Thursday, June 23, 2011

LƯU HIỂU BA & TÁC PHẨM




Ấn bản tiếng Pháp: La Philosophie du porc et autres essais.
Tác giả: Liu Xiaobo – Nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 2011

Lưu Hiểu Ba là một nhân vật rất nổi danh trên thế giới ngày nay, đặc biệt kể từ lúc ông được cấp phát giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2010 vừa qua. Và cũng giống như trường hợp của bà Aung San Suu Ky người Miến Điện và của nhà bác học Andrei Sakharov người Nga trước đây vì bị chính quyền nước mình ngăn cản, nên đã không thể có mặt trong buổi lễ Trao giải tại thủ đô Oslo của vương quốc Na Uy, ông Lưu Hiểu Ba vì đang bị giam giữ trong tù tại Trung quốc, nên cũng đã vắng mặt trong dịp này. Sự kiện này lại càng khiến công luận khắp thế giới chú ý, và cũng là một điều gây bất lợi cho uy tín của giới lãnh đạo chính quyền Bắc kinh.

Mới đây, vào đầu năm 2011 nhà xuất bản Gallimard ở Pháp đã cho ấn hành một cuốn sách gồm nhiều bài tiểu luận của ông Lưu viết trong vài chục năm gần đây, với nhan đề thật tức cười ngộ nghĩnh lấy từ tiêu đề của một bài tiểu luận, đó là : "Triết lý con heo” như đã được ghi nguyên văn tiếng Pháp ở trên. Sách dày trên 500 trang với Bài tựa ngắn của Cựu Tổng thống Vaclav Havel ở Tiệp khắc. Và bài Giới thiệu khá chi tiết dài 30 trang của chuyên gia nổi tiếng về Trung quốc là Jean-Philippe Béja đích thân tuyển lựa và dịch các bài tiểu luận thật đặc sắc của một nhân vật được học giới Trung hoa gọi là "con hắc mã"của văn đàn Trung quốc hiện đại (dark horse = heima).


Bài viết đầu tiên này nhằm giới thiệu tóm lược những nét chính yếu trong cuốn sách giá trị này với độc giả người Việt. Trong các bài tiếp theo, người viết sẽ trình bày chi tiết hơn về một số quan điểm của tác giả họ Lưu, với những lập luận mà chúng ta có thể sử dụng như là những gợi ý cho sự trao đổi thảo luận giữa người Việt chúng ta.

I – Sơ lược tiểu sử của tác giả Lưu Hiểu Ba

Lưu Hiểu Ba sinh năm 1955 trong một tỉnh thuộc miền đông bắc Trung quốc. Cha của ông là một giáo sư tại đại học sư phạm ở địa phương. Năm lên 14 tuổi, Lưu theo cha mẹ đến các miền quê tại khu vực Nội Mông trong thời kỳ cách mạng văn hóa đày ải giới trí thức. Không được đến trường học, Lưu đã tìm cách đọc tất cả sách báo mình bắt gặp. Vào năm 1973 lúc ở tuổi 18, Lưu được điều động về các làng xã để"học tập cách thức phục vụ nhân dân ”.


Năm 1977, sau khi Mao Trạch Đông từ trần, Lưu được trúng tuyển vào đại học và tốt nghiệp năm 1982 với chuyên môn về văn học Trung quốc. Sau đó, Lưu được nhận vào học tại đại học sư phạm Bắc kinh để thi bằng cao học và cuối cùng ông đã được cấp văn bằng tiến sĩ văn chương tại đây vào năm 1988 ở tuổi 33.

Các bạn hữu cho biết là trong thời gian dài theo học ở Bắc kinh, Lưu ít chú ý đến sinh họat chính trị, mà tập trung vào việc nghiên cứu văn học, ông đặc biệt chú ý đến quan điểm của nhà văn Kafka ở Âu châu vào hồi đầu thế kỷ XX. Năm 1986, Lưu đã gây chấn động trên văn đàn Trung quốc với bài báo phê bình văn học với nhan đề : "Khủng hỏang ! Văn học thời kỳ mới đang lâm vào cuộc khủng hỏang". Trong bài này, Lưu phê phán thẳng thừng sự thiếu vắng sáng tạo của các nhà văn Trung quốc, mặc dầu lúc đó họ đang được ca tụng vì đã có những cố gắng vượt thóat khỏi tình trạng kềm kẹp dưới thời Mao Trạch Đông. Quan điểm phê phán triệt để này có thể coi như có tính cách đột phá tương tự như hào khí khai phóng sôi nổi khắp nơi ở Trung quốc của"Phong trào Ngũ Tứ"bột phát vào năm 1919 sau thế chiến thứ nhất ( May 4th Movement).


Với danh tiếng đó, Lưu được nhiều đại học trong nước cũng như ngọai quốc mời đến diễn thuyết hay dậy học. Năm 1989, lúc đang làm việc ở đại học Columbia, New York, Lưu đã cắt ngang việc giảng dậy để về nước tiếp sức với giới sinh viên đang sôi nổi đòi phải cải cách dân chủ. Và ngay sau vụ đàn áp đẫm máu Thiên An Môn vào đầu tháng Sáu, Lưu đã bị bắt giữ.

Trong khi ở tù, thì Lưu bị người vợ đòi phải ly dị. Hậu quả của việc ly dị này là Lưu bị mất sổ hộ khẩu, mất cả quyền cư trú hợp pháp ở Bắc kinh lúc ông được trả tự do vào năm 1991. Mà ông cũng không còn được ký tên thật của mình trên các bài báo, hay sách do mình viết nữa. Vì thế mà cuộc sống trở thành hết sức bấp bênh, đến độ nghẹt thở. Nhưng vào năm 2000 trở đi, nhờ sự phát triển của Internet, họ Lưu đã có thể sáng tác hết sức mạnh bạo, mau chóng với sức lan tỏa rộng rãi cùng khắp. Ông thường xuyên bị công an theo dõi và bị làm khó dễ sách nhiễu dọa nạt đủ bề. Tuy vậy, Lưu vẫn kiên trì theo đuổi cuộc tranh đấu cho dân chủ, tự do và nhân quyền của mình.


Sự đóng góp lớn của ông trong việc sọan thảo bản văn "Linh bát Hiến chương"(08 Charter) được nhiều nhân vật trí thức và nhà họat động có tên tuổi ở Trung quốc ký và công bố vào năm 2008, nhân kỷ niệm lần thứ 60 ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948 – 2008), đã khiến cho ông lại bị công an bắt giữ lần nữa và đem ra tòa án xét xử vào cuối năm 2009, và tòa đã đưa ra bản án xử phạt họ Lưu 11 năm tù giam với tội danh rất mơ hồ là :"Xúi giục lật đổ chính quyền nhà nước". Vụ đàn áp thô bạo này đã bị công luận thế giới chỉ trích mãnh liệt và nhiều nhân vật nổi danh trong nước cũng như quốc tế đã lên tiếng đòi trả tự do cho Lưu Hiểu Ba.


Và tiếp theo việc họ Lưu được cấp phát Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2010 vừa qua lại càng làm cho tên tuổi của ông được mọi người nhắc nhở tới. Đây là một sự kiện mà chính quyền Bắc kinh dù đã sử dụng mọi đòn phép chính trị bá đạo, thì cũng chẳng làm sao có thể ngăn cản hay bưng bít được nữa.


II – Giới thiệu tóm lược cuốn sách "Triết lý con heo"

Cuốn sách này là một tuyển tập các bài viết tiêu biểu của Lưu Hiểu Ba trong nhiều năm, mà có mấy bài viết mới nhất vào năm 2007 – 2008. Các bài này được sắp xếp trong 8 phần, mà ta có thể liệt kê ra mấy đề mục đáng chú ý như sau:

A/ Văn học: "Khủng hỏang! Văn học của thời kỳ mới đã lâm vào tình trạng khủng hỏang" (trang 57 – 87)
B/ Suy nghĩ triết học và chính trị ( trang 91 – 231).
Đặc biệt mục : "Triết lý con heo"(trang 147 – 177) tiêu đề này được chọn để làm nhan đề cho cả cuốn sách.
C/ Hệ thống chính trị và đời sống chính trị (trang 235 – 331)
Đặc biệt mục : "Nỗi băn khoăn về ý thức hệ của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ( trang 319 – 331)
D/ Những bài viết về một số sự việc cụ thể ( trang 355 – 413)
Đặc biệt mục : "Tuyên ngôn của những nông dân muốn đòi lại ruộng đất” ( trang 391 – 401).

Nói chung, tác giả họ Lưu đề cập đến nhiều lãnh vực, từ phê bình văn học đến suy nghĩ triết học về chính trị, và nhất là bày tỏ quan điểm dứt khóat về vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền và công lý xã hội. Các bài viết này biểu lộ sự hiểu biết sâu sắc của tác giả qua lối nhận định và phân tích sự kiện cụ thể với một nhãn quan bao quát, thông thóang và một lập trường kiên định tự tin vững vàng. Ta sẽ có dịp thảo luận chi tiết hơn trong các bài viết tiếp theo liên quan tới một số đề tài có tính cách căn bản trong một xã hội còn đang bị kềm kẹp bởi chế độ độc tài cộng sản, ở Trung quốc cũng như ở Việt Nam hiện nay.

Tiếp theo đây, người viết xin giới thiệu riêng về mục"Triết lý con heo” được tác giả trình bày trong 30 trang sách, và tiêu đề của bài này lại được nhà xuất bản lấy làm nhan đề chung cho tòan thể cuốn sách.


III – Triết lý con heo

Bài này được viết vào năm 2000, tức là 11 năm sau biến cố thảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng sáu năm 1989, mà tác giả lấy làm cột mốc cho sự đàn áp tàn bạo do giới lãnh đạo đảng cộng sản thực hiện nhằm dập tắt mọi ý chí vươn lên của lớp người yêu nước tiến bộ, đặc biệt là giới sinh viên trong công cuộc bảo vệ tự do, dân chủ và nhân quyền cho người dân Trung quốc.

Tác giả nhấn mạnh đến sự đồng lõa, thỏa hiệp của giới trí thức với chủ trương mê hoặc ru ngủ của nhà cầm quyền đương thời qua các chiêu bài "phải bảo vệ sự ổn định xã hội”, "phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu, "trở về với gốc rễ cội nguồn của văn minh Trung quốc"… để mà bỏ qua những đòi hỏi về tự do, công bằng xã hôi và phẩm giá của người công dân.

Ông thẳng thắn tố cáo tình trạng "tồi dở, tầm thường” (médiocrité) cả ở trong chính quyền, lẫn trong giới trí thức ưu tú của xã hội. Với giọng văn thật mạnh mẽ độc đáo, họ Lưu ghi nhận rằng: "Giới trí thức đang bị tha hóa vì cam tâm lãnh nhận những ân huệ vật chất và các tiện nghi thỏai mái do nhà nước cung ứng cho để đổi lại với sự im lặng làm ngơ trước sự nhũng lạm thối nát, sự đàn áp cướp bóc của cán bộ nhà nước đối với đa số quần chúng dân oan…”

Rõ ràng là đã có sự "bán linh hồn cho quỷ dữ', sự "tự ý ngoan ngõan đi vào cái chuồng heo” (porcherie) để được vỗ béo, yên thân mà quên đi cái nhiệm vụ phải luôn luôn thức tỉnh để cảnh giác công luận trước những sa đọa tàn bạo của nhà nước chuyên chính độc tài, phải bênh vực đa số quần chúng nạn nhân của sự áp bức bóc lột ở khắp nơi.

Dưới các tiểu đề mục như: "Sự yếu đuối của người bị trị đã sản xuất ra những người cầm quyền tồi dở” ( la faiblesse des gouvernés produit des gouvernants médiocres) và "Sự tồi dở nhất lọat đã phá vỡ tất cả" (La médiocrité homogénéisée a tout écrasé), họ Lưu đã thẳng thắn nêu ra cái sự nhục nhã của giới trí thức ưu tú (élites) là đã hèn kém cam tâm phủ phục trước những kẻ lãnh đạo tồi dở tầm thường hiện nay. Ông phát biểu dứt khóat : "Trên mảnh đất này, sự cao cả của tâm hồn và sự uyên bác thông tuệ không còn chỗ đứng nữa" (Sur cette terre, la grandeur d ‘âme et l’érudition n’ont pas leur place)

Vì bài mở đầu này có giới hạn, nên người viết sẽ trình bày chi tiết rõ ràng hơn trong các bài sau, khi thảo luận về từng vấn đề riêng biệt.

Nhân tiện, tác giả cũng xin ghi nhận sự biết ơn đối với anh chị Nguyễn Văn Tánh và Bạch Nhật cư ngụ tại Bruxelles Belgique đã cho đọc cuốn sách giá trị này, nhân chuyến anh chị đến tham dự cuộc Hội Ngộ do tạp chí Diễn Đàn Giáo Dân tổ chức tại miền Nam California vào mấy ngày đầu tháng Sáu năm 2011 vừa qua.

Costa Mesa, Trung tuần tháng Sáu 2011


LS. Đòan Thanh Liêm

BÀI THƠ TRỮ TÌNH CỦA LƯU HIỂU BA

Lời giới thiệu của dịch giả Nguyễn Huệ Chi:
Dịch giả Bùi Xuân Bách ở Boston có gửi một bài thơ chữ Hán của ông Lưu Hiểu Ba đến nhờ tôi dịch nhằm sử dụng vào một comment nào đó. Tuy phải dịch gấp để đáp ứng kịp yêu cầu của ông, tôi nghĩ, nếu bài thơ này được đăng trên BVN hẳn cũng có ích.

Lưu Hiểu Ba (trái) và vợ là Lưu Hà, tháng 10, 2002. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Nhận được bản dịch, ông Bách gửi tiếp cho vài bài khác và khuyến khích tôi dịch thêm. Tôi cố gắng và chật vật làm điều đó trong điều kiện thiếu bất kỳ một từ điển chuyên ngữ nào ở đây. Cuối cùng, với sự tận tình giúp đỡ tra cứu gián tiếp của ông Bách, công việc làm thêm ngoài dự kiến trong chương trình đến nước Mỹ lần này cũng tạm hoàn thành với không ít hứng thú.

Bởi lẽ, việc chú tâm dịch chỉ một vài bài thơ của Lưu Hiểu Ba bỗng giúp tôi nhận chân ra một điều: Các ngài ở Trung Nam Hải cố tình không hiểu giá trị của giải Nobel Hòa Bình dành cho ông Lưu là điều hoàn toàn không lạ. Dẫu cho miệng họ nói “hài hòa” lem lẻm nhưng tay họ lúc nào cũng lăm lăm khẩu súng chĩa ra biển Ðông, tàu chiến họ hung hăng gây sự với láng giềng hết từ Nam đến Bắc, và còn cố ý bênh che cho những tay đồ tể đàn em giết lén bà con thân thích; mắt họ lom lom canh chừng Tây Tạng, Tân Cương, Ðài Loan và nhiều khu vực khác đang có nguy cơ bất ổn...

Ðiều đó chứng tỏ những gì đã được “lập trình” từ lâu trong tiềm thức họ, xét cho cùng vẫn là sản phẩm kế thừa từ thời Hoàng đế họ Mao hoặc mấy mươi năm trước nữa - bao giờ mà chẳng ám ảnh rặt có mấy chữ bá chủ thiên hạ về cả quyền lực và tiền tài. Bá chủ bằng súng đạn, bằng dùi cui điện, bằng đồng tiền dự trữ tung ra mua vét đất đai và khoáng sản của vô số nước, và cả bằng hàng loạt sản phẩm công nghiệp giá rẻ bán đi khắp mọi nơi, trong đó một bộ phận rất kém chất lượng, thậm chí hết sức độc hại là dành cho các nước lân bang và ngay cả dân chúng nước họ.

Họ đang lo giở những trò bài tẩy đối phó với dân - cũng đang truyền cho đôi ba nhúm đồ đệ đó đây những ngón nghề tuyệt kỹ ấy - thì tâm hồn làm sao với tới tầm vóc trái tim nhân bản của con người tự do Lưu Hiểu Ba trong cảnh tù đày. Nói như danh sĩ Việt Nam Cao Bá Quát trong bài thơ Vịnh cái gông dài (Trường giang thiên) khi ông ngồi trong ngục Thừa Phủ năm 1841: “Gông dài, gông dài, mày biết ta chăng? Ta không có gì hợp với mày cả. Mày hiểu thế nào được ai phải ai trái! Mày chẳng qua chỉ là cái máy làm nhục người đời mà thôi...”


Khát vọng xa chạy cao bay (1) - Tặng vợ
Ném quách những tuẫn nạn cứ chập chờn trong trí
Anh thèm khát được nằm xuống dưới chân em
Ðó là khi đã gạt ra ngoài
nghĩa vụ duy nhất vấn vít mình với cái chết
Cũng là khi lòng anh như gương sáng
Hạnh phúc giữ bền lâu
Ngón chân em không tách lìa ra (2)
Một con mèo đến kề bên cọ thân sau của nó
Cứ tưởng anh muốn đuổi nó giùm em
Nó quay đầu
Hướng về anh vươn những chiếc móng sắc
Nơi đáy sâu đôi mắt xanh lè
Tưởng như có cả một nhà ngục
Nếu anh cứ mờ mắt bước qua
Thậm chí mới chỉ dợm một bước
Sẽ biến ngay thành một con cá.
(Nguồn: Bauxite Việt Nam)

Lưu Hiểu Ba, 12.8.1999

(Nguyễn Huệ Chi dịch)

Chú thích:

(1) Mấy chữ “xa chạy cao bay” chúng tôi mượn từ bản dịch trên trang mạng 360 plus, có chỉnh sửa cho đúng với thành ngữ xưa nay.
(2) Ngón chân em không tách lìa ra: Theo dịch giả Bùi Xuân Bách, có lẽ tác giả dùng biểu tượng này để chỉ trạng thái người phụ nữ chưa đến lúc hưng phấn cao độ. Ngày xưa phụ nữ bó chân, các ngón dính sát với nhau, chỉ đến lúc thật hưng phấn mới tõe hết ra.

Lưu Hiểu Ba, sĩ phu thời đại mới
Minh Đức


Năm 1989, khi vụ biểu tình tại Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc bị quân đội bắn vào, nhiều nhà báo, chính trị gia trên thế giới lên tiếng lên án vụ đàn áp này . Trong số các nhà báo Tây phương lên án Trung Quốc vi phạm nhân quyền thì có nhà báo bình luận rằng vụ bắn vào sinh viên sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến xã hội Trung Quốc vì văn hóa Trung Quốc có truyền thống trọng kẻ sĩ, nghĩa là những người trí thức. Một chính quyền bắn vào kẻ sĩ thì chính quyền đó sẽ bị người dân nhìn với con mắt ác cảm và sẽ sinh ra những sự chống đối về lâu về dài. Ký giả đó không nhìn sự việc với các giá trị của xã hội Tây phương mà dùng giá trị của văn hóa Trung Hoa để đánh giá vụ đàn áp Thiên An Môn.

Hai mươi năm qua, phong trào dân chủ tại Trung Quốc vẫn tồn tại và phát triển với các khuôn mặt đã từng tham gia cuộc biểu tình tại Thiên An Môn cho thấy lời tiên đoán của ký giả Tây phương kia là đúng. Lưu Hiểu Ba là một trong những người đó và những hoạt động của Lưu Hiểu Ba tượng trưng cho sự tranh đấu bền bỉ của sĩ phu Trung Hoa thời nay.

Cuộc đời của Lưu Hiểu Ba là sự tranh đấu liên tục cùng vớI tù đầy từ sau vụ biểu tình ở Thiên An Môn. Sau vụ biểu tình tại Thiên An Môn, Lưu Hiểu Ba bị tù hai năm từ 1989 cho đến 1991. Bốn năm sau, 1995, Lưu Hiểu Ba lại vào tù sáu tháng vì các hoạt động liên quan đến nhân quyền, dân chủ. Vài tháng sau đó, Lưu Hiểu Ba lại bị bắt đi cải tạo ba năm từ 1996 đến 1999 mới được tha về. Đến năm 2008, Lưu Hiểu Ba tham gia trong việc viết ra Hiến Chương 08, tuyên bố đòi hỏi dân chủ cho Trung Quốc và bị kết án tù mười một năm từ 2009 cho đến năm 2020.

Người ký giả Tây phương nói rằng giới sĩ phu đóng vai trò quan trọng trong xã hội Trung Hoa quả là am tường về lịch sử, văn hóa Trung Hoa. Nền văn minh Trung Hoa được sinh ra mà không có tôn giáo nào đi kèm. Tại Tây phương thì Thiên Chúa Giáo đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức để mọi người noi theo. Nền văn minh Ấn Độ thì có đạo Bà La Môn, nền văn minh Ả Rập thì có Hồi giáo dạy cho dân ăn ở cho có đạo đức. Còn tại Trung Hoa thì chính các Nho sĩ, tức là các sĩ phu làm công việc giáo dục cho dân ăn ở cho có đạo đức. Họ làm công việc mà các tu sĩ của các nền văn minh khác làm. Chính các tôn giáo ở các nền văn minh khác nhau và Nho giáo tại Trung Hoa đã thuần hóa quyền lực của các bậc vua chúa. Các nhà Nho đề ra tiêu chuẩn đạo đức cho nhà vua và đòi hỏi từ thiên tử cho đến thứ dân đều phải lấy tu thân làm gốc.

Gọi Lưu Hiểu Ba là con người của thời đại mới là vì Lưu Hiểu Ba đang tham gia vào việc hình thành một chế độ chính trị mới cho Trung Quốc. Trung Quốc trải qua một sự thay đổi chế độ chính trị vào cuối đời Chiến Quốc. Tần Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, thống nhất Trung Quốc và không cai trị theo lối chế độ phong kiến trước đó. Trước đó nhà vua cắt đất phong cho con cháu, họ hàng để thành các tiểu quốc phục tùng sự cai trị của nhà vua.

Chế độ này đưa đến việc các tiểu quốc thôn tính lẫn nhau. Tần Thủy Hoàng không cắt đất phong cho con cháu để cùng nhau cai trị Trung Quốc mà dùng quan lại do vua cắt cử đến các tỉnh để cai trị. Các quan lại này không nhất thiết là họ hàng nhà vua mà là bất cứ ai có tài năng. Như vậy nhà vua tập trung hết quyền hành vào tay mình và không còn nạn các tiểu quốc không vâng lời thôn tính lẫn nhau. Đây là chế độ quân chủ. Quân là vua, quân chủ là chế độ vua làm chủ. Không còn là chế độ phong kiến, phong hầu, kiến địa (phong hầu, cắt đắ) của thời trước nữa .


Nhưng sự hình thành chế độ quân chủ chưa hoàn thiện được khởi đầu dưới chế độ nhà Tần. Sau khi nhà Tần sụp đổ vì quá tàn ác, hà khắc, nhà Hán tiếp tục hoàn thiện chế độ quân chủ mà Tần Thủy Hoàng đặt ra. Nhà Hán dùng Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo nên đã thuần hóa quyền lực nhà nước, làm cho chính quyền trở nên khoan dung với dân hơn, không khắt khe, tàn ác như thời nhà Tần. Nho giáo tuy dạy dân trung thành với vua nhưng cũng đề cao đức nhân, nghĩa là lòng thương người, mà cả nhà vua cũng phải tôn trọng. Chế độ quân chủ này tồn tại y như vậy hàng ngàn năm từ năm 206 trước Công Nguyên cho đến khi nhà Thanh bị Tôn Dật Tiên làm cuộc Cách Mạng Tân Hợi, 1911, mớI chấm dứt.

Sau cuộc Cách Mạng Tân Hợi, Tôn Dật Tiên định thành lập chế độ cộng hòa nhưng rồi xảy ra tranh chấp Quốc Cộng đưa đến phe Cộng Sản thắng. Sau đó tại Hoa Lục và Đài Loan theo hai chế độ chính trị khác nhau. Mao Trạch Đông và những người cộng sản Trung Quốc tin rằng chế độ mình dựng nên sẽ là chế độ tiến bộ nhất, chế độ cuối cùng của loài người. Nhưng ngày nay chế độ mà Mao dựng lên đã phải thay đổi. Nhiều chính sách thời Mao ngày nay bị xóa bỏ. Như vậy chế độ chính trị mới tại Trung Quốc vẫn còn đang quá trình thành hình, nó chưa ngừng ở chỗ Mao cầm quyền, nó chưa đi đến chỗ hoàn thiện.

Những đòi hỏi về nhân quyền, các tiêu chuẩn về nhân quyền, tự do, dân chủ mà Lưu Hiểu Ba đưa ra trong bản Hiến Chương 08 chính là các biện pháp làm thuần hóa quyền lực của nhà nước. Các đòi hỏi phải có sự phân quyền trong chính quyền là để cho các viên chức chính quyền có đủ quyền lực để làm việc công nhưng không có quá nhiều quyền để đi đến chỗ bị lạm dụng, đàn áp dân, gây ra đau khổ cho dân.


Sĩ phu nghĩa là người dân có đi học, nghĩa là trí thức nhưng trong văn hóa Trung Quốc, sĩ phu cũng đi liền với các tiêu chuẩn đạo đức và cách hành xử theo đạo Nho. Sĩ phu là người đọc sách, không phải là loại người dùng đao kiếm nhưng không để ai dùng sức mạnh uy hiếp mình. Vì thế thái độ “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (nghèo hèn không làm đổi chí, uy vũ không làm khuất phục) là thái độ thường thấy nơi sĩ phu. Việc Lưu Hiểu Ba không sợ tù đày, từ 1989 cho đến nay, ông liên tục vào tù ra khám, rồi bị quản chế cho thấy người sĩ phu uy vũ bất năng khuất luôn luôn tồn tại trong xã hội Trung Quốc.

Tuy không dùng sức mạnh gươm đao, nhưng người trí thức Nho giáo có ảnh hưởng đến xã hội và chính quyền vì họ là người có kiến thức, họ đề ra được cách thức tổ chức xã hội mà người dân sống hòa thuận, tốt đẹp hơn là cách cai trị bằng bạo lực. Điều này không riêng gì văn minh Trung Quốc và tại các nền văn minh khác qui luật này cũng xảy ra. Vì thế mà Napoléon Bonaparte, một người tuy giỏi cầm quân nhưng cũng phải nói: “Trong sự tranh đấu giữa ngòi bút và lưỡi gươm, lúc đầu lưỡi gươm thắng nhưng về lâu về dài thì ngòi bút sẽ thắng”. Ngòi bút thì không thể dùng đấu với gươm nhưng ngòi bút tượng trưng cho sự hiểu biết về cách tổ chức xã hội cho có qui củ, cho có luật lệ.

Chế độ đảng trị tại Trung Quốc tập trung quá nhiều quyền lực vào tay nhà nước trong khi luật lệ thì không được nhà nước tôn trọng. Lưu Hiểu Ba và những người tranh đấu cho dân chủ đang hoàn thiện một nước Trung Hoa mới, vớI chính quyền được phân quyền để giảm bớt sự lạm quyền, người dân phải được bảo vệ không bị nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực mà hà hiếp. Những người này trong tay họ chỉ có ngòi bút mà thôi. Về lâu về dài, ngòi bút sẽ thắng.
www.rfanews.org/vietbbs/viewtopic.php?p=3270&sid.

No comments: