NAM QUỐC DÂN TU TRI
I. NGƯỜI VỚI VẠN VẬT
Lồng lộng trời cao,
Thênh thang bể rộng.
Ở trong cao rộng,
Muôn giống nghìn hình.
Có giống thai sinh,
Có loài trứng nở.
Giống hay biến hoá,
Giống hay nổi chìm.
Hai cánh loài chim,
Bốn chân loài thú.
Giống rùa có vỏ,
Giống cá có vây.
Giống cỏ giống cây,
Đuôi trên đầu dưới.
Giống rắn quá tội,
Không chân không tay.
Giống giun thảm thay,
Không tai không mắt.
Xét trong vạn vật,
Quý nhất là người.
Khác hết mọi loài,
Mới là người đó.
Ơn trời phúc tổ,
Ta được làm người.
Ta đã làm người,
Nghĩ sao cho đáng.
02. HÌNH NGƯỜI
Lò trời đúc nặn,
Ta được làm người.
Đầu cao đội trời,
Chân dày đạp đất.
Sáng đôi con mắt,
Tỏ đôi lỗ tai.
Đôi vế đôi vai,
Chân tay cứng cỏi.
Vẫy ba tấc lưỡi,
Núi bể rung rinh.
Vươn bảy thước mình,
Dọc ngang trời đất.
Xét suy vạn vật,
Lại có óc khôn.
Óc trữ linh hồn,
Linh thiêng rất mực.
Đứng đầu muôn vật,
Ta chắc mình ta.
Ơn ông ơn bà,
Ta không dám phụ.
Đã sinh ta đó,
Phải tính thế nào?
Trâu ngựa hay sao,
Uổng người ta lắm.
03. TÍNH NGƯỜI
Bề ngoài hình thức,
Ai khác gì ai.
Vì có tính người,
Khác hơn mọi giống.
Dạ hùm lòng phụng,
Nó cũng vẻ vang.
Bởi không thiêng liêng,
Mới ra cầm thú.
Tính ta trời phú,
Có trí có nhân.
Nhân biết yêu người,
Trí hay học thánh.
Lại thêm dũng mãnh,
Chẳng rụt chẳng kinh.
Đủ mọi tính lành,
Là người cao thượng.
04. TÍNH TỰ ĐỘNG
Trời cha đất mẹ,
Mới giáng sinh ta.
Một tiếng khóc oà,
Ta ra đời đó.
Nhơn nhơn con đỏ,
Tự nhiên nhi nhiên.
Chẳng cậy ai khuyên,
Chẳng phiền ai giục.
Chưa rờ đùm bọc,
Đã sẵn cơ quan.
Hay lật hay trườn,
Hay bò hay chựng.
Chốc đà hay đứng,
Chốc lại hay đi.
Hay tự mình hay,
Ấy là tự động.
Sức mình mình đựng,
Trí mình mình suy.
Không đẩy mà đi,
Không dìu mà đứng.
Gió ù mây dựng,
Ấy vẫn tính người.
5. TÍNH TỰ GIÁC
Lòng là thợ giỏi,
Óc là thợ hay.
Tai mắt chân tay,
Lại như máy điện.
Soi vào thời hiện,
Như bức gương treo.
Gõ đến thời kêu,
Như chuông nhà phật.
Cơ trời nhiệm nhặt,
Chẳng quý mà linh.
Là bởi tính mình,
Tự nhiên cảm giác.
Vui mừng thương giận,
Chạm thời biết ngay.
Phải trái dở hay,
Đứng đâu biết đó.
Tính ta trời phú,
Nào phải đá cây.
Hai chữ lương tri,
Thực là thầy thợ.
6. TÍNH TỰ VỆ
Hễ là một vật,
Có một cách khôn.
Muốn cho sinh tồn,
Phải cần tự vệ.
Dù loài nhỏ bé,
Cũng biết mọi đường.
Đàn kiến xoi hang,
Bầy ong gây tổ.
Én ngừa mưa gió,
Ngậm bùn qua sông.
Nhạn sợ lạnh lùng,
Dời nam tránh bắc.
Người hơn muôn vật,
Tài trí thông minh.
Phòng vệ cho mình,
Nên càng trọn vẹn.
Gặp cơn thiên diễn,
Gió Á mưa Âu.
Hơn được kém thua,
Khôn còn dại chết.
Người ta phải biết,
Mình giữ lấy mình.
Nào vuốt nào nanh,
Nào lông nào cánh.
Sức đua mình mạnh,
Trí cạnh mình hơn.
So sánh khôn ngoan,
Giữ gìn chủng tộc.
Vệ gia vệ quốc,
Tức là vệ thân.
Vệ cả toàn quần,
Ấy là tự vệ.
07. LÒNG NGƯỜI
Tính vẫn không hình,
Vì tâm mới có.
Có tâm làm chủ
Gọi, là lòng người.
Thông suốt mọi loài,
Như quân có tướng.
Tướng mà hùng tráng,
Quân mới phục tòng.
Tướng phải ra công,
Cầm quân cản giặc.
Nào là loài giặc,
Phải biết đích danh ?
Những món tư tình,
Những loài tham dục.
Nào ăn nào mặc,
Đua đuổi bề ngoài.
Tham sắc tham tài,
Tự tư tự lợi.
Xác thịt làm hại,
Mất hết tính người.
Giặc đó thực rồi,
Tướng tâm phải biết.
Muốn làm thánh triết,
Phải ở chính tâm.
Đánh được giặc tâm
Mới là danh tướng.
08. LÒNG NHÂN ÁI
Loài người sinh dục,
Gốc vì ái tình.
Ái là mầm tình,
Tình là hạt ái.
Bởi hay biết ái,
Mới gọi rằng nhân.
Ta với song thân,
Với huynh với đệ.
Với già với trẻ,
Đều phải thương yêu.
Nòi giống thương nhau,
Lại là mật thiết.
Cũng khí cũng huyết,
Cũng thịt cũng da.
Xưa lời phật, nói
Lợi kỷ lợi tha.
Ta biết thương ta,
Phải thương người với.
Ái tự một nhà,
Suy ra một nước.
Kìa loài tàn ngược,
Là giống beo hùm.
Người quý tấm lòng,
Nhất là nhân ái.
09. LÒNG TỰ Ố
Cũng tai cũng mắt,
Cũng chân cũng tay.
Ta so với người,
Vẫn không gì khác.
Cớ sao người được,
Mà ta lại thua?
Chỉ vì ta ngu,
Mà người thì trí.
Người sao mạnh mẽ,
Mà ta hư hèn?
Người sao thánh hiền,
Mà ta dung tục?
Ơn trời nung đúc,
Ta vẫn con trai.
Mang cặp râu mày,
Lẽ nào trơ trẽn.
Ta nên biết thẹn,
Mới gọi rằng khôn.
Xem đứa trẻ con,
Khi hai, ba tuổi.
Ai kêu ai chửi,
Nó đã khóc ngay.
Ấy là lương tri,
Là lòng tự ố.
10. LÒNG TỰ NHƯỢNG
Gà chung một lồng,
Cá chung một vũng.
Dành ăn đua uống,
Lúc nhúc lao nhao.
Há có lẽ nào,
Ta cũng như nó.
Đạo trời rành rõ,
Có trẻ có già.
Già là ông cha,
Trẻ là con cháu.
Ông cha ta mộ,
Con cháu ta yêu.
Nhịn ít nhường nhiều,
Ấy là phải lẽ.
Tham tài bỏ nghĩa,
Là giống hùm beo.
Tị ít tranh nhiều,
Là tuồng chợ búa.
Người đời phải có,
Trật tự thiên nhiên.
Yêu dưới kính trên,
Ấy là tự nhượng.
11.LÒNG THỊ PHI
Trắng đen mờ mịt,
Là mắt nguời mù.
Chèo bội mơ hồ,
Là tai người điếc.
Người đời muôn việc,
Có phải có chăng.
Lấy phải làm chăng,
Lấy chăng làm phải.
Lẽ trời đã trải,
Lòng người còn đâu?
Nào vàng nào thau,
Nào ngọc nào đá.
Nào chân nào giả,
Đạo lý rành rành.
Phải xét cho tinh,
Mới không lầm lỗi.
Thánh phàm rẽ lối,
Cốt ở phải chăng.
Một tấm gương trăng,
Soi cho thấy lẽ.
Xin người ghi để,
Hai chữ thị phi.
12. NGHĨA VỤ LÀM NGƯỜI
Tằm siêng kéo tơ,
Ong chăm gây mật.
Mèo lo bắt chuột,
Gà cần gáy đêm.
Chức phận phải làm,
Vật gì cũng có.
Huống người ta đó,
Nghĩa vụ rất to.
Trời đã phó cho,
Mình nên gánh vác.
Nếu mình lười nhác,
Chớ nể ăn suông.
Vá áo túi cơm,
Biết bao xấu hổ.
Đầu đen máu đỏ,
Ta há thua ai.
Phải biết chức trời,
Ấy là nghĩa vụ.
13.NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI MÌNH
Trong vùng trời đất,
Rất quý là người.
Đã đứng ra đời,
Lấy thân làm gốc.
Tay chân tai mắt,
Là thân một mình.
Xã hội gia đình,
Là thân đoàn thể.
Muốn cho vẹn vẻ,
Trước sửa lấy mình.
Tâm chính ý thành,
Vun trồng cỗi gốc.
Lại thêm tài học,
Đua đuổi đông tây.
Nghe nhiều sướng tai,
Thấy nhiều sướng mắt.
Biết nhiều sướng óc,
Đầy óc chất khôn.
Lấp bể dời non,
Chí bền lòng mạnh.
Bởi thân suy ra,
Đến nhà đến nước.
Nẻ cho hết mực,
Đo khắp vùng trời.
Nghĩa vụ làm người,
Lớn lao như thế.
14. NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH
Nhóm muôn ức nhà,
Mới nên một nước.
Gia đình hòa lạc,
Là nước tiểu khang.
Ta phải lo lường,
Gia đình cho tốt.
Dưới thời em út,
Trên thời ông bà.
Giữa thời mẹ cha,
Với anh với chị.
Giữa theo đạo lý,
Ta hết lòng ta.
Hiếu với người già,
Ơn cùng người trẻ.
Hiếu cho phải lẽ,
Cốt ở tinh thần.
Ơn cho có nhân,
Cốt đường dạy dỗ.
Trong nhà khuôn khổ,
Nên kiệm nên cần.
Rộng lối làm ăn,
Gây nên tự lập.
Trong nhà mọi việc,
Thằng ở, con hầu.
Ta phải thương yêu,
Dắt dìu dạy bảo.
Chia cơm sẻ áo,
Ân ý chu toàn.
Chớ lạm quyền trên,
Chớ kiêu quyền dưới.
Đàn bà con gái,
Là gốc tề gia.
Nhà có phép nhà,
Nên càng chỉnh đốn.
Gia đình mỹ mãn,
Tiếng đồn gần xa.
Chòm xóm lân la,
Gần đèn thời sáng.
Một nhà nhân nhượng,
Một nước cũng vầy.
Nghĩa vụ ta đây,
Mới là trọn vẹn.
15.NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI XÃ HỘI
Tứ bề xã hội,
Bao bọc mình ta.
Từ gần đến xa,
Một giây vấn vít.
Vải nhờ gái dệt,
Ruộng nhờ trai cày.
No ấm hàng ngày,
Là ơn người đó.
Buôn nhờ chợ búa,
Nghề có thợ thuyền.
Ăn tiêu quanh niên,
Nợ người sao khỏi.
Nếu không xã hội,
Còn có mình đâu?
Ta phải tính sao,
Cho tròn nghĩa vụ.
Lợi chung với họ,
Ta phải đắp bồi.
Hại chung với người,
Ta nên cứu chữa.
Nhà chung e phá,
Ta phải giữ gìn.
Thuyền chung sợ chìm,
Ta nên chèo chống.
Lợi gì công cộng,
Ta phải mở man.
Nghiệp gì chung nhau,
Ta nên gắng gỏi.
Ngọn đèn soi tối,
Máy nước uống chung.
Bao nhiêu việc công,
Ta nên hết sức.
Hội thương hội học,
Hội nông hội công.
Việc xã hội chung,
Ta nên giùm giúp.
Vun trồng cõi phúc,
Quạt thổi gió xuân.
Bênh vực quốc dân,
16. NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI QUỐC GIA
Góp nghìn ức nhà,
Mới gây nên nước.
Nước có quyền nước,
Mới giữ được nhà.
Nước tức là nhà,
Nhà tức là nước.
Vậy nên nhà nước,
Hai chữ liền nhau.
Nước là nhà to,
Nhà là nước nhỏ.
Cơ đồ tiên tổ,
Thành quách non sông.
Xương trắng máu hồng,
Gây nên gấm vóc.
Con Hồng cháu Lạc,
Nối nghiệp đời đời.
Ruộng ta ta cày,
Rẫy ta ta phở.
Nhà ta ta ở,
Của ta ta ăn.
Ta là quốc dân,
Nghĩa chung thờ nước.
Mất còn sống thác,
Cùng nước thủy chung.
Đất lở trời long,
Gặp cơn biến cố.
Nước không quyền nước,
Nhà còn được đâu?
Kiếp ngựa thân trâu,
Nghĩ càng đau đớn.
Đồng ưu cộng hoãn,
Ta phải tính sao?
Dìu dắt đồng bào,
Giữ gìn nòi giống.
Nào người trí dũng,
Nào kẻ anh tài.
Ráng sức chống trời,
Bền gan lấp bể.
So cho vẹn vẻ,
Nghĩa vụ quốc dân.
Ai nấy một phần,
Chung nhau gánh vác.
Nước còn quyền nước,
Nghĩa vụ mới xong.
Muôn người một lòng,
Ta nên ghi tạc.
17. QUYỀN LỢI
Đạo trời rất phải,
Luật người rất công.
Nghĩa vụ đã xong,
Há không quyền lợi.
Miệng có quyền nói,
Óc có quyền suy.
Chân có quyền đi,
Tay có quyền đẩy.
Mắt có quyền thấy,
Tai có quyền nghe.
Đất nọ xứ kia,
Có quyền dời ở.
Viết sách làm vở,
Quyền bút mặc lòng.
Hội hè việc chung,
Có quyền nhóm họp.
Thợ thuyền giúp đáp,
Quyền được chung nhau.
Bán bộ buôn tàu,
Thông thương tuỳ tiện.
Trải xem pháp hiến,
Các nước văn minh.
Quyền lợi rành rành,
Của dân dân được.
Quyền dân giữ trước,
Thời lợi càng nhiều.
Nghĩa vụ bao nhiêu,
Bấy nhiêu quyền lợi.
Vốn tất có lãi,
Ấy đạo công bình.
Quyền lợi rành rành,
Đồng bào phải biết.
18. NGHĨA HAI CHỮ ĐỘC LẬP
Nhà kia bốn cột,
Hai trước hai sau.
Thuyền kia hai chèo,
Một tả một hữu.
Che mưa cản gió,
Chống sóng đuổi triều.
Sức phải cân nhau,
Đôi bên đứng vững.
Thân ta ta dựng,
Chẳng nương cậy người.
Không phiền luỵ ai,
Không ai đè nén.
Xoay non lấp biển,
Quấy nước chọc trời.
Đáng bậc làm trai,
Là người Độc lập.
Độc lập nhiều nhà,
Mới dựng nên nước.
Nhớ lời thánh trước,
Kỷ lập lập nhân.
Chớ có nhận lầm,
Hai chữ Độc lập.
19. NGHĨA HAI CHỮ TỰ DO
Cá trong bể rộng,
Mặc sức vẫy vùng.
Chim trên trời cao,
Tha hồ bay liệng.
Đạo trời đặt định,
Mình được tự do.
Song le tự do,
Có hai đường lối.
Có thực có dối,
Có thị có phi.
Nếu sai một ly,
Thời đi một dặm.
Thánh hiền mô phạm,
Cốt chính thân mình.
Vứt cả lợi danh,
Ngoài vòng cương toả.
Quyền thấy ai cả,
Ngôi kẻ ai cao.
Ngất ngưỡng mặc dầu,
Trong vòng đạo đức.
Xét suy tiếp vật,
Mực thẳng đường ngay.
Nhắm lối ta đi,
Đố ai ngăn cản.
Trăm đường hoạn nạn,
Một mực khoan thai.
Tự do đường này,
Ấy là chân chính.
Xưa nay thần thánh,
Quý trọng tự do.
Há như ai đâu,
Ăn càn nói loạn.
Chân hươu tay vượn,
Miệng khướu mắt đồi.
Lêu lổng rông dài,
Toàn không đạo đức.
Đó là đạo tặc,
Há phải tự do.
Hai đường khác nhau,
Ai ơi xin xét.
20. THẾ NÀO LÀ ÁI QUỐC?
Nòi giống tiên rồng,
Máu da hoàng hán.
Chôn nhau cắt rốn,
Ở đất nước nhà.
Nước là mẹ ta,
Ta là con nước.
Thân con có phúc,
Thờ mẹ lâu dài.
Mẹ mất con côi,
Còn gì thân thể.
Cuộc đời dâu bể,
Trời cướp mẹ mình.
Hồn mẹ lênh đênh,
Nỗi con chua xót.
Nào người tâm huyết,
Máu chảy ruột mềm.
Quên mẹ sao nên,
Phải thương đến nước.
Song lo ái quốc,
Há phải nói không.
Ái cốt ở lòng,
Ái không ở miệng.
Người ái quốc miệng,
Bán tiếng mua danh.
Dối người dối mình,
Trộm nhân trộm nghĩa.
Ái mà ái thế,
Không ái còn hơn.
Hại cả toàn quần,
Yêu gì đến nước.
Tuỳ tài tuỳ lực,
Lớn bé mặc lòng.
Góp giọt làm sông,
Chất hòn nên núi.
Nhiều tay xúm lại,
Cơ nghiệp nước mình.
Mừng mẹ tái sinh,
Thoả lòng con cái.
Thề cùng sông núi,
Giữ tấm lòng ngay.
Ái quốc ai đây?
Thiên vàn ghi tạc!
21. ĐỘC LẬP VỚI HỢP QUẦN
Hai chữ độc lập,
Với chữ hợp quần.
Hình thức tuy phân,
Tinh thần vẫn hợp.
Nhiều người tự lập,
Hợp lại nên quần.
Nhóm họp tinh thần,
Quần ta độc lập.
Cây nhiều núi rậm,
Nước nhiều bể sâu.
Quần hợp với nhau,
Bầy càng to tát.
Muôn nghìn sức góp,
Sức mạnh ai hơn?
Góp muôn nghìn khôn,
Khôn không xiết kể.
Tạo thời tạo thế,
Muôn nghìn anh hùng.
Quần đã hợp xong,
Khó gì độc lập.
Vậy lên độc lập,
Với chữ hợp quần.
Theo bề tinh thần,
Vẫn hai mà một.
Kìa nước Ai Cập,
Có học sinh đoàn.
Nước Phi Luật Tân
Có thanh niên hội.
Mỗi người mỗi giới,
Độc lập một quần,
Giới cả mỗi quần,
Độc lập một nước.
Tính đường sau trước
Khấn nguyện quốc dân.
Nhóm người nên quần,
Nhóm quần nên nước.
22. CẦN KIỆM LÀ NGUỒN BỂ NHÂN ÁI
Nhân nghĩa là ái,
Ái nghĩa là yêu.
Người biết yêu nhau,
Mình yêu người trước.
Thấy người đói rách,
Mình phải âu lo.
Một mình ấm no,
Dám đâu vui vẻ.
Ở trong bốn bể,
Ai cũng anh em.
Chia áo sẻ cơm,
Lòng ta mới thoả.
Người no ấm cả,
Là hạnh phúc chung.
Lên tháp đại đồng,
Nhờ thang bác ái.
Ta nên gắng gỏi,
Nên kiệm nên cần.
Xưa Nã Phá Luân,
Ở trong quân ngũ.
Đêm không yên ngủ,
Sách chẳng rời tay.
Kể người Thái Tây,
Ông là bậc nhất.
Xưa Lưu Việt Thạch,
Gối đòng suốt đêm.
Giấc ngủ không êm,
Nghe gà dậy múa.
Xưa vua Hạ Vũ,
Trị thuỷ tám năm.
Một giấc quang âm,
Quý hơn thước ngọc.
Người ta phải học,
Các bậc thánh hiền.
Muôn sự làm nên,
Chữ "Cần" cốt nhất.
Lại thêm nên biết,
Chữ "Kiệm" là hay.
Xưa ông Găngđi thánh
Hùng Ấn Độ.
Ngày hai chén sữa,
Với hai bát cơm.
Ăn thời ăn chay,
Mặc thời mặc vải.
Tiêu dùng mọi lối,
Rặt của nước mình.
Như ông Lý Minh,
Tài cao hơn chúng.
Ăn theo lao động,
Mặc theo thợ thuyền.
Vải mốc bánh đen,
Vì ai cơ khổ.
Kìa hai người đó,
Há phải đói nghèo.
Vì dốc lòng yêu,
Phải quên mình khổ.
Việc không gì khó,
Cốt mình hay "Cần".
Của không sợ bần,
Cốt mình hay "Kiệm".
Cần thời không kém,
Kiệm lại có thừa.
Lại sẵn thời giờ,
Tạ giùm xã hội.
Gánh gì chẳng nổi,
Vác gì chẳng xong.
No chung ấm chung,
Vui cùng thiên hạ.
Kìa Âu đây Á,
Bình đẳng tự do.
Càng nở càng to,
Thênh thênh bể ái.
Ngọn nguồn gốc suối,
Cần kiệm làm đầu.
Ai nấy bảo nhau,
Khắc cần khắc kiệm.
23. NHẤT GIAN NAN KHỐN KHỔ TRƯỜNG HỌC ANH HÙNG
Có gan sắt nguội,
Mặc sức rèn trui.
Có chất vàng mười,
Tha hồ mài xát.
Khó khăn mọi việc,
Là đá thử vàng.
Nguy hiểm mọi đường,
Là lò nung sắt.
Đắng cay chua chát,
Ấy bởi ngọt ngon.
Khốn khó gian nan,
Ấy trường khoái lạc.
Xem trong sử sách,
Hào kiệt xưa nay.
Nuốt dắng ngậm cay,
Gây nên đại nghiệp.
Kẻ đền thù nước,
Kẻ thoả chí mình.
Kẻ lập công danh,
Kẻ xoay vận mệnh.
Treo gương thần thánh,
Chói rọi muôn đời.
Động đất rạn trời,
Tiếng vang bốn bể.
Anh hùng tạo thế,
Nhân định thắng thiên.
Sắt chẳng chối rèn,
Vàng không sợ xát.
Đắng nhiều mới ngọt,
Buồn rất lại vui.
Khấn nguyện mọi người,
Vào trường trời dạy.
24. THẤT BẠI LÀ MẸ THÀNH CÔNG
Tay ba lần gãy,
Mới biết thuốc tiên.
Đánh trăm trận quen,
Mới hay tướng giỏi.
Nếu không thất bại,
Sao có thành công.
Xưa nay anh hùng,
Từng thua mới được.
Cờ vì lỡ bước,
Bàn trước chịu thua.
Tính kỹ toan sâu,
Bàn sau chắc được.
Chông gai ngan ngác,
Sóng gió tơi bời.
Vượt núi qua vời,
Vẫn nhiều gian trở.
Vấp cây chạm đá,
Là thợ đem đường.
Lỗi hướng lầm phương,
Là thầy chỉ lối.
Càng nhiều thất bại,
Càng chắc thành công.
Xin chớ ngã lòng,
Xin càng bền chí.
Ngã rồi liền dậy,
Muôn dặm không xa.
Chèo mãi phải qua,
Bờ kia hẳn tới.
Trời đâu ta hỏi,
Xem thử gan già.
*
No comments:
Post a Comment