như thuở ấu thơ vì giờ đây anh em lưu lạc mỗi người mỗi nơi. Biết làm sao tìm được cảnh sum họp vui vẻ ngày xưa?.
Ngày Tết là ngày họp mặt bà con, cô bác đến thăm viếng và chúc sức khoẻ lẫn nhau. Tết cũng là thời điểm để chúng ta có thêm một tuổi thọ. Tuy nhiên, chắc chỉ có các em nhỏ là thích Tết nhất vì đây là thời gian các em được vui chơi thoả thích, được mặc quần áo mới và nhận được tiền lì xì từ người lớn .
Là những người xa quê hương, ngày Tết là ngày tôi vừa vui, vừa buồn. Tôi vui vì đã được thêm một tuổi thọ. Tôi buồn vì bây giờ phải ở xa quê hương, không có cơ hội được hưởng không khí vui vẻ của những ngày đầu năm với họ hàng thân thiết và bạn bè. Dù ở đâu đi nữa, ngày Tết cũng là ngày bắt đầu một năm mới. Thôi chúng ta hãy cùng nhau chào đón mùa xuân mới với những gì có được. Mong rằng một ngày nào đó, chúng ta lại được cùng nhau về lại quê hương để tận hưởng mùa xuân vui vầy, hạnh phúc. Trước khi kết thúc, kính chúc quý thầy cô và các bạn một năm mới nhiều sức khoẻ, vạn sự như ý ./.
LÂM QUANG KHẢI * SƠN ĐÔNG MÃI VÕ
Bình Dương xưa và coi hát thuật Sơn Đông
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.
Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.
Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
ĐỖ TRƯỜNG * TRẦN HOÀI THƯ
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh hồn
Đỗ Trường (Danlambao) - Cuối
tuần, có bác nhà thơ già đến thăm, ghé mắt vào bài đang viết
về nhà văn Trần Hoài Thư của tôi, rồi gật gật, lắc lắc, bảo:
Cái tựa, Người ngồi vá lại những linh hồn, thấy rờn rợn thế
nào ấy. Vâng! Khi chưa đọc, chưa nghiên cứu Trần Hoài Thư, bác
có cảm giác vậy thôi. Đọc rồi, bác sẽ thấy, một Trần Hoài
Thư không chỉ đang ngồi vá lại linh hồn mình, đồng đội mình,
mà còn đang nhặt nhạnh những linh hồn văn hóa Việt rách nát,
vương vãi đâu đó, rồi cặm cụi khâu lại nữa kìa.
Nghe tôi trả lời, bác nhà thơ già gật gù, gật gù lẩm bẩm: Được, tôi sẽ tìm đọc, xem có thật vậy không?
Phải nói thẳng, Trần Hoài Thư không phải là một nhà văn, nhà
thơ lớn, lừng lững tên tuổi trên văn đàn của Văn học miền Nam
trước 1975, cũng như ở hải ngoại hiện nay. Nhưng ông là một
trong những nhà văn tôi yêu mến nhất của nền văn học Việt Nam
từ trước đến nay. Bởi, ngoài tài năng, thì nhân cách lòng quả
cảm, dám hy sinh, đi đến tận cùng của sự đam mê, cũng đầy
trách nhiệm với văn hóa, văn chương nước nhà như ông, không phải
ai cũng làm được. Và có lẽ, nhiều người đọc, nghiên cứu ông
đồng cảm với tôi về điều này (?).
Nhà văn Trần Hoài Thư tên thật là Trần Qúi Sách, sinh năm 1942
tại Đà Lạt. Dường như, cái tên Qúi Sách này, đã vận thẳng
vào cái nghiệp viết, và nâng niu gìn giữ từng trang sách, hồn
thơ Việt của ông chăng? Truyện ngắn "Nước Mắt Tuổi Thơ" in
trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn vào năm 1964 là chiếc thẻ thông
hành đã đưa Trần Hoài Thư đến với làng văn. Sau khi tốt nghiệp
ngành toán học, trường Đại học Sài Gòn, ông về giảng dạy
trung học tại Tam Kỳ. Năm 1966 Trần Hoài Thư nhập ngũ khóa 24
Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Và gần mười năm trong quân ngũ,
lúc là lính thám kích, khi là phóng viên chiến trường, dường
như không lúc nào ông ngừng viết. Nhật ký chiến trường, hoặc
những truyện ngắn, tản văn thời kỳ ấy, không chỉ có khói
súng, mùi đạn bom quyện với máu thịt ông, đồng đội ông, mà
còn thấm đẫm nước mắt của tình yêu, tình người. Sau 30-4-1975,
Trần Hoài Thư bị tù cải tạo. Ra tù, năm 1980 ông vượt biển,
hiện đang viết và làm chủ cơ sở xuất bản Thư Ấn Quán, cũng như
Thư Quán Bản Thảo, một tạp chí văn học tại New Jersey Hoa Kỳ.
Có thể nói, thơ văn cũng như thân phận người lính Trần Hoài Thư
gắn chặt với những biến cố thăng trầm của đất nước. Do vậy,
cũng như những nhà văn cùng thời, cái sự nghiệt ngã ấy, đã
ngắt thơ văn ông thành từng giai đoạn thật rõ ràng.
Tuy bước chân vào làng văn bằng văn xuôi, nhưng thơ đã đóng góp
không nhỏ tạo nên một chân dung vạm vỡ Trần Hoài Thư. Với 14
tập truyện, cùng 8 tập thơ (?) đã xuất bản, minh chứng Trần
Hoài Thư có sức viết dẻo dai, và khá cân đối. Với tôi Truyện
Từ Văn và Truyện Trần Hoài Thư (rút từ các tập san) viết
trước 1975, được in lại trong mấy năm gần đây, cùng với thơ, và
tập truyện Ra Biển Gọi Thầm, Hành Trình Của Một Cổ Trắng là
những tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp trong từng giai đoạn sáng
tác của ông.
Khi đi sâu vào nghiên cứu, tôi nhận ra, ngoài tính chân thực, thì
nghệ thuật miêu tả (diễn biến) nội tâm nhân vật là đặc điểm
nổi bật nhất trong truyện của Trần Hoài Thư. Nghệ thuật này
là một tài năng, tìm tòi liên tưởng chứ dứt khoát không phải
do ông xuất thân từ nhà giáo, đã kinh qua những giáo trình tâm
lý học. Bởi, cũng có nhiều nhà văn xuất thân từ nhà giáo,
nhưng không có đặc điểm này.
Chiến tranh, dưới cái nhìn và ngòi bút nhân bản của nhà văn.
Nếu phải đưa ra một câu trả lời, với tôi Trần Hoài Thư, Phan
Nhật Nam, Thế Uyên là những nhà văn hàng đầu viết về người
lính của văn chương miền Nam ở thời điểm nóng bỏng nhất của
cuộc chiến. Và cùng với Cao Xuân Huy và Phạm Tín An Ninh ở giai
đoạn sau 1975 cho đến nay, nơi hải ngoại.
Có một điều đặc biệt, Trần Hoài Thư là một người lính chiến
thực thụ và viết ngay nơi chiến trường. Hơn thế nữa, nhiều nhà
phê bình đánh giá, nhận định ông là nhà văn quân đội. Nhưng
đọc ông, cho tôi cảm giác, dường như có những lúc linh hồn ông
đã tách ra khỏi cuộc chiến, rời bỏ chiếc áo nhà binh. Bởi,
ngoài những người lính, còn có không ít truyện viết về tình
yêu, về cái thuở học trò với những cuộc sống thường nhật, hay
về cả những khi phản kháng đào ngũ, bỏ đơn vị nó hằn đậm
trên trang viết của ông ở cái thời binh đao khói lửa ấy.
Có lẽ, ngay từ buổi ban đầu, Trần Hoài Thư chưa có ý thức rõ
ràng về chiến tranh, với những lý tưởng cao đẹp nào đó. Cho
nên, bước chân vào quân trường là nghĩa vụ bắt buộc đối với
ông. Sự chán chường ấy, ta đã bắt gặp rất nhiều trên những
trang viết của Trần Hoài Thư. Giai đoạn đó với ông, dù có đứng
ở bên nào, góc độ nào thì cuộc chiến này cũng đều vô nghĩa.
Do vậy, không chỉ ở truyện ngắn văn xuôi, mà ngay trong thơ ta
thấy tương lai mịt mù với những lời thán ca đau đến nhức nhối
lòng người:
"Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu" (Thế hệ chiến tranh)
Với cái nhãn quan như vậy, cho nên người lính Trần Hoài Thư luôn
ước nguyện, hy vọng trở về quê hương, nơi có cuộc sống bình
dị, và cũng thật yên bình: “…Anh nghĩ rồi đây chiến tranh sẽ
chấm dứt. Miền Nam và miền Bắc sẽ sum họp. Mọi người sẽ ngồi lại và tha
thứ lẫn nhau. Rồi em về Nha Trang. Anh cũng trở lại cùng Nha Trang. Anh
sẽ xin dạy trở lại. Rồi anh sẽ xin cưới em…” (Nha Trang).
Và cái suy nghĩ đơn giản, vô tư ấy, ông đã trả giá bằng chính
những năm tháng ngục tù, rồi buộc phải cùng với con thuyền lá
tre kia lao ra biển cả.
Có thể nói, tính nhân đạo là đặc trưng nổi bật nhất, xuyên
suốt sự nghiệp sáng tạo của Trần Hoài Thư. Cái tình người,
và sự cảm thông ấy không chỉ nằm trong tình đồng đội, tình
đồng bào, mà nó còn là hơi ấm cho cả những người lính ở bên
kia của chiến tuyến. Cái đặc tính này, gần đây dường như nó
được tiếp nối một cách rất sâu sắc trong trang văn, truyện ngắn
của đồng đội ông, nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Ngày Thanh Xuân, một truyện ngắn điển hình như vậy, được Trần
Hoài Thư viết vào mùa xuân 1972. Chúng ta hãy đọc lại lời
thoại của hai đoạn trích dưới đây giữa một tù binh bị thương
miền Bắc với người lính miền Nam, khi ở ngoài chiến trường,
cũng như lúc ở quân y viện. Để thấy rõ tài năng miêu tả diễn
biến nội tâm nhân vật, cũng như sự nhân đạo và sự cảm thông
ngút trời ấy của Trần Hoài Thư:
“Mong anh hiểu trách nhiệm và bổn phận của chúng tôi, những người
lính khác trận tuyến với các anh. Anh hãy để chúng tôi săn sóc. Hy vọng
một ngày hòa bình, anh sẽ trở về quê hương và tôi được dịp đáp tàu ra
Bắc, như niềm mơ ước của tôi. Mời anh một điếu thuốc thơm, anh vui lòng
chứ? Anh uống cà phê nhé. Cà phê tôi mang theo trong bi-đông…
Nếu tôi còn ở miền Bắc, có lẽ bây giờ tôi là đồng chí của anh. Chúng
ta đều bị bắt buộc cầm súng. Chúng ta bị chủ nghĩa, ngoại bang, các thế
lực quốc tế xô đẩy chúng ta vào hố thẳm của hận thù. Anh đồng ý với ý
kiến của tôi không? - Phải, tôi đồng ý – Y thầm thì – Tôi đã hiểu rằng
những người tuổi trẻ của Việt Nam là những đứa con tội nghiệp. Chúng ta
lỡ sinh vào một thế kỷ bất hạnh nhất. Chúng ta được giao truyền lại một
gia tài bi đát nhất…”
Không chỉ đối với những người còn sống, hay người tù binh tàn
tật, mà lòng nhân đạo, và tình thương ấy đến với cả người
lính đối phương vừa chết trận của Trần Hoài Thư. Và nếu văn
là những lời sẻ chia, cảm thông, thì thơ ông như một tiếng ru
cho linh hồn của đồng loại đã nằm xuống trong trận chiến này.
Tôi đã đọc khá nhiều thơ của những người lính, thuộc cả hai
chiến tuyến viết cho đồng đội nằm xuống. Từ đó có thể nói,
Khi Chưa Có Mùa Thu là một trong những bài thơ hay nhất của
người lính phía Bắc Trần Mạnh Hảo. Và vắt cơm nhòa nước
suối, hay nhòa nước mắt để viếng (cúng) đồng đội của Trần
Mạnh Hảo làm cho người đọc phải rưng rưng, xúc động: ”Vắt cơm
nhòa nước suối/ Viếng bạn mình không ăn”. Nhưng đặc biệt, cao cả hơn
thế nữa, người lính phương Nam Trần Hoài Thư đã tiễn đưa hồn
người lính Bắc bằng những ly rượu nồng với những câu thơ đẹp
và vô cùng lãng mạn, đọc lên ai cũng bùi ngùi, xót xa. Và tôi
tin lúc đó, Trần Hoài Thư đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực
xung quanh, mà chỉ còn trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của
người nghệ sĩ, để viết nên bài thơ này. Tôi không dám nghĩ,
đây là bài thơ độc nhất vô nhị, dù được viết trong lúc chiến
tranh đang diễn ra ác liệt. Nhưng có lẽ, nó là bài thơ lạ lùng
nhất đến nay tôi được đọc. Vâng! Và chính nó, bài thơ Một Ngày
Không Hành Quân của Trần Hoài Thư đã làm cho những giọt nước
mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này:
“…Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Hoàn toàn không có ý so sánh, nhưng như có một sợi dây liên
cảm, bởi khi đọc truyện ngắn Chiến Tranh của Trần Hoài Thư,
làm cho tôi nghĩ đến những người lính gian khổ chống phát xít
trong tiểu thuyết, tập truyện: Họ Đã Chiến Đấu Vì Tổ Quốc,
hay Số Phận Con Người… của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov. Trong
cái không khí mịt mù khói lửa ấy, sự nguy hiểm, gian nan càng
tăng lên, thì tình chiến hữu đồng đội của họ càng hòa quyện
chặt vào nhau hơn. Và đứng trước thất bại cũng như cái chết,
dường như đã cho Trần Hoài Thư nghị lực vượt qua tất cả để
sống, để viết trả nợ đồng đội. Lời văn tự sự nhanh và mãnh
liệt, với ngôn ngữ, câu thoại mang đậm tính điện ảnh, gần tâm
lý độc giả Âu- Mỹ, Trần Hoài Thư đã cho ta thấy rõ điều đó:
“- Mày hãy nghe tao nói. Mày là nhà văn. Tao là độc giả của mày. Mày
phải sống. Mày nghe rõ chưa. Mày phải sống để mà viết lại...
Rồi hắn gào lớn:
- Phải viết lại cảnh này. Thằng Trí, thằng Luông đang nằm cạnh tao
đây cũng cần mày. Thằng Trí cõng tao, rồi chết vì tao... Mày hãy nói cho
mọi người biết về những cái chết chó má như thế này. Chết mà không được
bắn một viên đạn như thế này...
- Tư. Tao xin nghe mày. Tôi đau đớn nói.
- Tao dẫu sống cũng vô ích. Hai chân tao, ngực tao, ruột tao... Chỉ
còn cái đầu tao là không trúng đạn... Rồi hắn la. Không, hắn mắng tôi.
- Sao lại không chịu chạy. Mày hèn à. Diều hâu mà hèn à…”
Chập chờn ký ức hiện về, cùng những tình tiết hiện thực đan
xen, tạo nên hình ảnh so sánh ẩn dụ làm cho người đọc phải ám
ảnh rờn rợn, xuyên suốt những tác phẩm của Trần Hoài Thư.
Với thủ pháp nghệ thuật này, đã góp phần không nhỏ tạo nên
thành công, cũng như tên tuổi tác phẩm, tác giả Trần Hoài Thư.
Nhiều thế hệ các nhà văn trẻ sau ông sử dụng khá thành công
thủ pháp nghệ thuật này, đặc biệt cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh
của Bảo Ninh. Và Mắt Đêm là một truyện ngắn điển hình như vậy
của Trần Hoài Thư. Tuy khoác áo lính, bước vào cuộc chiến là
nghĩa vụ bắt buộc, nhưng Trần Hoài Thư luôn giữ vững quân kỷ
của người trung đội trưởng, và trách nhiệm bảo vệ dân chúng,
đồng bào được ông đặt lên hàng đầu. Đọc nó, không chỉ thấy
được cái tình của người lính Việt Nam Cộng Hòa đối với người
dân nơi chiến trường (dù biết họ có thể là nằm vùng, hay có
quan hệ, che chở cho những người lính Bắc) mà Trần Hoài Thư
còn đưa ta ngược về ký ức với hình ảnh tuổi thơ xa vời vợi
của ông. Có thể nói, đây là một trong những truyện ngắn hay
nhất của Trần Hoài Thư được viết trong thời kỳ này:
“Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt. Tôi gọi giựt:
Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động trong
hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mà tưởng bắt bọn nó dễ
dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó
rồi còn gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì? Tôi chỉ tay vào
trái lựu đạn cay, sao mày không dùng thứ này?...
Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ
ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra
cánh đồng chói nắng… Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc
thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo
ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở
đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra
hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang
từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu.”
Vẫn những đêm ngủ rừng, hay trên gò mả giữa cánh đồng trắng
trơn, hoặc xông vào những trận đánh kinh hồn, nhưng dường như
giấc mơ, nỗi nhớ vẫn không thể thiếu trên mỗi chặng đường hành
quân của Trần Hoài Thư. Tình yêu và cái thuở ban đầu ấy, như
những cơn mưa đầu mùa tưới mát cho tâm hồn chai sạn của người
lính chiến. Với tôi, trong các nhà văn quân đội VNCH (trực tiếp
cầm súng) nơi chiến trường ác liệt, viết nhiều và hay nhất về
tình yêu, và cái thuở học trò, chắc chắn phải là Trần Hoài
Thư. Thật vậy, đọc truyện Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình của
ông, cho tôi cảm giác như đang đọc một bài thơ. Một bài thơ tự
sự đầy hình tượng về sự tiếc nuối một mối tình đầu của
thuở hoa niên. Tuy nhiên ông bạn nhà thơ già của tôi, ghé mắt
đọc, không cho là như vậy. Vì thế, khi ngồi viết những dòng
chữ này, tôi chưa biết để Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình ở mục
truyện ngắn, tùy bút, hay một trang thư…Nếu đây là một lá thư,
thì có lẽ, đây lá thư tình hay nhất mà tôi đã được đọc. Và
đọc nó, khẳng định thêm một lần nữa tài năng miêu tả tâm lý,
nội tâm nhân vật của nhà văn Trần Hoài Thư:
“…Trên mái ngói đỏ của ngôi trường nữ trung học, có đôi chim bồ câu
âu yếm tỉa lông cho nhau. Nhưng, riêng anh, cả lòng như một bến ga
quạnh quẽ. Đứng bơ vơ, mà nghe trong gió có một cung đàn kỷ niệm. Cung
đàn ấy, vọng từ một cõi nào xa xôi lắm, có vỉa hè Đồng Khánh, có cả rừng
bướm trắng dập dìu, và có một kẻ tình si đang trồng chân như cây phượng
vĩ già nua, nhìn theo một cánh bướm, qua sông vĩnh biệt…”
Trong văn học sử miền Nam có hai ông nhà văn vừa cầm súng vừa
viết Phan Nhật Nam và Trần Hoài Thư, cùng chung cảnh cải tạo
tù tội sau 1975, nhưng lại có văn phong khác hẳn nhau. Nếu văn
Phan Nhật Nam sinh động, sắc sảo, thì văn Trần Hoài Thư trầm
lắng, hình tượng. Phan Nhật Nam động thì Trần Hoài Thư tĩnh. Âu
đó cũng là sự may mắn làm phong phú thêm cho nền văn học Việt
Nam.
Và Viễn Thám là một truyên ngắn hay, có lời văn đẹp, tĩnh
lặng như vậy của Trần Hoài Thư. Đây là truyện ngắn làm cho
người đọc ngạc nhiên, bất ngờ và gây ra nhiều tranh cãi. Nó mở
ra tư tưởng cũng như nhân sinh quan của ông. Có lẽ, không riêng
tôi, mà còn nhiều người đánh giá cao giá trị nội dung cũng như
quan niệm, thay đối tượng thẩm mỹ trong chiến tranh của tác
giả trong truyện ngắn này. Hơn thế nữa, nó không chỉ đẹp trong
từ ngữ lời văn, mà trong cả tâm hồn và trong cái tình của
người lính thám báo, nhà văn Trần Hoài Thư. Và nó khác hẳn
hình ảnh người thám kích dã man, tàn bạo trong truyện của Bảo
Ninh và Dương Thu Hương. Tôi nghĩ, Bảo Ninh, Dương Thu Hương viết
Nỗi Buồn Chiến Tranh và Vô Đề vào những năm cuối thập kỷ tám
mươi của thế kỷ trước, khi chưa bốc (hết) được ngôi mộ với con
ma xó tuyên truyền bấy lâu ra khỏi linh hồn mình. Nếu những
cuốn sách ấy được ra đời vào thời điểm ngày nay, có lẽ sẽ
khác đi chăng? Đọc truyện này, có lẽ nhiều người phản bác, cho
rằng Trần Hoài Thư hành động bằng cảm tính. Và bằng chứng
dường như có những đoạn văn của ông bị xét duyệt cắt bỏ khi in
ấn vào thời điểm ấy chăng? Ơ hay! Trần Hoài Thư mang trái tim
nghệ sỹ vào chiến tranh cơ mà. Và trong chiến tranh dường như,
những người nghệ sỹ cầm súng luôn có tâm hồn, suy nghĩ như
vậy. Nhưng dám hành động, và viết thành lời như ông không phải
ai cũng đủ dũng khí. Chúng ta đọc lại một đoạn trích trong
Viễn Thám (tuy nhiên, có đoạn khi duyệt đã cắt bỏ?) để thấy
rõ điều đó:
“Trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập
vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối.
Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. "Tôi không thể chơi cái trò
dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút
vĩnh cửu (…) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim
của tuổi trẻ Việt Nam…. Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến
rừng như thể im phăng phắc lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra,
tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc
nào cũng sống vĩnh cửu"
Có thể nói, chất liệu trong văn thơ Trần Hoài Thư có được từ
thực tế bản thân và đồng đội. Ông đã trải nó lên trang văn
dưới nhãn quan của riêng mình. Tuy có cái nhìn bi quan về cuộc
chiến, nhưng nó lại bật lên tính nhân đạo ngút trời trong từng
trang viết của ông.
Tính bi hài và những nỗi đau.
Có lẽ không ai nghĩ, một thư sinh với sức trói gà Trần Hoài
Thư có sức phản kháng mãnh liệt đến vậy. Sự phản kháng ấy,
không chỉ có trên trang văn, mà còn mãnh liệt hơn trước những
bất công ở ngoài đời. Trần Hoài Thư tự động rời bỏ quân ngũ
trước phi lý của số phận đã chứng minh cho điều đó. Và từ
đó, cho ta thấy được tính khí khái trong con người ông. Chứ
thành thật mà nói, một nhà văn dù có sống ở chế độ nào
cũng vậy, cứ cúi mặt xuống viết dưới cái bóng của các đấng
ngồi trên, thì không bao giờ có được những tác phẩm ra tấm ra
miếng.
Ngay ngày đầu, Trần Hoài Thư đã nhận ra cái bất công và số
phận hẩm hưu của những người lính nơi tiền đồn. Do vậy, những
cay đắng, khắc khoải đó như nén chặt trong lòng văn nhân. Và
rồi, một lúc nào đó, nó sẽ chảy ộc ra bằng văn, bằng thơ,
trải dài trên trang giấy, đọc lên ai cũng phải xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Nên khó lòng ấp vợ đẹp trong chăn…” (Lính tiền phương)
Vâng! Và người lính ấy chưa chết hẳn, nhưng trở về với đôi
nạng gỗ trên tay. Đọc truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, ta không chỉ
thấy được sự lên án, mỉa mai, mà còn thấy được sự tàn nhẫn
của chiến tranh. Và hình ảnh người lính cụt chân ấy, cứ tưởng
mình còn nguyên vẹn, nhảy phắt xuống giường, bị ngã úp mặt
xuống đất, dường như đẩy tính bi hài, và nỗi đau lên gấp bội.
Phải nói thẳng, miền Nam có nhiều nhà văn lớn và tài hoa,
nhưng tài năng đưa hình ảnh, hình tượng vào trong văn nhiều và
hay như Trần Hoài Thư quả thực không nhiều:
“Nửa đêm, cả lòng đêm bỗng dưng bị dội lên bởi những quả đạn rơi rất
gần khu bệnh xá. Những tiếng la thất thanh. Pháo kích! Pháo kích! Tiếp
sau là những bóng người vụt chạy ra hầm núp ngoài sân. Tên thương binh
cụt chân, trong cơn bấn loạn tột độ ngỡ mình vẫn còn lành lặn như xưa,
đã ào nhảy xuống giường. Sau đó, hắn mới biết được sự thật. Hắn ôm khúc
đùi rên rỉ và nằm ngay dưới nền. Hắn không còn nhận ra cặp nạng nữa…”
Đọc và nghiên cứu tôi thấy rất có lý, khi nhà phê bình Nguyễn
Vy Khanh nhắc đến cái chất giản dị trong văn của Trần Hoài Thư.
Thật vậy, ngoài cái giản dị trong sáng, văn thơ Trần Hoài Thư
không hề đao to búa lớn. Chính những đặc điểm ấy, đã giúp tôi
đọc hết tất cả những gì ông viết, khi bắt gặp, hoặc tìm
thấy, dù bất kể đề tài, thể loại nào. Qủa thật, tôi rất sợ
đọc những bài viết lên gân quá mức cần thiết khi viết về
người lính Việt Nam Cộng Hòa của một số tác giả gần đây.
Thường những bài này, tôi bỏ nửa chừng. Là người, kể cả
người lính dù có lý tưởng gì gì đi chăng nữa, trước cái chết
ai mà chẳng sợ. “Cái chết nhẹ tựa lông hồng” không phải
ai, và hoàn cảnh nào cũng có thể dùng được. Ta đọc lại
những câu thoại giữa hai người lính (là thày, trò cũ của nhau)
cùng bị thương dưới đây,trong truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, để thấy
cái day dứt, bi hài đi thẳng vào lòng người, tuy từ ngữ rất
mộc mạc:
“- Trời ơi, một người mang cặp kính nặng như thế mà họ vẫn không chịu buông tha sao thầy?
Minh cười:
- Họ nói là điếc thì không sợ súng, còn mang hai cặp mắt mới dễ bắn VC hơn.
- May mà em cụt một chân, nếu mù một con mắt họ vẫn bắt em đi ra đánh giặc trở lại.
- Thầy không buồn đâu. Bởi vì dù sao thầy là sĩ quan, là thiếu úy,
thầy vẫn còn sướng hơn những người lính khác. Trung đội thầy có thằng
mang đại liên, tên là Nga, Võ hồng Nga, to đen như Mỹ đen, nhưng bị cận
thị nặng. Đi hành quân, nó không thấy đường, cứ nhằm chỗ VC mà tiến.
Cuối cùng nó chết.
- Thầy biết không, bởi vì nó không cổ cánh….”
Chết hoặc trở thành tàn phế chưa phải là điều đáng sợ của
người lính, mà cái đáng sợ nhất nhận lệnh, buộc phải thi
hành của những người lãnh đạo quan liêu, và dốt nát. Đọc
truyện Thế Hệ Chiến Tranh dường như cho ta một cảm giác, đây là
một bản cáo trạng của nhà văn thì đúng hơn:
“Suốt cả một buổi trưa hai thằng chúng tôi mắc nạn không thể bò xuống
đồi. Tư bị đạn trúng bã vai và chân. Còn tôi thì bị lựu đạn làm bể cả
bắp đùi. Lúc này mạnh ai nấy thoát. Bởi ai cũng biết rằng nếu ở lại thì
chết bởi những họng súng đang săn mồi từ cao điểm. Rõ ràng đây là một
cuộc thí quân. Họ ra lệnh chúng tôi phải chiếm đồi với M16, và lựu đạn,
trong khi địch ẩn núp trong những hang kiên cố, với lợi thế là thấy rõ
chúng tôi, còn chúng tôi thì như những kẻ đui mù…”
Không dừng lại nơi chiến sự, Trần Hoài Thư tiếp tục chọc thẳng
vào cái ung nhọt thượng tầng của xã hội. Khi ông đã nhận ra,
sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo
không lương thiện, thiếu tài năng này. Nếu gần đây, ta đã đọc
bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn Song Vũ, thì thấy
được, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng này, góp
phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Có thể nói, tuy miền Nam được tự do viết lách, nhưng ở vào
thời điểm đó, Trần Hoài Thư viết thẳng tưng như thế này, quả
thật cần lắm một sự dũng cảm. Và đoạn trích dưới đây, chứng
minh cho ta thấy sự thối nát cũng như sự can trường của nhà
văn:
“Trong khi bạn bè thầy, bạn bè em cứ tiếp tục bị chết, thì ở Sài Gòn
người ta vẫn ăn chơi phè phỡn, đô la thuốc phiện và tran giành quyền
lực bằng những thủ đoạn chính trị bẩn thỉu. Ngay tại nơi này, những đồn
điền mênh mông, những khu rừng cấm mà bọn mình đem xương máu bảo vệ là
tài sản của các tướng tá hay các lãnh tụ ở Sài Gòn. Chúng ta cứ chết,
mặc nước mắt của người mẹ, người em, để những mệnh phụ phu nhân, những
bà lớn nắm quyền mua quan bán chức. Họ đục khoét tiền viện trợ Mỹ, con
cái họ được chạy đi du học để trốn tránh trách nhiệm.”
Nỗi đau, sự trớ trêu trên những trang viết Trần Hoài Thư không
dừng lại một gia đình, một tỉnh thành, mà cho toàn dân tộc
Việt. Có thể nói, từ ngày lập quốc đến nay chưa có trận
chiến nào tang thương, thù hận bằng cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn vừa qua. Trần Hoài Thư chứng kiến những hiện thực bi
hài trớ trêu ấy, và tái hiện vào những trang sách, nên đôi lúc
tôi cứ nghĩ, ông không dừng lại ở nhà văn, mà còn như một nhà
sử học vậy. Nếu truyện Người Anh Hàng Xóm, cuộc đối đầu nhau
trên chiến trường giữa hai cha con đều là trung đoàn trưởng ở
hai phía, thì truyện Về Làng là nỗi đau của một người lính
Việt Nam Cộng Hòa trước người chú và chị ruột theo CS, bị
chính đồng đội của mình bắn chết… Đây là hai câu chuyện điển
hình nhất trong nỗi bất hạnh của dân tộc trên trang viết của
ông. Và nó cứ ám ảnh đeo vào lòng người một sự day dứt, không
thể dứt bỏ.
Có một điều đặc biệt nữa, truyện nào của ông cũng mang một
nỗi u hoài của sự chia ly, chết chóc với những cái kết bất
ngờ bỏ ngỏ, buộc người đọc phải suy nghĩ. Nói Trần Hoài Thư
là nhà văn của những nỗi đau, thì quả thật không ngoa tẹo nào.
Khi các nhà văn cùng thời thường khai thác đề tài ít va chạm
với quyền lực, xã hội, hoặc viết về những trận đánh, chiến
công oai hùng của người lính, thì Trần Hoài Thư đi vào bới móc
cái bóng đen của chiến tranh, cũng như xã hội con người. Một
đề tài khó nhằn, khó nuốt.
Nói cho cùng, xã hội, quân đội nào cũng vậy, đằng sau cái hào
nhoáng đó, nó còn ẩn nấp bao thứ tồi tệ và bệnh hoạn khác.
Và rất cần những nhà văn như Trần Hoài Thư bóc trần, rồi cắt
bỏ.
Ba mươi tháng tư, và linh hồn rách nát.
Vậy là chiến tranh đã kết thúc, người lính thám kích Trần
Hoài Thư không thể về Nha Trang cưới em, và trở về nghề dạy
học của mình, như ước nguyện. Nam- Bắc thống nhất, nhưng không
thể tha thứ cho nhau, và người lính thua trận ấy bước vào vòng
lao lý. Bốn năm lưu đày ấy như bốn ngọn roi quất vào tâm hồn
văn nhân. Cặp bộ đội đứng hát bên bờ suối năm xưa, nay đã thành
người quản giáo. Tiếng hát ngày nào đổi thành lời rao giảng,
để hành hạ nhau. Đói và rét làm cho người người lính, văn
nhân mất đi cả lý trí. Mình là ai? Sinh vật hay con người? Có
lẽ chỉ có trời mới biết. Sự phản ứng vô ý thức ấy của văn
nhân buộc tôi tự hỏi: Nếu bây giờ trở lại hoàn cảnh năm xưa,
người thám kích Trần Hoài Thư có bắn cặp bộ đội đang hát bên
suối hay vẫn tha? Và trái tim văn nhân có còn sống vĩnh cửu?
(như ở truyện Viễn Thám). Ta đọc lại đoạn trích trong truyện
ngắn Ra Biển Gọi Thầm, để so sánh tư tưởng, ý thức, hành động
trước và sau 30-4-1974 của nhà văn Trần Hoài Thư:
"Nó cũng thâm độc hơn bất cứ một sinh vật nào. Nó đái lên những con
cá lóc cá trê nó câu được trước khi nạp phần cho cán bộ quản giáo. Nó
thầm lén phạt đứt cọng mạ non thay vì làm cỏ. Nó chửi thề khi hắn ngồi
nghe chính trị viên lên lớp. Nhưng nó lại chịu thua trước thiên nhiên.
Bởi nước thì quá sâu, và chảy quá mạnh. Bởi bó tràm thì quá ngỗ nghịch,
cứng đầu. Nó ngoi ngóp. Nó vùng vẫỵ Hai chân vừa đạp, hai tay vừa kéo.
Mưa lạnh làm châu thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm răng nó đánh cầm
cập. Nó lại đóị Cái đói ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó khiến nó cứ
thở dốc, thở rống từng hồi từ lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó
đang ở bên trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay là nó. Tôi cũng chẳng cần
biết nữa…"
Với tôi, Ra Biển Gọi Thầm là truyện ngắn hay và cảm động nhất
trong tập truyện cùng tên. Truyện này, Trần Hoài Thư viết khi
ông đã vượt thoát sang Hoa Kỳ. Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi
tưởng, chập chờn của ký ức, ông đã đưa người đọc trở về với
những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng tuyệt đẹp, nhưng
cũng tuyệt vọng của mình. Tôi đã đọc khá nhiều truyện, ký
của các tù nhân, cải tạo, nhưng đây là lần thứ hai đọc truyện
viết về tình yêu trong thời gian tù của họ. Và trước đó, là
truyện Nghỉ Hè Ở Mallorca của nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Dường như càng lớn tuổi, nhất là từ sau 1975 càng gian nan Trần
Hoài Thư kiệm lời hơn, nên đi vào sự cô đọng, sâu lắng của thơ.
Hơn bốn năm tù, với một linh hồn rách nát, đủ để cho ông nhìn
lại. Dù nhận được lời mời vào hội văn thơ, nhưng ra đi là con
đường duy nhất của ông. Và con thuyền lá tre chòng chành giữa
biển khơi mênh mông bão tố ấy, chở ông đi tìm tự do, hay tìm về
cõi chết? Đọc bài thơ Đêm Ra Biển của Trần Hoài Thư làm cho
tôi phải rợn tóc gáy:
"…Đêm nước mặn mà ngọt ngào nỗi chết
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát…"
Vậy là Trần Hoài Thư đã vượt qua được những chớp tử sinh. Đến
được bến bờ tự do, nhưng ông cảm thấy mình bất hạnh hơn. Mâu
thuẫn trong tư tưởng, tình cảm luôn giằng xé văn nhân. Và từ
đây, ông như con thuyền không lái, chòng chành hơn, bởi đã mất
quê hương:
"Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương" (Đêm tiễn biệt Việt Nam)
Có thể nói, sau 1975 và từ khi định cư ở Hoa Kỳ, Trần Hoài Thư
viết nhiều hơn. Ông viết cho mình, viết cho đồng đội, cho quê
hương. Mỗi trang sách, bài thơ của ông như những đường kim sợi
chỉ, vá lại linh hồn cho bao người đã bị rách nát trong chiến
tranh, và trong những ngày trốn chạy lưu vong.
Tuy chưa phải là nhà văn lớn, nhưng Trần Hoài Thư là một trong
những nhà văn điển hình nhất trong hai mươi năm nội chiến của
nền Văn học Việt Nam.
Viết bài này, khi tài liệu thơ văn của Trần Hoài Thư, tôi có
không nhiều, chủ yếu tìm đọc trên Internet, (và cũng chưa một
lần gặp gỡ ông). Do vậy, không có hệ thống, có thể còn sai
sót và chưa lột tả, đi hết cái tận cùng con người, cũng như
thế giới mênh mông văn thơ Trần Hoài Thư. Nhưng đây như một lời
tạ ơn của kẻ hậu bối, đến một nhà văn suốt đời hy sinh, tận
tụy cho văn chương nước nhà.
Và hình ảnh Trần Hoài Thư, ngồi vá lại những linh hồn in đậm trong lòng, đã thôi thúc cho tôi viết bài này.
Leipzig ngày 22- 5-2017
VIỆT NAM HÔM NAY
Tệ nạn mua bán bằng cấp ở VN
Năm 2010, hai tác giả Pháp Philippe Papin và Laurent Passicousset có viết một cuốn sách (1) có tựa đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là "Sống với người Việt"). Phải công nhận là sau khi đọc qua những trang (dịch), tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại này không chỉ có hiệu quả biết người ngoài nghĩ gì về người Việt, mà nó còn giúp chúng chúng ta hiểu về chúng ta hơn. Tác giả dành ra một chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục, cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất ... nhức nhối.
Ở Việt Nam, trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường thường dẫn về chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm chí còn có khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện [nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ chẳng có chứng cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện thật.
Trong trích đoạn dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicousset viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mua luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là 15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp (3).
Dĩ nhiên, không phải ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một xã hội mà ngay cả cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối và biến thành một thương trường thì những người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."
====
(1) http://www.amazon.fr/Vivre-avec-vietnamiens-Laurent-Passicousset/dp/2809803358
Một số chương của cuốn sách được dịch sang tiếng Việt và đăng nhiều kì trên trang Ba Sàm:
(2) https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/09/340-s%E1%BB%91ng-v%E1%BB%9Bi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi%E1%BB%87t-1/
(3) https://anhbasam.wordpress.com/2015/02/10/3371-bao-nguoi-cao-tuoi-ban-ve-thi-truong-sao-va-vach/
Trích từ https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/26/377-song-voi-nguoi-viet-5/
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm trọng : phân quyền và mua quan bán chức
[...]
Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.
Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Năm 2010, hai tác giả Pháp Philippe Papin và Laurent Passicousset có viết một cuốn sách (1) có tựa đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là "Sống với người Việt"). Phải công nhận là sau khi đọc qua những trang (dịch), tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại này không chỉ có hiệu quả biết người ngoài nghĩ gì về người Việt, mà nó còn giúp chúng chúng ta hiểu về chúng ta hơn. Tác giả dành ra một chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục, cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất ... nhức nhối.
Ở Việt Nam, trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường thường dẫn về chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm chí còn có khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện [nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ chẳng có chứng cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện thật.
Trong trích đoạn dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicousset viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mua luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là 15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp (3).
Dĩ nhiên, không phải ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một xã hội mà ngay cả cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối và biến thành một thương trường thì những người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."
====
(1) http://www.amazon.fr/Vivre-avec-vietnamiens-Laurent-Passicousset/dp/2809803358
Một số chương của cuốn sách được dịch sang tiếng Việt và đăng nhiều kì trên trang Ba Sàm:
(2) https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/09/340-s%E1%BB%91ng-v%E1%BB%9Bi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi%E1%BB%87t-1/
(3) https://anhbasam.wordpress.com/2015/02/10/3371-bao-nguoi-cao-tuoi-ban-ve-thi-truong-sao-va-vach/
Trích từ https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/26/377-song-voi-nguoi-viet-5/
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm trọng : phân quyền và mua quan bán chức
[...]
Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.
Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Việc mua quan bán chức này không hẳn là mới. Nó tồn tại từ giữa thập
niên 1990. Người ta biết chuyện ông bộ trưởng nọ vừa mới được bổ nhiệm
đã phải đợi 6 tháng để có đủ tiền trả cho cái ghế của mình trước khi
được ngồi vào đó. Gần đây hơn, năm 2007, một nữ chủ doanh nghiệp một
thành phố lớn phía Bắc đã đề xuất chi 80 ngàn EUR để được một chân đại
biểu quốc hội : ít quá, nếu so với những đề xuất khác, nên bà này đã bị
loại từ vòng sơ tuyển do Mặt trận tổ quốc tổ chức, mà lọt qua vòng này
thì coi như được bầu. Trái lại, năm 2009, cũng khoản tiền ấy đã đủ để
mua chức phó giám đốc một doanh nghiệp lớn của Nhà nước mà chúng tôi
tránh không nói tên. Năm 2010, nghe nói ngay cả Ban chấp hành trung ương
Đảng cũng không thoát khỏi hiện tượng này…
Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12 000 EUR : 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào : 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…
Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3 000 EUR.
Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể : cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ : “có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.
Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được ? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không ?
Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…
Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được ? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao ? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất ? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người : vòng tròn đã khép kín.
Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền ; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ : “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.
Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày : thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.
Comments:
Bạch Kim said...
Cũng hệt như tệ nạn cảnh sát giao thông đứng đường vòi vĩnh đút lót, chính quyền này rất sợ, và ghét, phải thừa nhận rằng chuyện mua bán bằng cấp, chức tước từ lâu đã thành nhan nhãn đến mức bình thường trong xã hội. Phản ứng hay thấy của họ mỗi lần lộ diện tiêu cực, là cho rằng nó chỉ xuất phát từ "một bộ phận nhỏ", rằng đa số còn lại đều rất tốt vv..., cứ thế cái xấu mặc sức tung hoành và ngày càng lây lan vì không được (thực ra là không dám) nhận diện lẫn trừng trị đích đáng. Thỉnh thoảng về quê ở một tỉnh lỵ đã được nâng cấp lên thành phố loại 1, ngồi uống cà phê đàn đúm cùng đám bạn học cũ giờ đã ổn định cuộc sống, nghe tụi nó khoe khoang huyên thuyên về quá khứ lẫn hiện tại mua quan bán chức mà tá hỏa: Mọi thứ được trình bày theo kiểu tự sướng một cách rất đàng hoàng, công khai, đầy hãnh diện, cứ như phải có tài lắm mới làm được những chuyện như vậy ! Ngoái sang bàn gần đó loáng thoáng cũng đang tán nhau những chuyện tương tự, cũng với những bộ mặt hả hê, đắc thắng, thản nhiên. Cả một thế hệ không chỉ biết dùng thủ đoạn để sống "tốt" mà cón đắc ý tán dương thủ đoạn ấy để rồi hệ lụy chắc chắn là hniều thế hệ kế tiếp sẽ noi theo, noi theo...
February 20, 2016 at 7:29 PM
Anonymous said...
Cảm ơn Bác Tuấn vì những dòng tâm sự đầy bức xúc Bác nói hộ thành văn giúp giới trẻ như chúng cháu. Không thể bịt tai, không thể nhắm mắt nên cảm thấy bất lực. Người nước ngoài cũng đã thấy rõ thực trạng của Việt Nam nhưng cũng có cái sự thực họ chưa biết là nếu anh không có chứng chỉ COCC: con ông cháu cha đấy ạ, thì anh cũng đừng mong dùng tiền để mua chức bán quyền. Đường dây đó nó tinh vi lắm ạ. Thật tiếc cho các bạn trẻ có tài nhưng không được trọng dụng chỉ vì lí lịch không đủ "tầm"
February 21, 2016 at 3:13 AM
Anonymous said...
Công nhận 1 điều là anh Tuấn này viết khỏe thật. Không hiểu viết thế này thì thời gian làm việc và suy nghĩ lúc nào?
Tất nhiên nhiều chuyện anh ta viết rất định kiến, thông tin sai. Tôi đã thử comment và anh không cho hiện, dù viết lịch sự. Thế nên cũng không hẳn là người trung thực.
Tôi viết đây cũng chỉ để cho anh Tuấn đọc thôu. Lời khuyên là:
Đừng lo dạy khôn thiên hạ mà quên dậy khôn chính bản thân mình.
TB: tôi đang ống ở nước ngoài nên không có chuyện vì tự ái mà phản biện anh.
Cũng biết là anh sẽ không cho hiện còm này. Hehe.
February 21, 2016 at 8:23 AM
Thanh truong said...
Chủ nghĩa Mác Lê nin khùng điên đã cho ra lò một thế hệ lùa dối ai được thì nghĩ đó là Thông minh,đó là xuất chúng,đến nỗi mua bằng cấp là lừa dối chinh bản thân mình ma khong biết,nghĩ mình giỏi hon người đi học thật sự!
Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12 000 EUR : 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào : 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…
Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3 000 EUR.
Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể : cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ : “có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.
Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được ? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không ?
Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…
Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được ? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao ? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất ? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người : vòng tròn đã khép kín.
Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền ; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ : “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.
Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày : thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.
Comments:
Bạch Kim said...
Cũng hệt như tệ nạn cảnh sát giao thông đứng đường vòi vĩnh đút lót, chính quyền này rất sợ, và ghét, phải thừa nhận rằng chuyện mua bán bằng cấp, chức tước từ lâu đã thành nhan nhãn đến mức bình thường trong xã hội. Phản ứng hay thấy của họ mỗi lần lộ diện tiêu cực, là cho rằng nó chỉ xuất phát từ "một bộ phận nhỏ", rằng đa số còn lại đều rất tốt vv..., cứ thế cái xấu mặc sức tung hoành và ngày càng lây lan vì không được (thực ra là không dám) nhận diện lẫn trừng trị đích đáng. Thỉnh thoảng về quê ở một tỉnh lỵ đã được nâng cấp lên thành phố loại 1, ngồi uống cà phê đàn đúm cùng đám bạn học cũ giờ đã ổn định cuộc sống, nghe tụi nó khoe khoang huyên thuyên về quá khứ lẫn hiện tại mua quan bán chức mà tá hỏa: Mọi thứ được trình bày theo kiểu tự sướng một cách rất đàng hoàng, công khai, đầy hãnh diện, cứ như phải có tài lắm mới làm được những chuyện như vậy ! Ngoái sang bàn gần đó loáng thoáng cũng đang tán nhau những chuyện tương tự, cũng với những bộ mặt hả hê, đắc thắng, thản nhiên. Cả một thế hệ không chỉ biết dùng thủ đoạn để sống "tốt" mà cón đắc ý tán dương thủ đoạn ấy để rồi hệ lụy chắc chắn là hniều thế hệ kế tiếp sẽ noi theo, noi theo...
February 20, 2016 at 7:29 PM
Anonymous said...
Cảm ơn Bác Tuấn vì những dòng tâm sự đầy bức xúc Bác nói hộ thành văn giúp giới trẻ như chúng cháu. Không thể bịt tai, không thể nhắm mắt nên cảm thấy bất lực. Người nước ngoài cũng đã thấy rõ thực trạng của Việt Nam nhưng cũng có cái sự thực họ chưa biết là nếu anh không có chứng chỉ COCC: con ông cháu cha đấy ạ, thì anh cũng đừng mong dùng tiền để mua chức bán quyền. Đường dây đó nó tinh vi lắm ạ. Thật tiếc cho các bạn trẻ có tài nhưng không được trọng dụng chỉ vì lí lịch không đủ "tầm"
February 21, 2016 at 3:13 AM
Anonymous said...
Công nhận 1 điều là anh Tuấn này viết khỏe thật. Không hiểu viết thế này thì thời gian làm việc và suy nghĩ lúc nào?
Tất nhiên nhiều chuyện anh ta viết rất định kiến, thông tin sai. Tôi đã thử comment và anh không cho hiện, dù viết lịch sự. Thế nên cũng không hẳn là người trung thực.
Tôi viết đây cũng chỉ để cho anh Tuấn đọc thôu. Lời khuyên là:
Đừng lo dạy khôn thiên hạ mà quên dậy khôn chính bản thân mình.
TB: tôi đang ống ở nước ngoài nên không có chuyện vì tự ái mà phản biện anh.
Cũng biết là anh sẽ không cho hiện còm này. Hehe.
February 21, 2016 at 8:23 AM
Thanh truong said...
Chủ nghĩa Mác Lê nin khùng điên đã cho ra lò một thế hệ lùa dối ai được thì nghĩ đó là Thông minh,đó là xuất chúng,đến nỗi mua bằng cấp là lừa dối chinh bản thân mình ma khong biết,nghĩ mình giỏi hon người đi học thật sự!
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ CHỐNG VĂN HÓA ĐỒI TRỤY!NGHỆ THUẬT VIỆT CỘNG BÂY GIỜ
Đồn rằng Hồ ly chín đuôi,Các em chỉ đến góp vui thôi mà ...Mấy anh Kiến trúc mơ màng,Thiết kế vào đúng "điểm vàng" mới ngon ….Mùa xuân là mùa sinh sôi,Để đám đực rựa bồi hồi con trym (quên, tim …. he …he..)Hội khóa toàn bạn với Thầy,Ngoáy mông khoe rốn bầy hầy lắm nha ….Giao ban là để "triển khai"Không phải là để khoe tài ngoáy mông ….Chúc mừng bảo dưỡng thành côngBổ sung "điện nước" để không hao mòn ….Đi tu thì cũng là người,Cải thiện đôi mắt để đời bớt khô ….Ông zời zở chứng làm mưa,Mất công em tỉa lông (nách) thừa sáng nay ….Khổ thân mấy anh máu dêDán mắt vào cái "đê mê" … ngã rồiVăn hóa là phải bảo tồn,Chớ quên giữ cái "tâm hồn" chị em ...
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.
Thành Hồ của Việt Nam bị lún chìm ở mức báo động
Đỗ Hồng (Danlambao) lược dịch - Tin Hà Nội. – Một bản nghiên cứu hôm thứ ba 18/4 cho biết nạn đất lún tại thành Hồ đang diễn ra ở mức báo động.
Tân Hoa Xã trích dẫn kết quả nghiên cứu được loan báo bởi Bộ Tài Nguyên
và Môi Trường của VN cùng Viện Đại Học Kỹ Thuật HCM, cho thấy nhiều khu
vực trong 8 quận của thành phố đã bị lún chìm từ 5 tới 10 ly một năm.
Phụ Tá Giáo Sư Lê Văn Trung của Viện Đại học này nói rằng sau khi so
sánh thống kê trong 25 năm, thành phố cho tới nay đã bị lún chìm khoảng
0,4 thước.
Ông cảnh cáo nếu vấn đề lún đất không được lưu ý tới, những khu vực bị
lún chìm sẽ đối đầu với nạn lún đất trầm trọng, và một số khu vực thậm
chí có thể bị chìm xuống nước biển.
Những lý do chính của nạn lún đất tại thành Hồ bao gồm việc khai thác
quá mức về nước ngầm, việc thành thị hóa nhanh chóng và các hoạt động
chuyên chở sôi nổi.
Tại những vùng đất thấp, nạn lún đất cùng mực nước biển dâng lên (trung
bình khoảng 3 ly một năm do sự thay đổi khí hậu) sẽ lan rộng tới những
khu vực bị ngập nước hiện tại và tạo ra những khu vực mới.
Tại những khu vực duyên hải, việc khai thác nước ngầm quá mức gây ra sự
thâm nhập của nước muối một cách tổng quát sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới
việc tăng trưởng của cây cối trong việc phát triển nông nghiệp đặc biệt
và có thể chống đỡ được.
Theo Bộ Môi Trường, những vùng của Đồng Bằng Sông Cửu Long tại miền Nam VN cũng đã bị lún chìm.
24/5/2017
CUỘC ĐỐI ĐÁP GIỮA CÔ CAVE VÀ CÔNG AN
HoangsaParacels: Một cuộc đối thoại dí dỏm và sâu sắc. Câu chuyện cười ra nước mắt này được phổ biến rộng rãi cho dân chúng trong nước sẽ gây được một chuyển biến rất tốt về tư tưởng cho mọi người dân nhận rõ bộ mặt tay sai, bán nước của cộng sản Hà Nội.
Một gái gọi bị bắt quả tang đang mây mưa với một người ngoại quốc trong một khách sạn ở Vũng Áng. Cô bị đưa về đồn công an và bị tra xét.
Sau đây là đoạn đối thoại giữa cô với công an....Công an: Cô còn trẻ khỏe, xinh đẹp, sao không kiếm nghề gì mà làm lại đi bán dâm?
Cô gái: Đây cũng là một nghề mà anh.
Công an: Luật pháp nước ta không thừa nhận đây là một nghề.
Cô gái: Luật pháp do con người làm ra cả thôi. Thích cho nó là một nghề thì nó là một nghề. Ở nước khác đây là nghề hợp pháp, có bảng hiệu, có đóng thuế môn bài hẳn hoi.
Công an: Nhưng nước ta không thừa nhận đây là một nghề. Thôi, không nói chuyện đó nữa. Cô bán dâm bao lâu rồi?
Cô gái: Tôi không bán dâm, tôi chỉ làm tình với ông bạn Đài Loan của tôi thôi.
Công an: Cô có lấy tiền của ông khách Đài Loan đó không?
Cô gái: Sau khi làm tình ông ấy cho tôi tiền. Cho thì tôi nhận. Thế thôi.
Công an: Như vậy là cô đã bán dâm lấy tiền. Cô sẽ bị phạt hành chính và đưa vào trại phục hồi nhân phẩm.
Cô gái: Anh hỏi xong chưa?
Công an: Rồi.
Cô gái: Bây giờ tôi hỏi anh mấy câu. Ok?
Công an: Cô cứ hỏi.
Cô gái: Tại sao tôi cho ông bạn Đài Loan sử dụng cái mà tôi có thì mấy anh cho rằng tôi bán dâm và bắt tôi, trong khi chính quyền mấy anh cho Formosa sử dụng cái mà chính quyền mấy anh không có thì lại được?
Công an: Chính quyền cho Formosa sử dụng cái gì?
Cô gái: Đất đai, biển trời... Những thứ đó đâu phải của chính quyền mấy anh. Luật pháp ghi rõ “đất đai thuộc sở hữu của toàn dân”, đâu thuộc sở hữu của chính quyền mà chính quyền đem cho Formosa sử dụng.
Công an: Chính quyền cho Formosa thuê đất sử dụng có thời hạn.
Cô gái: Vậy tôi cũng cho ông khách Đài Loan đó thuê bướm sử dụng có thời hạn. Hai việc này đâu có khác chi nhau. Có khác là tôi cho thuê cái thuộc về sở hữu của tôi, còn chính quyền cho thuê cái không thuộc sở hữu của chính quyền. Khác nữa là thời hạn tôi cho thuê có vài tiếng đồng hồ, còn thời hạn chính quyền cho thuê kéo dài tới 70 năm. Đó là chưa kể tôi cho ông khách Đài Loan thuê bướm, lỡ có bề gì tôi chịu trận một mình. Còn chính quyền cho Formosa thuê đất, thuê biển, bây giờ Formosa gây ra ô nhiễm môi trường, cá chết, biển chết... thì dân tình lãnh đủ. Việc cho Formosa thuê đất, thuê biển... của chính quyền đã gây ra tác hại đủ đường, trong khi việc cho thuê bướm của tôi không làm hại đến ai, sao không đi bắt chính quyền mà lại bắt tôi và đòi tống tôi vô trại phục hồi nhân phẩm?
Đến đây thì công an đập bàn quát lớn: Im đi! Nhốt hết chính quyền vô trại thì trại mô mà chứa cho đủ hả?
Nguyễn Hiếu Sưu tầm
VIỆT NAM NHÀ SIÊU MỎNG
Wednesday, May 24, 2017
KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN
Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài
năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ,
rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi
được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên
san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt
ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ
vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao
phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như
vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi
đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn
rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm,
ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó.
Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực
khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng
cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú
quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món
ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp
tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo,
không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào
ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất
của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể
cả khách khó tính”.
Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc
tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt
chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh
bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng
mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho
khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng
trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước
Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa
hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.
Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.
Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn
thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học
hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất
thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng
phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn
nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển
học mừng rú.
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN?
Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be
nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái
chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T.,
người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành
nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử
khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người
thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng
xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến
hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay
như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ
rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến
năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy
chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc
trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại
được.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt,
cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu
chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở
phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng
một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước,
sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu
đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Phố thịt chó xưa.
Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.
Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử.
Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.
Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết.
Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.
Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở.
Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News
(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.
Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)
Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.
Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.
Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.
Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.
Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.
Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…
Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.
Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.
Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.
Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.
Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.
Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.
Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.
Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.
12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.
Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.
Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.
Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.
Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.
Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.
Sư trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.
Thầy Thủy bảo: “Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.
Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.
Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.
Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.
Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.
Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.
Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.
Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.
Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.
Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.
Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.
Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.
Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…
Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm
TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
THỬ
TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”
Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html
Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/
Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html
và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.
Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:
Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào
Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Vũ Hoàng Chương
(1976)
Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.
Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
隴西行
LŨNG TÂY HÀNH
誓掃匈奴不顧身 Thệ tảo Hung nô bất cố thân
五千貂錦喪胡塵 Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨 Khả liên Vô Định hà biên cốt
猶是深閨夢裡人 Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn
ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:
Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.
Đây
là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ
lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ,
người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp
với hình bóng “chàng.”
“Lũng
Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh
Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm
Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ
mình khi đi đánh Hung Nô.
Bài
thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
hay:
Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê
phòng.
Bài “Đọc
lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của
bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.
Mười câu
đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn
trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng
năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng
ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với
nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét
sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:
Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?
Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”
Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:
Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.
ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):
Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:
Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?
Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.
Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên
lý long câu, vạn lý thuyền
Hốt
ngộ tiền thân: nhất yển thử
Ẩm
hà mãn phúc, túy xuân thiên.
(Sau
giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt
Một con “thiên lý
long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền
tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt
nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột
Uống
nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng
Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là
công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo
quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ
khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên,
lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả
là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi
khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền
thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng)
trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản
tiếng Việt của ông như sau:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh
ra, ngựa đấy với thuyền đây
nhìn
nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
vừa
uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ
này sau được in lại trong tập Chúng ta mất
hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại,
sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc
chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này
không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
Giật mình đợt súng xa đưa
Niềm
quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của
Đông Hồ trong những câu:
Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
Nguyên
đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại,
đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của
Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày
30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy
thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng
ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi”
chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc.
Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương
cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm
quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy
thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con
đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách
khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước
năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc
kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau
khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám
để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị
khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang
đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ.
Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà
thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới
cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã
không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân
trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai
TRỌNG ĐẠT * NGUYÊN NHÂN XỤP ĐỔ VIỆT NAM CỘNG HÒA 1975
NGUYÊN NHÂN XỤP ĐỔ VIỆT NAM CỘNG HÒA 1975
Posted on by dongsongcu
Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946 khi
Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày 30-4-1975 khi
Sài Gòn thất thủ. Theo thống kê năm 1973 của Ngũ Giác Đài, người Mỹ tốn
kém gần 300
Cho đến nay, nguyên nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn là một
điều gây nhiều tranh cãi, ít ra là trên sách báo và trên những tài liệu
dưới hình thức những hồi ức. Bài viết này của tác giả Trọng Đạt là một
trong một số ít những bài viết rất công phu về điểm này. Phần dưới cùng
của bài viết là danh sách những tài liệu tham khảo.
Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946 khi
Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày 30-4-1975 khi
Sài Gòn thất thủ. Theo thống kê năm 1973 của Ngũ Giác Đài, người Mỹ tốn
kém gần 300 tỷ đô la từ giữa thập niên 60 tới ngày ký Hiệp định Paris,
có khoảng 58 ngàn người chết, phía VNCH khoảng hơn 180 ngàn người tử
thương, CSBV và VC mất hơn một triệu cán binh, dân chúng hai miền được
ước lượng vào khoảng hơn một triệu người chết vì bom đạn.
Nói về những nguyên nhân khiến miền Nam mất về tay cs đã được biết bao
người bàn tán tranh luận từ mấy chục năm qua cho tới nay người ta vẫn
còn tranh cãi. Người Mỹ thì đổ lỗi cho VNCH như Tổng Thống Bush và Bộ
Trưởng Quốc Phòng Rumfield cách đây mấy năm đã nói thua tại vì Quân Đội
VNCH không chịu đánh ! Họ ý nói ta chỉ chờ Mỹ đánh dùm! Phía Việt Nam
nhiều người kết án tại Mỹ tháo chạy bỏ rơi đồng minh.
Nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương cho rằng phía Việt nam có ba nguyên nhân chính đưa tới sụp đổ:
– Ta thiếu một lãnh tụ có đủ khả năng– Dân chúng miền Nam không tích cực yểm trợ công cuộc chiến đấu.
– Quân đội CSBV đã nhanh chóng khai thác thời cơ, lợi dụng các yếu điểm của QLVNCH.
Những nguyên nhân đưa tới sự mạng vong của VNCH thì chằng chịt nhiều vô
kể, không có nguyên nhân nào là độc quyền chủ chốt, nhiều người quả
quyết ta thua vì hết đạn, người Mỹ cúp quân viện, nhưng sự thực cũng
không hẳn như vậy. Ông Nguyễn Đức Phương căn cứ theo tài liệu Mỹ cho
biết sau 30-4-1975 CSBV đã tịch thu được của VNCH rất nhiều chiến lợi
phẩm trị giá trên 5 tỷ đô la trong đó có 130 ngàn tấn đạn. Năm 1972 ta
xử dụng mỗi tháng trên 60 ngàn tấn, sau tháng 7-1975 ta xử dụng tiết
kiệm 18 ngàn tấn một tháng như vậy số đạn dược 130 ngàn tấn nếu không bị
CS tịch thu ta có thể xử dụng được 5, 6 tháng.
Ở đây chúng tôi chỉ nêu một số điểm chính đi từ gần đến xa, trước hết
xin nói về nguyên nhân gần, tiếng Pháp gọi cause immédiate.
– Nguyên nhân quân sự.
Nguyên nhân gần gũi nhất ai cũng biết là do sự sai lầm của ông Tổng Tư
Lệnh Quân Đội Nguyễn Văn Thiệu trong kế hoạch triệt thoái hai Quân khu 1
và 2 gây nên sự hỗn loạn dây chuyền sụp đổ hai vùng chiến thuật rồi đưa
tới sụp đổ toàn bộ miền Nam. Kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris
28-1-1973 trong khi BV mở mang xa lộ Đông Trường Sơn, xử dụng 16 ngàn xe
vận tải chuyển vận vũ khí đạn dược vào Nam chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn
công 1975 , chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không có một kế hoạch nào về
chính trị, quân sự để chống lại âm mưu địch cưỡng chiếm miền Nam mà chỉ
ngồi chờ giặc tới và hy vọng vào sự can thiệp của Không Lực Mỹ.
Tình báo yếu kém nên ông Thiệu đã khinh địch, đánh giá sai lực lượng
địch cho rằng CSBV không đủ khả năng đánh vào các thành phố lớn, không
đủ lực lượng để mở những trận tấn công lớn như năm 1972. Trước hết chúng
tôi xin so sánh lực lượng hai bên vào năm 1975.
VNCH tổng cộng có hơn một triệu quân trong đó 40 % là bộ binh chính qui, 50% là địa phương quân, nghĩa quân còn lại là cảnh sát và Không quân, Hải quân.. .Vì ta tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có năm người yểm trợ như tiếp liệu, quân nhu, quân y, hành chánh tài chánh… cho nên trên thực tế lính nhà nghề chưa tới 200 ngàn người, thành phần không tác chiến (non combatant) chiếm khá nhiều, địa phương quân và nghĩa quân chỉ đủ sức cầm cự chờ lính BB của sư đoàn.
Chủ lực quân VNCH được bố trí tại 4 quân khu như sau:
Quân Khu 1: 3 sư đoàn BB cơ hữu của QK 1, 2, 3, và hai sư đoàn Tổng trừ
bị TQLC và Dù, 4 Liên đoàn Biệt động quân, 410 đại bác, khoảng 450 xe
tăng thiết giáp, hơn 90 máy bay chiến đấu
Quân Khu 2: 2 sư đoàn BB chủ lực 22 và 23 và 7 liên đoàn BĐQ, 380 đại bác, 477 xe tăng thiết giáp, máy bay chiến đấu 138 chiếc .
Quân Khu 3: 3 sư đoàn BB chủ lực 5, 18, 25 và 4 liên đoàn BĐQ, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu.
Quân Khu 4: 3 sư đoàn BB 7, 9, 21 gồm 380 đại bác 493 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.
Về Pháo Binh ta có hơn 1,500 khẩu đại bác , hơn một nửa là súng 105 ly,
chưa tới 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là súng 175 ly. Về xe tăng tổng
cộng ta có khoảng 2,000 chiếc nhưng hơn một nửa là M113 và các loại
thiết giáp xưa cũ, khoảng gần 40% là xe M41 và M48, trong đó chỉ có M48
là tương đương với T54 của địch.
M113M41
M48
Vũ khí QĐVNCH trông cũng khá hùng hậu nhưng tình hình 1975 do hậu quả
cắt giảm quân viện, nhiều máy bay, xe tăng, tầu chiến… thiếu cơ phận
thay thế đã trở thành bất khiển dụng. Hoả lực giảm 60% so với năm 1972,
đạn dược chỉ đủ đánh cho tới tháng 6 năm 1975. Vì phải trải quân giữ
đất, toàn bộ 13 sư đoàn của ta và 15 liên đoàn BĐQ (tương đương với hơn 2
sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh, tính trung bình một tỉnh chỉ được hơn một
trung đoàn bảo vệ trong khi CSBV có thể tập trung hơn 10 trung đoàn để
đánh một tỉnh thí dụ như tại Ban Mê Thuột tháng 3-1975.
Lực lượng chính qui CSBV năm 1975 gồm có 4 quân đoàn và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn).
Quân đoàn 1 có 3 sư đoàn (308, 312, 320B).
Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn (304, 324, 325).
Quân đoàn 3 có 3 sư đoàn (10, 316, 320)
Quân đoàn 4 có 3 sư đoàn (6, 7, 341).
Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn (304, 324, 325).
Quân đoàn 3 có 3 sư đoàn (10, 316, 320)
Quân đoàn 4 có 3 sư đoàn (6, 7, 341).
Đoàn 232 có 3 sư đoàn BB (3, 5, 9) và sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng BV
có 16 sư đoàn BB và đặc công, ngoài ra BV có khoảng 15 trung đoàn BB độc
lập và đặc công tương đương với 4 hoặc 5 sư đoàn. Toàn bộ lực lượng
chính qui BV năm 1975 vào khoảng 20 hay 21 sư đoàn BB.
Người ta ước lượng không chính xác BV đưa vào Nam khoảng trên 500 xe
tăng và 500 đại bác. Về vũ khí đạn dược theo báo chí VC năm 1976 tiết lộ
cho biết năm 1975 vũ khí đạn dược của chúng gấp 3 lần 1972, hư thực thì
không rõ nhưng có điều chắc chắn năm 1975 BV đã được CS quốc tế viện
trợ quân sự tối đa. Về số lượng xe tăng và pháo binh của ta nhiều gấp
hai, ba lần đối phương nhưng về mặt phẩm vũ khí địch hơn ta. Xe tăng chỉ
có M-48 tương đương với T-54 của BV, súng 155 và 105 ly tầm viễn xạ tối
đa chỉ được 15 và 11 cây số trong khi súng 130 ly CSBV bắn xa 30 cây
số. Năm 1972 Mỹ có viện trợ cho ta súng 175 ly bắn xa 28 km nhưng số
lượng không nhiều lắm.
Đầu năm 1975 hơn 80% chủ lực quân CSBV đã có mặt tại miền Nam chúng chỉ
để lại quân đoàn 1 tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Khoảng hơn 70
% chủ lực quân BV được tập trung vào QK1 và QK2 của ta. Tại QK2, BV để 5
sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn độc lập (tương đương
một sư đoàn), toàn bộ khoảng 6 sư đoàn, tại QK1 của ta BV để 5 sư đoàn
BB và hơn mười trung đoàn độc lập, toàn bộ vào khoảng hơn 8 sư đoàn
Chiến thuật chiến lược hai bên vẫn y như cũ, không khác gì thời chiến
tranh Việt Pháp 1947-54 là mấy, ta vẫn theo chính sách đóng đồn cũ rích
có từ thời ông Đờ lát 1950, trải quân giữ đất. VC vẫn chiến thuật chiến
lược cũ công đồn đả viện, tiền pháo hậu xung, lấy thịt đè người. Cường
độ chiến tranh gia tăng nhiều, trận Tổng công Kích Tết Mậu Thân năm 1968
CS đánh cấp tiểu đoàn trung đoàn, năm 1972 địch đánh cấp sư đoàn nay
1975 chúng tiến lên cấp quân đoàn, VC xả láng toàn bộ lực lượng vào ván
bài chót.
So với năm 1972, tình hình bi đát hơn gấp bội phần vì đồng minh phản bội
xé bỏ giấy tờ cam kết yểm trợ Không Quân khi bị VC tấn công, một mình
VNCH phải gánh vác chiến trường với sự thiếu thốn trầm trọng về tiếp
liệu, đạn dược.
Như trên ta thấy BV tung vào chiến trường miền Trung tất cả 14 sư đoàn
trong khi ta chỉ có 7 sư đoàn và 11 liên đoàn BĐQ (tương đương hơn 2 sư
đoàn), toàn bộ chủ lực quân ta (kể cả Biệt động quân) vào khoảng hơn 8
sư đoàn, ta phải trải quân giữ đất, địch tập trung quân nên mũi dùi tấn
công rất mạnh. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại Thắng Mùa Xuân) Tướng Thiệu
đã bố trí lực lượng sai ở chỗ mạnh hai đầu, có nghĩa ta để 5 sư đoàn
tại QK1 và 3 sư đoàn tại QK3, QK3 được tăng cường nhiều máy bay chiến
đấu và xe tăng. Như thế ta để yếu ở QK2, đó là nơi CS chủ trương tấn
công mở đầu chiến dịch 1975.
Tại QK2 như trên ta thấy chủ lực quân VNCH là 2 sư đoàn và 7 Liên đoàn
BĐQ, toàn bộ chỉ vào khoảng 3 sư đoàn trong khi CSBV tập trung tại đây
tới 6 sư đoàn, vì ta bố trí sai lực lượng nên không đủ sức chống lại
địch. Ngày 10-3 Cộng quân đem 3 sư đoàn tấn công chớp nhoáng chiếm Ban
Mê Thuột, phần vì sai lầm của Tướng Phú, ông mắc lừa kế nghi binh của
địch tưởng chúng đánh Pleiku, phần vì Bộ TTM và Tướng Thiệu đã bố trí
sai lực lượng tại QKII nên ta không đủ lực lượng chống lại địch. Tại Ban
Mê Thuột lực lượng ta chỉ có 2 tiểu đoàn BB và 3 liên đoàn địa phương
quân không thể chống lại quân số địch khoảng 12 trung đoàn. Theo bút ký
của Nguyễn Định, năm 1975, QĐVNCH Ban Mê Thuột chỉ vào khoảng 2000 kể cả
Nghĩa Quân, Cảnh Sát..BMT như một thành phố bỏ hoang.
Ban Mê Thuột thất thủ đưa tới những hậu quả tai hại không thể lường
trước được, ngày 11-3, một ngày sau khi VC vào Ban Mê Thuột, ông Thiệu
họp HĐ An ninh QG gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn
Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá an ninh QG. Tướng Thiệu cho
biết trước tình hình khó khăn do cắt giảm quân viện, lãnh thổ phòng thủ
quá rộng, áp lực địch nặng, ta chỉ đủ quân giữ QK3 và QK4 và một phần
duyên hải QKII, QKI chỉ cần giữ Huế và Đà Nẵng. Ông sẽ thực hiện tái
phối trí lực lượng, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên về giữ đồng bằng. Ngày
13-3 Hạ Viện Mỹ khối đa số Dân Chủ bỏ phiếu chống tăng viện cho VNCH 300
triệu Mỹ kim do Tổng thống Ford đệ trình.
Phần thì hốt hoảng vì mất Ban Mê Thuột, lại bị toá hoả tam tinh vì hạ
Viện Mỹ bác bỏ quân viện, Tướng Thiệu bèn ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên
hôm 14-3-1975 mặc dù Tướng Phú nài nỉ xin ở lại giữ đất. Cuộc triệt
thoái bắt đầu từ ngày 16-3, chia làm 4 đoàn, mỗi ngày một đoàn xe, mỗi
đoàn 250 chiếc, ngày đầu 16-3 thì êm xuôi nhờ yếu tố bất ngờ, ngày hôm
sau dân chúng chạy ùa theo gây náo noạn cả lên , ngày 16-3 sư đoàn 320
VC được lệnh cấp tốc đuổi theo đến 18-3 thì bắt kịp. Hỗn loạn bắt đầu
xẩy ra tại Phú Bổn, bọn lưu manh côn đồ đốt chợ, VC pháo kích phi trường
gây kinh hoàng cho đám người di tản. Tối đến VC pháo thị xã, 70% xe
tăng và đại bác dồn đống tại thị xã bị phá hủy gần hết, 40 xe tăng M41,
M48 bị huỷ, Tướng Phú ra lệnh bỏ Phú Bổn, đoàn quân đi được 20 km thì VC
tràn vào Phú túc, BĐQ chiếm lại Phú Túc, ra khỏi Phú Túc người ta tranh
dành nhau lên trước hỗn loạn xẩy ra, bắn nhau dành đường đi, VC đưa các
lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê Thuột để đuổi theo truy kích, tới
26-3 trong số 1,200 ciếc xe chỉ có 300 cái mở đường máu về được Tuy hoà.
Phạm Huấn gọi đây là một Hành Lang Máu.
Trong số 60 ngàn chủ lực quân chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, 5 Liên
đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người, 100 xe tăng chỉ còn 13 chiếc
M113, toàn bộ vũ khí đạn dược trị giá 253 triệu phần lớn lọt vào tay VC,
theo Đại Tướng Cao Văn Viên ít nhất 75% lực lượng chiếnđấu của Quân
đoàn II bị tiêu diệt, đây là một cuộc hành quân phá sản kéo theo sự sụp
đổ của cả Quân Khu.
Ngày 13-3 ông Thiệu lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Khu I
đưa Sư đoàn Dù về Sài Gòn. Ngày 14-3 Tướng Trưởng về dinh Độc Lập họp
Hội Đồng an ninh QG về kế hoạch tái phối trí, hôm sau Tướng Trưởng ra
QKI họp nội bộ thi hành lệnh tái phối trí đưa sư đoàn Dù về Sài Gòn,
ngày 17-3 TQLC ra Đà Nẵng thay Dù khiến dân chúng sợ hãi ùn ùn kéo nhau
di tản trên Quốc lộ 1 về Đà nẵng.
Ngày 19-3 Tướng Trưởng về Sài Gòn trình bầy kế hoạch lui binh. Kế hoạch
thứ nhất cho các đơn vị theo Quốc Lộ 1 từ Chu Lai về Đà Nẵng, kế hoạch
thứ hai các lực lượng tập trung tại Huế và Chu Lai sau đó tầu Hải quân
sẽ đưa về Đà Nẵng, trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối
cùng. Từ ngày 19-3 CSBV bắt đầu tấn công mạnh từ Bắc và Nam QKI theo thế
gọng kìm. Ngày 20-3 đài Huế cho phát thanh hiệu triệu của Tổng thống tử
thủ Huế. Chiều hôm ấy Tướng Thiệu đổi ý gửi công điện cho Tướng Trưởng
không bó buộc phải giữ Huế, chỉ giữ Đà Nẵng. Ngày 24-3 Quảng Nam, Quảng
Tín ở phía Nam QKI bị VC tấn công mạnh phải rút về Chu lai, tình hình QK
chỉ trong một ngày rối loạn đến mức không thế kiểm soát được .
Ngày 23-3 lệnh bỏ Huế được chính thức ban hành vì áp lực CS và binh sĩ
ta rã ngũ, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước nên các đơn vị VNCH như
rắn mất đầu đã tan hàng . Tại Nam QK1 sư đoàn 2 tại Chu lai được tầu đưa
ra Cù Lao Ré nhưng chỉ được một nửa quân số. Các đơn vị VNCH từ Huế di
tản về cửa Thuận An, Tư Hiền bị thiệt hại rất nặng, các đơn vị tập trung
tại hai cửa biển đã làm mồi cho pháo binh địch, dân quân trúng pháo
kích chết như rạ. Hỗn loạn diễn ra, tranh nhau lên tầu bắn giết nhau dã
man, tình trạng hỗn loạn được coi là quá tồi tệ so với QK2.
Ngày 27-3 Cuộc phòng thủ Đà Nẵng trở nên vô hiệu vì hỗn loạn, dân tị nạn
quá đông (hơn một triệu người), phố xá chật ních những người, hỗn loạn
diễn ra dữ dội tranh nhau lên tầu, lên máy bay bắn giết nhau không còn
quân kỷ y như xã hội thời thượng cổ. Ngày 28-3 xã ấp quanh Đà Nẵng lọt
vào tay CSBV, 4 sư đoàn BV bao vây tấn công Đà Nẵng. Các sư đoàn 1 và 2,
các đơn vị thiết giáp, pháo binh VNCH thiệt hại nặng trên đường di tản
khiến cho cuộc phòng thủ Đà Nẵng không còn lực lượng nào ngoài sư đoàn 3
. Ngày 29-3 Tướng Trưởng xin lệnh bỏ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nhì của
VNCH coi như mất ngày 29-3. Trong vòng 10 ngày Quân Đoàn I gồm 3 sư
đoàn BB và sư đoàn TQLC, Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh… coi như tan
rã, VC chiếm được cả QK I mà không phải giao tranh dai dẳng.
Nguyên do chính của sự thất bại theo Nguyễn Đức Phương như sau: Ông
Thiệu cho rút sư đoàn Dù khiến dân chúng hoang mang lo sợ di tản náo
loạn cả lên, bỏ Cao Nguyên, QK2 rồi lại bỏ Huế làm cho tin đồn cắt đất
loan truyền khiến dân chúng ồ ạt di tản. Binh sĩ rã ngũ tìm thân nhân,
nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước, cuộc lui binh hỗn độn không có kế
hoạch, không có đơn vị nào đánh trì hoãn, đánh chận hậu. Ông Cao Văn
Viên cho rằng thất bại do sự lúng túng của ta hơn là vì áp lực địch,
nhiều sĩ quan cao cấp hèn nhát bỏ chạy trước khiến cho các đơn vị của ta
rã ngũ dần dần, tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Vấn đề
tị nạn của dân chúng đã làm đảo lộn mọi kế hoạch của Quân đoàn. Chúng ta
cũng để ý thêm một yếu tố nữa: đài BBC tuyên truyền phá hoại đã đóng
góp phần lớn vào sự thảm bại của cả 2 QK.
Qua kinh nghiệm các cuộc Tổng công kích trước đây như năm 1968, 1972
địch không đủ khả năng tấn công cả 4 Quân Khu cùng một lúc vì mũi dùi sẽ
yếu dễ bị bẻ gẫy mà chúng chỉ tấn công vào 2 Quân Khu nhất là Vùng 1 và
2. Năm 1975 CSBV tung vào chiến trường miền Trung 14 sư đoàn (6 SĐ tại
QK2 và 8 SĐ tại QK1), tính ra khoảng 70% chủ lực quân của chúng, mũi dùi
tấn công rất mạnh, ta chỉ có 7 sư đoàn (22, 23, 1, 2, 3, TQLC, Dù) và
11 Liên đoàn BĐQ trải quân giữ đất, đã thế ông Thiệu lại cho rút sư đoàn
Dù về Sài Gòn khiến cho tình hình càng bi đát hơn. Trong khi ấy Vùng 4
đã có trên 200 ngàn Địa Phương Quân (40% toàn bộ ĐPQ toàn quốc) lại để
thêm 3 Sư đoàn BB giữ đất, tại đây áp lực địch nhẹ chúng chỉ có 6 trung
đoàn, không có nhiều xe tăng đại bác có nhiệm vụ đánh cầm chân QĐVNCH,
ta có thể rút bớt quân để tăng cường cho chiến trường miền Trung, chắc
ông Thiệu cũng biết vậy nhưng ông không muốn đưa thêm quân tăng viện vì
trong thâm tâm ông muốn bỏ miền Trung để giữ hai QK 3 và 4.
“Tổng số phi cơ các loại bỏ lại khoảng 200 cùng với 900 đại bác và hơn 1,000 chiến xa”
Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 98.
Điều nguy hại nhất là phần lớn số vũ khí đạn dược ấy lại lọt vào tay CSBV, giáo vào tay giặc, miền Nam đưa dao cho người ta giết mình.
Văn Tiến Dũng viết trong Đại Thắng Mùa Xuân.
“Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một phần số lượng đạn dược đã dự tính trong kế hoạch mà lại còn lấy thêm được khá nhiều của địch” (Trang 117).
“Ta thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần quân ngụy…..(trang 136-137)
“…Vũ khí đạn dược tiêu hao không đáng kể. . . . . . . . Ta thu được của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược” (trang 137)
Cũng có nhiều người cho rằng ông Thiệu tháu cáy giả vờ thua chạy để lôi kéo Mỹ vào yểm trợ nên đã đưa tới sụp đổ nhanh chóng như vậy, ông đã đem đất nước non sông gấm vóc ra đánh bạc thì thật hết chỗ nói.
Sau khi hai QK1 và QK2 sụp đổ, giới lãnh đạo Sài Gòn chỉ còn mong manh
hy vọng vào sự cứu trợ của Mỹ. CSBV hối hả chuyển vận vũ khí đại binh
vào Nam để tấn công chiếm Sài Gòn trước mùa mưa thì ta không có một kế
hoạch cụ thể nào để ngăn chận địch như phá cầu, oanh kích các đoàn xe,
phục kích đánh công voa… mà chỉ ngồi chờ giặc. Vả lại cấp lãnh đạo, ông
to bà lớn của ta chỉ lo kế hoạch “tẩu vi thượng sách” cho mình hơn là lo
cho đất nước, cha chung không ai khóc. Tại Xuân Lộc, từ 9-4 cho tới
20-4- 1975 Sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đã anh dũng
đẩy lui các cuộc tấn công vũ bão của VC trong hơn một tuần lễ nhưng cũng
không cứu vãn nổi tình thế.
CS dốc toàn bộ lực lượng vào canh bạc cuối cùng, chúng đưa vào trận địa
20 sư đoàn BB, khoảng 280 ngàn người, cùng với 400 xe tăng, 400 đại bác,
QĐVNCH gồm 6 sư đoàn chủ lực và Địa Phương Quân, Thiết Giáp.. tổng cộng
240 ngàn người nhưng lính nhà nghề chỉ có khoảng 60 ngàn. Nhân lực đã
chênh lệch, ta lại lâm vào tình trạng hết đạn trong khi VC đầy đủ đạn
dược. Năm tuyến phòng thủ của ta quanh SàiGòn gồm: Tuyến Củ Chi ở Tây
Bắc, Tuyến Bình Dương phía Bắc, tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc, tuyến Vũng
Tầu phía Đông, Tuyến Long An phía Nam.
Ngày 21-4 Ông Thiệu từ chức bàn giao cho ông Hương, ngày 24-3 hai ông
Thiệu và Khiêm bỏ nước ra đi, tinh thần quân ta suy sụp. Ngày 26-4 Cộng
quân bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài gòn, ngày 28-4 Đại tướng Dương
Văn Minh lên thay thế ông Trần văn Hương, các phòng tuyến của ta sụp đổ
dần dần trước các đợt tấn công pháo kích của địch. Ngày 30-4-1975 Dương
Văn Minh tuyên bố đầu hàng kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ.
Nhiều người kết án ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân Khu II và I đã đưa tới
sự sụp đổ toàn bộ VNCH. Ông Thiệu là nguyên nhân gần gây nên sự sụp đổ,
nhưng nếu kết án ông ta là nguyên nhân duy nhất thì không đúng lắm, ở
đây không phải để bênh vực cho ông Thiệu nhưng chúng ta không thể nói
sai lịch sử. Giả thử ông Thiệu tăng cường lực lượng cho hai quân, đẩy
lui được cuộc tổng tấn công của địch năm 1975, nhưng sau đó ta vẫn lâm
vào tình trạng hết đạn, sẽ phải xin viện trợ khẩn cấp của Hoa Kỳ trong
khi đảng Dân Chủ nắm đa số tại Quốc Hội. Họ chủ trương cắt hoàn toàn
quân viện bỏ rơi miền Nam thì cũng chỉ có khoảng 30% hy vọng được tiếp
viện trở lại.
Vì thế ngoài nguyên nhân quân sự nêu trên còn những nguyên nhân khác
đóng góp vào sự sụp đổ miền Nam. Một nguyên nhân gần nữa vô cùng quan
trọng ở đây là vấn đề cắt quân viện.
– Cắt quân viện
Theo Nguyễn Đức Phương vấn đề cắt quân viện đã manh nha từ đầu thập niên 1970.
“Hành quân Kampuchia năm 1970 đã tạo ra phản ứng chống đối dữ dội của
Quốc Hội Mỹ vì họ cảm thấy bị ngành hành pháp che dấu sự thật. Tháng
6.1970, Thượng viện đã biểu quyết với đa số chấm dứt nghị quyết Vịnh Bắc
Việt trao toàn quyền hành động cho Tổng Thống Mỹ từ năm 1964. Hai
Thượng Nghị Sĩ John S. Cooper (đảng Cộng Hoà, tiểu bang Kentucky) và
Frank F. Church (đảng Dân Chủ, tiểu bang Idaho) một thành viên của Ủy
ban Ngoại Giao Thượng Viện đã đề nghị một tu chính án cắt tất cả phí tổn
về quân sự của Mỹ tại Miên kể từ ngày 1.7.1970. Sau 7 tuần lễ tranh
cãi, Thượng Viện Mỹ biểu quyết vào cuối tháng 6.1970 với 58 phiếu thuận
và 37 phiếu chống. Tuy nhiên Hạ Viện đã bác bỏ tu chính án này. Tu chính
án do đó được sửa đổi lại và được biểu quyết chấp thuận vào tháng 12.
Theo đó Mỹ không được đưa quân tác chiến vào Lào và Thái Lan.
Lần đầu tiên Tổng Thống Mỹ với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội bị giới hạn
quyền hành trong tình trạng chiến tranh. Một tu chính án khác do hai
Thượng Nghị Sĩ George Mc Govern (đảng Dân Chủ, tiểu bang South Dakota)
và Mark O.Hatfield (đảng Cộng hoà, tiểu bang Oregon) đã đề nghị rút tất
cả quân đội Mỹ và cắt tất cả quân viện cho VNCH vào cuối năm 1971. Tuy
nhiên Thượng Viện Mỹ đã bác bỏ hai lần (1970 và 1971) tu chính án này.
Năm 1973, Quốc Hội Mỹ biểu quyết chấp thuận tu chính án do Frank Church
và Thượng Nghị Sĩ Clifford (đảng Cộng Hoà) chấm dứt tất cả quân viện cho
các nước Đông Dương.” Chiến Tranh Việt NamToàn Tập trang 510 Tháng
6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động
quân sự tại Đông Dương, ngày 1-7 Nixon miễn cưỡng ký thành luật áp dụng
kể từ 15-8. Đến tháng 10-73 Quốc Hội lại thông qua dự luật Quyền Hạn
Chiến Tranh (War powers Act) buộc Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc
Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Ý định phản bội của người bạn đồng
minh đã bắt đầu lộ diện.
Khi người Mỹ mới đổ quân ồ ạt vào Việt Nam năm 1965 ngân sách năm ấy mới
có 646 triệu đô la, năm sau 1966 tăng vọt lên gần 6 tỷ, đến 1967 tăng
lên 20 tỷ, năm 1968 tăng lên 26 tỷ năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970,
1971 xuống còn 12 tỷ vì Mỹ đang rút quân. Năm 1972 họ rút gần hết chỉ
còn 24,200 người khi ấy miền Nam phải một mình gánh vác chiến trường với
tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 Quân viện là 2 tỷ 1, sang
năm 1974 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó 300
triệu để trả lương cho nhân viên cơ quân tuỳ viên quân sự DAO của Mỹ.
VNCH chỉ nhận được một nửa số quân viện cần thiết.
Năm 1975 đảng Dân Chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ, họ chủ trương bỏ Đông
Dương không cần biết hậu quả cũng như danh dự cho nước Mỹ. Về thế lực
cũng như tài chính Dân chủ thua kém Cộng Hoà nên chỉ thừa cơ nước đục
thả câu, lợi dụng sơ hở của Cộng Hòa để thọc gậy bánh xe. Họ thường o bế
giới bình dân, da đen, Mễ miếc, cu li cu leo khố rách áo ôm, đám trốn
lính, chống chiến tranh … để lấy lòng kiếm phiếu. Họ chớp đúng thời cơ
khi phong trào phản chiến lên cao được dân chúng ủng hộ để nắm đa số tại
Quốc Hội và thẳng tay bỏ rơi đồng minh không thương tiếc, cái mà ông
Nguyễn Tiến Hưng gọi là “nhát gươm đao phủ”.
“Ngay sau đó, 13 tháng Ba, nhát gươm đao phủ đã hạ xuống: ban lãnh đạo
Đảng Dân Chủ, cả Hạ Viện lẫn Thượng Viện (họ lại là thành phần quyết
định trong Quốc Hội) bỏ phiếu với đại đa số : chống bất cứ viện trợ nào
thêm cho Miền nam” Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 245.
Theo Đại Tướng Cao Văn Viên hậu quả của cắt giảm quân viện là không quân
phải cho hớn 200 máy bay ngưng bay.. giảm giờ bay, huấn luyện 50%, số
giờ bay thám thính 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%.. Hải quân cũng bị
cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu xuồng các loại nằm ụ, các chiến cụ, quân
dụng hư hỏng không được thay thế, chỉ có khoảng 33% được thay mà thôi.
Tổng số đạn trong kho chỉ đủ dùng cho đến tháng 6-1975, thuốc men thiếu
thốn, số tử vong lên cao khiến tinh thần binh sĩ xuống thấp.
Người Mỹ ký hiệp định Ba Lê để rút quân ra khỏi VN và lấy tù binh về
không đếm xỉa gì tới sự tồn vong của miền Nam nước Việt. Sir R Thompson,
chuyên viên về du kích chiến cho rằng miền Nam bị đe doạ chỉ vì để cứu
nước Mỹ khỏi cảnh xâu xé nhau, miền Bắc bị buộc phải ngồi vào bàn hội
nghị để cứu nước Mỹ. Ông M.Gauvin nguyên chủ tịch Ủy Hội Kiểm Soát Quốc
tế tuyên bố ngày 4-4-1975 cho rằng miền Nam VN thất bại do quyết tâm bỏ
rơi đồng minh của Mỹ nhiều hơn là do hết đạn.
“Còn về khả năng tồn tại, ông cho là ‘vẫn còn tùy thuộc vào số quân viện
Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH’. ĐT Viên kết luận “Một sự thật không thể chối
cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu
không nhận được quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào
chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu” Nguyễn
Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 457.
Khi lập luận như trên người ta sẽ đạt thêm câu hỏi tại sao họ lại bỏ rơi VNCH? ông Nguyễn Tiến Hưng cho biết
“Tại sao Mỹ lại dứt khoát bỏ rơi Miền nam? Câu trả lời ngắn gọn là vì
quyền lợi của Mỹ ở Việt nam đã không còn nữa” KĐMTC trang 455.
Ngoài những nguyên nhân gần nêu trên, lại những động cơ khác đã gây lên
hoặc ảnh hưởng trực tiếp mà ta gọi là nguyên nhân xa, người Pháp gọi là
cause lointaine.
Thuyết Domino không còn giá trị
Khoảng tháng 3 năm ngoái, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Laird dưới thời Tổng
Thống Nixon cho biết Tổng Thống Ford năm 1975 đã bác bỏ thuyết Domino có
từ 7-4-1954 dưới thời Tổng Thống Eisenhower, thuyết này cho rằng hễ mất
một nước thì mất luôn nhiều quốc gia khác y như trong ván cờ Domino.
Các cấp lãnh đạo Hoa Kỳ đã sống qua thập niên 30 với những biến chuyển
lịch sử trên thế giới và nhận thấy có những tương đồng với tình hình
Đông Nam Á đương thời: Năm 1931 Nhật chiếm Mãn Châu đưa tới lấn chiếm
Trung Hoa, Đông Dương, Mã lai..rồi dẫn tới trận Trân Châu Cảng. Đức
chiếm Áo, Tiệp rồi Pháp, Bỉ và đưa tới chiến tranh Âu Châu. Nếu xâm lược
không bị trừng trị nó sẽ lan rộng hơn lên theo kiểu tầm ăn dâu y như
một căn bệnh do vi trùng đục khoét. Những biến chuyển lịch sử trên đây
đã hình thành học thuyết Domino.
Tổng Thống Eisenhower là người đầu tiên đề xướng học thuyết Domino trong
cuộc họp báo ngày 7-4-1954, trả lời phóng viên báo chí ông cho biết nếu
mất Đông Dương thì dần dần sẽ mất Miến Điện, Thái lan, Mã Lai, Nam
Dương…và rồi từ từ Đài Loan , Nhật, Phi Luật Tân, Úc , Tân Tây Lan cũng
mất theo. Thuyết Dommino đã khiến Mỹ quyết tâm ngăn chận chính sách tầm
ăn dâu, sau chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thấy không thể hoà hoãn với Cộng
Sản được.
Việt Nam được coi như một thí điểm để ngăn chận làn sóng đỏ, người Mỹ
cho rằng nếu làm ngơ cho CS xâm lấn các nước lân bang thì dần dần năm
châu bốn biển sẽ bị nhuộm đỏ, Hoa Kỳ tới lúc đó sẽ bị bao bọc bởi biển
đỏ và họ sẽ phải xây một Vạn lý trường thành thứ hai để chống ngoại xâm.
Người Mỹ chỉ đổ quân đổ của vào một cuộc chiến nào khi cảm thấy nền an
ninh của đất nước họ bị đe dọa.
Ngay khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt gíup Việt Minh, tháng 10-1950 Mỹ
đã đã vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm
Mỹ chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội
Quốc gia Việt Nam được thành lập, mới đầu quân viện Mỹ cho Pháp mới chỉ
là 17% nhưng vài năm sau, chiến tranh bùng nổ dữ dội, quân viện tăng lên
tới 74% .
Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam để biến nơi đây thành tiền
đồn chống Cộng tại Á Châu. Những năm 1963, 1964 CS tăng cường chiến
tranh du kích hòng xâm lược miền Nam bằng bạo lực. Mỹ vội ồ ạt đổ quân
vào miền Nam từ giữa năm 1965, tới cuối năm tổng số quân Mỹ tăng lên 184
ngàn người, năm sau 1966 tăng vọt lên 385 ngàn, năm 1967 lên 485 ngàn,
năm 1968 lên 536 ngàn, đó là đỉnh cao của cuộc đổ quân. Tướng
Wesmoreland cho rằng nếu Mỹ không đưa quân vào VN năm 1965 thì chỉ trong
vòng 6 tháng là mất vì áp lực CS rất nặng. Sau Cuộc Tổng công kích Tết
Mậu Thân 1968, chính phủ Johnson bị dân chúng chỉ trích dữ dội vì sau
mấy năm truy lùng và diệt địch mà vẫn không bình định được miền Nam.
Giới lãnh đạo Mỹ bắt đầu chán ghét cuộc chiến tranh VN vì phong trào
phản chiến từ 1965 đến nay ngày càng dữ dội, và nhất là họ thấy rằng
hiểm hoạ CS đe doạ Đông Nam Á không còn nặng nề như trước.
BV trở thành quân tốt lợi hại cho CS Quốc tế, BV cũng bị CS Quốc tếthúc
dục đánh tới cùng để làm suy yếu tiềm lực kinh tế, chính trị Đế Quốc,
tuy nhiên hiểm họa CS tại Á Châu không còn trầm trọng như trước nữa vì
nay Nga Tầu chống đối nhau ra mặt như kẻ thù. Đụng phải sức chống trả dữ
dội của Thế giới Tự Do, CS Quốc tế cũng chùn bước vả lại việc cung cấp
vũ khí cho đàn em BV họ cũng tốn kém rất nhiều, có tài liệu cho biết
Trung Cộng viện trợ cho BV từ 1950 tới 1975 tốn kém 20 tỉ đô la (Việt
Nguyên, Tổng Thống Nixon sang Tầu..). Thuyết Domino dần dần không còn ý
nghĩa như từ 1955 cho tới những năm Mỹ mới đổ quân vào VN.
Năm 1969 Nixon nhậm chức Tổng Thống hứa hẹn với dân Mỹ sẽ rút quân về
nước. Họ thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh từ 1969, 1970.. Quân đội Mỹ
sẽ bàn giao trách nhiệm phòng thủ và bảo vệ miền Nam cho QĐVNCH. Thực
hiện VN hoá chiến tranh là họ đã nghĩ đến việc bỏ VN cũng như Đông Dương
vì thuyết Domino không còn đứng vững, mất VN cũng sẽ không ảnh hưởng gì
tới các nước Đông Nam Á. Quyết định bỏ Đông Dương coi như đã bắt đầu
thành hình, vấn đề còn lại là rút lui trong danh dự để khỏi bẽ mặt một
siêu cường. Từ năm 1969 họ đã đi đêm với Trung Cộng để tìm cách rút quân
ra khỏi VN, bỏ Đông Dương vì nó không còn đúng với ý nghĩa tiền đồn
chống Cộng nữa.
Song song với VN hoá chiến tranh, họ tìm cách hoà hoãn với Trung Cộng,
anh khổng lồ nghèo kiết xác này cũng tốn kém rất nhiều với cuộc chiến
tranh VN và cũng muốn hoà với Mỹ. Ngày 21-2-1972, cái bắt tay lịch sử
giữa Nixon và Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh đã thay đổi cả một kỷ nguyên.
Điều mà người Mỹ ao ước bấy lâu nay đã thành sự thật, Đông Nam Á không
còn bị đe doạ bởi chiến lược tầm ăn dâu của Trung cộng, thuyết Dommino
đến lúc lỗi thời, không còn giá trị, bỏ Đông Dương coi như điều tất yếu.
Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972 BV đánh cấp sư đoàn với nhiều xe tăng đại
bác rầm rộ. Mỹ muốn ta phải thắng, họ đã yểm trợ oanh tạc B52 tối đa và
Hải pháo của hơn 20 tầu chiến để tạo thế mạnh trên bàn hội nghị tại cuộc
Hoà đàm Ba Lê. Hiệp định Paris ký kết ngày28-1-1973 chỉ là mớ giấy lộn
để Mỹ rút quân và lấy về 587 tù binh mặc dù họ thừa biết VNCH sẽ lãnh
đủ.
Nguyễn Đức Phương trích dẫn lời Tướng Đính trong hồi ký của ông .
“Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đã ghi lại nhận xét của ông Ngô Đình Nhu
từ đầu thập niên 60 về chiến lược toàn cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu tụi nó
(Mỹ) nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản như ở Triều Tiên, bất kể một cuộc
can thiệp của Tầu hay… đệ tam thế chiến, thì mình cũng để cho tụi nó thử
sức với Cộng sản xem sao, chứ ở đây mục đích của tụi nó là tìm một thế
‘sống chung nào đó’ với Cộng Sản, thì đánh để làm chi, rốt cuộc cũng chỉ
như rứa? Con đường của Hoa Thịnh Đốn muốn đi tới là Bắc Kinh, mình chỉ
là vật tế thần ‘cục kê’ của tụi nó’. Để rồi tướng Đính kết luận: ‘Nhận
định đó đến thập niên 1970 đã trở thành sự thật và khi Nixon bắt tay
được với Mao Trạch Đông, thì tiền đồn chống Cộng của VNCH đã hết ý
nghĩa, và do đó Hoa Thịnh Đốn phải thu xếp để chấm dứt một cuộc chiến
tranh không còn cần thiết mặc cho nền hoà bình này đã làm sỉ nhục tính
cách siêu cường của Mỹ và đẩy miền Nam vào địa ngục của Cộng Sản Hà Nội”
Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 635.
“Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt Nam đều không nhìn thấy được chính
sách ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên 70 để tiếp tục cuộc chém giết.
Mùa Hè năm 1972 không cần thiết phải là một mùa Hè rực lửa. Những trận
đánh đẫm máu tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đã hầu như vô nghĩa. Hiệp định
Ba Lê chỉ là một biên lai để khách hành nhận lại tù binh và đoạn chiến.
Số phận của VNCH đã được định đoạt từ lâu và cũng không phải tại chiến
trường.” CTVNTT trang 635, 636.
Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói.
“ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Trung Quốc thì giá trị của Miền
Nam để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đã không còn là bao nhiêu trong những
tính toán của Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần dần, Miền Nam đã hết
vai trò một tiền đồn của thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn đề còn lại đối
với Mỹ thì chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy
tín là được rồi” Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 456, 457.
Phong trào Phản Chiến ngày một lên cao cũng đã đóng vai trò then chốt
đưa tới sụp đổ miền Nam ngoài thuyết Domino. Mặc dù là nguyên nhân xa,
nhưng Phong trào có tính cách quyết định vì nó là động cơ thúc đẩy Quốc
Hội bỏ phiếu cắt viện trợ quốc phòng cho miền Nam đưa tới sụp đổ trong
chớp mắt
Phản Chiến.
Phong trào phát sinh từ năm 1965 ngay sau khi Tổng thống Johnson đổ quân
vào Việt Nam giao chiến với Việt Cộng, hồi ấy khoảng 5,000 nhà khoa học
phản đối chiến tranh hoá học khai quang. Ngày15-5-1966 khoảng 12 ngàn
người biểu tình chống chính sách của Tổng Thống Johson tại Việt nam.
Ngày 23-10-1967 có khoảng 30 ngàn người biểu tình trước Ngũ Giác Đài, họ
trương biểu ngữ nói “Nhân danh nhân loại chúng tôi muốn nói chuyện với
bọn người gây chiến”. Ngày 12-4-1969 tại Nữu Ước và 32 thành phố lớn
biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, thời điểm này có 31 ngàn người
lính Mỹ chết ở Việt Nam.
Giữa tháng 10-1969 khoảng 1,000 người biểu tình phản chiến tại Chicago,
5,000 người phản chiến tại New Jeersey bị giải tán bằng lựu đạn cay.
Ngày 11-11-1969 phe ủng hộ chính phủ Nixon, cựu chiến binh Mỹ.. tổng
cộng 10 ngàn người biểu tình tại Hoa Thịnh Đốn.
Ngày 15-11-1969 có tới 300 ngàn người chống chiến tranh tại Hoa Thịnh
Đốn và các thành phố khác, Ba Lê có khoảng 20 ngàn người phản chiến.
Ngày 4-5-1970 trong một cuộc biểu tình tại đại học Kent, Ohio 4 sinh
viên phản chiến bị quân đội bắn chết, nhiều người khác bị thương khiến
phong trào càng lên cao dữ dội
Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đã bị phân hoá, a people divided. Thật
vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hoá vì chiến tranh VN. Nhiều người cho rằng
phản chiến do những cuộc biểu tình của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng
hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người nghèo và dân tộc thiểu
số. Họ không được hoãn dịch vì lý do học vấn, dân da đen bị gọi nhập
ngũ vì chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh của Tổng thống
Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến tranh VN, có 11
triệu người Mỹ đã phục vụ (luân phiên) cho ngành Quốc phòng, 2 triệu
người đã (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đã trốn quân dịch, trong số này 200
ngàn bị buộc tội trốn quân dịch, 300 ngàn tìm cách xin hoãn dịch bị từ
chối, 70 ngàn được hoãn dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn
sang Canada và 20 ngàn người trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc.
Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao.
Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh tháng
7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian nhưng cuối
1966 ông nản lòng khi thấy chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng
tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ chính phủ đánh nhau vì
bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu phong trào
antiwar tại Chicago. Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ Riverside Church New York
ông đã lớn tiếng chống đối chính sách chiến tranh của chính phủ, King
vừa đòi nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông bị ám sát năm 1968.
Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967 có 6
cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt Nam
Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans against The War gọi tắt là VVAW). Họ
lý luận rằng những người đã bị gọi nhập ngũ đưa sang Việt Nam tham
chiến có quyền phản đối chiến tranh, năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy
năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết trình tại Detroit,
100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh, từ 19-4 tới 23-4
-1971 họ biểu tình tại Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac
Park. Họ diễn hành cùng những bà mẹ có con là lính chết trận ở Việt Nam
đến nghĩa trang Arlington National Cemetery. Những người này đã vận
động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến tranh. Tình trạng đã đi đến chỗ thật
bi đát khi những người này tìm cách trả lại huy chương cho Quốc Hội.
Chính phủ ban hành lệnh cấm cuộc cắm trại, lập hàng rào gỗ quanh điện
Capitol, những người cựu chiến binh đã ném trả huy chương, trong số này
có John Kerry, ứng cử viên Tổng Thống năm 2004. Họ tố cáo lính Mỹ khi
hành quân vào các làmg mạc ở Việt Nam đã hãm hiếp, đốt làng, cắt tai,
chặt đầu người dân .. y như quân Mông cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn. Họ
nói đất nước ta đã tạo dựng con quái vật hung dữ, đó là đạo quân một
triệu người, và những người lính chiến đã được chỉ dậy dùng bạo lực và
chết chẳng có mục đích nào cả ( … and who are given the chance to die
for the biggest nothing in history), chúng tôi cựu chiến binh trở về
trong uất hận vì bị chính phủ Hoa Kỳ lạm dụng.
Năm 1970, Phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ có
một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ nhưng thực
ra đa số chiến sĩ ta đã chiến đấu, chết tại những cánh đồng lúa Á Châu
để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm bay. Bọn phản chiến
đã dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở Việt Nam.
Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đã bị chính phủ đánh lừa, ta
không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy và phải rút
bỏ Việt Nam, họ nói tình hình Việt Nam không có gì để đe dọa Hoa Kỳ,
thuyết môi hở răng lạnh là sai (.. in our opinion and from our
experience, there is nothing in South Vietnam which could happen that
realistally threatens the United States Of America). Chúng tôi đòi hỏi ở
Quốc Hội Hoa Kỳ nơi có thẩm quyền tạo dựng và duy trì quân đội, chúng
tôi đến đây không phải để gặp Tổng Thống mà tin rằng Quốc Hội có thể
thoả mãn ý nguyện người dân để đưa chúng ra rút khỏi VN (that we should
be out of Vietnam now..)
Tình hình phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho chính phủ ngày
một suy yếu, đất nước bị phân hoá, chính phủ vừa phải lo cuộc chiến
tranh miền Nam vừa phải đối đầu với phong trào phản chiến.
Chúng ta có thể kết luận một cách giản dị phong trào phản chiến xuất
phát từ tâm lý của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới hình thức
nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh nhà giầu.
Đầu năm 1969 có vào khoảng 31 ngàn lính Mỹ tử thương tại Việt Nam, theo
tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới
cuối 1968 có vào khoảng từ 500 cho tới 600 ngàn Việt Cộng tử thương.
Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5% hoặc 10% so với số tử
của VC nhưng địch không bao giờ có một lời than vãn, như thế ta thấy
người Mỹ đã sai lầm khi tham gia cuộc chiến tranh với một kẻ thù nghèo
đói, thằng nghèo đói không bao giờ sợ chết. Người Mỹ đã tham dự một cuộc
chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng
nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Người Mỹ thích làm anh hùng, họ rất thích những đề tài anh hùng hào
hiệp, cuốn phim nổi tiếng của Nhật, Bẩy Người Hiệp Sĩ (Seven Samourais)
quay năm 1954 đã được giới làm phim Mỹ vô cùng hâm mộ, họ bắt chước quay
thành phim cao bồi miền Tây tới 4 lần vào những năm 1960, 1966, 1969,
1998. Nội dung phim ca ngợi tinh thần của bẩy người hiệp sĩ anh hùng
giúp dân làng chống lại bọn cướp Người Mỹ rất thích những đề tài anh
hùng hào kiệt, diệt gian trừ bạo như vậy, họ thích làm “yêng hùng” nhưng
thật là khôi hài thay, “yêng hùng sợ chết”! Người Mỹ thích làm trùm thế
giới nhưng lại sợ chết, thật là diễu hết chỗ nói!
Phản chiến đã tạo niềm tin cho CSBV, chúng chỉ chờ có thế. Vào những năm
1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh
Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh
1947-1954 đã có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ vì không giải quyết được
cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để đối phương
phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi” của VC đã từng
thành công từ cuộc chiến tranh Việt Pháp nay chúng lại đem áp dụng vào
cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phong trào phản chiến đã là cơ hội bằng vàng cho đảng Dân Chủ hốt phiếu
và rồi nắm đa số tại Quốc Hội. Chính họ đã hạ “Nhát gươm đao phủ” thanh
toán miền Nam VN. Người Mỹ cũng đổ lỗi cho phía VN, nhiều người cũng cho
nguyên nhân cả từ hai phía.– Phía Việt Nam.
Các nhà chính trị, tướng lãnh, ký giả, các nhà nghiên cứu… như cựu đại sứ Bùi Diễm, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Hoàng Lạc, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương … đều cho rằng ta thiếu nhà lãnh đạo có khả năng để lèo lái con thuyền quốc gia, thậm chí có người nói đất nước đã được giao phó cho lãnh đạo tồi.
Thật vậy những năm đầu của chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968, guồng
máy tương đối còn có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng thối
nát tồi tệ, nó đã phá hoại kinh tế vật chất và làm suy sụp tinh thần
quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng dưới chế độ Nguyễn Văn
Thiệu có thể nói đã tiến tới chỗ tột cùng của thối nát. Các chế độ,
chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đình Diệm,
Nguyễn Cao Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người dân còn chấp nhận
được, đến Nguyễn Văn Thiệu thì thật hết nước nói. Sau khi miền Trung
thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có nghe một ông công chức than
thở “chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của Tưởng Giới thạch, các ông tỉnh
trưởng chết gục trên đống vàng”!
Trong cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 trang 56, Phạm Huấn có nói.
“Theo dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường giây bà Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10 đến 20 triệu”
Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu, những chức vụ, công việc hái
ra tiền đều được mua bán trả giá cả sòng phẳng, ngoài ra quan chức phải
nộp tiền hụi chết cho cấp trên theo hệ thống quân giai, Quận nộp cho
Tỉnh, Tỉnh nộp cho Vùng, Vùng nộp cho Trung Ương. Nguyễn Đức Phương nói
các hình thức tham nhũng tại miền Nam đã được nhóm nghiên cứu thuộc tổ
hợp Rand xếp thành bốn loại chính: buôn lậu, hối lộ, mua quan bán tước
và lính kiểng, lính ma.. Trong phim Vietnam History by television, ông
giám đốc CIA khi trả lời phỏng vấn cho biết tham nhũng (corruption) đã
phát triển quá độ tại miền Nam VN, chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rõ
như vậy và họ đã phải che dấu không cho báo chí biết sợ người ta làm um
lên, nếu đến tai Quốc hội viện trợ sẽ bị cắt giảm.
Tại các tỉnh, viện trợ kinh tế, xã hội, bình định phát triển.. bị đục
khoét trầm trọng, tiền viện trợ của Mỹ không được dùng vào mục tiêu kinh
tế quân sự mà vào túi bọn quan lại tham ô. Tham nhũng bắt nguồn từ lòng
tham vô đáy của con người hơn là vì thiếu thốn. Các quan chức có được
căn nhà, cái xe hơi thì cũng được rồi, so với đời sống nhân dân như thế
cũng là được quá ưu đãi. Nhưng kẻ tham ô không dừng chân ở đó, được voi
tròi tiên, họ tậu rừng tậu ruộng, tậu đồn điền, mua dăm bẩy căn nhà nghỉ
mát, cái ở Nha Trang, cái Đà Lạt, Vũng Tầu, chuyển ngân ra ngoại quốc…
Tham nhũng như đã nói ở trên vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy
yếu tinh thần người dân cũng như người lính chiến. Sau đây là tham nhũng
dười con mắt người ngoại quốc.
Hậu quả của tình trạng tham nhũng này đã được một sĩ quan nhận xét.
‘ Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công trong xã hội. Tại Việt Nam,
một nước đang trong thời chiến thì sự bất công trong xã hội lại càng rõ
ràng hơn so với các nước khác. Tham nhũng đã tạo ra một thiểu số nắm giữ
tất cả các quyền lực và tài nguyên, phần lớn giai cấp trung lưu và nông
dân trở thành nghèo hơn và phải chịu hy sinh.Họ mới chính là người đóng
thuế cho chính phủ, hối lộ cho cảnh sát, phải mua phân bón với giá cắt
cổ để rồi phải bán gạo với giá rẻ do chính phủ ấn định, và cũng chính họ
đã cho con cái đi chiến đấu và hy sinh cho đất nước trong khi các công
chức cao cấp của chính phủ và những kẻ giầu có lại gửi con cái ra nước
ngoài.Một bác sĩ quân y đã nói với tôi rằng ông đau lòng khi nhìn thấy
những thương binh, các binh sĩ cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện đều
thuộc giai cấp bình dân, thuộc các gia đình nông dân, các thương binh
này phải chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng thống trị. Chính
phủ tuyên bố tìm cách chiếm lòng dân nhưng thực tế chỉ làm lớn hơn
khoảng cách giữa giai cấp lãnh đạo và quần chúng.” Nguyễn Đức Phương,
Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.
Hồi ấy trên báo chí đã có người lên án bất công xã hội tại miền Nam ngày
càng trở lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt trận thì
tại các thành phố lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây nhà cao năm
bẩy tầng lầu, ai nấy mặt vênh mày vác, khinh người rẻ của. Bọn con buôn
hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi dùng tiền cho con cái đi du học ngoại
quốc trong khi những kẻ xông pha mũi tên hòn đạn ngoài chiến trường phải
chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực trạng xã hội đã ảnh hưởng rất
nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ phải hy sinh, chiến đấu cho một
chế độ bất công thối nát.
Phạm Huấn có ý chê các Tướng lãnh Việt Nam không có sự ngay thẳng, tư
cách như các Tướng lãnh ngoại quốc. Năm 1950 De Lattre Tướng 5 sao, Tư
Lệnh Đông Dương nhưng vẫn để cho người con một, Bernard De Lattre đóng
tại đền Non nước Ninh Bình. Mặc dù vua Bảo Đại đề nghị đưa Bernard về
làm trong văn phòng Quốc Trưởng nhưng ông Tướng vẫn để con chiến đấu tại
chiến trường và tử trận tháng 5-1951. Khi Mỹ bắt đầu ném bom Bắc Việt,
Đô đốc Sharps, Tư Lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đã để
con trai ông, Thiếu Tá phi công Mac Cain tham gia oanh tạc và đã bị bắn
rơi. “Trong khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc
chắn không thể tìm thấy con một ông tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận”
Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 133
“..con những ông Tướng khác thì cứ gần đến tuổi động viên đã bằng cách
này, cách khác, được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những sinh
viên, học sinh con nhà nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành lệnh Tổng
động viên một cách rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, vì không có tiền bạc để chạy
chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục vụ tại ‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở
Sài Gòn hay hay các tỉnh” Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất
Nước, trang 134, viết theo lời kể của Thiếu uý Phạm văn Trung, sư đoàn
18 BB.
Trần Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972 trang 155, 156 có nêu ra
một vụ tham nhũng hối lộ động trời của các Tướng lãnh VNCH, chẳng biết
hư thực ra sao.
“Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3-1972, tình báo VNCH
báo cáo sự hiện diện của công trường 5 Bắc Việt tại căn cứ địa 712, gần
thị trấn Snoul, Cam Bốt, khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận lỵ Lộc Ninh trên
Quốc Lộ 13. Hai công trường 7, 9 được phát hiện tại vùng đồn điền cao su
Dambe và Chup trên đất Cam Bốt, nơi đó là hai mục tiêu hành quân của
Quân đoàn III thiết kế cho Đệ tam cá nguyệt 1971. Kế hoạch đã bị đình
hoãn sau cuộc tử nạn của Trung Tướng Đỗ Cao trí, Tư lệïnh quân đoàn III
QLVNCH.
Trung Tướng Đỗ Cao Trí đã bị thảm sát vì đã cùng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng
Văn Quang nhận hối lộ 30 triệu đô la do toà Đại sứ Nga tại Paris trao
cho Quang để thả Trung Ương Cục và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chạy
trối chết qua Cam Bốt sau khi bị liên quân Việt Mỹ bao vây tại vùng rừng
Tây Ninh vì những cánh quân của Quân Đoàn III tiến quá nhanh, cục R
chậm chân kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ đánh điện cầu cứu Hà Nội.
MACV phối hợp Đệ II Quân Đoàn Tiền Phương Hoa Kỳ (US II Field Forces)
cùng Quân đoàn 3 VNCH được tăng cường một Lữ đoàn Dù, Liên đoàn 5, 6
Biệt động Quân tung quân bao vây, Cục R chỉ còn một trung đoàn bảo vệ,
cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên quân Việt Mỹ siết chặt vòng vây,
Lữ đoàn Dù thọc mũi tấn công khuấy động, một Liên đoàn Biệt Động Quân
lãnh nhiệm vụ án ngữ biên giới Cam Bốt thì bất ngờ nhận được lệnh Trung
Tướng Đỗ Cao trí cho lệnh rút về chi khu Phước Thành, Tây Ninh nghỉ
dưỡng quân thì tối hôm đó bị trung đoàn bảo vệ Cục R đánh úp để che chở
cho toàn bộ Trung ương Cục hạy trối chết qua Cam Bốt về hướng đồn điền
Snoul.
Sau đó CIA tức giận nghĩ rằng Đỗ Cao Trí là người của Cộng sản nên ra
tay tiêu diệt, những chuyện này do chính Đặc sứ Komer (hàm Đại sứ) kể
lại, ông Đặc Trách Bình Định phát triển MACV.”
Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ Tịch Phong
Trào Nhân Dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1 tố cáo
ông Thiệu tham nhũng và yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị tố tham nhũng
nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu cơ phân bón, gạo miền Trung, buôn bán
bạch phiến.. . phong trào lôi cuốn các nhóm khác như sinh viên, ký giả,
chính khách.. Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo trạng số 2
tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng võ lực khiến ông ta
phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái.
Người dân trong nước đã quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên
người Mỹ phải chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y
như gió lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói: “Một quốc hội quá
chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có quá
nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, ký giả… đều
cho rằng đất nước đã được giao phó vào tay lãnh đạo tồi. Trần Việt Đại
Hưng cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những
nhà lãnh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền thì
đánh, không tiền thì chạy. Trong tám, chín năm cầm quyền, ta không thấy
chính phủ Thiệu có một kế hoạch gì về chính trị, kinh tế cũng như quân
sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta đã hoàn
toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc phòng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…
Đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học
tập về đường lối, lý tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là
hình thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém,
không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ địch thường
xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để lái họ theo
đường hướng chúng đã vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của ta không
giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lý tưởng
Quốc gia, lý tưởng Tự Do Dân Chủ để quân dân ta có một tinh thần vững
mạnh mà chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu thì đánh đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến đấu.
“Cuộc chiến tranh quá dài đã khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn
toàn việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết
tha, đôi khi còn trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả
những mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xã
hội miền nam đã cấu thành yếu tố tự hủy” CTVNTT, trang 806
Một điều không thể chối cãi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ
khiến cho CS đã thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46..
các đảng phái Quốc Gia đã chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ
tuyên truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô
Đình Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như
Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông Diệm là người có bản lãnh cao
nhất, dám chơi bạo hất cẳng Pháp để đi theo Mỹ. Đụng chạm với Bảo Đại
thân Pháp, tháng 4-1955, ông Diệm được triệu hồi sang Pháp để Quốc
trưởng cất chức. Các đảng phái Quốc gia, nhân sĩ.. đều nhiệt tình ủng hộ
Thủ Tướng Diệm, đả đảo và truất phế ông vua vong bản Bảo Đại. Năm 1956
ông Diệm Trưng Cầu Dân Ý lên làm Tổng Thống rồi từ từ xung đột với các
đảng phái, nhân sĩ Quốc Gia. Những người Quốc Gia trước đây ủng hộ ông
nay quay lại chống ông. Chính phủ cũng chống đối đàn áp những người đối
lập ra mặt.ng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo
trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng võ lực khiến
ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách,
đảng phái.
Người dân trong nước đã
quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ phải chán nản hơn
thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà trống,
cựu đại sứ Bùi Diễm nói: “Một quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt
mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhà
bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, ký giả… đều cho
rằng đất nước đã được giao phó vào tay lãnh đạo tồi. Trần Việt Đại Hưng
cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà
lãnh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền thì đánh,
không tiền thì chạy. Trong tám, chín năm cầm quyền, ta không thấy chính
phủ Thiệu có một kế hoạch gì về chính trị, kinh tế cũng như quân sự mà
chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta đã hoàn toàn lệ
thuộc vào Mỹ từ quốc phòng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…
Đương
đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học tập về
đường lối, lý tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là hình
thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém, không
lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ địch thường xuyên
tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để lái họ theo đường
hướng chúng đã vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của ta không giáo
dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lý tưởng Quốc
gia, lý tưởng Tự Do Dân Chủ để quân dân ta có một tinh thần vững mạnh mà
chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu thì đánh đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến đấu.
“Cuộc
chiến tranh quá dài đã khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn
việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết tha,
đôi khi còn trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả những
mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xã hội
miền nam đã cấu thành yếu tố tự hủy” CTVNTT, trang 806
Một
điều không thể chối cãi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến
cho CS đã thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các
đảng phái Quốc Gia đã chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ tuyên
truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô Đình
Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như Trần
Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm,
Sau ngày đảo chính 1-11-1963, miền Nam lại lâm vào tình trạng chia rẽ
trầm trọng gấp bội lần hơn trước. Các Tôn giáo, Tướng lãnh tranh giành
quyền hành biến miền Nam thành một đất nước vô chính phủ. Phật Giáo,
Công giáo chia rẽ đả kích nhau trên báo chí, rồi lại có phe chủ trương
chia rẽ Bắc Nam để hòng thủ lợi. Năm 1966 chính quyền quân nhân đã tạm
ổn định được tình hình lại bị phong trào Phật Giáo miền Trung chống đối
dữ dội, phong trào đã gây tình trạng sáo trộn nhiễu nhương khiến cho
nhân tâm sao xuyến, kẻ thù thừa cơ len lỏi phá hoại cơ cấu Quốc Gia.
Cuối tháng 3-1966 Phó Tổng Thống Mỹ Humphreys tuyên bố với báo Newsweek,
ông bi quan cho rằng chỉ có ông Trời mới lật được thế cờ ở Việt Nam là
một xứ có quá nhiều chuyện rắc rối. Mỹ sẵn sàng xét lại đường lối và sẵn
sàng thừa nhận một VN không liên kết. Mỹ có thể chấp nhận cuộc tuyển cử
tự do dù Cộng Sản có thể thắng trong cuộc bầu cử đó. Như thế những cuộc
biểu tình, chia rẽ nội bộ của ta đã bắt đầu khiến người Mỹ chán nản,
chính chúng ta làm cho họ chán.
Cho đến gần giờ thứ hai mươi lăm, cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc biểu
tình chống chính phủ của Linh mục Trần Hữu Thanh, đảng phái, chính
khách… khiến cho các binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần chán nản và
ảnh hưởng tai hại đến sự sống còn của đất nước.
Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố ngoại lai vô cùng quan trọng, ta phải đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm.
Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố ngoại lai vô cùng quan trọng, ta phải đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm.
– Kẻ Thù dai dẳng.
Năm 1947 bị Pháp truy kích Việt Minh thua chạy rút vào các chiến khu, từ
năm 1949, Mao thắng Tưởng nhuộm đỏ Trung Hoa, Viêït Minh được Trung
cộng viện trợ vũ khí ồ ạt bắt đầu chuyển bại thành thắng. Những năm
1950, 1951, 1952 được Trung Cộng dậy cho lối đánh biển người, Việt Minh
lấy thịt đè người tấn công quân Pháp dữ dội tại trận Vĩnh Yên 1950, sông
Đáy, Yên Cư Hạ.. mặc dù các trận đánh thí quân đẩy thanh niên hết lớp
này đến lớp khác vào họng súng địch mà không thành công gì mấy nhưng nó
đã làm cho đối phương phải run sợ trước quyết tâm của một kẻ thù liều
mạng. Ngay từ 1952 người dân Pháp đã quá chán ghét cuộc chiến tranh Đông
Dương, chết người tốn của, không hy vọng gì thắng được kẻ thù. Đến năm
1953, 1954 họ chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh đến cùng cực, cho dù
nếu không thua trận Điện Biên Phủ họ cũng tính chuyện rút quân về nước
càng sớm càng tốt. Trong suốt cuộc chiến 1947-1954 đã có 19 chính phủ bị
đổ vì không giải quyết được cuộc chiến tranh Đông Dương.
Người Mỹ đổ quân vào miền Nam giữa năm 1965 tưởng rằng với hoả lực hùng
hậu có thể đè bẹp cuộc xâm lăng rẻ tiền của Việt Cộng trong năm, sáu
tháng. Nhưng chiến tranh ngày càng leo thang, VC bị oanh kích, truy nã
chết như rạ nhưng lạ thay, không có dấu hiệu gì cho thấy địch phải rút
lui, từ bỏ ý định xâm lăng. Không những thế, VC vẫn gia tăng xâm nhập
hết lớp này đến lớp khác, vẫn cái chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh
niên vào chỗ chết có từ thời Pháp thuộc. Năm 1967, 68, 69 người Mỹ thống
kê cho biết VC bị giết lên tới sáu, bẩy trăm nghìn, trong khi ấy người
Mỹ chỉ mới thiệt hại ba chục nghìn, VC vẫn gia tăng xâm nhập và rồi
người Mỹ thất vọng, họ cho rằêng VC sẵn sàng chiến đấu dù phải hy sinh
thêm một triệu nữa và số thiệt hại của Mỹ sẽ còn lên tới 100 hay 200
ngàn người…
Ngày 26-2-1968, khi Liên quân Việt Mỹ đã tái chiếm lại Huế trong trận
Tết Mậu thân, đài VOA nói: “Hôm nay ngày 26-2 Huế đã được các lực lượng
VNCH và Mỹ hành quân giải toả, chấm dứt một cuộc chiến tranh bẩn thỉu
nhất kéo dài từ một tháng qua”
Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh Việt Nam bẩn thỉu vì các chiến thuật chiến
lược của địch tiểu nhân nhơ bẩn chưa từng bao giờ thấy. VC miệng nói
hoà bình tay rình đánh trộm, lợi dụng ngày hưu chiến, ngày Tết để đánh.
Chủ trương lấy cứu cánh biện minh phương tiện, VC dùng tất cả mọi thủ
đoạn tiểu nhân bẩn thỉu miễn là thắng trận, lùa đàn bà trẻ em đi trước
để làm bia đỡ đạn. Người Mỹ đã từng chiến đấu tại Âu Châu với quân Đức, Á
Châu với quân Nhật, Trung Cộng nhưng chưa hề thấy một cuộc chiến tranh
nào kỳ quái như tại VN. Họ phải đương đầu với một kẻ thù dai dẳng, cố
đấm ăn xôi, thí quân liều mạng, kẻ thù có mặt khắp nơi ẩn hiện như ma,
một cuộc chiến tranh không giới tuyến. Tất cả những chiến thuật chiến
lược VC đều không đếm xỉa gì tới qui ước chiến tranh quốc tế, địch pháo
kích vào các khu vực đông dân cư để gây náo loạn, không đếm xỉa gì tới
sinh mạng đàn bà trẻ nít.
Ngoài ra thủ đoạn chính trị, ngoại giao VC cũng cố đấm ăn xôi y như tại
chiến trường, chúng cũng dai dẳng, bẩn thỉu, ma mãnh lấy cứu cánh biện
minh cho phương tiện. Sau trận Mậu Thân người Mỹ quá chán ghét chiến
tranh VN và tìm cách rút chân ra vì biết không thể thắng được kẻ thù
liều mạng trong một cuộc chiến tranh bẩn thỉu như vậy. Trận Mậu Thân VC
tuy bị thiệt hại nặng về nhân mạng nhưng chúng lại thắng lợi to lớn về
chính trị, địch đã tạo được sự ghê tởm cho kẻ thù để họ phải chán nản bỏ
cuộc. Sự lì lợm, cố đấm ăn xôi đã đạt được kết quả mong muốn, VC đã
thành công trong cuộc chiến tranh Việt Pháp và lại áp dụng “chiến lược
cố đấm ăn xôi” đẩy thanh niên vào chỗ chết khiến kẻ thù phải ghê tởm.
Sau 1975 những người ở ngoài Bắc vào Sài Gòn nói “ Thằng nghèo đói nó
không sợ chết”, đó là nguyên do đưa tới sự sai lầm của người Mỹ, họ đã
đưa quân vào tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh
nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Trong phim Vietnam History By Television, Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng
vấn của một ký giả Tây phương: “Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới
thắng lợi cuối cùng”. Nguyên văn “Nous continuerons à combattre jusqu’à
la victoire finale..”. Sự thực thì Giáp không chiến đấu mà chỉ đẩy thanh
niên vào chỗ chết.
Hoa Kỳ đưa quân vào VN đánh CS là đã đi vào vết xe đổ của người Pháp,
cuối cùng đã phải đầu hàng chiến lược bẩn thỉu ghê tởm của kẻ địch. Khát
máu như bọn thực dân Pháp còn phải bỏ chạy huống hồ Mỹ. Trận Mùa Hè đỏ
lửa năm 1972, người Mỹ muốn ta phải thắng, họ yểm trợ B52 trải thảm cho
QĐVNCH giành thắng lợi tại chiến trường để có ưu thế trên bàn hội nghị
Paris hòng ký kết hiệp Định rút quân về nước. Cuối cùng kẻ địch lại
thắng thêm một trận vĩ đại nữa qua chiến lược cố đấm ăn xôi.
Ngoài ra chúng ta cũng phải kể thêm những yếu tố phụ thuộc khác, trong
khi ta bị địch tấn công tại tuyến đầu, đài BBC Luân Đôn cũng tuyên
truyền phá hoại khiến cho quân dân mất tinh thần hốt hoảng tạo cơ hội
thuận lợi cho kẻ địch. Đài BBC xuyên tạc sự thật ở nhiều chỗ, Quảng Đức
di tản ngày 22-3, mấy ngày sau VC mới dám vào nhưng BBC cũng nói đã bị
tràn ngập…
Những nguyên nhân chúng tôi đã nêu ở trên chỉ là tương đối, mặc dù những
nay nhiều hồ sơ đã được giải mật nhưng cuộc chiến tranh vẫn còn nhiều
bí ẩn. Trả lời phỏng vấn của Phạm Huấn, Tướng Toàn cho biết sau khi ném 2
quả bom CBU ngày 15-4-1975 tại Long Khánh, CSBV bị thiệt hại khoảng 10
ngàn người, ông xin lệnh cho ném thêm 5 quả nữa nhưng được trả lời người
Mỹ chỉ cung cấp ngòi nổ cho 2 quả, họ chỉ cho ta ném 2 quả mà thôi. Như
thế ta mới thấy đã có sự sắp đặt sẵn giữa các thế lực siêu cường vì nếu
họ cho ta ngòi nổ 10 quả mà không cần viện trợ khẩn cấp, không cần đưa
B52 sang trải thảm ta vẫn thừa sức đẩy lui VC ra khỏi miền Nam. Rõ ràng
họ đã sắp đặt bỏ miền Nam chứ không phải vấn đề tốn kém, bởi vì bom đã
để sẵn cả nhưng chỉ thiếu ngòi, cái ngòi chẳng đáng giá bao nhiêu.
Ngày 6-4-1969 Wesmoreland cựu Tư Lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam và Đô Đốc
Sharps, Cựu Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ phúc trình dài 347 trang về
chiến tranh Việt Nam trong 4 năm qua. Họ cho biết nếu Mỹ không đổ quân
vào Miền Nam năm 1965 thì sẽ mất trong 6 tháng. Hai cựu Tư Lệnh này nhấn
mạnh sự bó tay của Quân đội Mỹ trước chính sách hạn chế chiến tranh của
Tổng thống Johnson không cho đánh qua Mên Lào. Ngày 27-1969 Đô Đốc
Sharps đăng báo công kích Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara đã không cho
oanh tạc phá hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn xâm nhập nên
các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu.
Những người hoạch định chiến lược Mỹ không phải là những nhà quân sự mà
là các chính trị gia, họ họach định với thái độ do dự và lo sợ nên các
kế hoạch công phá địch đã bị vô hiệu. Nhiều người cũng đặt giả thuyết
cho rằng họ bị tư bản chi phối cố tình kéo dài chiến tranh để bán vũ
khí, giả thuyết đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ giả vờ không đánh thắng
được Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến tranh. Sự nghi ngờ này đã đưa
tới những cuộc biểu tình chống chiến tranh tại Mỹ cũng như tại Việt Nam
năm 1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là có lợi cho CS. Cuối năm 1969,
cựu Tư Lệnh Wesmoreland tại Mỹ nói nếu Mỹ tiếp tục oanh tạc thì đã thắng
rồi, BV lợi dụng hoà đàm yêu cầu Mỹ ngưng oanh tạc hơn một năm nay để
chuyển quân vào đánh tiếp. Ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng miền Nam sụp đổ
vì đã quá phụ thuộc vào Mỹ từ Quốc phòng, kinh tế, giao thông, ăn, ở..
Ta cũng quá ỷ lại vào Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào sự giúp đỡ của
người bạn Đồng Minh .
Sự thực đây không phải là lần đầu tiên người Mỹ phản bội đồng minh , cái
trò mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em đã có từ Thế Chiến Thứ hai cách đây
đã hơn 60 năm. Tháng 4-1945 , Tướng Paton Mỹ đánh Đức Quốc Xã tiến quân
đến sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng họ thì được lệnh phải
dừng lại ngay lập tức vì Tiệp đã được nhường cho Nga. Sau này những bí
mật đã được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho Nga vì họ có nhờ Nga
phụ giúp một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ có cho nghiên cứu làm bom
nguyên tử nhưng không hy vọng gì lắm.
Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đã gần kết thúc nhưng tại Á châu, Nhật
vẫn còn hơn 5 triệu quân đóng rải rác tại các nước Đông Nam Á, họ lại
chiến đấu dai dẳng không chịu đầu hàng. Người Mỹ trù tính phải đánh một
năm rưỡi hoặc hai năm mới xong, sẽ phải tốn nhiều xương máu, sinh mạng
của tư bản quí như vàng. Muốn tiết kiệm xương máu nhân dân chỉ còn cách
đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline nhận lời ngay vì sinh mạng dân Xã hội
chủ nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn Lỗ Ma Ni, Virgil Gheorghui trong cuốn
truyện Les Sacrifíés du Danube đã diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150
triệu người Đông Âu tan gia bại sản đã bị Hoa Kỳ bán đứng cho CS để cứu
vớt nền văn minh Tây Âu.
Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Mãn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng quân
đại thắng ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới thạch xin Mỹ viện trợ để cứu
nguy tình thế quá hiểm nghèo nhưng không được đáp ứng. Đầu tháng
12-1948 Tưởng phu nhân bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ cầu viện nhưng
họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc không thương tiếc vì trước đây họ
giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật, Tưởng đã cầm chân được một số lớn
quân Nhật, nay đế quốc Nhật tan tành thành tro bụi, Tưởng không còn là
đồng minh cần thiết nữa. Hoa Kỳ bỏ rơi Trung Hoa mang lại hậu quả tai
hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ nước Tầu rồi trở thành mối đe dọa
cho Hoa Kỳ, cho nền hoà bình thế giới và bây giờ vẫn còn đe dọa, cái
giá mà Hoa kỳ phải trả cho sự bỏ rơi này muôn đời không bao giờ hết.
Và để rồi gần 30 năm sau, tháng Tư 1975 họ lại dở cái trò vắt chanh bỏ vỏ ấy tại Việt Nam.
Người Mỹ có được lợi lộc gì trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt họ đã ngăn chận được cuộc chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết liệt đã khiến khối Cộng chùn bước. Mỹ đã bắt tay hoà hoãn được với Trung cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an ninh cho đất nước. Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ” cho biết Trung cộng đã viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH đã cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đã tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc họ đã bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”
Người Mỹ có được lợi lộc gì trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt họ đã ngăn chận được cuộc chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết liệt đã khiến khối Cộng chùn bước. Mỹ đã bắt tay hoà hoãn được với Trung cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an ninh cho đất nước. Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ” cho biết Trung cộng đã viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH đã cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đã tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc họ đã bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”
Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ Mỹ kim, không phải rằng họ cho VN số
tiền khổng lồ ấy mà nó là một chi phí tổng gộp bao gồm cả lương lính,
nhân viên quốc phòng, cố vấn, công nhân chế tạo vũ khí, chi phí di
chuyển .. những khoản tiền ấy lưu hành trong phạm vi kinh tế, lãnh thổ
nước họ hơn là ra ngoại quốc. Nước Mỹ khóc lóc thảm thương cho 58 ngàn
người lính của họ đã “ủm củ tỉ” tại VN nhưng họ không hề đoái thương tới
hàng mấy triệu người Việt Nam và Đông Dương chết vì bị các thế lực siêu
cường xúi cho người ta giết lẫn nhau. Người Mỹ không hề thương tiếc cho
hàng mấy triệu người dân Miên vô tội bị Khmer đỏ tàn sát vì họ đã bỏ
rơi Đồng Minh một cách tàn nhẫn.
Ông Nguyễn Tiến Hưng nói: “Hoa Kỳ bỏ Việt Nam vì quyền lợi của họ tại đây không còn nữa.”
Trọng Đạt
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 469
Monday, May 22, 2017
CHÈ XỨ BẮC
Chè xứ Bắc
Nói đến uống chè xanh, có vẻ như Hà Nội là thủ phủ của các loại quán
nước chè trên đất Bắc, từ quán vỉa hè đến quán lưu động ở các bến xe.
Chỉ cần một chiếc ấm tích có vỏ giữ ấm, một điếu cày, một chiếc làn đựng
ly, tách, thuốc lá và vài chiếc ghế đẩu là xem như một quán nước chè đã
hình thành. Bất kì nơi nào có người qua lại, sẽ có người uống nước chè.
Và chè xanh, chè nụ vối, chè lá, chè móc câu Thái Nguyên là thức uống
quen thuộc của xứ Bắc.
Ông Hiệp, cư dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, chia sẻ với VOA: “Uống chè để tạo ra một cảm giác sảng khoái. Không hẳn và cũng không phải là nghiện. Ví dụ như người miền trong thì thích uống cà phê, nhưng tôi thì uống cà phê lại không cảm thấy ngon.”
Thái Nguyên được xem là thủ phủ của cây chè trên đất Bắc, cũng giống như Tây Nguyên là thủ phủ của cây cà phê ở phía Nam. Nếu như thuở trước, cây chè trồng theo lối truyền thống, không dùng đến thuốc trừ sâu và phân bón hóa học, thì hiện tại, việc trồng cây chè đã thành một thứ kĩ nghệ mang dáng dấp Trung Quốc.
Hà Nội ngàn năm văn hiến thơm thảo hương chè xanh, huyền hoặc khói thuốc Lào. Thái Nguyên với rừng cọ, đồi chè là nơi cung cấp nguồn chè cho cả miền Bắc. Thời kinh tế bị cái bóng Trung Quốc đè nặng, người nông dân loay hoay trong câu hỏi "làm thế nào để nâng cao năng suất, để cạnh tranh với giá chè rẻ bèo đến từ phương Bắc". Cuối cùng, kĩ nghệ trồng chè bằng thuốc và phân hóa học đã thành sức mạnh của chè Thái Nguyên.
Bà Hải, nông dân trồng chè ở Thái Nguyên, cho biết: “Làm chè thì kể ra cũng sống được, nhưng vài năm trở lại đây thuốc sâu đắt quá, phân thì công nhận là không cao. Nhưng không biết phun đúng hay sai thuốc mà phải phun 4, 5 lần thì mới được một lứa chè.”
Trong mỗi ly chè sáng sớm của người Hà Nội, liệu có ly chè nào không
trộn lẫn vị thuốc kích thích tăng trưởng và phân hóa học? Và các đồi chè
được bơm thuốc, bón phân định kỳ, có đồi chè nào không bị nhiễm thuốc
và phân Trung Quốc? Những câu hỏi ấy như vòng xoáy chết chậm của thời kỳ
‘Made in China’.
Liệu người Hà Nội còn giữ nét thanh lịch chè xanh, thuốc Lào, ân cần, nhẹ nhàng mỗi sớm mai bao lâu nữa, khi chè xanh đã mất dần hương núi rừng nước Nam nguyên sơ và tinh khiết?
http://www.voatiengviet.com/a/che-xu-bac/3852606.html
Ông Hiệp, cư dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, chia sẻ với VOA: “Uống chè để tạo ra một cảm giác sảng khoái. Không hẳn và cũng không phải là nghiện. Ví dụ như người miền trong thì thích uống cà phê, nhưng tôi thì uống cà phê lại không cảm thấy ngon.”
Thái Nguyên được xem là thủ phủ của cây chè trên đất Bắc, cũng giống như Tây Nguyên là thủ phủ của cây cà phê ở phía Nam. Nếu như thuở trước, cây chè trồng theo lối truyền thống, không dùng đến thuốc trừ sâu và phân bón hóa học, thì hiện tại, việc trồng cây chè đã thành một thứ kĩ nghệ mang dáng dấp Trung Quốc.
Hà Nội ngàn năm văn hiến thơm thảo hương chè xanh, huyền hoặc khói thuốc Lào. Thái Nguyên với rừng cọ, đồi chè là nơi cung cấp nguồn chè cho cả miền Bắc. Thời kinh tế bị cái bóng Trung Quốc đè nặng, người nông dân loay hoay trong câu hỏi "làm thế nào để nâng cao năng suất, để cạnh tranh với giá chè rẻ bèo đến từ phương Bắc". Cuối cùng, kĩ nghệ trồng chè bằng thuốc và phân hóa học đã thành sức mạnh của chè Thái Nguyên.
Bà Hải, nông dân trồng chè ở Thái Nguyên, cho biết: “Làm chè thì kể ra cũng sống được, nhưng vài năm trở lại đây thuốc sâu đắt quá, phân thì công nhận là không cao. Nhưng không biết phun đúng hay sai thuốc mà phải phun 4, 5 lần thì mới được một lứa chè.”
Liệu người Hà Nội còn giữ nét thanh lịch chè xanh, thuốc Lào, ân cần, nhẹ nhàng mỗi sớm mai bao lâu nữa, khi chè xanh đã mất dần hương núi rừng nước Nam nguyên sơ và tinh khiết?
http://www.voatiengviet.com/a/che-xu-bac/3852606.html
HỒI KÝCỦA GS. NGUYỄN PHONG CHÂU
Mười Năm Y Khoa
Nguyễn Phong Châu
Cuối cùng tôi đã được thuyên chuyển về làm giảng nghiệm viên tại Khu
Sinh Ngữ, Đại Học Y Khoa Saigon vào đầu năm 1974. Ngay từ năm 1972, tôi
đã nghe nói Khu Sinh Ngữ sẽ tuyển giảng viên để thế chỗ các giảng viên
Mỹ, nên tôi đã tính chuyện nạp đơn, nhưng không nhớ rõ tại sao lại thôi.
Nhưng qua năm 1973, sau Hòa Đàm Ba Lê việc Việt Nam hóa chiến tranh
được xúc tiến mạnh, tôi được biết trưởng khu người Mỹ sắp về nước và
giảng viên Việt là Nguyễn Hữu Quảng sẽ chính thức lên thay thế và khu
cần tuyển gấp giảng viên Anh văn.
Lúc đó đang dậy tại Trung học Nguyễn Du, tôi vội đem đơn vào cho ông
Hiệu trưởng Nguyễn văn Ngọc duyệt chuyển. Ông Ngọc đã không đắn đo, phê
chuẩn với hảo ý và nói, “Chắc anh còn nhớ lần anh nạp đơn xin học bổng
Colombo Plan qua học bên Úc, tôi ký chuyển ngay tuy anh mới về trường
chưa được một năm. Tôi không bao giờ làm khó đối với các giáo sư muốn
được xếp giờ dậy thuận tiện để học thêm, và nhất là ngăn cản tiền đồ của
họ. Tôi chúc anh lần này cũng được may mắn.” Tôi không bao giờ quên
được vị hiệu trưởng ít nói, khắc khổ nhưng rất mực tử tế này. 30-4-75,
sau khi bàn giao trường cho ban tiếp quản, ông đã xin ngưng công tác và
và về sống đời tu hành cho tới khi mất. Khi tới dự đám tang ông, tôi còn
nghe các bạn hàng ở khu Chợ Ông Tạ ca ngợi ông giáo đạo hạnh này.
Tôi cầm đơn lên nạp tại văn phòng Viện Trưởng Viện Đại Học Saigon ở
đường Duy Tân, trước Hồ Con Rùa. Đơn nằm đó hết tháng này qua tháng khác
mà không có tin tin tức gì cả và tôi cũng không để ý theo dõi nữa. Rồi
một buổi chiều khi tôi đang ngồi nói chuyện với một người bạn thân là
Nguyễn Viết Long dạy Anh văn tại Trung Tâm Thính Thị Anh Ngữ thuộc Đại
Học Sư Phạm ở góc đường Cộng Hòa-Thành Thái thì ông giám đốc trung tâm
chợt đi đâu về, nói với Long là Bs. Nguyễn Văn Thơ, Khoa trưởng Nha
Khoa, sẽ là Xử lý Viện truởng, thay thế GS. Viện Trưởng Trần Văn Tấn bận
công xuất. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, tôi bèn mượn điện thoại gọi
cho ông cụ tôi.
Lúc đó ông cụ tôi là văn phòng trưởng Hội Hướng Đạo Việt Nam, trụ sở ở
số 18 Bùi Chu, Saigon. Ông cụ vào hướng đạo ngay từ thời kỳ đầu của
phong trào này ở Việt Nam và hoạt động cho tới khi mất. Hồi nhỏ tôi
thường nghe ông cụ nói tới những tên như Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu,
và Trần Duy Hưng là người đã chủ tọa lễ tuyên hứa của ông cụ. Di cư vào
Quảng trị, ông cụ lập Đạo Ái Tử và khi vào Saigon thì Hội Hướng Đạo giao
cho ông cụ tôi lo văn phòng của hội. Tại đây ông cụ thường xuyên làm
việc với các Trưởng hướng đạo kỳ cựu, trong đó có Trưởng Nguyễn Văn Thơ.
Ông cụ đã nhờ Trưởng Thơ để ý tới việc tôi nạp đơn xin chuyển vế Y Khoa
và chỉ mấy hôm sau tôi được báo cho biết là đơn của tôi và của một giáo
sư khác là Nguyễn Đức Lâm đã được duyệt xét và chuyển với hảo ý qua Bộ
Giáo Dục, xét theo nhu cầu của Khu Sinh Ngữ, Đại Học Y Khoa.
Tưởng mọi chuyện đã êm đẹp nhưng đợi cả tháng không thấy tin tức gì. Tôi
liên lạc với Nguyễn Đức Lâm lúc đó cũng đang dậy cùng với tôi và Quảng ở
Hội Việt Mỹ và cho biết sự vụ. Lâm cho biết có lẽ lại kẹt ở văn phòng
tổng thư ký Bộ Giáo Dục, vì ông này cũng là người Nam rất kỳ thị Bắc Kỳ
không thua gì ông Viện trưởng, mà không may cả tôi và Lâm tình cờ đều là
Bắc kỳ di cư. Nhưng Lâm nghĩ ra ngay và nói có cơ thoát vì có một người
bạn của Lâm là công cán ùy viên cho Thứ trưởng Bùi Xuân Bào. Lâm nhờ
bạn nói với ông thứ trưởng và được ông sai nhân viên lấy đơn cho ông để
duyệt xét và sau đó đã chấp thuận. Tôi vẫn nghĩ nếu buổi chiều hôm đó
tôi không ghé Trung Tâm Thính Thị và sau đó không liên lạc với Lâm thì
chuyện chúng tôi được về Y Khoa không biết đã ra sao.
Khu Ngoại Ngữ nằm trên lầu ba ngay phía trên văn phòng nhà trường, kế
Khu Phẫu Thuật Thực Hành, trưởng khu là BS. Thái Minh Bạch với hai phụ
tá là BS. Lã Hoàng Trung, một người anh họ xa của tôi, và Bs. Thành, mà
tôi không hiểu tại sao anh Trung gọi là Thành Le. Các sinh viên thực tập
mổ chó trong phòng lab của khu này. Tầng dưới là Khu Sinh Lý với
GS.Trần Vĩ là trưởng khu, với hai phụ tá là Bs. Lê Sĩ Quang và một nữ
bác sĩ khác mà tôi không nhớ tên. Trưởng Khu Ngoại Ngữ là Nguyễn Hữu
Quảng, bạn cùng dạy với tôi ở Hội Việt Mỹ và tốt nghiệp từ Mỹ về. Quảng
chính thức thay thế cố vấn Young mãn hạn về Mỹ. Nhân viên văn phòng có
ông Thám, cô Hoa là thư ký và bà Lâm làm tạp dịch.
Trường Y Khoa được Viện Trợ Mỹ xây thời Đệ Nhất Cộng Hòa là một quần thể
kiến trúc rất hiện đại, gồm haitoà nhà ba tầng nằm song song với nhau.
Toà nhà nằm sát đường Hùng Vương với văn phòng trường và đại giảng đường
ở tầng trệt, bên trên Khu Sinh Lý, Khu Phẫu Thuật Thực Hành và Khu
Ngoại Ngữ. Tòa nhà thứ nhì nằm song song với đường Nguyễn Trãi, là trụ
sở của Nha Khoa ở tầng trệt với văn phòng khoa, một phòng lab lớn với
các ghế nha khoa và một giảng đường, Khu Vi Sinh và Bệnh Lý ở phía trên.
Cũng từ tầng lầu hai của khu nhà này mà sinh viên y khoa Trần Quốc
Chương, con trai Thẩm phán Trần Thúc Linh, đã bị xô rớt xuống đất chết.
Chương đã có một thời bỏ ra mật khu Bình Dương nhưng sau đó trở lại vào
thành. Nhờ ảnh hưởng của thân phụ Chương vẫn được đi học trở lại. Có
người cho là Chương bị chính quyền thủ tiêu, nhưng đa số người tin là
Chương bị VC thanh toán vì tội phản bội và rất có thể vì biết quá nhiều
các hoạt động bí mật nội thành.
Ai giết cũng vẫn chưa rõ, chỉ biết bà Trần Thúc Linh trong đám tang con
đã gào lên, “Ối ông Hồ Chí Minh ơi, ối ông Thiệu ơi, sao lại giết con
tôi?” Hai tòa nhà được nối với nhau bằng một hành lang dài, nằm kề một
cafeteria là phòng ăn lớn cho sinh viên, phía trên là thư viện do một
bác sĩ làm quản thủ. Một góc của cafeteria được ngăn riêng dành cho ban
giảng huấn. Cafeteria được các ma soeur điều hành, cung cấp các bữa ăn
sáng và trưa vừa bổ, vừa ngon vừa rẻ. Sau 30-4, các soeur còn duy trì
được tình trạng tốt đẹp này một thời gian nhờ thực phẩm tồn kho, nên
chúng tôi gọi đùa là “Trung tâm Bồi dưỡng Y khoa.”
Về Y Khoa, tôi thấy như lên thiên đàng. Khu Sinh Ngữ chỉ còn một người
Mỹ là Evans có giờ mới tới dậy. Các đồng nghiệp Anh Văn thì đều là bạn
cùng dậy với tôi ở Hội Việt Mỹ, Quảng, Lâm và chị Hiếu. Còn đối với các
giáo sư bác sĩ thì chúng tôi như nước sông nước giếng, không ai đụng tới
ai, nên không có áp lực đồng nghiệp. Chúng tôi chỉ dậy sinh viên các
năm thứ nhất và thứ hai từ 1 giờ tới 2 giờ trưa khi các em đi thực tập
buổi sáng ở các bệnh viện về, và buổi chiều từ 4 giờ tới 5 giờ sau khi
các em học xong các mộn lý thuyết, khi đó các bác sĩ giáo sư ai nấy lo
về phòng mạch tư của mình. Nếu có đi ngang qua gặp nhau, chúng tôi chào
nhau rất lịch sự, nhưng tên tuổi nhau thì hầu như không biết, trừ một
vài trường hợp đặc biệt.
Là một bộ phân thuộc đaị học, chúng tôi chúng tôi được hưởng một cách cụ
thể cái người ta gọi là quyền tự trị đại học. Về mặt chuyên môn, chúng
tôi hoàn toàn độc lập. Nhà trường không bao giờ chi phối chúng tôi về
bài vở và phương cách giảng dậy. Sếp Quảng đưa cho Lâm và tôi một số bài
giảng cũ của các giảng viện soạn trước đó để có ý niệm phải soạn bài ra
sao. Sách giáo khoa được coi là căn bản là cuốn Mastering Medical
English do Lacowicz, một giảng viên Mỹ gốc Ba Lan soạn. Sách chủ yếu
cung cấp các thuật ngữ y khoa gốc Latin và Hy Lạp đi kèm với các bài đọc
liên quan tới các môn học như cơ thể học, vị tràng, tim mạch, sản phụ
khoa và cuối cùng là môn với tên mới lạ đối với tôi là Nuclear Medicine.
Sau mỗi bài đều có bài tập để kiểm tra tiếp thu của sinh viên. Nhà
trưởng cũng để Khu Sinh Ngữ đầu niên học thu tiền sinh viên mỗi người
hai trăm đồng, để mua giấy và mực quay ronéo bài học mà chúng tôi soạn
riêng cho các lớp chúng tôi phụ trách phát cho sinh viên suốt năm.
Tiền này giữ tại khu và không phải báo cáo chi thu cho nhà trường. Sáng
sáng chúng tôi tới văn phòng đọc sách và soạn bài. Sách y khoa tham khảo
thì khu có một số, và nếu cần gì thêm, chúng tôi xuống Thư viên nhà
trường. Bs. Nguyên quản thủ thư viện tận tình giúp đỡ chúng tôi khi cần
tìm tài liệu tham khảo, và chỉ cho chúng tôi kệ lưu trữ bộ từ điển y
khoa Anh-Pháp-Việt, được chia cho nhiều bác sĩ soạn, coi như luận án
tiến sĩ y khoa của mình.
Khu Sinh Ngữ gồm có một phòng chính làm văn phòng khu, một language lab
có phòng cách âm với thiết bị luyện giọng. Sếp Quảng đặt bureau làm việc
ở trong phòng này. Phòng lab rất ít khi được sử dụng, trừ phi có bác sĩ
nào sắp xuất ngoại cần luyện nghe nói tiếng Anh, sẽ được Quảng giúp đỡ.
Hai phòng này nhìn xuống sân trường phía bên trong. Đối diện qua một
hành lang là ba phòng khác, cửa sổ nhìn ra phía đường Hùng Vương. Một
phòng dành cho các giảng viên. Lâm, chị Hiếu và tôi mỗi người đều có một
bureau ở đây. Hai phòng khác là phòng học, với hơn một chục ghế học,
dành để dậy các nhóm nhỏ sinh viên. Và sau 30-4-75, các phòng này thường
là phòng dậy các nhóm nhỏ sinh viên học Nga văn, vì đại đa số sinh viên
chọn học Anh văn hay Pháp văn. Ngoài ra, đây cũng là phòng họp Bộ Môn
hàng tháng khi Khu Sinh Ngữ được đổi thành Bộ Môn Ngoại Ngữ.
Y Khoa Saigon mỗi năm mở thi tuyển lấy 200 sinh viên vào năm thứ nhất.
Ngoài hai bài thi chính Hóa học và Vạn vật, thí sinh còn thi nhiệm ý môn
Anh văn hoặc Pháp văn có điểm thi hệ số một. Sau khi có kết quả, Khu
Sinh Ngữ chuẩn bị cho thí sinh trúng tuyển thi xắp lớp, riêng môn Anh
văn, tùy theo số điểm sinh viên được xếp học lớp A100 và A200. Chúng tôi
chia nhau dậy các lớp cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai, mỗi
lớp vài chục sinh viên. Ngoài ra chúng tôi còn phải dậy các sinh viên
Nha Khoa, cách thức phân lớp cũng tương tự. Nếu lớp đông chúng tôi dậy ở
hai đại giảng đường Y Khoa và Nha Khoa, lớp vắng có thể dậy tại các
phòng giảng nhỏ hơn ở hai khu.
Sau khi đã ổn định giảng dậy với số giờ dậy không quá 10 giờ một tuần,
chúng tôi có thể sắp xếp giờ dậy ở Hội Việt Mỹ, thường vào các buổi
sáng, và buổi chiều sau giờ dậy đầu, chúng tôi ở lại văn phòng đọc sách
và soạn bài dậy cho sinh viên của lớp mình, đợi giờ dậy sau vào lúc 4
giờ chiều. Như đã nói ở trên, Sếp Quảng không bao giờ kiểm soát bài soạn
của chúng tôi cũng như bài tập kiểm tra sinh viên. Hôm nào không có giờ
dậy sau, tôi và Lâm còn có cái thú phóng xe xuống Bưu Điện Saigon ăn bò
bía. Bưu Dìện Saigon buổi sáng có bánh mì ở kiosk Hương Lan ngon đặc
biệt, buổi chiều bò bía bán ở xe rong. Muốn đổi món thì tới ăn phá lấu ở
góc Pasteur-Lê Lợi kế chùa Chà Và, sau đó ghé vào Viễn Đông làm ly nước
mía vắt cam ngọt lịm.
Khu Sinh Ngữ như một ốc đảo trong tập thể Y Khoa với những hoạt động mà
các bạn bác sĩ gọi là paramedical. Trước 30-4-75, nhóm giảng viên sinh
ngữ và các bác sỹ giảng viên và giáo sư có những sinh hoạt và công việc
không ăn nhằm gì tới nhau nên mối tương giao hầu như không có. Chúng tôi
buổi trưa thường về nhà ăn cơm với gia đình, thay vì ghé vào cafeteria
ăn trưa, nên gặp gỡ càng thưa thớt.
Ngoài các bạn trong khu, tôi lúc đầu chỉ có hai bạn thân ở trường, một
là Bs. Lã Hoàng Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành hàng xóm, và Bs. Lê Sĩ
Quang ở Khu Sinh Lý tầng dưới. Bs. Trung là anh họ xa của tôi, và nhỏ
tuổi hơn tôi. Hồi tôi mới xuống dậy ở Mỹ Tho, có năm về Saigon coi thi
Trung Học Phổ Thông, còn coi hộ điểm xem Trung có đỗ hay không. Thoáng
cái khi về Saigon dậy ở Nguyễn Du thì biết Trung đã đang học Y Khoa
chuyên về khoa nhi. Gặp lại Trung ở Y Khoa và lại ở khu kế bên nên hầu
như ngày nào anh em cũng gặp nhau, và quen luôn với Bs. Thành làm việc
cùng khu với Trung. Bs. Thành họ Lê, người Nam, rất vui tính, miệng lúc
nào cũng tươi cười.
Bs. Lê Sĩ Quang vốn cùng học với tôi ở Quốc Học Huế từ Đệ Tam tới Đệ
Nhất, nhưng Quang học Ban A và tôi học Ban C nên chỉ biết nhau chứ không
quen thân. Sau khi đậu xong Tú Tái 2, chúng tôi đều vào học ở Saigon.
Tôi thi đậu vào ĐHSP ban Anh Văn khóa 1958-1961, còn Quang vào học PCB ở
Đại Học Khoa Học rồi vào Y Khoa Saigon. Chuyện tôi gặp lại Quang ở
Saigon cũng khá bất ngờ. Số là khi tôi vào Saigon, anh tôi lúc đó đang
học ở ĐH Khoa Học và sống ở Đại Học Xá Minh Mạng Chợ Lớn. Theo nguyên
tắc thì đại học xá ưu tiên cho những sinh viên không có gia đình ở
Saigon được vào ở và phải nạp đơn xin trước, nhưng “phép vua thua lệ
làng”, buồng nào có chỗ trống, các sinh viên đang sống trong buồng đó
nếu quen ai có thể hỏi những người kia để người mình quen được trám vào
chỗ trống, rồi “hợp thức hóa sau”. Phòng anh tôi có một sinh viên Kiến
Trúc, một sinh viên Cống Chánh Phú Thọ, và một người mới dọn ra. Tôi vào
Saigon học là có chỗ ở ngay.
Tình trạng này đưa tới sự kiện là nhiều dẫy đa số sinh viên cư trú là
người Nam, có các dẫy đa số là người Bắc và hai dẫy 6 và 8 đa số là
người Trung. Việc đầu tiên là sau khi ổn định chỗ ở, tôi ra Ngã Bẩy chọn
mua một chiếc xe đạp để hàng ngày sáng đạp tới ĐHSP trên Đường Cộng Hoà
và chiều đạp tới Văn Khoa trên đường Nguyễn Trung Trực. Trưa về ăn cơm
nhà bàn Đại Học Xá, vé tháng mỗi bữa $10, phở ĐHX ba đồng một tô do ông
hàng phở Bắc kỳ di cư bê tới tận phòng vào sáng sớm. Với học bổng $1.500
một tháng, tôi sống sướng như vua.
Một buổi chiều vào khoảng giữa niên học đầu, một hôm tôi từ Câu Lạc Bộ
trở về phòng ở dẫy 5 thì thấy Quang đang ngơ ngáo đi ở hàng hiên. Tôi
hỏi Quang quen ai ở đây, thì Quang nói đâu có quen ai, đang cần chỗ ở
nên vào đây thấy buồng nào có người là ghé vô hỏi xin có cho vào ở được
không. Gặp tôi Quang mừng lắm và nhờ tôi hỏi giùm, vì ông bà cụ Quang
hồi đó vẫn còn làm việc ở Quy Nhơn. Tôi nói cũng là ma mới, nhưng cứ vào
phòng tôi ngồi chơi nói chuyện cho đã, đợi mấy anh lớn chiều vể nhờ là
chắc ăn. Quả nhiên anh tôi lại có một người bạn ở dẫy 7, nói có người
mới dọn ra và thu xếp với mấy bạn đồng phòng cho Quang vào trám chỗ.
Quang nhỏ loắt choắt, hay cười mà cười thì hai mắt tít lại. Tuy nhỏ
người nhưng Quang học rất giỏi. Hồi học ở Quốc Học, lúc chúng tôi học Đệ
Tam, nhà trường tổ chức thi chung cho tất cả các lớp cùng ban. Ban C
chỉ có hai lớp, C1 và C2, hai ban A và B rất đông, tôi không nhớ rõ bao
nhiêu lớp. Kết quả thi được công bố trong một lể chào cờ sáng Thứ Hai,
và Lê Sĩ Quang được xuớng danh đứng đầu Ban A. Vào Saigon học, Quang học
giỏi và mổ ếch rất khéo tay. Vào học Y Khoa Quang được GS. Trần Vỹ chú ý
và về sau được về làm việc ở Khu Sinh Lý mà giáo sư là trưởng khu.
Sau Quang được đi Mỹ để lấy Ph.D. Tôi không hỏi Quang học mất bao lâu,
nhưng biết trong thời gian này Quang gặp và lập gia đình với chị Minh
Châu. Khi Quang học xong thì chị Minh Châu đang học dở dang
Masters về Anh Văn và lúc đó mới sanh con đầu lòng được ba tháng. Dù
được đề nghị cho một việc làm và có thể ở lại luôn, nhưng Quang đã quyết
định một mình bồng con trở về nước phục vụ, và sau đó chị Minh Châu
cũng về sau khi tốt nghiệp và làm giảng viên Anh Văn tại Đại học Văn
Khoa Saigon. Việc vợ chồng Quang có con đẻ ở Mỹ tuy gây đôi chút khó
khăn cho hai vợ chồng một thời gian nhưng cũng đem lại cái may sau này.
Khi tôi về Khu Sinh Ngữ, chúng tôi rất mừng gặp lại nhau. Một buổi chiều
Quang dẫn tôi vào chỗ làm việc của Quang và cười buồn bảo tôi, “Mày
thấy không, bàn làm việc của tao được đặt trong warehouse và công việc
chính của tao bây giờ là chăm lo tờ Tạp Chí Y Khoa cho trường.” Tôi tự
hỏi nếu Quang vẫn chỉ là một học trò cưng của giáo sư trưởng khu, tốt
nghiệp Đại học Y Khoa Saigon như vị nữ bác sĩ phụ tá trưởng khu lúc đó
thay vì là một Ph.D thuộc “Lò Đào Tạo Mỹ” thì tình trạng có gì khác hay
không. Tôi bảo Quang, “Mày đã một lòng nghĩ tới phục vụ đất nước, một
mình bồng con mới đẻ về đây, rồi lại kéo cả vợ về thay vì có thể ở lại
bên đó yên thân phì gia, thì hoàn cảnh bây giờ chỉ là chuyện nhỏ. Mày
còn trẻ, ông thầy cũng đã già rồi, làm gì chả tới lúc mày có thể thăng
tiến và biết đâu trám chỗ ông ấy. Không lẽ nhà trường không thấy được
tình trạng này hay sao?” Quang chỉ yên lặng mỉm cười.
Một buổi chiều tối tôi ghé lại nhà Quang chơi đúng lúc Quang mới đi về.
Quang hớn hở khoe mới tới nhà ông trưởng ban Anh Văn ở Văn Khoa chẩn
đoán đúng bệnh viêm ruột thừa cấp tính cho con ông ta và đưa ngay vào
bệnh viện mổ gấp. Quang có phòng mạch tư ở khu Đa Kao, phòng mạch rất ế
ẩm. Có hôm tôi ghé vào chơi, ngó quanh mà buồn cho Quang. Quang nói bệnh
nhân cảm sốt tới đây, bệnh không nặng nên Quang chỉ cho thuốc chống sốt
trong khi bệnh nhân cứ đòi cho mua thuốc kháng sinh, có người còn kể ra
tới hai ba thứ. Quang nhất định không chịu và hẹn tuần sau nếu không
hết thi trở lại. Những bệnh nhân loại này không bao giờ trở lại nữa.
Quang nói đành chịu, chả lẽ lại theo thời, kê toa theo đơn đặt hàng của
bệnh nhân, để được tiếng là thầy thuốc mát tay và có đông khách. Ba tôi
quản lý cho tiệm thuốc tây ở Quảng Trị, nói bệnh nhân bị viêm nhiễm được
bác sĩ kê toa cho ba loại trụ sinh, cứ khen là bác sĩ giỏi, biết nhiều.
Ông cụ cười nói, “Cho ba thứ đánh bao vây thằng Tây cũng chết, lọ là
con vi trùng.”
Niên học đầu tiên trôi qua một cách êm ả và mọi chuyện đều tốt đẹp. Buổi
dạy đầu tiên tôi không bao giờ quên được. Đại giảng đường rộng lớn, ánh
sáng và thiết trí như một rạp ciné hiện đại. với những hàng ghế cong
cong bao quanh một sân khấu. Hai bảng viết mầu xanh phía sau một bục
giảng với một đèn nhỏ và một micro. Các hàng ghế học bên dưới đều được
spotlight từ trên trần dọi xuống. Khi tôi bước lên bục giảng thì các
sinh viên đã ngồi kín mấy hàng ghế đầu sát với sân khấu, yên lặng chờ
đợi. Khác với dự kiến, tôi đã không hồi hộp khi đứng trước bục giảng với
chiếc micro và ngọn đèn nhỏ dọi sáng cuốn Mastering Medical English.
Sau phần tự giới thiệu và hỏi chuyện làm quen, tôi thoải mái bắt đầu bài
giảng với sự tự tin vì đã được chuẩn bị kỹ. Sau giờ học, tôi đi xuống
nói chuyện với các sinh viên đã nán lại hỏi tôi này nọ. Liên hệ giữa tôi
và các em thật tốt đẹp cho tới khi tôi xin nghỉ dạy vào năm 1983.
Nửa năm đầu 1974 trôi qua thật nhanh, việc soạn bài giảng dậy đã vào nền
nếp, giờ dậy tư ở ngoài cũng đã ổn định, Quảng, Lâm và tôi bắt đầu tính
toán phải phải làm gì để hưởng thụ dịp nghỉ cuối tuần và nhất là cho
mùa hè sắp tới. Khoảng hè 74 một hôm Quảng bảo tôi rằng GS. Nguyễn Ngọc
Huy quyền Viện Trưởng Viện Đại Học cần tuyển một người gửi qua Mỹ học để
khi trở về làm quản đốc các đại học xá ở Saigon. Quảng nói nếu tôi muốn
thì sẽ đề cử và nếu mọi việc xuôi xẻ thì có thể đi Mỹ vào mấy tháng đầu
năm 75. Tôi lưỡng lự vì mới về Y Khoa được vài tháng, chỉ thích dạy học
và rất ngại làm việc hành chánh, nhất là thời gian đó tình hình chính
trị rối ren, các sinh viên phản chiến và thân cộng không thiếu gì trong
các đại học xá. Khi tôi cám ơn và từ chối, Quảng bảo như vậy cũng phải
vì tôi đã dạy được gần nửa năm rồi, nếu cứ tiếp tục dạy được hai năm thì
sẽ mở một kỳ thi chuyển ngạch có tính cách hình thức để tôi có đủ điều
kiện chuyển từ giáo sư trung học đệ nhị cấp sang ngạch giảng viên đại
học. Tôi còn nhớ bản danh sách Ban Giảng Huấn Đại Học Y Khoa với hơn 230
người, đứng đầu là Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, rồi giáo sư, giảng sư, giảng
viên và tôi đứng cuối với ngạch trật giáo sư trung học đệ nhị cấp, dù là
thượng hạng hạng tư!
Ngày tháng trôi qua thật thoải mái cho tới cuối năm khi chúng tôi được
hưởng một mùa Giáng Sinh và sau đó là cái Tết Nguyên Đán cuối cùng tươi
vui nhất ở nước nhà. Tại một bữa tiệc liên hoan ở một nhà hàng, Trưởng
khu Quảng đã cho mọi người một bất ngờ thích thú khi anh đứng lên tươi
cười trao cho mỗi người một phong bao lì xì ba ngàn đồng.
Nhưng rồi tình hình chiến sự mỗi lúc một sôi động và viễn ảnh của đất
nước ngày càng mù mịt, khiến cái hào hứng lúc đầu bớt dần và cái thảng
thốt lo âu tăng lên. Qua tới đầu năm 1975 thì đã thành lo sợ thực sự.
Các
sinh viên đi học cũng có vẻ lơ là hơn, thường tụ năm túm ba nói chuyện
thời sự. Rồi tiếp theo sau là dồn dập các tin xấu như ngày 14-3 Tổng
Thống Thiệu ra lệnh di tản khỏi Ban Mê Thuật và toàn địa bàn Tây Nguyên
để về giữ miền duyên hải Trung Phần, 19-3 Quảng Trị thất thủ, chiều 19-3
tướng Ngô Quang Trưởng lập phòng tuyến Mỹ Chánh với kế hoặch giữ Huế
bằng mọi giá như ông đã thỏa thuận với Tướng Thiệu, nhưng tới 7:30 tối
khi ông về Đà Nẵng thì nhận được công điện của Tướng Viên “Chỉ giữ Đà
Nẵng mà thôi, đồng thời rút Lữ đoàn 1 Dù về SGN”, 25-3 Tướng Thiệu ra
lệnh bỏ Chu Lai và Huế, trưa 28-3 Đà Nẵng bỏ ngỏ, và qua ngày hôm sau
thì thì lọt vào tay địch, tối thì kéo theo Xuân Lộc bị tấn công hôm 9-4
và thất thủ sau 11 ngày oanh liệt chống cự, 20-4 bỏ Long Khánh rút về
Biên Hòa lập phòng tuyến mới.
Trong thời gian này tôi vẫn tới trường dậy học mà tâm trí thì không còn
tập trung được như trước nữa. Biết là chuyện xấu nhất sắp xẩy đến nhưng
chẳng biết làm gì, cứ tới trường, ngồi nói chuyện thời sự với những ai
có mặt ở văn phòng trước khi tới giờ dậy. Tôi còn nhớ một chiều khoảng
tháng 3 khi tôi đang lững thững xách cặp đi ở hành lang sang Khoa Nha
dạy thì gặp một bạn cũ từ thời ở Đại Học Xá Minh Mạng từ sân đi lên.
Nguyễn Ôn Thảnh là dược sĩ khi đó đang làm việc ở Bệnh Viện Da Liễu
đường Bà Huyện Thanh Quan. Thảnh hỏi tôi đang đi đâu đó và khi nghe tôi
trả lời thì Thảnh cười và nói, “Giờ này người ta đang đôn đáo tìm đường
chạy mà ông vẫn bình chân như vại à?” Tôi thực sự ngỡ ngàng vì chưa bao
giờ tôi nghĩ tới chuyện này.
Vả lại, tin đồn Miền Nam sẽ trung lập hình như từ Phan Thiết trở vào hầu
như ai cũng nói tới và với tính cầu an, tôi thấy như vậy cũng được rồi.
Tôi còn được ông anh của anh Trung là thiếu tá tình báo trấn an “Trung
lập đến nơi rồi, việc gì mà lo.” Ông này cho biết những ngày cuối cùng
hàng ngày báo cáo tình hình cho Tướng Dương Văn Minh và đêm 29-4 nằm núp
đạn pháo kích trong Tổng Tham Mưu để hôm sau ngơ ngáo trở về nhà. Ông
bị đưa ra Bắc học tập cải tạo nhiều năm và khi bị ung thư gần chết mới
được thả về. Mấy tháng sau ông qua đời, lúc tôi được báo cho biết, tới
nơi cầm tay ông còn ấm.
Tại Khu Sinh Ngữ tôi thấy ai đại khái cũng như tôi, khi vào làm việc vẫn
làm như bình thường, nếu có lo âu hay có tính toán gì đó thì cũng chẳng
có ai nói ra. Evans, giảng viên người Mỹ độc nhất vẫn còn dậy giờ hàng
tuần vẫn ghé qua văn phòng khi có giờ dậy. Evans khá thân với tôi và
Lâm. Tôi không biết Evans làm cho cơ quan nào của Mỹ, nhưng anh rất
thích tìm hiểu và la cà tới các nơi ở Saigon. Anh kể cho tôi nghe về một
bà đồng ở Xóm Chùa bên Gia Định. Anh ta nói tiếng Anh và tiếng Pháp của
bà đồng này chỉ vừa đủ để trao đổi thông thường, nhưng khi đồng nhập
thì bà ta là một người khác. Đặc biệt có một ông hoàng thân triều Nguyễn
thường nhập vào bà, khi đó bà không nói giọng Nam nữa mà lại đặc Huế.
Evans kể có lần hồn nhập là một một kỹ sư từng du học Paris, lúc đó bà
đồng nói tiếng Pháp “đúng giọng Sorbonne.” Cái đền của bà này phải đi
vào một hẻm nhỏ ở đường Trần Quang Khải, qua môt con lạch rồi mới tới.
Một chiều gần cuối Tháng 3, anh vào hỏi tôi có rảnh thì đi cùng anh tới
kiếm bà đồng này để hỏi một chuyện. Tôi đi theo anh nhưng rất tiếc khi
tới nơi thì cửa đóng then cài, nên tôi không được coi bà đồng đó trổ tài
và chuyện anh ta muốn hỏi bà đồng là chuyện gì. Mấy tuần lễ sau đó, anh
lại vào văn phòng ngồi nói chuyện với tôi và hỏi tôi nghĩ sao về tình
hình Việt nam. Lúc đó tôi thấy tình hình coi như đã tuyệt vọng và nói
với anh, “Thôi thì cái gì phải kết thúc thì cứ để cho nó kết thúc. Tuy
chúng tôi là kẻ bị hy sinh, nhưng xét cho cùng thì ít nhất đất nước tôi
cũng không còn chiến tranh nữa.” Anh yên lặng một lúc, rồi ngập ngừng
mãi mới nói, “Tôi rất tiếc về chuyện này. Thế anh có dự định gì không?”
Tôi nói chẳng biết tính toán gì cả, cứ để tới đâu hay tới đó. Lúc đó
không hiểu sao tôi lại tếu, hỏi đùa anh, “Này Evans, anh không nghe tin
VC về tới phi trường Biên Hòa rồi hay sao?” Anh hoảng hốt đứng lên hỏi
có thật không, tôi vội vàng xin lỗi anh. Anh nán lại nói chuyện thêm với
tôi một lúc nữa rồi mới bắt tay tôi thật chặt từ giã. Đó là lần cuối
tôi gặp anh.
Sau khi qua được bên này, gặp một người quen cho biết Evans là CIA và
căn nhà của anh thuê ở gần ngã ba Pasteur-Huỳnh Tịnh Của mấy ngày cuối
Tháng 4 đầy người tới đợi để được bốc đi. Tôi không rõ đấy có phải là
một địa điểm tập trung để di tản hay không, vì người này còn nói có
người trong số đó trả ba ngàn Mỹ Kim cho Evans. Khi kẹt lại, tôi cứ tiếc
tại sao chiều hôm đó không hỏi đại Evans có thể giúp gì cho tôi được
không.
Giữa Tháng 4 thì tình hình đã bi đát lắm rồi. Tin nhân viên sở Mỹ hay
ngân hàng Mỹ đã được lập danh sách cho di tản cùng gia đình làm ai cũng
nao núng thêm. Tôi ngày nào cũng tới tới Hội Việt Mỹ để thăm dò xem có
được cho di tản như những nhân viên thực thụ ở đây hay không. Nhân viên
dậy giờ như chúng tôi cũng được lập danh sách cho di tản, nhưng một hôm
có một nhân viên CIA cao cấp là Richardson tới gặp chúng tôi tại hội
trường và nói thẳng rằng vì tình hình biến chuyển rất nhanh và số giáo
sư dậy giờ quá đông nên chỉ có thể bảo đảm lo ưu tiên những nhân viên
chính ngạch của Hội, còn chúng tôi thì tùy hoàn cảnh và điều kiện
chophép. Tôi cũng đem hồ sơ được học bổng Colombo Plan và bằng tốt
nghiệp Đại Học Sydney năm 1970 tớiTòa Đại Sứ Úc ở đường Phùng Khắc Khoan
để cầu may xem sao, thì tại đây chỉ thấy một người hình như là nhân
viên bảo vệ ra mở cổng và cho biết tòa đại sứ đã đóng cửa.
Hôm 28-4 tôi còn nhớ nhằm ngày Thứ hai khi tôi từ Hội Việt Mỹ về nhà vào
buổi trưa thì nhận được điện tín của anh tôi ở Canada bảo tôi liên lạc
ngay tới tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ – mà sau này mới biết đã nhờ được một người
bạn làm việc cho Bộ Quốc Phòng Mỹ bảo lãnh gia đình tôi. Điện tín đó
tới từ Thứ Bẩy, nhưng đến trưa Thứ Hai mới được giao cho chúng tôi. Ăn
cơm trưa xong thì trời chợt mưa quá lớn và dòng dã hai tiếng đồng hố.
Lúc tôi tới Tòa Tổng Lãnh Sự thì được hai Marines trẻ măng ra mở cửa. Họ
mở cổng cho tôi vào phía trong và bảo tôi đứng đợi ở vọng gác rồi một
người cầm điện tín của tôi đi vào văn phòng phía trong. Một lúc sau anh
ta đi ra và nói đã coi danh sách gia đình tôi đủ bốn người và hỏi họ
đâu. Tôi nói đang đợi ở nhà và sẽ về đón lại ngay. Anh ta bảo bây giờ đã
5 giờ chiều rồi, sao không về thu xếp rồi sáng sớm hôm sau vào sớm cũng
được. Tôi lúc đó mừng muốn ngạt thở, thấy có lý bèn cám ơn rồi leo lên
Honda vội chạy về nhà báo tin.
Khi còn đang trên đường về thì viên trung úy phi công nằm vùng thuộc
không lực VNCH cướp phản lực cơ Ạ5 từ Phan Rang bay vào thả bom Phi
trường Tân Sơn Nhứt, và lệnh thiết quân luật được loan báo. Đêm hôm đó
và đêm hôm sau Phi trường bị pháo kích dữ dội. Sáng hôm sau tôi không
còn nghĩ tới chuyện đưa vợ con tới Toà TLS Mỹ nữa và nằm riết ở nhà. Đêm
29, từ lầu 1 chung cư Nguyễn Thiện Thuật tôi nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt
thấy máy bay lên xuống nườm nượp mà chảy nước mắt. Qua hôm 30 gần trưa
thì nghe tin TT Dương Văn Minh ra lệnh buông súng. Thế là thực sự hết.
Khu chung cư bỗng như ồn ào hơn. Nhin ra ngoài, thấy nhà nào có quần áo
lính là đem ra liệng đầy đường. Tình trạng hoảng loạn thật dễ lây. Tôi
có mấy bộ đồ lính cũ từ thời đi học 9 tuần ở Quang Trung cũng vội ném
đi, thậm chí cả giấy chứng nhận dạy học Hội Việt Mỹ cấp cũng đem đốt.
Rồi những người lính giải ngũ có gia đình ở khu tôi cũng lần lượt trở
về, có người chỉ mặc áo thun và quần đùi. Có người dúi cho vợ con một
cọc tiền rồi bỏ đi biệt tích.
Xế chiều, tôi lấy Honda chở con trai tôi tới nhà bố mẹ vợ để hỏi thăm
tình hình. Khi chạy tới đường Cống Quỳnh thì chứng kiến một cảnh rùng
rợn mà tôi phải bảo con trai tôi, lúc đó mới lên 10, quay mặt đi đừng
nhìn. Ở bên này đường đối diện với trường Hưng Đạo, có hai thanh niên
mặt trông dữ dằn như dân du đãng, tay đeo băng đỏ, một người cầm khẩu
AR16 có lẽ nhặt được của một người lính giã ngũ nào vứt bỏ, người kia
cầm một cái gậy. Ngay khi đó có một thanh niên khác từ trong hẻm đi ra,
người này mặc thường phục, nhưng tóc ngắn và da đen đủi, nhìn biết ngay
là dân nhà binh. Chắc là quen biết nên khi thấy hai thanh niên kia,
người này hỏi, "Ê bồ, mạnh giỏi chớ?" Thanh niên cầm súng không lộ vẻ gì
vui khi thấy người quen, mà hầm hầm quát, "Đồ lính Dù ác ôn, ai là bồ
với mày?" Vừa nói, tay quay ngược báng súng giộng vào thái dương người
đó hai cú thiệt mạnh. Nạn nhân ngã ngửa xuống nắp cống, hai chân giẫy
như con cá mắc cạn. Bố con tôi và những người ở quanh đó mặt ai cúng tái
đi. Tôi bảo con tôi quay nhìn hướng khác và vội vã phóng xe đi, không
biết nạn nhân sống chết ra sao.
Khi tới nhà ông bà cụ nhà tôi, chưa kịp kể lại thì bà chị nhà tôi đã nói
là trước đó ít phút có ba người đeo băng đỏ đi cùng với một công an tới
kiếm ông anh cả bà xã tôi. Anh ấy là quản đốc các đại học xá ở Saigon,
có nhà trong Đại Học Xá Minh Mạng, khu nhân viên. Anh đã cùng cảnh sát
trưởng Quận 5 bố ráp Đaị Hóc Xá Minh Mạng, Chợ Lớn, bắt các phần tử thân
cộng trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm. Sau lần đó, nhà anh thường xuyên bị ném
đá vào ban đêm, và may mắn gia đình anh đã được bốc đi vào phút chót,
nếu không chẳng biết số mạng sẽ ra sao vì thuộc "thành phần ác ôn, có nợ
máu với nhân dân."
Sáng 1-5 tôi vào lại Khu Sinh Ngữ. Cổng trường có bộ đội mặt còn non
choẹt đứng gác. Qua văn phòng, thấy các nhân viên cũ vẫn còn đông, lác
đác mấy cán bộ. Khu Sinh Ngữ chỉ chưa thấy Lâm, ai nấy mặt đều lo buồn.
Khu Phẫu Thuật Thực Hành còn nguyên “quân số.” Khu Sinh Lý cả bác sĩ
giáo sư trưởng khu và Quang đều không thấy xuất hiện. Phó Khoa trưởng
Đào Hữu Anh cũng vậy.
Sau ít ngày tôi đến thăm ông cụ Quang và được cho biết những ngày cuối
Quang cũng đôn đáo và kiếm được một mối do một ông tướng nào đó tổ chức
mua tầu nằm trực ở Long Hải. Nhưng Quang tình cớ gặp GS. Đào Hữu Anh và
được ông cho biết ai có con sanh ở Mỹ có thể tới Toà Đại Sứ Mỹ cùng với
khai sanh của con thì sẽ được cho di tản. Cả ông Anh và và Quang trong
thời gian tu nghiệp ở Mỹ đều có sanh con tại đó. Ít lâu sau Sếp mới của
tôi là Mỹ Điền hỏi tôi có phải ông Anh “ác ôn” lắm phải không. Tôi ngạc
nhiên nói không biết và hỏi tại sao. Mỹ Điền nói hôm an ninh kiểm tra
văn phòng thấy trong tủ sắt của ông Anh một khẩu AK 47. Tôi nói ông Anh
đâu phải dân nhà binh. Có lẽ một học trò cũ nào đó là bác sĩ quân y tại
một đơn vị tác chiến, được lính cho khẩu súng đó như một chiến lợi phẩm,
đã mang về biếu thầy cũ thôi. Mỹ Điền không nói gì, chỉ gật gù, chẳng
biết có tin hay không.
Người tiếp quản khu tôi là Nguyễn Mỹ Điền, người Nam, đã từng đi Pháp và
Anh, sau năm 1954 đã về Bắc “giúp Cụ Hồ.” Ngoài ra, còn có Nguyễn Văn
Niêm, cán bộ giảng Nga văn, làm giáo vụ bộ môn. Khu Sinh Ngữ được đổi
tên thành Bộ Môn Ngoại Ngữ. Anh văn thì có chị Bích Ngọc, tốt nghiệp
ĐHSP Hà nội, chồng là bác sĩ vào tiếp quản Bệnh Viện Da Liễu. Chị Ngọc
nói chồng chị học PCB cùng thời với GS. Đào Hữu Anh. Gia đình chị không
di cư, và là dân Hà Nội cũ nên rất dễ chịu, chúng tôi có liên hệ tốt với
chi Ngọc. Chị Ngọc yêu cầu chỉ dậy các lớp Anh văn gồm bộ đội và sinh
viên từ Bắc vào.
Trước 4-75, Đại học Y Khoa, Nha Khoa và Dược Khoa là ba trường riêng
biệt. Dược Khoa ở gần trung tâm Saigon, còn Y Khoa và Nha Khoa thì nằm
chung trong một campus ở phía đầu đường Hùng Vương Chợ Lớn, và chúng tôi
phụ trách giảng dậy Anh Pháp văn Y Khoa cho sinh viên cả hai trường.
Dược Khoa thì chỉ ký hợp đồng dậy giờ với hai giáo sư Anh Văn. Sau
30-4-75, ba trường gom làm một và gọi là Đại Học Nha Y Dược.
Một hôm Mỹ Điền bảo Quảng và tôi cùng qua trường Dược để xem hai giáo sư
đó “đứng lớp” có đủ tiêu chuẩn để được đề nghị đưa vào “biên chế” hay
không. Một vị là Hồ Liên Biện, một thời là giám đốc Nha Du Học và thời
gian ngay trước 4-75 đó là giám đốc Nha Học Liệu, thường xuất hiện trên
TV với chương trình Đố Vui Để Học. Khi chúng tôi bị gọi động viên đi học
chín tuần ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, đêm ở trại nhập ngũ, viên
trung sĩ điểm danh các khóa sinh, đã cố tình đọc tên Hồ Liên Biện thành
Ho Liên Miên để mọi người được trận cười thỏa thích. Vị kia là Lê Anh
Dũng, bạn dạy ở Hội Việt Mỹ với tôi. Sau khi coi hai giáo sư dạy xong,
Mỹ Điền nói với tôi và Quảng rằng ông Dũng thì không có vấn đề gì, nhưng
ông Biện sao nói tiếng Anh “cứ lua lua thế nào ấy.” Quảng không nói gì,
còn tôi không hiểu rõ lắm 'nói lua lua' là làm sao, nhưng vẫn nói với
Mỹ Điền rằng bây giờ có dạy sinh viên tiếng Anh để nói chuyện với Mỹ
đâu, chỉ cần người có khả năng dạy các em đọc và hiểu Anh văn Y khoa là
được rồi, mà chuyện này thì ông Biện có thừa khả năng. Từ đó về sau,
Biện và Dũng hàng ngày tới Bộ Môn làm việc như chúng tôi, khi có giờ dậy
mới trở qua Trường Dược.
Người tiếp thu Trường Y Khoa là Bs. Ngô Như Hòa, môt bác sĩ nhãn khoa.
Nghe kể ông Hòa nguyên là một y sĩ đại úy quân đội Pháp. Trong một trận
đánh ông bị bắt làm tù binh và đã theo Việt Minh. Ông là người gốc Nam
vì khi vào Saigon ông đã xin được cấp ngôi biệt thự của một kỹ sư bà con
người Nam khá nổi tiếng đã đi thoát. Vợ ông là một phụ nữ gốc thiểu số ở
thượng du Bắc Việt mà gia đình đã di cư vào Nam, có cô em dậy Pháp văn ở
trường Cao Đẳng Phú Thọ. Qua ông Hòa, tôi được nghe câu “Xin báo cáo
đồng chí . . .” lần đầu tiên khi ông hướng dẫn một phái đoàn Bộ Y Tế tới
thăm trường và ghé qua bộ môn. Ông Hòa có một người con trai là Ngô Như
Bình. Ở Hà nội, Bình tới học toán tại nhà một ông cậu họ vợ tôi. Lúc
Bình vào Saigon chơi, cậu tôi giới thiệu Bình với vợ chồng tôi. Vì ba
Bình gốc lính Tây nên Bình phải tình nguyện đi thanh niên xung phong qua
Lào một thời gian, lúc trở về mới thi vào được đại học và sau đó được
qua Nga học Đại học Romanov ở Mascova chuyên về Việt học. Chính ông Ngô
Như Hòa cũng phải xung phong đi B – vào tác chiến tại miền Nam – mới
giúp ông và con được tin cậy và hưởng ân huệ.
Bình tới nhà tôi cầm theo một thư của cậu vợ tôi gửi vào. Chúng tôi nói
chuyện rất hợp vì toàn chuyện bóng đá và thịt chó là hai món 'sở trường'
của chúng tôi. Tôi còn đưa Bình và hai con tôi lúc đó mới 10 và 8 tuổi
đi ăn thịt chó ở quán trên đường Lý Thái Tổ gần Phở Tầu Bay. Sau tôi đưa
Bình tới bộ môn và Bình cũng dễ dàng làm quen với Quảng, chị Hiếu và
chị giảng viên Pháp văn mà tôi đã quên tên. Chúng tôi đã hơn một lần rủ
nhau đi nhậu tại một vài quán nhỏ nhưng nồi tiếng đồ ăn ngon, đặc biệt
là một quán chuyên bán cá hấp trên bờ kênh trong Chợ Lớn. Bình còn đưa
tôi lại nhà chơi và nói “bác Nhẫn đi thoát và mọi thứ trong nhà còn
nguyên vẹn. Đặc biệt hầm rượu đầy ắp rượu tây rượu tầu.” Bình mời tôi
uống một ly Mao Đài và cho tôi một bầu rượu Cao Lương.
Bình hỏi tôi có biết Quan Vân Trường bị trúng tên độc được Hoa Đà chữa.
Khi Hoa Đà rút mũi tên ra và nạo vét chỗ thịt bị nhiễm độc thì Vân
Trường mặt không đổi sắc, ung dung ngồi tu rượu Cao Lương và sau đó dùng
rượu đổ vào rửa vết thương trước khi băng bó. Một hôm tôi và Bình đang
ngồi chuyện trò ở nhà Bình thì ông Hòa về. Chắc Bình đã nói với bố về
chuyện cậu vợ tôi là thầy của Bình nên ông nói chuyện với tôi rất tự
nhiên cởi mở, và ông bảo tôi nên nhớ câu nói tiếng Pháp này, “ Les
communistes se haissent.” Tôi hiểu ý ông muốn nói là ở trường đừng bao
giờ cho người khác biết, nhất là các cán bộ, là tôi quen với gia đình
ông. Điều này tôi được thấy rõ nhất qua các cán bộ mới về dạy Nga Văn và
trong các buổi họp bộ môn bình bầu tiên tiến sau này.
Trong một lần nói chuyện, Bình nói rõ ràng miền Nam giầu có hơn miền Bắc
và như vậy thì giải quyết cách nào tốt nhất. Tôi nói thì cứ để miền Nam
tiếp tục phát triển kinh tế vì đã có đà và cơ sở hạ tầng khá tốt. Bình
đồng ý và nói rất sợ “chính sách cào bằng” lại được áp dụng. Và điều
đáng sợ này đã xẩy ra với các đợt đánh tư sản và đổi tiền rồi vơ vét,
dân chúng đói khổ, thậm chí đến độ mấy năm sau 'cái cột đèn mà có chân
cũngphải vượt biên.' Ở Saigon gần một tháng Bình về lại Hà nội rồi sau
đó đi Nga. Bình lấy vợ Nga và sau khi tốt nghiệp đã ở lại. Bình được qua
học thêm tại Standford và làm phụ giảng môn Việt học. Trước khi trở về
Nga, Bình đã nạp đơn xin qua dạy Harvard và sau đó đã được chấp thuận .
Năm ngoái, đọc đâu dó trên Internet, thấy Bình là trưởng ban Việt Học
Đại Học Harvard.
Sau ngày giã đám, liên hệ giữa các nhân viên trong trường bỗng trở nên mật thiết hơn, vì cùng phận 'hàng thần lơ láo,' và không còn làm tư ở ngoài nữa nên đều tụ về trường, nhất là sau đó tất cả nhân viên giảng huấn đại học ở Saigon phải theo học khóa Chính trị Kinh tế Mác-Lênin kéo dài sáu tháng. Bình thường trường nào học tại trường đó, khi có cán bộ từ Bắc vào 'lên lớp' thì tụ tập tại hội trường Thống Nhất. Sau đó chúng tôi trường mình rồi chia ra thành nhiều tổ thảo luận đề tài mới được nghe trình bầy. Qua Bs. Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành, tôi quen thêm được nhiều bác sĩ trẻ khác cùng khóa với Trung hoặc trên một hai lớp, như Bs. Kiệt ở Khu Vi Sinh, Bs. Ngà ở Khu Bệnh Lý. Một dược sĩ có chồng là bác sĩ cùng làm việc ở Khu Vi Sinh còn kêu bọn tôi lại nhà ăn sôi sắn hành phi ngon đặc biệt.
Sau ngày giã đám, liên hệ giữa các nhân viên trong trường bỗng trở nên mật thiết hơn, vì cùng phận 'hàng thần lơ láo,' và không còn làm tư ở ngoài nữa nên đều tụ về trường, nhất là sau đó tất cả nhân viên giảng huấn đại học ở Saigon phải theo học khóa Chính trị Kinh tế Mác-Lênin kéo dài sáu tháng. Bình thường trường nào học tại trường đó, khi có cán bộ từ Bắc vào 'lên lớp' thì tụ tập tại hội trường Thống Nhất. Sau đó chúng tôi trường mình rồi chia ra thành nhiều tổ thảo luận đề tài mới được nghe trình bầy. Qua Bs. Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành, tôi quen thêm được nhiều bác sĩ trẻ khác cùng khóa với Trung hoặc trên một hai lớp, như Bs. Kiệt ở Khu Vi Sinh, Bs. Ngà ở Khu Bệnh Lý. Một dược sĩ có chồng là bác sĩ cùng làm việc ở Khu Vi Sinh còn kêu bọn tôi lại nhà ăn sôi sắn hành phi ngon đặc biệt.
Học tập chính trị thì ngoài chúng tôi, các cán bộ giảng viên trong
trường cũng phải theo học luôn, và cuối khóa đều phải viết bài thu hoạch
để đánh giá. Một hôm sau buổi thảo luận tổ, khi tôi cùng Trung và Kiệt
đang đi về phía câu lạc bộ để kiếm nước uống thì GS. Nguyễn Ngọc Huy
chặn lại hỏi, “Này mấy cậu, ông Nguyễn Đan Quế có phải là Cộng sản không
mà ông nói về Marxisme ghê thế?” Ba chúng tôi có bạn là vợ chồng Nguyễn
Quang Trù, giáo sư Việt văn, có trại ở Tân Quy Đông, gần Nhà Bè. Khi
nghe bọn tôi kể lại chuyện ông Quế, Trù cười và nói tốt lắm. Sau chúng
tôi mới biết là Trù và ông Quế ở cùng trong nhóm Phục Quốc và cùng bị
bắt.
Sau 30-4, công việc của bọn tôi tại trường nhàn hơn trước rất nhiều. Vì
không còn dành thì giờ dây tư nên chúng tôi có mặt ở trường suốt ngày,
buổi trưa cũng không về nhà ăn cơm như trước mà xuống ăn ở cafeteria của
ma soeur. Thời gian đầu lương thực còn nên bữa cơm vẫn chất lượng như
cũ, vừa ngon vừa bổ vừa rẻ.
Điều làm chúng tôi ngạc nhiên nhất là những cán bộ và bác sĩ ngoài Bắc
vào, khi ăn cơm đều lấy ra một gói nhỏ bột ngọt, xúc một thìa đổ vào
canh hay nước lèo hủ tiếu. Họ nói cái này bổ óc, coi như thần dược. Họ
còn cho biết ở ngoài Bắc nước mắm rất hiếm và mắc, nước chấm rau thường
chỉ là nước lã và muối, nếu khấm khá hơn thì nguấy thêm một chút bột
ngọt.
Sau bao thập niên xa cách, cuối cùng bốn người gặp lại tại California
Các buổi lễ lạc ăn mừng chiến thắng được tổ chức nhiều hơn. Đa số chúng tôi chỉ giữ một thái độ vừa đủ, vả lại phải hát quốc ca và hô khẩu hiệu hoan hô chế độ và những người mới trước đó là thù địch thì thấy ngượng miệng vô cùng, nên chỉ nhép miệng theo. Tuy nhiên, cũng có một vài người tỏ ra rất nhiệt thành, “hồ hởi”, mà chẳng biết thực sự trong lòng họ ra sao. Chúng tôi đã liếc mắt nhìn nhau khi một cô thư ký trẻ lên hát bài “Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người” trong một buổi lễ. Cô này đã say sưa trình bầy, đám cán bộ ngồi hàng đầu vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Nhưng tới một mục sau thì “đám Ngụy” được dịp cười thích thú và nhớ mãi khi một nhân viên văn phòng lên đọc một bài thơ tự sáng tác chào mừng cách mạng thành công, trong đó có mấy câu tố cáo “tội ác Mỹ Ngụy”.
Các buổi lễ lạc ăn mừng chiến thắng được tổ chức nhiều hơn. Đa số chúng tôi chỉ giữ một thái độ vừa đủ, vả lại phải hát quốc ca và hô khẩu hiệu hoan hô chế độ và những người mới trước đó là thù địch thì thấy ngượng miệng vô cùng, nên chỉ nhép miệng theo. Tuy nhiên, cũng có một vài người tỏ ra rất nhiệt thành, “hồ hởi”, mà chẳng biết thực sự trong lòng họ ra sao. Chúng tôi đã liếc mắt nhìn nhau khi một cô thư ký trẻ lên hát bài “Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người” trong một buổi lễ. Cô này đã say sưa trình bầy, đám cán bộ ngồi hàng đầu vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Nhưng tới một mục sau thì “đám Ngụy” được dịp cười thích thú và nhớ mãi khi một nhân viên văn phòng lên đọc một bài thơ tự sáng tác chào mừng cách mạng thành công, trong đó có mấy câu tố cáo “tội ác Mỹ Ngụy”.
Khi đọc tới đoạn tố Mỹ, không biết chữ trong thơ là gì nhưng ông đọc
“Loài quỷ Đỏ...” khiến cả hội trường thoạt tiên không tin ở tai mình,
nhưng ngay sau vỗ tay rầm rầm. Đám cán bộ không biết có nghe rõ không,
chỉ lộ vẻ ngạc nhiên không biết tại sao, riêng tác giả thì mặt tái xanh,
miệng còn tròn vo khi đọc chữ “đỏ” mãi không ngậm lại được. Về sau được
biết câu thơ của ông bắt đầu là “Loài quỷ dữ...” nhưng vì – theo cách
chúng tôi giải thích – đã bị Mỹ Ngụy thâm độc nhồi sọ quá dữ nên khi đọc
tới quỷ thì tự động phải là Quỷ Đỏ. Một chuyện tương tự cũng đã xẩy ra
với một người bạn của tôi dậy Toán ở Trung học Sương Nguyệt Anh. Khi
đứng ra điều khiển lễ cháo cờ sáng Thứ Hai ở sân trường, anh hướng dẫn
học sinh qua micro: “Chuẩn bị cháo quốc kỳ. Quốc ca: Này công dân ơi...”
Vì chuyện này mà anh đã bị khốn đốn một thời gian.
Con số sinh viên tích cực tham gia các sinh hoạt ngoại khóa để phấn đấu
vào đoàn tôi nghĩ không nhiều lắm, tuy tất cả các sinh viên ngoài việc
học đều phải tham gia các hoạt động khác do các đoàn viên CS nòng cốt
điều khiển trong các tổ. Có người tôi biết còn tỏ ra tích cực tối đa,
như một cô em họ xa của tôi trong khi họp tổ thảo luận về đánh tư sản đã
tố cha mẹ mình là gian thương và cho vay nặng lãi. Cô này về sau vào
được đoàn rất sớm và lấy một đoàn viên nòng cốt khác. Thái độ và tính
tình của một số sinh viên cũng thay đổi rất nhiều. Một nữ sinh viên của
tôi trước 75 học hành và sắc đẹp bình thường, nhưng sau này thì rất nổi
trong hoạt động đoàn. Là đoàn viên rất sớm, cô tạo nhiều sức ép trên các
sinh viên khác, đặc biệt là cô o ép bắt bẻ ra mặt cô sinh viên em họ
bạn tôi, xinh đẹp con nhà giầu, bố là chủ một tiệm giầy ở đường Pasteur
gần góc Lê Thánh Tôn.
Điều làm tôi nghĩ ngợi nhất là thái độ của cô. Trước cô rất vui vẻ lễ
phép, nhưng bây giờ thì nghiêm lạnh, nụ cười thường thấy trước đây nay
biến mất hẳn trên môi cô. Những khi ngang qua tôi, cô ta nhìn thẳng như
không trông thấy. Nhưng một hôm vào ngày Lễ Hiến Chương Nhà Giáo, hình
như 20-11, khi tình cờ thấy tôi ở hành lang, từ xa cô này đã đổi nét
mặt, tươi cười hớn hở và khi tới gần đã cầm lấy tay tôi nói, “Thầy ơi,
em thấy xúc động vô cùng khi nghĩ tới công ơn các thầy đối với chúng
em.” Tôi thì không xúc động như cô, nhất là chỉ qua ngày hôm sau khi đi
ngang qua tôi ở trước thư viện, cô mặt nghiêm, mắt nhìn thẳng, làm như
không biết tôi là ai.
Còn về phía nhân viên, tôi chỉ được nghe kể một chuyện ở Khu Vi Sinh.
Trong một buổi bộ môn, chị dược sĩ mà tôi đã nói ở trên đã tố Giáo sư
cựu khoa trưởng kiêm trưởng khu khá nặng, ông chồng bác sĩ ngồi gần đó
gục xuống ôm đầu, rên lên, “Trời ơi!” Tôi nghĩ chị dược sĩ này chỉ muốn
chứng tỏ mình đã “tiến bộ, nắm bắt được tinh thần làm chủ tập thể, thành
khẩn thể hiện qua quá trình phê và tự phê, ” chứ không có ý muốn hại
ông thầy.
Vì có nhiều lễ được tổ chức tại trường để chào mừng cái nọ cái kia, các
hội nghị chuyên đề trong đó các bác sĩ và dược sĩ đọc các bài tham luận
liên quan tới y và dược, và nhất là khóa học tập Kinh tế Chính trị
Mác-Lênin kéo dài sáu tháng với những buổi thảo luận tổ, giữa chúng tôi
càng gần gũi thêm với các bác sĩ dược sĩ khác trong trường. Nhiều người
còn nói riễu với chúng tôi về đám cán bộ và công an bảo vệ. Một buổi
sáng sớm khi đi qua sân trường thì tôi gặp Bs.Kính chuyên về nhãn khoa.
Ông đi sát vào tôi và nói, “Học hết khóa Chính trị Kinh tế Mác-Lênin,
tôi chỉ thấy có một câu không sai. Cậu hãy nhìn kia kìa.” Theo ánh mắt
của ông, tôi nhìn về phía tầng cấp lên hành lang vào thư viện thì thấy
có hai ghế dài kê chéo hai đầu hướng vào nhau, bên trên ngồi kín các cán
bộ và công an bảo vệ mặc áo vàng, và tất cả đều ngồi xổm. Ông nheo mắt
cười và nói, “Dấu vết còn sót lại của quá trình Vượn Người lên Người
Vượn.”
Trong một buổi lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo thay phiên
nhau lên ca ngợi lãnh tụ đa tài, cả thơ văn của Bác cũng là nhất. BS.
Nguyễn Đình Cát, giáo sư nhãn khoa nổi tiếng nhất thời đó, đứng lên phát
biểu cảm tưởng rồi kết luận, “Về mặt y khoa, chỉ cần gom những kiến
thức y học mà Bác viết rải rác trong các tác phẩm của mình đem ra dạy
cho các sinh viên thì cũng không biết bao giờ mới hết.” Cả hội trường vỗ
tay rần rần, mà đám Ngụy còn vỗ mạnh hơn đám cán bộ vì chẳng biết ông
có đọc tác phẩm nào của ông Hồ không, mà nếu có đọc thì đâu tìm ra được
các kiến thức y học để đem ra dạy cho các sinh viên. Mặt ông thật tỉnh
và rất nghiêm túc, nhưng tôi vẫn cảm thấy cái thâm trong giọng Huế của
ông bác sĩ này.
Những hội nghị báo cáo chuyên đề thường được tổ chức trọng thể với sự
hiện diện của các giới chức Bộ Y Tế và ban lãnh đạo nhà trường. Các bài
tham luận của các bác sĩ và dược sĩ được đánh giá cao. Có một chuyện tôi
được nghe nhưng không rõ thực hư ra sao, cũng xin ghi lại ở đây. Một nữ
dược sĩ mà tôi không nhớ tên thuộc Khu Sinh lý đã đọc một bài nghiên
cứu rất công phu về củ nghệ và công dụng của nó trong y học, chủ yếu là
đặc tính sát trùng. Khoảng hơn một năm sau tôi được nghe mấy bác sĩ
trong trường kháo nhau là hầu như toàn bộ bài này đã được đăng trong một
tạp chí y học ở Nga mà tác giả là một Viện Sĩ Nga, và kết luận rằng
gián điệp ngoại quốc hoạt động trong mọi lãnh vực, chẳng riêng gì quân
sự hay chính trị.
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa được mời lên phát biểu kết thúc hội nghị. Lúc đó
Chính Phủ Lâm Thời Giải Phóng Miền Nam thực tế không còn nữa, nhưng bà
Hoa được mời lên nói như vẫn là Bộ trưởng Y Tế. Bà đánh giá cao các bài
tham luận với giá trị cao về mặt khảo cứu và ngợi khen các bác sĩ dược
sĩ cán bộ giảng thuộc chế độ cũ đã tích cực công tác và đóng góp giúp
hội thành công. Bà kết thúc phần phát biểu với câu nói mà đến nay tôi
vẫn còn nhớ nét mặt bà lúc đó, “Trong tim tôi luôn luôn có một Thủ đô Hà
Nội và một Thủ đô Saigon.” Đám Ngụy chúng tôi sửng sốt nhìn nhau, và đã
vỗ tay to vỗ lâu hơn cả Cách mạng!
Trong số cán bộ chúng tôi kỵ nhất là đám bảo vệ. Họ đều là công an thuộc
thành phần bần cố nông, được huấn luyện ở trường công an. Đặc điểm là
hầu như không bao giờ chúng tôi thấy nét mặt họ thoải mái, nói chi tới
tươi cười. Nhìn ai thi như thể người ấy là thành phần khả nghi. Ngay cả
đám bô đội cũng không ưa gì mấy anh công an này. Một hôm tôi nghe một
anh công an tuổi ngoài 20 vai đeo AK nói chuyện với ông gác gian ở vọng
gác tại cổng trường. Ông gác gian này là dân Bắc di cư, người lúc nào
cũng đầy mùi rượu. Khi được trả lời là ông đã làm việc ở Trường Y này
gần hai chục năm rồi, anh công an ngạc nhiên nói làm lâu thế này mà chưa
được bố trí đi học y khoa để thành bác sĩ hay sao! Lần khác, khi thấy
một bộ đội chạy xe gắn máy vào cổng chính thay vì phải qua công phụ như
quy lệ thì đã quát chặn lại. Lúc anh bộ đội cự nự không chịu quay qua
cửa phụ, anh công an mặt lạnh như tiền gỡ khẩu AK trên vai xuống, lên
đạn xoành xoạch. Anh bộ đội đành phải làm theo lệnh.
Đám công an mặt vô cảm chỉ biết làm theo lệnh đã khiến cho Đính, giảng
viên Pháp văn, một hôm nói đùa với tôi là bọn này được thụ thai trong
ống nghiệm, một đám Frankenstein, và từ đó chúng tôi gọi họ là đám “ in
vitro.” Tôi còn chứng kiến một trường hợp khác chứng tỏ đám công an chỉ
làm theo lệnh của chỉ huy trực tiếp. Một buổi chiều Thứ bẩy vào phút
chót tôi được một người nhường cho một vé xem đá bóng vòng loại giải vô
địch quốc gia ở sân vận động Cộng Hòa, lúc đó đã đổi tên thành Thống
Nhất. Vé khán đài A vào ở cổng chính, nhưng vì tôi đến trễ nên sau khi
gửi được xe lúc tới được cửa thì cửa vừa đóng vì trận đấu đã bắt đầu.
Tôi đưa vé và yêu cầu nhân viên soát vé giúp. Người này gõ cửa và viên
công an hé cửa nhìn ra, nói giờ này không cho ai vào nữa. Ngay lúc đó có
một cán bộ cao cấp đi tới với cả người hộ vệ nói chuyện với người soát
vé. Người này lập tức đập cửa và tên công an lại hé cửa ngó ra. Khi được
báo đây là đồng chí Khải, chủ tịch Ủy ban Nhân Dân thành phố -- và sau
này là Thủ tướng -- thì tên công an nói đã có lệnh không cho ai vào sau
khi trận đấu đã bắt đầu, rồi đóng xập cửa lại. Ông chủ tịch thành phố
đứng ngó quanh một lúc rồi kéo vệ sĩ của mình ra xe đi về.
Khu Sinh Ngữ sinh hoạt vẫn bình thường, chỉ thiếu Nguyễn Đức Lâm đã đi
thoát. Sau này tôi mới biết trước khi về học Đại Học Sư Phạm, Lâm đã có
thời làm việc cho DAO, văn phòng tùy viên quân sự trực thuộc Bộ Quốc
Phòng Mỹ có trụ sở ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Vào khoảng giữa
Tháng 4-75, Lâm gặp một người trước cùng làm ở DAO cho biết cơ quan này
cấp giấy chứng nhận cho các cựu nhân viên để có thể được đem đi một khi
có lệnh di tản. Lần đầu khi Lâm tới phi trường thì bị quân cảnh loại ra
vì trong hạn tuổi quân dịch không được phép lìa xứ. Qua hôm sau Lâm lại
tới phi trường và may mắn lọt vào được và đi thoát.
Qua Bs. Trung bên |Khu Phẫu Thuật Thực Hành, tôi biết đưọc mấy môn thể
thao và giải trí mà trước 1975 tôi không bao giờ nghĩ tới, phải nói cho
ngay cũng chẳng có thời gian và tiền để theo đuổi. Thoạt tiên là môn
chèo thuyền hai hay ba người và chèo périssoire ở Câu Lạc Bộ Dưới Nước
Thanh Đa. Club này sau 1975 tôi mới biết tên. Bs. Thái Minh Bạch là hội
viên Club này từ lâu, sau 75, ông kéo đệ tử Trung đi cùng, rồi Trung kéo
tôi đi. Tại đây tôi có dịp chèo chung với GS. Phạm Biểu Tâm và ông
Duyên Võ. Có khi ngồi cùng thuyền, có khi chèo song song bên nhau, chung
quanh chỉ có trời mây nước, chúng tôi nói chuyện thoải mái không phải
ngó trước ngó sau. Ông Duyên Võ là chủ tiệm may complet nổi tiếng
Saigon. Ông đã từng được mời vào Dinh Độc Lập may complet cho Tổng Thống
Diệm. Ông rất vui tính, hay kể truyện hài. Có lần ông nói đo quần cho
Tổng thống phải đo rất kỹ, nên biết được những gì người ta đồn về Tổng
thống là xạo. Ông còn kể cho chúng tôi nghe chuyện một ông bạn rất sợ bà
vợ hay ghen. Sáng sáng chỉ mặc maillot và xà lỏn chạy quanh khu phố
đúng nửa tiếng. Vậy mà sau khi ông bị đi học tập, có người bồng con tới
trả cho bà vợ, nói là không còn tiền để lo cho đứa nhỏ.
GS. Tâm thì năm 1973 đã cắt 1/4 dạ dầy cho nhạc phụ tôi bị ung thư và
nói ông cụ sống thêm tối đa là ba năm. Quả nhiên giữa năm 1976 ông cụ
tôi mất. Một hôm khi Thầy Tâm và tôi chèo périssoire tới gần Xi-Măng Hà
Tiên, nhìn lên nhà máy vắng hoe, thầy nói với tôi, “Mình đã không lầm
khi quyết định di cư vào Nam năm 1954.” Một hôm khác khi tôi báo tin cho
thầy biết là Bs. Lê Sĩ Quang sau khi đi thoát qua Mỹ, vừa mới trở thành
giáo sư thực thụ tại một đại học thì bị ung thư dạ dầy và đã qua đời.
Thầy nói, “Tội cho nó quá. Nếu nó còn ở đây, tôi bảo đảm nó còn sống
thêm ít nhất vài năm nữa.” Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là hình ảnh
Thầy Tâm trong một buổi họp ban lãnh đạo và các giảng viên toàn trường
tại cafeteria.
Hôm đó có cả đại diện Bộ Y Tế tới dự và nhà trường thông báo cho ban
giảng huấn về kế hoạch tăng số sinh viên được nhận vào học năm thứ nhất Y
khoa để có thể đào tạo gấp đủ số bác sĩ đưa về phục vụ tại tuyến huyện,
và muốn biết ý kiến của mọi người. Chúng tôi đều biết việc hỏi ý này
chỉ làm lấy lệ, vì tất cả đã được Đảng quyết định trước cả rồi. Thầy Tâm
đã phản đối việc này, cho rằng nhà trường phải đào tạo ra những bác sĩ
đúng nghĩa, không thua kém các bác sĩ đào tạo ở nước ngoài. Nếu cần
nhiều và nhanh như thế thì Trường Y chỉ có thể đào tạo ra các y tá mà
thôi, việc này xin để cho trường đào tạo cán sự y tế! Càng nói giọng
Thầy Tâm càng thống thiết, ông ôm lấy micro như quằn quại và cuối cùng
gục xuống đất. Mấy bác sĩ ngồi gần đó vội chạy lại đỡ ông lên và dỉu lên
ghế ngồi. Buổi họp sau đó đã kết thúc trong bầu không khí tẻ nhạt, ai
lấy yên lặng ra về.
Ngoài chuyện chèo thuyền, tôi còn theo anh Trung học đánh mạt chược.
Giới tú bíp hầu như ai cũng biết chơi mạt chược, vì thời sinh viên phải
trực bệnh viện, buổi tối rảnh chơi mạt chược là nhất. Khi tôi đã biết
chơi khá thạo thì cũng là giai đoạn mà thiên hạ vượt biên rất nhiều, vào
trường tuần nào cũng có người vượt biên. Vì sợ bạn bè một ngày nào đó
sẽ ra đi hết nên tôi nhờ một học trò cũ trường Tầu mua hộ một bộ mạt
chược, về dậy vợ và hai con chơi. Cả nhà tối rảnh ngồi chơi với nhau, và
về sau nhà tôi rất vui vì là địa điểm họp mặt của mấy người bạn thân
cùng mê mạt chược.
Cũng anh Trung đã gián tiếp đưa tôi tới môn tennis. Số là anh có bạn
cùng lớp là Bs. Nguyễn Trọng Nghĩa, Y sĩ Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến,
sau hai năm học tập được thả về. Trung giới thiệu Nghĩa cho tôi và chúng
tôi thân nhau ngay, nhất là sau này Nghĩa lại lấy Lư, sinh viên năm thứ
hai Y Khoa của tôi khi tôi về dậy năm đầu. Em rể Nghĩa là một phó quận
trưởng bị đi học tập. Một hôm Nghĩa đến nói với tôi nhà em rể còn mấy
cây vợt và nhiều hộp bóng tennis chưa sài, nên rủ tôi đi học chơi
tennis. Thế là chúng tôi lúc rảnh vào rượt banh trong chuồng cu ở Cercle
Sportif cũ trên đường Hồng Thập Tự, đã đổi tên thành Câu Lạc Bộ Lao
Động. Con trai đầu lòng của Nghĩa Lư là con nuôi của chúng tôi. Khoảng
năm 1982 vợ chồng Nghĩa và con đi vượt biên, lúc đó Lư đã có thai được
năm tháng. Trên đường đi bị hải tặc, tất cả chết hết trừ chủ tầu và vài
người khác.
Chủ nhiệm Mỹ Điền lo việc hành chánh với Nguyễn Văn Niêm, giáo viên Nga
văn, lo Giáo Vụ bộ môn, Quảng hầu như vẫn lo tổ chức công việc giảng dạy
Anh văn. Nhưng vì suốt ngày ở bộ môn nên bọn tôi vẫn rảnh, tôi nghĩ ra
cách chơi scrabble để giết thì giờ, cô Hoa làm thư ký ghi điểm. Ai thắng
thì được một chầu cà phê, và dĩ nhiên cả cô Hoa nữa.
Một điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao giáo viên Nga văn được điều
về bộ môn nhiều đến thế. Ngoài Niêm có thể đứng lớp, lần lượt có thêm Lê
Thị Bước, người Nam tập kết, cô Lan có mẹ cũng là dân tập kết công tác
tại Khoa Nha, và bà Nguyễn Thị Minh, người Bắc, có chồng là y sĩ đại tá
tiếp thu Bệnh viện Cộng Hòa. Sau bà Minh cho tôi biết là lúc bà xin về
Trường Y, chính Niêm đã lên tận Bộ Y Tế tìm cách chặn lại, nhưng không
được. Tôi nghĩ rằng số giáo viên Nga văn được đào tạo nhiều, mà nhu cầu ở
phía Nam tương đối ít vì tuyệt đại đa số sinh viên học sinh đều chọn
học Anh văn hay Pháp văn. Ở Trường Y cũng vậy, số sinh viên học Nga văn
rất ít, ngay cả các sinh viên bộ đội cũng chỉ thích Anh văn. Vì vậy mà
giữa các cán bộ giảng dạy Nga văn luôn luôn có chuyện dìm nhau để làm
nổi, mà bọn Ngụy tôi gọi đùa là “đấu tranh anh em gay gắt.”
Sau khi công việc giảng dậy và xắp xếp bộ môn đã “đi vào nền nếp” cứ vài
tháng lại có buổi họp bộ môn để các giảng viên bình bầu tiên tiến. Đám
Ngụy chúng tôi chẳng thích cái trò này, nhưng vẫn phải làm, Thường thì
chúng tôi chỉ ngồi yên, bất đắc dĩ mới nói và chỉ nêu ra những ưu điểm
của các đồng nghiệp. Nhưng có lần trong một phiên họp bình bầu cuối năm,
các giảng viên Nga văn không biết vì lý do gì tố nhau rất dữ. Tôi thoạt
đầu ngạc nhiên rồi sau thấy chán ghét khi họ giở sổ tay ra, đọc ngày
này giờ này chị đã làm gì, nói gì, và người kia cũng “đáp lễ” y chang
như vậy. Tôi chợt nhớ tới lời ông Ngô Như Hòa đã nói với tôi là “Những
người cộng sản ghét nhau.” Buổi họp đã xong tôi vẫn còn ngồi lại trong
phòng nghĩ ngợi. Mỹ Điền từ trên bàn chủ toạ đi xuống và kéo ghế ngồi
xuống cạnh tôi khi mọi người đã ra khỏi phòng. Điền hỏi tôi nghĩ sao về
lối sinh hoạt này. Tôi nói rằng quả thực tôi không quen với cách thức tố
nhau như vậy, nhất là việc vào ghi sổ tay lời nói việc làm của một
người nào đó để đợi một ngày dùng đến sau này. Mỹ Điền cười rồi nói với
tôi, “Rồi anh cũng phải quen thôi, dù tôi nghĩ rằng anh sẽ không làm như
vậy.”
Các sinh viên bộ đội phần lớn là do đơn vị chọn đưa đi học, nên nếu có
qua kỳ thi thì cũng chỉ là hình thức. Yếu tố quan trọng là thành phần lý
lịch chứ không phải học lực và có trình độ tốt nghiệp phổ thông không
phải là nhiều. Do đó có nhiều em viết tiếng Việt còn chưa ra câu, khi
viết tiếng Anh thì vì quen tiếng Việt độc âm, chữ một vần, khi viết
tiếng Anh cũng viết một chữ rời ra thành hai hay ba phần tùy theo chữ đó
có hai hay ba vần. Chẳng hạn như chữ “abdomen ” thì viết rời thành ab
do men. Còn về kiến thức y khoa thì một hôm tôi ghé qua Khu Phẫu Thuật
Thực Hành chơi, bác sĩ trưởng khu kể cho tôi nghe một sinh viên bộ đội
có hỏi ông về “bệnh ung thư tiền liệt tuyến ở phụ nữ...,” rồi lấy ra một
sấp bài kiểm tra, lật một bài trong đó có hai hình vẽ, một hình với một
bình thông đáy có chứa nước với vạch ghi rõ mực nước, và hình thứ hai
là hình thứ nhất lộn ngược, và nước vẫn nằm ở đáy bình dù bình đã lộn về
phía trên. Trong một buổi lễ, một sinh viên bộ đội đoàn viên Thanh niện
Công sản lên đọc diễn văn. Tới một đoạn em nhìn vào giấy rồi đọc lớn,
“Đoàn viên Thanh niên Cộng sản là những người thừa...” Đám Ngụy ở dưới
vỗ tay rần rần, có ai đó còn nói lớn “Hay!” Thì ra em này đọc tới chữ
“thừa” thì hết hàng, kiếm mãi mới ra chữ tiếp theo. Cả câu là, “ Đoàn
viên Cộng sản là những người thừa kế sự nghiệp Cách mạng của Đảng.”
Nhưng các sinh viên này nếu tôi đã có dậy qua thì chưa bao giờ làm tôi
khó chịu, mà chỉ làm cho tôi thấy tội nghiệp. Có lần tôi đang dậy một
lớp năm thứ hai thì đột nhiên có một em bị xỉu. Em gục xuống bàn học cá
nhân, mặt xanh lét gần như mầu bộ đồng phục bộ đội của em. Còn đang lúng
túng chưa biết phải làm gì thì chợt chị Ngọc đi qua phía ngoài. Thấy
lớp nhốn nháo, chị bước vào, nhìn em bộ đội xong, chị bảo tôi cứ để em ở
đó, chị đi lo cho. Ít phút sau chị từ bộ môn trở lại, với một tách nước
trà nóng và một cái muỗng. Với sự trợ giúp của một sinh viên khác, chị
múc từng thìa nước từ từ đổ vào miệnh em này. Và chỉ thoáng sau em mởmắt
ra, ngồi thẳng lên được và cầm tách nước uống hết ngay. Chị Ngọc kéo
tôi ra ngoài, tôi hỏi thuốc gì mà thần diệu vậy. Chỉ cười, nói nhỏ với
tôi, “Nó đói đấy. Chuyện này ở ngoài Bắc tôi quen quá rồi. Cứ trà đường
nóng là xong hết!”
Một hôm hết giờ học rồi mà một sinh viên bộ đội vẫn còn nán lại. Em tới
gần tôi, nói với tôi là điểm bài kiểm của em không tốt và em không muốn
như vậy. Tôi chưa biết phải nói gì với em thì em đã nói tiếp rằng em và
một số bạn nữa ở tại Đại Học Xá Minh Mạng cũ. Sáng sáng các em đi thực
tập tại các bệnh viện, trưa về trường ăn uống nghỉ ngơi để đợi học lý
thuyết vào buổi chiều. Em nói là em thường xuyên đói, tối về học xá ăn
uống xong là chỉ muốn đi ngủ ngay để lấy sức. Nếu cần thì chỉ học các
bài lý thuyết y khoa, còn sinh ngữ thì ở lớp nghe nhớ được cái gì thì
nhớ, chứ không thể học vào buổi tối được. Tôi thông cảm với em ngay, vì
vào những năm phải ăn độn bo bo, tôi đã ăn no căng cả bụng mà vừa buông
bát xuống là lại thấy hao háo, thèm ăn một cái gì. Tiêu chuẩn nửa ký
thịt heo mỗi tháng thì làm sao cung cấp đủ chất đạm cho cơ thể cho cả
gia đình. Nếu không “chà đồ nhôm” đem ra chợ trời bán và sau này lậu lâu
có thùng quà từ ngọại quốc gửi về thì tôi cũng giống như các em thôi.
Ngoài các giảng viên Nga văn từ ngoài Bắc vào, Bộ môn Ngoại Ngữ cũng có thêm một số giảng viên Anh văn và Pháp văn mới, đa số là trẻ và có người còn là đoàn viên Thanh niên Cộng sản HCM. Chỉ có hai người dạy Pháp văn là đã lớn tuổi, môt là Trịnh Xuân Đính và một nữ giảng viên người Nam có chồng là bác sĩ phải đi học tập. Bà này ở trường nói chuyện anh anh em em rất thân mật với Khoa trưởng Ngô Như Hoà, và còn kể cho tôi nghe thỉnh thoảng ông Hòa còn ghé nhà chơi và nói chuyện với nhau toàn bằng tiếng Pháp, nên tôi đồ chừng có thể hai người có liên hệ họ hàng hoặc ông Hòa và chồng bà này ngày xưa là bạn học ở Y khoa. Bà này kể lại có lần dùng điện thoại của văn phòng bộ môn nói chuyện với một người quen là nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Pháp, dĩ nhiên là nói tiếng Pháp. Khi đang nói thì bị một người không biết từ đâu xen vào cắt ngang, nói, “Nói bằng tiếng Việt đi.” Sợ quá, bà vội vàng cúp máy. Về sau bà này cũng vượt biên nhưng không thoát, báo cáo về gửi về trường cho biết bà này khai phải vượt biên vì “bị ông cựu trưởng khu gây khó dễ.” Chi tiết này được chính Quảng kể lại với tôi.
Sếp Quảng tính thẳng, không biết có khiển trách gì bà giáo Pháp văn này hay không mà bị bà ta khai ra như vậy. Điều này khiến tôi nhớ tới một vụ mà tôi với cô Hoa, ông Thám cứ cười mãi, cho rằng Quảng còn 'ngây thơ' nữa. Số là một hôm cán bộ Lê Thị Bước, giảng viên Nga văn, vào bộ môn trễ, Quảng đã quên mình không còn là trưởng khu, nghiêm mặt nhắc nhở bà này. Chúng tôi đều ngạc nhiên, riêng bà Bước thì tím mặt lại, không nói gì cả. Nhưng chỉ nội trong tuần đó Quảng đã bị bà này tố cáo nhiều tội dưới văn phòng trường. Nhưng có lẽ hiểu rõ sự vụ và muốn cho quan hệ giữa mới và cũ bớt căng thẳng, họ đã làm ngơ.
Nhưng sau này qua đầu thập niên 1980, Quảng đã cảm thấy có điều gì bất ổn. Quảng được Biện lúc đó là phụ tá giáo vụ bộ môn gợi ý cho thêm phần dịch Anh Việt-Việt Anh trong bài thi ngoài phần trắc nghiệm. Đến khi chấm bài, Quảng sửa phần dịch bê bết và cho điểm thấp. Họp bộ môn, Mỹ Điền đã nêu vấn đề này ra và phê bình Quảng dậy quá sức sinh viên. Tất cả không ai nói gì, kể cả Quảng. Quảng sau nói với tôi không biết Biện có gài Quảng vào vụ này hay không. Và chuyện này cả văn phòng nhà trường cũng biết. Quảng kể cho tôi nghe có hôm một nhân viên văn phòng hỏi Quảng về chuyện dậy ' tiếng Mỹ ' cho sinh viên và đưa cho Quảng một tờ giấy với nhiều khoản để điền vào, trong đó có khoản “tự nguyện đi phục vụ tại bất cứ nơi nào được chỉ định.” Quảng lầy làm lạ nhưng không hiểu sao cũng điền vào hết. Hoang mang và chán nản, ít lâu sau Quảng nạp đơn xin nghỉ việc. Sau Quảng còn nói với tôi có lần Đính tìm tới nhà Quảng cho biết nếu muốn Quảng có thể xin dậy học trở lại, nhưng Quảng đã không làm.
Trịnh Xuân Đính vừa mới chuyển về bộ môn là chúng tôi đã rất thân với nhau vì tâm đầu ý hợp. Mãi về sau tôi mới biết nhờ có ông bác họ vợ làm lớn ở Bộ Y Tế giúp đỡ nên Đính mới được về đây. Đính trước đó là giáo sư Pháp Văn tốt nghiệp Đại Hoc Sư Phạm, có Cử Nhân Văn Chương Pháp từ Trường Văn Khoa Saigon, đã đậu xong Cao Học Luật và đang làm Luận Án Tiến Sĩ, đồng thời làm phụ giảng ở Luật. Sau 4-75, Trường Luật đóng cửa, chỉ còn mở Trường Kinh Tế nên Đính phải “đi tỉnh buôn than, gạo, đường trên chiếc xe solex hắn biến chế cho chạy bằng dầu lửa” nhưng không xong, hắn phải đi sửa xe gắn máy ở đầu đường một thời gian khá dài. Sau đó hắn ta may mắn được ông bác họ bên vợ cho về dạy Pháp văn ở Y Khoa, cũng là môt nơi tạm dung thân mà nhiều người khác có mơ ước cũng không được.
Buổi trưa ăn xong cơm ở cafeteria ma soeur còn sớm, tôi và Đính thường kéo nhau ra đường Nguyễn Trãi đi dài dài xuống tới Tổng Đốc Phương, ngắm hàng thiên hạ mang ra bán chợ trời. Còn nhớ có lần sau Tết Trung Thu, chúng tôi tình cờ thấy có có tiệm đem ra đường bầy bánh nướng bán không hết hồi Trung Thu giá thật rẻ. Hai đứa bèn mua một cái, chia nhau vừa đi vừa ăn. Ngon ơi là ngon.
Thời gian sau đã thấm cái đói, chúng tôi tìm ra được một nguồn chất đạm bất tận, vừa rẻ vừa bổ vừa được hoạt động chân tay. Đó là thịt chó. Nguyên Khu Phẫu Thuật Thực Hành có phòng lab để cho sinh viên thực tập mổ chó. Chó được gây mê để cho sinh viên mổ. Nhưng con chó này sau đó được khu bán kí lô thu về ít tiền cho quỹ của khu. Một hôm vào đầu năm 76, Bs.Trung qua rủ tôi chiều đi về sẽ mang theo một con chó tới nhà một người bạn để làm thịt, xem ăn thịt chó vào dịp Tết thì cả năm có “đen như mõm chó hay không.” Cô Lệ thư ký khu đã chọn một con chó béo khỏe cho chúng tôi và khi cân còn bớt cho hai ký lô trước khi tính tiền, rồi bỏ vào trong bao bố buộc lại đàng hoàng.
Chiều chúng tôi xách chó xuống cầu thang, tới chân cầu thang ở hành lang
trước đại giảng đường thì gặp mấy sinh viên vẫn chưa về còn đứng ở đó.
Các em ngạc nhiên nhìn Trung xách bao bố, và khi thấy máu nhỏ giọt xuống
sàn nhà thì cười và kếu lên, “Chó đây mà. Anh Trung bêu riếu chế độ đấy
nhé!” Chúng tôi chỉ cười và Trung đưa tôi tới nhà một người bạn ở đường
Hòa Hưng. Anh này là con một đại tá đã đi học tập ngoài Bắc. Lần đầu
tiên làm thịt nguyên một con chó, chúng tôi đã thật lúng túng nhưng rất
vui. Để thui chó, bạn tôi vào phòng lấy ra mấy cuốn truyện tiếng Anh xé
ra từng tờ để đốt. Mãi tới 9 giờ tối chúng tôi mới được ăn và chỉ có hai
món thịt luộc và chả nướng.
Chuyện này tôi đã quên, nhưng mấy năm sau khi đói quá tôi mới nhớ lại và hỏi Đính làm bếp có giỏi không và có biết làm thịt chó không. Đính nói “làm bếp là nghề tay phải của tao và làm thịt chó thì tao là số 1”. Thế là từ đó tôi xách đồ nghề theo “thầy đi làm thịt chó”. Lần đầu tiên tôi và Đính tới làm thịt chó ở nhà chị Ngọc. Chồng chị Ngọc là bác sĩ giám đốc Bệnh Viên Da Liễu nên được cấp một villa rất đẹp trên đường Hiền Vương gần Pasteur. Vì nhà lớn nên Bộ Y Tế còn cho Bs. Hậu , phu trách giáo vụ Trường Y và Vĩnh, một nhân viên Bộ Y tế nữa độc thân, ở ghép một từng. Vì không có chỗ “hành nghề” nên tôi và Đính rủ chị Ngọc “đánh đụng” với chúng tôi. Chị Ngọc đồng ý ngay và nói sẽ bảo mấy người kia phụ một tay nữa. Vì được chuẩn bị kỹ từ trước và có nhiều người phụ nên chúng tôi đã giải quyết con chó và hoàn tất đủ cảc món chó luộc, chó nướng chả, dồi chó, dựa mận, chỉ thiếu món tiết canh. Tối hôm đó chỉ có Đính, Bs. Hậu, Vĩnh và tôi nhậu, làm hết một chai nếp Lúa Mới đem từ Bắc vào. Vợ chồng chị Ngọc và hai con không đợi được, ăn trước từ sớm, lấy phần để hôm sau ăn. Khi rượu đã ngấm, con người thật của Bs. Hậu mới để lộ ra. Cái lạnh lùng xa cách hàng ngày ở cơ quan không còn nữa. Anh ta ăn uống nói chuyện tự nhiên cởi mở hơn hẳn bình thường. Nhưng đột nhiên anh trở nên ít nói, ngồi uống thêm liền hai chung nhỏ rồi bỏ vào nằm ở giường kê gần đó. Tôi để ý thấy anh cứ trằn trọc và lâu lâu lại thở dài sườn sượt. Đính cũng để ý thấy và sau nói với tôi là ở cơ quan cán bộ nào cũng đeo một cái mặt nạ.
Lần thứ nhì mà tôi và Đính đi làm thịt chó là khi Niêm rủ chúng tôi mua chung con chó và về làm ở nhà Niêm. Vợ chồng anh này được cấp căn nhà gia nhân ở một góc sau Bệnh viện Đồn Đất. Tôi và Đính làm xong thì chia thịt rồi ai về nhà người nấy. Niêm gốc nam Trung bộ, tập kết ra Bắc. Như các cán bộ khác, Niêm ít nói, rất dè dặt dối với đám Nga văn, còn hơn đối với chúng tôi.
Lần cuối cùng tôi và Đính mua một con chó về làm ở nhà tôi. Vì chỉ có một bếp dầu nhỏ nên đợi khá lâu mới có nồi nước sôi để cạo lông chó. Trong khi đang chuẩn bị các thứ khác ở trong bếp thì chợt nghe tiếng ăng ẳng nho nhỏ ở ngay sau lưng. Tôi đang ngồi xổm nhặt rau thơm, hoảng qua đứng vọt dậy. Liền lúc đó nghe tiếp được tiểng “ẳng” lớn hơn từ bao bố vang ra. Hóa ra là con chó chưa chết, có lẽ chỗ mổ nhỏ và sinh viên khâu kỹ nên con chó chưa chết. Khi thuốc mê mất dần hiệu lực, con cho tỉnh lại và kêu. Đính nói phải kết liễu con chó đi vì nếu để nó tỉnh lại hẳn thì không thể nào dội nước sôi để cạo lông được. Tôi vội vàng lấy cái chầy để gần đó đưa cho Đính. Chúng tôi chỉ làm mấy món chính như luộc, dồi và chả nướng. Đính nhường cho tôi cái đầu, bảo để nấu cháo “bồi dưỡng” cho hai đứa con nhỏ của tôi, và Đính còn nói óc chó bổ lắm. Tối hôm đó vợ tôi được một vố sợ nhớ đời khi cô ấy đi làm về trễ, lúc mở tủ lạnh ra lấy nước uống thì thấy cái đầu chó nhăn răng ra cười, sợ quá ngã ngồi bệt xuống đất. Từ đó về sau tôi không còn làm thịt chó ở nhà nữa.
Sau đợt giảng viên Nga Văn, mấy năm sau bộ môn còn nhận thêm bốn giảng viên trẻ một Anh văn là Phúc 1, ba Pháp văn là Sơn, Thanh Bình và Phúc 2. Sơn và Thanh Bình đều là đoàn viên Thanh niên Cộng Sản. Hai người này về sau gây cho Mỹ Điền nhiều bối rối và bực bội.
Khoảng năm 1978 trở đi khi các vụ vượt biên bán chính thức được tổ chứ ồ ạt thì Trường Y cũng bị ảnh hưởng. Trước đó thì các bác sĩ cũng bỏ đi lai rai, nhưng từ khi có vượt biên bán chính thức thì số bác sĩ đông hơn nhiều. Lý do là những người tổ chức phần lớn là người Hoa, mà đi bán chính thức thì bảo đảm không bị công an bắt. Chủ tầu thường kiếm bác sĩ cho đi miễn phí để lo chăm sóc sức khỏe cho thân nhân và giao thiệp với nhà cầm quyền nước tầu cập bến vì thông thạo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Cũng vì tham nên chủ tầu cùng nhà cầm quyên nhận tối đa số người xin đi. Buổi tối trước ngày khởi hành chủ tầu đã cho người vượt biên xuống ém kín khoang một tầu đậu ở Cát Lái, nhiều đến độ tầu không chịu nổi bị chìm. Số người không lên kịp chết rất nhiều, trong đó có vô địch quần vợt Nguyễn Văn Sĩ.
Trong những buổi họp bộ môn, Mỹ Điền thường đem chuyện những người từ ngoại quốc trở về giúp nước kể cho chúng tôi nghe và phê phán những người cứ tính chuyện bỏ đi. Ông hay nhắc tới một bà ở Bộ Môn Vi Sinh đã cùng chồng từ Canada tình nguyện về giúp nước. Ông nhấn mạnh cặp vợ chồng này mỗi người kiếm mấy ngàn dollar một tháng, nay trở về nước lãnh lương 90 đồng. Tôi còn nhớ bà này nhỏ con, trắng trẻo, hàng ngày đi xe máy PC tới trường. Sau lại biết thêm bà là cháu của Thứ trưởng Bộ Đại Học Hoàng Xuân Trường và khi về được bố trí về làm việc ngay ở trường tôi. Thế nào đi nữa thì quyết định về nước của bà này cũng rất đáng nể. Nhưng chỉ một năm sau tôi không thấy bà đi xe PC tới trường nữa, và ít lâu sau chúng tôi được biết vợ chồng bà này đã vượt biên, không những đi một mình mà còn kéo hết cả đại gia đình tới mấy chục người!
Chuyện này vẫn còn âm vang thì lại tiếp tới chuyên Thanh Bình. Là một giảng viên trẻ, đẹp, vui tính, và còn là một đoàn viên TNCS, cô là mẫu người mà Mỹ Điền rất tin tưởng. Mỷ Điền rất thích khi cô này chuyển câu đầu bài “Từ thành phố này Người đã ra đi ” sang tiếng Pháp và hát, “ De cette ville Il est parti.” Điền cười tít mắt và nói, “Đây chính là new blood.” Ý muốn nói bọn tôi là loại máu cũ, tạm sài mà thôi. Nhưng một hôm không thấy Bình vào dậy học, qua hôm sau thì có tin cô đã vượt biên. Điền kéo tôi và một hai người nữa theo địa chỉ tìm tới tận nhà cô Bình. Chúng tôi đứng trước của nhà cô đã bị niêm phong, mỗi người một ý nghĩ riêng, rồi lẳng lặng ra về.
Một bác sĩ khác đã vượt biên thành công, nhưng thời điểm vượt biên của ông không hiểu vô tình hay cố ý đã đặt nhà trường vào một tình huống bối rối và chúng tôi được nở từng khúc ruột. Bs. Ân chuyên về tiết niệu là học trò cưng của Giáo sư Ngô Gia Hy, cả hai làm việc tại Bệnh viện Bình Dân. Người ta nói GS. Hy là cháu của Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Đảng bộ Nam Kỳ. Bị Pháp bắt và đầy đi Côn Đảo cùng với Phạm Hùng năm 1933 và sau đó mất tích trong một chuyến vượt ngục vào đầu năm 1935. Tôi còn nhớ GS. Hy có vẻ thoải mái hơn các giáo sư và bác sĩ khác, và trong một lần nói chuyện với các sinh viên, ông chấm dứt bằng câu, “Các em hãy nhớ sau các em còn có tôi.” Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì, mà lại nghĩ tới câu nói của Tổng thống Diệm, “Sau Hiến pháp còn có tôi.”
Hôm đó là buổi chót của một hội nghị báo cáo chuyên đề, Bs. Ân được chờ đợi lên trình bầy một đề tài về niệu khoa tại đại giảng đường vào hồi 2 giờ chiều với sự có mặt của đại diện Bộ Y tế, ban lãnh đạo trường, toàn thể cán bộ giảng và sinh viên. Đúng 2 giờ chúng tôi mới từ Bộ Môn đi xuống, tưởng đã trễ, nhưng tới cửa giảng đường nhìn lên bục giảng ở sân khấu vẫn trống trơn. Mọi người bắt đầu ngơ ngác, xì xào hỏi nhau. Đợi tới 2:30 thì một nhân viên lên lấy micro thông báo Bs. Ân bị bệnh bất ngờ không thể đến được. Đề tài sẽ được trình bầy vào một ngày khác. Ai nấy đều không tin, và quả thực hôm sau vào trường tôi được bác Thám báo tin nghe nói Bs. Ân đã vượt biên. Hiện nay Bs. Ân ở Montréal, Canada, rất tích cực hoạt động trong cộng đồng người Việt.
Sơn là đoàn viên trẻ, rất hoạt động, em trai Bs. Nguyễn Ngọc Phượng, y sĩ sản phụ khoa. Bà này có chồng cũng là một bác sĩ. Ông này đi Pháp tu nghiệp nhưng đã ở lại không về nước, bỏ cả vợ luôn. Bà Phương được chính quyền mới ưu đãi, cất nhắc lên làm giám đốc Bệnh viện Từ Dũ và liên tiếp đắc cử dân biểu Quốc Hội. Thời gian này ông Ngô Như Bình đã không còn là Khoa trưởng và đã xin nghỉ về mở phòng mạch tư ở Tân Định. Hiệu trưởng Trường Đại Học Nha Y Dược TpHCM là BS, Trung, một người Nam, nhưng người thực sự nắm quyền là bí thư đảng ủy Mười Năng, người Bắc, nắm giữ hiệu bộ.
Không rõ Mỹ Điền có vấn đề gì với hiệu bộ mà ông thường xuyên bị Sơn công kích, không phải với tư cách cá nhân mà với là đại diện đoàn trường. Cho tới khi tôi đã gần xin nghỉ để hoàn tất hồ sơ xuất ngoại năm 1983 thì Mỹ Điền tới khu làm việc thất thường. Hôm tôi chính thức nghỉ, bộ môn có tổ chức tiệc nhỏ tiễn tôi. Mỹ Điền không vào, nhưng viết mấy chữ từ biệt nhờ ông Thám đọc. Tôi còn nhớ ông Điền trước khi chúc tôi may mắn được xuất ngoại đoàn tụ với gia đình, đã nói lý do ông không tới dự “như một cách phản đối lề lối làm việc Mao-ít của ban lãnh đạo nhà trường.” Tôi chẳng hiểu Mao-ít với Mao-nhiều là sao, nhưng rõ ràng là hiệu bộ đã dùng Sơn để phá Mỹ Điền khiến ông này chán nản.
Mỹ Điền đối với Quảng và tôi rất lịch sự và tốt. Ngay từ lúc mới về nắm bộ môn, Mỹ Điền đã nhờ Quảng và tôi lo giúp về mặt chuyên môn. Vì Quảng ít nói và có vẻ xa cách nên Mỹ Điền thường chuyện trò với tôi nhiều hơn. Tôi được Mỹ Điển cho biết đã đi Pháp đi Anh trước khi về Bắc sau năm 1954. Mỹ Điền công tác ở cả bên Y tế lẫn Ngoại giao, có lẽ nhờ vốn liếng ngoại ngữ của mình. Mỹ Điền người Nam, tính tính cởi mở, dễ dãi với tất cả các giảng viên. Ngay mấy năm đầu Mỹ Điền đã mua được một thửa đất khá lớn ở ngay bên kia sông Thanh Đa. Khi Mỹ Điền mời một nhóm bọn tôi khoảng 5, 6 người trong đó tôi nhớ có Biện, Dũng, chị Chỉnh và chị Mỵ Khanh qua thăm trại thì đã thấy một ngôi nhà hoàn chỉnh khá đẹp xây bằng vật liệu nhẹ.
Khu đất đã có hàng rào, một phần đất dành cho căn nhà và vườn nhỏ bao quanh, hai phần còn lại đã được thuê người đào mương đắp vồn, nói để trồng cây nuôi cá. Mỹ Điền nói đây là kế hoạch quy điền sau này, tôi hỏi đùa không phải là phục viên hay sao. Bữa BBQ hôm đó thiệt vui, Mỹ Điền đem một chai đế quốc doanh ra mời, nói rất tiếc không có rượu tây. Mặt tôi hay đỏ, mới uống hai chung nhỏ đã đỏ ửng, chị Chỉnh bảo đừng uống nữa, rượu vào lời ra đó. Tôi tiện thể, mượn hơi rượu rỡn ngay, “Mình đánh đế quốc Pháp cũng thắng, đánh đế quốc Mỹ cũng thắng, chỉ thua có đế Quốc doanh.” Mọi người đều cười và Mỹ Điền là người cười to nhất.
Khi nhà trường tuyển thêm nhiều sinh viên vào học thì nhu cầu giảng viên Anh văn cũng tăng theo. Mỹ Điền hỏi tôi cho biết ý kiến về những người nạp đơn xin. Lần đầu tôi nói ngay chỉ có ý kiến về khả năng chuyên môn mà thôi, thì Mỹ Điền cười và nói ngay vấn đề chính trị thì “dưới nhà” họ lo, đâu đến lượt tôi, ý muốn nói Phòng Tổ chức ở dưới nhà. Thời gian này có nhiều giáo sư Anh văn thuộc Trường Sinh Ngữ Quân Đội hay một số nhân viên cao cấp cũ đã đi học tập trở về, nên bộ môn tôi đông hẳn lên. Tôi gặp lại các bạn cũ như Nguyễn Viết Long dậy Trung tâm Thính Thị Anh Ngữ và trước đó dậy ở Mỹ Tho với tôi từ đầu thập niên 60, Tô Cao Hoan bạn học từ thời ở Văn Khoa dậy ở Sinh Ngữ Quân Đội, Phước Tôn Tẫn – vì có tật ở chân -- và Phạm Văn Cung, giám đốc Innotech, và một vài người nữa mà tôi không còn nhớ tên. Phía nữ có chị Trần Thị Thức, vợ ông Đoàn Viết Hoạt. Cánh đàn ông chúng tôi sau giờ ăn trưa thường qua quán cà phê gốc me ở khu trại tạm cư kế bên ngồi nhâm nhi cà phê bí tất và nói đủ thứ chuyện trên đời.
Một hôm Nguyễn văn Niêm kéo tôi vào bureau, và khi tôi vừa ngồi xuống đối diên thì đột nhiên hỏi tôi tại sao không nói giống như các cán bộ khác, dùng các từ như “giản đơn, khẩn trương, hồ hởi …” vì muốn đề bạt tôi làm phụ tá giáo vụ bộ môn, lo giúp phần Anh văn. Chắc Niêm nghĩ nghe được như vậy tôi sẽ mừng lắm và nhận lời nên hỏi thẳng không rào đón gì cả. Niêm đã thoáng ngạc nhiên khi tôi trả lời ngay là tôi cám ơn nhưng không nhận lời đề nghị. Niêm hỏi tôi tại sao lại từ chối, tôi mỉm cười trả lời, “Lý do đơn giản là tôi chỉ thích dạy học, không thích công việc hành chính, điều khiển người khác, vì tôi nhiều khi không điều khiển được chính tôi. Vì lợi ích của sinh viên và của cả bộ môn, xin để tôi tiếp tục công tác giảng dạy thôi.” Niêm hỏi tiếp tôi, “Thế anh có đề nghị một người nào khác không?” Tôi nói ngay nếu cần một người có đầu óc tổ chức và thành thạo công việc hành chánh thì ở bộ môn có Biện là thích hợp nhất. Niêm cám ơn tôi và ít tuần sau Biện trở thành phụ tá của Niêm.
Tới khoảng năm 1979-80 thì tinh thần tôi xuống thật thấp vì những bạn bè thân quen nhất của tôi lần lượt vượt biên. Lã Hoàng Trung đi bán chính thức, rồi cô Liên Hoa thư ký bô môn có chồng tổ chức vượt biên, cả hai đều thoát. Mất anh Trung tôi thật hụt hẫng vì chúng tôi đi đâu cũng có nhau, các bạn bè mới thân thiết tôi có được hầu như đều qua anh Trung. Sau này liên lạc lại được với anh Trung, anh nói là lúc ở đảo chờ đi Mỹ thì gặp cô Hoa ở đó. Anh trách cô Hoa sao tổ chức vượt biên mà không cho tôi một vài chỗ, tôi không có cây thì qua được bên này sẽ trả sau. Cô Hoa nói chồng có chân trong tổ chức nhưng không có quyền quyết định. Sau này khi tôi sang được Canada, gia đình cô Hoa ở Montréal đã xuống Ottawa chơi với chúng tôi.
Thấy người ta đi thì tôi cũng muốn, nhưng tôi biết là mình rất nhát, thuộc nhóm mà thời đó gọi là “Trí thức 3 N,” nôm na là “nghèo, ngu, nhát.” Nghèo vì không có cây, ngu vì gần 30-4 người ta đôn đáo tìm đường chạy còn mình yên tâm đợi Trung lập, và nhát vì ngày 29 và 30-4 người ta chạy tứ tung, tới Tòa Đại Sứ Mỹ, ra Bến Bạch Đằng, qua Khánh Hội, tới Tân Cảng, thấy chỗ nào có tầu là chạy tới. Anh họ tôi là Lã Huy Qúy, người đầu tiên bơi qua sông Bến Hải năm 1955, và sau đó là nghệ sĩ Thanh Hùng, “ngâm sĩ” của Đài Phát Thanh Saigon, đều đi thoát hôm 30-4.
Anh Quý kể hôm 30-4 anh Thanh Hùng cõng con trên vai ở bến Bạch Đằng, vừa đi vừa khóc, vì nếu kẹt lại thì “chỉ có chết!” Vây mà anh đi thoát, trong khi tôi cố thủ trong nhà. Lắm lúc tôi nghĩ nếu sáng 29-4 tôi cứ đưa vợ con tới Toà TLS Mỹ với tờ điên tín bảo lãnh thì biết đâu đó. Nghĩ vậy thôi chứ nếu thực sự có cơ hội, chưa chắc tôi đã dám đi. Điều này có thể chứng minh được là một hôm bạn tôi là Đ Q Anh Thái đến nói với tôi là anh của chị Thức tổ chức vượt biên nhiêù lần thành công. Và đây là chuyến chót, cả Thái cũng đi, nếu muốn tôi được dành cho hai chỗ, qua bên đó trả tiền sau. Tôi nói để hỏi ý vợ tôi có để cho tôi đi trước với con trai lớn, còn vợ tôi và con gái ở lại chờ tôi nếu đi thoát sẽ bảo lãnh qua sau. Vợ tôi sợ lắm nhưng không có ý cản, nhưng tôi thì “rét” thực sự, ra nói với Thái rằng nếu đi thì đi cả bốn, cùng sống cùng chết với nhau, thay vì chia đôi. Thái đã dành hai chỗ đó cho cặp vợ chồng bạn chung của chúng tôi, và chuyến đó đã thành công.
Các giảng viên trong bộ môn cũng trước sau lần lượt ra đi. Chị Hiếu, có chồng là trung tá không quân còn đang đi học tập, đã đưa con đi trước. Tuần lễ trước khi đi, chị bảo tôi đến nhà và cho tôi bộ Bách khoa Từ điển Britannica. Chị không nói và tôi cũng không hỏi. Mấy ngày trước khi đi, chị thật căng thẳng, vào bộ môn buổi trưa nằm vật lên bureau, “thở hắt ra.” Đây là tiếng của chị dùng, chị nói với tôi, “Sao cứ thở hắt ra mãi thế này!”
Rồi đến lượt Long. Long phải đi hai lần mới thoát. Lần đầu đi đường thủy, ghe chết máy lênh đênh trên biển mấy ngày. Hết nước, may Long có chiếc bật lửa Dupont nên xé quần áo và gỗ vụn, đun nước biển sôi lên, lấy vải hứng hơi nước nhấm nhấm cho đỡ khát. Lúc bị bắt về, con trai út suýt chết vì mất nước, môi thâm xì, người đã lả đi, mắt nhìn chỉ thấy lòng trắng. Lần sau đi đường bộ qua Campuchia, đường đi gian khổ nhưng may mắn bình an vào được Thái Lan. Khi còn ở trại chờ qua Mỹ, vợ chồng Long có chụp ảnh gửi về cho vợ chồng tôi. Nhìn vợ chồng Long đứng mua hàng ở siêu thị mà buồn muốn khóc.
Tôi xin viết thêm về Long, phần vì thân quen quá lâu, phần vì đời Long có nhiều tình huống khiến ta phải nghĩ tới câu “Họa phúc khôn lường”. Long ra Sư Phạm Anh Văn sau tôi hai năm và cũng được bổ về dây ở Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, nơi tôi lúc đó đang dậy. Cũng như Đính, tôi chơi thân với Long ngay. Long nhỏ tuổi hơn tôi nhưng đã lập gia đình và mới có con đầu lòng. Buổi tối tôi thường ghé lại nhà Long ngồi nói chuyện và nghe nhạc. Năm 1964 khi tôi lập gia đình, vợ chồng tôi càng chơi thân với vợ chồng Long hơn. Long có ông anh đại tá trong quân đội, nhờ quen biết lo cho Long về Saigon, không phải dậy học mà làm ở Bộ Thanh Niên, rồi sau xin được về dậy tại Trung Tâm Thính Thí Anh Ngữ . Năm 1969 có lệnh tổng động viên, các giáo sư đệ nhị cấp chỉ học chín tuần căn bản quân sự ở Quang Trung rồi được cho về nhiệm sở cụ phục vụ với cấp bậc trung sĩ.
Lúc chúng tôi về lại trường thì Long xách ba lô lên Thủ Đức học tiếp để mãn khóa ra chuẩn úy. Ông anh Long nghĩ làm như vậy là tốt cho Long, không giống chúng tôi nếu có lệnh gọi đi lính lại thì còn phải học nữa hoặc có thể đi tác chiến ngay. Quả vậy, với thời gian Long lên lon thiếu úy và tới năm 75 thì đã là trung úy. Cũng vì là sĩ quan mà Long phải đi học tập cải tạo, trong khi bọn tôi yên thân. Nhớ hồi Long lên Thủ Đức, cuối tuần nào không được về phép, tôi lại lấy xe Honda 67 chở chị Long lên thăm Long. Và sau 4-75, khi Long phải đi học tập cải tạo, chị Long ở nhà sanh cháu út. Hôm đón chị Long từ nhà bảo sanh về, tôi kéo được cả hai ông bạn bác sĩ Trung và Kiệt đi hộ tống lên tận apartment ở lầu 5 building đường Nguyễn Cư Trinh.
Còn nhớ trưa 1-5-75 khi tôi đang ở trong nhà cầu ở chung cư Nguyễn Thiện Thuật đốt từng cuốn Playboy mà Long đã cho tôi vì sợ tội tàng trữ văn hóa Mỹ Nguỵ thì có ai gõ cửa. Vợ tôi ra mở cửa thì hóa ra vợ chồng Long. Chúng tôi ôm lấy nhau mà chẩy nước mắt. Tôi tưởng gia đình Long đã đi thoát vì trưa 28-4 vợ chồng Long ghé nhà tôi từ giã, nói rằng ông anh Long là trưởng ban tổ chức di tản chỉ lo được gia đình Long mà thôi. Long đưa cho tôi tờ giấy ủy quyền lĩnh lương tháng cuối dậy ở Hội Việt Mỹ, nói rằng nếu tôi lãnh được thì cứ sài, rồi hai vợ chồng lên xe Vespa nói về đón các con đi vào Tổng Tham Mưu đợi. Không đợi tôi hỏi, Long giải thích là chiều hôm đó Long được ông anh cho vào ở một villa ngay trước cây săng Esso đối diện cổng Tổng Tham Mưu mà chủ nhân đã di tản, cho an toàn.
Nhưng sau khi Tân Sơn Nhứt bị dội bom, rồi thiết quân luật và pháo kích, vợ chồng Long đợi hoài không thấy ai tới đón, qua ngày 30-4 thì tuyệt vọng và sợ, phải bỏ villa trở về nhà cũ. Tình cảm tôi lúc đó thật lẫn lộn, vừa buồn cho Long không đi thoát, vừa có chút mừng vì còn có bạn tưởng không biết bao giờ thấy nữa. Chị Lan vợ Long mở ví lấy ra đưa cho tôi hai lượng vàng, Long nói là biết bọn tôi lúc này cần tiền nên cứ giữ để phòng về sau. Tôi rất xúc động và nói sao cho nhiều thế và trả lại một cây. Long bảo bọn tao biết sức có thể cho được bao nhiêu, cứ giữ lấy đừng thắc mắc gì cả. Tôi còn ngờ nghệch nói bây giờ Việt Cộng đã vào đây, đâu còn dùng tới vàng. Long cười và nói, “Để tao đưa mày đi xem vàng có còn dùng tới hay không.” Long bảo chị Lan ở lại với nhà tôi rồi cùng tôi đi xuống lầu lấy xe Vespa chở tôi đi vào đường Nguyễn Tri Phương, ghé vào một tiệm cơm tây nhỏ trước trạm xăng đối diện với tiệm Mì Hải Ký, kêu hai đĩa bí-tết và hai chai 33. Long bảo ăn đi, mai mốt nếu còn tiền kiếm mấy món này cũng khó.
Ăn uống xong, Long bảo tôi đưa lại cho Long một cây vàng rồi lấy xe chở tôi tới một nhà cũng ở gần đó bán lấy tiền mặt. Nhân thấy có người ngồi bán mấy thùng sữa bột SMA trên lề đường, Long bảo tôi mua một thùng cho ông cụ bà xã tôi vì hồi đó ông cụ đang bị ung thư, thứ này vừa lành vừa bổ. Đoạn Long chạy xe về về hướng Hồng Thập Tự gần rạp Olympic, nới bầy bán nhiều thứ được dân chúng hôi của từ building trụ sở của cơ quan USAID. Long bảo tôi thích gì Long mua cho, tôi nói không, Long chọn mua một ghế xoay còn mới toanh nói để ngồi làm việc. Thùng sữa để dưới chân Long, tôi ôm chiếc ghế về nhà Long cất đi, rồi Long mới về nhà tôi để đón chị Lan về. Cây vàng còn lại tôi đã dùng ngay cuối năm đó cùng với sợi giây chuyền vàng y nặng một lượng nhà tôi đeo trong ngày cưới, để mua căn nhà đâu lưng với mặt tiền đối diện với tiệm phở Tầu Thủy đường Nguyễn Thiện Thuật. Mua được căn nhà là chuyện không bao giờ tôi nghĩ tới vì bình thường tôi không bao giờ có đủ khả năng.
Sau này khi thiên hạ vượt biên rất nhiều, tôi biết Long có thừa khả năng để đi nên tôi cứ thấp thỏm, không biết lúc nào Long sẽ đi. Sợ nếu quá thân lúc Long đi tôi sẽ bị sốc nặng, nên tôi âm thầm chuẩn bị tâm lý bằng cách gặp Long ít hơn. Điều này làm tôi đau lòng, nhất là vợ chồng Long cũng để ý thấy và than với bà xã tôi. Tới khi qua Canada và liên lạc lại được với Long, mãi tôi mới có dịp thuận tiện và tự nhiên để giải thích cho vợ chồng Long hiểu, lòng tôi mới tạm yên ổn được phần nào. Sau này khi đi thoát qua Thái Lan bằng đường bộ, Long viết thư về cho tôi bảo tôi cứ yên tâm mà sống, chạy vạy nhiều như Long tuy cuối cùng may mắn thành công, nhưng phải nếm đủ thứ gian khổ mà tôi không thể biết được như tù cải tạo, vượt biên đường thủy suýt chết vì đói khát và còn tù tội, rồi vượt biên đường bộ cũng rất gian nan.
Rồi chị Chỉnh và chị Mỵ Khanh cũng lần lượt vượt biên thoát. Người cuối cùng là Đính. Chuyện vượt biên của gia đình Đính cũng gian khổ, giống như Long nhưng không may bằng Long. Lần đầu Đính đi dường Biển và cả nhà bị bắt ở Gò Công. Vợ con được thả nhưng Đính bị tù gần một năm. Được thả về, Đính không trình diện ở Y Khoa nữa. Vì nhà đã bị tịch thu nên không có chỗ ở, Đính trốn chui trốn nhủi ngoài đường phố. Vì vậy mới chạy xích lô, tối đến táp vào gồc cây nào đó ngủ. Đêm nào nhớ vợ con thì liều về nhà bà già ở Thị Nghè thăm, sáng sớm lại ra đi.
Vậy mà có lần CA địa phương cũng biết tới xét, bà xã Đính phải chạy tiền mới được tha. Sau tên công an ăn tiền quen, cho Đính về miễn là nộp tiền cho hắn. Sau tình cờ có người quen giới thiệu cho đi đường bộ qua ngả Campuchia giá rẻ, chỉ mất hai cây vàng. Lần này chỉ có Đính và cháu Sơn 10 tuổi đi thôi, không hiểu Đính chỉ còn đủ cây cho hai bố con, hay là đi đường bộ rất nguy hiểm nên chỉ có hai người đàn ông đi. Trước khi đi, Đính có đến rủ tôi, nhưng tôi nói không dám đi, Đính chửi quá nhưng tôi chỉ ngồi cười. Vì đã dặn trước, nếu bị lộ thì mạnh ai người ấy chạy, nên khi bị lính CS rượt đuổi tán loạn, Đính chạy thoát và cháu Sơn bị bắt và đưa về lại Saigon. Tôi còn nhớ hồi đó báo SGGP (Saigon Giải Phóng) có loan tin chuyện này, với tít: “Người Tù Mười Tuổi Trẻ Tuổi Nhất Khám Chí Hòa.” Đính qua được Thái Lan rồi qua Mỹ. Về sau chị Đính còn đưa cháu Sơn lại nhà tôi để tôi kèm Anh văn và nhờ tôi giới thiệu với Côn, huấn luyện viên tennis ở CLB Lao Động, dạy cháu chơi quần vợt.
Còn ở lại như tôi và Lê Anh Dũng đều chỉ hy vọng được bảo lãnh ra đi trong an toàn, không sợ bị công an bắt, hải tặc cướp và bão biển nhận chìm. Vì biết tính mình nên về sau tôi không còn bị bận tâm về chuyện vượt biên nữa. Tôi chờ đợi anh tôi ở Canada gửi giấy bảo lãnh cho tôi. Tôi thoải mái làm việc, giờ rảnh tôi dành cho tennis và mạt chược. Nhờ đã được dậy tư trở lại nên cuộc sống của chúng tôi thật dễ chịu, Sáng sớm tôi đi học Tài Chi tuần ba lần, ba buổi kia chơi tennis, khi ở Câu Lạc Bộ Lao Động, khi ở Sân Thoại Ngọc Hầu, Gia Định. Các buổi tối chơi mạt chược với bạn hay vợ con, cuối tuần đi coi đá bóng. Tôi và Lê Anh Dũng thường đi nhậu bia hơi ở đường Trần Hoàng Quân, tối về đã thấm hơi rượu, đứng ở góc tối xế nhà xác Bệnh viện Hồng Bàng, thoải mái nhìn sao trên trời.
Tính tôi hay nói rỡn, tưởng ai cũng hề hề như mình rồi xong, nhưng không ngờ lại đưa tới một vụ làm cho đám Ngụy trong bộ môn một phen rúng động. Thấy Phúc Anh Văn rất hăng hái làm việc một hôm tôi đùa bảo Phúc, “Nếu cậu cứ phát huy tích cực mặt này, tôi sẽ đề nghị cho cậu vào thẳng Đảng, khỏi phải qua Đoàn.” Nói xong tôi và Phúc cùng cười, vì thực sự chỉ là câu nói đùa. Nhưng đúng là “Họa do khẩu xuất.” Mấy tuần sau một hôm Mỹ Điền gọi tôi vào bureau, bảo tôi ngồi xuống rồi nghiêm mặt nói, “Anh có biết câu anh nói trong bộ môn tưởng là đùa nhưng đối với “những người dưới nhà” là một Lèse majesté hay không? Vì biết tính anh từ lâu nên tôi bỏ qua, nếu 'dưới đó ' họ biết thì nhẹ là anh mất việc, mà nặng là đi học tập cải tạo mút mùa. Anh không cần biết ai đã báo cáo cho tôi chuyện này, chỉ cần anh hãy hết sức cẩn thận lời ăn tiếng nói.”
Ra khỏi phòng Mỹ Điền đầu óc tôi còn lùng bùng, không phải vì cái tội Khi Quân tầy đình kia, mà không hiểu tại sao giữa đám Ngụy với nhau lại cạn tầu ráo máng như vậy.Tôi quyết định phải hỏi cho ra lẽ. Hai hôm sau Phúc có giờ dậy, hết giờ tôi rủ Phúc xuống cafeteria uống nước và hỏi Phúc tại sao biết tôi nói đùa mà lại lớn chuyện ra như vậy. Phúc nói ngay là Phúc không báo cáo với Mỹ Điền chuyện này, rồi bảo tôi là lúc nghe nói, Phúc cũng nghĩ chỉ là nói đùa, nhưng về nhà cứ suy nghĩ đâm ra bán tín bán nghi chẳng biết tôi đùa hay thật, nên mới hỏi 'cấp trên trực tiếp' vì nghĩ là bạn tôi chắc hiểu rõ tôi hơn. Phúc cũng không dám nói tên người mà Phúc đã hỏi, nhưng qua cách nói tôi biết không phải là Niêm, và chỉ còn Biện.
Hôm sau tôi vào bộ môn sớm, qua văn phòng nói chuyện với ông Thám và Cô Hoa và kể cho hai người nghe chuyện này. Càng nói tôi càng thấy bực thêm và khi thấy Biện vào tôi làm như không biết, tiếp tục nói lớn hơn. Tôi nói những quân làm antenne chỉ điểm, ở trại học tập sẽ bị nhét c...t vào miệng và chùm mền đánh cho như tử. Về sau nghe cô Hoa kể lại, nói, “Lúc ông Châu nói như thế, thấy ông Biện mặt tái đi và lình qua phòng giáo sư”
Nhưng tới trưa, sau giờ ăn ở cafeteria, chúng tôi lại như thường lệ kéo nhau sang quán cà phê gốc me ở khu kế bên uống cà phê. Hôm đó tôi nhớ có tôi, Biện, Dũng, Thạch và Cung. Thạch mới đi học tâp về, trước dậy ở trương Sinh Ngữ Quân Đội. Phúc Anh văn trưa hôm đó ở lại bộ môn không đi. Ngồi uống cà phê xong lúc gần về, tôi nói với tất cả biết sự vụ và hỏi thẳng Biện có phải Biện đã báo cáo cho Mỹ Điền hay không. Tôi nói tôi muốn biết để khỏi nghi người nọ ngưòi kia, còn Biện nếu có nói thì cũng chỉ là làm nhiệm vụ của mình thôi. Ngồi yên cả phút đồng hồ, Biện nói ngắn gọn, “Tôi nói.” Thấy mọi người đều im lặng, tôi nói, “Được rồi. Thế là không còn gì để thắc mắc nữa và coi như không có gì xẩy ra.”
Lúc về lại trường, Biện đi nhanh về bộ môn trườc, bọn tôi lững thững đi sau.Thạch là người đầu tiên nói, “Thật không thể tin được.” Cung nói tiếng Anh, “It's against my principle,” Dũng có vẻ bị xúc động nhất, nói, “ Thế này thì biết tin vào ai. Chỉ còn môt nhóm với nhau mà bây giờ ra cơ sự này.” Thế rồi mọi chuyện cũng qua đi, không khác gì “một trận bão trong chén trà,” và tôi vẫn giữ thái độ với Biện như cũ, vì dù sao nói chuyện với Biện vẫn thoải mái hơn là mấy giảng viên Nga văn. Nhưng trong số bạn bè ở trường thì hơi khác. Một hôm thấy tôi và Biện nói chuyện với nhau ở sân trường trên đường lên văn phòng, Bs. Ngà ở Khu Bệnh Lý hỏi tôi sao còn chuyện trò với người như thế. Tôi nói chuyện đã qua rồi, vả lại ngày nào cũng gặp nhau, nếu không thèm nhìn nhau nữa thì còn làm cho tôi khó chịu hơn.
Trong một buổi họp mặt ở nhà Phúc Pháp văn, sao khi nhậu ngà ngà, ngồi uống cà phê, Phúc coi chỉ tay cho một người nhờ xem là có đường nào xuất ngoại được không. Biện ngồi kế bên cũng giơ tay cho Phúc coi hộ hậu vận. Phúc nhìn bàn tay rồi khen hậu vận rất đẹp, không thua gì thởi trước 75, có điều là ngay cả đối với bạn bè, nếu cần là “hạ thủ bất lưu tình.” Mọi người hơi ngỡ ngàng, nhìn nhau rồi nói lảng sang chuyện khác.
Một hôm tôi hết giờ dậy ra về thì khi ra cổng, thấy Đính ngồi trên xe xích lô. Đính ngoắc tôi lại và hỏi tại sao không nói cho biết chuyện Biện, nếu muốn “tao đập cho nó một trận.” Đính ở tù gần một năm mới được về vì tội vượt biên, sống ngoài lề đường với chiếc xích lô. Tôi đùa bảo Đính bỏ qua đi Tám, mày muốn lãnh thêm tôi đánh cán bộ giảng hay sao. Đoạn tôi nói với Đĩnh hãy bỏ qua đi, dù sao thì chuyện cũng đã rồi, nuôi lòng oán hận thì mình làm mệt mình trước mà thôi.
Nói sao làm vây, hàng ngày gặp nhau ở bộ môn, tôi đối xử với Biện bình thường như không có chuyện gì đã xẩy ra. chúng tôi buổi trưa vẫn ra quán cà phê gốc me ngồi nhâm nhi chuyện trò, lâu lâu còn đến nhà một học trò cũ của Biện nhậu hay tới những quán cà phê mới mở tại tư gia các gia đình ở khu Phú Thọ. Rồi tới mùa sầu riêng, Biện rủ bọn tôi về Long Thành thăm vườn của mẹ Biện, và chúng tôi được dịp ăn mít tố nữ chín cây, và đặc biệt sầu riêng không hột mà Biện nói chỉ có một cây độc nhất trong vườn, và chỉ dành cho người trong nhà và thân hữu. Sau này khi tôi đã nghỉ dậy ở Y Khoa, được tin bạn bè trong bộ môn báo bà cụ Biện đã mất, tôi đi theo các bạn tới phúng viếng và ân cần chia buồn. Khi Biện hoạt động ở Hội Trí Thức Yêu Nước phụ trách việc sắp xếp giờ dậy cho các giảng viên Anh văn, đã xếp giờ cho tôi dậy hai lớp vào buổi tối và tôi đã dậy tới khi đi Canada. Về chuyện này, Dũng có lần nói đùa với tôi, “Biện nó thấy có nợ với ông nên tìm cách trả đấy.”
Cuộc sống ngày càng dễ chịu hơn vì thỉnh thoảng tôi được ông anh ở Canada gửi cho thùng quà, cái gì cần dùng thì giữ lại, còn không đem ra chợ trời bán mà tôi gọi là “ tái sản xuất.” Các lớp dậy tư ở nhà hay tới nhà học trò ngày một nhiều hơn. Đám học trò trường Tầu cũ tự tổ chức nhóm rồi tới mời Duỳn Sáng ( NguyễnSinh) tới dậy, có nhóm tôi dậy hơn mười năm tới khi người tổ chức nhóm được đi Mỹ.
Quảng chơi tennis ở Cercle Sportif với chị Nga, vợ Lý Quý Chung, từ trước đó, sau biết tôi đã chơi tennis được liền kéo tôi vào nhóm và gìới thiệu với chị Nga. Lúc chị Nga cần người dậy Anh văn cho năm đứa con, Quảng không dậy nên giới thiệu tôi. Tôi dậy cả nhóm này nhiều năm. Ngoài dậy học, tôi còn thường xuyên chơi mạt chược với chị Nga cùng với Quảng và vài người khác, trong đó cả cả nhạc phụ chị Nga là Lý Quý Phát, cựu phó đô trường Saigon. Ông này Tầu lai, nên tôi không phải là đối thủ mạt chược của ông được. Chị Nga làm các món ăn Tây ta cực giỏi, nhờ chị tôi biết ăn sôi và chè sầu riêng, mà trước năm 1975, khi được học trò biếu sầu riêng tôi đều chuyển cho ông anh họ.
Khoảng năm 1977-78, các bạn anh Trung là những bác sĩ quân y bị kẹt lại đi học tập tục tục trở về, tôi lại có thêm môt số bạn mới, như Tiến Cò, Nghĩa, Thịnh, Thụ và em của Lâm là Lai học trên anh Trung một lớp. Tất cả những người này khi về đều được làm bác sĩ trưởng phòng y tế phường, ai cũng được cấp nhà riêng, hay ở chung tại trụ sở y tế phường và đều ở khu Chợ Lớn. Trừ Nghĩa không được may mắn, mấy người kia phòng mạch rất đông khách, ngoài giờ làm ở phường, thời gian còn lại khám bệnh ở nhà, sáng sớm và chiều tối phòng mạch đông như chẩn y viện.
Chồng khám bệnh, vợ bán thuốc, tiền thu vào không kể xiết. Riêng Thịnh và Lai nổi tiếng nhất ở khu vực đường Tản Đà và Tạ Uyên quận 11, đến độ đã có câu “ Nhất Thịnh, nhì Lai.” Tiến vẫn ở lại và làm lớn ở Bệnh viện Nhi Đồng, ba người kia đều ra đi. Gia đình Nghĩa không bao giờ tới bến bờ, còn Thịnh và Lai được đi chính thức theo diện H.O. Qua ở San Jose. Tôi cũng dậy Anh văn cho hai con của Thịnh và ba con của Lai nhiều năm trời và vì quá thân nên bọn nhỏ đều gọi tôi là Sư Phụ và hai con của Thịnh goị tôi là Bố Châu. Thụ về ở khu Lý Trần Quán, làm bác sĩ ở phường, phòng mạch ở nhà không có nhiều khách như vùng Chợ Lớn.
Vì có ba lớp Anh văn 'nòng cốt' này và mấy lớp học trò Tầu nên tôi không còn lo gì nữa, tới khi nghỉ dậy ở Y Khoa để chờ xuất cảnh vẫn bình chân như vại. Các con của chị Nga, Thịnh và Lai đều rất thành công. Chị Nga hồi đầu một thời gian mở tiệm cơm tấm ngon nổi tiếng ở khu Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn, về sau mở một Restaurant Café Thanh Niên tại sân quần vợt ở góc Nguyễn văn Chiêm và Hai Bà Trưng đông khách. Vợ chồng tôi trước khi đi Canada có ghé lại tiệm để ăn và từ biệt chị Nga.
Bạn mới và bạn cũ cũng lần lượt ra đi. Kiệt và Nghĩa trước khi đi đều qua trại của Trù ở Tân Qui Đông tập bơi cho thạo và tắm nắng cho đen, để khi đi về vùng biển trông không khác người địa phương, đỡ bị lộ. Kiệt trước khi đi còn ghé tôi cho một lô quần short, nói là cho con trai tôi, đồ này từ cửa hàng của cô bạn gái. Kiệt đi hai lần mới thoát, lần đầu ghe chìm, gần chết thì được ghe chài cứu. Nghĩa thì nói chẳng có gì, cho tôi ít thuốc bổ và trụ sinh kèm theo cái ống nghe, bảo tôi nếu Nghĩa đi thoát thì tôi bán ống nghe đi hoặc cho ai cũng được. Sau này tôi đã đưa cho Thịnh. Thụ cũng đi thoát, chúng tôi chỉ được tin do cô em họ còn ở lại cho biết.
Người bạn Y Khoa ra đi sớm do vợ bảo lãnh là Bs. Ngà. Chị Ngà và con trai vượt biên được tầu Đan Mạch vớt nên qua định cư ở nước này. Ngà thường kể chuyện vợ con cho tôi nghe, nào hai mẹ con được cấp nhà hai phòng ngủ, con trai được luyện cả bóng đá là môn cháu ưa thích. Khi chị Ngà đã đủ điều kiện bảo lãnh chồng thì được cấp nhà mới lớn hơn. Thời gian này Ngà tới nhờ tôi dượt Anh văn để chuẩn bị đi. Ngà qua Đan Mạch rồi sau đó xin được qua Mỹ, ở San Jose. Năm 2012 tôi qua San Jose dự Class Reunion ĐHSP '61, đã có dịp gặp lại, ăn nhậu và chơi tennis với Ngà và Lai, em của Lâm. Cũng tại San Jose, tôi đã nhiều lần gặp lại Hoan. Quảng và Lâm cũng sống ở đây, và mỗi khi tôi qua Đính cũng từ San Francisco lái xe xuống. Ở vùng Orange County thì có Lê Anh Dũng và Nguyễn Viết Long. Tóm lại qua được Cali thì Nam hay Bắc đều được gặp bạn cũ dậy ở Y khoa, bên ly rượu nhắc chuyện xưa, chẳng còn gì vui thú cho bằng.
Sau nhiều thập niên xa cách, cuối cùng bốn đứa cũng có cơ may được gặp lại nhau tại Bắc California
Tuy đời sống không còn những lo lắng như trước, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn cảm thấy ở đây chỉ như tạm bợ. Chính tôi phải dạy học suốt tuần mới đủ ăn, khiến tôi đôi lúc thảng thốt không biết các con sau này chúng nó sống ra sao. Không có gan đi chui thì phải lo đường đi chính thức, nhất là sau khi con gái tôi, lúc đó mới lên tám, luyện tập thể dục dụng cụ tại Club Hippique cũ, được nữ huấn luyện viên từ Bắc vào tận tình hướng dẫn. Vì thấy cháu có năng khiếu nên cô này đã đề nghị cho cháu được đi tập huấn hai tháng hè ở ở Trung tâm Huấn Luyện Từ Sơn, Hà nội. Tôi phải lên Sở Thể Thao thành phố làm giấy tờ kèm theo giấy chứng nhận của công an phường. Nhưng cháu đã bị từ chối vì lý lịch Bắc Kỳ Di Cư của tôi.
Cuối năm 1978, anh tôi đã gửi cho tôi một giấy bảo lãnh. Nhưng vì hồi đó tôi chưa bị thôi thúc về chuyện ra đi và nhất là thấy trong tờ giấy chỉ có tên tôi nên tôi bỏ qua một bên. Tới đầu năm 1980, bạn thân của tôi và Dũng là Khôi, trước làm ở Nha Công Tác Quốc Tế thuộc Bộ Giáo Dục, được đi Canada theo diện đoàn tụ. Tôi bèn nhờ Khôi cầm thơ tay qua cho anh tôi nhắc tới chuyện bảo lãnh. Anh tôi bảo dùng giấy bảo lãnh đó đươc rồi và tôi làm theo, quả nhiên đơn được chấp thuận.
Yên tâm được phần nào, tôi tà tà dậy học, dành nhiều thì giờ hơn cho mạt chược và tennis. Vào chơi với nhóm chị Nga và Quảng, quần áo và giầy tennis phải phải nâng cấp vì trong nhóm nhiều người có thân nhân ở ngoại quốc gửi đồ xịn cho. Giầy mau hư nên hầu như ai cũng phải lót đế giầy bằng lốp xe hơi, thường là lót phía mũi và gót. Việc này có các thợ lành nghề lo, khâu và dán keo rất điệu nghệ, sài mãi mới mòn. Tôi còn đem cái bao vợt Wilson tới chỗ chuyên may túi xách, nhờ họ làm cho túi đeo vai đựng đồ nghề, phần ngoài may luôn túi đựng vợt này vào. Thế là tôi có túi đựng sách vở dậy học kèm theo cả chỗ đựng chiếc vợt Wilson 2000 cán ống nhôm, rất phổ biến thời đó.
Sở dĩ tôi làm túi này vì sau giờ dậy buổi trưa ở Y Khoa, tôi có thể phóng xe đi thẳng tới CLB Lao Động chơi tennis. Một hôm đang chơi ở sân Số 1 kề ngay hàng hiên lớn có kê bàn ăn uống giải khát, phía trên là ban-công một hội trường lớn. Khi tôi đang chơi thì trên hội trường có khóa họp cán bộ từ các nơi về dự. Tới giờ nghỉ, các cán bộ ra đứng ở ban công ngó xuống coi thiên hạ chơi tennis, từ sân Số 1 tới sân Số 4, rồi tới hồ bơi.
Tôi chợt nghe hai người nòi chuyện với nhau, một người như cố tình nói
lớn để mấy người dưới sân có thể nghe được, “Tới bây giờ mà chúng nó vẫn
còn chơi quần vợt được!” Từ đó tôi mới quyết định đem theo vợt tới
trường xem họ khó chịu tới mức nào. Không biết các cán bộ có nghĩ gì về
tôi hay không, chỉ thấy đám sinh viên gốc Ngụy có thiện cảm với tôi ra
mặt. Một hôm dậy xong giờ cuối, tôi trở lại văn phòng soạn bài giảng.
Lúc ra về đã gần sáu giờ. Lúc tới chỗ xuống cầu thang thì một nhóm sinh
viên năm thứ hai vẫn còn ở đó sinh hoạt tổ. Một nữ sinh viên đang hát
bài “Khúc hát Thanh Xuân”. Em này tôi cảm thấy rất Nguỵ, mặc áo trắng
vải tuyn hở cổ rất rộng, đeo một cái thánh giá bạc thiệt lớn, đầy vẻ
thách thức. Tôi dừng lại nghe em hát hết bài rồi mời đi tiếp. Các em giữ
tôi lại và yêu cầu tôi hát một bài. Xúc động vì bài hát của em, lúc hát
em mơ màng nhìn về một cõi xa xăm nào đó, tôi nói vì hát dở nên ngâm –
đúng ra là đọc – một bài thơ cũ. Tôi nghĩ ngay tới bài Tiếng Hát Buổi
Chiều Mùa Xuân của Thái Thủy mà tôi rất thích, đăng ở Sáng Tạo từ ngày
tôi còn học ở Văn Khoa. Bài thơ dài nên chỉ ghi lại bốn câu đầu và bốn
câu cuối:
Anh bỡ ngỡ trong chiều xuân nắng đẹp,
Người yêu nhau đầy đại lộ công viên.
Tiếng em hát đưa anh về quá khứ,
Những bước song hàng trên lối đi quen...
....
Mình không ngờ minh si mê đến thế,
Ba năm còn giữ trọn giấc mơ xưa.
Để chiều nay nghe tiếng hát em thơ,
Thấy môi mặn, ô hay mình vừa khóc!
Bài thơ về một cuộc tình lỡ, buồn và đẹp lung linh, sặc mùi tiểu tư sản. Cả nhóm sinh viên đều ngồi yên lặng, em lúc trước đó hát hai mắt rưng rưng lệ. Tôi cũng không ngờ mình xúc động đến như vậy, vội cười lớn nói, “Thôi, thầy về. Các em học tập tốt, lao động tốt nghe.”
Đơn xin xuất ngoại đã nộp rồi, việc quan trọng là phải tìm mối chạy mới nhanh được, quy luật muôn đời vẫn là “nhất thân, nhì thế, tam tài, tứ chế.” Thân và thế ngó quanh không thấy, thứ ba là tiền thì ít tôi còn lo được, nếu nhiều đành thua. Khoản thứ tư thì coi như chờ sung rụng. Vậy mà bỗng dưng tôi thấy có đường thoát. Một người bà con rất thân với gia đình bà xã tôi từ Bắc vào công tác, nói có bạn là công an làm ở Sở Ngoại Vụ lo về xuất cảnh, có thể nhờ giúp được. Một hôm bà này tới nói với vợ chồng tôi chỉ cần đưa cho bạn mình 3.000 đồng làm quà là được rồi.
Chuyện này tôi đã quên, nhưng mấy năm sau khi đói quá tôi mới nhớ lại và hỏi Đính làm bếp có giỏi không và có biết làm thịt chó không. Đính nói “làm bếp là nghề tay phải của tao và làm thịt chó thì tao là số 1”. Thế là từ đó tôi xách đồ nghề theo “thầy đi làm thịt chó”. Lần đầu tiên tôi và Đính tới làm thịt chó ở nhà chị Ngọc. Chồng chị Ngọc là bác sĩ giám đốc Bệnh Viên Da Liễu nên được cấp một villa rất đẹp trên đường Hiền Vương gần Pasteur. Vì nhà lớn nên Bộ Y Tế còn cho Bs. Hậu , phu trách giáo vụ Trường Y và Vĩnh, một nhân viên Bộ Y tế nữa độc thân, ở ghép một từng. Vì không có chỗ “hành nghề” nên tôi và Đính rủ chị Ngọc “đánh đụng” với chúng tôi. Chị Ngọc đồng ý ngay và nói sẽ bảo mấy người kia phụ một tay nữa. Vì được chuẩn bị kỹ từ trước và có nhiều người phụ nên chúng tôi đã giải quyết con chó và hoàn tất đủ cảc món chó luộc, chó nướng chả, dồi chó, dựa mận, chỉ thiếu món tiết canh. Tối hôm đó chỉ có Đính, Bs. Hậu, Vĩnh và tôi nhậu, làm hết một chai nếp Lúa Mới đem từ Bắc vào. Vợ chồng chị Ngọc và hai con không đợi được, ăn trước từ sớm, lấy phần để hôm sau ăn. Khi rượu đã ngấm, con người thật của Bs. Hậu mới để lộ ra. Cái lạnh lùng xa cách hàng ngày ở cơ quan không còn nữa. Anh ta ăn uống nói chuyện tự nhiên cởi mở hơn hẳn bình thường. Nhưng đột nhiên anh trở nên ít nói, ngồi uống thêm liền hai chung nhỏ rồi bỏ vào nằm ở giường kê gần đó. Tôi để ý thấy anh cứ trằn trọc và lâu lâu lại thở dài sườn sượt. Đính cũng để ý thấy và sau nói với tôi là ở cơ quan cán bộ nào cũng đeo một cái mặt nạ.
Lần thứ nhì mà tôi và Đính đi làm thịt chó là khi Niêm rủ chúng tôi mua chung con chó và về làm ở nhà Niêm. Vợ chồng anh này được cấp căn nhà gia nhân ở một góc sau Bệnh viện Đồn Đất. Tôi và Đính làm xong thì chia thịt rồi ai về nhà người nấy. Niêm gốc nam Trung bộ, tập kết ra Bắc. Như các cán bộ khác, Niêm ít nói, rất dè dặt dối với đám Nga văn, còn hơn đối với chúng tôi.
Lần cuối cùng tôi và Đính mua một con chó về làm ở nhà tôi. Vì chỉ có một bếp dầu nhỏ nên đợi khá lâu mới có nồi nước sôi để cạo lông chó. Trong khi đang chuẩn bị các thứ khác ở trong bếp thì chợt nghe tiếng ăng ẳng nho nhỏ ở ngay sau lưng. Tôi đang ngồi xổm nhặt rau thơm, hoảng qua đứng vọt dậy. Liền lúc đó nghe tiếp được tiểng “ẳng” lớn hơn từ bao bố vang ra. Hóa ra là con chó chưa chết, có lẽ chỗ mổ nhỏ và sinh viên khâu kỹ nên con chó chưa chết. Khi thuốc mê mất dần hiệu lực, con cho tỉnh lại và kêu. Đính nói phải kết liễu con chó đi vì nếu để nó tỉnh lại hẳn thì không thể nào dội nước sôi để cạo lông được. Tôi vội vàng lấy cái chầy để gần đó đưa cho Đính. Chúng tôi chỉ làm mấy món chính như luộc, dồi và chả nướng. Đính nhường cho tôi cái đầu, bảo để nấu cháo “bồi dưỡng” cho hai đứa con nhỏ của tôi, và Đính còn nói óc chó bổ lắm. Tối hôm đó vợ tôi được một vố sợ nhớ đời khi cô ấy đi làm về trễ, lúc mở tủ lạnh ra lấy nước uống thì thấy cái đầu chó nhăn răng ra cười, sợ quá ngã ngồi bệt xuống đất. Từ đó về sau tôi không còn làm thịt chó ở nhà nữa.
Sau đợt giảng viên Nga Văn, mấy năm sau bộ môn còn nhận thêm bốn giảng viên trẻ một Anh văn là Phúc 1, ba Pháp văn là Sơn, Thanh Bình và Phúc 2. Sơn và Thanh Bình đều là đoàn viên Thanh niên Cộng Sản. Hai người này về sau gây cho Mỹ Điền nhiều bối rối và bực bội.
Khoảng năm 1978 trở đi khi các vụ vượt biên bán chính thức được tổ chứ ồ ạt thì Trường Y cũng bị ảnh hưởng. Trước đó thì các bác sĩ cũng bỏ đi lai rai, nhưng từ khi có vượt biên bán chính thức thì số bác sĩ đông hơn nhiều. Lý do là những người tổ chức phần lớn là người Hoa, mà đi bán chính thức thì bảo đảm không bị công an bắt. Chủ tầu thường kiếm bác sĩ cho đi miễn phí để lo chăm sóc sức khỏe cho thân nhân và giao thiệp với nhà cầm quyền nước tầu cập bến vì thông thạo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Cũng vì tham nên chủ tầu cùng nhà cầm quyên nhận tối đa số người xin đi. Buổi tối trước ngày khởi hành chủ tầu đã cho người vượt biên xuống ém kín khoang một tầu đậu ở Cát Lái, nhiều đến độ tầu không chịu nổi bị chìm. Số người không lên kịp chết rất nhiều, trong đó có vô địch quần vợt Nguyễn Văn Sĩ.
Trong những buổi họp bộ môn, Mỹ Điền thường đem chuyện những người từ ngoại quốc trở về giúp nước kể cho chúng tôi nghe và phê phán những người cứ tính chuyện bỏ đi. Ông hay nhắc tới một bà ở Bộ Môn Vi Sinh đã cùng chồng từ Canada tình nguyện về giúp nước. Ông nhấn mạnh cặp vợ chồng này mỗi người kiếm mấy ngàn dollar một tháng, nay trở về nước lãnh lương 90 đồng. Tôi còn nhớ bà này nhỏ con, trắng trẻo, hàng ngày đi xe máy PC tới trường. Sau lại biết thêm bà là cháu của Thứ trưởng Bộ Đại Học Hoàng Xuân Trường và khi về được bố trí về làm việc ngay ở trường tôi. Thế nào đi nữa thì quyết định về nước của bà này cũng rất đáng nể. Nhưng chỉ một năm sau tôi không thấy bà đi xe PC tới trường nữa, và ít lâu sau chúng tôi được biết vợ chồng bà này đã vượt biên, không những đi một mình mà còn kéo hết cả đại gia đình tới mấy chục người!
Chuyện này vẫn còn âm vang thì lại tiếp tới chuyên Thanh Bình. Là một giảng viên trẻ, đẹp, vui tính, và còn là một đoàn viên TNCS, cô là mẫu người mà Mỹ Điền rất tin tưởng. Mỷ Điền rất thích khi cô này chuyển câu đầu bài “Từ thành phố này Người đã ra đi ” sang tiếng Pháp và hát, “ De cette ville Il est parti.” Điền cười tít mắt và nói, “Đây chính là new blood.” Ý muốn nói bọn tôi là loại máu cũ, tạm sài mà thôi. Nhưng một hôm không thấy Bình vào dậy học, qua hôm sau thì có tin cô đã vượt biên. Điền kéo tôi và một hai người nữa theo địa chỉ tìm tới tận nhà cô Bình. Chúng tôi đứng trước của nhà cô đã bị niêm phong, mỗi người một ý nghĩ riêng, rồi lẳng lặng ra về.
Một bác sĩ khác đã vượt biên thành công, nhưng thời điểm vượt biên của ông không hiểu vô tình hay cố ý đã đặt nhà trường vào một tình huống bối rối và chúng tôi được nở từng khúc ruột. Bs. Ân chuyên về tiết niệu là học trò cưng của Giáo sư Ngô Gia Hy, cả hai làm việc tại Bệnh viện Bình Dân. Người ta nói GS. Hy là cháu của Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Đảng bộ Nam Kỳ. Bị Pháp bắt và đầy đi Côn Đảo cùng với Phạm Hùng năm 1933 và sau đó mất tích trong một chuyến vượt ngục vào đầu năm 1935. Tôi còn nhớ GS. Hy có vẻ thoải mái hơn các giáo sư và bác sĩ khác, và trong một lần nói chuyện với các sinh viên, ông chấm dứt bằng câu, “Các em hãy nhớ sau các em còn có tôi.” Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì, mà lại nghĩ tới câu nói của Tổng thống Diệm, “Sau Hiến pháp còn có tôi.”
Hôm đó là buổi chót của một hội nghị báo cáo chuyên đề, Bs. Ân được chờ đợi lên trình bầy một đề tài về niệu khoa tại đại giảng đường vào hồi 2 giờ chiều với sự có mặt của đại diện Bộ Y tế, ban lãnh đạo trường, toàn thể cán bộ giảng và sinh viên. Đúng 2 giờ chúng tôi mới từ Bộ Môn đi xuống, tưởng đã trễ, nhưng tới cửa giảng đường nhìn lên bục giảng ở sân khấu vẫn trống trơn. Mọi người bắt đầu ngơ ngác, xì xào hỏi nhau. Đợi tới 2:30 thì một nhân viên lên lấy micro thông báo Bs. Ân bị bệnh bất ngờ không thể đến được. Đề tài sẽ được trình bầy vào một ngày khác. Ai nấy đều không tin, và quả thực hôm sau vào trường tôi được bác Thám báo tin nghe nói Bs. Ân đã vượt biên. Hiện nay Bs. Ân ở Montréal, Canada, rất tích cực hoạt động trong cộng đồng người Việt.
Sơn là đoàn viên trẻ, rất hoạt động, em trai Bs. Nguyễn Ngọc Phượng, y sĩ sản phụ khoa. Bà này có chồng cũng là một bác sĩ. Ông này đi Pháp tu nghiệp nhưng đã ở lại không về nước, bỏ cả vợ luôn. Bà Phương được chính quyền mới ưu đãi, cất nhắc lên làm giám đốc Bệnh viện Từ Dũ và liên tiếp đắc cử dân biểu Quốc Hội. Thời gian này ông Ngô Như Bình đã không còn là Khoa trưởng và đã xin nghỉ về mở phòng mạch tư ở Tân Định. Hiệu trưởng Trường Đại Học Nha Y Dược TpHCM là BS, Trung, một người Nam, nhưng người thực sự nắm quyền là bí thư đảng ủy Mười Năng, người Bắc, nắm giữ hiệu bộ.
Không rõ Mỹ Điền có vấn đề gì với hiệu bộ mà ông thường xuyên bị Sơn công kích, không phải với tư cách cá nhân mà với là đại diện đoàn trường. Cho tới khi tôi đã gần xin nghỉ để hoàn tất hồ sơ xuất ngoại năm 1983 thì Mỹ Điền tới khu làm việc thất thường. Hôm tôi chính thức nghỉ, bộ môn có tổ chức tiệc nhỏ tiễn tôi. Mỹ Điền không vào, nhưng viết mấy chữ từ biệt nhờ ông Thám đọc. Tôi còn nhớ ông Điền trước khi chúc tôi may mắn được xuất ngoại đoàn tụ với gia đình, đã nói lý do ông không tới dự “như một cách phản đối lề lối làm việc Mao-ít của ban lãnh đạo nhà trường.” Tôi chẳng hiểu Mao-ít với Mao-nhiều là sao, nhưng rõ ràng là hiệu bộ đã dùng Sơn để phá Mỹ Điền khiến ông này chán nản.
Mỹ Điền đối với Quảng và tôi rất lịch sự và tốt. Ngay từ lúc mới về nắm bộ môn, Mỹ Điền đã nhờ Quảng và tôi lo giúp về mặt chuyên môn. Vì Quảng ít nói và có vẻ xa cách nên Mỹ Điền thường chuyện trò với tôi nhiều hơn. Tôi được Mỹ Điển cho biết đã đi Pháp đi Anh trước khi về Bắc sau năm 1954. Mỹ Điền công tác ở cả bên Y tế lẫn Ngoại giao, có lẽ nhờ vốn liếng ngoại ngữ của mình. Mỹ Điền người Nam, tính tính cởi mở, dễ dãi với tất cả các giảng viên. Ngay mấy năm đầu Mỹ Điền đã mua được một thửa đất khá lớn ở ngay bên kia sông Thanh Đa. Khi Mỹ Điền mời một nhóm bọn tôi khoảng 5, 6 người trong đó tôi nhớ có Biện, Dũng, chị Chỉnh và chị Mỵ Khanh qua thăm trại thì đã thấy một ngôi nhà hoàn chỉnh khá đẹp xây bằng vật liệu nhẹ.
Khu đất đã có hàng rào, một phần đất dành cho căn nhà và vườn nhỏ bao quanh, hai phần còn lại đã được thuê người đào mương đắp vồn, nói để trồng cây nuôi cá. Mỹ Điền nói đây là kế hoạch quy điền sau này, tôi hỏi đùa không phải là phục viên hay sao. Bữa BBQ hôm đó thiệt vui, Mỹ Điền đem một chai đế quốc doanh ra mời, nói rất tiếc không có rượu tây. Mặt tôi hay đỏ, mới uống hai chung nhỏ đã đỏ ửng, chị Chỉnh bảo đừng uống nữa, rượu vào lời ra đó. Tôi tiện thể, mượn hơi rượu rỡn ngay, “Mình đánh đế quốc Pháp cũng thắng, đánh đế quốc Mỹ cũng thắng, chỉ thua có đế Quốc doanh.” Mọi người đều cười và Mỹ Điền là người cười to nhất.
Khi nhà trường tuyển thêm nhiều sinh viên vào học thì nhu cầu giảng viên Anh văn cũng tăng theo. Mỹ Điền hỏi tôi cho biết ý kiến về những người nạp đơn xin. Lần đầu tôi nói ngay chỉ có ý kiến về khả năng chuyên môn mà thôi, thì Mỹ Điền cười và nói ngay vấn đề chính trị thì “dưới nhà” họ lo, đâu đến lượt tôi, ý muốn nói Phòng Tổ chức ở dưới nhà. Thời gian này có nhiều giáo sư Anh văn thuộc Trường Sinh Ngữ Quân Đội hay một số nhân viên cao cấp cũ đã đi học tập trở về, nên bộ môn tôi đông hẳn lên. Tôi gặp lại các bạn cũ như Nguyễn Viết Long dậy Trung tâm Thính Thị Anh Ngữ và trước đó dậy ở Mỹ Tho với tôi từ đầu thập niên 60, Tô Cao Hoan bạn học từ thời ở Văn Khoa dậy ở Sinh Ngữ Quân Đội, Phước Tôn Tẫn – vì có tật ở chân -- và Phạm Văn Cung, giám đốc Innotech, và một vài người nữa mà tôi không còn nhớ tên. Phía nữ có chị Trần Thị Thức, vợ ông Đoàn Viết Hoạt. Cánh đàn ông chúng tôi sau giờ ăn trưa thường qua quán cà phê gốc me ở khu trại tạm cư kế bên ngồi nhâm nhi cà phê bí tất và nói đủ thứ chuyện trên đời.
Một hôm Nguyễn văn Niêm kéo tôi vào bureau, và khi tôi vừa ngồi xuống đối diên thì đột nhiên hỏi tôi tại sao không nói giống như các cán bộ khác, dùng các từ như “giản đơn, khẩn trương, hồ hởi …” vì muốn đề bạt tôi làm phụ tá giáo vụ bộ môn, lo giúp phần Anh văn. Chắc Niêm nghĩ nghe được như vậy tôi sẽ mừng lắm và nhận lời nên hỏi thẳng không rào đón gì cả. Niêm đã thoáng ngạc nhiên khi tôi trả lời ngay là tôi cám ơn nhưng không nhận lời đề nghị. Niêm hỏi tôi tại sao lại từ chối, tôi mỉm cười trả lời, “Lý do đơn giản là tôi chỉ thích dạy học, không thích công việc hành chính, điều khiển người khác, vì tôi nhiều khi không điều khiển được chính tôi. Vì lợi ích của sinh viên và của cả bộ môn, xin để tôi tiếp tục công tác giảng dạy thôi.” Niêm hỏi tiếp tôi, “Thế anh có đề nghị một người nào khác không?” Tôi nói ngay nếu cần một người có đầu óc tổ chức và thành thạo công việc hành chánh thì ở bộ môn có Biện là thích hợp nhất. Niêm cám ơn tôi và ít tuần sau Biện trở thành phụ tá của Niêm.
Tới khoảng năm 1979-80 thì tinh thần tôi xuống thật thấp vì những bạn bè thân quen nhất của tôi lần lượt vượt biên. Lã Hoàng Trung đi bán chính thức, rồi cô Liên Hoa thư ký bô môn có chồng tổ chức vượt biên, cả hai đều thoát. Mất anh Trung tôi thật hụt hẫng vì chúng tôi đi đâu cũng có nhau, các bạn bè mới thân thiết tôi có được hầu như đều qua anh Trung. Sau này liên lạc lại được với anh Trung, anh nói là lúc ở đảo chờ đi Mỹ thì gặp cô Hoa ở đó. Anh trách cô Hoa sao tổ chức vượt biên mà không cho tôi một vài chỗ, tôi không có cây thì qua được bên này sẽ trả sau. Cô Hoa nói chồng có chân trong tổ chức nhưng không có quyền quyết định. Sau này khi tôi sang được Canada, gia đình cô Hoa ở Montréal đã xuống Ottawa chơi với chúng tôi.
Thấy người ta đi thì tôi cũng muốn, nhưng tôi biết là mình rất nhát, thuộc nhóm mà thời đó gọi là “Trí thức 3 N,” nôm na là “nghèo, ngu, nhát.” Nghèo vì không có cây, ngu vì gần 30-4 người ta đôn đáo tìm đường chạy còn mình yên tâm đợi Trung lập, và nhát vì ngày 29 và 30-4 người ta chạy tứ tung, tới Tòa Đại Sứ Mỹ, ra Bến Bạch Đằng, qua Khánh Hội, tới Tân Cảng, thấy chỗ nào có tầu là chạy tới. Anh họ tôi là Lã Huy Qúy, người đầu tiên bơi qua sông Bến Hải năm 1955, và sau đó là nghệ sĩ Thanh Hùng, “ngâm sĩ” của Đài Phát Thanh Saigon, đều đi thoát hôm 30-4.
Anh Quý kể hôm 30-4 anh Thanh Hùng cõng con trên vai ở bến Bạch Đằng, vừa đi vừa khóc, vì nếu kẹt lại thì “chỉ có chết!” Vây mà anh đi thoát, trong khi tôi cố thủ trong nhà. Lắm lúc tôi nghĩ nếu sáng 29-4 tôi cứ đưa vợ con tới Toà TLS Mỹ với tờ điên tín bảo lãnh thì biết đâu đó. Nghĩ vậy thôi chứ nếu thực sự có cơ hội, chưa chắc tôi đã dám đi. Điều này có thể chứng minh được là một hôm bạn tôi là Đ Q Anh Thái đến nói với tôi là anh của chị Thức tổ chức vượt biên nhiêù lần thành công. Và đây là chuyến chót, cả Thái cũng đi, nếu muốn tôi được dành cho hai chỗ, qua bên đó trả tiền sau. Tôi nói để hỏi ý vợ tôi có để cho tôi đi trước với con trai lớn, còn vợ tôi và con gái ở lại chờ tôi nếu đi thoát sẽ bảo lãnh qua sau. Vợ tôi sợ lắm nhưng không có ý cản, nhưng tôi thì “rét” thực sự, ra nói với Thái rằng nếu đi thì đi cả bốn, cùng sống cùng chết với nhau, thay vì chia đôi. Thái đã dành hai chỗ đó cho cặp vợ chồng bạn chung của chúng tôi, và chuyến đó đã thành công.
Các giảng viên trong bộ môn cũng trước sau lần lượt ra đi. Chị Hiếu, có chồng là trung tá không quân còn đang đi học tập, đã đưa con đi trước. Tuần lễ trước khi đi, chị bảo tôi đến nhà và cho tôi bộ Bách khoa Từ điển Britannica. Chị không nói và tôi cũng không hỏi. Mấy ngày trước khi đi, chị thật căng thẳng, vào bộ môn buổi trưa nằm vật lên bureau, “thở hắt ra.” Đây là tiếng của chị dùng, chị nói với tôi, “Sao cứ thở hắt ra mãi thế này!”
Rồi đến lượt Long. Long phải đi hai lần mới thoát. Lần đầu đi đường thủy, ghe chết máy lênh đênh trên biển mấy ngày. Hết nước, may Long có chiếc bật lửa Dupont nên xé quần áo và gỗ vụn, đun nước biển sôi lên, lấy vải hứng hơi nước nhấm nhấm cho đỡ khát. Lúc bị bắt về, con trai út suýt chết vì mất nước, môi thâm xì, người đã lả đi, mắt nhìn chỉ thấy lòng trắng. Lần sau đi đường bộ qua Campuchia, đường đi gian khổ nhưng may mắn bình an vào được Thái Lan. Khi còn ở trại chờ qua Mỹ, vợ chồng Long có chụp ảnh gửi về cho vợ chồng tôi. Nhìn vợ chồng Long đứng mua hàng ở siêu thị mà buồn muốn khóc.
Tôi xin viết thêm về Long, phần vì thân quen quá lâu, phần vì đời Long có nhiều tình huống khiến ta phải nghĩ tới câu “Họa phúc khôn lường”. Long ra Sư Phạm Anh Văn sau tôi hai năm và cũng được bổ về dây ở Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, nơi tôi lúc đó đang dậy. Cũng như Đính, tôi chơi thân với Long ngay. Long nhỏ tuổi hơn tôi nhưng đã lập gia đình và mới có con đầu lòng. Buổi tối tôi thường ghé lại nhà Long ngồi nói chuyện và nghe nhạc. Năm 1964 khi tôi lập gia đình, vợ chồng tôi càng chơi thân với vợ chồng Long hơn. Long có ông anh đại tá trong quân đội, nhờ quen biết lo cho Long về Saigon, không phải dậy học mà làm ở Bộ Thanh Niên, rồi sau xin được về dậy tại Trung Tâm Thính Thí Anh Ngữ . Năm 1969 có lệnh tổng động viên, các giáo sư đệ nhị cấp chỉ học chín tuần căn bản quân sự ở Quang Trung rồi được cho về nhiệm sở cụ phục vụ với cấp bậc trung sĩ.
Lúc chúng tôi về lại trường thì Long xách ba lô lên Thủ Đức học tiếp để mãn khóa ra chuẩn úy. Ông anh Long nghĩ làm như vậy là tốt cho Long, không giống chúng tôi nếu có lệnh gọi đi lính lại thì còn phải học nữa hoặc có thể đi tác chiến ngay. Quả vậy, với thời gian Long lên lon thiếu úy và tới năm 75 thì đã là trung úy. Cũng vì là sĩ quan mà Long phải đi học tập cải tạo, trong khi bọn tôi yên thân. Nhớ hồi Long lên Thủ Đức, cuối tuần nào không được về phép, tôi lại lấy xe Honda 67 chở chị Long lên thăm Long. Và sau 4-75, khi Long phải đi học tập cải tạo, chị Long ở nhà sanh cháu út. Hôm đón chị Long từ nhà bảo sanh về, tôi kéo được cả hai ông bạn bác sĩ Trung và Kiệt đi hộ tống lên tận apartment ở lầu 5 building đường Nguyễn Cư Trinh.
Còn nhớ trưa 1-5-75 khi tôi đang ở trong nhà cầu ở chung cư Nguyễn Thiện Thuật đốt từng cuốn Playboy mà Long đã cho tôi vì sợ tội tàng trữ văn hóa Mỹ Nguỵ thì có ai gõ cửa. Vợ tôi ra mở cửa thì hóa ra vợ chồng Long. Chúng tôi ôm lấy nhau mà chẩy nước mắt. Tôi tưởng gia đình Long đã đi thoát vì trưa 28-4 vợ chồng Long ghé nhà tôi từ giã, nói rằng ông anh Long là trưởng ban tổ chức di tản chỉ lo được gia đình Long mà thôi. Long đưa cho tôi tờ giấy ủy quyền lĩnh lương tháng cuối dậy ở Hội Việt Mỹ, nói rằng nếu tôi lãnh được thì cứ sài, rồi hai vợ chồng lên xe Vespa nói về đón các con đi vào Tổng Tham Mưu đợi. Không đợi tôi hỏi, Long giải thích là chiều hôm đó Long được ông anh cho vào ở một villa ngay trước cây săng Esso đối diện cổng Tổng Tham Mưu mà chủ nhân đã di tản, cho an toàn.
Nhưng sau khi Tân Sơn Nhứt bị dội bom, rồi thiết quân luật và pháo kích, vợ chồng Long đợi hoài không thấy ai tới đón, qua ngày 30-4 thì tuyệt vọng và sợ, phải bỏ villa trở về nhà cũ. Tình cảm tôi lúc đó thật lẫn lộn, vừa buồn cho Long không đi thoát, vừa có chút mừng vì còn có bạn tưởng không biết bao giờ thấy nữa. Chị Lan vợ Long mở ví lấy ra đưa cho tôi hai lượng vàng, Long nói là biết bọn tôi lúc này cần tiền nên cứ giữ để phòng về sau. Tôi rất xúc động và nói sao cho nhiều thế và trả lại một cây. Long bảo bọn tao biết sức có thể cho được bao nhiêu, cứ giữ lấy đừng thắc mắc gì cả. Tôi còn ngờ nghệch nói bây giờ Việt Cộng đã vào đây, đâu còn dùng tới vàng. Long cười và nói, “Để tao đưa mày đi xem vàng có còn dùng tới hay không.” Long bảo chị Lan ở lại với nhà tôi rồi cùng tôi đi xuống lầu lấy xe Vespa chở tôi đi vào đường Nguyễn Tri Phương, ghé vào một tiệm cơm tây nhỏ trước trạm xăng đối diện với tiệm Mì Hải Ký, kêu hai đĩa bí-tết và hai chai 33. Long bảo ăn đi, mai mốt nếu còn tiền kiếm mấy món này cũng khó.
Ăn uống xong, Long bảo tôi đưa lại cho Long một cây vàng rồi lấy xe chở tôi tới một nhà cũng ở gần đó bán lấy tiền mặt. Nhân thấy có người ngồi bán mấy thùng sữa bột SMA trên lề đường, Long bảo tôi mua một thùng cho ông cụ bà xã tôi vì hồi đó ông cụ đang bị ung thư, thứ này vừa lành vừa bổ. Đoạn Long chạy xe về về hướng Hồng Thập Tự gần rạp Olympic, nới bầy bán nhiều thứ được dân chúng hôi của từ building trụ sở của cơ quan USAID. Long bảo tôi thích gì Long mua cho, tôi nói không, Long chọn mua một ghế xoay còn mới toanh nói để ngồi làm việc. Thùng sữa để dưới chân Long, tôi ôm chiếc ghế về nhà Long cất đi, rồi Long mới về nhà tôi để đón chị Lan về. Cây vàng còn lại tôi đã dùng ngay cuối năm đó cùng với sợi giây chuyền vàng y nặng một lượng nhà tôi đeo trong ngày cưới, để mua căn nhà đâu lưng với mặt tiền đối diện với tiệm phở Tầu Thủy đường Nguyễn Thiện Thuật. Mua được căn nhà là chuyện không bao giờ tôi nghĩ tới vì bình thường tôi không bao giờ có đủ khả năng.
Sau này khi thiên hạ vượt biên rất nhiều, tôi biết Long có thừa khả năng để đi nên tôi cứ thấp thỏm, không biết lúc nào Long sẽ đi. Sợ nếu quá thân lúc Long đi tôi sẽ bị sốc nặng, nên tôi âm thầm chuẩn bị tâm lý bằng cách gặp Long ít hơn. Điều này làm tôi đau lòng, nhất là vợ chồng Long cũng để ý thấy và than với bà xã tôi. Tới khi qua Canada và liên lạc lại được với Long, mãi tôi mới có dịp thuận tiện và tự nhiên để giải thích cho vợ chồng Long hiểu, lòng tôi mới tạm yên ổn được phần nào. Sau này khi đi thoát qua Thái Lan bằng đường bộ, Long viết thư về cho tôi bảo tôi cứ yên tâm mà sống, chạy vạy nhiều như Long tuy cuối cùng may mắn thành công, nhưng phải nếm đủ thứ gian khổ mà tôi không thể biết được như tù cải tạo, vượt biên đường thủy suýt chết vì đói khát và còn tù tội, rồi vượt biên đường bộ cũng rất gian nan.
Rồi chị Chỉnh và chị Mỵ Khanh cũng lần lượt vượt biên thoát. Người cuối cùng là Đính. Chuyện vượt biên của gia đình Đính cũng gian khổ, giống như Long nhưng không may bằng Long. Lần đầu Đính đi dường Biển và cả nhà bị bắt ở Gò Công. Vợ con được thả nhưng Đính bị tù gần một năm. Được thả về, Đính không trình diện ở Y Khoa nữa. Vì nhà đã bị tịch thu nên không có chỗ ở, Đính trốn chui trốn nhủi ngoài đường phố. Vì vậy mới chạy xích lô, tối đến táp vào gồc cây nào đó ngủ. Đêm nào nhớ vợ con thì liều về nhà bà già ở Thị Nghè thăm, sáng sớm lại ra đi.
Vậy mà có lần CA địa phương cũng biết tới xét, bà xã Đính phải chạy tiền mới được tha. Sau tên công an ăn tiền quen, cho Đính về miễn là nộp tiền cho hắn. Sau tình cờ có người quen giới thiệu cho đi đường bộ qua ngả Campuchia giá rẻ, chỉ mất hai cây vàng. Lần này chỉ có Đính và cháu Sơn 10 tuổi đi thôi, không hiểu Đính chỉ còn đủ cây cho hai bố con, hay là đi đường bộ rất nguy hiểm nên chỉ có hai người đàn ông đi. Trước khi đi, Đính có đến rủ tôi, nhưng tôi nói không dám đi, Đính chửi quá nhưng tôi chỉ ngồi cười. Vì đã dặn trước, nếu bị lộ thì mạnh ai người ấy chạy, nên khi bị lính CS rượt đuổi tán loạn, Đính chạy thoát và cháu Sơn bị bắt và đưa về lại Saigon. Tôi còn nhớ hồi đó báo SGGP (Saigon Giải Phóng) có loan tin chuyện này, với tít: “Người Tù Mười Tuổi Trẻ Tuổi Nhất Khám Chí Hòa.” Đính qua được Thái Lan rồi qua Mỹ. Về sau chị Đính còn đưa cháu Sơn lại nhà tôi để tôi kèm Anh văn và nhờ tôi giới thiệu với Côn, huấn luyện viên tennis ở CLB Lao Động, dạy cháu chơi quần vợt.
Còn ở lại như tôi và Lê Anh Dũng đều chỉ hy vọng được bảo lãnh ra đi trong an toàn, không sợ bị công an bắt, hải tặc cướp và bão biển nhận chìm. Vì biết tính mình nên về sau tôi không còn bị bận tâm về chuyện vượt biên nữa. Tôi chờ đợi anh tôi ở Canada gửi giấy bảo lãnh cho tôi. Tôi thoải mái làm việc, giờ rảnh tôi dành cho tennis và mạt chược. Nhờ đã được dậy tư trở lại nên cuộc sống của chúng tôi thật dễ chịu, Sáng sớm tôi đi học Tài Chi tuần ba lần, ba buổi kia chơi tennis, khi ở Câu Lạc Bộ Lao Động, khi ở Sân Thoại Ngọc Hầu, Gia Định. Các buổi tối chơi mạt chược với bạn hay vợ con, cuối tuần đi coi đá bóng. Tôi và Lê Anh Dũng thường đi nhậu bia hơi ở đường Trần Hoàng Quân, tối về đã thấm hơi rượu, đứng ở góc tối xế nhà xác Bệnh viện Hồng Bàng, thoải mái nhìn sao trên trời.
Tính tôi hay nói rỡn, tưởng ai cũng hề hề như mình rồi xong, nhưng không ngờ lại đưa tới một vụ làm cho đám Ngụy trong bộ môn một phen rúng động. Thấy Phúc Anh Văn rất hăng hái làm việc một hôm tôi đùa bảo Phúc, “Nếu cậu cứ phát huy tích cực mặt này, tôi sẽ đề nghị cho cậu vào thẳng Đảng, khỏi phải qua Đoàn.” Nói xong tôi và Phúc cùng cười, vì thực sự chỉ là câu nói đùa. Nhưng đúng là “Họa do khẩu xuất.” Mấy tuần sau một hôm Mỹ Điền gọi tôi vào bureau, bảo tôi ngồi xuống rồi nghiêm mặt nói, “Anh có biết câu anh nói trong bộ môn tưởng là đùa nhưng đối với “những người dưới nhà” là một Lèse majesté hay không? Vì biết tính anh từ lâu nên tôi bỏ qua, nếu 'dưới đó ' họ biết thì nhẹ là anh mất việc, mà nặng là đi học tập cải tạo mút mùa. Anh không cần biết ai đã báo cáo cho tôi chuyện này, chỉ cần anh hãy hết sức cẩn thận lời ăn tiếng nói.”
Ra khỏi phòng Mỹ Điền đầu óc tôi còn lùng bùng, không phải vì cái tội Khi Quân tầy đình kia, mà không hiểu tại sao giữa đám Ngụy với nhau lại cạn tầu ráo máng như vậy.Tôi quyết định phải hỏi cho ra lẽ. Hai hôm sau Phúc có giờ dậy, hết giờ tôi rủ Phúc xuống cafeteria uống nước và hỏi Phúc tại sao biết tôi nói đùa mà lại lớn chuyện ra như vậy. Phúc nói ngay là Phúc không báo cáo với Mỹ Điền chuyện này, rồi bảo tôi là lúc nghe nói, Phúc cũng nghĩ chỉ là nói đùa, nhưng về nhà cứ suy nghĩ đâm ra bán tín bán nghi chẳng biết tôi đùa hay thật, nên mới hỏi 'cấp trên trực tiếp' vì nghĩ là bạn tôi chắc hiểu rõ tôi hơn. Phúc cũng không dám nói tên người mà Phúc đã hỏi, nhưng qua cách nói tôi biết không phải là Niêm, và chỉ còn Biện.
Hôm sau tôi vào bộ môn sớm, qua văn phòng nói chuyện với ông Thám và Cô Hoa và kể cho hai người nghe chuyện này. Càng nói tôi càng thấy bực thêm và khi thấy Biện vào tôi làm như không biết, tiếp tục nói lớn hơn. Tôi nói những quân làm antenne chỉ điểm, ở trại học tập sẽ bị nhét c...t vào miệng và chùm mền đánh cho như tử. Về sau nghe cô Hoa kể lại, nói, “Lúc ông Châu nói như thế, thấy ông Biện mặt tái đi và lình qua phòng giáo sư”
Nhưng tới trưa, sau giờ ăn ở cafeteria, chúng tôi lại như thường lệ kéo nhau sang quán cà phê gốc me ở khu kế bên uống cà phê. Hôm đó tôi nhớ có tôi, Biện, Dũng, Thạch và Cung. Thạch mới đi học tâp về, trước dậy ở trương Sinh Ngữ Quân Đội. Phúc Anh văn trưa hôm đó ở lại bộ môn không đi. Ngồi uống cà phê xong lúc gần về, tôi nói với tất cả biết sự vụ và hỏi thẳng Biện có phải Biện đã báo cáo cho Mỹ Điền hay không. Tôi nói tôi muốn biết để khỏi nghi người nọ ngưòi kia, còn Biện nếu có nói thì cũng chỉ là làm nhiệm vụ của mình thôi. Ngồi yên cả phút đồng hồ, Biện nói ngắn gọn, “Tôi nói.” Thấy mọi người đều im lặng, tôi nói, “Được rồi. Thế là không còn gì để thắc mắc nữa và coi như không có gì xẩy ra.”
Lúc về lại trường, Biện đi nhanh về bộ môn trườc, bọn tôi lững thững đi sau.Thạch là người đầu tiên nói, “Thật không thể tin được.” Cung nói tiếng Anh, “It's against my principle,” Dũng có vẻ bị xúc động nhất, nói, “ Thế này thì biết tin vào ai. Chỉ còn môt nhóm với nhau mà bây giờ ra cơ sự này.” Thế rồi mọi chuyện cũng qua đi, không khác gì “một trận bão trong chén trà,” và tôi vẫn giữ thái độ với Biện như cũ, vì dù sao nói chuyện với Biện vẫn thoải mái hơn là mấy giảng viên Nga văn. Nhưng trong số bạn bè ở trường thì hơi khác. Một hôm thấy tôi và Biện nói chuyện với nhau ở sân trường trên đường lên văn phòng, Bs. Ngà ở Khu Bệnh Lý hỏi tôi sao còn chuyện trò với người như thế. Tôi nói chuyện đã qua rồi, vả lại ngày nào cũng gặp nhau, nếu không thèm nhìn nhau nữa thì còn làm cho tôi khó chịu hơn.
Trong một buổi họp mặt ở nhà Phúc Pháp văn, sao khi nhậu ngà ngà, ngồi uống cà phê, Phúc coi chỉ tay cho một người nhờ xem là có đường nào xuất ngoại được không. Biện ngồi kế bên cũng giơ tay cho Phúc coi hộ hậu vận. Phúc nhìn bàn tay rồi khen hậu vận rất đẹp, không thua gì thởi trước 75, có điều là ngay cả đối với bạn bè, nếu cần là “hạ thủ bất lưu tình.” Mọi người hơi ngỡ ngàng, nhìn nhau rồi nói lảng sang chuyện khác.
Một hôm tôi hết giờ dậy ra về thì khi ra cổng, thấy Đính ngồi trên xe xích lô. Đính ngoắc tôi lại và hỏi tại sao không nói cho biết chuyện Biện, nếu muốn “tao đập cho nó một trận.” Đính ở tù gần một năm mới được về vì tội vượt biên, sống ngoài lề đường với chiếc xích lô. Tôi đùa bảo Đính bỏ qua đi Tám, mày muốn lãnh thêm tôi đánh cán bộ giảng hay sao. Đoạn tôi nói với Đĩnh hãy bỏ qua đi, dù sao thì chuyện cũng đã rồi, nuôi lòng oán hận thì mình làm mệt mình trước mà thôi.
Nói sao làm vây, hàng ngày gặp nhau ở bộ môn, tôi đối xử với Biện bình thường như không có chuyện gì đã xẩy ra. chúng tôi buổi trưa vẫn ra quán cà phê gốc me ngồi nhâm nhi chuyện trò, lâu lâu còn đến nhà một học trò cũ của Biện nhậu hay tới những quán cà phê mới mở tại tư gia các gia đình ở khu Phú Thọ. Rồi tới mùa sầu riêng, Biện rủ bọn tôi về Long Thành thăm vườn của mẹ Biện, và chúng tôi được dịp ăn mít tố nữ chín cây, và đặc biệt sầu riêng không hột mà Biện nói chỉ có một cây độc nhất trong vườn, và chỉ dành cho người trong nhà và thân hữu. Sau này khi tôi đã nghỉ dậy ở Y Khoa, được tin bạn bè trong bộ môn báo bà cụ Biện đã mất, tôi đi theo các bạn tới phúng viếng và ân cần chia buồn. Khi Biện hoạt động ở Hội Trí Thức Yêu Nước phụ trách việc sắp xếp giờ dậy cho các giảng viên Anh văn, đã xếp giờ cho tôi dậy hai lớp vào buổi tối và tôi đã dậy tới khi đi Canada. Về chuyện này, Dũng có lần nói đùa với tôi, “Biện nó thấy có nợ với ông nên tìm cách trả đấy.”
Cuộc sống ngày càng dễ chịu hơn vì thỉnh thoảng tôi được ông anh ở Canada gửi cho thùng quà, cái gì cần dùng thì giữ lại, còn không đem ra chợ trời bán mà tôi gọi là “ tái sản xuất.” Các lớp dậy tư ở nhà hay tới nhà học trò ngày một nhiều hơn. Đám học trò trường Tầu cũ tự tổ chức nhóm rồi tới mời Duỳn Sáng ( NguyễnSinh) tới dậy, có nhóm tôi dậy hơn mười năm tới khi người tổ chức nhóm được đi Mỹ.
Quảng chơi tennis ở Cercle Sportif với chị Nga, vợ Lý Quý Chung, từ trước đó, sau biết tôi đã chơi tennis được liền kéo tôi vào nhóm và gìới thiệu với chị Nga. Lúc chị Nga cần người dậy Anh văn cho năm đứa con, Quảng không dậy nên giới thiệu tôi. Tôi dậy cả nhóm này nhiều năm. Ngoài dậy học, tôi còn thường xuyên chơi mạt chược với chị Nga cùng với Quảng và vài người khác, trong đó cả cả nhạc phụ chị Nga là Lý Quý Phát, cựu phó đô trường Saigon. Ông này Tầu lai, nên tôi không phải là đối thủ mạt chược của ông được. Chị Nga làm các món ăn Tây ta cực giỏi, nhờ chị tôi biết ăn sôi và chè sầu riêng, mà trước năm 1975, khi được học trò biếu sầu riêng tôi đều chuyển cho ông anh họ.
Khoảng năm 1977-78, các bạn anh Trung là những bác sĩ quân y bị kẹt lại đi học tập tục tục trở về, tôi lại có thêm môt số bạn mới, như Tiến Cò, Nghĩa, Thịnh, Thụ và em của Lâm là Lai học trên anh Trung một lớp. Tất cả những người này khi về đều được làm bác sĩ trưởng phòng y tế phường, ai cũng được cấp nhà riêng, hay ở chung tại trụ sở y tế phường và đều ở khu Chợ Lớn. Trừ Nghĩa không được may mắn, mấy người kia phòng mạch rất đông khách, ngoài giờ làm ở phường, thời gian còn lại khám bệnh ở nhà, sáng sớm và chiều tối phòng mạch đông như chẩn y viện.
Chồng khám bệnh, vợ bán thuốc, tiền thu vào không kể xiết. Riêng Thịnh và Lai nổi tiếng nhất ở khu vực đường Tản Đà và Tạ Uyên quận 11, đến độ đã có câu “ Nhất Thịnh, nhì Lai.” Tiến vẫn ở lại và làm lớn ở Bệnh viện Nhi Đồng, ba người kia đều ra đi. Gia đình Nghĩa không bao giờ tới bến bờ, còn Thịnh và Lai được đi chính thức theo diện H.O. Qua ở San Jose. Tôi cũng dậy Anh văn cho hai con của Thịnh và ba con của Lai nhiều năm trời và vì quá thân nên bọn nhỏ đều gọi tôi là Sư Phụ và hai con của Thịnh goị tôi là Bố Châu. Thụ về ở khu Lý Trần Quán, làm bác sĩ ở phường, phòng mạch ở nhà không có nhiều khách như vùng Chợ Lớn.
Vì có ba lớp Anh văn 'nòng cốt' này và mấy lớp học trò Tầu nên tôi không còn lo gì nữa, tới khi nghỉ dậy ở Y Khoa để chờ xuất cảnh vẫn bình chân như vại. Các con của chị Nga, Thịnh và Lai đều rất thành công. Chị Nga hồi đầu một thời gian mở tiệm cơm tấm ngon nổi tiếng ở khu Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn, về sau mở một Restaurant Café Thanh Niên tại sân quần vợt ở góc Nguyễn văn Chiêm và Hai Bà Trưng đông khách. Vợ chồng tôi trước khi đi Canada có ghé lại tiệm để ăn và từ biệt chị Nga.
Bạn mới và bạn cũ cũng lần lượt ra đi. Kiệt và Nghĩa trước khi đi đều qua trại của Trù ở Tân Qui Đông tập bơi cho thạo và tắm nắng cho đen, để khi đi về vùng biển trông không khác người địa phương, đỡ bị lộ. Kiệt trước khi đi còn ghé tôi cho một lô quần short, nói là cho con trai tôi, đồ này từ cửa hàng của cô bạn gái. Kiệt đi hai lần mới thoát, lần đầu ghe chìm, gần chết thì được ghe chài cứu. Nghĩa thì nói chẳng có gì, cho tôi ít thuốc bổ và trụ sinh kèm theo cái ống nghe, bảo tôi nếu Nghĩa đi thoát thì tôi bán ống nghe đi hoặc cho ai cũng được. Sau này tôi đã đưa cho Thịnh. Thụ cũng đi thoát, chúng tôi chỉ được tin do cô em họ còn ở lại cho biết.
Người bạn Y Khoa ra đi sớm do vợ bảo lãnh là Bs. Ngà. Chị Ngà và con trai vượt biên được tầu Đan Mạch vớt nên qua định cư ở nước này. Ngà thường kể chuyện vợ con cho tôi nghe, nào hai mẹ con được cấp nhà hai phòng ngủ, con trai được luyện cả bóng đá là môn cháu ưa thích. Khi chị Ngà đã đủ điều kiện bảo lãnh chồng thì được cấp nhà mới lớn hơn. Thời gian này Ngà tới nhờ tôi dượt Anh văn để chuẩn bị đi. Ngà qua Đan Mạch rồi sau đó xin được qua Mỹ, ở San Jose. Năm 2012 tôi qua San Jose dự Class Reunion ĐHSP '61, đã có dịp gặp lại, ăn nhậu và chơi tennis với Ngà và Lai, em của Lâm. Cũng tại San Jose, tôi đã nhiều lần gặp lại Hoan. Quảng và Lâm cũng sống ở đây, và mỗi khi tôi qua Đính cũng từ San Francisco lái xe xuống. Ở vùng Orange County thì có Lê Anh Dũng và Nguyễn Viết Long. Tóm lại qua được Cali thì Nam hay Bắc đều được gặp bạn cũ dậy ở Y khoa, bên ly rượu nhắc chuyện xưa, chẳng còn gì vui thú cho bằng.
Sau nhiều thập niên xa cách, cuối cùng bốn đứa cũng có cơ may được gặp lại nhau tại Bắc California
Tuy đời sống không còn những lo lắng như trước, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn cảm thấy ở đây chỉ như tạm bợ. Chính tôi phải dạy học suốt tuần mới đủ ăn, khiến tôi đôi lúc thảng thốt không biết các con sau này chúng nó sống ra sao. Không có gan đi chui thì phải lo đường đi chính thức, nhất là sau khi con gái tôi, lúc đó mới lên tám, luyện tập thể dục dụng cụ tại Club Hippique cũ, được nữ huấn luyện viên từ Bắc vào tận tình hướng dẫn. Vì thấy cháu có năng khiếu nên cô này đã đề nghị cho cháu được đi tập huấn hai tháng hè ở ở Trung tâm Huấn Luyện Từ Sơn, Hà nội. Tôi phải lên Sở Thể Thao thành phố làm giấy tờ kèm theo giấy chứng nhận của công an phường. Nhưng cháu đã bị từ chối vì lý lịch Bắc Kỳ Di Cư của tôi.
Cuối năm 1978, anh tôi đã gửi cho tôi một giấy bảo lãnh. Nhưng vì hồi đó tôi chưa bị thôi thúc về chuyện ra đi và nhất là thấy trong tờ giấy chỉ có tên tôi nên tôi bỏ qua một bên. Tới đầu năm 1980, bạn thân của tôi và Dũng là Khôi, trước làm ở Nha Công Tác Quốc Tế thuộc Bộ Giáo Dục, được đi Canada theo diện đoàn tụ. Tôi bèn nhờ Khôi cầm thơ tay qua cho anh tôi nhắc tới chuyện bảo lãnh. Anh tôi bảo dùng giấy bảo lãnh đó đươc rồi và tôi làm theo, quả nhiên đơn được chấp thuận.
Yên tâm được phần nào, tôi tà tà dậy học, dành nhiều thì giờ hơn cho mạt chược và tennis. Vào chơi với nhóm chị Nga và Quảng, quần áo và giầy tennis phải phải nâng cấp vì trong nhóm nhiều người có thân nhân ở ngoại quốc gửi đồ xịn cho. Giầy mau hư nên hầu như ai cũng phải lót đế giầy bằng lốp xe hơi, thường là lót phía mũi và gót. Việc này có các thợ lành nghề lo, khâu và dán keo rất điệu nghệ, sài mãi mới mòn. Tôi còn đem cái bao vợt Wilson tới chỗ chuyên may túi xách, nhờ họ làm cho túi đeo vai đựng đồ nghề, phần ngoài may luôn túi đựng vợt này vào. Thế là tôi có túi đựng sách vở dậy học kèm theo cả chỗ đựng chiếc vợt Wilson 2000 cán ống nhôm, rất phổ biến thời đó.
Sở dĩ tôi làm túi này vì sau giờ dậy buổi trưa ở Y Khoa, tôi có thể phóng xe đi thẳng tới CLB Lao Động chơi tennis. Một hôm đang chơi ở sân Số 1 kề ngay hàng hiên lớn có kê bàn ăn uống giải khát, phía trên là ban-công một hội trường lớn. Khi tôi đang chơi thì trên hội trường có khóa họp cán bộ từ các nơi về dự. Tới giờ nghỉ, các cán bộ ra đứng ở ban công ngó xuống coi thiên hạ chơi tennis, từ sân Số 1 tới sân Số 4, rồi tới hồ bơi.
Anh bỡ ngỡ trong chiều xuân nắng đẹp,
Người yêu nhau đầy đại lộ công viên.
Tiếng em hát đưa anh về quá khứ,
Những bước song hàng trên lối đi quen...
....
Mình không ngờ minh si mê đến thế,
Ba năm còn giữ trọn giấc mơ xưa.
Để chiều nay nghe tiếng hát em thơ,
Thấy môi mặn, ô hay mình vừa khóc!
Bài thơ về một cuộc tình lỡ, buồn và đẹp lung linh, sặc mùi tiểu tư sản. Cả nhóm sinh viên đều ngồi yên lặng, em lúc trước đó hát hai mắt rưng rưng lệ. Tôi cũng không ngờ mình xúc động đến như vậy, vội cười lớn nói, “Thôi, thầy về. Các em học tập tốt, lao động tốt nghe.”
Đơn xin xuất ngoại đã nộp rồi, việc quan trọng là phải tìm mối chạy mới nhanh được, quy luật muôn đời vẫn là “nhất thân, nhì thế, tam tài, tứ chế.” Thân và thế ngó quanh không thấy, thứ ba là tiền thì ít tôi còn lo được, nếu nhiều đành thua. Khoản thứ tư thì coi như chờ sung rụng. Vậy mà bỗng dưng tôi thấy có đường thoát. Một người bà con rất thân với gia đình bà xã tôi từ Bắc vào công tác, nói có bạn là công an làm ở Sở Ngoại Vụ lo về xuất cảnh, có thể nhờ giúp được. Một hôm bà này tới nói với vợ chồng tôi chỉ cần đưa cho bạn mình 3.000 đồng làm quà là được rồi.
Tôi không còn nhớ nếu đổi ra vàng thì được bao nhiêu vào thời điểm
1980-81, nhưng lương tôi lúc đó là $60, sau được thêm $30 trợ cấp cho
cán bộ khoa học. Sau khi bán vài món đồ, chúng tôi gom góp đủ số tiền và
hí hửng chờ đợi vì nhờ được đúng tổ con chuồn chuồn. Mấy tuần sau người
đó trở lại, nói cô chú chuẩn bị đi, một hai tháng nữa sẽ có xuất cảnh.
Tôi mừng rơn và nghĩ phải thanh toán cái gì trước cho gọn nhà. Đầu tiên
là tôi bán tủ sách, chỉ giữ lại mấy quyển thường dùng để dậy học. Đây là
tù sách chọn lọc các sách giáo khoa Anh văn mà tôi đã mua từ thời học
đại học cho tới khi đi dậy tính ra đã hơn hai muơi năm. Tôi gọi môt anh
bạn quen bán sách ở chợ trời và anh này đề nghị $200, tôi bán ngay để
giải quyết cho lẹ. Anh ấy bỏ sách đầy ba bao bố, xếp lên xích lô cao gần
tới mặt người đạp xe.
Biết chuyện đi đứng của tôi có chiều hướng thuận lợi, Dũng bảo tôi đi coi bói xem sao. Dũng biết ông thầy bói Kim ở đường Võ Tánh, nổi tiếng về bói Dịch. Tôi theo Dũng tới nhà thầy bói Kim, xin coi một quẻ. Ông thầy đưa cho tôi mấy đồng tiền kẽm, tập trung ý nghĩ vào việc muốn biết, rồi thả mấy đồng tiền xuống bàn. Ông coi các mặt xấp ngửa, bấm đốt ngón tay tính toán, rồi phán một câu ngắn gọn nhưng dư lực làm tôi xìu như trái bong bóng hết hơi, “Theo quẻ này tôi không thấy có long có mã, nếu ông tính chuyện đi đứng thì tôi thấy không có đường nào đi cả!” Nhận $15 thù lao, ông thầy bảo tôi nếu dăm bẩy tháng chưa thấy gì thì trở lại xem có gì biến chuyển hay không. Ra về, tôi tuy thất vọng nhưng tự trấn an rằng biết đâu ông thầy chả bói sai trong khi mình nhờ được chỗ tin cẩn.
Mấy tháng sau Dũng lại đưa tôi tới một chỗ khác ở miệt Gia Định mà tôi chỉ còn nhớ nhà bà thầy bói ở trong một xóm, lối vào nhà qua một rặng tre. Bà thầy bói bài tây và xem cả chỉ tay, nhưng tôi thấy chỉ bói chung chung, không dứt khoát như thầy bói Kim. Tôi ra về, lo chuyện dậy học và chờ đợi thôi. Tôi dậy thêm mấy nhóm, và phải ra chợ trời chỗ người bạn mua lại mấy cuốn sách mà tôi đã bán cho anh ấy. Có điều mua có năm cuốn mà tôi đã phải trả gần bằng cả tủ sách mà trước đó mấy tháng tôi đã bán ra, vậy mà vẫn lấy làm mừng vì chưa bị ai mua mất.
Chờ đợi cả năm trời không thấy được gọi lên lấy xuất cảnh, mà người bà con bà xã đã ra lại ngoài Bắc, nên vợ chồng tôi bán tín bán nghi không biết mình có bị lừa hay không. Cho tới sau này khi được gọi lên bổ túc hồ sơ thì mới biết chắc mình đã bị lừa, vì theo thủ tục không thể có ngay xuất cảnh sau khi chỉ nộp đơn. Và tới nay chúng tôi vẫn không biết ai đã lừa, người bà con hay là người bạn bà này hay là cả hai!
Đến đầu năm 1983 khi tôi không còn mấy hy vọng nữa thì đột nhiên nhận được giấy báo bổ túc hồ sơ xuất cảnh. Chuyện nộp đơn xin xuất cảnh tôi chỉ nói bóng nói gió trong bộ môn, nhưng ai cũng biết chuyện là tôi đã tính đi. Một hôm chị Ngọc nói với tôi là có gặp ông Mười Năng, đảng ủy hiệu bộ, ông này nói với chị rằng tình hình này chắc ông Mỹ Điền sớm muộn sẽ không còn làm trưởng bộ môn nữa, và hỏi chị nghĩ sao về tôi. Chị Ngọc nói hình như tôi đã nạp đơn xin xuất cảnh đoàn tụ gia đình rồi. Mười Năng nói thế thì hỏng bét, phải tính lại chuyện khác thôi. Nghe chị Ngọc nói vậy, tôi bèn nói ngay là quả thực tôi sẽ xin nghỉ khi nhận được giấy báo bỏ túc hồ sơ, và nhắc lại chuyện Niêm đề nghị tôi làm phụ tá giáo vụ bộ môn nhưng tôi đã từ chối.
Tôi vào gập Mỹ Điền báo cho biết tôi sẽ nạp đơn xin nghỉ. Điền nói biết nếu có cơ hội là tôi cũng đi thôi và còn nói tôi là giảng viên cuối cùng trước 75 còn sót lại. Mỹ Điền lúc đó cũng có vẻ đã mệt mỏi và không còn tin tưởng gì nhiều sau khi những người mà ông ta coi là gương mẫu cho bọn tôi đã lần lượt trốn đi, và nhất là giữa ông và hiệu bộ có vấn đề. Ông chúc tôi may mắn và cám ơn tôi đã giúp đỡ ông nhiều từ lúc ông về làm chủ nhiệm bộ môn.
Hồi đó các giáo viên dậy trung học xin xuất ngoại khi được gọi bổ túc hồ sơ có thể xin khất với nhà trường cho tới khi nào nhận được giấy xuất cảnh mới chính thức nghỉ việc. Tôi không rõ các đại học khác thì sao, nhưng riêng Trường Y thì không chấp nhận chuyện này, nói rằng cán bộ giảng đào tạo cán bộ cho nhà nước, nên nếu đã tính bỏ đi thì phải nghỉ luôn, vì có ở lại thì cũng không công tác tốt được, nếu không nói là có ảnh hưởng tiêu cực đối với nhân viên khác, nhất là đối với sinh viên. Đơn xin nghỉ của tôi được chấp thuận ngay và tôi được trả ba tháng lương cuối, hình như lúc đó được 124 đồng một tháng.
Hơn một năm sau tới giữa năm 1984 tôi mới được giấy báo gọi lãnh giấy xuất cảnh. Dĩ nhiên sau vụ mất tiền lần trước, tôi không nghĩ tới chuyện tìm mối chạy chọt nữa. Tôi tà tà dậy học, mở thêm một hai lớp cho có thêm thu nhập, giờ rảnh ban ngày chơi tennis, buổi tối chơi mạt chược với bạn bè, chuyện đi đứng lúc nào tới thì tới. Chính nhờ tâm lý đã ổn định mà cuộc sống của tôi thật thoải mái. Tuy vậy, đợi ít lâu sốt ruột tôi cũng đi tìm thầy để hỏi xem sao. Lần này không phải là thầy bói chuyên nghiệp mà là hai thầy tài tử, đều là bạn tôi.
Bùi Thế San và Nguyễn Nhật Duật đều là giáo sư, một người dậy Vạn Vật, một người dậy Việt Văn. Sau 4-75 họ còn có thêm nghề tay trái là coi bói, San chuyên về bói Dịch và Duật xem tử vi. Nghề tay trái này giúp hai bạn tôi đỡ tốn tiền quà sáng rất nhiều, đôi khi tôi còn được ăn ké. Duật lấy ngày giờ sanh của tôi rồi bấm tử vi, phán rằng tôi chưa thấy có đường đi. San bảo tôi lấy lọ tăm, bốc ra một ít. Đếm xong rồi tính toán, San nói theo quẻ này thì tôi đáng lẽ đã phải lãnh xuất cảnh rồi, không hiểu sao bây giờ vẫn chưa có. Bán tín bán nghi, nhưng nghe San nói vẫn thấy an ủi hơn nhiều, và tôi yên tâm chờ đợi. Khi đã lãnh xuất cảnh, tôi thấy ngày tháng ký xuất cảnh trước hôm San coi bói cho tôi khoảng hai tháng. Tôi không nghĩ là San giỏi hơn Duật, mà tôi và San hợp với nhau hơn. Trước khi tôi bốc tăm, San bảo tôi phải tập trung vào điều mình muốn biết, tâm có động thì quẻ mới ứng.
Đợi đến đầu năm 1986 thì tôi được giấy gọi đi gặp phái đoàn Canada phỏng vấn. Vì bạn tôi là Khôi cũng đã có gia đình được đi trước đây nên tôi khá yên tâm sẽ được chấp thuận. Điều làm tôi lo nghĩ là vấn đề sức khỏe. Sợ nhất là vụ chụp hình phổi vì Canada xứ lạnh nên rất khó khăn cho những ai phổi có vấn đề, và đám chụp hình phổi ở bệnh viện Chợ Rẫy tìm đủ mọi cách để moi tiền. Kinh nghiệm những người đã đi trước cho biết là phải ăn uống tẩm bổ cho tốt để lên cân. Thế là phở nước béo với hột gà ăn hàng ngày. Họ còn nói tuần lễ trước khi đi khám sức khỏe phải uống nước dừa cho phổi trong. Sau này tôi bị cao Cholesterol chắc một phần cũng vì giai đoạn này.
Ngày phỏng vấn cả nhà ăn mặc chỉnh tề, riêng tôi mặc đồ lớn đeo cravate đàng hoàng, giấy tờ để trong chiếc cặp da còn rất láng. Vì anh tôi sống ở bên kia Sông Ottawa thuộc Quebec nên người phỏng vấn hỏi tôi nói được tiếng Pháp không. Tôi nói được nhưng không lưu loát vì ít sử dụng, xin được nói tiếng Anh. Cuộc phỏng vấn cả nhà kéo dài gần tiếng đồng hồ, nhân viên di trú hỏi tôi về nhiều vấn đề. Tôi mừng thầm trong bụng vì nghĩ rằng như vậy là xuôi xẻ, nhưng cuối cùng ông này đứng lên bắt tay tôi và cám ơn, nói rất tiếc là Canada hiện chỉ cần công nhân chuyên môn. Vợ chồng tôi choáng váng, lúc về nhà chân đi bước thấp bước cao.
Bị từ chối, tôi phải làm hai việc thật gấp: viết thư báo cho anh chị tôi biết tự sự và hỏi coi thể kiếm cho tôi một việc làm trước nào đó ở Canada hay không, nếu có được lúc tái phỏng vấn sẽ có nhiều cơ may được chấp thuận.
Mặt khác, tôi nộp một đơn xin chuyển cảnh qua Mỹ mà anh vợ tôi đứng ra bảo lãnh. Nếu được, bên nào cho đi trước thì tôi theo bên đó. Sau khi đơn xin chuyển cảnh qua Mỹ được chấp thuận, tôi liên lạc được với bà Bùi Thạnh, cựu Hiệu Trưởng Anh Văn Hội Việt Mỹ, xin cấp lại cho tôi giấy chứng nhận đã dậy ở Hội Việt Mỹ. Giấy cũ hôm 1-5-1975 trong cơn hốt hoảng tập thể, tôi đã đốt cùng với collection Playboy mấy chục số mà Nguyễn Viết Long đã mua dần cho tôi. Bà Thạnh đã rất sốt sắng viết giấy chứng nhận cho tôi với những nhận xét rất thuận lợi.
Ít lâu sau, anh chị tôi gửi về cho tôi giấy tờ chứng nhân đã xin cho tôi được làm superintendent cho một chúng cư gồm 22 đơn vị ở Laval, Quebec. Chị tôi nói công việc này dân Canada chính gốc ít làm vì vửa phải làm giấy tờ như sổ sách kế toán vừa phải làm việc chân tay như lo sửa điện và ống nước. Chị tôi cũng nói đã nhờ một người bạn Canada làm ở Immigration để ý tới trường hợp của tôi. Để chuẩn bị tôi cũng tới tiệm sửa đồ điện của một người bạn tuần hai buổi phụ giúp để cho quen với đồ điện, còn về ống nước thì thua vì không quen biết ai.
Tới giữa năm 1987 tôi được gọi đi phỏng vấn lần thứ hai. Lần đầu tôi cứ yên chí mọi chuyện sẽ tốt đẹp nên không nhờ San và Duật coi bói trước cho tôi. Bị một cú rồi như chim phải tên, nên tôi có ý nhờ xem trước để chuẩn bị tâm lý. Hai ngày trước khi đi phỏng vấn, San và Duật đến tôi. Duật nói lần trước có thể ngày giờ sanh của tôi không chính xác nên lần này Duật lấy tử vi của hai đứa con tôi, rồi chiếu vào tử vi của tôi, thì không thể sai được, vì ngày giờ sanh của hai con tôi nhất địng phải đúng 100%. Sau khi đối chiếu ba lá số tử vi của tôi và hai con, Duật nói lần này không thể xểnh nữa. Bà xã tôi ngồi cạnh, nhờ San bói dịch xem có đi được không, vì nếu bà xã tôi kẹt thì coi như bọn tôi kẹt theo luôn. San đưa cho bà xã tôi ba đồng tiền kẽm, bảo tập trung vào điều mình muốn biết rồi gieo tiền vào cái bát. San nhặt tiền lên, tính toán một lúc rồi nói theo quẻ này thì chưa thấy có đường đi. Chúng tôi đồng ý là cứ đợi hai hôm nữa sẽ biết.
Rút kinh nghiệm, lần này đi gặp phái đoàn bọn tôi ăn mặc vừa phải, sơ mi cravate cho đủ phép lịch sự thôi, chứ không lên khung như lần trước. Lúc gặp nhân viên phái đoàn, ông này lịch sự mời chúng tôi ngồi rồi mở hồ sơ ra coi. Ông nhìn tôi cười cười rồi hỏi có biết tại sao tôi được gọi đi phỏng vấn hay không. Ông tính nói gì nhưng lại thôi và bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi mà tôi đã được hỏi lần trước. Ngồi nói chuyện hơn nửa tiếng tôi bắt đầu thấy lo vì để ý thấy các gia đình được chấp thuận thường hoàn tất cuộc phỏng vấn quanh mười lăm phút, trong khi lần trước cuộc phỏng vấn tôi khéo dài gần một tiếng. Quả nhiên một lúc sau, ông này cám ơn tôi và nói việc làm giám thị cho một chung cư không thích hợp với tôi vì tôi chỉ chuyên về dậy học . Dù tôi có biết về sửa điện, nhưng nhìn bàn tay tôi cũng biết tôi không thể nào sánh được với những người từ Đông Âu, nếu chọn tôi thì bất công đối với những người đó. Đoạn ông nói với bằng cấp và kinh nghiệm dậy học của tôi, hay nhất là nhờ anh chị tôi xin cho dậy học ở một trường nào đó.
Ra về tôi tuy thất vọng nhưng không buồn và bẽ bàng như lần trước. Tôi có cảm tưởng phái đoàn đã đọc trước hồ sơ và và các gia đình đã được quyết định từ trước tùy theo các tiêu chuẩn và chính sách di trú lúc đó. Việc phỏng vấn chỉ là một thủ tục nhận diện những người được chấp thuận. Sau khi bị từ chối hai lần liền, tôi không còn hy vọng gì nhiều về việc được đi Canada nữa, và chỉ chờ đợi được phía Mỹ gọi thôi. Đột nhiên vào đầu năm 1988 tôi được giấy gọi đi khám sức khỏe để làm thủ tục đi Canada vì cả nhà tôi đã được chấp thuận mà không cần phỏng vấn lại. Sau tôi mới biết là đầu năm 1988 Bộ Di Trú Canada cho một số đông những gia đình đã bị từ chối được phép nhập cư Canada và khoảng thời gian này chỉ kéo dài bốn tháng.
Tới giai đoạn cuối là khám sức khỏe để xuất ngoại của tôi vẫn có vấn đề. Hình phổi của tôi bị ghi “Sẹo lao ở đỉnh phổi trái đã ổn định.” và tôi phải đợi tái khám. Tôi gặp Bs. Bạch Cúc làm việc ở khu khám sức khỏe xuất ngoại ở Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi chuyện. Bác sĩ Bạch Cúc ra trường cùng năm với anh Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành và chúng tôi thỉnh thoảng vẫn đi chèo thuyền với nhau ở Thanh Đa cùng với Bác sĩ Trưởng khu Thái Minh Bạch. Bác sĩ Cúc nói đã xem phim phổi của tôi và nói tôi không bị lao, nhưng họ đã phê như vậy là có y muốn mình phải chạy thôi. Bs. Cúc bảo tôi phải dùng hạ sách: cho tôi uống thuốc lao Rimifon trong một tuần lễ. BS.Cúc nói làm như vậy là bất đắc dĩ, nhưng tin chắc tôi qua Canada sẽ không bao giờ bị lao cả. Bác sĩ bảo tôi ăn uống tẩm bổ nghỉ ngơi cho tốt, muốn uống nước dừa “cho trong phổi” cũng được, hai tuần sau đi tái khám. Mọi chuyện còn lại để bác sĩ lo.
Cùng thời gian này tôi được giấy gọi gặp phái đoàn Mỹ và cuộc phỏng vấn đã êm xuôi như đi dạo công viên. Nhân viên phái đoàn coi qua hồ sơ của tôi, ngồi nói chuyện thêm khoảng mười phút rồi đứng lên bắt tay chúc mừng chúng tôi. Khi tôi ra về, mấy người ngồi đợi vào phỏng vấn hỏi chúng tôi sao ra nhanh vậy, chắc bị từ chối rồi phải không! Tôi mỉm cười không trả lời, muốn để họ nghĩ sao cũng được. Riêng tôi thì nghĩ nếu trước đó tôi không được Canada cho đi, chắc hẳn chúng tôi còn cảm thấy sung sướng hơn nhiều.
Kết quả khám sức khỏe đi Mỹ vẫn liên quan tới hình phổi của tôi, và lần này còn bị phê nặng hơn, “Lao đang thời kỳ tiến triển.” Được gọi tới Chợ Rẫy, tôi một lần nữa lại gặp may. Bác sĩ phụ trách hồ sơ sức khỏe của tôi là Bs. Thắng, một sinh viên cũ năm thứ hai mà tôi đã dậy năm 1973. Tôi không nhận ra học sinh cũ của mình, mà chính Bs. Thắng đã chào tôi và tự giới thiệu. Thắng nói tôi không bị lao gì cả và biết cách phê trong hồ sơ ra sao để tôi có thể được đi. Thắng nói thêm là về sức khỏe Mỹ không đòi hỏi khắt khe như Canada. Thắng bảo tôi cứ yên tâm ra về.
Biết chuyện đi đứng của tôi có chiều hướng thuận lợi, Dũng bảo tôi đi coi bói xem sao. Dũng biết ông thầy bói Kim ở đường Võ Tánh, nổi tiếng về bói Dịch. Tôi theo Dũng tới nhà thầy bói Kim, xin coi một quẻ. Ông thầy đưa cho tôi mấy đồng tiền kẽm, tập trung ý nghĩ vào việc muốn biết, rồi thả mấy đồng tiền xuống bàn. Ông coi các mặt xấp ngửa, bấm đốt ngón tay tính toán, rồi phán một câu ngắn gọn nhưng dư lực làm tôi xìu như trái bong bóng hết hơi, “Theo quẻ này tôi không thấy có long có mã, nếu ông tính chuyện đi đứng thì tôi thấy không có đường nào đi cả!” Nhận $15 thù lao, ông thầy bảo tôi nếu dăm bẩy tháng chưa thấy gì thì trở lại xem có gì biến chuyển hay không. Ra về, tôi tuy thất vọng nhưng tự trấn an rằng biết đâu ông thầy chả bói sai trong khi mình nhờ được chỗ tin cẩn.
Mấy tháng sau Dũng lại đưa tôi tới một chỗ khác ở miệt Gia Định mà tôi chỉ còn nhớ nhà bà thầy bói ở trong một xóm, lối vào nhà qua một rặng tre. Bà thầy bói bài tây và xem cả chỉ tay, nhưng tôi thấy chỉ bói chung chung, không dứt khoát như thầy bói Kim. Tôi ra về, lo chuyện dậy học và chờ đợi thôi. Tôi dậy thêm mấy nhóm, và phải ra chợ trời chỗ người bạn mua lại mấy cuốn sách mà tôi đã bán cho anh ấy. Có điều mua có năm cuốn mà tôi đã phải trả gần bằng cả tủ sách mà trước đó mấy tháng tôi đã bán ra, vậy mà vẫn lấy làm mừng vì chưa bị ai mua mất.
Chờ đợi cả năm trời không thấy được gọi lên lấy xuất cảnh, mà người bà con bà xã đã ra lại ngoài Bắc, nên vợ chồng tôi bán tín bán nghi không biết mình có bị lừa hay không. Cho tới sau này khi được gọi lên bổ túc hồ sơ thì mới biết chắc mình đã bị lừa, vì theo thủ tục không thể có ngay xuất cảnh sau khi chỉ nộp đơn. Và tới nay chúng tôi vẫn không biết ai đã lừa, người bà con hay là người bạn bà này hay là cả hai!
Đến đầu năm 1983 khi tôi không còn mấy hy vọng nữa thì đột nhiên nhận được giấy báo bổ túc hồ sơ xuất cảnh. Chuyện nộp đơn xin xuất cảnh tôi chỉ nói bóng nói gió trong bộ môn, nhưng ai cũng biết chuyện là tôi đã tính đi. Một hôm chị Ngọc nói với tôi là có gặp ông Mười Năng, đảng ủy hiệu bộ, ông này nói với chị rằng tình hình này chắc ông Mỹ Điền sớm muộn sẽ không còn làm trưởng bộ môn nữa, và hỏi chị nghĩ sao về tôi. Chị Ngọc nói hình như tôi đã nạp đơn xin xuất cảnh đoàn tụ gia đình rồi. Mười Năng nói thế thì hỏng bét, phải tính lại chuyện khác thôi. Nghe chị Ngọc nói vậy, tôi bèn nói ngay là quả thực tôi sẽ xin nghỉ khi nhận được giấy báo bỏ túc hồ sơ, và nhắc lại chuyện Niêm đề nghị tôi làm phụ tá giáo vụ bộ môn nhưng tôi đã từ chối.
Tôi vào gập Mỹ Điền báo cho biết tôi sẽ nạp đơn xin nghỉ. Điền nói biết nếu có cơ hội là tôi cũng đi thôi và còn nói tôi là giảng viên cuối cùng trước 75 còn sót lại. Mỹ Điền lúc đó cũng có vẻ đã mệt mỏi và không còn tin tưởng gì nhiều sau khi những người mà ông ta coi là gương mẫu cho bọn tôi đã lần lượt trốn đi, và nhất là giữa ông và hiệu bộ có vấn đề. Ông chúc tôi may mắn và cám ơn tôi đã giúp đỡ ông nhiều từ lúc ông về làm chủ nhiệm bộ môn.
Hồi đó các giáo viên dậy trung học xin xuất ngoại khi được gọi bổ túc hồ sơ có thể xin khất với nhà trường cho tới khi nào nhận được giấy xuất cảnh mới chính thức nghỉ việc. Tôi không rõ các đại học khác thì sao, nhưng riêng Trường Y thì không chấp nhận chuyện này, nói rằng cán bộ giảng đào tạo cán bộ cho nhà nước, nên nếu đã tính bỏ đi thì phải nghỉ luôn, vì có ở lại thì cũng không công tác tốt được, nếu không nói là có ảnh hưởng tiêu cực đối với nhân viên khác, nhất là đối với sinh viên. Đơn xin nghỉ của tôi được chấp thuận ngay và tôi được trả ba tháng lương cuối, hình như lúc đó được 124 đồng một tháng.
Hơn một năm sau tới giữa năm 1984 tôi mới được giấy báo gọi lãnh giấy xuất cảnh. Dĩ nhiên sau vụ mất tiền lần trước, tôi không nghĩ tới chuyện tìm mối chạy chọt nữa. Tôi tà tà dậy học, mở thêm một hai lớp cho có thêm thu nhập, giờ rảnh ban ngày chơi tennis, buổi tối chơi mạt chược với bạn bè, chuyện đi đứng lúc nào tới thì tới. Chính nhờ tâm lý đã ổn định mà cuộc sống của tôi thật thoải mái. Tuy vậy, đợi ít lâu sốt ruột tôi cũng đi tìm thầy để hỏi xem sao. Lần này không phải là thầy bói chuyên nghiệp mà là hai thầy tài tử, đều là bạn tôi.
Bùi Thế San và Nguyễn Nhật Duật đều là giáo sư, một người dậy Vạn Vật, một người dậy Việt Văn. Sau 4-75 họ còn có thêm nghề tay trái là coi bói, San chuyên về bói Dịch và Duật xem tử vi. Nghề tay trái này giúp hai bạn tôi đỡ tốn tiền quà sáng rất nhiều, đôi khi tôi còn được ăn ké. Duật lấy ngày giờ sanh của tôi rồi bấm tử vi, phán rằng tôi chưa thấy có đường đi. San bảo tôi lấy lọ tăm, bốc ra một ít. Đếm xong rồi tính toán, San nói theo quẻ này thì tôi đáng lẽ đã phải lãnh xuất cảnh rồi, không hiểu sao bây giờ vẫn chưa có. Bán tín bán nghi, nhưng nghe San nói vẫn thấy an ủi hơn nhiều, và tôi yên tâm chờ đợi. Khi đã lãnh xuất cảnh, tôi thấy ngày tháng ký xuất cảnh trước hôm San coi bói cho tôi khoảng hai tháng. Tôi không nghĩ là San giỏi hơn Duật, mà tôi và San hợp với nhau hơn. Trước khi tôi bốc tăm, San bảo tôi phải tập trung vào điều mình muốn biết, tâm có động thì quẻ mới ứng.
Đợi đến đầu năm 1986 thì tôi được giấy gọi đi gặp phái đoàn Canada phỏng vấn. Vì bạn tôi là Khôi cũng đã có gia đình được đi trước đây nên tôi khá yên tâm sẽ được chấp thuận. Điều làm tôi lo nghĩ là vấn đề sức khỏe. Sợ nhất là vụ chụp hình phổi vì Canada xứ lạnh nên rất khó khăn cho những ai phổi có vấn đề, và đám chụp hình phổi ở bệnh viện Chợ Rẫy tìm đủ mọi cách để moi tiền. Kinh nghiệm những người đã đi trước cho biết là phải ăn uống tẩm bổ cho tốt để lên cân. Thế là phở nước béo với hột gà ăn hàng ngày. Họ còn nói tuần lễ trước khi đi khám sức khỏe phải uống nước dừa cho phổi trong. Sau này tôi bị cao Cholesterol chắc một phần cũng vì giai đoạn này.
Ngày phỏng vấn cả nhà ăn mặc chỉnh tề, riêng tôi mặc đồ lớn đeo cravate đàng hoàng, giấy tờ để trong chiếc cặp da còn rất láng. Vì anh tôi sống ở bên kia Sông Ottawa thuộc Quebec nên người phỏng vấn hỏi tôi nói được tiếng Pháp không. Tôi nói được nhưng không lưu loát vì ít sử dụng, xin được nói tiếng Anh. Cuộc phỏng vấn cả nhà kéo dài gần tiếng đồng hồ, nhân viên di trú hỏi tôi về nhiều vấn đề. Tôi mừng thầm trong bụng vì nghĩ rằng như vậy là xuôi xẻ, nhưng cuối cùng ông này đứng lên bắt tay tôi và cám ơn, nói rất tiếc là Canada hiện chỉ cần công nhân chuyên môn. Vợ chồng tôi choáng váng, lúc về nhà chân đi bước thấp bước cao.
Bị từ chối, tôi phải làm hai việc thật gấp: viết thư báo cho anh chị tôi biết tự sự và hỏi coi thể kiếm cho tôi một việc làm trước nào đó ở Canada hay không, nếu có được lúc tái phỏng vấn sẽ có nhiều cơ may được chấp thuận.
Mặt khác, tôi nộp một đơn xin chuyển cảnh qua Mỹ mà anh vợ tôi đứng ra bảo lãnh. Nếu được, bên nào cho đi trước thì tôi theo bên đó. Sau khi đơn xin chuyển cảnh qua Mỹ được chấp thuận, tôi liên lạc được với bà Bùi Thạnh, cựu Hiệu Trưởng Anh Văn Hội Việt Mỹ, xin cấp lại cho tôi giấy chứng nhận đã dậy ở Hội Việt Mỹ. Giấy cũ hôm 1-5-1975 trong cơn hốt hoảng tập thể, tôi đã đốt cùng với collection Playboy mấy chục số mà Nguyễn Viết Long đã mua dần cho tôi. Bà Thạnh đã rất sốt sắng viết giấy chứng nhận cho tôi với những nhận xét rất thuận lợi.
Ít lâu sau, anh chị tôi gửi về cho tôi giấy tờ chứng nhân đã xin cho tôi được làm superintendent cho một chúng cư gồm 22 đơn vị ở Laval, Quebec. Chị tôi nói công việc này dân Canada chính gốc ít làm vì vửa phải làm giấy tờ như sổ sách kế toán vừa phải làm việc chân tay như lo sửa điện và ống nước. Chị tôi cũng nói đã nhờ một người bạn Canada làm ở Immigration để ý tới trường hợp của tôi. Để chuẩn bị tôi cũng tới tiệm sửa đồ điện của một người bạn tuần hai buổi phụ giúp để cho quen với đồ điện, còn về ống nước thì thua vì không quen biết ai.
Tới giữa năm 1987 tôi được gọi đi phỏng vấn lần thứ hai. Lần đầu tôi cứ yên chí mọi chuyện sẽ tốt đẹp nên không nhờ San và Duật coi bói trước cho tôi. Bị một cú rồi như chim phải tên, nên tôi có ý nhờ xem trước để chuẩn bị tâm lý. Hai ngày trước khi đi phỏng vấn, San và Duật đến tôi. Duật nói lần trước có thể ngày giờ sanh của tôi không chính xác nên lần này Duật lấy tử vi của hai đứa con tôi, rồi chiếu vào tử vi của tôi, thì không thể sai được, vì ngày giờ sanh của hai con tôi nhất địng phải đúng 100%. Sau khi đối chiếu ba lá số tử vi của tôi và hai con, Duật nói lần này không thể xểnh nữa. Bà xã tôi ngồi cạnh, nhờ San bói dịch xem có đi được không, vì nếu bà xã tôi kẹt thì coi như bọn tôi kẹt theo luôn. San đưa cho bà xã tôi ba đồng tiền kẽm, bảo tập trung vào điều mình muốn biết rồi gieo tiền vào cái bát. San nhặt tiền lên, tính toán một lúc rồi nói theo quẻ này thì chưa thấy có đường đi. Chúng tôi đồng ý là cứ đợi hai hôm nữa sẽ biết.
Rút kinh nghiệm, lần này đi gặp phái đoàn bọn tôi ăn mặc vừa phải, sơ mi cravate cho đủ phép lịch sự thôi, chứ không lên khung như lần trước. Lúc gặp nhân viên phái đoàn, ông này lịch sự mời chúng tôi ngồi rồi mở hồ sơ ra coi. Ông nhìn tôi cười cười rồi hỏi có biết tại sao tôi được gọi đi phỏng vấn hay không. Ông tính nói gì nhưng lại thôi và bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi mà tôi đã được hỏi lần trước. Ngồi nói chuyện hơn nửa tiếng tôi bắt đầu thấy lo vì để ý thấy các gia đình được chấp thuận thường hoàn tất cuộc phỏng vấn quanh mười lăm phút, trong khi lần trước cuộc phỏng vấn tôi khéo dài gần một tiếng. Quả nhiên một lúc sau, ông này cám ơn tôi và nói việc làm giám thị cho một chung cư không thích hợp với tôi vì tôi chỉ chuyên về dậy học . Dù tôi có biết về sửa điện, nhưng nhìn bàn tay tôi cũng biết tôi không thể nào sánh được với những người từ Đông Âu, nếu chọn tôi thì bất công đối với những người đó. Đoạn ông nói với bằng cấp và kinh nghiệm dậy học của tôi, hay nhất là nhờ anh chị tôi xin cho dậy học ở một trường nào đó.
Ra về tôi tuy thất vọng nhưng không buồn và bẽ bàng như lần trước. Tôi có cảm tưởng phái đoàn đã đọc trước hồ sơ và và các gia đình đã được quyết định từ trước tùy theo các tiêu chuẩn và chính sách di trú lúc đó. Việc phỏng vấn chỉ là một thủ tục nhận diện những người được chấp thuận. Sau khi bị từ chối hai lần liền, tôi không còn hy vọng gì nhiều về việc được đi Canada nữa, và chỉ chờ đợi được phía Mỹ gọi thôi. Đột nhiên vào đầu năm 1988 tôi được giấy gọi đi khám sức khỏe để làm thủ tục đi Canada vì cả nhà tôi đã được chấp thuận mà không cần phỏng vấn lại. Sau tôi mới biết là đầu năm 1988 Bộ Di Trú Canada cho một số đông những gia đình đã bị từ chối được phép nhập cư Canada và khoảng thời gian này chỉ kéo dài bốn tháng.
Tới giai đoạn cuối là khám sức khỏe để xuất ngoại của tôi vẫn có vấn đề. Hình phổi của tôi bị ghi “Sẹo lao ở đỉnh phổi trái đã ổn định.” và tôi phải đợi tái khám. Tôi gặp Bs. Bạch Cúc làm việc ở khu khám sức khỏe xuất ngoại ở Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi chuyện. Bác sĩ Bạch Cúc ra trường cùng năm với anh Trung ở Khu Phẫu Thuật Thực Hành và chúng tôi thỉnh thoảng vẫn đi chèo thuyền với nhau ở Thanh Đa cùng với Bác sĩ Trưởng khu Thái Minh Bạch. Bác sĩ Cúc nói đã xem phim phổi của tôi và nói tôi không bị lao, nhưng họ đã phê như vậy là có y muốn mình phải chạy thôi. Bs. Cúc bảo tôi phải dùng hạ sách: cho tôi uống thuốc lao Rimifon trong một tuần lễ. BS.Cúc nói làm như vậy là bất đắc dĩ, nhưng tin chắc tôi qua Canada sẽ không bao giờ bị lao cả. Bác sĩ bảo tôi ăn uống tẩm bổ nghỉ ngơi cho tốt, muốn uống nước dừa “cho trong phổi” cũng được, hai tuần sau đi tái khám. Mọi chuyện còn lại để bác sĩ lo.
Cùng thời gian này tôi được giấy gọi gặp phái đoàn Mỹ và cuộc phỏng vấn đã êm xuôi như đi dạo công viên. Nhân viên phái đoàn coi qua hồ sơ của tôi, ngồi nói chuyện thêm khoảng mười phút rồi đứng lên bắt tay chúc mừng chúng tôi. Khi tôi ra về, mấy người ngồi đợi vào phỏng vấn hỏi chúng tôi sao ra nhanh vậy, chắc bị từ chối rồi phải không! Tôi mỉm cười không trả lời, muốn để họ nghĩ sao cũng được. Riêng tôi thì nghĩ nếu trước đó tôi không được Canada cho đi, chắc hẳn chúng tôi còn cảm thấy sung sướng hơn nhiều.
Kết quả khám sức khỏe đi Mỹ vẫn liên quan tới hình phổi của tôi, và lần này còn bị phê nặng hơn, “Lao đang thời kỳ tiến triển.” Được gọi tới Chợ Rẫy, tôi một lần nữa lại gặp may. Bác sĩ phụ trách hồ sơ sức khỏe của tôi là Bs. Thắng, một sinh viên cũ năm thứ hai mà tôi đã dậy năm 1973. Tôi không nhận ra học sinh cũ của mình, mà chính Bs. Thắng đã chào tôi và tự giới thiệu. Thắng nói tôi không bị lao gì cả và biết cách phê trong hồ sơ ra sao để tôi có thể được đi. Thắng nói thêm là về sức khỏe Mỹ không đòi hỏi khắt khe như Canada. Thắng bảo tôi cứ yên tâm ra về.
Cám ơn Thắng xong, tôi chạy xe về thẳng nhà bố mẹ tôi báo tin. Mợ tôi
cho biết Kim Khánh cũng vừa ra khỏi. Khánh là bác sĩ nha khoa, trưởng
khoa Răng Hàm Mặt ở bệnh viện Chỡ Rẫy. Khánh là con gái đạo diễn Khương
Mễ, người Nam tập kết ra Bắc. Khánh tốt nghiệp nha khoa Đại Học Hà Nội.
Và lấy Thành, con trai anh họ mợ tôi. Mợ tôi có nói chuyện với Khánh về
việc khám sức khỏe đi Mỹ của tôi đã gặp khó khăn, Khánh nói sẽ tới nhờ
Bs. Lã Hỷ, y sĩ trưởng phụ trách việc khám sức khỏe người đi nước ngoài.
Tôi cho bố mợ tôi biết chuyện đã được Bs. Thắng hứa giúp, mợ tôi bảo có
thêm người giúp càng chắc ăn. Tôi về nhà thì cũng đúng lúc vợ tôi đi
dậy Dưỡng Sinh về. Từ ngày tôi nghỉ vợ tôi cũng xin nghỉ dạy học luôn và
chuyển qua dạy Dưỡng Sinh. Nghe biết chuyện, vợ tôi rất mừng và nói
phải kiếm cái gì thật ngon ăn mừng cùng hai con.
Mấy hôm sau Khánh ghé nhà tôi cho tôi biết đã ngỏ lời nhờ Bs. Lã Hỷ và đã được nhận lời giúp. Khánh bảo tôi tối hôm đó tới nhà Bs. Hỷ để giới thiệu và cám ơn. Khánh nói chỉ đến người không vì Khánh cùng học và chơi thân với Bs. Hỷ ở Hà Nội như anh em. Tôi bảo Khánh để tôi biếu Bs. Hỷ một két bia Heineken như chỗ thân tình. Bs. Hỷ tiếp tôi rất niềm nở và Khánh giới thiệu tôi là anh họ chồng Khánh và là giảng viên ở Y Khoa cho tới năm 1983 mới nghỉ khi bổ túc hồ sơ xuất cảnh. Bs. Hỷ cười rồi nói đã coi hồ sơ của tôi và chẳng giúp được gì cả vì tất cả đều ghi là tốt, nên không dám nhận công. Tôi cũng cười và nói đây là chút quà làm quen, chứ không thể coi là trả công được. Bs. Hỷ nói tôi là anh họ Khánh thì cũng như anh em cả và để mừng gặp mặt khui ba lon cùng uống. Khi ra về, tôi cứ thắc mắc không biết Thắng đã phê gì vào hình chụp phổi của tôi.
Việc cuối cùng buộc tôi phải lựa chọn là vào đầu năm 1989 khi tôi được Sở Ngoại Vụ gọi lên lấy vé máy bay đi Canada thì tôi cũng được gọi đi làm thủ tục đăng ký chuyến bay đi Mỹ. Đã có vé đi Canada trong tay, nay tôi phải xem có nên đăng ký đi Mỹ hay không. Bình thường phải mất tối đa hai tháng sẽ có vé. Chúng tôi bèn làm một cuộc họp khẩn cấp đại gia đình và lấy ý kiến bạn bè, thì ai cũng khuyên là “Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng.” Hai tháng trời có thể có nhiều chuyện xẩy ra, nhất là trong chế dộ này cái gì làm được là phải làm ngay. Nhiều người được giấy xuất cảnh đã giấu tất cả mọi người để đề phòng bất chắc. Tuy hơi nghiêng về phía Mỹ nhưng chúng tôi quyết định đi Canada, sớm phút nào là ăn chắc phút đó. Đến nay chúng tôi thấy không ân hận chút nào về quyết định này.
Trước khi đi Canada, tôi bán chiếc Honda 67 được một cây vàng và ngôi nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật được hai cây. Nhà không thể sang nhượng cho ai khác, hoặc là giao cho chính phủ giữ hộ, bao giờ về sẽ trả lại, hoặc là bán đứt cho chính phủ. Dại gì “giao trứng cho ác,” chúng tôi quyết định bán, được đồng nào hay đồng đó. Sở Nhà Đất đã căn cứ vào giấy tờ mua nhà của tôi và trả cho tôi giá ăn cướp là hai cây vàng, quá thấp so với thời giá. Tôi tự an ủi là đã không mất tiền thuê nhà 14 năm trời. Về căn nhà này, người hàng xóm cũ kể lại là ngay buổi chiều ngày tôi đi, một thương phế binh đã bẻ khóa vào 'cắm dùi.' Sở nhà đất tới ' làm việc ' rồi thương lượng. Cuối cùng hóa giá căn nhà bán cho thương phế binh này với giá bốn cây. Hóa ra nhà nước làm kinh tế giỏi, đầu tư lời 100% trong vài ngày. Ông bà hàng xóm của tôi cuối năm đó mua lại căn nhà này với giá mười cây vàng. Xem ra ông thương phế binh còn giỏi hơn cả ông nhà nước.
Chúng tôi rời Saigon vào một ngày cuối Tháng 3. Lúc phi cơ bay vào không phận Thái Lan rồi chúng tôi mời cầm tay nhau, thở phào nhẹ nhõm, tuy còn lo ngại đôi chút là đi Hàng Không Việt Nam, nhỡ có chuyện gì không biết họ có ra lệnh cho phi cơ quay trở lại hay không. Ở lại trại chuyển tiếp hai ngày, chúng tôi đi máy bay KLM tới Amsterdam rồi bay tiếp qua Canada.
Phi cơ tới Vancouver thì chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh rồi đổi qua Air Canada bay tiếp về Montréal, Anh chi tôi và vợ chồng cô em gái lên đón chúng tôi tối 29-3-1989 và đưa ngay về Ottawa tối hôm đó. Đến nay tính ra đã gần ba mươi năm chúng tôi chưa trở về lại Việt Nam lần nào. Có hai giấc mơ cứ ám ảnh tôi cho tới bây giờ: thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ thấy bị mất chiếc Honda 67 -- gia tài của tôi -- và mơ thấy bị mất xuất cảnh, hoặc ra tới phi trường tìm mãi không biết để xuất cảnh ở đâu, hoặc về Việt Nam chơi nhưng bị mất cắp xuất cảnh không về lại Canada được. Vì mơ đi mơ lại nhiều lần nên trong những lần mơ sau, tôi còn tự nhủ đây chắc là thực chứ không phải là mơ nữa! Tỉnh dậy, mồ hôi lạnh đầy mình nhưng mừng vô kể.
Tuy bây giờ những giấc mơ này không còn thường như những năm mới qua nữa, nhưng tôi cảm nhận được những năm sau 4-75 đã ảnh hưởng tới tâm trí tôi như thế nào. Tình cờ tôi viết xong hồi ức này vào ngày cuối Tháng 4 sau hơn một tháng trời kể từ hồi sau Tết. Đã 42 năm trôi qua, sao cứ vào thời gian này là lòng lại buồn và nuối tiếc cái gì quý nhất đã mất vĩnh viễn. Ngày 30-4 năm nay lại mưa suốt ngày đêm kèm theo gió lạnh. Trời đất và lòng người cứ ảm đạm vào những ngày cuối Tháng 4 mãi hay sao?
Nguyễn Phong-Châu
Ottawa, 30-4-2017
Mấy hôm sau Khánh ghé nhà tôi cho tôi biết đã ngỏ lời nhờ Bs. Lã Hỷ và đã được nhận lời giúp. Khánh bảo tôi tối hôm đó tới nhà Bs. Hỷ để giới thiệu và cám ơn. Khánh nói chỉ đến người không vì Khánh cùng học và chơi thân với Bs. Hỷ ở Hà Nội như anh em. Tôi bảo Khánh để tôi biếu Bs. Hỷ một két bia Heineken như chỗ thân tình. Bs. Hỷ tiếp tôi rất niềm nở và Khánh giới thiệu tôi là anh họ chồng Khánh và là giảng viên ở Y Khoa cho tới năm 1983 mới nghỉ khi bổ túc hồ sơ xuất cảnh. Bs. Hỷ cười rồi nói đã coi hồ sơ của tôi và chẳng giúp được gì cả vì tất cả đều ghi là tốt, nên không dám nhận công. Tôi cũng cười và nói đây là chút quà làm quen, chứ không thể coi là trả công được. Bs. Hỷ nói tôi là anh họ Khánh thì cũng như anh em cả và để mừng gặp mặt khui ba lon cùng uống. Khi ra về, tôi cứ thắc mắc không biết Thắng đã phê gì vào hình chụp phổi của tôi.
Việc cuối cùng buộc tôi phải lựa chọn là vào đầu năm 1989 khi tôi được Sở Ngoại Vụ gọi lên lấy vé máy bay đi Canada thì tôi cũng được gọi đi làm thủ tục đăng ký chuyến bay đi Mỹ. Đã có vé đi Canada trong tay, nay tôi phải xem có nên đăng ký đi Mỹ hay không. Bình thường phải mất tối đa hai tháng sẽ có vé. Chúng tôi bèn làm một cuộc họp khẩn cấp đại gia đình và lấy ý kiến bạn bè, thì ai cũng khuyên là “Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng.” Hai tháng trời có thể có nhiều chuyện xẩy ra, nhất là trong chế dộ này cái gì làm được là phải làm ngay. Nhiều người được giấy xuất cảnh đã giấu tất cả mọi người để đề phòng bất chắc. Tuy hơi nghiêng về phía Mỹ nhưng chúng tôi quyết định đi Canada, sớm phút nào là ăn chắc phút đó. Đến nay chúng tôi thấy không ân hận chút nào về quyết định này.
Trước khi đi Canada, tôi bán chiếc Honda 67 được một cây vàng và ngôi nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật được hai cây. Nhà không thể sang nhượng cho ai khác, hoặc là giao cho chính phủ giữ hộ, bao giờ về sẽ trả lại, hoặc là bán đứt cho chính phủ. Dại gì “giao trứng cho ác,” chúng tôi quyết định bán, được đồng nào hay đồng đó. Sở Nhà Đất đã căn cứ vào giấy tờ mua nhà của tôi và trả cho tôi giá ăn cướp là hai cây vàng, quá thấp so với thời giá. Tôi tự an ủi là đã không mất tiền thuê nhà 14 năm trời. Về căn nhà này, người hàng xóm cũ kể lại là ngay buổi chiều ngày tôi đi, một thương phế binh đã bẻ khóa vào 'cắm dùi.' Sở nhà đất tới ' làm việc ' rồi thương lượng. Cuối cùng hóa giá căn nhà bán cho thương phế binh này với giá bốn cây. Hóa ra nhà nước làm kinh tế giỏi, đầu tư lời 100% trong vài ngày. Ông bà hàng xóm của tôi cuối năm đó mua lại căn nhà này với giá mười cây vàng. Xem ra ông thương phế binh còn giỏi hơn cả ông nhà nước.
Chúng tôi rời Saigon vào một ngày cuối Tháng 3. Lúc phi cơ bay vào không phận Thái Lan rồi chúng tôi mời cầm tay nhau, thở phào nhẹ nhõm, tuy còn lo ngại đôi chút là đi Hàng Không Việt Nam, nhỡ có chuyện gì không biết họ có ra lệnh cho phi cơ quay trở lại hay không. Ở lại trại chuyển tiếp hai ngày, chúng tôi đi máy bay KLM tới Amsterdam rồi bay tiếp qua Canada.
Phi cơ tới Vancouver thì chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh rồi đổi qua Air Canada bay tiếp về Montréal, Anh chi tôi và vợ chồng cô em gái lên đón chúng tôi tối 29-3-1989 và đưa ngay về Ottawa tối hôm đó. Đến nay tính ra đã gần ba mươi năm chúng tôi chưa trở về lại Việt Nam lần nào. Có hai giấc mơ cứ ám ảnh tôi cho tới bây giờ: thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ thấy bị mất chiếc Honda 67 -- gia tài của tôi -- và mơ thấy bị mất xuất cảnh, hoặc ra tới phi trường tìm mãi không biết để xuất cảnh ở đâu, hoặc về Việt Nam chơi nhưng bị mất cắp xuất cảnh không về lại Canada được. Vì mơ đi mơ lại nhiều lần nên trong những lần mơ sau, tôi còn tự nhủ đây chắc là thực chứ không phải là mơ nữa! Tỉnh dậy, mồ hôi lạnh đầy mình nhưng mừng vô kể.
Tuy bây giờ những giấc mơ này không còn thường như những năm mới qua nữa, nhưng tôi cảm nhận được những năm sau 4-75 đã ảnh hưởng tới tâm trí tôi như thế nào. Tình cờ tôi viết xong hồi ức này vào ngày cuối Tháng 4 sau hơn một tháng trời kể từ hồi sau Tết. Đã 42 năm trôi qua, sao cứ vào thời gian này là lòng lại buồn và nuối tiếc cái gì quý nhất đã mất vĩnh viễn. Ngày 30-4 năm nay lại mưa suốt ngày đêm kèm theo gió lạnh. Trời đất và lòng người cứ ảm đạm vào những ngày cuối Tháng 4 mãi hay sao?
Nguyễn Phong-Châu
Ottawa, 30-4-2017
Monday, May 22, 2017
BÌNH NGUYÊN LỘC * CHO TAY NÀY LÂY TAY KIA
Cho Tay Nầy, Lấy Tay Kia.
Bình Nguyên Lộc
Bịnh viện Bình Dân (1) một buổi sáng. Giáo Sư H. đi đến giường số 17,
thì dừng lại. Sau lưng ông, người ta dồn đống như tại một ngả tư phố Sài
gòn, xe dồn cục lúc đèn đỏ cháy lên. Họ đứng sau lưng ông, đông, trên
hai mươi mạng: bốn anh nội trú, tám anh ngoại trú, mười sinh viên thường
và hai nữ y tá. Bác Sĩ H. là một Giáo Sư Y Khoa lỗi lạc, mà thủ thuật
đã được nhiều tạp chí Pháp và Mỹ nói đến, nên, hễ ông đi thăm bịnh, là
bao nhiêu người thích tìm tòi, học hỏi đi theo đông đủ sau lưng. Khi họ
dồn lại một nơi, thì con bịnh không còn biết ai là “bác sĩ thầy” nữa cả.
Giáo Sư, người thấp bé, ăn mặc rất khiêm tốn, cái đầu trọc lóc, thật
kém đẹp, kém oai hơn sinh viên nhiều. Ông lại pha trò suốt ngày, khiến
người ta tưởng, đó là một thanh niên vui tánh, mới vào học.
- 17 mới vào à? Đâu, quan sát đâu?
Nội trú Thành lướt tới, tay cầm xấp tài liệu, rồi nói như giảng bài, cho tất cả sinh viên đều nghe:
- Người nầy bị chứng ung thư phổi. Dấu hiệu chánh: đầu móng tay bầm tím và co quắp lại. Những dấu hiệu phụ: nghẹt thở gầy ốm nhanh chóng trong mười lăm hôm…
Giáo Sư vừa lắng tai nghe phúc trình của anh nội trú giỏi nhứt nhà thương, vừa bước tới kiểm soát lời anh ta.
Khi Thành phúc trình xong, Giáo Sư hỏi:
- Phụ Giáo đâu?
Lúc ấy, người Phụ Giáo ở ngoài, vừa bước vào. Giáo Sư nói:
- Bác Sĩ à, cho chuẩn bị để mổ ngay.
- Chuẩn bị rồi, thưa Thầy.
Đường, sinh viên thường, năm thứ nhì, chen tới hỏi:
- Thưa Thầy, liệu cứu hắn được hay không?
Họ trao đổi ý nghĩ với nhau bằng ngoại ngữ, nhờ thế con bịnh không hiểu được, nên khỏi sợ sệt.
- Rất có thể thành công. Giáo Sư khiêm tốn đáp.
Đường lại hỏi thêm:
- Thưa Thầy, bịnh sẽ tái lại hay không?
Giáo Sư mỉm cười:
- Nếu nó không tái lại, hóa ra loài người đã chữa ung thư được rồi à? Không, vài năm sau hắn sẽ chết. Cố gắng của khoa học là lùi phút chót của con bịnh lại, lâu chừng nào hay chừng nấy.
*
* *
Giáo Sư đã thành công. Không ai ngạc nhiên hết, vì ông ấy mổ vững như
thợ thiến gà. Nhưng mấy hôm sau, con bịnh bị nhiễu chứng. Đầu tiên là
chứng nghẹt phát quản phổi. Có những giọt máu khô sau cuộc mổ mà con
người không làm sao tìm thấy được. Một giọt máu khô ấy, theo vết thương
mổ, chạy vào phát quản, rồi bị dòng máu đẩy đi. Nhưng một khi kia, gặp
nơi phát quản hẹp quá thế là nó chận ngõ đón truông, không cho tuần hoàn
làm việc. Lại phải mổ. Mà trước khi mổ phải khó nhọc tìm xem tên phiến
loạn phá hoại sự lưu thông ấy trốn chắc chắn nơi đâu.
Hệ thống lưu thông của máu huyết vừa được giải tỏa, thì con bịnh lại bị
nhiễm trùng độc. Vì mổ mãi, nên vi trùng có dịp xâm lăng cơ thể anh ấy,
như mở cửa thành cho quân địch vào ấy mà! Một thành phố kiểm soát chặt
chẽ bao nhiêu cũng khó ngăn sự len lỏi của ẩn binh. Miệng mổ và dụng cụ
được khử độc kỹ lưỡng bậc nào, cũng không chận toàn thể vi trùng đột
nhập. Tất cả nhà thương đều được huy động để săn sóc con bịnh, tất cả
dụng cụ, thuốc men đều được xử dụng để đối phó đến hàng chục nhiễu chứng
mà hắn vướng phải.
Ở bịnh viện Bình Dân, trại nào cũng là trại do Y Khoa Đại Học phụ trách
để nghiên cứu cả. Ngoài, người ta không biết, nghe nói học trò đến học
thì sợ lắm, ngại họ dùng các con bịnh làm đám đất thí nghiệm. Sự thật,
thì Y Khoa Đại Học cẩn thận hơn cả nhà thương thường, không hề thí
nghiệm càn như người ta ngỡ. Trái lại, sự săn sóc thì châu đáo đến mức
kiểu mẫu cho sinh viên noi theo. Còn sinh viên, thì phần đông, tận tâm,
cố
gắng để được hành nghề. Thành thử, con bịnh, nhứt là những con bịnh mấy
chứng nguy, được họ chiến đấu quyết liệt với thần chết, để cướp hắn lại.
Bao nhiêu tự ái đều nhảy ra mặt trận: tự ái của ông thầy quyết cho học
trò tín nhiệm, tự ái của sinh viên quyết chứng tỏ mình hiểu biết và làm
được. Ngoài ra, lương tâm nhà nghề và tinh thần đồng đội cũng tiếp chiến
với bao nhiêu thứ kia.
Sáng sáng, xem biểu nhiệt độ, họ lặng thinh mà thở dài, hoặc nhảy nhót tưng bừng, ôm nhau mà cười, nói:
- Ta đã thắng!
Sự thắng bại thật là bất phân. Vài hôm, bên tử thần muốn làm chủ tình
hình, hôm khác, bên đoàn Y Khoa lấn nước. Hai đối thủ tranh nhau từng
tấc đất, rình rập nhau để chụp lấy sơ hở của bên kia. Bên tử thần cứ lù
lù tiến tới, trong những bước chậm rãi, một cách hiểm ác, chậm rãi mà
chắc chắn, vì hắn tin, không con mồi nào thoát khỏi hắn cả. Bên đoàn Y
Khoa, hôm thì tấn công ồ ạt, hôm lại dùng chiến thuật du kích, để khai
trừ từng thằng một, những binh tướng lẻ tẻ của thần chết như là động
kinh, vọp bẻ vân vân... Không giờ phút nào mà cuộc chiến đấu không diễn
ra và kẻ chịu đựng nhứt trong bọn là các nội trú. Đời Y Khoa không có gì
khổ hạnh bằng mấy năm nội trú. Trăm dâu đều đổ lên đầu nội trú, đến nỗi
mấy anh ấy ăn, ngủ đều mặc áo choàng trắng sẵn trong mình, thảo nào mà
nhiều vị lương y không khoe bằng Bác Sĩ, mà lại biên lên bảng hiệu: Cựu
Nội Trú, cho người ngoài khiếp phục chơi. Nội cái việc thi đỗ vào nội
trú cũng bằng là vượt Vũ Môn cấp nhì vậy.
Tử thần, dường như thấy khó thắng, nên nửa đêm rút đi êm thắm và trật tự. Mười một giờ đêm hôm đó, anh nội trú Ân đi soát lại cái giường lần cuối cùng, để vào buồng ngả lưng một lúc. Anh rờ lên trán anh 17, thì nghe mát lạnh. Hoảng hốt và mừng rỡ, anh chạy vào buồng đánh thức bạn đồng khoa dậy:
- Giặc! giặc! tụi bây ơi!
Bọn kia dụi mắt hỏi:
- Bịnh vào à?
- Không, giặc lui rồi!
- Giặc nào?
- Giặc 17.
- Hắn chết rồi à?
- Không, thủy hạ.
Cả bọn đều nhảy xuống giường. Anh Tuân hét:
- Đi lấy Potion de Todd mau lên!
Khi nhiệt độ xuống thình lình như thế, con bịnh cũng nguy, vì hắn có thể bị nhiễu chứng khác, nên phải cho hắn uống Potion de Todd cho hắn ấm lại. Bọn sinh viên chạy rần rần ngoài trại bịnh, vây lấy con bịnh, mà tên đã bị quên mất, và được họ gọi là 17. 17, cái tên ám ảnh, cái tên khủng khiếp, làm cho họ mất ăn, mất ngủ gần hai tháng trời nay.
Con bịnh vừa tỉnh, ngơ ngác nhìn đám người lạ mặt đang cúi xuống người hắn. Một anh lạ mặt, nắm lấy tay hắn, để bắt mạch tay. Từ đó đến sáng, họ lui tới phòng 17 không ngớt, hỏi hắn đủ điều, thật khổ sở cho hắn.
*
* *
Giáo Sư H. vỗ bụng 17, nhe răng ra cười, mà rằng:
- Vài hôm, anh về, ráng mà ăn phở, anh gầy lắm rồi!
Cả bọn sinh viên đều cười rộ lên. Giáo Sư H. là người miền Bắc. Họ ngỡ
Giáo Sư quảng cáo cho món ăn quê hương của ông, nên cười chế nhạo tự ái
địa phương của ông.
Giáo Sư như đoán hiểu, day lại giải thích bằng ngoại ngữ:
- Các anh đừng lầm. Người bình dân này không mong ăn được gan sống,
trứng sống hoặc các thức ăn bồi bổ khác. Món ăn bổ nhất và rẻ tiền nhất,
mà hắn có thể hưởng được là món phở. Tôi khuyên thiết thực chứ không
phải vì tự ái địa phương, mà cũng không đùa.
Con bịnh được cho nằm thêm mười hôm để quan sát lại. Tất cả đoàn Y Khoa,
ai cũng xem hắn là tác phẩm của họ. Họ đã để bao nhiêu là mồ hôi, là
tâm trí vào con người của hắn, nên họ cứ ngỡ là chính họ đã tạo ra hắn.
Vì thế, họ đã thương mến hắn như thương mến một đứa con đẻ. Còn sót lại
bao nhiêu ngày ở chung với
hắn, họ cố thương mến vội vàng để vớt vát được bao nhiêu hay bấy nhiêu
những mảnh tình vụn giữa con bịnh và họ. Vài hôm nữa đây, hắn sẽ trở về
làng xa hẻo lánh của hắn và không bao giờ còn nghe ai nói đến tên hắn
nữa. Còn đâu con người hay ho, mà mỗi giây phút, mỗi nhắc nhở cho họ tài
giỏi tận tâm và thành công của họ nữa.
Anh nông dân đi đất ấy được mấy cô sinh viên thêu tặng nhiều chiếc khăn
tay rất đẹp, sực nước hoa. Mấy anh sinh viên thì tiếp tế thuốc thơm,
ngon ngoại quốc, anh ta không biết cất đâu cho hết, vì Giáo Sư căn dặn
anh đừng hút thuốc điếu. Những bữa ăn của anh là những bữa ăn của ông
hoàng; phần ăn nhà thương của anh, bọn sinh viên lấy cho công nhơn nhà
thương hết, rồi thay vào đó là gà nấu đậu, cà-ri dê, sô-cô-la đủ thứ món
ngon, vật lạ, mà họ xuất tiền ra để mua sắm.
Bàn đầu giường của 17 ngày nào cũng được trang trí bằng hoa thơm, một
đĩa trái cây, và giường anh dược trang trí bằng những cô khách sinh viên
xinh xắn hay ngồi xề lại để nói một câu chuyện ngắn ngắn với anh.
Lần lần, giường 17 biến thành câu lạc bộ của hai mươi sinh viên trai và
gái, nội, ngoại trú và thường. Họ trực họp ở đó trong những phút ngớt
việc, họ hỏi thăm công việc đồng áng của anh ta, họ trao đổi tin tức với
nhau, kẻ nắm chơn anh, người vuốt tóc anh, mà đàm đạo như trong sa-lông
tân khách vuốt ve một lọ cổ quý.
Còn ba hôm nữa là hắn ra nhà thương.
Còn hai hôm nữa...
Còn một hôm nữa...
Hôm kế chót ấy, họ bu lại đó mà làm thinh, bùi ngùi nghĩ đến sự vĩnh biệt hôm sau:
“bá niên vạn kiếp nan tao ngộ !”
Cả đến Giáo Sư H. và ông Phụ Giáo làm việc bù đầu, mà cũng tìm cách ghé
qua, để nói đùa với hắn một vài câu, nói bông lơn ngoài miệng, mà lòng
ngậm ngùi thương ai.
Hôm sau đó, Giáo Sư H. đi thăm bịnh, chừa giường 17 lại, đặng thăm sau
hết để giã từ. Khi ông và đoàn sinh viên tới nơi, con bịnh đã sẵn sàng
khăn gói. Bác Sĩ chưng hửng, hỏi:
- Về ngay bây giờ à? Thường thường, cho về hôm nay, thì chiều lại, hay ngày sau, người ta mới về chứ.
- Thưa Bác Sĩ, tôi nhớ nhà quá.
- Ừ, thì về. Nhớ ráng mà ăn phở nhé!
Giáo Sư bị sinh viên gán cho tục danh là ông “Thầy phở” vì ai ra về, ông ấy cũng căn dặn ăn phở cả.
17 từ biệt từng người đã săn sóc mình, từ biệt từng người những con bịnh khác, rồi mang gói ra đi.
Giáo Sư H. thấy sinh viên trìu mến con bịnh quá, đoán biết tâm trạng họ,
nên thấy cần đề cao khoa học, để cho tự ái của họ lùi về đúng chỗ của
nó. Ông nói:
- Nếu biên sổ tính tỉ mỉ, thì con bịnh nầy đã tiêu phí của công quỹ gần
tám mươi nghìn đồng, trong non hai tháng trời về tiền cơm, tiền thuốc,
tiền công mổ xẻ vân vân... Tuy thế, công quỹ không cho hắn bao nhiêu
đâu, mà các anh, các chị, tuy khó nhọc cũng chẳng cho hắn bao nhiêu.
Chính khoa học đã cho hắn tất cả. Từ phương pháp tối tân, dụng cụ mổ xẻ
tối tân, đến các thứ thuốc trụ sinh đều là công của khoa học, của phương
pháp tìm tòi rất khoa học và của khoa học.
Vừa nói, ông thầy lỗi lạc và đám sinh viên vừa theo dõi bằng mắt con người tốt số đã thoát khỏi nanh vuốt của thần chết.
Hắn ra tới vỉa hè, bước xuống phố, để băng qua đường Hai Mươi. Hắn vui
mừng, nên đi xăn xái, cúi xuống nhìn lớp nhựa đen, như đang nghĩ đến
ruộng nương xa xôi, mà hắn rời bỏ mấy tháng nay. Hình ảnh một túp lều
tranh bên bờ rạch, chắc đang hiện lên, thân thiết hơn bao giờ cả. Bỗng
một chiếc cam-nhông, một sản phẩm của khoa học, từ phía Ngả Bảy lù lù
tới đâm vào hắn. Chiếc bọc gói văng ra xa, còn hắn thì ngã xuống, rồi
bánh xe nặng đè lên ngực hắn.
Cả đoàn Y Khoa đều kêu trời lên, rồi đứng lặng người, chết sững trước sự
bạc bẽo của số mạng. Chị ngoại trú Hương rú lên một tiếng, rồi ngất đi
trên cánh tay anh Thập, một sinh viên mới vào học, ngơ ngác không hiểu
gì cả. Anh ngoại trú Danh đấm ngực mà kêu:
- Trời ơi, bao nhiêu công của hai tháng trời ! Thật là vô lý!
Giáo Sư H. chỉ thở dài mà nói nho nhỏ:
- Khoa học đã lấy lại tất cả những gì khoa học đã cho...
------------------------
1 Truyện nầy do mẩu truyện nhỏ ở tạp chí Selection gợi hứng và viết theo tài liệu chuyên môn của sinh viên H. ở Sài gòn
THÍCH QUẢNG ĐỘ * NHỮNG SAI LẦM CỦA VIỆT CỘNG
Những Sai Lầm Tai Hại của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đối với Dân Tộc và Phật Giáo Việt-Nam Hòa Thượng THÍCH QUẢNG ĐỘ
I. Đối với Dân Tộc
Ai cũng biết, chủ nghĩa cộng sản do Karl Marx hoàn thành nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới và, sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Lênin đã thành công trong việc thiết lập chế độ cộng sản tại nước Nga vào năm 1917. Kể từ đó, nhất là sau đại chiến thế giới lần thứ hai và bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh, thế giới đã chia làm hai phe rõ rệt là Cộng sản và Tư bản đối nghịch nhau một cách không khoan nhượng. Phe cộng sản do Liên-Xô lãnh đạo, phe tư bản do Hoa-Kỳ cầm đầu. Phe cộng sản nhằm ‘đào mồ chôn sống phe tư bản’ để làm bá chủ thế giới, vì cộng sản là phong trào quốc tế. Cộng sản chủ trương độc tài chuyên chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo, gây căm thù đấu tranh giai cấp giữa kẻ giàu người nghèo, hứa hẹn lấy của nhà giàu chia cho người nghèo để mang lại cơm no áo ấm cho họ và dùng cách mạng bạo lực để thực hiện mục đích ấy – sức mạnh phát ra từ nòng súng là châm ngôn. Cộng sản cũng chủ trương tiêu diệt tôn giáo, vì họ là những người vô thần duy vật, và tôn giáo đối với họ, cũng như Karl Marx đã nói, là ‘thuốc phiện’ của loài người mà bọn tư bản đã lợi dụng để ru ngủ nhân dân lao động hòng dễ bề bóc lột. Người dân Nga đã từng sống trong cảnh nghèo khổ và bị áp bức dưới chế độ Nga hoàng từ lâu, khi được nghe chủ trương và những lời hứa hẹn như trên đây thì tất nhiên là đã tán thành chủ nghĩa cộng sản, nhờ thế mà cộng sản đã thành công tại Nga. Nhưng nói thế nhất thiết không có nghĩa là cái gì tốt cho nước Nga cũng sẽ tốt cho Việt-Nam. Mỗi nước có những vấn đề riêng của nó và những vấn đề ấy phải được giải quyết theo bối cảnh lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của mỗi nước. Cái bất hạnh cho dân tộc Việt-Nam là những người cộng sản Việt-Nam đã không ý thức được điều đó. Như vừa nói ở trên, thế giới đã chia làm hai phe cộng sản và tư bản, hễ ở đâu, nhất là các nước thuộc địa nhược tiểu ở Phi-Châu, Á-Châu và Mỹ-Châu La-tinh mới giành được độc lập sau thế chiến thứ hai, theo cộng sản thì tư bản núp dưới chiêu bài ‘Chống cộng sản để bảo vệ thế giới tự do’ mà can thiệp vào công việc nội bộ của nước ấy. Cũng thế, nếu theo tư bản thì cộng sản lại cũng núp dưới chiêu bài ‘Giải phóng dân tộc’ để bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Việt-Nam là một trường hợp. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hầu hết các nước thuộc địa ở Á-Châu đều được độc lập và đa số chẳng theo phe nào, cho nên dân các nước ấy được sống trong hòa bình để xây dựng đất nước và củng cố nền độc lập còn non trẻ của họ, chỉ có nước Việt-Nam là khốn khổ vì chiến tranh tàn phá suốt hai mươi chín năm trời (1946-1975) là bởi những người cộng sản đã đưa vận mệnh của nước Việt-Nam ràng buộc vào với sự sống còn và quyền lợi của phe cộng sản quốc tế. Giá như những người Việt-Nam thời kỳ ấy không là cộng sản quốc tế mà vì dân tộc thật sự, như những Nehru của Ấn-Độ, Sukarno của Nam-Dương hay Nasser của Ai-Cập v.v… thì dân tộc Việt-Nam đã có thể tránh được hai mươi chín năm chiến tranh ý thức hệ quốc cộng tương tàn do các thế lực ngoại bang chi phối! Năm 1946, thực dân Pháp trở lại Việt-Nam với hy vọng chiếm lại thuộc địa cũ. Nhưng, như mọi người còn nhớ, sau thế chiến thứ hai, nước Pháp đã kiệt quệ, làm gì còn đủ khả năng để thực hiện giấc mơ ấy? Song phe tư bản đã chi tiền của và súng đạn để nhờ thực dân Pháp ‘ngăn chặn cộng sản tiến xuống vùng Đông-Nam-Á để bảo vệ thế giới tự do’, vì Việt-Nam là thuộc địa cũ của Pháp, cho nên người Pháp có lý do để trở lại hơn là các nước tư bản khác trực tiếp nhảy vào. Ngược lại, cộng sản Việt-Nam cũng kêu gọi toàn dân đứng lên chống đế quốc xâm lược để ‘bảo vệ tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa’. Thế là Việt-Nam đã nghiễm nhiên trở thành đấu trường để hai phe cộng sản và tư bản đọ sức. Để tạo cho mình một lý do chính đáng, người Pháp đã đưa cựu hoàng Bảo-Đại về dựng lên một chính phủ bảo hoàng chống cộng để bảo vệ độc lập quốc gia, dùng người Việt bắn giết người Việt, thế là cảnh ‘nồi da xái thịt’ bắt đầu và kéo dài mãi đến năm 1975 (sẽ nói sau). Khốn nỗi, bên cạnh những ông bảo hoàng ấy là các ông mũi lõ, mắt thau, tóc quăn da đen, thì người dân Việt yêu nước nào mà tin được là các ông hoàng ấy ‘bảo vệ độc lập quốc gia’? Về điểm này, phe cộng sản khôn hơn phe tư bản, họ dùng ngay người bản xứ, họ chỉ cho vay tiền bạc, súng đạn và cố vấn ở hậu trường mà thôi, chứ họ không đưa quân lính các nước cộng sản khác đến trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường. Bởi thế, những người cộng sản bản xứ đã tạo cho mình được cái vế ‘chính nghĩa chống ngoại xâm’, cho nên tuyệt đại đa số nhân dân tin và hết sức ủng hộ vì lòng yêu nước. Vì lẽ đã tám mươi hai năm phải sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bây giờ đánh đuổi quân Pháp để giành độc lập thì ai mà chẳng hoan nghênh và sẵn sàng hy sinh, cho nên cuối cùng cộng sản đã thắng. Sau cuộc thảm bại tại trận Điện Biên Phủ, người Pháp thấy không còn đủ sức theo đuổi chiến tranh, mà nếu cứ tiếp tục, thì rồi sẽ có thể mất luôn cả nước Pháp vì nợ nần chồng chất. Do đó, năm 1954, Pháp đã thỏa hiệp với cộng sản Việt-Nam chia đôi đất nước Việt-Nam theo Hiệp định Genève, cắt vĩ tuyết 17 trở ra Bắc cho cộng sản để Pháp rút quân về, sau chín năm bắt giết đốt phá. Sau khi Pháp rút đi, cộng sản tiếp thu Hà-Nội và cai trị toàn miền Bắc, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản (mà trong thời kháng chiến chưa dám làm vì sợ mất lòng dân) và chuẩn bị cho cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, tức là đã đánh đuổi được kẻ thù bên ngoài rồi, bây giờ phải thanh toán những kẻ thù bên trong. Những kẻ thù bên trong ấy là ai? Đó là: Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo, Lưu manh và phải ‘đào tận gốc trốc tận rễ’. Nghĩa là trí thức – đặc biệt là Quốc-Dân Đảng – người giàu, địa chủ, cường hào, tôn giáo, lưu manh, đào tận gốc trốc tận rễ có nghĩa là phải tiêu diệt cho bằng hết! Và cuộc căm thù đấu tranh giai cấp ấy đã diễn ra năm 1956, dưới hình thức cải các ruộng đất và ‘ôn nghèo gợi khổ’ kéo dài suốt sáu tháng trời. Mỗi xã hội có một đội cải cách do Trung ương Đảng phái về, gồm toàn người xa lại, từ miền Trung ra. Những người miền Bắc thì được phái vào miền Trung, vì những người khác xứ như thế sẽ không có tình cảm địa phương và dễ bề thẳng tay tàn ác mà không sợ bị nhận diện. Khẩu hiệu của đội cải cách là: ‘Nhất đội nhì trời’. Cũng như trong miền Nam năm 1975, cộng sản đang trong cái khí thế ‘thừa thắng xông lên’, tại các công trường làm thủy lợi, cộng sản trương khẩu hiện ‘Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến nên thay trời’! và ‘vắt đất ra nước, thay trời làm mưa’, còn gì ngông cuồng hơn! Một ông vua thời phong kiến bất quá cũng chỉ xưng là ‘thiên tử’ (con trời), nhưng ngày nay đội cải cách của Đảng cộng sản còn là ‘bố trời’ và mọi người nếu muốn kêu xin điều gì phải nói: “Con cúi đầu xin đèn trời soi xét.” Oái ăm thay! Một Đảng chính trị như Đảng Cộng sản Việt-Nam chủ trương đánh đổ vua chúa phong kiến, thực dân đế quốc để mang lại độc lập tự do hạnh phúc cho toàn dân, thì giờ đây nghiễm nhiên lại là bố trời! Quyền lực và lợi lộc làm hư hỏng con người đến thế! Khi đội về xã nào thì họ đến ở trong các nhà nghèo nhất xã, xưa nay chuyên đi cày thuê cuốc mước, hoặc ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà giàu, hoặc là người làm mõ trong xã. Những người này được gọi là ‘thành phần cốt cán’ và được đội cải cách giao cho công việc ‘nghiên cứu điều tra’ xem ai là địa chủ, cường hào, phú nông, trí thức (tức đảng viên Quốc-Dân Đảng), nếu ai rơi vào những thành phần ấy thì bị bắt giam riêng ở một nơi để chờ ngày đem ra đấu tố và coi như đã nắm chắc cái chết trong tay rồi. Trong thời gian các khổ chủ bị giam được canh gác rất cẩn mật, thân nhân không ai được đến gần, nếu đến cũng bị tội lây. Sở dĩ đội cải cách giao cho những người nghèo nhất xã làm công việc quan trọng như vậy là vì những người nghèo khổ hay mang lòng ghen ghép oán hận, đúng như kinh Phật đã nói ‘bần khổ đa oán’ (nghèo khổ nhiều oán), cho nên dễ bị kích động để trở thành căm thù, mà có căm thù thì cuộc tố khổ mới thành công. Sau khi thành phần cốt cán nghiên cứu điều tra xong, đội cải cách quyết định ngày giờ đưa các khổ chủ ra đấu tố. Các khổ chủ được đưa đến đấu trường mà đội là là ‘tòa án nhân dân’, thường là ở giữa cánh đồng hoặc trên một bãi đất trống rộng. Ở giữa đấu trường, một cái đài cao được dựng lên (như lễ đài) dành cho đội cải cách và ‘bồi thẩm đoàn’ (dĩ nhiên là những người nghèo nhất và mù chữ trong xã) của tòa án nhân dân ngồi. Các khổ chủ cúi đầu quì ở dưới, hai tay bị trói giặt về sau lưng. Khi đội cải cách luận tội, có điều gì oan ức muốn kêu, thì các khổ chủ phải nói: “Con cúi đầu xin đèn trời soi xét…” Ngày ấy tất cả dân trong xã (mỗi gia đình chỉ được để một người già ở nhà giữ nhà) phải đến dự để tố khổ chủ (tất nhiên là họ đã được học tập trước rồi). Đại khái họ kể: “Ngày trước chúng mày đã bóc lột chúng tao, cho chúng tao vay nặng lãi; ngày giỗ ngày tết chúng tao phải đưa gà, trứng gà, thịt lợn gạo nếp đến biếu chúng mày, tính đến nay đã có tới hàng ngàn hàng vạn con gà, quả trứng; làm thuê cho chúng mày thì chúng mày cho chúng tao ăn đói, lại còn đánh đập hành hạ chúng tao, v.v… và v.v…” Có nhiều trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy, anh em họ hàng tố lẫn nhau vì những nguyên nhân bất hòa trong gia đình trước kia. Tố xong, tòa án nhân dân định tội và kết án tử hình, tất cả đám đông ở dưới phải hô to ba lần: “Tử hình! Tử hình! Tử hình!” vừa hô vừa dơ tay đấm lên hư không ba cái. Thế rồi khổ chủ bị bịt mắt lại đưa đến trói vào cây cột đã được dựng sẵn và đội hành quyết gồm năm người đứng nhắm bắn, khổ chủ gục đầu xuống và kết liễu một cuộc đời! Người ta kể có trường hợp bắn đi bắn lại mấy lần khổ chủ mới chết. Sau một hồi vỗ tay hoan hô, đám đông lần lượt ra về, để rồi ngày mai đi hoan hô nữa, hết xã này đến xã khác! Sau đó, tài sản của các khổ chủ tử hình, gọi là ‘quả thực’ được chia cho thành phần cốt cán, người được giao nhà, người được cái giường, cái bàn, cái ghế, cái hòm, cái cối xay, cối giã, cái cày cái bừa, bát đĩa nồi niêu, dần sàng rổ rá, cho đến cái chổi cùn, rế rách… nghĩa là có cái gì chia cái ấy. Như đã nói ở trên, cuộc đấu tranh căm thù giai cấp diễn ra suốt sáu tháng trời, trên toàn miền Bắc chết chóc quá nhiều,đến bảy trăm nghìn người trong đó, có nhiều trường hợp, như một cán bộ đã nói với tôi nguyên văn như sau: “Cộng sản chặt đầu cộng sản mới đau chứ” đến nỗi Đảng Cộng sản Việt-Nam đã phải ra lệnh sửa sai và, cũng người cán bộ kể trên đã nói: “Hồ chủ tịch đã đích thân đứng ra xin lỗi nhân dân.” Nhưng có điều mỉa mai ở đây là Đảng Cộng sản Việt-Nam thường tự hào không bao giờ bị sai lầm, thậm chí, hồi tôi bị cộng sản giam trong nhà tù Phan-Đăng-Lưu ở Bà-Chiểu Gia-Định năm 1977, tôi được nghe bài hát trên loa đài, ca tụng Đảng là ‘chân lý’, Đảng là ‘mặt trời’, thế sao lại phải sửa sai! Một điều đau đớn nữa là dù có sửa sai, có xin lỗi thì bảy trăm nghìn con người cũng đã mất mạng và tài sản của họ cũng đã tiêu tan rồi! Tuy nhiên, vẫn chưa hết chết chóc. Vì sau khi sửa sai, người ta lại chém giết nhau nữa. Chả là, trong thời gian tố khổ, có nhiều người vì thù oán riêng tư, đã ‘mượn gió bể măng’ dựa vào cuộc đấu tố mà tố bậy, tố oan để trả tư thù. Do đó, khi sửa sai, thân nhân của những khổ chủ đã chết vì bị tố oan, trở lại giết những kẻ tố oan để trả thù? Chẳng hạn như trường hợp một anh ‘cốt cán’ ở một xã nọ bị cụt mất ngón tay trỏ từ thuở nhỏ, đến thời cải cách tố khổ, anh ta dùng cái ngón tay cụt ấy mà tố đến mười người. Đối với người nào anh ta cũng nói: “Tao ở chăn trâu cắt cỏ cho mày, mày đã cho dăn đói và không trả công thì chớ, mày lại còn chặt ngón tay tao!”. Sau anh này bị giết lại trong thời gian sửa sai. Con số những người chết trong trường hợp này cũng khá nhiều. Thật là một bầu không khí căm thù ngút trời mà từ bốn nghìn năm lịch sử chưa từng có. Sư cụ chùa Long-Khánh xã Vũ-Đoài – nơi tôi bị quản thúc hơn mười năm nay (1982-1992) bị tố là đảng viên Quốc-Dân đảng và bị giam hai tháng, đến khi sửa sai mới được tha, không thì cũng chết. Còn một người nọ, tuy nghèo phải đi làm công, nhưng rất thật thà nhân hậu, cho nên người chủ nhà cũng thương tình, mỗi khi túng thiếu vay thóc ăn thì người chủ cho vay mà không lấy lãi. Đến thời cải cách, người ta buộc ông phải tố người chủ, ông ta đành phải lên tố. Ông ta nói: “Tao nghèo khổ phải đi làm thuê làm mướn cho mày, mày cho tao ăn hai bữa cơm no, tối về mày còn trả công tao đấu gạo; khi tao túng thiếu đến vay thóc mày, thì mày cho vay không, không lấy lãi…” Đội cải cách phải cho người ra lôi cổ ông ta xuống, không cho tố nữa. Lại ở một xã nọ, ông linh mục bị đưa ra đấu tố, người đứng ra tố là một bà đanh đá nhất xã, bà ta tên Đức. Khi ông linh mục quỳ giữa đấu trường, bà Đức (Đức là thất đức) đứng trước xỉa xói vào mặt linh mục chửi thậm tệ, rồi bà ta nói: “Tu hành gì mày, có mà tu hú; tu gì mà ăn những thịt gà cá gỡ cho béo vào, cái mặt phèn phẹt ra thế kia kìa rồi đi theo cộng sản mà làm hại dân hại nước!” Lập tức đội cải cách sai người lên kéo bà ta ra, nhưng bà còn đang hăng máu, không chịu ra và nói: “Chưa hết! Nó còn nhiều tội lắm, chưa tố hết.” Nhưng một người bịt miệng bà ta và một người cầm tay lôi bà ta ra. Có lẽ bà ta đã được dạy nói là “đi theo quốc gia, theo Tây mà làm hại dân hại nước”, nhưng lúc đó bà đang hăng say, quên bẵng đi mà nói lộn là ‘đi theo cộng sản’ chăng? Sau đó ông linh mục được đưa đi và cho đến nay (1992) vẫn chưa về! Kể từ sau ngày cải cách và đấu tố trở đi, những thân nhân họ hàng của địa chủ, cường hào, trí thức, sư, linh mục bị gọi là thằng nọ con kia và mỗi khi ra đường gặp bất cứ người nông dân lớn bé già trẻ nào, cũng phải khoanh tay cúi đầu chào: “Con xin chào ông nông dân, con xin chào bà nông dân!” Người ta kể chuyện một em bé gái sáu tuổi bế em trai đi chơi, một bà già thân nhân của địa chủ gặp và khoanh tay cúi đầu chào: “Con xin chào bà nông dân bế ông nông dân đi chơi”! Thật là chuyện cười ra nước mắt. Chưa hết, sư cụ chùa Long-Khánh xã Vũ-Đoài, sau khi được tha về, hôm ấy là ngày 15, cụ nấu xôi cúng Phật, cụ đang đơm xôi vào đĩa, mấy bà già tín đồ trong xã, trông thấy, họ nói: “Mày không được đơm xôi cúng Phật, đồ phản động dơ dái! Việc của mày ở ngoài vườn. Để xôi đó cho chúng tao đơm, ra vườn làm cỏ!” Ôi luân thường đạo lý! “Than ôi! Văn minh Đông-Á trời thâu sạch, này lúc cương thường đảo ngược ru?” (Tản Đà). Nhà thơ đã biết trước, nhưng may cũng đã qua đời, khỏi phải chứng kiến cảnh đau lòng. Kể từ sau ngày cải cách, tôn ti trật tự xã hội đảo lộn, luân thường đạo lý đổ nát, vì cảnh con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng tố lẫn nhau, tất cả giá trị tinh thần truyền thống đều sụp đổ. Cuộc cải cách này và cuộc chiến tranh ý thức hệ huynh đệ tương tàn ròng rã hai mươi chín năm, khiến ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương và nửa triệu trẻ em sinh quái thai là một cái giá quá đắt mà dân tộc Việt-Nam phải trả để đổi lấy một học thuyết phi nhân và vô luân mà nay nó đã bị loại bỏ ngay trên mảnh đất nó đã được thí nghiệm lần đầu tiên cách đây bảy mươi tư năm (1917-1991). Những ai phải chịu trách nhiệm cho thảm họa ấy? Trên đây tôi chỉ kể lại sơ qua mấy nét tổng quát về cuộc đấu tố thôi, còn những chi tiết liên quan đến cách làm việc, những thủ đoạn khủng bố, cách đối xử với các khổ chủ trong thời gian họ bị giam cầm trước khi chính thức đưa ra đấu trường để bị tố và xử bắn, thì thật khủng khiếp, không thể diễn tả được, chỉ có thể nói cũng tương tự như cái gọi là ‘the Reign of Terror’ trong cuộc Cách mạng Pháp 1793-94 vậy. Sau khi đã thanh toán những kẻ thù ‘có nợ máu’ với nhân dân rồi, Đảng cộng sản Việt-Nam hứa với nhân dân sẽ xây dựng một xã hội công bằng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng như ai, không có kẻ giàu người nghèo, không còn nạn người bóc lột người, không ai phải làm thuê làm mướn cho ai, nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc; các cụ già sáu mươi tuổi trở lên, không còn sức lao động, sẽ có ‘an dưỡng đường’, mỗi cụ một căn phòng khang trang đẹp đẽ, có người phục vụ chu đáo. Xã hội cộng sản sẽ không có ăn mày, trộm cướp, đĩ điếm, nghiện ngập, hút xách, ai cũng có công ăn việc làm, không có nạn thất nghiệp, tóm lại là một thiên đường trên mặt đất. Và sau này trên mặt đất nếu dân số tăng lên đông quá, không đủ chỗ ở, thì sẽ đưa bớt lên mặt trăng! Để thực hiện lời hứa lấy ruộng của địa chủ chia cho nông dân, Đảng Cộng sản đã chia ruộng cho dân một cách đồng đều và cấp bằng ‘sở hữu chủ’ hẳn hoi. Bằng sở hữu chủ phải được cắm ngay trên thửa ruộng của mình để chứng tỏ quyền sở hữu của mỗi người. Và để thực hiện không ai làm thuê làm mướn cho ai, Đảng bảo dân thành lập tổ năm nhà hoặc hơn tùy ý, hợp lại với nhau, rồi hôm nay cày cấy cho nhà này, ngày mai cày cấy cho nhà khác, cứ như thế cho đến hết lượt. Thuế nông nghiệp lúc này rất nhẹ. Nhân dân vu mừng lắm, nói theo danh từ thời thượng là rất ư ‘hồ hởi phấn khởi’. Từ bao đời nay, bây giờ ‘ơn Bác ơn Đảng’, người nông dân mới thực sự có được mảnh ruộng và làm chủ mảnh ruộng của mình. Đời sống nông dân trong giai đoạn ấy tương đối sung túc, cho nên dân rất tin yêu đảng. Nhưng tiếc rằng sự hồ hởi phấn khởi ấy chẳng được lâu, vì đến năm 1960, Đảng bắt dân phải góp hết ruộng vào Hợp tác xã lớn để ‘làm chủ tập thể’ chứ không sở hữu riêng nữa. Nông dân có gì đem góp hết vào hợp tác xã: trâu bò, cày bừa, cối xay cối giã, trục lúa v.v… tóm lại tất cả các nông cụ riêng trước đây đều sung vào hợp tác xã. Người nông dân bỗng nhiên thấy mình hoàn toàn là người vô sản, chỉ còn hai bàn tay để đi làm thuê lấy điểm, có khác là trước kia làm thuê cho ‘bọn địa chủ tàn ác bóc lột’, nó cho ăn ngày hai bữa cơm no, tối về nó trả công cho đấu gạo; còn bây giờ thì làm thuê cho hợp tác xã không cơm, tối lại được trả cho tám lạng hay một cân thóc đựng vào cái mo cau mang về (một cân thóc bằng sáu lạng gạo, người khỏe ăn một bữa không no). Bởi thế người dân đã nói với nhau là: “Hợp tác lên to lấy mo đựng thóc”. Một ông ‘cắc cớ’ nào đó lại nói: “Hợp tác lên to đói hết rồi”, bị gọi ra Ủy ban Nhân dân xã. Xã bảo: “Anh nói thế là nói xấu Cách mạng, bôi nhọ chế độ hả?” Ông cắc cớ trả lời: “Đâu dám! Ý tôi muốn nói là Hợp tác lên to hết cái đói rồi, nghĩa là không còn ai đói nữa, ai cũng no đủ cả”. Thế rồi ông cắc cớ thong thả ra về. Lại một ‘nhà thơ’ nào đó làm mấy câu thơ như sau: Sáng bước chân ra bụng đói rồi Trưa về lưng lửng tối ta thôi cũng bị gọi ra Ủy ban và gán cho tội bôi bác chế độ. Nhà thơ phủ nhận và bảo bài thơ tôi có bốn câu tứ tuyệt, nhưng nhân dân chỉ truyền tụng có hai câu mà bỏ hai câu cuối của tôi đi, làm cho bài thơ không trọn nghĩa. Ông xã hỏi thế hai câu cuối của anh như thế nào? Nhà thơ đọc: Đói no chi quản thời chinh chiến Mỹ cút đi rồi bác với tôi! Ông xã nói :”Ừ, vậy thì hay quá chứ còn gì!” Thế là nhà thơ thung dung ra về. Đế năm 1980, Đảng Cộng sản thấy cách làm ăn tập thể kiểu Hợp tác xã bết bát quá, vì chẳng ai chịu gắng sức làm, lại còn lãng phí, có khi phá ngầm nữa, bởi lẽ họ có làm mà không được hưởng, không đúng như lời Đảng đã nói “làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu”, nên họ chẳng thiết tha gì, chỉ làm qua loa cho xong việc rồi về nhà chăm lo con lợn con gà là chính, do đó, sản lượng nông nghiệp mỗi ngày mỗi giảm sút nặng nề, Đảng bèn đưa ra chính sách khoán sản phẩm, hy vọng cải thiện tình hình. Nhưng vì hợp tác lấy sản quá nặng nên nông dân cũng chẳng còn được bao nhiêu thóc và đói vẫn hoàn đói. Còn các cụ già hơn sáu bảy mươi tuổi, không làm được ruộng thì sung vào đội trồng cây theo khẩu hiệu của bác Hồ “Trăm năm trồng người, mười năm trồng cây”. Loại cây chính được trồng ở hai bên lề đường là cây bạch đàn, xà cừ và phi lao. Hợp tác xã dùng chúng làm củi đốt gạch hoặc làm nhà kho. Một hôm, có bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa Vũ-Đoài, các cụ vào chùa nghỉ giải lao, tôi hỏi các cụ đi đâu thì các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm. Tôi tò mò hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm, các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc. Tôi nói: “nghe đâu các cụ đã có an dưỡng đường, có người phục vụ chu đáo rồi mà, thế sao các cụ còn phải đi trồng cây lấy điểm?” Các cụ trả lời: “Chả biết sau này thế nào, chứ hiện giờ thì chúng tôi đang còn ‘ăn đứng đừơng’. An dưỡng đường mà các cụ nói chệch ra ăn đứng đường thì cũng lạ thật. đã vậy, những cây các cụ trồng xong, chỉ ít ngày sau là người ta đã bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm, bởi vậy các em bé chăn trâu cho hợp tác xã (trước kia thì chăn trâu cho địa chủ bóc lột) mới làm vè hoan hô các cụ: Hoa hô các cụ trồng cây Mười cây chết chín một cây gật gù! Các cụ cũng chẳng vừa, cũng làm vè ‘phản pháo’ lại: Các cháu có mắt như mù Mười cây chết tiệt gật gù ở đâu! Nghĩa là trong con mắt các cháu thì mười cây còn sống sót được môt cây, nhưng dưới con mắt các cụ thì mười cây chết hết cả mười! Thực ra thì các cụ chỉ trồng chúng xuống đấy để lấy điểm sống qua ngày thôi, còn chúng sống hay chết cũng mặc, các cụ đâu có quan tâm. Còn những người bẻ hoặc nhổ cây đi thì lại nghĩ chúng có lớn lên mình cũng chẳng được dùng, thôi thì nhổ phứt đi cho khuất mắt. Nạn tham ô ở nông thôn cũng rất phổ biến. Nông dân phải trả sản nặng, thiếu phải bù lỗ, bởi thế phải nói khó với các ông lái máy cày máy bừa làm kỹ ruộng để cấy cho tốt lúa, bởi vì các ông máy cày hay cày lỏi; hoặc hợp đồng bừa ba lượt thì các ông chỉ bừa hai lượt thôi. Làm như vậy sẽ dôi số xăng mà hãng máy cày cấp cho mỗi máy, các ông lái máy cày lấy số dầu xăng đôi ra ấy đem bán chợ đen, mà cày bừa như thế thì ruộng không kỹ, lúa sẽ xấu. Bởi vậy nông dân phải luộc gà nấu xôi chó các ông ăn mới được, vì thế trong dân gian mới có câu ‘trâu đen ăn cỏ, trẩu đỏ ăn gà’. Trâu đen là con trâu thât, trâu đỏ là cái máy cày vì nó được son màu đỏ cách mạng. Thật cũng trớ trêu, ngày xưa phải biếu gà cho địa chủ bóc lột, còn ngày nay thì phải đút gà cho máy cày. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Nhưng sau máy cày nghĩ ăn gà chỉ ăn được một mình thôi, không vui, nên máy cày bèn lấy tiền và gạo đưa về nhà cùng vợ con ăn cho vui. Rồi đến điện lực cũng vậy Điện ở nông thôn chỉ được dùng để bơm nước vào đồng để cày bừa. Đến thời vụ, hợp tác xã nào muốn có nước vào đồng trước để cày bừa, thì phải đưa thịt và gạo nếp đến ‘lót tay’ mấy ông cán bộ coi trạm điện bật cầu giao điện, nếu không thì cứ chờ, quá thời vụ cũng mặc. Nhưng hợp tác xã sợ quá thời vụ lúa sẽ xấu, không đủ thóc đóng thuế cho Nhà nước cũng nguy, cho nên đành phải mang gạo thịt đi, chứ không thể chờ được. Bởi vậy, dân gian lại có câu tiếu lâm thời đại: ‘Có kí lô oét mới có kí lô oắt!’ Oét là tiếng kêu oen oét của con lợn, còn oắt (watt) là chỉ đơn vị điện lực. Hoặc câu nữa cũng không kém phần hóm hỉnh, như: ‘Có cầu thớt mới có cầu dao’. Cái thớt dùng để thái thịt luôn luôn đi với con dao, còn cầu dao là cầu dao của công tơ điện, hễ có gạo thịt thì nó bật lên, không thì nó cúp xuống! Lại trong làng xóm, nhà nào khá giả muốn có ngọn đền điện thắp sáng trong nhà, nhất là vào ba ngày Tết, hoặc đám cưới, đám ma v.v… thì xin ông cán bộ trạm điện cho phép câu điện vào, dĩ nhiên, cũng phải có gà lợn và gạo nếp chỉ đường dẫn lối. Cho nên người dân lại có câu ca dao: Muốn cho điện sáng về nhà Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi! Thật cũng buồn cười, trước trước cộng sản lên án tư bàn nắm lấy các phương tiện sản xuất để thao túng bóc lột dân lao động, thì giờ đây cộng sản có máy cày, có trạm điện cũng có tha dân đâu! Những câu tiếu lâm, ca dao về nạn tham ô ở nông thôn còn nhiều lắm, như: Mỗi người làm việc bằng hai Để cho cán bộ mua đài (radio) mua xe. Mỗi người làm việc bằng ba Để cho cán bộ xây nhà xây sân… và những tiếu lâm về các lãnh vực khác cũng khá nhiều, nhưng ở đây tôi không chủ trương nói về điều đó, chỉ nêu mấy câu làm điển hình thôi. Cuối cùng chính sách khoán sản phẩm cũng thất bại, đến năm 1985 thì Đảng cho khoán trắng. Nghĩa là cho dân thuê ruộng rồi đóng thuế cho Nhà nước, hệt như chính sách phát canh thu tô của ‘địa chủ bốt lột và bị giết’ trước kia, chỉ khác trước kia là địa chủ cá thể, bây giờ là địa chủ tập thể Đảng hoặc Nhà nước. Thế là mèo lại hoàn mèo. Rồi bắt đầu phá hợp tác xã: nào nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn, nhà chăn tằm, nhà thuốc, vườn ươm cây, của hàng hợp tác xã, ao cá bác Hồ, vườn cây bác Hồ v.v… phá hết, bán đấu giá hết. Một hôm, có người trong xóm ra chùa rủ tôi đi xem chỗ máy bay B52 của Mỹ bỏ bom, tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi bỏ bao giờ, ông ta bảo mới vài hôm nay, tôi lại càng ngơ ngác không hiểu ra sao. Sau một lát ông ta mới nói dân chúng mua nhà muôi lợn của hợp tác xã, họ đang đập phá lấy gạch, trông y như B52 bỏ bom. Lúc đó tôi mới vở lẽ. Mấy hôm trước có nguời ở thành phố Nam-Định sang thăm và cho tôi món quà hiệu Liên-Xô, bên ngoài hộp có mấy chữ CCCP, không hiểu, tôi đưa ra hỏi ông ta là nghĩa gì, ông ta bảo đó là chữ viết tắt của các câu: “Các cha cứ phá, các chú cứ phá, các cô cứ phá, các cậu cứ phá, các con cứ phá, các cháu cứ phá, các chắt cứ phá, các chút cứ phá, các chít cứ phá’… nói xong ông ta cười sằng sặc. Tôi nghĩ bụng thật là mấy chữ quái ác, đây là định mệnh của dân tộc chăng? Thảo nào mà đình chùa miếu mạo họ cũng phá, và bao nhiêu thế hệ mà cứ phá như thế thì liệu đất nước sẽ còn gì. Tôi nhớ lại thời ‘tiêu thổ kháng chiến’. Bao nhiêu công của sức lực, mồ hôi và cả nước mắt của nông dân đổ ra suốt một phần tư thế kỷ để xây dựng, gom góp hết vào hợp tác xã, bây giờ tan thành mây khói, và số tiền bán đấu giá các tài sản ấy chui vào đâu, người dân không biết. Tổ tiên Việt-Nam qua bao nhiêu đời, bằng kinh nghiệm sống của mình đã đúc kết thành những câu ngạn ngữ, ca dao ngắn gọn rất hay rất đúng để dạy con cháu đời sau về mọi lãnh vực. Như về luật nhân quả thì các cụ nói: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”, nghĩa là những kẻ làm điều ác thì sớm muộn gì cũng sẽ phải chịu quả báo ác. Về số phận thì các cụ nói: “Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo”. Đúng vậy, như thời cải cách, những địa chủ và cường hào bị tịch thu hết nhà cửa ruộng vườn, thóc gạo đồ dùng và tiền bạc họ lấy sạch, chỉ để cho cái chuồng trâu cho con cái ở, giường chiếu không có, phải nằm đất, không còn gì ăn, phải đi mò cua bắt ốc sống qua ngày. Vậy mà bây giờ họ lại giàu có, nhà xây gạch, dư thóc lúa tiền bạc. Trái lại, những người ngày trước lấy của họ chia nhau ăn, chỉ sau ít lâu là ăn hết, rồi người được chia nhà thì bán nhà, người được chia đồ đạc thì bán đồ đạc, rút cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo. Có điều mỉa mai là sau ngày cải cách, thân nhân con cái địa chủ, cường hào bị gọi thằng nọ con kia, khi gặp họ phải cúi đầu chào ông nông dân bà nông dân, thì bây giờ lại chính những người ấy đến nhà các thân nhân con cháu của địa chủ, cường hào vay tiền vay thóc và gọi họ bằng cụ hoặc bằng bà tùy tuổi tác, chứ không dám gọi thằng nọ con kia nữa. Nhưng không lãnh vực nào mà các cụ dạy bảo con cháu kỹ như lãnh vực làm ăn tập thể theo kiểu cộng sản. Các lãnh vực khác thì thường chỉ có một câu hai câu là cùng, riêng lãnh vực làm ăn tập thể thì có tới ba câu, đó là: “Cha chung không ai khóc, nhiều sãi không ai đóng cửa chùa, nhiều thầy rối ma nhiều cha con khó lấy chồng”. Ngày nay những người cộng sản Việt-Nam đã không chịu học bài học của tổ tiên ông cha, mà lại đi học ông Karl Marx, ông Lênin, tin rằng các ông ấy nói đúng hơn, hay hơn, nên mới bắt dân làm ăn tập thể, hao tiền tốn của phí công mà chẳng nên việc gì. Rồi đến lãnh vực chính trị cũng thế, tổ tiên Việt-Nam thiếu gì đường lối chính sách hay, như vua Thánh-Tôn (1054-1072) đời Lý, một hôm ngồi xử án tại điện Thiên-Khánh, có công chúa Động-Thiên đứng hầu bên cạnh. Vua chỉ vào công chúa mà nói với các quan: “Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, chỉ hiềm trăm họ dại dột, làm bậy phải tội, trẫm thương lắm. Từ nay về sau tội nhẹ thì tha, tội nặng thì giảm bớt đi.” Hoặc như Nguyễn-Trãi: “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân trừ cường bạo.” Những giá trị nhân bản cao quý đầy nhân tính như thế, tại sao người cộng sản Việt-Nam không học, lại đi học chính cách hận thù đấu tranh giai cấp, tố khổ nhân dân khiến hằng trăm nghìn đồng bào vô tội phải chết oan! Trở lại vấn đề khoán trắng sau khi tập thể hợp tác xã thất bại. Nghĩa là bây giờ (1985) ruộng đem khoán trắng cho dân, nhưng khốn nỗi trâu bò cày bừa và tất cả nông cụ khác trước đây đã góp hết vào hợp tác xã, khi hợp tác xã giải thể, tài sản bán đấu giá nông dân không được trả lại một món gì, bây giờ lại phải mua sắm đồ mới. Nhưng khó nhất là trâu bò, hàng trăm nghìn đồng một con trâu, dân lấy tiền đâu mà mua; xăng dầu lại đát, không đủ sức thuê máy cày. Vả lại, trước kia, khi vào hợp tác xã thì các bờ ruộng phải phá hết đi để làm thành ‘ruồng đồng cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi’ để cày máy. Bây giờ ruộng khoán trắng, mỗi nhà vài ba sào (một sào Bắt bộ bằng 366m2), dân lại phải đắp bờ lên để đánh dấu và giữ nước, thì dù người có khả năng thuê máy cày cũng chẳng cày được. Cho nên đa số nông dân dùng cuốc và mai để cuốc và bẩy ruộng, và cứ mỗi nhát cuốc dơ lên đập xuống, họ lại nói: “Cơ giới hóa toàn quốc”! Họ bảo ‘Đảng ta’ nói nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc mà! Trẻ em bảy tám tuổi cũng phải cơ giới hóa toàn cuốc. Cuốc xông, nhà nào có nhiều người trẻ khỏe thì bừa lấy. Cứ hai người kéo, một người cầm bừa, mấy người đi trên đường thấy thế ‘khen’: “Gớm, hai con trâu khỏe nhỉ!” rồi họ cười với nhau thông cảm. Cảnh ấy làm tôi nhớ lại năm 1975 được xem cuốn phim chiếu trên TV ở Sài Gòn kể lại cuộc đời của cụ Hồ-Chí-Minh (lúc đó trong phim cụ được gọi là anh Ba), từ bến Nhà Rồng Sài Gòn cụ xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước, mà một trong những nguyên nhân khiến cụ phải ra đi là cụ thấy người dân phải làm thân trâu kéo cày. Bây giờ đây, sau gần nửa thế kỷ cách mạng thành công, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, thì người dân lại phải kéo bừa thay trâu! Ở Vũ-Đoài tôi chỉ thấy người kéo bừa chứ không ai kéo cày, vì nặng lắm. Cuộc đời thật là cái đèn cù, quay hết vòng thì trở lại. Còn các tệ nạn xã hội như trộm cướp, trấn lột, ăn mày, ăn hối lộ, nghiệp ngập v.v… thì vẫn nhan nhản. Thế là từ sau ngày cải cách đấu tố giết chết bảy trăm nghìn người, Đảng Cộng sản đã hứa hẹn với nhân dân miền Bắc xây dựng một xã hội thiên đường trên mặt đất, đến nay đã ba mươi sáu năm (1956-1992) mà vẫn chưa thực hiện được, có lẽ nó chỉ là cái bánh vẽ chăng? Bây giờ đến lượt miền Nam thì sao? Như đã nói ở đoạn trên, sau trận Điện-Biên-Phủ, người Pháp đã thỏa hiệp với cộng sản chia đôi nước Việt-Nam, từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc thuộc cộng sản, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam thuộc Pháp. Nhưng phe Tư bản do Mỹ cầm đầu, thấy Pháp đã kiệt quệ, chín năm trời hao tiền tốn của mà chẳng làm nên việc, cho nên gạt Pháp ra để trực tiếp can thiệp vào Việt-Nam bằng cách đưa ông Ngô-Đình-Diệm về dựng lên một chính quyền quốc gia chống cộng mạnh để bảo vệ thế giới tự do. Sau đó, cộng sản vịn vào cớ ấy mà lập ra cái gọi là ‘Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam’ để chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc. Thế là cuộc chiến tranh giữa Quốc gia và cộng sản lại bắt đầu tại miền Nam. Chính quyền ông Ngô-Đình-Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị và có tính kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các giáo khác, như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô-Đình-Diệm ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11 năm 1963, chế độ ông Ngô-Đình-Diệm bị lật đổ. Năm 1965, sau cái gọi là ‘sự kiện vịnh Bắc Việt’, Chính phủ Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, đến năm 1966 đổ vào miền Nam nửa triệu quân Mỹ và hàng chục nghìn quân các nước đồng minh Thái-Lan, Nam-Hàn, Úc-Đại-Lợi để trực tiếp chiến đấu, từ đó cuộc chiến trở nên ác liệt, sự chết chóc tàn phá cực kỳ khủng khiếp. Với nửa triệu quân Mỹ và quân đồng minh mà phe Tư bản vẫn không thắng được phe Cộng sản. Có nhiều nguyên do, nhưng nguyên do chính vẫn là sự hiện diện đông đảo của những đoàn quân ngoại bang trên đất nước Việt-Nam đã tạo thêm ‘chính nghĩa’ bề ngoài cho cộng sản Việt-Nam, khiến khẩu hiệu ‘chống Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc’ của họ trở thành hiện thực, nhờ thế, cộng sản đã động viên được toàn lực nhân dân miền Bắc và một bộ phận lớn nhân dân yêu nước miền Nam có thiện cảm với cộng sản ủng hộ họ, cho nên cuối cùng cộng sản đã thắng. Về điểm này, như đã nói ở trên, phe cộng khôn hơn phe tư bản, vì họ chỉ dùng người cộng sản bản xứ đánh nhau ngoài chiến trường, chứ không có lính Tàu, Nga, Ba-lan, Tiệp-khắc v.v…, những nước ấy chỉ cho cộng sản Việt-Nam vay tiền bạc, súng đạn và cố vấn ở hậu trường mà thôi. Do đó, cộng sản Việt-Nam dễ tuyên truyền là nước Việt-Nam đang bị quân ngoại bang xăm lăng, mà chống xăm lăng để bảo vệ đất nước là chính nghĩa, thì người dân bình thường và có lòng yêu nước nào mà chẳng tin cộng sản có chính nghĩa. Và bất cứ cuộc chiến nào, hễ có chính nghĩa thì dù có khó khăn, khổ cực đến mấy đi nữa, cuối cùng tất cũng sẽ thắng. Hơn nữa, cộng sản còn vận động được một số nước trong phe tư bản ủng hộ họ, đồng thời, nhân dân Mỹ thấy cuộc chiến ở Việt-Nam chẳng có liên quan gì đến quyền lợi thiết thân của nước Mỹ mà con em của họ phải chết, bởi thế họ đòi Chính phủ Mỹ phải đưa trả con em về. Đó cũng là những yếu tố rất lợi cho cộng sản, cho nên họ càng khai thác tình cảm ấy bằng cách tỏ cho thế giới biết rằng mình là một chú tí hon đang bị một anh khổng lồ cậy khỏe bắt nạt, ức hiếp. Cũng như người Pháp năm 1954, đã không thắng được thì phải rút quân, nhưng rút cách nào cho khỏi mất thể diện, Mỹ bèn dùng máy bay B52 bỏ bom Hà-Nội để buộc cộng sản Bắc-Việt phải ngồi vào bàn hội nghị nói chuyện hòa bình. Bởi thế, hội nghị Ba-lê đã được mở ra, đến tháng một năm 1973 thì hai bên thỏa thuận đình chiến và Mỹ bắt đầu rút quân. Bây giờ còn lại một mình Việt-Nam Cộng hòa cố gắng kháng cự cộng sản, nhưng đến ngày 30-4-1975, Việt-Nam Cộng hòa đầu hàng và cộng sản đã chiếm toàn miền Nam. Họ thực sự đã làm đúng khẩu hiệu ‘đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào’. Ngay từ trước ngày 30-4-1975, rồi sau ngày cộng sản toàn thắng và mở cuộc đấu tranh căm thù giai cấp đánh Tư bản miền Nam, đã có cả triệu người bỏ nước ra đi, thậm chí cho đến nay (1992) người ta vẫn tiếp tục ra đi. Trong số những người vượt biển ra đi ấy, đã có bao nhiêu người bất hạnh vùi thân dưới đáy biển hoặc làm mồi cho cá? Bao nhiêu người đã đến được một nước nào đó, nhưng thuyền của họ lại bị đẩy ra khơi trở lại và số phận họ sau đó ra sao? Bao nhiêu người đã bị hải tặc cướp bóc hãm hiếp rồi quăng họ xuống biển? Bao nhiêu người tuy đã đến được bờ tự do, nhưng quá sợ hãi vì đã nhìn thấy những điều xảy ra trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nên đã trở thành điên khùng, mất trí? Và hiện đang còn bao nhiêu chục nghìn người đang sống lây lất như những con vật hai chân trong các trại tị nạn trên khắp vùng Đông-Nam-Á? Bao nhiêu người đã chết trong các trại tù trong số hàng trăm nghìn sĩ quan binh sĩ và nhân viên của chế độ cũ mà cộng sản bắt đi học tập cải tạo? Rồi ngay trên đất nước Việt-Nam hiện giờ đây còn bao nhiêu nhà trí thức, giáo sư, văn nghệ sĩ, tu sĩ, đang phải sống đọa đày trong các nhà tù cộng sản hoặc bị lưu đày quản thúc chỉ vì họ nói lên tiếng nói của lương tri, muốn cho dân tộc được tự do dân chủ thực sự? Tất cả đều không ai biết được. Thật là khủng khiếp. Suốt bốn nghìn năm lịch sử dân tộc, chưa từng có giai đoạn nào đau thương khổ thảm như giai đoạn này. Ngay cả dưới chế độ thực dân phong kiến thống trị, người dân chẳng ai bỏ nước ra đi, vậy mà ngày nay được ‘độc lập tự do hạnh phúc’ thì hàng triệu người lại ùn ùn bỏ nước ra đi bất chấp hiểm nguy chết chóc là nghĩa làm sao? Có nhiều người bảo vì nghèo khó mà người Việt bỏ nước ra đi để tìm một cuộc sống khá hơn. Không phải thế đâu. Gần hai mươi năm qua đã biết bao nhiêu người bỏ hết tài sản cơ nghiệp mà có thể họ ăn đến mấy đời không hết để thoát thân, nếu không may phải chết đuối ngoài biển họ cũng vui lòng và bảo chết thế càng mát! Ngay cả bây giờ đây (1992), các nước tư bản đã vào Việt-Nam kinh doanh, kinh tế đang phát triển, đời sống tương đối đỡ đói hơn trước; nhưng giả sử có nước nào hào hiệp sẵn sàng đón nhận người Việt-Nam đến sinh sống, hoặc có một hòn đảo nào sinh sống được mà quốc tế giúp đỡ cho người Việt đến đó làm ăn và nhà cầm quyền Hà-Nội cho họ tự do ra đi không hạn chế, thì tôi tin chắn rằng sẽ có một nửa dân số Việt-Nam, nếu không nói là hơn thế nữa, sẽ bỏ nước ra đi một cách không vấn vương thương tiếc. Tại sao vậy? Bởi vì ở Việt-Nam hiện nay có cái tội danh ‘phá rối trật tự an ninh xã hội’ nó mông mênh lắm, không có giới hạn nào, không biết đâu mà tránh, cho nên người dân sống trong tình trạng nơm nớp lo sợ như con cá nằm trên thớt, không biết mình bị bắt lúc nào nếu lỡ mồm lỡ miệng nói điều gì mà Đảng Cộng sản không vừa lòng là bị khép ngay vào cái tội danh trên sẽ biến mất vào ban đêm, hàng xóm không ai biết. Bởi thế mỗi khi muốn nói điều gì có liên quan đến chính trị một chút thì phải nhìn trước nhìn sau, thậm chí nhìn cả dưới gầm giường, gầm bàn xem có ai nghe lén không rồi mới dám nói, nhưng cũng không dám nói to đâu, chỉ nói thầm như bàn nhau đi ăn trộm ấy thôi, vì sợ có người núp ở sau nhà nghe lén. Một người ở xã Vũ-Đoài ra chùa xin tôi mấy chữ Hán về treo trước bàn thờ tổ tiên trong ba ngày Tết. Tôi nghĩ treo trước bàn thờ tổ tiên thì không có chữ nào hợp tình hợp cảnh bằng bốn chữ xưa nay rất thông dụng, đó là bốn chử ‘Ẩm Thủy Tư Nguyên’, nghĩa là uống nước nhớ nguồn. Vậy mà công an đến hỏi người chủ nhà là những chữ gì, vì anh ta không biết chữ Hán. Sau khi nghe chủ nhà giải nghĩa, anh công an nói: “Coi chừng hắn (tức là tôi) định nói chính trị trong đó đấy!” Sống trong một xã hội luôn luôn bị rình rập và nghi kỵ như vậy, đến mấy chữ uống nước nhớ nguồn mà cũng nghi là chính trị, cũng như tôi bị quản thúc lưu đày đã mười năm nay (1982-1992) chỉ vì cái tội ‘làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị’, thì tôi thiết nghĩ dù có ngồi trên đống vàng cũng chẳng cảm thấy hạnh phúc. Bởi vậy bất cứ lúc nào có cơ hội là người Việt-Nam sẵn sàng bỏ nước ra đi, chứ không phải vì nguyên do nghèo khó, kinh tế thiếu thốn đâu. Tôi xin kể một câu truyện cổ để chứng minh. Đức Khổng-Tử sang nước Tề, đi qua núi Thái-Sơn, thấy một người đàn bà đang khó ở ngoài đồng, nghe thảm thiết lắm. Ngài nói với đoàn tùy tùng: “người đàn bà kia hình như trong nhà có trùng tang.” Rồi sai Tử-Công đến hỏi. Người đàn bà nói: “Ở đây lắm hổ (cọp), bố chồng tôi chết vì hổ, chồng tôi chết vì hổ, bây giờ đến lượt con tôi cũng lại chết vì hổ. Thảm lắm ông ơi!” Tử-Công bảo: “Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác?” Người đàn bà trả lời: “Tuy vậy, nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc như ở các nơi khác.” Tử-Công đem chuyện thưa lại với Đức Khổng-Tử. Ngài nói: “Các ngươi nhớ đấy: chính trị hà khắc khốc hại hơn mãnh hổ!”. Cũng thế, hàng triệu người Việt-Nam ngày nay bỏ nước ra đi là vì sợ một chế độ chính trị hà khắc chứ không phải vì sợ đói khổ, như tôi đã trình bày ở trên, có những người ăn đến mấy đời không hết của mà vẫn bỏ nước ra đi và có chết ngoài biển cũng vui lòng, như vậy chứng tỏ họ sợ chính trị hà khắc còn hơn cả sợ chết, cho nên ngài Khổng-Tử nới nói “chính trị hà khắc khốc hại hơn mãnh hổ” là thế. Suốt hai mươi mốt năm trời (1954-1975), cộng sản Việt-Nam đã tận dụng nhân lực của nhân dân miền Bắc và của đại bộ phận nhân dân miền Nam, để ra sức ‘đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào’, thì năn 1974 Mỹ đã ‘cút’ thật sau hai mươi năm trút hàng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống đất nước Việt-Nam, rồi đến năm 1975 thì ‘Ngụy’ cũng đã ‘nhào’ thật, cộng sản toàn thắng, chiến công đạt đến tuyệt đỉnh vinh quang. Nhưng sau mười tám năm (1975-1992) vinh quang oanh liệt, đến khi phe cộng sản Đông-Âu và Liên-Xô tan rã, thì giờ đây cộng sản Việt-Nam thấy mình hụt hẫng, không còn chỗ dựa, và để cứu vãn nền kinh tế kiệt quệ vì không còn được ai cho vay nên đành phải muối mặt mà mời người Mỹ trở lại hy vọng họ bỏ cấm vận. Nhưng khốn nỗi người Mỹ lại làm cao, đặt ra các điều kiện này nọ, mà điều kiện tiên quyết là phải tìm kiếm đào bới cho đủ số hơn hai nghìn lính Mỹ còn bị liệt kê mất tích trong chiến tranh tại Việt-Nam. Cộng sản Việt-Nam phải trần lực ra đi đào bới tìm kiếm từng mẩu xương khô, và cứ mỗi lần cộng sản giao trả cho Mỹ mấy bộ xương thì Mỹ lại ‘tưởng thưởng’ cho cộng sản một cái gì đó theo như lộ trình họ đã định. Các ông cộng sản Việt-Nam có cám thấy ‘khó chịu’ không? Nhân đây tôi cũng xin nói với quý ông trong Chính phủ Mỹ rằng, nếu quý ông tưởng thưởng cho cộng sản thì cứ nói rõ là tưởng thưởng cho cộng sản, chứ dân tộc Việt-Nam chúng tôi với truyền thống Lý-Thái-Tổ, Lý-Thường-Kiệt, Trần-Nhân-Tôn, Trần-Hưng-Đạo, Lê-Lợi, Nguyễn-Trãi v.v… có đi đào thuê cuốc mước cho quý ông đâu mà quý ông tưởng thưởng cho Việt-Nam. Kể cũng chua chát, người Mỹ đã trút hàng triệu tấn bom và chất độc da cam xuống đất nước Việt-Nam tàn sát hơn một triệu người dân Việt, bao nhiêu người tàn phế và trẻ em quái thai vì chất độc hóa học, và hậu quả khốc hại của nó còn kéo dài trong nhiều thế hệ nữa; nhưng vì họ có nhiều đô-la (mà trước kia cộng sản cho là đồng tiền ‘vấy máu’) cho nên cộng sản phải cố làm vừa lòng họ. Còn những người dân Việt-Nam yếu hèn thì cộng sản đối xử như những con vật, cho nên người dân miền Bắc đã phải nói: “ăn như lợn (tức ăn độn), ở như chuột, làm như trâu, đối xử như chó”. Lại như thượng tọa Huyền Quang và tôi chỉ vì cộng sản làm bậy, đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà hộ sinh (nhà đỡ đẻ), làm rạp chiếu bóng, bắt bớ tăng ni Phật tử một cách bừa bãi, chúng tôi buộc lòng phải phản đối những hành động ngông cuồng và phi pháp ấy của cộng sản, chứ có tranh giành quyền lợi gì với họ đâu, vậy mà họ giam cầm đày ải suốt mười mấy năm nay! Hơn hai nghìn lính Mỹ mất tích còn có người tìm kiếm đào bới, thế còn hơn ba trăm nghìn lính cộng sản Bắc Việt mất tích thì ai tìm kiếm đào bới? Còn các ông ‘ngụy’ đã ‘nhào’ mà thoát thân trước ngày 30-4-1975, và những người vượt biên sau đó, đều bị cộng sản lên án là phản quốc, bây giờ trở thành người nước ngoài gốc Việt, nếu muốn về thăm quê cũ với đô-la đầy túi, thì cũng được hoan nghênh là ‘Việt kiều yêu nước’! Còn một điều trớ trêu nữa là năm 1954 tại miền Bắc và năm 1975 tại miền Nam, bao nhiêu nhà tư bản Việt-Nam cộng sản đánh gục hết để rồi giờ đây phải giải thảm đỏ mà mời tư bản nước ngoài vào, còn gì nghịch lý hơn? Vậy tại sao cộng sản Việt-Nam không mời tư bản nước ngoài vào ngay từ năm 1945 hoặc 1954 hay ít nữa là 1975 có tốt hơn không? Tại sao lại đợi đến sau bốn mươi mốt năm (1954-1986) cố sức ‘đào mồ chôn sống bọn tư bản’ chẳng được, gây ra bao nhiêu tang thương khổ thảm đổ nát chết chóc rồi mới chịu rước tư bản vào? Đảng Cộng sản thường nói: “Giữa con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, ai thắng ai?” Ngày nay rõ ràng tư bản nó thắng rồi đó: nó đã vào nằm trong sân, trong đầu giường, thậm chí chui cả vào túi của Đảng rồi đó, xã hội chủ nghĩa chỉ còn là cái vỏ thôi, lột bỏ luôn đi cho hợp thời! Danh có chính ngôn mới thuận, Đảng lãnh đạo là Đảng cộng sản, tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt-Nam, kinh tế là kinh tế thị trường tư bản, chắp vá như vậy nghĩa là làm sao? Nghe nó không ổn. Giá như Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Sô-viết còn tồn tại thì nghe còn đỡ, bây giờ còn một mình cộng sản Việt-Nam nghe lạc lõng lắm. Cộng sản giết địa chủ bóc lột để rồi trở lại chính sách phát canh thu tô của địa chủ, đào mồ chôn tư bản nội địa để rước tư bản nước ngoài vào. Thật cái vòng lẩn quẩn. Thế mà mồn vẫn cứ nói là cách mạng! Rồi đây, tài nguyên của đất nước, thượng vàng hạ cám, có gì cũng sẽ bị những bạch tuộc nước ngoài ấy moi móc cho bằng hết. Giá như người Việt-Nam mình, một nửa thế kỷ qua, làm được cuộc cách mạng kiểu Minh trị Duy tân của Nhật-Bản thay vì cuộc cách mạng vô sản căm thù đấu tranh giai cấp tàn hại lẫn nhau, thì ngày nay người Việt mình đã có thừa nhân tài và kỹ thuật để làm chủ và khai thác tài nguyên của đất nước, chứ không đến nỗi phải lẹt đẹt theo sau các nước láng giềng và phải mất ba, bốn mươi năm nữa mới đuổi kịp họ như hiện nay. Nhưng trong khi mình đuổi theo ba, bốn mươi năm ấy thì họ lại tiến xa hơn nữa rồi, thành thử mình cứ phải theo sau mãi. Nên nhớ những nước láng giềng ấy, như Thái-Lan, Tân-gia-ba v.v… trước đây cộng sản Việt-Nam cho là tay sai đế quốc Mỹ, vậy mà bây giờ phải theo sau tay sai đó! Và vinh dự hơn nữa là còn xin gia nhập khối ‘tay sai’ và mời tay sai làm cố vấn kinh tế đó! Nhân đây tôi cũng xin nói với các ông tư bản nước ngoài rằng, các ông cứ nói Việt-Nam là một thị trường béo bở với bảy mươi hai triệu con người tiêu thụ. Các ông nghĩ lầm rồi đó, không béo bở như các ông tưởng đâu. Này nhé, nhân dân Việt-Nam tám mươi phần trăm là nông dân sống ở nông thôn, mà người nông dân Việt-Nam thì chỉ lo sao cho có đủ hạt gạo để ăn no bụng là khó lắm rồi, chứ đâu dám mơ tưởng đến những món hàng đắt tiền của các ông. Các ông nên nhớ rằng, Việt-Nam đang còn là một trong những nước nghèo nhất, lạc hậu nhất trên thế giới, với lợi tức đổ đồng mỗi đầu người trên dưới hai trăm đô-la một năm, trong khi lợi tức đổ đồng của Nhật-Bản mỗi đầu người bảy nghìn đô-la một năm. Cứ đó suy ra thì Việt-Nam phải mất mấy trăm năm nữa mới đuổi kịp Nhật-Bản? Vậy các ông lấy đâu ra bảy mươi hai triệu người tiêu thụ mà cho là béo bở? Có béo bở chăng là béo bở mấy ông tư bản đỏ, các ông tham ô và những người buôn lậu thôi, chứ tuyệt đại đa số nhân dân Việt-Nam không dám đụng đến chai coca-cola của các ông đâu, chứ nói chi đến các món hàng khác. Như vậy, nếu các ông tính cả bảy mươi hai triệu người tiêu thụ để thu lợi thì các ông sẽ lỗ to đấy!
* * *
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt-Nam đã phạm những sai lầm tai hại sau đây đối với dân tộc Việt-Nam:
1. Đảng đã đưa vận mệnh nước Việt-Nam ràng buộc vào ý thức hệ cộng sản quốc tế, dùng dân tộc Việt-Nam đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa tư bản để truyền bá chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bằng khẩu hiệu ‘Giữa con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ai thắng ai’, chống Pháp, chống Mỹ để bảo vệ ‘tiền đồn (tức là nước Việt-Nam) của phe xã hội chủ nghĩa’ khiến dân tộc Việt-Nam đã phải gánh chịu cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe tư bản và cộng sản quốc tế ròng rã hai mươi chín năm trời (1946-1975) trên đất nước Việt-Nam, làm cho ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương, nửa triệu tấn bom đạn, thuốc khai quang tàn phá đất nước Việt-Nam mà hậu quả còn di hại đến không biết bao nhiều thế hệ về sau. 2. Thiết lập một chế độ độc tài độc đảng độc quyền chính trị, không chấp nhận đối lập, một mình một chợ, coi như đất nước này là của riêng mình, thu tóm hết quyền lực vào trong tay một nhóm người, thao túng lũng đoạn, đưa đến tình trạng lạm dụng quyền hành, tham ô thối nát, cai trị tùy hứng, muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ, bóp chết mọi mầm mống tư tưởng tự do: những người thông minh có nhiều sáng kiến có thể làm lợi cho đất nước dân tộc, nhưng không hợp với đường lối chủ trương của Đảng thì không dám nói ra, phải dả điếc dả dại để bảo toàn tính mệnh, kết quả đã khiến cho bao nhiêu nhân tài của đất nước phải thui chột và đất nước rơi vào tình trạng nghèo khó nhất lạc hậu nhất trên thế giới hiện nay. Không nói đến quá khứ nữa mà ngay bây giờ đây, có bao nhiêu người Việt tài giỏi trên khắp thế giới, đủ mọi ngành nghề, có thể phát triển đất nước một cách mau chóng, nhưng có ai dám về để góp phần xây dựng đất nước đâu? Không những thế, nếu còn ai sót lại trong nước thì cũng tìm mọi cách thoát thân ra nước ngoài làm giàu cho thiên hạ! Cái tai hại của một chế độ độc tài hà khắc là thế đó! Trong khi ấy thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải đi mời ông Lý Quang Diệu của Singapour (một đảo quốc mấy triệu dân) mà trước kia Cộng sản Việt Nam cho là tay sai đế quốc Mỹ làm cố vấn kinh tế cho Cộng sản, nhưng ông ta từ chối! Mới chỉ mười tám năm trước (1975-1992) những người cộng sản Việt Nam thường nói một cách tự hào rằng: “Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng! Hà Nội là trái tim của loài người”, và chính ông Lê Duẫn lúc đó (1975) là Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đã nói ở Sài Gòn rằng: “Từ nay trở đi không còn một ngoại bang nào dám nhòm ngó Việt Nam nữa.” Vậy mà bây giờ phải hạ mình đi mời ‘tay sai Mỹ’ làm cố vấn, nhưng lại bị từ chối! Con gì mỉa mai hơn? Còn gì đau đớn hơn? Còn gì đáng hổ hơn? 3. Kích động căm thù đấu tranh giai cấp bằng cuộc cải cách đấu tố năm 1956 tại miền Bắc, khiến bảy trăm nghìn người phải mất mạng và tài sản tiêu tan. 4. Giết địa chủ, cường hào lấy ruộng chia cho nông dân, sau lại bắt dân gom hết ruộng vào hợp tác xã để thiết lập hệ thống kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa cộng sản. Công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đã làm hao tổn bao nhiêu công của sức lực của dân suốt hai mươi sáu năm (1960-1986) khiến dân đói khổ để rồi giờ đây giải thể, phá tan hợp tác xã mà trở về chế độ phát canh thu tô của địa chủ cũ tại nông thôn, và giải tán các xí nghiệp nhà nước, tuyên bố phá sản để theo hệ thống kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản tại thành thị. 5. Năm 1954 tại miền Bắc va sau năm 1975 tại miền Nam, phát động căm thù đấu tranh giai cấp đánh tư bản Việt Nam, khiến hàng triệu người phải bỏ đất nước chạy trốn ra nước ngoài, để rồi giờ đây lại rước tư bản ngoại quốc vào làm ăn khai thác để học tư bản. 6. Lấy học thuyết Mác-Lê làm nền tảng cho tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt trong xã hội, dạy dân căm thù đấu tranh giai cấp để giành giật miếng ăn bỏ hết luân thường đạo lý, truyền thống nhân ái, hiếu nghĩa và phá hoại các di sản tinh thần và vật chất của tổ tiên, ông cha Việt Nam mà cho là tàn dư của phong kiến. II. Đối với Phật Giáo Việt Nam Như đã nói ở đoạn trước, cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, vì Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà ‘bọn’ tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột họ, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt. Tại Việt Nam có hai tôn giáo chính là Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Cộng sản gọi Thiên Chúa giáo là Công giáo mà tiếng lóng của họ là ‘cứt gà’. Tại sao họ lại gọi là cứt gà và phân gà? Tức họ cho Công giáo khó tiêu diệt hơn Phật giáo. Họ phân tích rất kỹ và vì nhiều lý do, nhưng quá dài không thể kể hết ra ở đây, tôi chỉ tóm tắt sự phân tích của họ như sau: cộng sản đánh giá Công giáo tuy là số ít, nhưng là những con sư tử, khó tiêu diệt, cũng như cứt gà sáp (cứt gà ướt sền sệt) đã dính vào quần áo thì chỉ có cách cắt bỏ chỗ ấy đi thôi, chứ giặt khó sạch lắm; còn Phật giáo tuy là số nhiều, nhưng chỉ là những con cừu, dễ tiêu diệt, cũng như phân gà khô, chỉ cần gạt một cái là sạch! Nhưng dù khó hay dễ thì cuối cùng cũng phải tiêu diệt. Nhưng cách thức tiêu diệt thì tùy từng giai đoạn, tùy từng nơi chỗ. Người cộng sản có đường lối gọi là ‘biện chứng’, nghĩa là mục tiêu họ đã đặt ra là phải đạt cho bằng được; nhưng trên đường đi đến mục tiêu ấy mà êm xuôi thì đi đến ngay, còn nếu gặp trở ngại thì tạm thời dừng lại, nếu cần phải lùi thì lùi, cần phải rẽ ngang cũng rẽ ngang, nhưng cuối cùng vẫn phải đạt mục tiêu, châm ngôn của họ là ‘lùi một bước tiến ba bước’. Đối với việc tiêu diệt các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, cũng vậy, nếu nơi nào xóa bỏ được ngay mà không gặp chống đối hoặc phản ứng bất lợi, thì họ làm ngay, nếu thấy trở ngại thì họ ngưng lại. Không những ngưng lại, mà nếu xét thấy tôn giáo trong giai đoạn ấy có lợi cho cộng sản thì họ lại lợi dụng tôn giáo tối đa. Trong chủ trương tiêu diệt Phật giáo Việt Nam cũng không ngoài đường lối ấy. Chẳng hạn, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cộng sản Việt Nam cần phải đoàn kết toàn dân, hơn nữa, cũng chưa rảnh tay để nghĩ đến việc tiêu diệt Phật giáo, cho nên họ lợi dụng Phật giáo bằng cách lập ra cái gọi Phật giáo Cứu quốc nằm trong Mặt trận Liên Việt. Lúc đó ‘sư cụ’ Phạm Thế Long trụ trì chùa Cổ Lễ tại phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định, đưa ra lời kêu gọi thanh niên tăng ‘tạm xếp cà sa khoác chiến bào’, nghĩa là hãy tạm thời cởi bỏ áo nhà tu để đi cầm súng giết Tây. Thế là hàng hoạt sư trẻ bỏ chùa bỏ phật để đi ‘yêu nước’. Đây là chính sách dùng một mũi tên bắt hai con chim một lúc: trước mắt có thêm người cầm súng, đồng thời, lại được cái lợi (mà cái lợi này mới là chủ yếu) là tiêu diệt mầm non của Phật giáo trong tương lai! Mà lại dùng chính sư ra lời kêu gọi để tiêu diệt mầm non Phật giáo mới hợp thức, ai trách được cộng sản bắt sư đi lính! Điều đó cũng dễ hiểu thôi: nếu muốn bắt cò thì phải dùng con cò làm chim mồi, muốn bắt cu thì phải dùng con cu làm chim mồi, chứ nếu muốn bắt cò mà dùng cu làm chim mồi thì bắt sao được. Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển hình như chùa Thiên Trù (chùa Hương – chùa ngoài) ở huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông, chùa Quỳnh Lâm tại làng Cổ Pháp xưa (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) do Thiền sư Định Không (702-808) sáng lập vào khoảng năm Trịnh Nguyên đời Đường bên Tàu, cộng sản thấy sau này, khi đã thành công, khó mà tự mình ra tay phá được vì sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đã rút trước rồi), thế là chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắn hai con chim: một mặt kích động lòng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết lòng đánh Pháp; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng! Tôi cảm thấy xót xa vô hạn khi đến nhìn lại nền chùa Quỳnh Lâm nơi thờ pho tượng là một trong ‘Việt Nam tứ khí’ do Thiền sư Không Lộ, quốc sư đời Lý, kiến tạo. Tôi đến đấy vào cuối năm 1991. Nghe người ta kể lại, sau khi Pháp dội bom phải mất hơn một tháng trời mới cháy hết ngôi chùa. Hiện còn lại những cái tảng đá chân cột rất lớn, chứng tỏ những cây cột gỗ lim ngày xưa phải đến một vòng tay người ôm; một vài ngôi tháp đá không bị cháy. Sau ngày cải cách tố khổ, những gạch của chùa của tháp còn sót lại được dùng để xây nhà nuôi lợn của hợp tác xã ngay trước cửa chùa cũ. Sau ngày ‘đổi mới’, hợp tác xã giải thể, nhà nuôi lợn đã được bán đấu giá. Tôi thấy một vài tấm bia đá đổ úp xuống đất, nhờ người lật lên xem thì thấy khắc pháp danh của mấy vị Tăng thống đời Trần. Ngày tôi đến đấy, sau sáu năm đổi mới, dân chúng địa phương đã góp sức làm được ba gian nhà gạch sơ sài trên nền chùa cũ để thờ Phật. Hiện có một vị sư trụ trì, vị sư duy nhất tại tỉnh Quảng Ninh, nhưng cũng là người tỉnh Hà Nam Ninh lên, chứ ở địa phương không còn sư nữa. Tôi được biết hầu hết các tỉnh trên Việt Bắc không còn chùa còn sư nữa. Ngay tại tỉnh Thái Bình chổ tôi ở, cả tỉnh cũng chỉ còn tám vị sư tăng già tuổi từ bảy mươi trở lên và mấy chục sư ni vừa già vừa trẻ. Sau khi về Vũ Đoài được vài tuần, tôi nghe bộ Văn hóa của Nhà nước cộng sản Việt Nam đã xếp hạng chùa Quỳnh Lâm vào hàng ‘di tích lịch sử’ có cấp bằng và tổ chức rước hẳn hoi. Còn gì nữa đâu mà di tích với lịch sử! Đến ngay cái nền nhà nuôi lợn hợp tác xã trước cửa chùa cũng chẳng còn! Chùa Hoa yên trên núi Yên Tử bị đốt cháy, chùa Phật Tích ở tỉnh Bắc Ninh xây dựng từ đời Lý cũng đã bị phá hủy. Chùa Thầy ở huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nơi thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, cũng được xây dựng vào đời Lý, đang trong tình trạng xuống cấp nặng nề, ngôi nhà Tổ phải chống đỡ bằng nhiều cây tre, chưa biết sẽ sụp đổ lúc nào. Chùa Pháp Vũ (Chùa Đậu) ở phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông, nơi có nhục thân (xác khô) của hai vị Thiền sư đời Lê, một vị đã bị cưa trán ra để khám nghiệm. Chùa chính đã bị phá, còn ngôi bái đường và nhà tổ trong tình trạng xuống cấp. Chỉ có chùa Thiên Trù và chùa Quỳnh Lâm là mỗi chùa có một vị sư, còn các chùa kia không có sư. Những chùa được xếp hạng di tích lịch sử do Ty Văn hóa địa phương quản lý. Du khách đến tham quan hoặc khách hành hương phải mua vé vào cửa và trả tiền bến đậu xe. Hôm đoàn chúng tôi đến lễ, đậu xe chưa đến nửa giờ mà phải trả năm nghìn đồng. Diệt Phật, đồng thời, bán Phật! Trên đây là mấy ngôi chùa điển hình mà tôi đã đến tận nơi thấy tận mắt và kể lại sơ qua thế thôi, chứ nếu đi sâu vào chi tiết thì còn nhiều điều thương tâm lắm, việc ấy để cho các nhà viết sử Phật giáo sau này. Đến năm 1954, cộng sản về tiếp thu Hà Nội, đã hoàn toàn làm chủ miền Bắc từ vĩ tuyết 17 trở ra, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản, nhất là sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, cải cách tố khổ, thì ở nông thôn, việc phá chùa đình miếu mạo không còn phải e ngại gì nữa. Nhiều đình chùa bị trưng dụng làm nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ, hoặc phá đi lấy gạch, gỗ để làm nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn v.v… của hợp tác xã; cột đình cột chùa bằng gỗ lim đưa ra bắc cầu qua các rạch nước ở ngoài đồng cho những người gánh phân gánh lúa đi qua; các tấm gỗ câu đối sơn son thếp vàng thì dùng đóng ghế dài cho học sinh ngồi học, úp mặt chữ xuống dưới. Đó là ở nông thôn, còn ở thành thị thì chùa được trưng dụng làm cơ sở sản xuất công nghệ, làm trụ sở Ủy ban, làm nơi hội họp, cũng có chỗ làm nhà chăn nuôi. Và để thế tục hóa, chùa nào có sư ở thì dân chúng vào chiếm các nhà phụ cận của chùa để ở, chỉ trừ chùa và nhà Tổ là để cho sư, còn các nhà họ chiếm hết. Họ nấu nướng, ăn uống, phơi quần áo chăn mền, nhìn vào không còn gì là vẻ tôn nghiêm của ngôi chùa nữa. Tôi còn nhớ năm 1975, hòa thượng Thích Đôn Hậu về chùa Ấn Quang kể lại tình trạng chùa Quán Sứ tại Hà Nội, dân chúng vào ở đầy trong chùa, hệt như dãy chung cư, chứ không còn là chùa nữa. Rồi hòa thượng có nói với sư cụ Trí Độ như sau: “Cụ ở đây mà để cho ngôi chùa thế này à?” Sau đó hòa thượng Đôn Hậu kể tiếp, tại một cuộc họp của Liên minh Dân chủ Dân tộc và Hòa bình do ông Trịnh Đình Thảo chủ tọa, trong bài phát biểu của mình, sư cụ Trí Độ nói: “Từ ngày được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường, tôi mới thấy rõ con đường mình đi!” Thì ra hàng mấy chục năm xuất gia theo Phật, sư cụ vẫn đi trong đêm tối; nhưng đến ngày đó và mãi cho đến lúc chết, tuy không mặc áo Phật, mặc áo cộng sản, nhưng sư cụ vẫn cứ ở chùa và ăn cơm Phật! Khi nghe sư cụ Trí Độ nói thế, một bà Phật tử trước là hiệu trưởng trường Đồng Khánh ở Huế, cũng ra ‘bưng’ năm Mậu Thân (1/68), tỏ vẻ khinh thị. Rồi đến bữa ăn, bà này đến chỗ hòa thượng Đôn Hậu xin một món ăn chay, vì bà ăn mười ngày chay mỗi tháng, mà ngày hôm ấy là ngày 15, một cán bộ nói với bà: “Chị đã đi làm cách mạng mà ăn chay làm gì? Sư cụ Trí Độ kia có kiêng gì đâu?” Bà ta trả lời: “Trước đây tôi đã quy y Phật và tự nguyện sẽ ăn chay mười ngày, chứ Phật không bắt buộc. Đã tự nguyện như thế mà không giữ thì tức tôi đã phản bội chính tôi, vậy là một phật tử xấu. Và đã là một phật tử xấu thì làm sao trở thành người cách mạng tốt cho được?” Người cán bộ kia phải xin lỗi. Tóm lại, các chùa đều bị trưng dụng để làm cơ sở này cơ sở khác, còn không thì cho người tại gia vào ở làm mất vẻ tôn nghiêm của chùa và thế tục hóa dần dần. Về các cơ sở vật chất thì phá hoại bằng những cách như trên, còn đối với cơ cấu tổ chức của Giáo hội thì cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc là ‘gậy ông đập lưng ông’, nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ tăng ni để phá hoại nội bộ Giáo hội. Trước năm 1954, hòa thượng Thích Tố Liên là trị sự trưởng lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền Bắc nằm trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc, gồm sáu tập đoàn tăng già và cư sĩ Bắc-Trung-Nam. Tổng hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập của hội Phật giáo thế giới. Năm 1957, một số tăng ni hoặc bị hăm dọa, hoặc vì sợ hãi, hoặc cũng có những người vì động cơ danh lợi thúc đẩy, nên đã họp nhau tại chùa Quán Sứ để tố khổ hòa thượng Thích Tố Liên (ta còn nhớ trong thời cải cách tố khổ, con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy, tín đồ tố sư, tố linh mục, anh em họ hàng tố lẫn nhau, gây giờ đến lượt tăng ni tố tăng ni! ‘văn hóa’ cộng sản là thế đó!), rồi đem chùa Quán Sứ hiến cho ‘Phật giáo Cứu quốc’, mời sư cụ Trí Độ về ở chùa Quán Sứ và thành lập Hội Phật giáo mới là Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam do cụ Trí Độ làm hội trưởng, thế là Giáo hội Phật giáo truyền thống tại miền Bắc tan rã. Hai mươi bốn năm sau (1957-1982) họ cũng làm hệt như vậy đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Nam (sẽ nói sau). Về mặt tinh thần thì phá hoại bằng cách chùa nào cũng phải muôi lợn nghĩa vụ, thậm chí các sư giết lợn giết gà là thường. Nuôi lợn để phá bầu không khí thanh tịnh trang nghiêm của cảnh chùa, giết lợn giết gà là hủy hoại tinh thần từ bi và giới sát của đạo Phật để thế tục hóa đạo Phật, đó là cách tiêu diệt đạo Phật nhanh nhất. Trước năm 1954, chùa Quán Sứ là trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo miền Bắc, trong đó có viện Phật học đào tạo tăng ni, trường trung học Khuông Việt dạy chương trình thế học, nhà in Đuốc Tuệ in nguyện san Phương Tiện và kinh sách, có thư viện v.v…, nhưng sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội thì viện Phật học giải tán để tăng ni ở đâu về đó lo việc tăng gia sản xuất, trường trung học Khuông Việt đóng cửa, thư viện khóa kín, nguyệt san Phương Tiện đình bản và nhà in Đuốc Tuệ bị chiếm dụng. Nghĩa là tất cả mọi hoạt động của Giáo hội hoàn toàn bị đình đốn, hệt như trong miền Nam năm 1975. Bây giờ Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam về đóng đô ở chùa Quán Sứ đã làm được những gì cho Phật giáo miền Bắc? Phải trả lời ngay là chẳng làm được gì cả. Tại sao? Bởi vì chủ trương của cộng sản là tiêu diệt Phật giáo trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn, như vậy làm sao họ để cho Hội Phật giáo hoạt động được? Hơn nữa, như lời hòa thượng Thích Đôn Hậu kể mà tôi vừa nhắc lại ở trên, cụ Trí Độ được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường cụ mới thấy rõ đường đi, thì dĩ nhiên bây giờ cụ phải đi con đường sáng sủa của cụ để truyền bá chủ nghĩa Mác chứ, cụ đâu có làm gì cho Phật giáo nữa. Còn cái Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ chẳng qua chỉ dùng để phục vụ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng cách thỉnh thoảng đi dự một vài hội nghị về hòa bình do phe cộng sản quốc tế tổ chức họp tại Liên Xô, Mông Cổ để lên án giặc Mỹ xâm lược, đồng thời, cũng để cho miền Nam và thế giới biết, dưới chế độ cộng sản miền Bắc, tôn giáo vẫn được tôn trọng, thế thôi, chứ thực chất thì Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ Trí Độ chẳng làm gì cho Phật pháp, nếu không nói là ngồi làm bù nhìn để hợp thức hóa cho việc cộng sản tiêu diệt Phật giáo. Không phải tôi nói ngoa đâu, lịch sử còn đó. Xuất phát từ âm mưu tiêu diệt Phật giáo ngắn hạn cũng như trong dài hạn, từ năm 1954 trở đi, cộng sản chỉ cho mỗi chùa một sư già ở làm chủ hộ, còn sư trẻ (nếu có, hiếm lắm) phải về quê cũ sản xuất làm ăn. Sau khi sư già chết, không ai kế tiếp, chùa bỏ không, nếu ở thành thị thì bị trưng dụng làm cơ sở sản xuất, còn ở nông thôn thì ủi bằng đi để làm ruộng cấy lúa. Giả sử (hiếm lắm) có ai muốn đi tu tìh phải làm đơn và khai lý lịch nộp cho công an, với lý do Nhà nước chọn công dân tốt cho đi tu để ích đạo lợi đời, nhưng có người chờ đến già mà vẫn chưa được phép! Vì Hiến pháp Nhà nước cộng sản có điều khoản “tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng” (một cách chơi chữ), vậy người có tín ngưỡng muốn đi tu, chẳng lẽ lại nói huỵch toẹt ra rằng anh hay chị không được phép đi tu à? Thôi thì nại lý do “chọn công dân tốt ích đạo lợi đời” để ngăn chặn là hợp hiến hợp pháp nhất! Tôi nghe người ta kể tại thị xã Thái Bình có mấy người xin đi tu, chờ đợi đã lâu mà chẳng được phép, bèn tổ chức ‘thụ giới chui’ ở một chùa nọ bị công an đến tóm cổ hết! Dưới chế độ cộng sản tất cả thượng vàng hạ cám đều do Nhà nước quản lý, nếu tư nhân muốn làm gì riêng phải làm lén lút, họ gọi là ‘làm chui’. Như những người vượt biên gọi là đi chui, bán phở lén gọi là bán chui, rồi đến đi tu cũng thụ giới chui! Những người muốn xuất gia làm tăng ni thì như thế. Còn thanh thiếu niên nam nữ ngoài đời thì đoàn thể nào vào đoàn thể ấy rồi, nếu em nào lai vảng đến chùa thì bị đoàn thể phê bình chế riễu, vì thế chẳng em nào dám bén mảng đến chùa; câu ‘trẻ vui nhà già vui chùa’ được ứng dụng một cách triệt để? Như thế là ngoài đời cũng vậy, chỉ còn một số rất ít các cụ già trầm móm mém hơn bảy tám mươi thuộc lớp người cũ còn lại là được tự do tín ngưỡng đến chùa, những người ấy qua đời rồi thì tín đồ tại gia cũng hết! Một em bé trai mười hai tuổi ở thị xã Thái Bình chỉ thích đi tu, em thường đến chùa Kỳ Bá tụng kinh, có khi ở lại chùa mấy hôm liền. Tối đến công an vào chùa đuổi, em chui vào gầm giường hoặc trèo lên cây để trốn. Sau nhiều lần như thế, bố mẹ em được gọi lên Ty công an bảo phải đến chùa bắt em về và ra lệnh cho sư già ở chùa không được chứa chấp, nếu không nghe sẽ bị ‘xử lý’. Đó là âm mưu tiêu diệt mầm non của Phật giáo và cộng sản hy vọng trong vòng năm mươi năm là Phật giáo sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn trên cả nước. Nhưng người xưa đã nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”; người Tây phương cũng có câu tương tự: “Man proposes, God disposes”, nghĩa là con người mưu tính là một chuyện, nhưng nên việc hay không thì lại do trời. Mà thực vậy, bức tường Bá Linh đã sụp đổ, khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô đã tan rã, cộng sản Việt Nam không còn đủ thì giờ để thực hiện được việc đó nữa đâu. Thời đại ‘nhất đội nhì trời’ không còn nữa và chủ nghĩa duy ý chí “thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời” cũng chẳng còn giá trị gì nữa. Khối cộng sản Liên Xô sụp đổ cũng chỉ vì thái độ kiêu căng ngạo mạn và ngông cuồng ấy. Nhà sử học Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ năm trước Tây lịch là ông Herodotus đã nói: “Vận mệnh một chế độ chia làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là thành công, giai đoạn thứ hai là kiêu căng, giai đoạn thứ ba là sụp đổ.” Đến năm 1975, cộng sản toàn thắng miền Nam về tiếp thu Sài Gòn. Đối với Phật giáo, đại khái cộng sản cũng làm y hệt như ngoài miền Bắc, nghĩa là cũng chiếm dụng các chùa, các cơ sở giáo dục văn hóa, như các trường trung tiểu học Bồ Đề, viện đại học Vạn Hạnh, các trung tâm văn hóa, từ thiện xã hội từ Trung ương đến các địa phương trên toàn miền Nam, tất cả đều bị chiếm dụng vào các mục đích đại để cũng như ngoài miền Bắc. Các viện Phật học phải giải tán để tăng ni sinh về quê sản xuất, các chùa chỉ để một vài sư già, sư trẻ phải đi nghĩa vụ hoặc về quê làm ruộng, đại khái cũng hệt như miền Bắc. Về cơ cấu tổ chức của Phật giáo thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (từ đây viết tắt là GHPGVNTN) là đối tượng chính mà cộng sản, bằng mọi cách, phải triệt hạ cho bằng được và, dĩ nhiên, cũng dùng thủ đoạn gậy ông đập lưng ông. Nhưng thủ đoạn này chỉ áp dụng được với Phật giáo mà thôi, chứ không dùng được với Công giáo mà họ gọi là ‘cứt gà sáp’ như đã nói ở trên. Trước hết, cộng sản đẻ ra cái gọi là ‘Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước’ do sư cụ Minh Nguyệt làm trưởng ban, đặt trụ sở tại chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công Lỳ Sài Gòn. Đứng về phương diện luận lý mà nói, đã có Phật giáo Yêu nước thì tất phải có Phật giáo không yêu nước, hoặc nói theo ngôn ngữ của cộng sản là ‘Phật giáo phản động’. Vậy cái phật giáo phản động ấy là Phật giáo nào? Đích thị là GHPGVNTN rồi chứ còn ai nữa. Như vậy, theo chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp của Đảng Cộng sản thì, tất nhiên là Phật giáo yêu nước phải đấu tranh để tiêu diệt Phật giáo phản động. Oái oăm thay! Một đảng chính trị như Đảng Cộng sản Việt Nam, lúc nào cũng hô hào đoàn kết, đại đoàn kết, mà lại chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, thì đoàn kết làm sao. Thật là mâu thuẫn. Phật giáo Việt Nam có mặt trên đất nước này suốt dòng lịch sử trên dưới hai nghìn năm, đã cùng chung một vận mệnh thăng trầm vinh nhục, qua các thời đại, đã có lần nào Phật giáo phản bội dân tộc chưa, để giờ đây phải lập ra Phật giáo yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội để đấu tranh căm thù với Phật giáo phản động? Từ đó, cộng sản dùng các vị tăng ‘yêu nước’, ‘yêu chủ nghĩa xã hội’ đi hăm dọa thúc ép tăng ni trong GHPGVNTN gia nhập ban Liên lạc Phật giáo yêu nước. Hai người hăng hái và đắc lực nhất trong việc này là sư cụ ‘nằm vùng’ Pháp Lan và sư Từ Hạnh. Tuy bị hăm dọa, ép buộc, khủng bố, nhưng chỉ có một số rất ít tăng ni nằm vùng hoặc vì quá sợ hãi mà phải tham gia cho yên thân, còn tuyệt đại đa số tăng ni trong Giáo hội, từ Quảng Trị vào đến Cà Mau, vẫn một lòng trung thành với Giáo hội và kiên trì chịu đựng. Đến tháng 11 năm 1975, xảy ra vụ tự thiêu tập thể của mười hai vị tăng ni ở Thiền viện Dược sư tại Rạch Gòi thuộc tỉnh cần thơ để phản đối cộng sản đàn áp Phật giáo. Mãi đến tháng 12 năm 1976 vụ ấy mới được báo cáo lên Giáo hội Trung ương, Viện Hóa Đạo GHPGVNTN gởi văn thư khiếu nại với Nhà nước cộng sản, yêu cầu điều tra sự việc. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là giám đốc Sở Công an thành phố Sài Gòn, đến chùa Ấn Quang đề nghị Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra (xin nói lại ở đây là kể từ ngày 30-4-1975 đến hôm ấy, Viện Hóa Đạo đã gửi tất cả sáu mươi hai văn thư lên Nhà nước cộng sản phản đối và yêu cầu giải quyết các vụ bắt bớ tăng ni Phật tử và đập tượng pháp chùa, lấy chùa làm nhà đỡ đẻ, nhưng không hề được trả lời. Đây là lần đầu tiên một thư khiếu nại của Viện Hóa Đạo được đáp ứng và dĩ nhiên họ đã sắp đặt như thế nào để có lợi cho họ rồi đó). Bấy giờ thượng tọa Trí Tịnh đề nghị rằng sự việc xảy ra đã hơn một năm rồi, thôi, xin bỏ qua! Nhưng cố thượng tọa Thiện Minh, thượng tọa Huyền Quang và tôi phản đối đề nghị ấy và yêu cầu Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra. Viện liền cử đại đức Hộ Giác và tôi đại diện Viện đi điều tra, nhưng sau đại đức Hộ Giác bận việc khác nên chỉ có tôi đi. Tất nhiên, như tôi vừa nói ở trên, mọi việc đã được Nhà nước cộng sản sắp đặt cả rồi, đi điều tra chẳng qua chỉ là để hợp thức hóa cho cái kết quả mà họ đã định sẵn. Trong cuộc điều tra này, có ông Huỳnh Châu Sổ, phó thanh tra Trung ương từ Hà Nội vào, chủ trì cuộc họp. Ngoài ra có nhiều cán bộ địa phương, trong đó tôi để ý có một người to béo vạm vỡ, lúc nào cũng nhìn tôi trừng trừng với nét mặt hằm hằm dữ tợn, đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, hình như để uy hiếp tinh thần tôi. Về giới sư thì có sư cụ Thiện Hào và sư Huệ Thành là thầy của đại đức Thích Huệ Hiền. Có một số ‘nhân chứng’ được lựa chọn từ địa phương xảy ra vụ tự thiêu được đưa lên ngồi sẵn đó. Sau ngày đầu làm việc tại thành phố Cần Thơ, tôi yêu cầu được về tận Thiền viện Dược Sư cách thành phố Cần Thơ năm mươi cây số để xem xét hiện trường, nhưng họ bảo là về đó không an ninh! Tôi nói bây giờ chính quyền cách mạng làm chủ cả nước còn ai làm gì nữa mà không an ninh. Nhưng đó chỉ là cái cớ, chứ thực thì Thiền viện Dược Sư đã bị san bằng và xối đất lên trồng chuối rồi. Sau khi mười hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa phương kéo mười hai cái xác ra để bên lề đường cho những người qua lại được thấy, sau đó hai ngày họ phun săng vào đốt rồi tất cả phần còn lại của mười hai xác chết được dồn vào hai cái quan tài và họ đưa đi chôn ở đâu, không ai biết. Sau ba ngày làm việc, ông Huỳnh Châu Sổ đúc kết biên bản cuộc điều tra qua mấy điểm dưới đây: 1. Huệ Hiền (tức vị trụ trì Thiền viện Dược Sư đứng đầu trong mười hai tăng ni tự thiêu) trước đây làm chỉ điểm (CIA) cho Mỹ Ngụy, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, y sợ bị cách mạng trừng trị nên đã tự tử và bắt mười một người khác chết theo y; 2. Trước đây Huệ Hiền được Mỹ Ngụy cung cấp lương thực đầy đủ, nhưng nay thấy không còn phương tiện sinh sống nên phải tự tử tập thể; 3. Huệ Hiền đã dâm ô hủ hóa với mấy ni cô, sợ việc ấy bị đổ bể, nên y đã tự tử và đốt chùa cùng với mười một người khác. Các nhân chứng cũng nói hệt như vậy và nhất là sự Huệ Thành, thầy của đại đức Huệ Hiền cũng công nhận như vậy! Sau đó họ bảo tôi kỳ vào biên bản đúc kết ấy. Tôi nói tôi không ký, vì nội dung biên bản đúc kết hoàn toàn trái ngược với bức thư tuyệt mệnh của đại đức Thích Huệ Hiền đề ngày 29 tháng 9 Ất Mão (2-11-1975) nên tôi không ký. Để chứng minh, tôi đọc nguyên văn bức thư tuyệt mệnh như sau: Ngày 29 tháng 9 Âm lịch, 1975 Nam mô Đông Phương Giáo chủ lưu li Quang Như Lai tác đại chứng minh. Để tử chúng con xuất gia, Thiền viện Dược sư, kính dâng lên chư Phật Bồ tát Thánh hiền tăng lời tâm huyết phát nguyện của đệ tử tăng ni toàn chùa, thiêu thân ngày 29 tháng 9 năm Ất Mão, tức ngày 2 tháng 11 năm 1975. -Để bảo vệ tiền đồ Phật pháp, chánh pháp Như lai bất diệt; -Để bảo vệ phẩm giá và đức hạnh người xuất gia trường cửu; -Để bảo vệ ngôi Tam bảo Thiền viện Dược sư bất diệt; -Tha thiết kêu gọi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Mặt trận Giải phóng tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức; -Tha thiết kêu gọi tăng ni đồng bào Phật tử các giới Việt Nam thân yêu, phải nhứt quyết nhứt tâm bảo vệ trái tim Bắc và Nam theo lời di chúc Hồ chủ tịch vĩ đại Bắc và Nam chỉ một trái tim, nếu một ai xét nát trái tim người Việt Nam, không luận kẻ thù hay kẻ thân đều là phản bội lời di chúc của bác Hồ Chí Minh vĩ đại. Kẻ ấy là nối giáo cho giặc, phản bội dân tộc cách mạng; -Lá cờ Phật giáo thế giới. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tiêu biểu cho sáu hào quang chư Phật là Lục thông chư Phật bất diệt trường cửu; Cầu nguyện độc lập tự do hòa bình trường cửu bất diệt. Sau đó, đại đức Thích Huệ Hiền ghi tên mười hai tăng ni do đại đức đứng đầu, phát nguyện tự thiêu vì bảy thỉnh nguyện thư kể trên và đại đức kết luận: -Chết vinh hơn sống nhục -Chấp nhận chết để bảo vệ lý tưởng -Chấp nhận chết để bảo vệ lương tâm -Chất nhận chết để bảo vệ chân lý Đại diện tăng ni Trụ trì ấn ký Đại đức Thích Huệ Hiền Trên đây là bức thư tuyệt mệnh của đại đức Thích Huệ Hiền viết trước khi tự thiêu cùng với mười một vị tăng ni khác. Nội dung bức thư, như tôi đã nói ở trên, hoàn toàn khác với ba điểm đúc kết biên bản điều tra của ông Huỳnh Châu Sổ, do đó tôi không thể ký vào biên bản ấy. Họ giữ tôi lại thêm một ngày một đêm để làm áp lực buộc tôi phải ký, họ định dùng tôi để hợp thức hóa cho những điều dối trái của họ, nhưng tôi đã kiên quyết từ chối. Sau cùng họ thấy không lung lạc được nên đành phải đưa tôi về chùa Ấn Quang. Thượng tọa Huyền Quang và các sư thấy tôi về rất mừng, vì đã ba bốn hôm không thấy tôi về cũng lo. Cuộn băng ghi lại những điều tôi phát biểu trong cuộc họp điều tra thì họ tịch thu không cho tôi mang về, viện lý do đó là ‘bí mật quốc gia’! Trong chuyến đi này, tôi được biết một chi tiết nhỏ, nhưng mang một ý nghĩa quan trọng. Vào một buổi sáng, tôi vừa điểm tâm xong, một ông cán bộ vào chỗ tôi nói chuyện chơi trước khi ra phòng họp. Ông nói về việc phát triển đất nước, về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng ông nói: “Chúng tôi chưa phải là những người xây dựng chủ nghĩa xã hội chuyên môn, chỉ còn đang thực tập thôi, nhưng làm mãi rồi cũng phải được. Cũng như người thợ mới tập đóng cái bàn (vừa nói ông vừa chỉ vào cái bàn ăn), đóng cái này chưa được thì đóng cái khác, cứ đóng mãi rồi cũng phải được.” Tôi nghe mà giật mình, vì người cộng sản quan niệm việc quản lý một đất nước sao mà quá đơn giản! Đến tháng hai năm 1982, cộng sản đưa tôi ra Bắc quản thúc tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, tôi mới nghiệm ra là lời nói của ông cán bộ kia quả đúng. Về nông nghiệp, như tôi đã nói ở phần I, năm 1956, sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, giết các địa chủ. Đảng cộng sản chia ruộng cho dân làm chủ và lập tổ đồi công làm lẫn cho nhau: đây là người thợ đóng cái bàn đầu tiên. Đến năm 1960, Đảng bắt đầu góp hết ruộng vào hợp tác xã lớn để làm chủ tập thể: đây là cái bàn thứ hai. Đến năm 1980, thấy lối làm ăn tập thể thất bại, Đảng đề ra chính sách khoán sản phẩm: đây là đóng cái bàn thứ ba. Đến năm 1985, chính sách khoán sản phẩm cũng chẳng ra gì, Đảng bèn cho khoán trắng: đây là đóng cái bàn thứ tư! Nhưng cái bàn thứ tư này lại càng méo mó, xấu xí hơn ba cái trước nhiều, vì nó đã quay 180 độ trở lại chế độ phát canh thu tô của địa chủ ngày trước mà cộng sản đã giết! Thế mới vỡ lẽ họ chỉ mò mẫm gặp gì làm nấy, hễ được thì làm, hỏng thì bỏ. Chỉ khổ cho những người dân hiền lành đã phải làm vật hy sinh để cho một nhóm người thử nghiệm cái tư tưởng ngông cuồng và thiển cận của họ suốt một phần tư thế kỷ (1960-1985), đã phải đổ ra bao nhiêu công của, sức lực và mồ hôi nước mắt để xây dựng hợp tác xã làm chủ tập thể kiểu cộng sản, thì tất cả giờ đây đã bị phá tan hoang. Đây tôi chỉ nói về nông nghiệp thôi, vì tôi sống ở nông thôn, còn các lãnh vực kinh tế cộng sản chỉ huy khác thì tôi không được biết. Nhưng chắc cũng thế thôi; bởi vì cái bàn đóng lần chót này cũng là cái bàn kinh tế thị trường tự do kiểu tư bản! Trở lại cuộc điều tra vụ mười hai tăng ni tự thiêu tại tỉnh Cần Thơ để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo mà cộng sản định gán cho đại đức Thích Hậu Hiền tội làm chỉ điểm cho Mỹ Ngụy và tội hủ hóa để khiến cho cái chết của mười hai vị tăng ni trở thành vô nghĩa, nhưng mưu đồ ấy đã thất bại, vì tôi đã không ký vào biên bản đúc kết để hợp pháp hóa cho mưu đồ ấy của họ. Từ đó tình hình mỗi ngày một căng thẳng và ngày 3-3-1977 đã đến điểm cao nhất khi cộng sản đến chiếm dụng cô nhi viện Quách Thị Trang ở đường Trần Quốc Toản (phía sau Việt Nam Quốc Tự mà trước đó họ đã chiếm rồi và bây giờ một rạp chiếu bóng rất lớn đã được xây lên tại đó), giật tấm bảng mang danh hiệp GHPGVNTN và liệng xuống lề đường. Ngay 11 giờ hôm ây, nhanh danh tổng thư ký Viện Hóa Đạo, tôi đã ký một thông tư kêu gọi tăng ni sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đạo pháp và danh dự Giáo hội. Đến ngày 6-4-1977, thượng tọa Huyền Quang và tôi cùng một số vị khác bị bắt vào nhà tù Phan Đăng Lưu ở Bà Chiểu Gia Định. Ít lâu sau, tôi được biết cố thượng tọa Thích Thiện Minh cũng bị bắt và đã chết một cách bí ẩn tại sở Công an Sài Gòn ở đường Trần Hưng Đạo. Thật đau đớn, xót xa. Đến ngày 10-12-1978, chúng tôi bị đưa ra tòa xét xử, thượng thọa Huyền Quang và tôi được tha về, còn các vị khác phải ở thêm mỗi người mấy tháng tù nữa. Sau khi được tha về, chúng tôi lại tiếp tục làm việc Giáo hội như cũ. Khoảng đầu năm 1980, lần đầu tiên cố hòa thượng Thích Trí Thủ, viện trưởng Viện Hóa Đạo, thượng tọa Trí Tịnh, tổng vụ trưởng tổng vụ tăng sư, và thượng tọa Minh Châu, tổng vụ trưởng tổng vụ giáo dục, được Nhà nước cộng sản mời với tư cách cá nhân đidự cuộc ‘gặp mặt đầu năm’, do ông Nguyễn Văn Linh, bì thư thành ủy chủ trì. Ba vị về cho chúng tôi biết có cả hòa thượng Thích Đôn Hậu và các vị đứng đầu các tổ chức Phật giáo trong cả nước cũng có mặt và mục đích cuộc họp mặt là bàn việc thống nhất Phật giáo Việt Nam. Tôi nghĩ hơi lạ, việc thống nhất Phật giáo mà sao ông bí thư Thành ủy của Đảng Cộng sản lại chủ trì cuộc họp bàn, thế Đảng Cộng sản còn kiêm cả Giáo hội nữa à? Sao mà tham thế? Nhưng lúc ấy chúng tôi nghe các vị thuật lại thì cũng chỉ biết thế thôi chứ không có ý kiến gì, bởi lẽ ba vị được mời dự họp với tư cách cá nhân chứ không liên quan gì đến Giáo hội. Tử đó trở đi, thỉnh thoảng ba vị lại đi họp rồi về trình bày lại với Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo các ý kiến trong cuộc họp và yêu cầu Viện Hóa Đạo cho biết ý kiến. Thượng tọa Huyền Quang và tôi chủ trương chỉ khi nào Viện Hóa Đạo chính thức được mời và cử đại diện đi dự họp đường hoàng thì Viện sẽ có ý kiến ngay giữa cuộc họp, còn giờ đây ba vị đi họp với tư cách cá nhân thì Viện không dám lạm bàn. Vả lại, việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền, sao không để cho chư tăng Bắc, Nam họp lại với nhau bàn bạc, mà Nhà nước lại can thiệp vào làm gì. Đất nước đã thống nhất, dĩ nhiên Phật giáo cũng mong được thống nhất, nhưng chúng tôi cho đó là công việc của Phật giáo hai miền chứ không phải công việc của Nhà nước. Về sau, cố hòa thượng Trí Thủ được ai đó bầu làm trưởng Ban vận động thống nhất nhất Phật giáo, thượng tọa Trí Tịnh phó trưởng ban và thượng tọa Minh Châu làm thư ký. Từ đó ba vị đi họp luôn, có khi ra ngoài Hà Nội, và cứ mỗi lần đi họp về, các vị đưa vấn đề ra trước Viện Hóa Đạo xin góp ý kiến, chúng tôi vẫn không dám bàn đến, lý do là Viện Hóa Đạo có chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn việc thống nhất Phật giáo đâu, kể cả cái ban Vận động thống nhất Phật giáo do ai lập ra và lập ra tại đâu, Viện Hóa Đạo cũng không biết, thì làm sao Viện góp ý cho được. Thế rồi vào khoảng cuối năm 1980, văn phòng Viện Hóa Đạo nhận được một văn thư do cố hòa thượng Trí Thủ ký tên với tư cách trưởng Ban vận động thống nhất Phật giáo, xin đến thăm xã giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện và sẽ được tiếp đón vào ngày giờ nào. Tôi thảo văn thư phúc đáp là sẽ hân hạnh tiếp đón phái đoàn vào ngày giờ đó và xin cho trước một bản danh sách các thành viên và chức vụ trong phái đoàn để tiện việc sắp xếp. Hôm sau tôi nhận được bản danh sách từ chùa Xá Lợi gửi đến, gồm có: sư cụ Phạm Thế Long (ngày trước ngoài Bắc các sư đều lấy họ Thích, nhưng từ khi cộng sản cai trị, họ bắt phải gọi theo họ thế tục, cho nên mới là Phạm Thế Long; còn chùa thì cũng được coi như một hộ, tức như một gia đình, chứ không gọi là chùa: đây cũng nằm trong âm mưu tiêu diệt Phật giáo dần dần), người mà ba mươi tư năm về trước (1945-1980) đã từng kêu gọi thanh niên tăng miền Bắc lúc bấy giờ là “hãy tạm xếp cà sa khoác chiến bào”, hiện là phó chủ tịch Quốc hội cộng sản, làm trưởng đoàn, cố hòa thượng Trí Thủ phó trưởng đoàn, thượng tọa Trí Tịnh đoàn viên, thượng tọa Minh Châu đoàn viên, đại đức Từ Hạnh (cựu chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định) đoàn viên. Khi nhìn qua danh sách của phái đoàn ban Vận động thống nhất Phật giáo đến thăm xã giao Viện Hóa Đạo, tôi cứ cười thầm một mình và liên tưởng đến hai câu thơ đầu trong bài thơ ‘Nói chuyện với ảnh’ của nhà thơ Tản Đà: Người ta cũng giống đa tình Ngỡ là ai lại là mình với ta… Vì trong bản danh sách, trừ cụ Phạm Thế Long ra, còn đều là người ‘trong nhà’, và cái ‘tréo cẳng ngỗng’ đến mỉa mai ở đây là các vị ‘chủ nhân ông’ đã tự biến mình thành những người khách xa lạ về ‘thăm xã giao’ nhà mình! Đúng ngày giờ đã định, phái đoàn đến Viện Hóa Đạo, thượng tọa Huyền Quang, thượng tọa Pháp Trí và tôi tiếp phái đoàn. Sau nghi thức giới thiệu, sư cụ Phạm Thế Long đứng lên nói: “Thưa quý vị! Hôm nay phái đoàn Ban vận động thống nhất Phật giáo chúng tôi đến đây, trước hết, để thăm tổ đình Ấn Quang và tăng ni chùa Ấn Quang, cầu chúc quý vị dồi dào sức khỏe và đạt nhiều thành tích tốt đẹp. Sau xin thưa để quý vị rõ là Đảng chủ trương đất nước đã thống nhất, thì Phật giáo cũng phải thống nhất. Vậy mục đích chúng tôi đến đây hôm nay, như vừa nói ở trên để thăm tổ đình Ấn Quang và cũng để xin quý vị góp ý kiến cho việc thống nhất Phật giáo mà sẽ là ngôi nhà chung cho Phật giáo cả nước.” Khi cụ Phạm Thế Long dứt lời, ngồi xuống, tôi gọi thư ký đưa hai văn thư của Ban vận động thống nhất Phật giáo xin đến thăm xã giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm trong Viện, và văn thư của văn phòng Viện Hóa Đạo trả lời định ngày giờ đón tiếp phái đoàn như đã nói ở trên. Tôi đọc lại hai văn thư thật rõ ràng, rồi nói: “Thưa phái đoàn, theo tinh thần nội dung văn thư của ban Vận động thống nhất Phật giáo như tôi vừa đọc thì hôm nay phái đoàn đến đây là để thăm xã giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện. Song, như sư cụ trưởng đoàn vừa nói, thì các vị đến đây là để thăm tổ đình Ấn Quang và tăng ni chùa Ấn Quang để hỏi ý kiến về việc thống nhất Phật giáo, chứ có thăm Viện Hóa Đạo đâu? Vậy, văn phòng của tổ đình Ấn Quang ở đầu ngõ vào, mời quý vị ra ngoài đó, chứ đây là Văn phòng của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.” Nói xong, tôi mời thượng tọa Huyền Quang và thượng tọa Pháp Tri giải tán. Bấy giờ tôi mới thấy cái ‘lắt léo’ và ‘lật lờ đánh lận con đen’ của sư cụ cộng sản: khi muốn đến thăm thì nói thăm ông A, nhưng khi đến nơi thì lại bảo thăm ông B! Có gì đâu, thâm ý của sư cụ nhà ta là cố tình tránh né, không thừa nhận tính hợp pháp của GHPGVNTN, thế thôi. Nhưng nếu hôm ấy mà chúng tôi góp ý kiến thì về sư cụ lại tuyên bố đó là ý kiến của GHPGVNTN! Thấy tình hình không êm xuôi, cụ Phạm Thế Long định ‘lùi một bước’ để rồi sẽ ‘tiến ba bước’ bằng cách đứng lên chắp tay xin sám hối và xác nhận lại là phái đoàn đến thăm Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện đúng như nội dung văn thư. Lúc đó tôi mới mời thượng tọa Huyền Quang và thượng tọ Pháp Tri ngồi lại tiếp đoàn. Thượng tọa Huyền Quang phát biểu: “Quý ngài là những người đề xướng việc thống nhất theo chủ trương của Đảng muốn thống nhất Phật giáo, quý ngài là những kiến trúc sư của ngôi nhà Phật giáo cả nước, vậy quý ngài đã có đồ án nào chưa? Kiểu mẫu ngôi nhà ấy như thế nào? Tuy nhiên, theo như lời hòa thượng Thích Đôn Hậu kể lại, thì Giáo hội chúng tôi khó có vinh dự được sống chung trong ngôi nhà Phật giáo cả nước ấy. Vì khi hòa thượng chúng tôi có lần bàn với ông Nguyễn Văn Hiếu, lúc đó là bộ trưởng Văn hóa của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, xin thống nhất Phật giáo cả nước, thì ông bộ trưởng trả lời hòa thượng chúng tôi rằng; “Thống nhất thì tốt, nhưng thống nhất các tổ chức Phật giáo yêu nước, chứ thống nhất làm gì với Phật giáo phản động!” Hòa thượng chúng tôi hỏi: “Phật giáo phản động là Phật giáo nào?” Ông bộ trưởng không trả lời. Như vậy, chắc Nhà nước muốn ám chỉ Giáo hội chúng tôi là phản động, không được dự phần vào việc thống nhất Phật giáo cả nước, nên chúng tôi không dám đóng góp ý kiến.” Khi thượng tọa Huyền Quang dứt lời, tôi nói: “Mấy chục năm qua, quý vị ở ngoài Bắc may mắn được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, chắc quý vị đã làm được rất nhiều việc cho Phật pháp ngoài ấy, còn tại miền Nam này chúng tôi phải sống trong chiến tranh, lại bị kìm kẹp, đàn áp, nên chẳng làm được bao nhiêu phật sự. Mà có làm được chút nào thì Nhà nước cũng trưng dụng cả rồi. Như quý vị chắc đã thấy, các trường trung tiểu học Bồ đề, Viện Đại học Vạn Hạnh, các trung tâm văn hóa và các cơ sở từ thiện xã hội từ trung ương đến các địa phương đều đã phải giao cho Nhà nước. Các Phật học viện thì phải giải tán cho tăng ni sinh ở đâu về đó lo việc sản xuất, thành thử bây giờ Giáo hội chẳng còn gì cả. Cho nên, nếu được vinh dự thống nhất với quý vị thì cũng chỉ với hai bàn tay không thôi. Như vậy, ai cần thống nhất với ai?”. Lúc đó đã đến giờ ngọ trai, chúng tôi mời phái đoàn ở lại dùng cơm trưa, vì chúng tôi đã chuẩn bị cả rồi. Thế là cuộc thăm xã giao và hỏi ý iến cũng chẳng mang lại kết quả gì. Từ đó, cố hòa thượng Trí Thủ, các thượng tọa Trí Tịnh, Minh Châu trong Ban vận động thống nhất Phật giáo tiếp tục vận động, tiếp tục đi họp, và mỗi lần đi họp về, các vị lại thúc ép thượng tọa Huyền Quang và tôi gia nhập thống nhất. Thượng tọa Huyền Quang và tôi chủ trương một cách cương quyết là GHPGVNTN phải chính thức được mời dự họp, họp với ai, ai đứng ra tổ chức họp để bàn việc thống nhất Phật giáo, thống nhất trên cơ sở nào, theo hình thức nào, cơ cấu tổ chức ra sao, và sau khi thống nhất rồi, thì các tổ chức Phật giáo trước kia, không riêng gì GHPGVNTN, mà các tổ chức của các giáo phái khác đề xóa bỏ hẳn, hay còn được giữ lại dưới một hình thức nào đó để lo những sinh hoạt nội bộ, đó là những điều Giáo hội cần phải biết rõ, cần phải bàn cho thấu đáo trước khi thống nhất hoàn toàn, chứ không thể cứ nói thống nhất một cách khơi khơi như vậy được. Kết luận, chúng tôi cùng đưa ra một ý kiến: “Ngôi nhà GHPGVNTN đây là do tăng ni miền Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau xây dựng nên với sự đóng góp xương máu, nước mắt của toàn thể tăng ni phật tử miền Nam, họ không thể tất cả tập trung về đây để trông nom ngôi nhà ấy được, nên họ nhờ quý vị và chúng tôi trông nom giữ nhà giùm họ. Nếu bây giờ vì một lý do nào đó, quý vị thấy không thể tiếp tục giữ nhà giùm họ nữa, thì quý vị phải gọi họ về mà trả nhà lại cho họ để họ quyết định, nếu họ muốn giữ lại nhà, thì họ sẽ nhờ người khác, còn nều họ muốn bán hoặc cho ai thuê thì đó là quyền của họ, chứ quý vị cũng như chúng tôi ở đây không ai có thẩm quyền quyết định việc này. Nói cách khác, Hiến chương Giáo hội đã quy định, Đại hội Giáo hội thường niên là hai năm một kỳ, nhưng khi có vấn đề liên quan đến sự tồn vong của Giáo hội, thì phải triệu tập Đại hội bất thường để giải quyết, chứ Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có quyền quyết định. Bây giờ đây chính là lúc có liên quan đến sự tồn vong của Giáo hội, vậy xin hòa thượng Viện trưởng thay mặt Đức Tăng Thống, triệu tập Đại hội bất thường để Đại hội quyết định vấn đề này.” Sau đó ít hôm, tôi nhận được văn thư của sở công an thành phố mời ra gặp ông Quang Minh (xin nói nhỏ ở đây là tại đất nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc này, ai nhận được thư sở Công an mời là ‘dựng tóc gáy’ rồi đó, riêng tôi đã có ‘vinh dự’ được nhiều lần như vậy). Khi tôi đến nơi, sau vài câu nói xã giao, ông Quang Minh bảo ‘Đảng’ cần thống nhất Phật giáo trong lúc này và buộc tôi phải đồng ý (tất nhiên với giọng hăm dọa quen thuộc). Tôi nói tôi cũng đã được nghe sư cụ Phạm Thế Long nói chùa Ấn Quang như vậy, rồi tôi đưa Hiến chương Giáo hội ra trình bày cũng như tôi vừa nói ở trên, phải do Đại hội quyết định chứ không có cá nhân hoặc một nhóm người nào quyết định được. Và tôi yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường. Tôi nói rõ bình thường thì mỗi tỉnh cử năm đại biểu hoặc ba, nhưng trong tình hình hiện nay, tôi chỉ yêu cầu cho mỗi tỉnh cử một vị chánh đại diện, nếu chánh đại diện đau ốm, thì vị phó hoặc thư ký, hay bất cứ ai trong ban đại diện đi thay cũng được. Rồi tôi nói với ông Quang Minh thông cảm vì chúng tôi phải làm theo đúng nguyên tắc Hiến chương mà chắc ông làm hành chính thì cũng thế thôi. Nhưng ông Quang Minh bảo không còn thì giờ nữa! Tôi nói việc thống nhất Phật giáo chứ phải đâu là việc hành quân mà gấp rút như vậy. Ông Quang Minh bảo tôi nguyên văn như sau: “Tính ông thì chỉ thích làm anh hùng!” Tôi nói: “Tôi là một nhà sư tu hành mà anh hùng cái nỗi gì, anh hùng rơm ấy à!” Ông Quang Minh nói: “Sư thứ dữ chứ phải sư vừa đâu!” Tôi đứng dậy chào ông và thong thả ra về. Đến khoảng tháng 9 năm 1981, cố hòa thượng Trí Thủ, với danh nghĩa trưởng Ban vận động thống nhất Phật giáo, đề nghị Viện Hóa Đạo cử đại diện Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp tại Hà Nội vào cuối năm đó. Tôi đề nghị Nhà nước đã không cho triệu tập Đại hội bất thường thì bây giờ phải triệu tập Hội đồng Viện Hóa Đạo gồm mười một quận Giáo hội Đô thành để thông báo cho họ biết về việc này. Cố hòa thượng Trí Thủ đồng ý. Hôm sau tôi gửi văn thư mời các vị trong Ban đại diện Giáo hội của mười một quận về chùa Ấn Quang họp. Hình như họ đã đoán trước được là cuộc họp này rất quan trọng nên họ về dự rất đông, không những chỉ có các vị đại diện chính thức của mười một quận, mà còn có cả tăng ni về dự thính, ngồi chật giảng đường, đứng ngoài sân và trên các hành lang trong chùa. Cố hòa thượng Trí Thủ chủ tọa cuộc họp (xin nhắc lại, với tư cách trưởng Ban vận động thống nhất Phật giáo thì ngài là khách, nên lần trước ngài đã về ‘thăm xã giao’ nhà ngài; nhưng hôm nay với tư cách viện trưởng Viện Hóa Đạo nên ngài chủ tọa cuộc họp). Với tư cách tổng thư ký Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi đứng lên tuyên bố rõ lý do triệu tập cuộc họp. Trước hết, tôi đọc lại các văn thư mà Viện Hóa Đạo đã gửi ra phủ Thủ tướng tại Hà Nội nói rõ quá trình thành lập Giáo hội và các cơ cấu tổ chức cùng các hoạt động của Giáo hội tại miền Nam Việt Nam trước ngày đất nước thống nhất, đồng thời, gửi kèm bản Hiến chương và nội quy của Giáo hội để tường trình với Nhà nước. Kế đó, tôi nói với các vị đại diện Giáo hội trong cuộc họp như sau: “Nay hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo đứng ra làm trưởng Ban vận đống thống nhất Phật giáo, không biết ai đã thành lập Ban này, thành lập ở đâu và ai đã bầu hòa thượng làm trưởng Ban, Viện Hóa Đạo hoàn toàn không được biết điều đó, và cho đến nay, Giáo hội cũng chưa chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn về thống nhất Phật giáo. Bởi vậy, Giáo hội chưa biết thống nhất trên cơ sở nào, theo hình thức nào và sau khi thống nhất, tư cách pháp lý của GHPGVNTN sẽ ra sao. Đây là vấn đề tồn vong của Giáo hội, mà theo Hiến chương Giáo hội, phải do Đại hội quyết định. Cách đây mấy hôm, tôi đã được sở Công an mời ra bảo tôi phải đồng ý thống nhất, tôi đã nói với ông Quang Minh (người tiếp tôi) là Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không đủ thẩm quyền quyết định việc quan trọng này, mà phải do Đại hội Giáo hội. Và tôi đã yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường, mỗi tỉnh cần một vị chánh đại diện hay vị thư ký cũng được, nhưng ông Quang Minh đã không đồng ý, viện lẽ không còn đủ thì giờ! Bây giờ đây hòa thượng Viện trưởng đề nghị Viện Hóa Đạo cử đại biểu Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp ngoài Hà Nội, tôi nhận thấy Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có quyền làm việc này, mà xin triệu tập Đại hội bất thường thì Nhà nước không cho, bởi thế hôm nay Viện Hóa Đạo mời quý vị về họp để hói ý kiến và tùy ý quý vị quyết định.” Trước khi dứt lời để trao quyền điều khiển cuộc họp cho hòa thượng chủ tọa, tôi có bày tỏ một vài ý kiến như sau: “Kính bạch hòa thượng viện trưởng Viện Hóa Đạo chủ tọa cuộc họp, kính thưa toàn thể quý vị, chắc quý vị cũng như tôi đều thấy rõ hiện nay con thuyền GHPGVNTN đang lên đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ chìm vào lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quý vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, thì xin quý vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quý vị ấy một điều là: trước khi bước sang thuyền khác quý vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi giạt trong sóng gió với những người còn ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bến bờ bình an thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền chìm thì họ cũng sẽ sẳn sàng chết theo nó, chứ quý vị ấy đừng đang tâm nhận chìm con thuyền của mình mà có lần đã từng đưa quý vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quý vị thế thôi. Tôi dứt lời và cảm ơn quý vị.” Khi tôi nói xong thì cả hội trường và ngoài sân, ngoài các hành lang nổi lên những tràng pháo tay vang dội, rồi tôi thấy thượng tọa Trí Tịnh đứng dậy đi ra trước tiên, kế đó là thượng tọa Minh Châu và sau cùng là hòa thượng viện trưởng chủ tọa! Thế là cuộc họp tự nhiên cũng tan. Sau đó tôi nghe có tiếng vọng lại: “Hôm nay thầy Quảng Độ mời chúng tôi về đây để thóa mạ chúng tôi.” Còn lại thượng tọa Huyền Quang và tôi, chúng tôi nhìn nhau một lúc rồi cũng giải tán! Ba hôm sau, văn phòng Viện Hóa Đạo nhận được bản ‘Thông Báo’ của Ban vận động thống nhất Phật giáo đề ngày 17-9-1981, do thượng tọa Minh Châu ký tên, dài lắm, tôi chỉ còn nhớ một đoạn ngắn, vì có lẽ nó là đoạn quan trọng nhất trong bản Thông báo. Đoạn ấy như sau: “… Thượng tọa Thích Quảng Độ, tổng thư ký Viện Hóa Đạo, đã triệt hạ uy tín toàn Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, phá hoại công cuộc thống nhất Phật giáo, ngang nhiên thách thức với Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là những người đang khuyến khích và hỗ trợ sự nghiệp thống nhất Phật giáo cả nước!” Bản Thông báo của Ban vận động thống nhất Phật giáo trên đây sau khi được ai đó gửi đi khắp các tỉnh miền Nam, bắt tăng ni học tập rồi ký tên kiến nghị gửi về chùa Ấn Quang yêu cầu Giáo hội trục xuất tôi ra khỏi Giáo hội và không được đặt chân đến chùa Ấn Quang! Không biết ai đã làm việc đó giúp Ban vận động Thống nhất Phật giáo, nhưng dù ai thì tôi thấy cũng có trách nhiệm giúp thêm một tay bằng cách cho dán bản Thông báo trước văn phòng Viện Hóa Đạo và cho in ronéo ra thêm hàng chục ram giấy để phân phát cho tăng ni và phật tử ‘học tập’ cho có hiệu quả hơn. Một phật tử nói với tôi: “Người ta đòi trục xuất thầy ra khỏi Giáo hội và chùa Ấn Quang mà sao thầy lại quảng cáo thêm cho người ta vậy?” Tôi trả lời: “Bao giờ người ta trục xuất hãy hay, bây giờ thầy còn làm việc ở đây thì thầy giúp thêm họ một tay có làm sao, và nếu đạo hữu còn giấy cũ thì cho thầy thêm ít nữa!” Nhân đây tôi cũng xin thanh minh rằng tôi không chủ trương ‘phá hoại thống nhất Phật giáo’ mà tôi chỉ muốn thống nhất trong tinh thần hòa hợp, đồng thuận đúng theo luật Phật “Hòa hợp phủ? – Hòa hợp!” (chư tăng có hòa hợp không? – Hòa hợp!); nghĩa là việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền Nam Bắc, phải do chư tăng hai miền quyết định một cách hòa hợp và đồng thuận, chứ tôi không muốn Nhà nước cộng sản can thiệp vào rồi bắt chúng tôi phải thống nhất theo ý muốn của Nhà nước để sau dễ bề lợi dụng Giáo hội cho những mục đích chính trị và hợp thức hóa cho chủ trương tiêu diệt Phật giáo của Đảng và nhà nước cộng sản. Còn bảo tôi “ngang nhiên thách thức với Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” thì, trời ơi, ai dám làm điều đó? Bởi vì ai cũng biết Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc là do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra, là hai cơ quan quyền lực nhất nước, cộng thêm biết bao nhiêu máy bay tàu bè, xe tăng thiết giáp, hỏa tiễn thần công, súng đạn đầy người, nhà tù khắp nước, công an như ruồi; còn một nhà sư như tôi trong tay không có lấy một tấc sắt, vậy họa có là điên rồ hoặc muốn về chầu tổ tiên ông bà thì mới dám ‘ngang nhiên thách thức!’ Thượng tọa Minh Châu ác lắm, muốn nhờ cái búa tạ để đập nát một hạt đậu nhỏ đó! Tu hành từ bi mà sao dữ quá vậy. Thượng tọa Minh Châu với tôi có xa lạ gì đâu, cùng đi học với nhau bên Tích Lan rồi sau cùng sang học bên Ấn Độ, chỉ học khác trường mà thôi. Khi Giáo hội mở Viện Đại học Vạn Hạnh thì chúng tôi vừa làm việc trong Viện Hóa Đạo vừa làm việc ở Đại học Vạn Hạnh rất là thân mật quý hóa. Mỗi khi thượng tọa có việc phải xuất ngoại thì thượng tọa giao quyền viện trưởng xử lý Đại học Vạn Hạnh. Thế mới biết danh lợi dễ làm cho con người hư hỏng, và thế cũng mới biết cộng sản đến đâu là làm tình người tan nát đến đấy. và chỉ mấy tháng sau là thượng tọa Huyền Quang và tôi bị đưa đi quản thúc lưu đày vì bản Thông báo đó. Tôi biết được điều này là vì sau khi tôi bị đưa ra Bắc ít lâu, người ta nói với tôi là họ thắc mắc hỏi công an tại sao lại bắt tôi ra đây, thì công an bảo tôi ở trong Nam chống phá Giáo hội, bởi vậy các ông Trí Thủ, Trí Tịnh, Minh Châu yêu cầu Nhà nước đưa ‘hắn’ (tức là tôi) ra đây để trong ấy họ dễ làm việc, chứ Nhà nước có bắt bớ gì hắn đâu. Cái lợi thống nhất Phật giáo do cộng sản chỉ huy là thế. Có lẽ thượng tọa Minh Châu chỉ muốn một mình mình sống trong ‘Thiên đường’ thôi, vì trong một chuyến đi Liên Xô với cố hòa thượng Trí Thủ về, thượng tọa Minh Châu đã tuyên bố Mạc Tư Khoa (thủ đô của Liên Xô cũ) là thiên đường trên mặt đất. Thượng tọa Minh Châu cũng đã từng chu du nước Mỹ, đến Hoa Thịnh Đốn, nhưng chắc bơ sữa Hoa Thịnh Đốn không ngon bằng bơ sữa thiên đàng Mạc Tư Khoa! Chưa hết, sau khi thượng tọa Minh Châu xuất gia, bát cơm đầu tiên mà thượng tọa Minh Châu ăn là cơm Bắc tông (tức Đại thừa), bổn sư của thượng tọa là Đức đệ nhất Tăng thống của GHPGVNTN. Sau ngài sang Tích Lan và Ấn Độ học Nam tông (tức tiểu thừa), ngài mặc áo vàng vào rồi tuyên bố các kinh điển Đại thừa (tức Bắc tông) không phải Đức Phật nói (ngụ ý là ma nói), mà Đức Phật chỉ nói có các bộ Trường, bộ Kinh, Trung bộ kinh, Tăng nhất bộ kinh v.v… mà ngài đã dịch ra tiếng Việt thôi. Vậy theo quan điểm của thượng tọa Minh Châu, những người tu theo Bắc tông như tôi là những kẻ ngoại đạo thì không có tư cách được sống ở thiên đường, vì Sài Gòn cũng sẽ là một thiên đường, cho nên phải đuổi nó xuống địa ngục! Đến cuối năm 1981, Đại hội thống nhất Phật giáo chính thức được mở ra tại Hà Nội. Tôi được biết, thượng tọa Thích Thiện Siêu cầm đầu một phái đoàn mười người nói là đại diện cho GHPGVNTN, có văn thư đề cử đóng khuông dấu Viện Hóa Đạo đường hoàng, tôi rất đỗi ngạc nhiên. Bởi vì thượng tọa Thiện Siêu có chức vụ gì trong Viện Hóa Đạo đâu, mà Viện Hóa Đạo cũng không cử thượng tọa Thiện Siêu làm đại biểu của Viện đi dự họp, còn khuôn dấu Viện Hóa Đạo do tôi giữ, khi đến văn phòng thì tôi mang đến, hết giờ làm việc thì tôi mang về, vậy khuôn dấu đâu ra? Lúc đầu tôi không tin, bởi lẽ tôi biết thượng tọa Thiện Siêu là bậc học thức, có đức hạnh, tôi rất kính trọng thượng tọa và tuyệt đại đa số tăng ni miền Nam cũng thế, không tin thượng tọa lại có thể làm một việc như vậy, nhưng sau tôi mới biết rõ đó là sự thật! Trong Đại hội ấy, cố hòa thượng Trí Thủ được bầu làm trị sự trưởng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (do cộng sản chỉ huy), thượng tọa Trí Tịnh đệ nhất phó trị sự trưởng, thượng thọa Minh Châu thư ký văn phòng II đặt tại chùa Xá Lợi ở Sài Gòn, thượng tọa Thiện Siêu và các vị khác đều có chức vụ, nghĩa là tùy theo công lao nhiều ít, đều được tưởng thưởng cả. Tôi còn nhớ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi được tha từ nhà tù Phan Đăng Lưu về, một vị đệ tử của thượng tọa Trí Tịnh, trước kia có học tôi ở Đại học Vạn Hạnh, từ Thủ Đức lên thăm tôi, vị ấy nói với tôi là “thầy con (tức thượng tọa Trí Tịnh) bảo thầy con là bậc đại trí mới tránh được những tai nạn”. Đến nay tôi nghĩ lại thì thấy thượng tọa Trí Tịnh và thượng tọa Minh Châu quả thực là hai bậc đại trí. Năm 1963, ông Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, tăng ni Phật tử buộc lòng phải đứng lên chống lại; nửa đêm 20 tháng 8 năm 1963, ông Diệm cho cảnh sát tấn công tất cả các chùa trên toàn miền Nam, bắt hết tăng ni. Sáng hôm sau các Phật tử ở Thủ Đức biết tin ấy, vào chùa Vạn Đức báo cho thượng tọa Trí Tịnh biết và khóc lóc. Thượng tọa Trí Tịnh bảo họ: “Các sư tu hành mà làm chính trị thì người ta bắt là phải, còn khóc lóc gì!”. Nhưng, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, GHPGVNTN được thành lập thì thượng tọa Trí Tịnh ra giữ chức tổng vụ trưởng tổng vụ Tăng sự. Đến tháng 4 năm 1975 thì thượng tọa Trí Tịnh không dự một cuộc họp nào của Viện Hóa Đạo nữa. Ngày 30-4-1975 cộng sản toàn thắng về tiếp thu Sài Gòn; ngày 15-5-1975 cộng sản tổ chức ăn mừng chiến thắng có diễn binh trước dinh Độc lập và truyền hình trực tiếp. Khi nhìn vào TV, trên khán đài danh dự, tôi đã thấy thượng tọa Trí Tịnh đang ngồi chễm chệ trên đó rồi, thật là bậc đại trí! Còn thượng tọa Minh Châu thì năm 1964 mời từ Ấn Độ trở về và được Giáo hội mời làm tổng vụ trưởng tổng vụ Giáo dục kiêm viện trưởng Viện đại học Vạn Hạnh. Năm 1972 cuộc chiến Việt Nam đã đến giai đoạn khốc liệt. Người ta chưa quên Quảng Trị mùa hè rực lửa. Lúc đó, Hội nghị Tôn giáo Thế giới về Hòa bình (The World Conference on Religion and Peace) vận động hòa bình cho Việt Nam và mời Giáo hội tham gia. Tình hình chiến sự ngày càng sôi động và đến khoảng tháng 3 năm 1975, thượng tọa Minh Châu cũng không dự cuộc họp nào của Viện Hóa Đạo nữa và tuyên bố tách rời khỏi đường lối vận động hòa bình của Giáo hội. Thượng tọa Minh Châu nói ngài chỉ chuyên về lãnh vực văn hóa giáo dục mà thôi. Nhưng đến năm 1976 thì thượng tọa Minh Châu lại ra ứng cử vào Quốc hội thống nhất đầu tiên của cộng sản và cho đến nay (1992) ngài vẫn còn ngồi trong cơ quan đó. Thì ra thượng tọa Minh Châu thích làm chính trị cộng sản chứ không thích vận động hòa bình. Cũng là một bậc đại trí hiếm có. Kể từ ngày cố hòa thượng Trí Thủ được bầu làm trị sự trưởng của Giáo hội nhà nước thì GHPGVNTN không còn viện trưởng Viện Hóa Đạo. Không có viện trưởng thì phó viện trưởng lên quyền viện trưởng cho đến khi có Đại hội bầu lại đúng như Hiến chương Giáo hội đã quy định. Do đó, thượng tọa Huyền Quang là đệ nhất phó viện trưởng lên làm quyền viện trưởng và chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc Giáo hội như thường. Có lẽ Nhà nước cộng sản Việt Nam nghĩ rằng, nếu cứ để thượng tọa Huyền Quang và tôi tiếp tục làm việc như vậy, thì sau này Giáo hội nhà nước sẽ khó lòng đến chiếm văn phòng Viện Hóa Đạo được; mà nếu không chiếm được văn phòng và trụ sở trung ương của Giáo hội thì cũng khó bắt các giáo hội địa phương theo Giáo hội nhà nước, cho nên việc phải đến đã đến và dựa vào thông báo của thượng tọa Minh Châu tố cáo tôi “ngang nhiên thách thức với Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” như tôi đã nói ở trên làm cơ sở. Lúc bốn giờ chiều ngày 24-2-1982, tôi nhận được một văn thư của sở Công an thành phố, ngoài bì để ‘hỏa tốc’. Tôi mở ra xem thì biết tôi được ‘mời’ đến sở Công an vào đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, lý do cho biết sau, do ông Quang Minh tiếp đón (lại Quang-Minh! Kể ra tôi cũng có ‘duyên’ với ông này lắm, có lẽ đã từ bao kiếp trước! Tôi không biết chức vụ của ông, nhưng chắc là cấp cao. Suốt thời gian tôi ở trong nhà tù Phan Đăng Lưu, cứ mỗi tuần dần dần mỗi tháng tôi lại được ‘tiếp’ ông ta một lần để ‘làm việc’ (tức lấy khẩu cung). Rồi sau khi ra khỏi nhà tù tôi cũng được ông tiếp luôn và có lẽ lần này là lần chót. Người thứ hai mà tôi cũng ‘kết duyên thắm thiết’ đó là ông Mai Chí Thọ, giám đốc sở Công an thành phố và sau là bộ trưởng bộ Nội vụ; tôi cũng được ông hỏi thăm sức khỏe luôn). Lại một lần ‘dựng tóc gáy’. Đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, tôi tới sở Công an, được đưa đến một căn phòng ngồi chờ và có hai anh công an đồng phục mang súng lục đứng canh gác. Đúng là dựng tóc gáy rồi. Tôi nghĩ bụng lại một phen đi nghỉ mát! Khoảng một tiếng đồng hồ sau, chắc họ cho là khủng bố thế đã đủ, tôi được đưa vào gặp ông Quang Minh. Ông ta nói: “Ông làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị (!), chúng tôi sẽ có thái độ với ông.” Thế rồi khoảng năm phút sau, ông Quang Minh đứng dậy đọc bản quyết định, do ông Lê Quang Chánh ký tên, ông này là phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố, trục xuất tôi ra khỏi thành phố. Sau ít phút, một người gọi là trưởng toán đưa tôi di đến lãnh nhiệm vụ và bốn anh công an vũ trang đầu đủ áp giải tôi xuống xe đưa đi, hệt như một vụ bắt cóc người đòi tiền chuộc! Lúc ấy là 9 giờ 30. Khi đến ngã ba Dầu Giây thuộc tỉnh Long Khánh, đoàn xe chừng mười cái dừng lại tại một khu rừng cao su nghỉ để ăn trưa, tôi thấy thượng tọa Huyền Quang ngồi cách tôi độ mười mét, lúc ấy tôi mới biết thượng tọa Huyền Quang cũng được đi ‘ngao du sơn thủy’ trong chuyến này (sẽ kể tiếp cuộc hành trình ngao du sơn thủy trong phần Phụ lục sau). Kể từ ngày đó, các sinh hoạt của GHPGVNTN hoàn toàn bì đình đốn. Sau đó, cố thượng tọa Trí Tuệ, trị sự trưởng trung ương của Giáo hội Nhà nước về chiếm văn phòng Viện Hóa Đạo tại chùa Ấn Quang làm văn phòng Thành hội Phật giáo của Giáo hội nhà nước. Hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký kiêm xử lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN, đã gửi văn thư phản đối việc làm ấy của cố thượng tọa Trí Thủ. Rồi từ đó trở đi tất cả tổ chức của GHPGVNTN từ trung ương đến các địa phương đều bị buộc phải hạ bảng hiệu của Giáo hội xuống và trương bảng hiệu của Giáo hội nhà nước lên thay, luôn cả trụ sở, nhân viên của GHPGVNTN trước đây, cũng được biến thành trụ sở, nhân viên của Giáo hội Nhà nước, cũng chánh đại diện, thư ký và ban này ban nọ, hệt như cơ cấu tổ chức của GHPGVNTN, chỉ khác có tên gọi ‘Giáo hội Phật giáo Việt Nam’ tức Giáo hội Nhà nước mà thôi. Thật là một đòn gậy ông đập lưng ông hiểm độc. Đây mới chỉ là mưu đồ ngắn hạn, tức mới chỉ dùng người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để triệt hạ GHPGVNTN, còn về dài hạn, thì cái Giáo hội Phật giáo Nhà nước ấy được dùng để tiêu diệt Phật giáo một cách hợp thức hợp pháp, cũng như cái Giáo hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam do sư cụ Trí Độ làm hội trưởng ngoài miền Bắc trước đây vậy. Và cuối cùng, khi đã thực sự tiến lên ‘thiên đường cộng sản’ rồi thì chính cái Giáo hội Nhà nước ấy cũng sẽ bị tiêu diệt. Nhưng cái viễn tượng thiên đường cộng sản ấy xem ra còn xa vời lắm, nhất là từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô tan rã, khiến thế đứng của cộng sản Việt Nam lung lay, thì giờ đây cộng sản lại lợi dụng Phật giáo làm chỗ dựa, đưa vận mệnh của Phật giáo Việt Nam ràng buộc vào với chủ nghĩa xã hội, cũng như nửa thế kỷ trước, cộng sản Việt Nam đã đưa vận mệnh nước Việt Nam ràng buộc vào với khối cộng sản quốc tế. Cũng như mấy chục năm qua, cộng sản đâu có nhắc đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương, nhưng bây giờ ngày 10 tháng 3 âm lịch mới dở trò tế Tổ. Rồi nghe đâu bây giờ trong miền Nam, cộng sản cho các chùa thu nhận người xuất gia và cho mở các trường Phật học cơ bản để đào tạo tăng ni. Cũng nghe đâu vào ngày Phật đản và ngày Tết, các quan chức Đảng và Nhà nước có đến các chùa ‘lễ Phật’! Chao ôi, quý hóa thay! Các Ngài vô thần đến lễ Phật, Phật tổ chứng minh công đức! Nhưng giá như từ năm 1945, 1954, hay ít ra từ năm 1975 mà các ngài nhà ta làm thế thì có tốt hơn không? Tuy nhiên, màn thưa chẳng che nổi mắt thánh đâu. Bất quá ‘giết chẳng được thì tha làm phúc’ đó thôi, chưa tiêu diệt được thì hãy lợi dụng đã, ‘lùi một bước để tiến lên ba bước’ mà! ‘Phân gà’ thì gạt lúc nào mà chẳng được. Thật vậy, nói đổ xuống sông xuống biển, nếu mai mốt đây bức tường Bá Linh lại được xây lại, khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô được khôi phục, và cộng sản Việt nam lại có cái thế ‘thừa thắng xông lên’ của năm 1975, thì làm gì còn chùa để các ngài vô thần đến lễ Phật! Tôi còn nhớ sau ngày 30-4-1975, khẩu hiệu: “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm!”, “Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch bất diệt” được treo trên khắp các nẻo đường ở Sài Gòn, và hang cùng ngõ hẻm nào cũng thấy các tấm bảng đỏ sao vàng trông chói cả mắt. Rồi đến ngày kỷ niệm cách mạng tháng 10 Nga thì tổ chức kéo dài cả tháng. Lúc đó có ông cộng sản nào nhắc đến ngày 10 tháng 3 giỗ Tổ Hùng Vương hoặc đến chùa lễ Phật đâu? Cũng như nếu cộng sản đã đào mồ chôn sống được ‘bọn’ tư bản rồi thì bây giờ làm gì còn tư bản để các ngài rước vào Việt Nam và xin gia nhập khối Tư bản Đông Nam Á mà trước kia các ngài cho là tay sai đế quốc Mỹ! Đập tượng phá chùa để rồi đến lễ Phật, chôn sống tư bản để rồi đi theo tư bản, kể cũng giỏi, cũng hay! Tóm lại, đạo Phật đã truyền vào Việt Nam trên dưới hai nghìn năm, đã cùng chung vận mệnh thăng trầm vinh nhục với dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử ấy. Đạo Phật đã cống hiến những gì cho dân tộc Việt Nam? Vấn đề này đã được ghi rõ trong sử sách, ở đây tôi không dám nhắc lại sợ dài dòng và có thể bị cho là chủ quan. Tôi chỉ xin trích một đoạn rất ngắn trong cuốn sách Lý Thường Kiệt của giáo sư Hoàng Xuân Hãn ở phần thứ ba chương XIV trang 429 nói về đạo Phật đời Lỳ và kết luận như sau: “Nói tóm lại, sau các đời vua hung hãn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện ra những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc ít tham lam phản bạn. Đời Lý có thể gọi là nhờ ảnh hưởng đạo Phật. Mà thực vậy, mỗi lúc ta thấy có Nho gia bài xích Phật giáo, thì ta biết rằng trong nước sẽ có cuộc tranh quyền lợi mà giết lẫn nhau. Sau khi Đàm Dĩ Mông sa thải tăng già, thì có Trần Thủ Độ tàn sát họ Lý. Cuối đời Trần, Nho học nên thịnh. Có Trương Hán Siêu, Lê Quát chỉ trích Phật giáo, thì sau lại có Hồ Quý Ly sát hại họ Trần. Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly làm những việc kia, ấy cũng vì muốn thi hành chính sách vị danh, xa hẳn lòng bác ái từ bi của Phật.” Còn một điều rất căn bản tôi muốn nói ở đây là: bất cứ ai, muốn trở thành một Phật tử chân chánh, thì trước hết phải lãnh nhận ba quy y Phật, Pháp, Tăng và sống theo năm giới điều: Không giết hại, không trộm cướp, không gian dâm, không nói dối, không uống rượu. Đó là đời sống đạo đức. Ngày xưa, sau khi đánh bại Sở bá vương Hạng Vũ thống nhất Trung Hoa, Hán cao tổ Lưu Bang rất kiêu căng ngạo mạn, hay chế diễu chửi bới các nhà Nho, có khi gặp Nho sinh thì bắt họ bỏ mũ ra rồi cao tổ đi tiêu vào mũ của họ! Nhà trí thức Giả Nghị thấy thế khuyên cao tổ đọc sách, Lưu Bang trả lời: “Nãi công cư mã thượng nhi đắc thiên hạ an sự thi thư?” (nghĩa là “Ta đây ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, cần gì phải đọc sách?”) Rõ là giọng của kẻ võ biền gặp thời, kẻ tiểu nhân đắc thế. Giả Nghị thưa: “Chúa công có thể ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên lưng ngựa mà trị thiên hạ!” Thật là chí lý. Các vua chúa Việt Nam đời Lý, Trần thông minh và khiêm tốn hơn Hán cao tổ của Tàu; họ tự biết giới hạn của mình, họ biết không thể cứ cậy có nhà tù, quân đội, công an mà làm được tất cả mọi việc, mà khiến được dân trở nên lương thiện. Bởi thế họ đã làm chùa và khuyến khích việc làm chùa ở khắp nơi để nhờ Phật nhờ tăng dạy dân sống theo ba qui y và năm giới điều để xây dựng một xã hội có đạo đức, nhân ái, lễ nghĩa, hiếu thảo và độ lượng, nhờ dó xã hội được yên vui. Tâm lý con người kể cũng lạ. Ngày nay tôi nhận thấy thanh niên ở miền Bắc, phần nhiều họ không sợ nhà tù, họ ra rồi vào, cứ như là đi… nghỉ mát ấy. Thậm chí họ còn nói thanh niên nếu không vào tù ít ra là vài ba lần trong cuộc đời thì không phải là thanh niên! Vậy mà khi đến chùa Vũ Đoài, nghe tôi nói về đạo Phật, về nhân quả báo ứng, về địa ngục v.v… các anh đâm ra sợ và bỏ nghề bất chính, nhất là nghề đồ tể thì nhiều anh bỏ. Như vậy, khi Đảng Cộng sản Việt Nam, theo giáo điều vô thần duy vật của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nhằm tiêu diệt đạo Phật, phá hủy đình chùa, tức là đã đạp đổ nền đạo đức của dân tộc, hủy hoại di sản kiến thức văn hóa của tổ tiên, phản bội tinh thần nhân ái truyền thống của dân tộc, tinh thần ‘dĩ hòa vi quý’ của ông cha từ ngàn xưa để thay bằng căm thù đấu tranh giai cấp, cộng thêm với việc dạy con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng và thầy trò tố lẫn nhau trong cuộc cải cách ruộng đất ‘ôn nghèo gợi khổ” tại miền Bắc năm 1956 và đánh tư sản tại miền Nam năm 1975, đã khiến cho cả nền đạo đức nhân nghĩa của dân tộc gầy dựng hàng nghìn năm bị đổ nát tan hoang, tôn ti trật tự xã hội bị đảo lộn và luân thường đạo lý phải bại hoại. Hậu quả là ngày nay con lợn chết thì người ta khóc, bố mẹ chết thì người ta mừng; khi con lợn đau ốm thì người ta lo chạy chữa thuốc thang, tráng trứng gà cho lợn ăn, còn bố mẹ ốm đau thì nằm khô chờ chết! Người ta kể câu chuyện một anh nọ ở thành phố nuôi chó tây để bán, mua giường sắm màn cho chó ngủ, mua thịt bò, trứng gà cho chó ăn; bà mẹ ốm đau nằm không, thấy thế thèm quá, nói với con: “Tao ốm nằm đây, chẳng có gì ăn mà thấy mày cho chó ăn thịt bò, trứng gà tao thèm quá!” Người con trả lời: “Bà biết không? Bạc triệu đấy! Còn bà thì làm ra được đồng nào mà đòi ăn thịt bò với trứng gà? Bà chết mau đi còn may nữa!” Khủng khiếp chưa, con Rồng cháu Tiên! Còn tình trạng con cái chửi bố mẹ thì xảy ra như cơm bữa, thậm chí giết cả bố mẹ. Đáng lo lắm thay! Sự tàn phá về vật chất, khi sửa chữa hoặc xây dựng lại, tương đối còn dễ, nhưng sự hủy hoại về tinh thần này không biết đến đời nào mới vãn cứu được. Đó là sự sai lầm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Phật giáo nói riêng và đối với văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung.
* * *
Kết Luận
Tôi chắc rằng, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đọc bản Nhận định này, sẽ cho
tôi là chống Đảng, mà chống Đảng tức là chống Tổ quốc, hơn thế nữa là
chống Trời, thì chắc chắn là sẽ bị đấu tố đến chết thôi. Tôi đã ý thức
rõ điều đó, nhưng tôi sẵn sàng đón nhận, bởi vì những điều tôi nói trong
bản Nhận định này đều là sự thật, vậy nếu phải chết cho sự thật, thì
cũng chẳng có gì đáng ân hận, hối tiếc cả. Vả lại, tôi cũng chẳng còn gì
trên đời này nữa: bố tôi đã chết sớm, mẹ tôi thì đã bị cộng sản Việt
Nam bắt đi đày cùng với tôi năm 1982 và đã chết thảm thương tại xã Vũ
Đoài năm 1985, sự phủ (bổn sư) tôi là hòa thượng Thích Đức Hải, từng du
học nước Pháp, đã bị Việt Minh đến chùa bắt vào lúc 8 giờ sáng ngày
19-8-1945, tức ngày 12 tháng 7 năm Ất Dậu, ngày cách mạng thành công,
đưa đến sân đình làng Bặt, gần nhà ông Bùi Bằng Đoàn, ở phủ Ứng Hòa tỉnh
Hà Đông xét xử và kết án tử hình về tôi ‘Việt gian bán nước’, rồi đưa
thầy tôi ra bãi cỏ trước đình bắn vào màng tang thầy tôi ba phát súng
lục, một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp, cho đến nay, tôi vẫn còn
nhớ như in, vì lúc đó tôi đã 18 tuổi. Nhân đây tôi cũng xin minh oan cho
thầy tôi không phải Việt gian bán nước mà nguyên nhân như sau:
Vì năm Giáp Thân (1944), nhiều nơi người Nhật bắt dân phá lúa đi để trồng đay, và tháng 10 năm ấy lại mất mùa, nên năm Ất Dậu (1945) dân đói lắm, nhất là hai tỉnh Thái Bình, Nam Định, người chết đói nằm ngổn ngang đầu đường. Những ai còn sức đi được, họ kéo nhau lên Hà Nội, Hà Đông để xin ăn, nhiều người đến nơi thì kiệt sức nằm chết ngoài đường phố. Lúc đó thầy tôi đang ở chùa làng Thanh Sam phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông, nghe người ta nói thương tâm lắm, thầy tôi bèn ra thị xã Hà Đông, lập hội cứu tế giúp người đói, lúc ấy là tháng 3 năm 1945. Thầy tôi mở một khu trại và đưa người đói về đó để nuôi. Bấy giờ thầy tôi có nhờ ông Hồ Đắc Điềm là tổng đốc Hà Đông, can thiệp vói người Nhật xin một số gạo để cứu đói. Hội đã cứu được nhiều người qua cơn đói, đến tháng 6 năm 1945 thì những người đói đã khỏe mạnh, tất cả họ đã trở về quê cũ để thu hoạch vụ chiêm, trại đóng cửa và thầy trò tôi cũng về chùa. Có thế thôi. Vậy mà đến ngày 19-8-1945 cách mạng thành công, Việt Minh lên án thầy tôi là theo Nhật, bán nước rồi giết như tôi vừa nói ở trên. Ngày ấy có rất nhiều người chết tương tự như thế. Đến lượt sư bá tôi (tức là anh trong đạo của thầy tôi), là hòa thượng Thích Đại Hải, trụ trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) ở tỉnh Bắc Ninh, cũng bị Việt Minh bắt năm 1946 và sau đó đã chết về tội đảng viên Quốc Dân Đảng! (Tôi mở ngoặc đơn để nói thêm rằng, những người Quốc Dân Đảng là ai? Họ cũng là những người yêu nước, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, mồ các liệt sĩ Quốc Dân Đảng tại Yên Bái còn đó, họ có nợ máu gì với cộng sản Việt Nam đâu mà sao cộng sản nỡ đang tâm giết họ? Trong cuộc cải cách đấu tố năm 1956, Quốc Dân Đảng được xếp vào kẻ thù hàng đầu (tức là trí thức) và nếu bị phát hiện đều phải bị giết chết. Chẳng qua cộng sản Việt Nam học chính sách của cộng sản Tàu mà thôi. Vì Quốc Dân Đảng Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) đã từng nắm chính quyền và đánh nhau với cộng sản Tàu, khiến Mao Trạch Đông phải mở cuộc ‘vạn lý trường chinh’. Đến tháng 12 năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm toàn lục địa Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, sau đó họ Mao ra lệnh giết hết đảng viên Quốc Dân Đảng Trung Hoa còn lại, không chạy kịp để trả thù. Tuy vậy họ Mao vẫn chưa hả dạ, còn ngờ có kẻ len lỏi trốn thoát trong hàng ngũ các nhân viên của chế độ cũ, phải phát giác để tiêu diệt cho bằng hết. Bởi vậy, đến năm 1956, họ Mao tung ra chiến dịch ‘Trăm hoa đua nở’, nghĩa là cho phép tất cả mọi người được tự do nói ra những điều mình không bằng lòng với chế độ cộng sản để Đảng sửa sai. Ai cũng tưởng thật và có điều gì dấu kín trong tâm tư đem phun ra hết. Thế là họ Mao tiêu diệt tất cả những người nhẹ dạ, hầu hết là đảng viên Quốc Dân Đảng, đã tin vào chiến dịch Trăm hoa đua nở! Nhưng còn ở Việt Nam thì Quốc Dân Đảng đã nắm chính quyền bao giờ đâu, đã có đánh nhau với cộng sản Việt Nam đâu mà cứ hễ ai là Quốc Dân Đảng là phải giết hết!) Rồi đến sư tổ tôi (ông nội trong đạo), trụ trì chùa Trà Lũ Trang, phủ Xuân Thường tỉnh Nam Định, năm 1954, cộng sản vào chùa bảo tổ tôi là dùng thuốc phiện tôn giáo ru ngủ nhân dân, sẽ bị qui định thành phần và đưa ra đấu tố, thế là tổ tôi sợ quá phải tự thắt cổ chết! Nay đến lượt tôi cũng đã bị cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa suốt mười mấy năm rồi, chỉ vì cái ‘tội’ trung thành với lý tưởng đạo Phật, muốn bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản tinh thần và kiến trúc vật chất của tô tiên, thế thôi, chứ có tranh giành quyền lợi gì với ai đâu. Vì, theo tôi, văn hóa truyền thống và di sản tinh thần của tổ tiên rất là quan trọng, nhờ đó mà dân tộc Việt Nam đã không bị đồng hóa bởi các thế lực phong kiến, đế quốc và thực dân xưa cũng như nay, khi thống trị Việt Nam trước sau có tới hơn nghìn năm. Dĩ nhiên, vì đã lâu đời nên nền văn hóa cổ truyền của chúng ta cũng đã có những cái lỗi thời, ta nên bỏ đi, rồi học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới mà bồi bổ thêm cho mạnh, thì được, chứ nếu chúng ta bảo nó đã lâu đời quá rồi, không còn thích hợp với đời mới nữa, thôi bỏ hết nó đi để thay vào đó một thứ văn hóa hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ, thì chúng ta sẽ bị rơi vào tình huống: Tây chẳng phải Tây, Đông chẳng Đông Quỉ quái sinh ra lũ cuồng ngông Mồ mả tổ tiên cày xới hết Đình chùa miếu mạo pháp bằng không Ông bà xem nhẹ hơn con lợn Bố mẹ coi như khúc gỗ thông Phảng phát non sông hồn Lạc Việt Bốn nghìn tuổi sử tủi hay không?! Tóm lại, như tôi đã nói ở trên, mẹ tôi, sư phụ tôi, sư bá tôi, sư tổ tôi đều đã chết thảm, nay đến lượt tôi nếu lại chết thảm, thì xin góp thêm một giọt máu nữa vào trang sử đau thương của dân tộc.
Viết tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
Tháng 1 năm 1992 (Ngày 14 tháng 12 năm Tân Mùi) Kỷ niệm năm thứ 10 bị quản thúc lưu đày… Thích Quảng Độ Tổng thư ký Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất |
No comments:
Post a Comment