Tuesday, March 9, 2010

TÀI LIỆU II * LÊ DUẨN


TÀI LIỆU II * LÊ DUẨN


AI GIẾT CON GÁI LỚN CỦA LÊ DUẨN?


LTS:
Trước đây nhiều tin tức cho biết Lê Duẩn muốn tiếp tục làm Tổng bí thư nên giết con gái ở Mạc Tư Khoa. Lúc bấy giờ Lê Duẩn có con gái đã có chồng Việt Nam, sau sang Nga du học, bèn lấy một anh Nga. Các cụ trong bộ chính trị muốn hất Lê Duẩn song lại lấy cớ của phong kiến là Lê Duẩn không thề làm tổng bí thư vì không biết dạy con, để cho con lấy chồng Nga ( trong khi các cụ theo Nga nhiệt liệt, nếu không theo Nga thì cũng theo Tàu) tức là sống kiểu mèo mả gà đồng,chẳng theo luật tam tòng của Nho giáo! Lê Duẩn chứng minh là một ông bố có giáo dục nên hạ lệnh công an giết con hoặc bắt cóc về Việt Nam. Thế là Lê Duẩn chứng minh ông là ông bố có đạo đức và lại làm tổng bí thư để mặc sức dâm dục, lừa đảo và tàn sát nhân dân!
Bài viết sau đây không nói rõ vì còn thiếu chưa sưu tầm được, phải lấy ở bài "Tướng Đi Đêm "thì mới rõ là Lê Đức Thọ đã bắt nẹt, vu hãm các con của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp theo kiển xã hội đen Trung Quốc để ép những người này theo Lê Đức Thọ, tôn Lê Đức Thọ làm Tổng bí thư.
Thực hư thế nào sau này tất cả sẽ được lôi ra ánh sáng.




AI GIẾT CON GÁI LỚN CỦA LÊ DUẨN ?
PHẦN 1: BI KỊCH TRONG GIA ĐÌNH LÊ DUẨN - BÀ THUỴ NGA - " CÔ BA HOÀNG HẬU "




(Bà Sương và cháu nội ( con trai Lê Kiên Thành)
Năm tháng vời vợi và vùn vụt qua đi. Nhưng chắc sẽ hằn mãi trong tâm trí người vợ miền Nam cái thời khắc đêm hôm ấy. Chuyến tàu Kerinsky của Ba Lan là chuyến tập kết chót. Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ mà sau này gọi là Trung ương Cục, nhân vật số I của cách mạng miền Nam cùng đi với người vợ bụng mang dạ chửa trên tay bồng cô con gái nhỏ Lê Vũ Anh bước xuống tàu với gia đình đồng chí Lê Đức Thọ - Sáu Thọ. Hơn hai ngàn cán bộ chiến sĩ miền Nam tập kết có mặt trên tàu đều thấy cảnh đó. Các sĩ quan trong Ban Liên hiệp đều chứng kiến hình ảnh ấy. Các phóng viên thông tấn trong nước và quốc tế ghi hình cảnh nọ... Nhưng đúng 12 giờ đêm, Lê Duẩn ở lại miền Nam . Người vợ miền Nam khi ấy, để giữ bí mật không dám ra khỏi cabine để tiễn chồng. Một chiếc canô nhỏ do ông Cao Đăng Chiếm (sau này là Thứ trưởng Bộ Công an) cầm lái áp sát mạn, lặng lẽ bí mật đưa đồng chí Lê Duẩn trở lại Cà Mau.
Một bản tin nước ngoài làm Bà nhiều đêm day dứt Ông Lê Đức Thọ, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam ra miền Bắc làm Trưởng Ban TCTƯ. Ông Ung Văn Khiêm lẽ ra phân công ở lại miền Nam nay là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNDCCH. Ông Nguyễn Văn Kỉnh, tự Thượng Vũ nay làm Đại sứ VN tại Mạc Tư Khoa...
Lê Duẩn và Trung ương Cục miền Nam tại chiến khu Tân Biên (Tây Ninh) thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Từ trái sang: Lê Duẩn, Ung Văn Khiêm, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Kỉnh, Hà Huy Giáp Ngày Mồng Một Tết năm 1956. Người vợ trẻ miền Nam bồng Kiên Thành, cậu con trai mới sanh, dắt con gái Vũ Anh thăm ông nội (thân sinh ông Ba Duẩn- NV) và người vợ trước cùng gia đình khi đó đang ở Nghệ An. Bà Hoàng Thị Ái - vợ Cả - khi đó là ủy viên Đảng Đoàn phụ nữ Trung ương. Bà Ái hoạt động cùng với LêDuẩn từ năm 1930 ở Huế.

Sóng gió đã ập xuống cái gia đình bé nhỏ của Bà Thuỵ Nga .

Đó là những ngày đầu năm 1957. Người của tổ chức đến gặp bà đại ý: Luật Hôn nhân Gia đình của Quốc hội ghi rõ Gia đình phải một vợ một chồng. Nếu hoàn cảnh đã qua, ai có 2 vợ thì phải giải quyết sao cho hòa thuận. Anh Ba sắp ra rồi. Trước kia vì sự nghiệp chung mà chị lấy anh ấy. Nay cũng vì sự nghiệp chung mà chị nên chủ động ly dị với anh Ba để anh làm tròn nhiệm vụ. Bà choáng váng, sững sờ... Những người thay mặt cho tổ chức để gặp bà không ai khác, toàn những người quen biết, thậm chí đã cùng vào sinh ra tử ở chiến khu những năm địch ruồng bố ác liệt! ( Lê Đức Thọ ?) Bà dần bình tĩnh lại “ Trước kia chúng tôi lấy nhau cũng hai bên bàn bạc đồng ý, bây giờ muốn bỏ nhau cũng phải có ý kiến hai bên. Việc này phải chờ anh Ba ra, chúng tôi gặp nhau thì mới trả lời được...”.


Xin trích một đoạn trong nhật ký. của Bà Thuỵ Nga " ....Gặp anh tôi rất mừng. Một hôm, anh nằm gần cửa sổ để tôi nhổ tóc bạc. Tôi nói “ Các anh các chị có đề nghị chúng ta nên ly dị nhau...’’ Anh đưa tôi tới Trung ương Hội Phụ nữ... Anh trình bày hoàn cảnh của chúng tôi mong có sự thông cảm... Nhưng nhiều chị phản đối kịch liệt. Không như hồi anh còn trong Nam, chị em Nam Bộ rất thương anh. Giờ đây tôi trở thành đối tượng nhiều người ghét bỏ... Tôi là Tỉnh ủy viên, cán bộ trung cấp. Khi tôi ra miền Bắc, mọi chế độ về học tập chính trị nhận báo Học Tập của Đảng hằng tháng, tiêu chuẩn nằm Việt Xô... Nay Phụ nữ Trung ương cắt hết quyền lợi đó.

Tôi buồn rầu cô độc. Chiều thứ Bảy, tôi nhìn dòng người lũ lượt trên đường. Họ đi với nhau có cặp có đôi. Có người lại dắt theo con cái nữa. Họ vui biết bao. Họ hạnh phúc biết mấy! Phải chăng họ chỉ có một vợ một chồng? Hay là tôi giải quyết không đúng chăng? ........"

Trích nhật ký

Có đêm chúng tôi đang nằm bên nhau thì có người về đập cửa rầm rầm khóc la ầm ĩ... Anh khuyên tôi “Thôi em tạm lánh đi cho yên”. Không biết đi đâu, tôi đến nhà chị bảy Huệ ở đường Nguyễn Biểu (lúc đó anh Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh đang ở miền Nam). Thấy tôi ngồi ủ rũ đến nửa đêm, chị Bảy hỏi han rồi động lòng, chị dắt tôi trở lại số 6 Hoàng Diệu. Có hôm anh Lê Thám, trước đây là cán bộ Phòng dân quân Nam Bộ, đến trước nhà gọi “Chị Ba ơi, chị mở cửa cho tôi vào chơi với anh Ba chút”. Cả nhà làm ầm lên đuổi anh ấy đi. Anh Hai tôi và em út tôi đến thăm nhà, cũng gặp trường hợp như vậy. Tôi đau lòng quá! Có lẽ đó là duyên do khá nặng ký để bà sang Trung Quốc bỏ lại 2 con thơ trong lúc có mang đứa con thứ 3 mới 3 tháng ? Lê Kiên Thành kể lại : " .....


Năm 1957, ba tôi ra Hà Nội. Thế nhưng vợ chồng cũng chỉ được ở bên nhau ít tháng, mẹ tôi phải nhận nhiệm vụ công tác tận Bắc Kinh, Trung Quốc. Khi đó bà cũng có mang. Và giữa vùng tuyết lạnh xứ người, mẹ tôi lại một lần đơn độc sinh con. ...." Nhà văn Bùi Ngọc Tấn là người cắm rễ lâu với Hải Phòng, với Đất Cảng kể lại : ."....


Lê Kiên Thành thương nhưng hoang mang. Cái đầu óc bấy bớt hồi ấy khiến Thành hoang mang là phải! Bởi thương mẹ thương ba nhưng lần nào cũng vậy, những chủ nhật hiếm hoi, mà mỗi tháng mới có một hai chủ nhật như thế, ba từ Hà Nội xuống Hải Phòng thăm bốn mẹ con mà lần nào ba ghé, mẹ cũng khóc cả. Khóc giấu ba chị em, nhưng Thành biết. Thường lần nào ba ghé cũng không chỉ có một mình… Mà không bữa cơm nào mẹ lại không khóc. Mỗi lần như thế Thành lại thấy người cha khuôn mặt nhăn lại và hay mắng chửi mẹ đủ chuyện .Nào là Mẹ là con đàn bà lăng loàn đĩ thỏa , đi cua trai ,ngủ với trai vân vân và vân vân …



Tội nghiệp em Trung, hồi ấy còn bé xíu, từ bé ở với ba đã quen hơi, khi xuống Hải Phòng thường bắt mẹ đưa về Hà Nội thăm ba. Mỗi lần Trung đòi vậy và mỗi khi ba ghé rồi vội vội vàng vàng về, Trung lăn ra khóc đòi theo, mẹ lại trốn vào góc mà khóc mùi... Một lần mẹ đi Hà Nội họp. Khi mẹ về, anh em Thành bộp chộp, háo hức hỏi mẹ rằng có gặp ba không? Ba có gởi quà cho tụi con không thì lần ấy, sau khi hỏi vậy Thành thấy mẹ khóc quá trời. Hình như mẹ đã khóc đâu đó rồi, trên Hà Nội, dọc đường đi chẳng hạn? Hai mắt mẹ sưng húp... Chị em Thành không dám hỏi nữa. Mãi sau này (lại sau này) Thành mới biết lần lên Hà Nội họp ấy, mẹ đã khóc nhiều sau khi ghé thăm ba, thăm má Cả, người ấy đã hỗn với mẹ như thế nào..." Sau hai năm ở Hải Phòng, những giọt nước mắt ấy đã kiệt hay tạm khô đi khi người mẹ ấy đã ghi vào nhật ký những dòng như thế này. " ...


Tôi nghĩ đã chín. Một lần gặp, tôi nói với anh: - Hay là để em trở vào miền Nam chiến đấu. Tuy xa nhau nhưng chúng ta vẫn chung một sự nghiệp, coi như chúng ta vẫn gần nhau. Anh suy nghĩ giờ lâu và đồng ý. Văn phòng Trung ương tổ chức bữa cơm tiễn đưa. Có mặt các chú theo anh Ba, các đồng chí Văn phòng Trung ương và anh Khai Phó ban tổ chức Trung ương ( không có Sáu Thọ trưởng ban TCTƯ). Độ 12 giờ cơm nước xong. Anh Ba nằm trên giường có con gái Vũ Anh ngồi bên. Chúng tôi gây với nhau tôi đòi đem con tôi theo,nhưng anh không choAnh nói: “Anh mong em phấn đấu trở thành anh hung còn mấy đứa con là con của tôi là con của đảng chứ con gì của Cô ” Thành và Trung còn nhỏ. Tôi chuẩn bị đi không cho chúng nó biết. Hai anh em nó dắt tay nhau đến nhà tôi đang ở là Bà Huyện Thanh Quan thay nhau dòm qua cái lỗ khóa nói với nhau “Thử coi mẹ mình còn ở đây không?”. Ai cản cũng không được. Tôi đứng khuất một mé bên trong biết thằng út đang sốt 39 độ, tôi thương con đứt ruột mà không dám mở cửa. Nếu cửa mở òa ra khó bề mà tôi đi nổi! ...


Khi xe đến đón, tôi cúi xuống hôn anh và con gái Lê Vũ Anh. Hai tay con gái run bần bật trong tay tôi. Trời ơi chắc nó có biết bao điều cần nói với mẹ nhưng không kịp. Thấy anh nằm nhắm mắt như muốn xua đuổi tôi đi cho lẹ . Tôi dặn anh Khai: “Khi nào anh Ba về thì anh hãy về. Đừng để anh ấy một mình...”. Anh Khai ôm tôi hôn và anh cũng khóc. Bỏ 3 đứa con lại ra đi, tôi như cầm dao cắt rời 3 khúc ruột của mình. Như thời gian ở Trung Quốc, Và không chỉ có bà. Khi những lá thư Lê Duẩn đến được tay chủ nhân, tới được tay người nhận thì đã nhàu nát vì qua tay không ít người đọc.......??? " Lê kiên Thành kể lại : ."....


Lá thư đầu tiên tôi nhận được từ mẹ tôi vào năm 1965. Mẹ tôi kể bà đang ở rừng U Minh, cuộc sống nhiều gian nan nguy hiểm, thương nhớ các con nên bà đã bạc tóc rồi. Bà sợ nhất là muỗi. Trong thư bà kẹp một con muỗi khô to tướng và một sợi tóc bạc. Tôi nhìn mà không cầm được nước mắt. ....." Khi đi công tác nhìn thấy những bức hình của chính mình giăng bự tổ chảng với dòng chữ bên trên lẫn bên dưới ... Tên thật Nguyễn Thụy Nga. Tên mới: Nguyễn Thị Vân. Vợ của lãnh tụ số I Cộng sản Bắc Việt về nằm vùng. Ai bắt được hoặc chỉ chỗ thì thưởng... Bà không dám đọc và nhớ hết những dòng trên bức hình.


Bà cứ suy nghĩ hoài là khi Bà vào Nam thì chỉ có Lê-Duẫn và bộ chính trị biết , và những tấm hình kia chỉ có chồng bà ( Lê-Duẫn ) mới có mà thôi .Như vậy tại sao địch lại có trong tay những tấm hình này và tại sao địch lại biết bà đang hoạt động ở đây ? Có phải chăng là chồng bà và bộ chính trị bán đứng bà cho địch .???

Có nhiều lần Mai Chí Thọ ( em Lê Đức Thọ ) thấy bà khóc thì lại ghen và vặn vẹo bà là : Bộ Bà nhớ đồng chí tổng bí thư Lê -Duẩn của bà hả ? Bà nhớ nó thì đi ra Bắc mà sống với nó đi . Tôi cũng chán sống chung với bà quá rôì

Bà lại âm thầm gạt đi những dòng nước mắt của mình.
Trong nhật ký có đoạn bà viết :
Nếu thời gian có thể quay ngược lại, xin cho tôi đừng bao giờ gặp những con người mang trong người dòng máu cộng sản ……

Lê Kiên Thành kể lại " .....Đúng 10 năm xa cách, năm 1974 khi đang học ở Liên Xô thì tôi được đón mẹ tôi giữa sân bay Matxcơva mênh mông tuyết trắng. Mẹ tôi tiều tụy và mang nặng dấu ấn sốt rét rừng trên gương mặt tím tái đến quặn lòng. Mẹ tôi kể bà đã đi dọc đường Trường Sơn ra Bắc lúc nào cũng có ý tìm con chỉ để dặn rằng: cuộc chiến đấu này gian khổ, tàn khốc muôn phần, con không được chủ quan...." Mừng hơn là được tận mắt chứng kiến mối quan hệ đã trở lại nồng ấm giữa các con. Cả người đã từng phản đối quyết liệt tình cảm của bà. Bà hiểu tình thương và lòng vị tha luôn tiềm ẩn trong con người đã dẫn đến kết cục tốt đẹp và khéo léo ấy.



Trích nhật ký Bà Thuỵ Nga " .....Năm 1986, những vết sẹo trong phổi khi anh ở Côn Đảo bị đánh bầm dập nay phát sinh nước trong phổi. Anh đi Liên Xô điều trị. Tôi hỏi anh cho tôi đi cùng để chăm sóc. Nhưng hình như anh không muốn có những rắc rối trong gia đình. Anh nói để anh đi một mình. Sau đó tôi ra Hồ Tây thăm anh. Anh cầm tay tôi, tay anh nóng hôi hổi. Môi anh đỏ mọng. Chú bác sĩ nói anh thường xuyên sốt 38,39 độ nhưng anh vẫn làm việc để lo xong nội dung và nhân sự cho Đại hội VI. Anh nói với tôi: Xong việc này rồi anh sẽ về miền Nam nghỉ. Ở đây nóng bức anh mệt quá. Tôi trở về miền Nam chờ anh. Nhưng anh không bao giờ trở về. Trung, con tôi kể lại. Buổi chiều hè đó hai vợ chồng Trung lên thăm anh. Anh nói: - Ở lại đây với ba! Ba cô đơn quá! ( 3 vợ và 1 đàn con mà sao lại cô đơn khi hấp hối ? ?? ) Rồi sau đó ít hôm anh ra đi! Tôi đang ở xa anh 2000 dặm......"


PHẦN II : LÊ DUẨN VẬT VÃ KHI CẬN KỀ CÁI CHẾT


Trích đoạn Hổi ký ĐÀO DUY THÀNH - Nguyên Bộ trưởng Ngoại thương- Nguyên chủ tịch ủy ban NDTP HẢI PHÒNG - VCCI .... ." ....Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại hỏi tôi đi đâu mấy tháng: “Lúc anh Ba yếu nặng chú không lại?”. Tôi nói chuyện đi công tác miền Nam nên thất lễ với anh Ba trong những ngày cuối cùng. Cả nhà anh Ba lo lắng, nhất là mấy cháu gái: Cừ, Muội, Hồng, các con rể Lê Bá Tôn, Hồ Ngọc Đại. Nói là cháu, nhưng các cháu chỉ kém tôi 5,7 tuổi. Tất cả xúm lại hỏi tôi và lo lắng:

- Ba cháu mất rồi, liệu họ... có giết gia đình nhà cháu không?

Tôi nói:

- Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ai dám hại nhà mình? Ba cháu là con người vĩ đại, một nhà hiền triết mới kế nghiệp được Cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra lắm máu? Ai dám hại gia đình nhà mình? Đừng nghĩ linh tinh. Đảng mình là Đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba các cháu, sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt... ai dám làm bậy?

Bấy giờ các cháu mới yên tâm. Hồ Ngọc Đại nói chen vào:

- Còn bao nhiêu các chú... Họ chẳng dám làm bậy đâu!

Sau đó, tôi mới tìm hiểu, tại sao có chuyện hoảng loạn tại gia đình anh Ba như vậy, khi anh qua đời...... Đó là những người có dụng ý chia rẽ, nói phe cánh anh Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách định ám hại gia đình anh Ba. ..........
Tôi cũng chỉ mới biết có sự bất hoà giữa anh Ba và anh Lê Đức Thọ, cách đấy khoảng 4, 5 tháng. Vì tôi ít quan lâm, tôi tin các anh đã có quá trình rèn luyện, lại là người gần gũi Bác Hồ, chắc chắn các anh luôn luôn đoàn kết bên nhau để thực hiện và xây dựng sự nghiệp Bác để lại.

Khoảng tháng 5-1986 tôi đến thăm anh Ba ở Hồ Tây, gần đến khu biệt thự tôi gặp xe anh Thọ đi ra. Tôi vào thăm anh Ba, có anh Bùi San ở đó. Thấy tôi đến, anh Bùi San chào anh Ba ra về. Tôi bắt tay anh Bùi San và vào thăm anh Ba. Anh Ba tỏ vẻ hơi bực tức nói:

-Đấy nó đấy, tôi vừa đuổi nó ra rồi...

Tôi suy nghĩ mãi mới biết là xe anh Thọ vừa ra... Tôi không nói gì, chỉ thăm sức khoẻ anh, nói tóm tắt một vài việc lớn của Hải Phòng để báo cáo với anh, vì lúc này tôi thấy anh Ba mệt nhiều. Tôi muốn để anh nghỉ ngơi, nên xin phép ra về. Nhưng anh Ba bảo tôi ngồi lại nói chuyện, rồi anh nói:

- Mấy anh lại đây bảo tôi viết di chúc, tôi nói không cần. Việc viết di chúc chỉ dành riêng cho Bác. Còn tôi, tôi nghĩ Trung ương các đồng chí đã trưởng thành cả rồi, viết di chúc chỉ gây khó khăn cho các đồng chí. Mình nói thế này, nhưng khi Trung ương bàn lại khác, sinh ra phức tạp, mất đoàn kết. Các đồng chí viết sẵn di chúc bảo tôi kí, tôi không kí.

Rồi anh bảo tôi:

-Tôi đã bàn với một số đ/c Bộ Chính trị, kì Đại hội này đưa anh Linh hoặc anh Võ Chí Công thay tôi làm cả khoá hoặc nửa khoá rồi để đồng chí Thành làm. Còn anh Tố Hữu sau đổi tiền không còn khả năng làm Tổng Bí thư... "
Lê Duẩn và gia đình (hàng sau từ trái sang: con trai Lê Kiên Thành, con gái Lê Tuyết Hồng ( con vợ Cả ), con dâu Tú Khanh và cháu nội (bên phải) cháu ngoại (bên trái).

Lê Vũ Anh - Lê Kiên Thành -Lê Kiên Trung
năm 1968
" ........Trong Đại hội, anh Vũ Oanh nói với tôi:

-Anh Lê Đức Thọ “mót” làm Tổng Bí thư lắm đấy!

Lúc đó tôi mới biết. Vì nhiều lần anh Thọ gặp tôi đều nói là: “Anh bị nhiều bệnh không thể đảm đương được nhiều công việc”. Anh Thọ cũng nhiều lần hỏi tôi Tổng Bí thư nên là ai, tôi đều trả lời là tùy Bộ Chính trị quyết định, giới thiệu ra Trung ương chúng tôi sẽ bầu thôi. Ngay trong Đại hội, khi anh Vũ Oanh cho tôi biết ý anh Thọ, tôi cũng vẫn trả lời anh Thọ như vậy. Hôm Ban Chấp hành bàn về nhân sự, anh Thọ gọi tôi sang nhà riêng hỏi tôi về chuyện các đồng chí Trung ương bàn nhân sự Tổng Bí thư thế nào, đã giới thiệu ai chưa? Tôi báo cáo anh Thọ, tổ Trung ương của tôi các đồng chí đều nói không nắm được cụ thể, nên không giới thiệu ai, đợi Bộ Chính trị giới thiệu. Anh Thọ lại hỏi tôi: “Ý cậu thế nào?”. Tôi cũng báo cáo anh Thọ như lần trước và nói thêm vấn đề vị trí Tổng Bí thư rất quan trọng, đặc biệt trong lúc này là phải có uy tín mới qui tụ được toàn Đảng, nhất là anh Ba mới qua đời. Còn chọn ai tùy tiểu ban nhân sự chọn và báo cáo Bộ Chính trị. Tôi không nắm được cụ thể nên không dám giới thiệu cụ thể ai cả. Anh Thọ không nói gì thêm và hỏi sang việc khác... "




PHẦN III: AI GIẾT LÊ VŨ ANH - TRƯỞNG NỮ CỦA LÊ DUẨN



Lê kiên Thành - con trai Lê Duẩn và Võ Điện Biên- con trai Võ nguyên Giáp

Đại tá Lê Hãn con trai trưởng của Lê Duẩn với bà vợ Cả ( 60 năm tuổi đảng mà vẫn chỉ là Đại Tá? )
Soạn: AM 830695 gửi đến 996 để nhận ảnh này

http://arizonacowboy.multiply.com/journal/item/285



TƯỚNG ĐI ĐÊM

Trần Nhu

Tặng bà Bích Hà, phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
GS Nguyễn văn Canh: Nhà văn Trần Nhu là Giáo sư sử học tại Hà Nội. Ông vượt biển từ Hải Phòng, sang Hồng Kông, rồi vào tị nạn tại Hoa Kỳ năm 1981. Tác phẩm mới nhất của ông là Tinh Thần Phật Giáo VN Nhập Thế ( 2005).


Ngày 19 tháng 5, trong khi mọi người đang uống rượu sâm-banh ở dinh Chủ tịch mừng sinh nhật bác Hồ, thì ở nhà riêng, Lê Đức Thọ gọi điện thoại cho em ruột của y là Mai Chí , Đại tướng ngành Công an, bộ trưởng Bộ Nội Vụ, yêu cầu hắn liên lạc với tướng Võ Nguyên Giáp, về việc chuẩn bị đi sứ sang nước Tầu.
Trong khi Giáp đang điên đầu về cái chết của hai viên Đại tướng là Lê Trọng Tấn, và Hoàng Văn Thái, cùng với việc mật vụ của anh em Thọ bắt bớ hàng loạt các sĩ quan cao cấp trong Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu. Tinh thần tướng Giáp xuống thấp một cách tệ hại. Mấy đêm qua ông không ngủ. Ông lấy thuốc an thần uống một liều cực nặng "ba viên" định vào giường nghỉ, thì lại có tiếng chuông điện thoại reo rát tai. Ông cầm ống nghẹ Đầu bên kia, vẫn giọng nói quen thuộc. Mặc dù biết nó đấy! Ông vẫn hỏi:
- Ai? Xin cho biết quý danh?
Đầu bên kia:
- A lộ.. Kính chào Đại tướng, tôi Mai Chí Thọ đây.

(Ông bà Võ Nguyên Giáp và Võ Điện Biên)

- À! Ra ông Bộ trưởng.
- Đại tướng khỏe chứ?
- Vẫn thường thôi.
- Tôi có việc cần muốn thảo luận với Đại tướng.
- Có việc gì, xin ông cứ nói thẳng?
- Vâng, thưa Đại tướng: theo yêu cầu của Bộ Chính Trị, muốn Đại tướng qua thăm hữu nghị Bắc Kinh, nhân dịp họ tổ chức Thế Vận Hội Á Châu.
- Ồ! Xin lỗi ngài Bộ trưởng. Tôi hiểu rồi. Xin ông thứ lỗi cho. Tôi không thể đi đâu trong lúc này. Nhưng tôi muốn biết đây là ý kiến của Bộ Chính Trị, hay của ông Lê Đức Thọ?
Mai Chí, dịu giọng xuống:
- Thưa Đại tướng, đây là vấn đề chung của Đảng.
- Nhưng tôi muốn biết ai đề xuất ra sáng kiến này?
Đầu bên kia:
- Dĩ nhiên ông Thọ.
Giọng bực dọc, Giáp nói:
- Liệu có điều gì xảo trá trong đề nghị đó không?
Mai Chí phân bua:
- Thưa Đại tướng, tôi không nghĩ như vậy. Đó là sáng kiến xây dựng.
Giáp chua cay:
- Tất cả sáng kiến của ông Thọ đều hay. Những gì ông ta làm từ trước đến nay đều tốt. Tôi thành thật khen ngợi ông Thọ. Tôi không có sáng kiến về ngoại giao. Nhưng tôi không thể tuân lệnh ông ta trong việc đi Bắc Kinh. Tôi nghĩ, việc quan hệ với họ lúc này không thuận lợi, không đẹp, và không quan trọng.


(Võ Điện Biên)

- Thưa Đại tướng! Quan hệ với Bắc Kinh thời điểm này có một tầm quan trọng thiết yếu hơn với các quốc gia khác. Và Đại tướng nên hiểu rằng trước sau ông Thọ và tôi đều một lòng vì đảng, vì dân. Tôi tin ông Thọ cũng như tôi, không có động cơ nào khác, ngoài việc phục vụ quyền lợi chung của Đảng. Nỗi lo lắng duy nhất của ông ấy là sự tồn tại của chế độ.
Giáp cũng xuống giọng:
- Người Tầu đâu có ưa gì tôi. Nên quan hệ với họ rất khó khăn. Họ còn cay cú về cuộc chiến tranh ở Căm-Bốt, và cuộc xung đột với ta, ở biên giới mấy năm trước.
Mai Chí:
- Tôi nghĩ, dĩ vãng và hiện tại luôn luôn khác nhau, nó phải biến chuyển theo con đường của nó, theo đà của nó đến các mục tiêu, trên nguyên tắc mở đường cho việc bình thường quan hệ ngoại giao giữa hai đảng trước kia căng thẳng. Và nhân đây tôi cũng cho Đại tướng biết: ông Thọ vừa đi Moscow về nói cho tôi hay. Nội bộ Điện Kremlin có thay đổi khi Gorbachev lên nắm quyền. Tay này giọng điệu y hệt Khruchev, cũng điên cuồng chống Stalin. Và có vẻ nguy hiểm hơn nhiều trong quan hệ đối ngoại, và đối nội. Nên việc gây dựng ý nghĩa quyền lợi chung giữa ta và Trung Quốc có thể lập lại quan hệ thân hữu càng sớm càng tốt, càng có lợi. Tôi mong Đại tướng chia xẻ nhận định này, trách nhiệm đặt lên vai Đại tướng rất lớn, trách nhiệm trước Đảng, trách nhiệm trước lịch sử. Vậy một cử chỉ hòa giải trong chuyến đi của Đại tướng là một bước ngoặt có ý nghĩa...
- Tôi đã nghỉ hưu. Tôi không đại diện cho Đảng, Chính Phủ, Quân đội cũng không. Tôi không hiểu sao tôi phải đi Bắc Kinh? Tôi không thể... Tôi không muốn. Giáp nói chậm.
- Ông Thọ và Bộ Chính Trị đều biết khó khăn... Nhưng Đảng không cần gì khác, ngoài sự có mặt của Đại Tướng trong Đoàn Thể Dục Thể Thao của ta đi dự Thế Vận Hội Á Châu.
- Thế thì cần gì đến tôi. Giáp nói.
Mai Chí:
- Không, theo ông Thọ cho biết; nhân dịp này Đại tướng có thể gặp gỡ một số yếu nhân trong Chính trị Bộ Trung Quốc. Chuyến đi này rất quan trọng. Đảng khẩn thiết yêu cầu Đại tướng đị
- Cụ thể về vấn đề gì? Giáp hỏi.
- Đề nghị hợp tác... bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tôi thấy rất gay go.
Mai Chí:
- Họ đã nhắn tin... và chìa tay... Ông Thọ đã bắt được tín hiệu... rất tốt đối với tình thế hiện nay, hơn nữa nó cũng nằm trong lĩnh vực quan tâm hàng đầu của Đảng.
Võ Nguyên Giáp:
- Tôi là tướng! Khó nói chuyện với họ về những vấn đề tế nhị như thế. Nhưng tôi biết một người có thể làm được. Ông ta thừa uy tín, có khả năng. Đó là Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Mai Chí xỗ sàng:
- Vô tích sự! Ông ta mù lòa, đui điếc, nói năng lẩm cẩm quá đáng rồi, để ông ấy đi, ông ấy sẽ bán cả nước.
- Vậy thì, ông Đỗ Mười, là hợp lý nhất. - Lại càng tệ hơn. Không thể được, hắn điên nặng, ai chẳng biết.
Vẻ khó chịu, thay đổi hẳn thái độ. Mai Chí nói xẵng giọng như ra lệnh:
- Đại tướng phải đi. Tôi nói vắn tắt, thẳng thừng như vậy đó. Ông Thọ bảo thế. Hắn nhấn mạnh.
- Tôi cũng cho ông và ông Thọ biết. Tôi không đi đâu cả.
Mai Chí phớt tỉnh hỏi lại:
- Đại tướng có muốn trực tiếp gặp ông Thọ không? Và có yêu cầu giúp đỡ gì trong chuyến đi Bắc Kinh sắp tới không?
- Đã nói, tôi không đi.
Mai Chí:
- Xin ngài lưu ý. Đây là chỉ thị của ông Thọ. Không có viện dẫn lý do gì hết. Việc đã sắp xếp như vậy rồi.
*
Ý muốn sắt đá của Thọ được áp dụng trên tất cả bình diện cả về đời sống tư riêng của các ủy viên trung ương Đảng! Và độc quyền đàn áp chính trị là một phương thức để giữ quyền hành và duy trì trật tự trong Đảng. Về phương diện đặc biệt này, Thọ khác với Mafia, Mafia chỉ ở mức độ nào đó thôi chớ không phải tuyệt đối.
Võ Nguyên Giáp, hiểu lệnh của Thọ, tức là luật, nếu từ chối y sẽ lãnh đủ... Giáp bị kẹt và hết cách thoát, y ấp úng. Sự tự tín của y đã tan biến đi đâu mất rất nhanh và giọng nói của y tự nhiên thiếu hẳn âm thanh quyết liệt:
- Anh nói với ông Thọ. Tôi cần thời gian suy nghĩ. Tôi chưa thể đi.
- Nếu vậy thì Đại tướng cần phải gặp ngay ông Thọ.
- Thôi được, để tôi sẽ gặp ngay ông ấy, nói chuyện.
- Tôi đề nghị, thứ ba tuần tới, Đại tướng gặp ông Thọ, ở Trụ sở Đảng số 4 Nguyễn Đức Cảnh.
- Tôi không muốn đến Trụ sở Đảng
- Thế ở đâu? Mai hỏi.
- Nếu ông Thọ, vui lòng đến nhà tôi, hoặc tôi thân hành đến nhà ông ấy cũng được.
- Tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của ngài, nói lại việc này với ông Thọ.
Giáp chưa biết có nên nói gì thêm, thì đầu bên kia gác máy.
*
Trước khi tướng Giáp ra xe đi đến nhà Thọ, cả nhà như giữ một sự im lặng dày đặc. Vợ ông bà Bích Hà, cuối cùng thốt lên lời cảnh cáo, là phải hết sức cẩn thận khi nói chuyện với Thọ. Và nhớ đừng có nhận lời đi Bắc Kinh, nó sẽ làm nhục ông đấy.
- Bà yên tâm đi.
Ông nói:
- Tôi sẽ không đi đâu hết. Tôi sẽ...
- Thì tôi bảo ông phải cẩn trọng, mà bao nhiêu lần nó làm nhục ông rồi! Nhưng những cái nhục đó cũng không đáng kể đâu.
- Thì cái nhục gì đáng kể, bà nói tôi nghe ?
- Không những nhục mà còn là tội tầy đình.
- Tội gì ?
- Tôi hỏi ông, việc để mất Hoàng Sa, Trường Sa không phải trách nhiệm của ông sao ?
- Không.
- Thế ông làm tướng để làm gì ? Và còn những ai trách nhiệm nữa ?
- Bà không biết việc này, chính cụ Hồ khi họp Bộ Chính Trị vào ngày mùng 7 tháng 9 năm 58 bàn về vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa, cụ nói: "Các đồng chí Trung Quốc đã giúp ta từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là nhờ ở họ. Nay họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, sao có thể từ chối ? Vả lại, mảnh đất hoang dã ấy chẳng có gì ngoài cứt chim..."
- Đồ ngu, tôi muốn ỉa vào mặt nó, nợ thì trả, còn đất đai sông núi tổ tiên ta đổ xương máu ra để bảo vệ, gìn giữ. Không một cá nhân nào, một tập đoàn đảng phái nào có quyền sang nhượng cho nước ngoài. Sử ghi: "Năm 1470, tình hình biên giới Tầu-Việt có phần căng thẳng. Vua Lê thánh Tông cho hội quân ở Lục Đầu Giang để biểu dương sức mạnh quân sự. Vua tuyên bố đanh thép:
Thiên Nam vạn cổ hà sơn tại.
(Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn)
Và đến năm 1473, trong lời dụ quan Thái Bảo Kiểm Dương với Lê Cảnh Huy được cử tiếp sứ Tầu. Vua còn tỏ ra cương quyết hơn nữa: "Các ngươi nên nhớ rằng, một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ. Ngươi phải cương quyết tranh biện. Chớ có cho giặc lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc, trình bày rõ điều hơn lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước sông, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì phải tru di.*"
Đó là sử Việt, sử Tầu. Ngày xưa cũng ghi. Mạo Đốn cướp chính quyền, tự lập nước Đông Hồ ở phía đông, nước Nguyệt Thị ở phía tây Hung Nô đều tương đối lớn mạnh, vua Đông Hồ sau khi nghe Mạo Đốn giết cha tự lập, đã cử sứ giả nói với Mạo Đốn: muốn được ngựa Thiên lý của Đầu Mán.
Mạo Đốn và quần thần họp nhau thương nghị việc này. Các quần thần nói: "Thiên lý mã là ngựa quý của Hung Nô, không thể chọ" Trái ngược lại, Mao Đốn nói: "Vì cớ gì lại yêu một con ngựa hơn một nước láng giềng ?" Thế rồi liền đem Thiên lý mã biếu cho vua Đông Hồ.
Vua Đông Hồ cho rằng Mạo Đốn sợ sệt Đông Hồ. Không lâu lại gửi sứ giả tới nói với Mạo Đốn, muốn được người vợ yêu của Mạo Đốn là nàng Át Thị. Mạo Đốn lại triệu tập quần thần tới thương nghị. Các quần thần đều phẫn nộ, bực tức vô cùng nói: "Đông Hồ vô đạo, ngông cuồng muốn cướp vợ yêu của Đan Vu tạ Xin cho được tấn công đánh nước chúng." Mạo Đốn lại nói: "Vì cớ gì mà lại yêu một người đàn bà hơn một nước láng giềng." Nói xong liền đem Át Thị dâng lên cho vua Đông Hồ. Vua Đông Hồ càng thêm kiêu ngạo, cảm thấy Hung Nô nhu nhược đáng khinh. Do đó, không ngừng xâm phạm ở phía tây. Lúc đó, giữa Đông Hồ và Hung Nô có một "mảnh đất bỏ hoang" ước khoảng hơn một ngàn dặm, cả hai bên đều không có sự quản lý thực tế. Vua Đông Hồ lại sai sứ giả đến nói với Mạo Đốn: "Mảnh đất bỏ hoang này, Hung Nô các người cũng chẳng có năng lực khống chế, ta muốn chiếm giữ nó."
Mạo Đốn lại trưng cầu ý kiến quần thần. Có người chủ trương không cho. Có người cho rằng: "Mảnh đất bỏ hoang đó bỏ đi chẳng có tác dụng gì, cho Đông Hồ cũng được." Mạo Đốn bỗng nhiên vô cùng bực tức nói: " Ngựa quý có thể cho, gái đẹp có thể dâng. Còn đất đai là nền tảng của quốc gia, sao lại có thể cho nước khác được ?" Tức thì đem toàn bộ số đại thần cho rằng nên biếu "mảnh đất bỏ đi" cho Đông Hồ, lôi ra chém đầu hết. Ông thấy chưa ? Chuyện "mảnh đất bỏ đi" đâu khác việc dâng đảo Hoàng Sa, Trường Sa chúng nó đều đáng đem chém hết.
Người Tầu đâu chỉ muốn một vài hòn đảo. Họ muốn cả nước ta.
- Xin bà nói nhỏ, đủ nghe thôi. Nguy hiểm quá.
- Chúng mày làm cách mạng mà không chịu xem sử. Cả ông nữa. Tôi kể cho mà nghe: Ngày xưa sử Tầu có ghi,
- Thôi! Tôi mệt muốn chết, trong mấy đêm qua tôi không ngủ. Nói thế là đủ rồi.
Một sự căng thẳng dâng lên trong lòng bà. Lại càng căng thẳng hơn nữa, khi xe ông rời nhà. Lúc ấy là vào khoảng 10 giờ sáng thứ ba. Có thể hơn thế một chút. Chiếc xe hơi ZIS đạn bắn không thủng của Liên Xô chế tạo đã đưa tướng Giáp đến nhà Thọ. Trong khi đó vợ ông nằm soài giữa giường. Hơi thở đứt quãng, nói một mình: "Tôi không thể sống nổi nữa rồi. Mất mặt quá! Không chịu được."
Nhưng bà tự tử, các con sống thế nào? Tình trạng sức khỏe không đến nỗi. Điều đau đớn nhất cho bà là cảm thấy nhục nhã và mất mặt! Mà tự tử thì chẳng hay ho gì. Ưu tư đến suốt ngày hôm ấy bà cứ nằm riết trên giường. Đương nhiên là chờ ông về.
*
Có tiếng động cơ xe hơi ở đằng sau nhà. Thọ bảo tên cận vệ:
- Có tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm tao.
Lập tức cửa được mở ra bởi một vệ sĩ, có đôi mắt cú vọ, và đôi lông mày của một tên giết mướn.
Thọ đứng đón Giáp ở ngoài bao lơn. Giáp cười, nhưng cái cười gượng gạo, cười không có nội dung, không có phương hướng. Cái cười vớ vẩn, phó mặc số phận. Sắc mặt âm thầm ủ dột cùng với nỗi căm giận sâu kín.
Thọ cũng cười, cái cười nham hiểm chết người. Hắn chìa tay ra:
- Hân hạnh, rất hân hạnh được Đại tướng chiếu cố đến nhà thăm tôi.
Tướng Giáp ngắt lời:
- Tôi đến đây với danh nghĩa cá nhân, trái với những gì ông có thể nghĩ. Bởi tôi đã hồi hưu không còn chút quyền gì trong Đảng, cũng không có ai ủy nhiệm.
Vẫn cái tật, chỉ tay lên trán, nụ cười nửa miệng, Thọ nói:
- Thì ta hãy ngồi với nhau nói chuyện đã nào, mà bà nhà và Đại tướng vui khỏe chứ?
- Không được vui lắm. Thưa ông Thọ. Nhất là đối với ông, Vợ con tôi đã bị đe dọa rồi đấy.
- Không. Tôi không nghĩ thế.
Thọ nói. Giáp cắt ngang:
- Thì thằng Võ Điện Biên nhà tôi, học ở Đông Đức, cứ bị sứ quán gọi lên hỏi hoài! Còn con Võ Thị Hòa Bình học ở Ba Lan cũng bị mật vụ hỏi thăm thường xuyên, là thế nào?
- Ông hiểu nhầm rồi.
Thọ nói:
- Cuộc điều tra do Tòa Đại Sứ của ta ở Đông Đức, với các sinh viên du học là chuyện bình thường. Luật pháp có trừ ai đâu. Ông không thấy cả con gái của Tổng Bí Thư Lê Duẩn, cũng phải chịu kỷ luật đó sao? Người nào việc ấy, nhiệm vụ của họ mà! Nếu như cháu không có chi sai phạm, mà tôi nghe các anh bên đó báo cáo. Thằng Võ Điện Biên con ông học rất khá, nó giữ kỷ luật tốt, không sai phạm gì ráo. Chắc là không xảy ra chuyện gì đâu. Là tôi hy vọng thế. Ông cứ yên tâm đi. Còn cháu Võ Thị Hòa Bình học ở Ba Lan, hiện nay thì cháu chỉ bị canh chừng thôi. Chứng cớ là họ đã theo dõi bắt được quả tang nó buôn lậu vàng và dollars. Ngày kia hay ngày mốt thì ông bà sẽ đón cháu ở phi trường Nội Bài. Nhưng nếu ông bà không làm gì thì chúng sẽ được về nhà. Sự im lặng của ông bà là cách tốt nhất bảo vệ cho cháu. Và nhân đây tôi cũng nói để ông biết luôn. Con gái lớn của ông Võ Thị Hồng Anh, học ở Nga, nó học thì rất khá đấy. Nhưng hồ sơ cũng không được ngon lành lắm đâu "liên lạc với người phương Tây". Những chữ này quá độc. Có thể là CIA..
Một vài phút căng thẳng im lặng trôi qua. Thọ nói tiếp:
- Tôi có thể bỏ qua tất cả những chuyện đó, nếu...
Tôi sẽ bảo họ trông nom các con ông một cách an toàn, trừ ra có việc gì mà tôi "không được biết", "câu này cực nguy hiểm" lỡ chúng nó giết rồi mới báo cáo thì sao? Nghĩa là tiền trảm hậu tấu. Cái cảm giác không rõ ràng, không chắc chắn là điều đáng sợ nhất với tình trạng của các con ông hiện giờ..." Còn với ông không dính dáng tí gì vào chuyện con ông sai phạm, thanh danh của ông ở trên mọi sự hiểu lầm. Nhưng vì một lẽ hoàn cảnh rất rõ ràng, mà các đồng chí ở nước ngoài phải lập hồ sợ Đó là chuyện tối thiểu phải làm, rõ ràng là như thế. Tôi rất tiếc... Hắn nói như thầy giáo dậy toán cho học trò lười thâm căn cố đế.
Trong khi Thọ nói, Giáp lo sợ con gái lớn của ông có thể bị bắt cóc, thủ tiêu trên đất Nga bất cứ lúc nào. Mà chẳng phải sự lo xa của tướng Giáp là quá đáng đâu.
Khi Thọ nhắc tới con gái Lê Duẩn, là Lê Vũ Anh, đã chết thảm thương. Chuyện này Giáp biết, mà có gì đâu. Chỉ vì Lê Vũ Anh lấy viện sĩ hàn lâm khoa học Maslov Liên Xộ Lê Vũ Anh đã bị chính Lê Đức Thọ cho tay chân của y ở Mạc Tư Khoa thủ tiêu, mặc dù Lê Vũ Anh lúc đó đã có ba con với Maslov. Chuyện này, Lê Đức Thọ có đặt điều kiện với Lê Duẩn: Một là tiếp tục ngôi ghế Tổng Bí Thự Hai là về hưu non để con gái được sống. Lê Duẩn đã ưng thuận điều kiện thứ nhất, nghĩa là thà để mất con, chứ không để mất chức Tổng Bí Thự
Cũng nên nhớ rằng ở cái thời đại Bréjnev - Lê Duẩn, "quan hệ anh em" giữa các nước cùng mang họ Mác-Lê, như Liên Xô, Trung Quốc, Albanie, VN, Bắc Hàn, không được phép lấy nhau. Những cuộc hôn nhân hỗn hợp bị nghiêm cấm tuyệt đối. Mặc dù luật pháp các nước không có ghi thành văn bản, chỉ có sự trao đổi bằng mồm giữa các lãnh tụ. Nhưng nó đã trở thành luật, một thứ luật quái gở. Chính con gái Tổng Bí Thư chết vì thứ luật đó và còn biết bao thảm kịch không tên đã xảy ra đối với các du học sinh khác nữa chứ.
Những chuyện này Giáp hiểu rất rõ. Và ông càng lo cho con gái ông trên đất Ngạ Chưa hết, lại còn đứa con gái út đang học ở Ba Lan bị quy kết tội buôn lậu. Ông hình dung thấy nó đang đứng sau những song sắt nhà tù. Mặt ông bỗng chốc nặng trĩu oán hờn, cam chịu. Phải nuốt những viên thuốc và thấy quả thật là quá đắng. Giọng uất hận, ông nói:
- Tôi thấy chẳng có một bằng chứng nào về con tôi có liên lạc với người phương Tây và đứa khác thì buôn lậu cả. Nhưng tôi biết chắc trong cả hai vụ này, chúng đều có một cái âm mưu gì xấu ngầm trong đó.
Thọ lại cười, nụ cười cá sấu:
- Bên tòa Đại Sứ, họ có gửi cho tôi bản "thú tội" của chính tay các cháu viết. Ông nghĩ sao?
- Cái đó, đối với bọn mật vụ có khó khăn gì? Nên bằng chứng nào của ông dẫn ra, tôi cũng không tin. Tôi biết các con tôi trong trắng, vô tội.
Giáp nói:
- Nhưng đây lại là sự thật. Một trăm phần trăm.
Thọ vừa nói tay vừa rút ngăn kéo bàn lấy ra một bản tự thú của Võ Thị Hòa Bình, chìa về phía trước mặt Giáp:
- Ông coi đây này, rõ ràng tôi đã nói với ông. Giáp giả bộ không hiểu thế là nghĩa lý gì! Có thể thấy rõ ràng, ánh mắt của người bị hạ nhục, chứa sự phẫn uất, hận thù, ông cúi mặt lặng thinh.
*
Lại một sự trớ trêu nữa. Ngay trong khi hai người nói chuyện. Chuông điện thoại cứ réo.
- A lộ.. Ai đấy? Thọ hỏi.
- Thưa anh lớn, tôi Nguyễn Khiêm Đại Sứ ở Moscow đây.
- Có việc gì gấp đấy anh Khiêm?
- Thưa anh lớn. Có một vài trường đại học Mỹ, họ mời Tiến Sĩ Vật Lý địa cầu Võ Thị Hồng Anh qua Hoa Kỳ.
- Về việc gì?
- Thưa anh chưa rõ. Vậy xin anh cho chỉ thị...
- Tối nay tôi trao đổi lại với anh được chứ?
- Dạ, dạ thưa anh được ạ.
- Tôi sẽ gọi lại. Thọ đặt máy xuống ngay.
Chuyện phone rất bình thường. Nhưng cái điều bất bình thường hơn là Giáp có mặt ở đây ngay lúc này. Thật là quỷ mới biết được những phù phép trong bụng dạ hắn.
Ôi! Lại một sự ngẫu nhiên đầy bi kịch. Lại một sự trùng hợp nữa chăng?
Không. Tất cả đã được sắp xếp có chủ ý.
*
Nghe Thọ với Khiêm, nói chuyện về Võ Thị Hồng Anh, Tướng Giáp ngồi như phỗng. Đôi mắt sếch lờ đờ bất động, như mắt lợn luộc. Cái vụ này với vụ con gái út ở Ba Lan dường như hai đòn quá nặng, quá hiểm giáng xuống cùng một lúc. Ông đã mất tinh thần, trong khi đó, đôi mắt mầu lục của Thọ cắm phập vào mắt ông! Mỉa mai, ngạo nghễ, diễu cợt. Như thể nói rằng - Mày có chịu nổi đòn phép của tao chưa? Và dường như muốn để cho Giáp thấm nhuần bài học, Thọ bỏ lửng câu chuyện rắc rối ở đó... Hắn nói:
- Ông hiểu, tôi mời ông đến đây không vì những chuyện riêng tư vụn vặt, mà muốn bàn với ông câu chuyện quốc sự trọng đại kiạ Chắc thằng Mai Chí nhà tôi nó đã thưa với ông rồi. Nhưng tôi rất tiếc là ông có ý định từ chối chuyện này.
- Thế ông có chuyện gì cần đến tôi nào? Giáp hỏi.
- Tôi muốn đề nghị ông cùng tham gia phái đoàn của Đảng công du Bắc Kinh.
Giáp lắc đầu:
- Việc đó bây giờ hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tôi đã nghỉ hưu mà.
Thọ cắt ngang:
- Thực ra ông cũng như tôi - Tuy rằng chính thức là đang nghỉ hưu đó - Nhưng không dừng được. Thế nào thỉnh thoảng cũng phải làm một việc gì. Mà chúng ta không được quên rằng sự lựa chọn của chúng ta trong công vụ không thể nào theo quy luật chung, cũng không có thành vấn đề giữa người tại chức, và người đã hồi hưu, người "tốt" có năng lực, có uy tín, chức vụ.
- Tôi còn chức vụ gì đâu? Giáp nói.
- Thì ông đã từng đội ba cái mũ lớn: mũ thứ nhất Đại tướng Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, mũ thứ nhì Đại tướng Tổng Quân Ủy, mũ thứ ba Phó Thủ tướng Thứ Nhất, và...
- Chuyện đó xưa rồi. Tôi nghĩ rằng chưa có lúc nào, tôi lại có ý nghĩ là mình sẽ hấp dẫn lôi cuốn, vào việc làm một sứ thần. Nhất là đối với Bắc Kinh. Trong trường hợp này có vẻ hài hước hơn hết cả. Những chuyện ông ép tôi làm như Chủ tịch Ủy Ban Sinh Đẻ Có Kế Hoạch trước kia, nay lại là Sứ thần gần như ngoài giới hạn, ý nghĩ của tôi.
- Đại tướng sai rồi - Giọng Thọ lớn hơn - Chuyện này có gì là hài hước đâu! Cũng không phải là chuyện vượt qua hàng rào sắt của nhà binh. Ông không thể nói là ông chỉ làm một việc độc nhất trên đời là đánh giặc. Ông phải nghĩ đến quyền lợi chung.
- Quyền lợi gì? Giáp hỏi.
Thọ:
- Tôi đang nghĩ đến một sự móc nối lại quan hệ giữa hai đảng Trung Quốc và ta. Chúng ta phải cải thiện tình thế, nếu không sẽ bị mắc kẹt, nhân đây tôi cũng cho ông hay: tháng trước tôi đi Moscow mười ngày, gặp Gorbachev hai lần. Ông ta đưa ra những đề nghị cải cách ngược đời xa lạ với đường lối của Đảng từ xưa đến nay. Thật nguy hiểm không thể chấp nhận được.
- Những đề nghị gì? Có quan hệ đến Đảng ta, ông cho tôi hay?
- Gorbachev đề nghị một cuộc cải cách chính trị sâu rộng trong quốc gia, một quốc gia hoàn toàn mới mẻ. Kiểu chế độ Tổng Thống ở Mỹ. Đảng CS chỉ giữ sự lãnh đạo ý thức hệ, còn quyền điều hành quốc gia thuộc về chính phủ. Ông ta đưa ra hai khẩu hiệu chiến lược: thứ nhất "Perestroika" (tái sắp xếp), thứ hai "Glasnost" (cởi mở). Nếu "tái sắp xếp", thật rùng rợn... còn Glasnost "cởi mở" đất rung chuyển... Hiện ông ta đang vận động trong Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CS Liên Xô và cả các lãnh tụ đảng ở Đông Âu nữa. Tôi lo ngại một sự bất trắc có thể xẩy ra, nguy hại cho Đảng; trong đó có tôi và ông, nên chúng ta bằng mọi giá phải nối lại quan hệ với Bắc Kinh. Tôi hiểu rằng khó khăn đấy. Vì họ còn căm giận ta vì nhiều chuyện lắm, nhất là trận chiến hồi năm 79. Tất nhiên không có vấn đề là những thù hằn, mâu thuẫn ấy cứ vĩnh viễn ở mãi một chỗ, trong một tình thế đổi khác.
Thật ra trong lúc này và trong tương lai, tôi chỉ nhìn thẳng vào khả năng: yêu cầu hợp tác giữa hai Đảng CSVN và Trung Quốc, tiếp tục bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa và tập trung mọi nỗ lực vào việc bảo vệ hai đảng. Nhưng tiếp tục một cách tuyệt đối bí mật. Trong khi đó ta theo dõi các biến cố ở Nga Sô để kịp thời ứng đối.
Vì thế tôi đã chỉ thị cho Hồng Hà tham dự vào cuộc hội kiến giữa đại diện hai đảng ở Tòa Đại Sứ của họ ở Công Gộ Cuộc gặp gỡ diễn ra không đến nỗi tệ quá. Vì họ tỏ ra hòa giải với ta, hai bên đều nhất trí về tình hình ở Nga. Và nhiệm vụ của hai Đảng, nghĩa là quan điểm gần như giống nhau, trên phương diện đó tôi nghĩ là cần phải hợp tác với họ, càng sớm càng tốt. Một lần nữa, vấn đề không phải hoàn toàn phụ thuộc ở phương diện nhà nước, mà ở diện quyền lợi chung giữa hai Đảng có hay không? Nếu có sự giúp đỡ của Đảng CS Trung Quốc, chúng ta có thể chống lại những đe dọa của phương Tây. Chúng ta phải tin ở phương diện đó. Chúng ta bất đồng với họ trên nhiều phương diện. Nhưng cái gì chúng ta làm được lúc này và trong tương lai là sự ủng hộ trong bóng tối của họ. Vì họ cùng một lập trường tư tưởng Marxism Leninism như ta, nên việc lập lại quan hệ thân hữu với họ là cần thiết. Họ có thể yểm trợ giúp đỡ những nước xã hội chủ nghĩa nếu quyền lợi của họ bị đe dọa. Tôi tin như vậy.
*
Thọ còn tiếp tục tuôn ra cho tướng Giáp nghe những bài học lịch sử trang nghiêm.. Là nói về bộ mặt thì có cái vẻ trang nghiêm ấy - Nhưng đôi mắt thì vẫn tiếp tục biểu hiện của kẻ cả. Như muốn nói rằng "để xem mày chịu đựng được tao đến đâu nào?".
*
Thọ biết tỏng vợ chồng Giáp rất lo cho mấy đứa con. Sẵn trong tay thanh bảo kiếm, hắn đi những đường rất hiểm độc. Lấy các con của tướng Giáp làm điều kiện mặc cả với Giáp trong chuyến đi đêm với Bắc Kinh. Nên các con của ông đã trở thành con tin trong tay trùm Mafia Lê Đức Thọ, để nó xỏ mũi ông, mà ông đâu còn lựa chọn nào khác, đành buộc lòng nhận lời thằng Thọ qua Bắc Triều, để cứu lấy các con. Tuy nhiên, bệnh ngoan cố còn nặng. Ông phản ứng một cách yếu ớt:
- Tôi đề nghị ông, cử Đỗ Mười đi Bắc Kinh thương thuyết chuyện này là hợp lý nhất.
Thọ ngừng lại, mắt nhìn chằm chằm vào mặt Giáp:
- Có thể là ông Đỗ Mười, đã hoàn toàn bị rối loạn thần kinh. Và như thế thì khá phiền toái. Trong hoàn cảnh này chính ông phải đứng ra đảm nhận nhiệm vụ đó mới được.
- Thế trong Đảng không còn ai đi được nữa à? Giáp hỏi Thọ.
- Ông không phải là người vô danh, đối với Bắc Kinh, mà là người có đủ tầm vóc nói chuyện với họ.
- Tôi sẽ làm theo lệnh của ông. Trong lúc tôi chưa biết những động cơ chính trị của họ. Như thế có lợi gì?
- Tôi sẽ có những tư liệu mới nhất để ông tham khảo...
Giáp:
- Tôi cần biết tới điểm nào chắc của yếu tố về vị trí của người sẽ đối thoại với tôi. Các thể thức trao đổi. Ngoại giao cần thiết ở một thế lực thăng bằng tế nhị. Nếu họ đưa ra một nhân vật tầm thường để tiếp tôi thì còn gì là thể diện quốc gia?
- Về phương diện này, các liên lạc quốc tế trước kia cũng như bây giờ giống nhau. Ngay hồi năm 79, sau khi hai bên ngừng bắn, khi tình hình còn căng thẳng họ cũng cử những đại diện ngang cấp để điều đình với ta. Ông khỏi phải lo chuyện ấy.
- Nhưng khi đó chúng ta có hỗ trợ bởi các lời nói mạnh mẽ bằng những hành động mạnh của người Nga. Còn bây giờ sau ta không có ai, thì không thể thảo luận trên bình diện ngang nhau với giới lãnh đạo Bắc Kinh, nếu không có hậu thuẫn.
- Moscow vẫn bên cạnh chúng ta, ông yên tâm đi, còn nói về nội bộ chính trị ở Nga - là tôi lo xa thế thôi. Hơn nữa ông phải nên biết rằng đây là cuộc "đi đêm" - chúng ta phải chọn phương cách ngoại giao thầm lặng để có thể rút mà không sợ mất mặt. Nghĩa là "bí mật" trong các cuộc thương thuyết không thể để một tiếng sủa của báo chí ngoại quốc. Lẽ dĩ nhiên nó là một mánh khóe hữu ích trong tất cả các cuộc thương thuyết, và cũng là một nguyên tắc sơ đẳng của chiến lược chính trị để đạt mục đích. Như trong cuộc chiến tranh chống Mỹ-Ngụy, mục tiêu của ta là "thắng trận toàn diện" vô điều kiện. Và chiến lược của ta lúc đó là dùng và phối hợp tất cả phương tiện để đạt mục đích - Khi ta yếu, làm cho người khác tưởng rằng mình mạnh là chiến lược tốt. Ngược lại khi ta mạnh, làm cho người khác tưởng rằng yếu là chiến lược không tốt có thể gây những sai lầm nguy hiểm về tính toán của kẻ thù của mình. Hội nghị Paris năm 73, giữa tôi và Kissinger đã đi đêm một tính toán sai lầm loại đó của Hoa Kỳ. Về phương diện này, tôi đã suy luận kinh nghiệm cá nhân của người từng họp kín với Kissinger, ngoại trưởng của Tổng Thống Nixon. Ông ta cũng đã từng "đi đêm" qua Bắc Kinh để thương thuyết với kẻ thù... Và kết quả của mối liên hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc ra sao thì ông đã thấy... Nên tôi có thể nói với ông rằng. Bí mật là điều kiện tiên quyết để giải quyết các vấn đề quốc tế. Với chúng ta "bí mật" là đặc biệt cần thiết trong sự giao tiếp với Bắc Kinh.
*
Thọ "giảng đạo" nghệ thuật ngoại giao ban đêm. Giáp nhìn nhận rằng y có lý, mà Thọ là sản phẩm của mối liên kết các nguyên tắc bí mật từ trước đến nay. Và nắm quyền lực tuyệt đối. Tuy y không làm vuạ Nhưng biết cách cai trị, quyền hành được sử dụng một cách khéo léo. Còn tướng Giáp, ông không sợ mất phẩm cách. Nhưng không được vui, trước những phiền toái. Có khi cay đắng và có khi căng thẳng. Ông cũng không khóc, không tiếc gì cho ông. Ông có đau khổ chăng? Đồng hồ của thời gian lại bước thụt lùi... Ông vẫn cố gắng một cách tuyệt vọng làm được chừng nào hay chừng ấy công việc Thọ giao, mặc dù ông không có cảm tình với Bắc Kinh.
*
Vài phút im lặng trôi qua. Giáp hỏi:
- Thế phái đoàn của ta gồm những ai?
- Càng ít càng tốt. Thọ trả lời.
- Tôi không được thạo tiếng Tầu, cần một phiên dịch của Bộ Ngoại Giao.
Thọ thong thả bảo:
- Ông không cần thông dịch của Bộ Ngoại giao. Đã có Hoàng Văn Hoan ở đó. Ta coi hắn như người đồng chí xưa... một trong những người được Bắc Kinh cưng và tín nhiệm nhất. Tôi hài lòng. Và ông có thể nói chuyện tự do. Khi mà chúng ta chấp nhận Hoan, chúng ta giành được yếu tố quan trọng, như thế lợi nhiều cho sự giao thiệp của tạ. Cùng trong trường hợp này nếu để một thông dịch viên không có lợi. Còn chuyện phản đảng của Hoan, coi như chuyện đã rồi. Giản dị vì lẽ chúng ta phải hết sức khéo léo nên muốn hữu hiệu, lẽ cố nhiên phải ngăn cản sự khó chịu nho nhỏ với kẻ thù quyền thế, nên chúng ta tỏ thái độ hoan nghênh sự có mặt của Hoan. Và không kết tội nữa. Khi có nhu cầu... Ông có thể hành động như một người giảng hòa với sự ủng hộ của tôi, luôn luôn tỏ ra ý giảng hòa thật rộng rãi và dù Hoan có tội với Đảng. Cũng phải "giữ ý tứ" theo phép lịch sự. Về phương diện này ông gánh một trách nhiệm lớn.
*
Đề nghị của Thọ, làm Giáp kinh ngạc, mà Thọ có lý. Hoan là đồng chí xưa, là Ủy viên Bộ Chính Trị - Chủ Tịch Quốc Hội - Đại Sứ của Hà Nội ở Bắc Kinh suốt tám năm. Sau bị cánh Thọ Duẩn chèn ép phải bỏ chạy qua Bắc Kinh, được Bắc Kinh o bế dùng làm lá bài của họ. Trong cây bài này có tính toán... kẻ lật qua người lật lại.
Đây là một khúc quanh chính trị. Nhưng chỉ một tiếng của vụ Hoan - Giáp gặp nhau mà lộ ra thì Giáp cháy, Bắc Kinh cũng chẳng đẹp gì. Cuộc giao hảo này sẽ bị khinh bỉ và xấu. Bởi Bộ Chính Trị cơ quan tối cao của Đảng "nghi kỵ" Hoan.
Thật khổ cho Đảng lẫn nhà nước. Những thổ lộ về ngoại giao, an ninh quốc gia chẳng ai biết, trừ Lê Đức Thọ. Ông ta khéo lèo lái, khéo dàn cảnh, khéo chọn người.
*
Cuối cùng họ đã thỏa thuận với nhau một cách lạ thường. Giáp nói:
- Thôi! Tôi sẽ đi. Nhưng tôi có thể nói thành thực với ông được không, ông Thọ?
Vẻ khoái chí, hài hước, Thọ nói:
- Xin Đại tướng, đừng mất công như thế làm gì! Ngài cứ việc nói những điều ngài nghĩ. Tôi trước sau vẫn giữ cảm tình với ngài. Và nếu tôi có cam kết với ngài điều gì. Chẳng hạn như cho cháu Võ Thị Hồng Anh đi Hoa Kỳ, thì tôi có thể giữ được những lời cam kết đó.
Thọ cười một cách có vẻ tế nhị, tướng Giáp gật đầu:
- Trước tiên, tôi muốn nói, từ khi nắm chức vụ Trưởng ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, Ông đã tiến hành mọi công việc với một bàn tay bậc thày. Tôi chắc là tài năng của ông ngang hàng với tổ sư phù thủy. Còn tay chân của ông thì Mafia còn phải gọi bằng cụ. Vì vậy ông không có vấn đề gì để phải lo về phía Đảng hay chánh quyền phản đối những việc ông làm.
- Tôi đã làm những gì? Ông kể tôi coi? Thọ hỏi.
- Chẳng hạn như việc bắt giữ các tướng Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, bộ trưởng Ung Văn Khiêm hồi năm 1963 khi ông thân Tầu, khi ông thân Nga. Bây giờ để làm vui Bắc Kinh ông hạ thủ những người có ý định cản ông.
Mới đây ông hại hai tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cùng một loạt các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Tôi hỏi ông: tại sao chúng ta phải mất công để loại ra ngoài những phần tử trung kiên, ưu tú nhất của Đảng?
- Thì có nghĩa là những phần tử ưu tú ấy, chắc chắn đã thấy và có thể nghe một điều gì đó, của ai đó... mà lẽ ra họ không được nghe. Tôi nói có rõ không? Thọ nhấn mạnh. Và thế là chúng ta thử hỏi cái việc phải loại bỏ ấy là cái gì? Cực chẳng đã, chúng ta phải lấy những bức hình của Mao Trạch Đông, treo lên bàn thờ từng nhà mỗi gia VN. Việc này lầm lỗi đầu tiên tại ông HCM! Chứ không phải thằng Thọ này! Chính ông ta rước voi về dầy mả tổ. Việc này từ Đảng đến dân ai cũng biết. Ông Hồ lấy tư tưởng Mao Trạch Đông, làm kim chỉ nam. Ông còn trách gì tôi? Ông có nhớ báo cáo chính trị, do ông Hồ đọc ở chiến khu Việt Bắc năm 1951 không?
Giáp ngồi yên lặng vì Thọ nói đúng chính xác. Mà sự thực trong cương lĩnh của đại hội đảng CSVN lần thứ II ơ ở chiến khu Việt Bắc năm 1951, HCM đã lấy "tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam".
Lúc đó cả đảng mừng. Nhưng không lâu họ tỏ ra nghi ngại, và phải trả giá mắc hơn hết trong lịch sử. Nó là một quyết định đường lối chính sách đưa đến hậu quả tai hại cho cả dân tộc. Do sự hiểu biết các thực tế lịch sử của ông ta không được thấu đáo. Nên bản cương lĩnh đó trở thành một bi kịch cho cả dân tộc VN. Một bi kịch tủi nhục về sự lệ thuộc tư tưởng không được xã hội lịch sử tha thứ.
Về điểm này tướng Giáp hơi u mệ Hay là ông mải trận mạc, hoặc là... Nên ông vẫn hỏi Thọ:
- Thế ai đã mời cố vấn Tầu sang nước ta chỉ đạo cách mạng Cải Cách ruộng đất?
-Cũng chính ông ta. Chuyện ấy rõ như ban ngày. Không tốn một que diêm cũng rõ. Mặc dù biết việc dâng Hoàng Sa do HCM, Giáp vẫn hỏi:
- Thế việc dâng đảo Trường Sa cho Bắc Kinh, ông Hồ có thuận không?
Thọ cười, rõ ràng y đã trở lại như cũ rồi, độc ác bí mật như quỷ. Hắn nói:
- Trước khi Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh dâng những hòn đảo này, có một cuộc họp hẹp. Ông Hồ nói: Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín (9) năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc,
... Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối. Khi ông Hồ phát biểu như vậy, không có ai phản ứng gì. Tôi nhớ trong đó có Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Và có mặt cả ông trong cuộc họp đó. Ông tắt máy... nghĩa là tán thành rồi còn gì? Đến năm 1963, tôi lại hỏi ông ta về chuyện dâng cho Bắc Kinh những hòn đảo đó. Ông Hồ bảo: Về phương diện ngoại giao, cũng như trong các địa hạt khác trong đời sống, người ta chỉ có được những gì mình cần bằng cách cho kẻ khác những gì họ muốn. Cái sự nhượng bộ của Phạm Văn Đồng trước kia chứng tỏ sự thiện chí của Đảng tạ Trung Quốc đã viện trợ cho ta hàng tỷ dollars trong cuộc kháng chiến chống Pháp, anh biết đấy. Tôi bảo thẳng vào mặt ông ta có thằng Chính ngồi đó. Trung Quốc họ muốn cả nước VN này, chứ không phải chỉ vài hòn đảo, nên nợ có thể trả, chứ đất không nhượng đất. Việc làm của ông và Đồng là khờ khạo và nguy hiểm. Ông ta im lặng, còn thằng Chinh thì lảng đị Tôi nghĩ, nếu muốn nói chuyện quá khứ, nên để dịp khác, tôi sẽ hầu chuyện ông. Còn lúc này tôi khuyên ông nên tỉnh dưỡng để chuẩn bị cho thật tốt chuyến đi này. Cả Đảng chờ đợi sự thành công của ông. Mà ông nhớ cho tôi điều này "giữa đồng chí với nhau không cần thương nhau, chỉ cần dùng lẫn nhau". Nên thư trình bày dưới khía cạnh càng đẹp càng tốt, nhấn mạnh các hy vọng nối lại tình hữu nghị anh em, đưa đến cho hai đảng sự nhất trí... Và sẽ đi đêm cam kết, bảo vệ quyền lợi chung. Và luôn nhớ, ta phải thắng bớt cái bực tức quá khứ.
Giáp nói:
- Tôi chẳng có hứng thú gì về chuyến đi ấy. Nhưng tôi sẽ làm hết mình.
Thọ khuyến khích:
- "Tiếp tục tranh đấu" bảo vệ Đảng. Hãy khỏe, không phải lo chuyện các cháu nữa.
Thọ nói, tay nắm chặt tay Giáp.
*
Biết mình không còn lựa chọn nào khác, phải nhận lời Thọ đi sứ Bắc Kinh. Ông bỗng liên tưởng đến cảnh cố vấn của cụ Mao năm nào, ngồi dựa lưng vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, gác đại cả hai chân lên mặt bàn, tay cầm ly rượu Mao Đài, nhổ đờm ào ào xuống thảm, để phán bảo các cán bộ cao cấp của Đảng, hồi cải cách ruộng đất, mà ngay cả những vị bự trong Bộ Chính Trị, đến cả HCM cũng không một người nào dám hé răng, mặc dù biết họ nói càn, làm ẩu, ấy là lúc tình hữu nghị giữa hai đảng còn êm thắm, mặn nồng.
Chứ như bây giờ chắc phải tệ hơn thế nhiều. Ông biết rằng Bắc Kinh sẽ làm nhục ông, mà cảnh ngộ của ông thật bi ai! Lúc này không bạn bè, không một người thân, chỉ toàn những cái gai chọc vào đôi mắt, đám tướng lãnh cũ trung thành, kẻ thì chết, người bị Thọ bức tử, kẻ đi tù, bọn còn lại thì quay quắt từng giờ: rõ ràng là chuyện của cơn ác mộng. Con cái bị đe dọa, bản thân ông thì bị Thọ giam lỏng trong dinh. Lòng ông căm giận vô cùng.
*
Chiếc xe hơi đã đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến nhà của Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng Lê Đức Thọ. Lại đưa ông về nhà.
Đại tướng có quyền được hưởng sự đưa đón của ba người. Một tài xế, hai cận vệ ngồi kèm sát hai bên ghế sau. Cả ba tên đó, đều là mật vụ của Thọ.
Khi ông bước vào trong nhà. Vợ ông, bà Bích Hà, vẻ mặt lo âu, phiền não hỏi:
- Thế nào hở ông?
- Tôi phải đi Bắc Kinh chứ còn sao nữa!
Nghe ông nói "phải đi" Bắc Kinh, mồm bà há hốc ra, người ngồi chết cứng trong chiếc ghế phô tơi. Hai tay run lẩy bẩy, bà gào:
- Điếm nhục quá ông ơi! Sao ông nói không đi cơ mà?
- Bà muốn các con chết sao?
Không ai nói nữa. Căn phòng trở lại im lặng.
Để cố định thần lại, tướng Giáp đi lại trong phòng như người đang bị một cơn giận đẩy lên làm cho nghẹt thở và ông tướng đang có những ý muốn liều trút bom lên đầu thằng Thọ. Cứ mỗi phút trôi qua, mạch tim ông lại chạy nhanh hơn và đã tiến đến một nhịp đập kỷ lục. Vì tức giận.
*
Ông rất có thể, trong lúc còn chưa quá trễ. Xây dựng tiếp một kế hoạch huyền thoại nào đó, bất ngờ tấn công vào sào huyệt của thằng Thọ, trước khi nó về chầu Karl Marx. Nhưng mà ở tình thế này thì chịu! Bởi ông bất lực không điều binh khiển tướng được nữa rồi. Thời của ông đã qua rồi. Ông hồi tưởng lại mới ngày nào, năm nào, rừng người tụ tập ở quảng trường Ba Đình đông như kiến cỏ, tiếng quân nhạc vang lừng, cờ xí rợp trời. Các lãnh tụ đứng trên lễ đài vẫy tay chào. Ông đi xe mui trần duyệt đoàn quân danh dự, dưới trướng của ông có hàng triệu lính. Nay không còn gì.
Ông đã bị nghỉ hưu. Nhưng vốn giầu óc mộng mị, ông ước có một toán quân cảm tử, mượn tạm của Diêm Vương. Nhưng dễ gì Diêm Vương cho mượn, hay là cầu xin Thượng Đế cho một đội quân cứu thế, mới có thể tiêu diệt được thằng Thọ. Chuyện này lại càng khó xảy ra, đối với một vị tướng vô thần. Còn việc tính đến chuyện liên lạc với tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn ở dưới Âm Phủ, mộ một bọn lính biệt kích đánh thuê, lựa trong số những tay thiện xạ nhất thế giới Âm Phủ, kèm với một toán đặc công, một là bắn chết thằng Thọ, hai là bắt sống nó để ông xử tội.
Sự mạo hiểm này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Với lại làm sao việc đi mộ một bọn lính biệt kích, đặc công như vậy, ở dưới đó mà lại không làm tung tóe cả tin tức lên trên thế gian, lộ ra sẽ làm nguy hại đến cả tính mệnh của vợ con. Những ý nghĩ của Đại tướng, đại khái cũng ngộ nghĩnh như vậy.
Giải pháp thứ ba! Tấn công can thiệp của ngoại bang ử Người ta không có thì giờ! Vả lại họ đâu có biết tình cảnh của ông! Hoặc là họ cũng cóc cần đến ông già trên tám chục tuổi, để đóng những tấn tuồng mới. Nên ông cứ phải ở mãi cái thế quy hàng thằng Thọ. Chịu nhận mọi điều kiện theo ý của nó. Đây là cái giá vô liêm sỉ và đắt nhất, mà các vở đã được dựng lên và thực hiện gần như đủ lịch sự. Vì ông là vị Đại tướng đáng kính, tuy bị Mafia trấn lột hết quyền lực đến mức độ cuối cùng. Nhưng trong vòng vài phút đồng hồ ngồi trên xe ông như chết lịm đị Câm lặng. Kẹt cứng dưới con mắt canh chừng nghiêm ngặt của bọn mật vụ, với danh nghĩa những tên cận vệ bảo vệ cho ông. Và rồi đột nhiên, bất thần một tia chớp chói lòa vụt qua trong những tế bào chất xám của ông! Chưa phải là thời điểm tổng phản công. Chưa phải là lúc tiêu diệt chúng nó, mà bây giờ phải làm lại từ đầu và theo đuổi nó đến kỳ cùng. Nếu còn sống được đến năm 2000 lúc đó sẽ thấy rõ ai thắng ai!
Tôi thừa nhận, con đường Đại tướng đi là chính đáng. Nhưng không có nội công, ngoại kích, thì dù là một vị Thống Soái tài ba lỗi lạc, như ông vẫn lâm vào cảnh đơn thương độc mã, mà ngay khi ông mới rỉ tai vài tướng về ý nghĩ diệt thằng Thọ của ông. Như vậy chưa kịp hành động, thì bọn mật vụ của Thọ đã ra tay trước, bắt bớ tống giam hàng loạt, nhanh và gọn hơn cả quỷ sứ Diêm Vương. Với khẩu hiệu "bắt nhầm ngàn người chứ không để bỏ sót một người", nên dù kế hoạch, chiến lược, chiến thuật của Đại tướng có hay như binh pháp của Tôn Tử, thì cuối cùng những mầm mống ông reo vẫn bị sói hùm dọn sạch.
Thất bại. Và thất bại! Tuy nhiên, ông không chịu dừng lại. Không tỏ ra "thối chí ngã lòng" mặc dù thế cô, thấm thía nỗi cô đơn. Ông vẫn tiếp tục. Nhưng thử hỏi: Đại tướng còn bao nhiêu thời gian để làm việc ấy? Khi tuổi đời ông đã tám mươi hai?
Trần Nhu
* Đại Việt Sử Ký Toàn Th ư, trang 719 - Tập II
Ghi chú: Bạn đọc thân mến,
Truyện "Tướng Đi Đêm" là một chương trong số 27 chương của cuốn tiểu thuyết lịch sử Ngôi Sao Sáng Mafia, viết về những hoạt động trong bóng tối của Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức trung ương Đảng và guồng máy mật vụ do y điều khiển. Tôi viết xong năm 1993 nhưng chưa kịp xuất bản thì gặp nghịch cảnh trong gia đình. Bỏ thất lạc, chỉ còn lại vài chương, tôi nhận thấy vẫn có ích cho bạn đọc, nên phóng lên mạng, ai muốn in ấn, đều được khuyến khích.

Copyright © 2010 VN.NET
All trademarks and copyrights on this page are owned by their respective owners.

http://www.vn.net/article.php/20070301165053754

No comments: