Friday, January 23, 2009

VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG


VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG




BIỂN VIỆT NAM SẮP...MẤTBIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG:ĐI TÌM SỰ THẬT SAU NHỮNG CHE GIẤU,Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông.



BIỂN VIỆT NAM SẮP...MẤT



Ngày 13 Tháng 5 Năm 2009 là thời hạn cuối cùng mà các Nước phải nộp bản đồ về lãnh hải của quốc gia mình cho Uûy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa của Liên Hiệp Quốc. Một nguồn tin cho biết, đa số các Nước trên thế giới có liên quan đến biển đều đã nộp và hoàn tất các thủ tục, kể các các quốc gia vùng Đông Nam Á cũng đều nộp bản đồ về lãnh hải của quốc gia họ, nhưng riêng nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì cho đến nay vẫn chưa thấy đệ nạp. Thông báo của Liên Hiệp Quốc đã có hơn 10 năm nay và thời hạn cuối cùng là ngày 13 tháng 5 năm 2009 là thời hạn chót.Nếu đến thời hạn chót mà Việt Cộng vẫn không đệ nạp thì Biển Việt Nam xem như bị mất hàng triệu m2 một cách cố ý và có hệ thống. Nên nhớ rằng biển bao gồm các hải đảo, tài nguyên thiên nhiên kể cả việc sinh sống đánh cá của hàng triệu ngư dân Nước Việt. Trong khi đó Trung Cộng đã không che dấu được ý đồ dùng sức mạnh xâm chiếm biển đông, bành trướng lãnh thổ, lãnh hải, đồng hóa các Nước nhược tiểu và làm bá chủ Đông nam á. Bất chấp các hòa ước, định ước quốc tế mà chính Trung Cộng đã ký kết kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đã ký với 118 quốc gia hội viên Liên hiệp quốc vào năm 1982.Việt Nam là một Nước đang bị Trung Cộng khống chế, xâm lấn một cách ngang ngược và thô bạo với sự đồng lõa cũa Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ bức công hàm của Phạm Văn Đồng ký ngày 4/8/1958, Trung Cộng đã đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, đánh chiếm Trường Sa năm 1988, đến hiệp định biên giới Việt Trung ký ngày 30/12/1999 đến hiệp định lãnh hải Việt Trung ký ngày 25/12/2000..v.v.. tất cả đều ký kết một cách bí mật mà ngay cả Quốc hội bù nhìn Việt Cộng cũng không được nghe , biết và quyết định. Từ đó Việt Nam đã mất đi ải nam quan, thác bản giốc, các địa danh và hàng ngàn cây số dọc theo biên giới. Riêng về lãnh hải Trung Cộng lại đưa ra thuyết Biển Lịch Sử hay lưỡi rồng từ thời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Minh Thành Tổ để nuốt trọn biển Việt Nam một cách trắng trợn.Thời hạn đệ nạp Bản đồ về biển đã gần kề. Cộng Sản Việt Nam kẻ đang quàng ách thống trị bạo tàn trên đất nước và dân tộc Việt Nam phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước lịch sử. Nếu khiếp nhược yếu hèn không dám dùng xương máu để chống lại bọn bành trướng xâm lược Bắc Kinh thì cũng phải thực hiện những nguyên tắc mà Công ước quốc tế đã quy định cho mổi quốc gia có chủ thể quyền lợi và tố quyền nhằm bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải một cách toàn vẹn.VNCH Foundationhttp://baotoquoc.com/index.php?view=story&subjectid=1850&chapter=1
http://blog.360.yahoo.com/blog-aCsJXiclbrLIqjvqik8yAHHG;_ylt=AgGQ7Cw8ERozQMv7gQyb5TmkAOJ3



Vũ Hải Đăng - ĐDCND
http://www.ddcnd.org/
(Trung Quốc tiến gần tới chiếm đoạt Biển Đông, Đảng Cộng Sản Việt Nam cắt Đất, nhượng Biển để giữ Chế độ).
Diều hâu Ẩn sau sự hữu hảo bề ngoài giữa bang giao hai nước, luôn có những âm mưu đen tối. Lịch sử Việt Nam có nhắc đến một sự việc như vậy, đó là mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ. Tương truyền, Trọng Thuỷ là "gián điệp" của Bắc Triều sang nước ta, được Vua An Dương Vương tin dùng, gả nàng Mị Châu làm vợ. Trọng Thuỷ ăn cắp kỹ nghệ chế tác vũ khí của nước Âu Lạc. Do đó mà quân của An Dương Vương đã để thua quân Triệu Đà, khiến cả Hoàng tộc bị giặc truy sát. Khi nàng Mị Châu và Vua cha chạy đến cùng đường (biển Nghệ An), Thần Kim Quy hiện lên nói: "Giặc ở ngay sau lưng nhà Vua đó".
An Dương Vương quay lại thấy nàng Mị Châu, hiểu ra sự việc, ông liền rút gươm chém đầu nàng, rồi ông tự vẫn. Đó là truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian. Tuy nhiên, có thể thấy câu truyện đó là hư cấu của sự kiện có thật trong lịch sử. Qua đó chúng ta thấy bọn Bắc Triều luôn mang dã tâm xâm lược, thôn tính nước ta, chúng luôn theo đuổi chiến lược diều hâu. Lịch sử Đảng CSVN tô hồng chiến công "giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước", bên cạnh đó họ ca ngợi Liên Xô, Trung Quốc là những đồng minh, những người bạn tốt nhất của cách mạng Việt Nam..! Những cuộc "đi đêm" giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, những ký kết cắt đất, nhượng biển giữa hai nhà cầm quyền Cộng sản, và những phi vụ "gián điệp", "mua chuộc" giới lãnh đạo mà Trung Quốc tiến hành ở Việt Nam v.v… tất cả đều bị sử Đảng xóa dấu vết, chúng được đánh bóng thành những lời đường mật về "16 chữ vàng" và "4 tốt"…
Mang đất đai, biển cả của Tổ tiên dâng cho ngoại bang, hoặc vì nhu nhược ươn hèn mà để mất đất đai, biển cả vào tay giặc, thì sử sách sẽ ghi tên những kẻ đó vào tội bán nước, phản quốc. Và con cháu đời đời sẽ bêu rếu tên bọn chúng, như đã bêu rếu: Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, và nay là Đỗ Mười, Lê Đức Anh… Biển Đông Nhóm lãnh đạo chóp bu: Nguyễn Tấn Dũng, Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng tiếp tục mắc mưu Trung Quốc, họ ham mồi nên đã mắc câu: Sự kiện Công an Cộng sản Việt Nam đàn áp phong trào yêu nước của giới Trí thức, Học sinh, Sinh viên và Văn nghệ sĩ: đe dọa, bắt bớ những người tham gia biểu tình chống Trung Quốc hồi cuối năm 2007, đầu năm 2008. Gần đây, bức xúc trước việc Trung Quốc gây sức ép buộc Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ và BP của Anh phải rút khỏi dự án hợp tác với Việt Nam khai thác dầu khí ở vùng biển Trường Sa. Tiếp đó, Trung Quốc công bố "dự án vĩ đại" thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng nước sâu ở Biển Đông của Việt Nam trị giá gần 30 tỷ USD, nhiều người dân Việt Nam đã bày tỏ sự bức xúc, căm phẫn, kêu gọi sự đồng thuận toàn dân trước nguy cơ mất nước, nhưng họ không nhận được sự đồng tình, ủng hộ nào từ phía Nhà nước Cộng sản Việt Nam, ngược lại, họ đã bị sách nhiễu, đe dọa, thậm chí bắt bớ giam giữ. Nhiều người dự đoán sau Olympic Bắc Kinh, Trung Quốc sẽ "rảnh tay" để tiến xuống phía Nam . Sự thật là Cộng sản Việt Nam biết được âm mưu đó của Bắc Triều, họ thực hiện một loạt chuyến ngoại giao con thoi sang Mỹ, EU, Nga, Ấn Độ, và các nước Đông Nam Á, nhằm tăng cường hợp tác quân sự, tìm kiếm sự ủng hộ của các nước này đối với vấn đề Biển Đông. Trong lần đến thăm Việt Nam của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Negroponte, khi trả lời Báo chí liên quan đến vấn đề Biển Đông và sự tham gia hợp tác khai thác dầu khí của các công ty Mỹ, Thứ trưởng Negroponte cho rằng: "Chúng tôi tin những tranh chấp như thế này phải được xử lý hòa bình, theo những cách thức không đưa đến việc chiếm đoạt", ông Negroponte nhấn mạnh. Sự ủng hộ đó của Mỹ không đủ cứu Việt Nam, vì nhóm lãnh đạo chóp bu trong Đảng CSVN đã mắc mưu Trung Quốc, một âm mưu thâm độc đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng CSTQ liên tục thực hiện, đó là mưu kế "Rút củi đáy nồi": gián điệp, mua chuộc, phân hóa tiến tới làm tan rã Đảng CSVN, làm suy yếu nước ta, tạo thời cơ cho việc chiếm đoạt mọi nguồn lợi trên Biển Đông và tài nguyên quốc gia của Việt Nam. Mọi sự kiện đã nói lên tất cả. Khách biến thành Chủ Bằng chứng lịch sử và Cơ sở pháp lý để xác định chủ quyền quốc gia, điều này có nghĩa lý gì khi chúng ta yếu: lý lẽ thuộc về kẻ mạnh, nó chỉ dùng trong trường hợp cần sự phân xử từ một nước, hay một thế lực trung gian. Còn trong cuộc đối đầu giữa dân tộc ta và ngoại xâm phương Bắc từ hàng ngàn năm nay, chỉ có một nguyên tắc duy nhất được cha ông ta áp dụng, đó là: "Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông của Tổ tiên để lại mà đút mồi cho giặc, thì tội phải tru di - Lê Thánh Tông".
Do cách tuyên truyền mị dân của Nhà nước Cộng sản Việt Nam , nên nhiều người nghĩ rằng "Các chiến sĩ hải quân Việt Nam vẫn vững tay súng, bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đất liền luôn hướng tới Trường Sa, gửi gắm các anh những tình cảm yêu thương, chia sẻ, động viên…". Họ quên mất rằng, chủ quyền quốc gia phải là quá trình xác lập, khẳng định liên tục qua hoạt động Kinh tế, Ngoại giao và Quân sự. Một nhà nghiên cứu đã viết: Trung Quốc đã tổ chức thăm dò ở các vùng biển sát thềm lục địa (và nằm trong vùng đặc quyền) của Việt Nam , đơn phương công bố dự án khai thác dầu khí ở vùng nước sâu trên Biển Đông với trị giá lên tới 29 tỉ USD. Trên thực tế, họ đã từng bước thiết lập chủ quyền tại đây, dù không có cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử. Đó là chính sách "Tằm ăn lá dâu" (lấn chiếm dần đến hết) mà Trung Quốc đã thực hiện rất tốt.




Chúng ta thử hình dung: Trung Quốc từng bước cho xây dựng các Giàn khoan trên Biển Đông, với sự bảo vệ của nhiều Tàu chiến, trước sự phản ứng yếu ớt của Việt Nam, các Giàn khoan đó mọc lên sừng sững, tung bay phất phới cờ đỏ sao vàng Trung Quốc. Lúc này, Khách biến thành Chủ, họ kẻ xâm lược, ngang nhiên dẫm đạp trên linh hồn Tổ tiên ta, còn chúng ta, đứng trên mảnh đất thiêng liêng của Tổ tiên mà như đứng trong phòng Khách của người láng giềng Trung Quốc. Các Ngư dân Việt Nam nếu vô tình "xâm phạm" lãnh hải do Trung Quốc chiếm đoạt, nơi mà cha ông ta vẫn thường xuyên qua lại và đánh bắt hải vật, nơi biết bao người con Việt Nam đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, nơi linh hồn Tổ tiên ta còn nằm lại cùng biển cả mênh mông, thì họ bị đối xử bằng bạo lực, bằng súng đạn của kẻ thù. Cái chết đến với họ rất đau đớn. Nhưng cái chết đó khiến người sống còn đau đớn hơn gấp nhiều lần. Tất cả đều bị Lịch sử Đảng CSVN, bộ máy tuyên truyền của Đảng CSVN bưng bít, giấu giếm. Họ đã giấu đi một sự thật lịch sử, rằng Đảng CSVN chưa bao giờ Thống nhất trọn vẹn giang sơn bờ cõi.





Hoàng Sa, Trường Sa và một phần biên giới phía Bắc đang bị lấn chiếm dần, và trên thực tế đã thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc. Trên mặt trận tuyên truyền, tâm lý chiến, Trung Quốc đã thắng Việt Nam , họ ghi điểm rất ngoạn mục. Chiến lược ngoại giao diều hâu của Trung Quốc Ngoại giao Chính trị, Trung Quốc mua chuộc, phân hóa được giới lãnh đạo Việt Nam . Ngoại giao Kinh tế, Trung Quốc khống chế, chi phối, lũng đoạn nền Kinh tế Việt Nam . Ngoại giao Văn hóa, Trung Quốc thực hiện chiến lược "Hán Hóa" và "Nô dịch tư tưởng" thông qua phim ảnh, văn học - nghệ thuật… Đảng, chính quyền Cộng sản Việt Nam cùng với quân đội của nó sẽ gục ngã, tan rã nhanh chóng trước sức mạnh của Đế chế Cộng sản Trung Hoa, nếu nó không biết dựa vào sự đoàn kết, đồng thuận toàn dân. Sự thật, con diều hâu Trung Quốc đang quắp móng vuốt vào đất mẹ Việt Nam, dòng máu căm hờn đang chảy sôi sục trong trái tim Việt Nam . Hành động bán rẻ chủ quyền quốc gia, danh dự Tổ Quốc, tự trọng Dân tộc của Cộng sản Việt Nam là không thể biện minh được, nó chỉ có thể được giải thích rằng: Bọn quan chức đội lốt Cộng sản, phản bội Chủ nghĩa Mác, làm tay sai cho Bắc Triều, bọn chúng cần giữ Chế độ này, giữ Đảng CS hơn giữ Nước. Ngược lại, Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã phản bội lý tưởng Cộng sản. CNXH đặc sắc Trung Quốc thực chất là Chủ nghĩa Dân tộc cực đoan, Chủ nghĩa Bá quyền nước lớn, theo đuổi chính sách diều hâu: ăn cướp, bòn rút, bắt nạt các nước yếu. Bi kịch của Dân tộc Việt Nam bắt đầu từ đây, một Học thuyết với tên gọi "Quốc tế Vô sản" (Tinh thần Vô sản quốc tế). Khi truyền vào Trung Quốc nó bị "Hán Hóa", được Mao Trạch Đông giải thích thành "Thuyết Ba Thế giới". Đặng Tiểu Bình kế thừa và phát triển thành "Thuyết Đông-Tây Nam -Bắc" trong bối cảnh mở cửa hội nhập. Nếu như Thuyết Ba Thế Giới phân thế giới làm ba: Những nước giàu, nước nghèo và những nước đang thoát nghèo để đi lên khá giả, trong đó có Việt Nam . Còn Thuyết Đông-Tây Nam -Bắc thì phân thế giới theo địa lý: Phương Bắc giàu có, Phương Nam nghèo đói. Phương Tây là các cường quốc phát triển, còn Phương Đông là các nước đang phát triển.




Có thể thấy, Trung Quốc đã loại bỏ đối đầu Ý thức hệ giữa "hai phe", họ sẵn sàng quan hệ với tất cả các nước, tất cả vì mục tiêu phát triển, vì lợi ích quốc gia. Tư tưởng Đặng Tiểu Bình đã vượt qua Chế độ Xã hội và Hình thái ý thức Xã hội: "Xét về quan hệ ngoại giao, chủ yếu cần xuất phát từ bản thân lợi ích chiến lược của nước mình… Không nên so đo, e ngại về sự khác biệt trong Chế độ Xã hội và Hình thái ý thức Xã hội". Vậy là xét về bản chất, chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Việt Nam là: "Vừa kết bạn, vừa không quá thân, không liên minh, cũng không thù địch". Trung Quốc không đứng đầu một Khối đồng minh nào, tự họ trở thành một cực trong Thế giới đa cực. Trên bàn cờ Ngoại giao Trung Quốc, Việt Nam có ý nghĩa khá quan trọng, nước ta là "Tấm lá chắn đỏ" ngăn chặn Trào lưu Dân chủ hóa từ phương Nam , là bàn đạp để Trung Quốc tiến xuống Đông Nam Á. Trung Quốc đã vờn cho Việt Nam mệt nhoài, lúc thì vuốt ve, lúc thì dùng vũ lực, vừa không cho Việt Nam có cơ hội thân phương Tây để phát triển, vừa khiến Việt Nam phải lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, dẫn đến tình trạng trì trệ kéo dài ở nước ta, làm cho đất nước ngày càng tụt hậu so với Trung Quốc và Thế giới.




Sau 30 năm Trung Quốc cải cách mở cửa và theo đuổi chiến lược ngoại giao diều hâu, họ đã đạt được những thành công lớn. Giờ đây, Việt Nam không còn là đối thủ xứng tầm, đã tụt hậu quá xa, sự chênh lệch về trình độ phát triển, về Kinh tế và Quốc phòng của Việt Nam so với Trung Quốc đủ lớn để họ tiếp tục thực hiện giai đoạn hai của chiến lược diều hâu, đó là "Tiến vào Biển Đông, kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á, tạo thế ảnh hưởng đối trọng với Mỹ và Nga". Con bồ câu Cộng sản Việt Nam vẫn còn bàng hoàng sửng sốt, họ không hiểu vì sao Trung Quốc, một quốc gia cùng theo lý tưởng XHCN, từng đứng về phe Cộng sản, lại trở mặt xưng bá Thiên Hạ, quay lại ăn hiếp, bắt nạt người anh em nhỏ bé cũ. Trói buộc Ý thức hệ làm giảm sức mạnh Dân tộc "Vì Tổ quốc Việt Nam XHCN", đây là một câu khẩu hiệu hết sức phản động. Tổ quốc Việt Nam ta, nơi quê cha đất mẹ, một đất nước có bề dày lịch sử văn hóa hàng ngàn năm. Còn cái gọi là XHCN, hay CNXH khoa học Mác - Lênin, đó chỉ là một Học thuyết ra đời cách đây chưa đầy 200 năm tại Châu Âu, nó chỉ tồn tại trên giấy tờ, chứ chưa bao giờ xuất hiện trên cõi đời. Từ khi Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ, nước ta tuy vẫn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc, nhưng chưa bao giờ bị lệ thuộc vào Ý thức hệ Trung Hoa. Cha ông ta luôn tạo cho mình một ý thức dân tộc mang bản sắc riêng. Thời Nhà Lý, Vua Lý Thánh Tông đặt Quốc hiệu Đại Việt, có ý muốn nước Nam ta sánh ngang hàng với Đại Tống ở phương Bắc.




Thời Nhà Trần, Vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại Yên Tử, sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm mang bản sắc Đại Việt… Sống bên cạnh một nước đầy tham vọng như Trung Quốc, cha ông ta đã khéo léo vận dụng sách lược mềm dẻo, nhưng kiên quyết trong những vấn đề mang tính nguyên tắc: tiếp thu có chọn lọc Văn minh và Ý thức hệ Trung Hoa, tạo dựng bản sắc Văn hóa Đại Việt, nhờ đó đã giữ vững biên cương phía Bắc, mở rộng bờ cõi xuống phương Nam, và tiến ra Biển Đông. Ý thức hệ Trung Hoa, coi Vua (Hoàng Đế) là Thiên Tử, quyền lực Hoàng Đế lớn như Trời (Thiên Triều). CNXH đặc sắc Trung Quốc, thực chất là một biến tướng của Chủ nghĩa Mác, nó đã bị Hán Hóa, được biểu hiện ra với đầy đủ bản chất tư tưởng Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và Ý thức hệ Trung Hoa. Trung Quốc đã biến hình thành Chủ nghĩa Bá quyền, Đế quốc Thực dân kiểu mới, con quái vật ghê sợ đó đang hút máu, bóc lột tận xương tủy các dân tộc bé nhỏ ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh. Bọn Bá quyền Trung Quốc trói buộc các dân tộc mà nó xâm chiếm vào một "quỹ đạo" chết người, quỹ đạo của sự Độc tài, Lệ thuộc, Trì trệ và yếu nghèo mà Việt Nam là một ví dụ điển hình. Trong mỗi chuyến đi Ngoại giao sang Trung Quốc, các nhà Lãnh đạo của Việt Nam luôn nhận được lời căn dặn, đúng hơn là lời đe dọa: "Trung Hoa - Việt Nam , Sơn Thủy Tương Liên, Văn Hóa Tương Thông, Lý Tưởng Tương Đồng, Vận Mệnh Tương Quan". Lý Tưởng Tương Đồng, Vận Mệnh Tương Quan, ở đây là Lý tưởng XHCN và Vận mệnh của hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam . Một lời đe dọa trắng trợn, ý nói sự tồn vong của Đảng CSVN phụ thuộc vào Đảng CSTQ, Trung Quốc mà đổi màu, thì Việt Nam cũng đổi màu theo.



Thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc Trung Quốc tiến gần tới chiếm đoạt Biển Đông, Cộng Sản Việt Nam cắt Đất, nhượng Biển để giữ Chế độ. Bất cứ ai chống Trung Quốc xâm lược là chống Đảng CSVN. Sự thật là những người biểu tình chống Trung Quốc đều bị kết tội gây rối, bị chụp mũ là có thế lực bên ngoài kích động, lợi dụng. Người dân có quyền được nói lên chính kiến của mình, có quyền được biết, được đòi hỏi sự công khai, minh bạch về đường lối, chủ trương của Nhà nước đối với vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa. Nhưng họ chỉ nhận được sự im lặng đáng sợ. Không ai biết những cuộc "đi đêm" giữa hai Chính quyền Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc sẽ dẫn đến tấn thảm kịch ghê sợ như thế nào, tương lai của Dân tộc Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam sẽ ra sao, và việc mất nước có phải chỉ còn là vấn đề thời gian? "Giặc ở ngay sau lưng nhà Vua đó", câu truyện lịch sử này nhắc chúng ta ghi nhớ, cảnh giác trước âm mưu thâm độc của ngoại xâm phương Bắc, tỉnh táo trước chiến lược diều hâu của Bắc Triều. Chúng ta đang đứng trước nguy cơ mất nước từ chính giặc nội xâm: Phe thân Tàu trong Trung ương Đảng CSVN và các Gián điệp Trung Quốc cài cắm tại Việt Nam. "Quân đội ta Trung với Đảng", lời thề này không có ý nghĩa gì trong thời điểm hiện nay, khi mà Đảng CSVN đã đưa đất nước đi vào quỹ đạo lệ thuộc bởi Trung Quốc, bị trói chặt vào đó. Muốn thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc, Việt Nam không còn con đường nào khác, ngoài con đường Dân chủ hóa. Việt Nam, ngày 18-12-2008VŨ HẢI ĐĂNG - ĐDCNDWalmart






‘Cần đoàn kết’ trong chuyện Biển Đông



Các lãnh đạo cười tươi, nhưng một số nước trong ASEAN đang tranh chấp ở Biển ĐôngMột nhà nghiên cứu châu Âu nói với BBC rằng các nước Đông Nam Á cần biết hợp tác để đưa ra quan điểm chung trước Trung Quốc trong vụ tranh chấp tại Biển Đông.Tuần qua, Trung Quốc công khai tỏ ý không hài lòng khi công ty Mỹ Exxon Mobil muốn hợp tác với PetroVietnam để thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa còn tranh chấp.Tiến sĩ Albrecht Rothacher, hiện làm ở Phái bộ Ủy hội châu Âu tại Vienna, từng viết bài “Territorial sovereignty in the South China Sea” (Chủ quyền lãnh thổ ở Biển Nam Trung Hoa) trên tạp chí Asia Europe Journal năm 2007.Trả lời BBC ngày 23/07, ông nói cảnh báo công khai của Trung Quốc với Exxon đã làm ông ngạc nhiên.Albrecht Rothacher: Thật ngạc nhiên vì người ta nghĩ rằng trước Thế vận hội, Trung Quốc sẽ rất “hiền lành” và không khơi ra các tranh chấp lãnh thổ. Họ cũng có vẻ đã đồng ý nguyên tắc khảo sát biển Nam Trung Hoa trong hòa bình. Nhưng bây giờ họ đã hâm nóng nhiệt độ.Trung Quốc chưa bao giờ có nhượng bộ trong các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ, dù là với Nga, Ấn Độ hay Việt Nam. Lần này chỉ là nhắc lại những tuyên bố chủ quyền trước đây. Tôi chỉ ngạc nhiên về chuyện thời gian, tại sao lại là bây giờ mà không phải sau Olympic.BBC:Khi đánh giá toàn bộ tranh chấp ở Biển Đông, ông thấy có giải pháp trọn vẹn không?Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra được bằng chứng vững chắc về chủ quyền. Họ bảo từ thời xa xưa đã có người Trung Quốc ở đó, họ trưng ra một số vật dụng mà ngư dân bỏ lại trên một số đảo. Nhưng dĩ nhiên các ngư dân có thể bỏ lại bất kỳ thứ gì, trong các chuyến đi biển, trên những hòn đảo không người ở và điều đó không chứng tỏ được chủ quyền. Nên rất khó chứng thực đòi hỏi của Trung Quốc, kéo dài 2000 cây số từ đảo Hải Nam về phía nam, tiến tới cả vùng biển của Indonesia. Theo tiêu chuẩn quốc tế, đòi hỏi như thế là quá đáng.Về giải pháp, dĩ nhiên có thể thương lượng, nhưng Trung Quốc không bao giờ chịu thương thượng. Thành ra giải pháp đành là cứ để yên các tuyên bố chủ quyền như hiện tại, lên án mọi phương thức bạo lực và đồng ý cùng khảo sát và chia sẻ tài nguyên với nhau, đồng ý cùng bảo vệ môi trường tại đây.BBC:Liên hiệp châu Âu và Hoa Kỳ có sự quan tâm thế nào đến vấn đề Biển Đông?Cho tới nay, họ chủ yếu quan tâm tới tự do đi lại cho các tàu trên biển. Nhưng nay dính đến quyền lợi của Mỹ, vì vụ ExxonMobil. Vì thế, Mỹ cũng có quyền lợi để muốn xung đột được giải quyết yên bình, có thể có một hình thức phân xử nào đó của quốc tế.BBC:Liệu có thể xảy ra việc Hoa Kỳ gây sức ép nào đó với Trung Quốc?




Trung Quốc thì muốn chia nhỏ từng bên ra, đe dọa từng nước riêng rẽAlbrecht RothacherVẫn còn quá sớm để nói. Đây chưa phải là một cuộc xung đột rõ rệt. Phản ứng của Trung Quốc, so với những gì mà ta đã biết về họ, vẫn còn là khá nhẹ nhàng.BBC:Ở góc độ cá nhân, ông có cho rằng Trung Quốc đang kéo dài thời gian. Một khi họ trở nên thực sự mạnh hơn, những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ cũng sẽ mạnh mẽ hơn?Chắc chắn rồi. Chiến lược của họ lâu nay là thế, dù là với Đài Loan hay các tranh chấp khác.BBC:Vậy theo ông, các nước nhỏ như Việt Nam hay Philippines làm gì để đối phó?Họ có thể hợp tác, trước tiên giải quyết các tranh chấp song phương với nhau. Cho tới nay, tất cả các bên, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Philippines, cùng tranh với nhau. Nên nếu các bên có một quan điểm chung, có thể chia phần công bằng cho nhau, trong đó có cả phần cho Trung Quốc, thì rất có ích. Điều đó mở đường cho một sự trung gian của quốc tế, có thể là của Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc thì muốn chia nhỏ từng bên ra, đe dọa từng nước riêng rẽ.




CÁC BÀI LIÊN QUAN


Trung Quốc xác nhận đã ép Exxon22 Tháng 7, 2008 Việt Nam

Việt Nam lên tiếng về Hoàng Sa10 Tháng 12, 2007 Chuyên đề


Chuyên đềTrung Quốc ép công ty dầu lửa Mỹ20 Tháng 7, 2008

Việt NamViệt Nam trước sức ép từ Trung Quốc22 Tháng 7, 2008 Việt Nam


Mỹ tăng cường hợp tác quân sự15 Tháng 7, 2008 Việt Nam





Trao đổi với báo giới sáng 12/9 tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Negroponte cho rằng: Mọi tranh chấp trên Biển Đông phải được giải quyết hòa bình, theo Luật Biển Liên Hợp Quốc (LHQ) theo những cách thức không đưa đến việc chiếm đoạt.Đây là lần đầu tiên sau 35 năm ông John Negroponte trở lại Việt Nam. Bằng vốn tiếng Việt lưu loát, giọng miền Nam chuẩn, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ bày tỏ thái độ lạc quan về triển vọng quan hệ Mỹ - Việt.



"Lý do làm cho tôi lạc quan, đó là hai nước đã trải qua một cuộc chiến tranh cay đắng và khó khăn. Nhưng cả hai bên đều quyết tâm thúc đẩy mối quan hệ tích cực trong tương lai, có thiện chí xây dựng mối quan hệ hợp tác thân thiện".Ảnh: Phạm Hải"Không đưa đến việc chiếm đoạt"Trả lời câu hỏi của phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân liên quan đến vấn đề Biển Đông và sự tham gia hợp tác khai thác dầu khí của các công ty Mỹ,



Thứ trưởng Negroponte cho rằng các nước có tranh chấp giải quyết với nhau theo Luật Biển của Liên Hợp Quốc."Chúng tôi tin những tranh chấp như thế này phải được xử lý hòa bình, theo những cách thức không đưa đến việc chiếm đoạt", ông Negroponte nhấn mạnh.Những tranh chấp như thế này phải được xử lý hoà bình, theo những cách thức không đưa đến việc chiếm đoạt. Các công ty Mỹ có đủ quyền tham gia hợp tác dầu khí với VN



Thứ trưởng Ngoại giao NegroponteÔng Negroponte cũng cho rằng: "Những công ty Mỹ có đủ quyền tham gia hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam".Về đối thoại nhân quyền, Thứ trưởng Mỹ cho rằng hai nước sẽ tiếp tục thảo luận trong bối cảnh quan hệ hai nước ngày càng phát triển, được cải thiện thân thiện hơn.Theo Thứ trưởng Negroponte, Việt Nam đã có nhiều thay đổi với nền kinh tế tăng trưởng tốt từ 7-8%/năm trong suốt một thập kỷ qua. Việt Nam đã làm nên sự kỳ diệu về phát triển kinh tế, thoát khỏi đói nghèo và người dân có không gian, cơ hội rộng rãi để phát triển cá nhân.


Ảnh: Phạm HảiLiên quan đến việc triển khai giải khoản hỗ trợ 3 triệu USD tẩy độc dioxin và trợ giúp con người, ông Negroponte cho biết trong các cuộc làm việc với quan chức Chính phủ Việt Nam, hai bên thống nhất trước mắt sẽ tập trung vào những khu vực ưu tiên như Đà Nẵng và tiến hành trao đổi chuyên gia.



"Tôi hài lòng về sự hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam liên quan đến vấn đề da cam/dioxin, MIA, rà phá bom mìn đang diễn ra tốt đẹp. Hai nước đối thoại và hoạt động tích cực, theo tinh thần xây dựng".Kết nối công ty Mỹ và trường ĐH ViệtThứ trưởng khẳng định: "Mỹ đặt mục tiêu làm sâu sắc mối quan hệ kinh tế, thương mại và mở rộng sự hợp tác trong lĩnh vực ngoại giao với Việt Nam nhằm tăng cường hòa bình, ổn định trong khu vực".Giáo dục là một trong những lĩnh vực hợp tác được ưu tiên cao. Theo ông Negroponte, trong tuần tới, nhóm đặc trách về giáo dục giữa hai nước sẽ nhóm họp để thảo luận phương cách hợp tác, thực hiện mục tiêu gia tăng số lượng sinh viên Việt Nam theo học ở Mỹ và sinh viên Mỹ học ở Việt Nam, tăng cường trao đổi giữa các trường đại học của hai nước."Mỹ cũng sẵn sàng kết nối các công ty của Mỹ và các trường đại học của Việt Nam để giúp cho sinh viên tốt nghiệp tìm được công việc thích hợp, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, mở trường đại học của Mỹ tại Việt Nam".




Tranh chấp biển Đông: Thử tìm một giải pháp có lợi cho Việt NamNhân vụ ExxonMobil, thử tìm một giải pháp có lợi cho Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp hải phận Biển Đông và chủ quyền các đảo Trường Sa với Trung Quốc và các nước.Tháng 7 năm 2008, tranh chấp chủ quyền biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc qua vụ ExxonMobil đã bước vào một giai đoạn vừa tế nhị lại vừa có tính quyết định. Tế nhị vì cho dầu biểu lộ những lập trường hết sức cứng rắn, hai bên đều không muốn (hay không thể ?) để việc tranh chấp trở thành một cuộc xung đột quân sự. Và có tính quyết định vì qua vụ tranh chấp, lập trường pháp lý cơ bản của hai bên cho thấy hiện hữu một giải pháp tạm thời, có thể có lợi cho phía Việt Nam trong trung hạn để khai thác dầu khí.Trở lại vụ ExxonMobil : Đại công ty ExxonMobil của Hoa Kỳ đã ký thỏa ước khung về khai thác dầu khí với PetroVietnam nhân chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm cuối tháng 6 năm 2008. Theo một thông cáo mới đây của tập đoàn này, hai phía đã có những hợp tác từ nhiều năm trước nhằm mục đích xác định các dự án có tiềm năng và hiện nay hai bên đang cùng đánh giá sơ bộ về kỹ thuật và kinh doanh một số vị trí ở ngoài khơi [1]. Thông cáo của ExxonMobil cho thấy các lô được nhượng quyền khai thác cho tập đoàn này đã được xác định là « có tiềm năng » (nhưng tiềm năng ước lượng là bao nhiêu thì không thấy nói !) và bắt đầu bước vào giai đoạn khai thác. Vị trí các lô này chưa được công bố cụ thể. Theo tuyên bố phía Việt Nam thì các lô này nằm trong « vùng kinh tế độc quyền » của Việt Nam, tức nằm trong vòng 200 hải lý (khoảng 370km) tính từ đường cơ bản

[2]. Theo bản đồ công bố trên một số trang web thì ExxonMobil khai thác 2 vùng : một vùng ở phía nam cửa vịnh Bắc Việt, thuộc bãi trầm tích sông Hồng và một vùng giao tiếp ở phía nam của bãi Phú Khánh, phía Bắc của bãi Nam Côn Sơn. Theo tin tức ở một số báo chí thì vùng này thuộc vùng biển Trường Sa, là nơi hiện đang có tranh chấp giữa nhiều nước.Lập tức phía Trung Quốc lên tiếng phản đối Việt Nam đồng thời hăm dọa ExxonMobil nếu không rút đi thì sẽ dùng những « biện pháp mạnh ». Theo tin báo chí trong vùng đăng ngày 23 tháng 7 thì Trung Quốc đã bắn súng hăm dọa nhân viên của ExxonMobil trên dàn khoan ở vị trí khai thác. Phía Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã xâm phạm « chủ quyền lãnh thổ » của Trung Quốc. Chỉ vài tháng trước, cũng vì sự hăm dọa của Trung Quốc, tập đoàn BP của Anh Quốc đã phải ngừng một số dự án khai thác và thăm dò dầu khí tại các lô mang số 5.2, 5.3, đặc biệt dự án đặt ống dẫn khí trị giá khoảng 2 tỉ đôla từ đây vào đất liền. Phát ngôn nhân của BP, ông David Nicholas, nói rằng hãng này thấy rằng "nên ngừng kế hoạch khảo sát địa chấn tại lô 5.2 để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề". Được biết vùng khai thác của BP (lô 5.2 và 5.3) vẫn còn trong vùng kinh tế độc quyền của Việt Nam, cách đường cơ bản 350km.Trước mắt mọi người (thế giới), thái độ của Trung Quốc cực kỳ ngang ngược. Nhưng không phải việc này chỉ thể hiện mới đây. Nước này, công bố năm 1949, bộ bản đồ xác định biển nội địa của Trung Quốc – tức tấm bản đồ 9 gạch - cho thấy rõ rệt tham vọng bành trướng của họ. Qua đó họ ngang nhiên dành toàn bộ biển Đông, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, mà không theo một tiêu chuẩn lịch sử hay pháp lý nào. Ở nhiều nơi, đường xác định nội hải của Trung Quốc chỉ cách bờ biển VN, Phi, Mã Lai khoảng 100km. Đường xác định này cũng bao gồm luôn đảo Natuna, phía nam Trường Sa, thuộc chủ quyền của Nam Dương. Không một quốc gia văn minh nào có thể công nhận thái độ ngang ngược này của Trung Quốc vì nó không theo một tập quán hay luật lệ quốc tế nào. Riêng các nước bị Trung Quốc lấn lướt nhận thấy có nhu cầu đoàn kết lại, nay đều thuộc Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam cũng thuơng thuyết gia nhập từ năm 1992.Tháng 6 năm 1996, Trung Quốc ký thông qua bộ luật Quốc Tế về Biển 1982 đồng thời công bố các vùng biển « lãnh địa hải phận », mer territoriale, VN gọi là « lãnh hải[3] », vùng tiếp cận zone contigue và vùng kinh tế độc quyền zone économique exclusive. Dịp này Trung Quốc công bố hệ thống đường cơ bản, trong đó có tập hợp 29 điểm xác định đường cơ bản cho vùng biển Hoàng Sa (13 điểm) và Trường Sa (16 điểm). Tọa độ các điểm được xác định theo phụ lục đính kèm. Ta thấy Trung Quốc áp dụng luật biển 1982 cho các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dành cho hai quần đảo này một vùng biển rộng lớn, gồm các vùng biển « lãnh địa hải phận », thềm lục địa và « vùng kinh tế độc quyền », bao gồm phần lớn biển Đông.Chương V của Công Ước Quốc Tế Montégo Bay 1982 xác định vùng « kinh tế độc quyền ». Theo đó một nước cận biển có thể xác định vùng biển kinh tế độc quyền của mình, có chiều rộng 200 hải lý, tính từ đường rìa ngoài của vùng tiếp cận (nếu có) hay lãnh hải (12 hải lý). Nước này có thể khai thác kinh tế như đánh cá, khai thác tài nguyên dưới đáy biển thuộc vùng kinh tế độc quyền, đương nhiên phải tôn trọng một số luật lệ và tiêu chuẩn để bảo vệ quyền lợi các nước khác cũng như gìn giữ môi trường sống. Điều luật này cũng áp dụng cho các đảo ngoài khơi.Trên phương diện pháp lý và lịch sử Trung Quốc không có thẩm quyền đòi chủ quyền vùng biển Đông, chủ quyền các đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như thềm lục địa tại đây. Nhưng thực tế Trung Quốc luôn lên tiếng phản đối mỗi khi Việt Nam thăm dò hay dự định khai thác ở những vùng có thể có chồng lấn với vùng kinh tế độc quyền của các đảo thuộc Trường Sa. Nguyên nhân việc này là do các lãnh tụ vĩ đại (may mắn đã chết !) của CSVN đã có những tuyên bố ngu xuẩn, sai với lịch sử, trong các thập niên 50-60 về chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa[4]. Họ cho rằng hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Đương nhiên Trung Quốc lấy đó làm bằng chứng, biện minh trước quốc tế về các hành vi bành trướng của mình.Nhưng vấn đề khác được đặt ra : các đảo thuộc Trường Sa có được nhìn nhận là đảo[5] theo luật biển 1982 hay không để mà có thềm lục địa hay vùng kinh tế độc quyền ? Hầu hết các đảo ở Trường Sa đều rất nhỏ, không có nước ngọt, không cây cối, phần lớn bị ngập khi thủy triều lên. Ngay cả một số đảo khác có cây cối và nước ngọt, như đảo Ba Bình, Loai Ta, Thị Tứ… cũng không thể có một nền kinh tế tự túc theo định nghĩa về đảo của luật biển 1982. Các đảo mà Trung Quốc hiện kiểm soát không có « đảo » nào có cây cối và nước ngọt. Như thế các « đảo » này chưa đủ tiêu chuẩn để có lãnh địa hải phận (lãnh hải), vùng kinh tế độc quyền như các đảo bình thường khác được[6].Nếu các đảo này không được quyền có vùng biển, không có thềm lục địa kéo ra tới 200 hải lý thì làm gì có vấn đề chồng lấn ?Các lô khai thác của BP vừa qua và ExxonMobil nằm trong vùng « kinh tế độc quyền » của Việt Nam, khoảng giữa đất liền và trung tâm quần đảo Trường Sa, cách xa Trung Quốc hàng ngàn km. Nhưng Trung Quốc vẫn ngang ngược cho rằng vùng đó thuộc về họ.Tình hình như thế vô cùng bất lợi cho phía Việt Nam. Việt Nam được ví như được ngồi trên đống của nhưng bị anh hàng xóm khốn nạn chỉa súng đòi chia nên không thể móc ra tiêu xài. Việc khó khăn này, nếu không tìm giải pháp thoát ra, sẽ kéo dài ít nhất cho đến khi nào chủ quyền của các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được giải quyết. Không nước nào có thể khai thác tài nguyên ở thềm lục địa Trường Sa nếu chủ quyền các đảo tại đây chưa được xác định và được nhìn nhận bởi các bên. Vấn đề « cộng đồng khai thác » đã được nêu ra, nhưng sẽ khó thực hiện. Vả lại, nếu thực hiện thì phía thiệt thòi vẫn là Việt Nam. Việc tranh chấp có thể kéo dài thêm nhiều thập niên, vẫn giữ « nguyên trạng », nếu các bên tranh chấp vẫn tôn trọng Qui Tắc Hành Sử Biển Đông đã được các nước ASEAN ký với Trung Quốc năm 2002. Nhưng việc kéo dài thời gian lại có lợi cho Trung Quốc. Với thời gian, chỉ cần một, hai thập niên nữa, sự lớn mạnh của Trung Quốc không những chỉ dễ dàng thâu tóm biển Đông mà còn đặt được ảnh hưởng của mình đến các nước trong khu vực.« Càng để lâu càng khó », câu nói của ông Lê Công Phụng ám chỉ việc phân định vịnh Bắc Bộ, xem ra cũng đúng cho biển Đông !Vì thế phải có một giải pháp. Việt Nam phải làm thế nào, trước tình trạng hiện nay, để có thể khai thác, ít ra một phần, ở những vùng biển thuộc vùng kinh tế độc quyền của nước mình ? Giải pháp nào có lợi cho Việt Nam trong việc giải quyết chủ quyền các đảo và hải phận biển Đông ?Những vấn đề này đáng lẽ ít phức tạp cho Việt Nam nếu như các lãnh tụ vĩ đại ở miền Bắc đó không hiện hữu, hay không tuyên bố những lời bất lợi. Ít phức tạp chứ không phải không phức tạp là vì phía VNCH đã không giữ được Hoàng Sa tháng giêng năm 1974, trước sự xâm lăng của Trung Quốc, cũng như đã không giữ được các đảo Thị Tứ, Song Tử Đông, Vĩnh Viễn, Loai Ta… thuộc Trường Sa vào các năm 1968, 1972… do sự xâm chiếm của quân đội Phi Luật Tân. Đây là các đảo hiếm hoi có nước ngọt thuộc quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, theo luật quốc tế thì một vùng đất (hay biển) của một quốc gia có được do một cuộc xâm lăng thì chủ quyền vùng đất không được công nhận cho nước đó. Quân đội VNCH đã đổ máu để giữ nước nhưng không thành, như thế dầu sao cũng ít trách nhiệm hơn việc tuyên bố chủ quyền của ngoại bang trên vùng đất của tổ quốc mình.Vấn đề của đất nước đặt ra như thế thì ta phải tìm phương hướng giải quyết có lợi trên nhưng điều kiện như thế. Thất phu hữu trách, người viết xin đưa ra đây một số ý kiến :Các yếu tố xét ra có lợi cho Việt Nam, đó là : 1/ VN tôn trọng các công ước quốc tế mà VN có ký kết. 2/ Vận động quốc tế ủng hộ lập trường về biển của VN tại biển Đông. 3/ Trong trung hạn là khai thác vùng biển và thềm lục địa của VN đã được quốc tế công nhận (hay không phản đối). 4/ Về dài hạn là củng cố quốc phòng, liên minh chiến lược với bạn bè quốc tế có cùng chung quyền lợi để đối trọng với Trung Quốc. 5/ Tiến đến việc đưa vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa ra tòa án quốc tế.1/ Việt Nam nên chinh phục cảm tình các nước bằng một thái độ gương mẫu của một quốc gia biết tôn trọng và có trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Việc này biểu hiện qua việc tôn trọng các bộ luật, các tiêu chuẩn quốc tế mà Việt Nam có ký kết. Trước tiên là Luật Quốc Tế về Biển 1982 và Qui Tắc Hành Sử Biển Đông 2002, hai công ước quốc tế mà Việt Nam long trọng ký kết. Nội dung của Qui Tắc Hành Sử Biển Đông 2002 yêu cầu các bên không dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, các bên tránh làm các việc có thể thay đổi « nguyên trạng » tình hình các đảo, ngưng khảo sát và khai thác v.v… Tôn trọng nội dung của nó là Việt Nam khôn khéo sử dụng công pháp quốc tế để bảo vệ mình trước sự bành trướng hung hãn của Trung Quốc. Nhưng VN cũng nên đứng đắn tôn trọng các tiêu chuẩn về nhân quyền mà bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền định nghĩa. VN nên chứng minh rằng mình có nhận thức khác với Trung Quốc về vấn đề nhân quyền. Việc này rất có lợi vì nó phù hợp với nguyện vọng của người dân và bạn bè Tây Phương.2/ Ngoại giao sẽ là việc quan trọng nhất.Hệ thống đường cơ bản của Việt Nam công bố vào tháng 6 năm 1977, được xác định bằng các đường thẳng nối 12 điểm cơ bản từ A0 đến A11, trước khi công ước Montégo Bay 1982 được ký kết. Điểm bắt đầu A0 là điểm xác định chung với Kampuchia sau này, trong vịnh Thái Lan và điểm chấm dứt A11 là đảo Cồn Cỏ, ở cửa vịnh Bắc Việt. Dầu vậy hệ thống đường cơ bản của Việt Nam phù hợp với bộ luật biển 1982. Vào thời điểm đó đã có trên 100 nước công bố luật biển của mình, trong đó có đến 45 nước lấy đường thẳng làm đường cơ bản. Hệ thống đường cơ bản của VN, ở một số điểm thì cách bờ quá xa. Thí dụ các điểm A1 cách bờ 56 hải lý, A3 cách 52 hải lý, A4 cách 53 hải lý, A6 cách 74 hải lý… Những điểm này rõ ràng « không bình thường », nhưng chiếu theo tinh thần điều 7 của bộ luật biển 1982 thì các điểm trên không hề mâu thuẩn. Mặt khác, tập quán quốc tế cho thấy có nhiều trường hợp đường cơ bản còn cách xa bờ hơn cả Việt Nam. Chỉ nói các nước trong vùng, trường hợp Mã Lai, đường cơ bản nưóc này có nơi cách bờ đến 85 hải lý. Trường hợp Miến Điện, nước này vạch một đường cơ bản dài 220 hải lý, có nơi cách bờ đến 120 hải lý. Riêng Thái Lan thì đường cơ bản cách bờ có nơi đến 60 hải lý. Như thế thì đường cơ bản của Việt Nam không phải là một trường hợp đặt biệt, phải đặt lại vấn đề.Hệ thống đường cơ bản của Việt Nam vì thế phù hợp với luật biển 1982 và tập quán quốc tế. Tuy nhiên vào thời điểm 1977, do thái độ thù nghịch của Việt Nam đối với thế giới, đã có 10 nước gởi công hàm phản đối Việt Nam về đường cơ bản của Việt Nam. Trong đó có các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Úc, Mã Lai, Tân Gia Ba… Nhưng tình hình hôm nay thuận lợi hơn. Việt Nam mở cửa giao thiệp với bạn bè năm châu, không còn là « mũi nhọn xung kích » hung hăng của quốc tế cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ khá tốt với Hoa Kỳ. Các lãnh tụ CSVN hôm nay xem ra sáng suốt hơn các vị lãnh đạo gọi là vĩ đại ngày xưa vì ít ra họ đã làm những việc có lợi về lâu dài cho VN. Thật vậy, phải nhìn nhận ông Nguyễn Tấn Dũng, dầu rất bết bát trong các chính sách vĩ mô, đem lại hậu quả tai hại cho kinh tế và phát triển Việt Nam hiện nay, nhưng ông Dũng đã có những đột phá rất mới về ngoại giao, đem lợi lâu dài cho Việt Nam, nhất là mở đường cho Việt Nam có thể khai thác những vùng biển mà từ trưóc đến nay đã bị Trung Quốc cản trở.Ở đây tác giả muốn trở lại một chi tiết quan trọng trong bản tuyên bố chung giữa VN và Hoa Kỳ nhân chuyến đi của ông Dũng vào cuối tháng 6 năm 2008. Đó là chi tiết « Hoa Kỳ tôn trọng và ủng hộ việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam ». Đã có nhiều tác giả đã viết báo bình luận và phân tích chi tiết này nhưng chưa thấy ai đặt vấn đề là Hoa Kỳ « ủng hộ » thế nào và lãnh thổ Việt Nam được Hoa Kỳ quan niệm ra sao ?Việc « tôn trọng và ủng hộ » của Hoa Kỳ về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam nên hiểu là Hoa Kỳ không can thiệp nhằm chia cắt VN, không ủng hộ các lực lượng ly khai tại Việt Nam. Vấn đề sẽ tế nhị hơn, nếu một nước nào đó chiếm đóng một phần lãnh thổ của VN, thái độ « ủng hộ » của Hoa Kỳ sẽ như thế nào ? Mặt khác, cũng quan trọng không kém, Hoa Kỳ công nhận lãnh thổ của Việt Nam trên căn bản nào ?Các vấn đề này sẽ thay đổi, có lợi hay có hại cho VN tùy thuộc vào mối tương giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong tương lai. Nhưng trước mắt, qua các thỏa thuận đã ký kết giữa ExxonMobil và PetroVietNam, cũng như các tuyên bố của các nhân vật ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam, ta có thể đoán rằng Hoa Kỳ đã công nhận « lãnh thổ » của Việt Nam với hệ thống đường cơ bản 1977.Địa điểm khai thác của ExxonMobil nằm trên thềm lục địa, trong vùng kinh tế độc quyền của VN. Do đường cơ bản của VN cách bờ vùng này đến 74 hải lý, vùng biển VN mở ra đến 274 hải lý. Hoa Kỳ có thể đã công nhận lãnh thổ Việt Nam trên tinh thần này, nếu không thì vấn đề khai thác của ExxonMobil đã không được xúc tiến.Việt Nam vì thế mới mạnh dạn phản đối Trung Quốc và dám tuyên bố sẵn sàng dùng mọi biện pháp để bảo vệ các tập đoàn khai thác hợp pháp trên lãnh thổ của mình. Trung Quốc tức giận lắm nhưng không làm gì được vì tập đoàn khai thác ExxonMobil là của Hoa Kỳ chứ không phải là BP của Anh, dễ bắt nạt. Anh Quốc vì còn nhiều quyền lợi ở Hồng Kông, không dám đương đầu vì sợ thiệt hại kinh tế.Ngoài ra ý nghĩa lơ lững của sự « ủng hộ » của Hoa Kỳ cũng khiến cho Trung Quốc không dám làm bậy.Theo tình hình hiện nay người viết lạc quan cho rằng không còn mấy nước còn lý do để phản đối hệ thống đường cơ bản của Việt Nam.Đối với Thái Lan thì cả hai nước đều có hệ thống đường cơ bản tương đồng, vì thế khó mà phản bác lẫn nhau. Vùng biển giữa hai nước có một vùng chồng lấn khoảng 6.500km². Theo tin trong nước thì VN nhượng cho Thái Lan 70%, VN 30%. Nhưng việc tương nhượng này phải được đền bù xứng đáng. Thái Lan có rút lại công hàm phản đối của mình hay chưa?Đối với Mã Lai thì hệ thống đường cơ bản của nước này có nơi cách bờ biển đến 85 hải lý, vì thế cũng không có lý do phản đối hệ thống đường cơ bản của VN. Vùng chồng lấn giữa hai nước hiện nay đã được giải quyết theo cách “cộng đồng khai thác”. Mã Lai không còn lý do để làm khó VN.Các nước như Anh, Nhật Bản, Pháp, Đức, Úc… không có thiệt hại gì do hiệu quả của đường cơ bản VN. Việc chống đối từ năm 1977 là do nguyên nhân ý thức hệ hơn là kinh tế. Hiện nay thời thế thay đổi, Việt Nam đã thay đổi và đang trở thành đối tác tốt với các nước này. Việc rút lại các công hàm phản đối chỉ còn là một vấn đề của ngoại giao.3/ Khi đã có được ủng hộ của các nước về quan điểm hệ thống đường cơ bản, việc này đương nhiên dẫn tới việc công nhận các vùng biển cũng như thềm lục địa của VN. Bây giờ VN mới có thể cho đấu thầu khai thác dầu khí trong vùng hải phận kinh tế độc quyền của mình và ưu tiên cho Hoa Kỳ hay các nước đã nhìn nhận hệ thống đường cơ bản của VN. Đây có lẽ là việc mà VN đang thực hiện.Việt Nam cũng nên thiết lập một hồ sơ kéo dài thềm lục địa, đến 350 hải lý, phù hợp với tinh thần của công ước Biển 1982, sau đó nộp cho Commission on the Limits of the Continental Shelf thuộc Liên Hiệp Quốc, trước tháng 5 năm 2009. Ở điểm này VN có lợi hơn các nước khác trong vùng vì thềm lục địa của VN lài, là phần kéo dài của lục địa.Việc làm trên cũng nhằm “vô hiệu hóa” ảnh hưởng các đảo Trường Sa do Trung Quốc chiếm đóng. Việt Nam có lý do để đòi hỏi các đảo này không được hưởng các qui chế đã ấn định cho luật biển 1982. Trường hợp các đảo Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ… không được gì cả là thí dụ.Đối với Phi và Mã Lai, VN có đầy đủ hồ sơ chứng minh các đảo mà các nước này chiếm đóng tại Trường Sa là của VN. Giải pháp cũng sẽ là một trọng tài quốc tế hoặc là một trao đổi mà các bên đều có lợi.Phần biển VN do đó sẽ lớn hơn tất cả các nước trong vùng, vì thuận lợi địa lý như chiều dài, do hệ thống đường cơ bản, do thềm lục địa mở ra thuận lợi không có hố sâu chặn lại như các nước khác… Đương nhiên là sẽ không quan trọng bằng nếu như Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về VN. Nhưng trước mắt Việt Nam có thể khai thác vùng biển của mình đồng thời ngăn chận được tham vọng vô lý của Trung Quốc.Việc phản đối hay đe dọa của Trung Quốc chắc chắn sẽ có nhưng không còn quan trọng. Lý lẻ của Trung Quốc sẽ là Việt Nam khai thác trên một vùng có chồng lấn với thềm lục địa của các đảo Trường Sa mà Trung Quốc đang đòi chủ quyền. Nhân việc này VN nên đề nghị Trung Quốc đưa ra một tòa án phân xử. Việc này hoàn toàn bất lợi cho Trung Quốc vì họ không có bằng chứng nào chứng minh chủ quyền của họ ngoài các tuyên bố không có giá trị của các lãnh tụ CSVN trong quá khứ.Nếu Trung Quốc khai thác ở Trường Sa thì nước này không tôn trọng luật biển 1982 và Qui Tắc Hành Sử 2002. Trung Quốc không có lý do gì để kéo dài thềm lục địa của họ ra đến đây. Các đảo họ chiếm của Việt Nam thì đang trong vòng tranh chấp, vả lại, các đảo này không thể có vùng kinh tế độc quyền hay thềm lục địa. Việt Nam cần phải liên minh chặt chẽ với Phi và các nước khác để phản đối, làm áp lực đưa vấn đề ra một tòa án quốc tế.Một ghi nhận, đặc điểm các nước sản xuất dầu trên thế giới ngoài APEC, ngoại trừ nước Anh và Na Uy, mỗi khi nước đó khám phá được một mỏ dầu có tầm quan trọng về kinh tế, trở thành một nước sản xuất dầu, các nước đó đều xảy ra hổn hoạn. Việt Nam là một nước kém phát triển, tâm lý bầy đàn vẫn còn phổ cập, vì thế dễ xảy ra các việc tranh dành quyền lợi. Quốc hội VN nên thông qua một bộ luật về tài nguyên quốc gia. Nên lập ra một ủy ban quản lý tài nguyên quốc gia, nhân sự ủy ban này do quốc hội bổ nhiệm và có tránh nhiệm trước quốc hội, làm việc định kỳ.4/ Về vấn đề quốc phòng, trước hết là các đảo Trường Sa vẫn còn do VN kiểm soát thì phải củng cố thêm quân sự. Bộ Quốc Phòng thường xuyên ủy lạo, thăm viếng các chiến sĩ trú đóng tại các đảo. Phải cho các binh sĩ này hưởng một ngạch lương đặc biệt, xứng đáng với sự hy sinh và gian khổ của họ.Riêng về sự lớn mạnh về quân sự của Trung Quốc, nhất là về phương diện hải quân, Việt Nam là nước nên lo ngại hơn ai hết.Về phía bắc, Trung Quốc tiếp giáp với Nga, không dễ dàng bành trướng. Phía tây là núi non hiểm trở, sa mạc cằn khô, khí hậu khắc nghiệt. Ở đó có các xứ Trung Á vốn thuộc vùng ảnh hưởng của Nga, ngoài ra còn có Ấn Độ, xứ có thể đối trọng với TQ, phía tây nam. Phía đông là Đại Hàn và Nhật Bản, hai đồng minh của Hoa Kỳ. Vấn đề bành trướng của Trung Quốc không đặt ra. Chỉ có phía nam, toàn vùng biển Đông và khu vực Đông Nam Á là không gian bành trướng của Trung Quốc. Vị trí của VN đối với Trung Quốc cực kỳ quan trọng. Không đặt được Việt Nam vào vòng ảnh hưởng của mình thì Trung Quốc sẽ không trở thành một cường quốc đúng nghĩa. Việt Nam vì thế là mục tiêu chính để cho Trung Quốc vũ trang. Vấn đề Đài Loan chỉ là một cái cớ.Giải pháp cho Việt Nam phải là liên minh chiến lược với các nước có cùng mối lo ngại về sự trổi dậy của Trung Quốc. Việt Nam thực sự mạnh, có liên minh chiến lược với các cường quốc, chắc chắn sẽ « đóng khung » Trung Quốc.Trung Quốc nên hiểu rằng, nếu chuốc thù gây oán với VN thì TQ sẽ vô cùng bất lợi. Việt Nam sẽ luôn luôn là ác mộng, sẽ vĩnh viễn là trở ngại cho mọi phát triển của TQ trong tương lai. Việc này sẽ đưa Trung Quốc về thời trước 1979. Những hăm dọa qua hình thức các bài báo trên sina.com hiện nay đều không có ý nghĩa. Hàng ngàn năm nay, Việt Nam chưa bao giờ « sợ » Trung Quốc cả. Vì thế, Trung Quốc cần thay đổi thái độ, phải tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải lấy lòng VN. Đây là một thái độ khôn ngoan mà Trung Quốc cần có. Bởi vì TQ cần VN mà VN không hề cần TQ. Có ý thức như vậy thì TQ mới hy vọng xưng hùng xưng bá với các nước được.5/ VN phải vận động các nước lớn ủng hộ chủ quyền của mình ở HS và TS. Vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa chỉ nên giải quyết bằng con đường pháp lý, qua một tòa án quốc tế. Nhưng đó sẽ là việc về lâu dài. Thời gian sẽ không còn là kẻ thù của VN nữa nếu các điều kiện trên được thực hiện.Kết luận : Tóm lại, việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc thể hiện qua vụ ExxonMobil vừa qua cho thấy Việt Nam đã một phần lấy lại được tư thế trong việc hành sử quyền chủ quyền của mình ở vùng kinh tế độc quyền. Công lao ở đây là do chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ông Dũng đã thành công trong việc « vớt vát » được chút nào hay chút nấy quyền lợi của Việt Nam ở biển Đông mà các lãnh tụ gọi là vĩ đại của CSVN đã đem dâng cho Trung Quốc. Của đổ hốt lên được như thế cũng là khá lắm. Nhưng ông Dũng sẽ còn khá hơn, lập công to cho đất nước, nếu ông có một quyết định mạnh và thông minh để thay đổi hẵn bộ mặt của Việt Nam.Thiết lập được quan hệ với Hoa Kỳ là điều tốt, cũng như quan hệ với các nước khác. Thuyết phục được Hoa Kỳ cũng như các nước công nhận và ủng hộ toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam là điều giỏi, ít ai trong chế độ hiện nay làm được. Nhưng điều cần ý thức rằng Việt Nam phải mạnh. Mạnh thật sự từ ý chí cho đến thể chất mới có thể vừa phát triển vừa giữ được nước, chống được Trung Quốc trong dài hạn. Việc này không thể nào thực hiện nếu các thành phần dân tộc Việt Nam vẫn còn thù nghịch với nhau, mỗi người dân đều có thể là một « dân oan », người dân vẫn xem đảng cầm quyền là « giặc nội xâm ». Chỉ có một chính sách đứng đắn về hòa giải và hòa hợp dân tộc mới có thể hóa giải những mâu thuẫn này và chỉ có một chính phủ do dân thật sự bầu ra mới có thể bảo đảm tính chính thống cũng như sự đứng đắn cho chính sách đó. Các chính sách mị dân, các nghị quyết, như nghị quyết 36, sẽ không giải quyết được vấn đề mà chỉ che dấu vấn đề. Trong khi đó càng để lâu thì những mâu thuẫn tích lũy, càng làm cho dân tộc này thêm phân hóa. Ông Dũng thừa khả năng, đã mở những bước đầu, ông có dám buớc thêm những bước nữa hay không ?Trương Nhân Tuấn[1] Các hàng chữ in nghiêng là tin lấy từ BBC.[2] Đường cơ bản (baseline) là đường cận bờ biển, từ đó xác định lãnh hải (lãnh địa hải phận) 12 hải lý. Đường cơ bản có thể là đường thẳng, đường cong v.v… sao phù hợp với tình trạng sinh hoạt kinh tế của người dân trong vùng (và tập quán quốc tế) hay với tình trạng địa lý của bờ biển.[3] Công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng thì không gọi là « lãnh hải » mà gọi là « hải phận ». Thực ra gọi là « lãnh hải » hay « hải phận » đều không sát ý nghĩa pháp lý của « mer territoriale – territorial sea ». Ta thấy hai từ Pháp và Anh đều có cả « biển » và « đất ». Người Việt ta thường dùng « lãnh hải » hay « hải phận » để chỉ cho một vùng biển bất kỳ thuộc về một nước bất kỳ nào đó.[4] Xem bài Vài Ý Kiến về Trách Nhiệm Trong Vấn Đề Mất Đất Mất Biển, cùng tác giả, Tổ Quốc số 44.[5] Ðiều thứ 121 của Công-Ước Montego Bay 10 tháng 12 năm 1982 định nghĩa về đảo :1. Une île est une étendue naturelle de terre entourée d'eau qui reste découverte à marée haute. (Ðảo là một dải đất tự nhiên, có nước bao bọc chung quanh và không bị nước phủ lúc thủy triều lên)2. Sous réserve du paragraphe 3, la mer territoriale, la zone contiguë, la zone économique exclusive et le plateau continental d'une île sont délimités conformément aux dispositions de la Convention applicables aux autres territoires terrestres. (Một đảo có lãnh địa hải phận, vùng tiếp cận, vùng kinh tế độc quyền và thêm lục địa riêng, ngoại trừ điều kiện ghi dưới phần 3)3. Les rochers qui ne se prêtent pas à l'habitation humaine ou à une vie économique propre, n'ont pas de zone économique exclusive ni de plateau continental. (Những bãi đá (cồn đá) mà người ta không thể sinh sống, hoặc tạo một nền kinh tế tự tại thì không có vùng kinh tế độc quyền cũng như không có thềm lục địa).[6] Các đảo Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ của Việt Nam là các đảo lớn, có dân cư sinh sống đông đảo, có cả một nền kinh tế tự túc… nhưng chúng vẫn không được nhìn nhận là đảo theo định nghĩa của luật biển 1982. Theo Hiệp Ước Phận Định Vịnh Bắc Bộ năm 2000 thì các đảo này không những không có vùng kinh tế độc quyền mà vùng biển lãnh hải của nó cũng không được tôn trọng.mardi, 9 septembre 2008 - 20:52 (CEST)Article suivant : Góp ý với TS Dương Danh Huy Article précédent : Vấn đề trách nhiệm việc làm mất đất, mất biển
http://fr.blog.360.yahoo.com/blog-EGs0TdElabNXphrx56VTXO2Qa8378w--?cq=1&p=124




No comments: