Friday, April 16, 2010

30 THÁNG TƯ * NHỮNG THIÊN BI HÙNG SỬ

*
Tượng năm Tướng lãnh VNCH tuẫn tiết 30/04/75

, ,

Điêu Khắc Gia Phạm Thế Trung tạc tượng chân dung năm Tướng lãnh VNCH tuẫn tiết 30/04/75.

Tác Giả: Đoàn Quang


Thiếu Tướng Nguyễn khoa Nam
(1927 – 1975)

Thiếu Tướng Phạm văn Phú
(1929 – 1975)

Chuẩn Tướng Lê văn Hưng
(1933 – 1975)

Chuẩn Tướng Lê nguyên Vỹ
(1933 – 1975)

Chuẩn Tướng Trần văn Hai
(1926 – 1975)

Tác Phẩm của Điêu Khắc Gia Phạm Thế Trung
http://www.phamthetrung.blogspot.com
p.sculptor@gmail.com

---o0o---


Toronto News : Oct.25, 2009
Đoàn Quang viết

Là bạn lâu năm với Phạm Thế Trung nên mỗi khi có sáng tác mới anh thường email cho xem rồi chúng tôi bàn xa tán gần với nhau về những tác phẩm mà anh đã hoặc sắp thực hiện. Sau một thời gian dài không có dịp gặp lại, tuần qua anh điện thoại mời tôi lên để xem những sáng tác mới mà anh đã dành hơn một năm để hoàn tất. Từ nhà tôi tới Studio chỗ anh làm việc mất gần 2 tiếng lái xe nhưng tôi đã không ngại xa xôi để tìm tới thăm …

Phải nói là tôi đã không dám nghĩ tới có một ngày được nhìn thấy tượng chân dung của năm Tướng lãnh đã vì danh dự của Tổ Quốc , trách nhiệm cùng toàn dân, dùng độc dược , hoặc những viên đạn cuối cùng tự kết liễu đời mình như dóng lên tiếng nói đầy quả cảm ,theo gương của các bậc tiền nhân , khi đất nước bị xâm lăng nếu đã không gìn giữ được bờ cõi thì ” Thà chết theo Thành chứ không chịu đầu hàng ”, Đó là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ và Chuẩn Tướng Trần văn Hai . Những vị anh hùng đã quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng…

Bằng chất liệu đất sét, ĐKG Phạm Thế trung đã tạc 5 chân dung nói trên với kích thước : cao 52 inches, ngang 33 inches , anh dùng lối tả chân hiện thực để khắc ra được những nét kiêu hùng , oai nghi và mãnh liệt…, thêm vào đó anh còn diễn đạt rất rõ nét những cá biệt trên từng gương mặt, từng ánh mắt cương quyết và đầy quả cảm của mỗi vị . Quân phục , cấp bậc, mũ nón và huy hiệu khắc rất tinh vi , phát tiết ra phong thái can trường của các Tướng chỉ huy nơi chiến địa .Khi được hỏi vì sao Tướng Phú lại mang quân phục “nhẩy dù”, hoặc Tướng Trần Văn Hai mang quân phục “Cảnh Sát ‘’ , tôi đã được anh giải thích : - Tướng Phạm Văn Phú xuất thân là một sĩ quan trong binh chủng Nhẩy Dù và Tướng Trần Văn Hai đã nổi tiếng với toàn quân dân khi ông là Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia trước đó, nên tác giả muốn ghi lại những hình ảnh đặc biệt này.

Sự cảm xúc khi nhìn thấy những tượng chân dung điêu khắc quá giống , khiến tôi nghe ra như có tiếng la xung phong đang vang dội cả một góc trời của các trận đánh khốc liệt năm xưa , những An Lộc , Kontum , Lai Khê…những trận chiến đã tạo ra nhiều trang sử oai hùng được viết bằng máu xương và nước mắt.!

Tôi nhìn sững chân dung của năm vị Tướng Lãnh , những vị mà 35 năm qua kể từ biến cố 30/4/1975 , đã có rất nhiều bài viết , văn, thơ nói đến, viết về …nhằm ngợi ca tinh thần trách nhiệm, nghĩa khí của những vị anh hùng đã tuẫn tiết cùng với nỗi đau chung của dân tộc . Trong cùng tinh thần đó qua nghệ thuật tạo hình , PhạmThế Trung đã làm sống dậy tinh thần bất khuất của các chiến sĩ đã hy sinh máu xương, tiến về phía trước để giữ gìn từng tấc đất của Cha Ông , bằng cách tạc chân dung 5 vị anh hùng đã tự sát trong ngày 30/4/1975. Tượng đài của các Tướng lãnh cũng là một biểu tượng hùng hồn nói lên tính chất quả cảm và oai hùng của toàn thể quân dân cán chính trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa .

Và trên hết mọi điều, những hình tượng này mang ý nghĩa của lòng ngưỡng mộ …đây là một sự tưởng niệm của toàn thể chiến sĩ và đồng bào đối với những Anh Hùng dân tộc đã sống và chết cho chính nghĩa của quê hương, một quê hương với nhiều điêu linh tan tác , nhưng đã từng có những trang sử đầy hiển hách và hùng tráng …

Đoàn Quang

Phạm thế Trung đang tạc tượng Chuẩn Tướng Lê nguyên Vỹ

Nguồn: http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=1686:1686&catid=37:bandoc&Itemid=56


Tướng Lãnh VNCH 30/04/1975

qlvnch-sm-1

toquocghion1

Những Vị Tướng Tự Sát :

* Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975)

Vào lúc 11 Giờ 30, ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các binh sỉ đã tự kết liễu đời mình.
* Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 (19??-1975 )

Tướng Hưng đã được vinh danh “Anh Hùng An Lộc” trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc Bình long. Tướng Hưng đã tự sát vào tối ngày ngày 30.04.75 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.

* Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1933-1975)

Sau khi nhận được lệnh phải đầu hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành dinh ở Lai Khê.


* Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh (1925-1975)

Vào đêm ngày ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Hai đã tự sát tại trung tâm Ðồng Tâm.

* Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975)

Thiếu Tướng Phú là người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên, đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân sử cận đại. Tướng Phú tự tử tại nhà vào ngày 30.04.75.

* Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)

Ðại Tá Hồ ngọc Cẩn đã anh dũng chiến đấu tới cùng và không chịu đầu hàng. Ðại Tá Cẩn đã bị quân cộng sản đem ra xử trước công cộng và sau đó bị xử bắn tại chỗ.

* Ðại Tá Ðặng Sĩ Vinh

Vào lúc 2 giờ ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

* Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long

Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long tuẩn tiết sáng 30-4-75 dưới chân tượng đài Thủy quân lục chiến.

ngvlongp2 hongoccan_011


Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trước ngày mất nước

01. Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tồng Thống kiêm Tư Lệnh Việt Nam Cọng Hoà. Lúc từ chức (ngày 21 tháng 4, 1975), ông tuyên bố là ông trở về quân đội để tiếp tục chiến đấu. Ngày 25,4,1975 ông Thiệu cùng ông Trần Thiện Khiêm rời Việt Nam trên một chuyến bay do Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ tổ chức.
02 Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Kiêm Tồng Trưởng Quốc Phòng – từ chức thượng tuần tháng tư 1975 và rời Việt Nam cùng lúc với Nguyễn văn Thiệu .
03 Ðại Tướng Cao văn Viên, Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
04 Trung Tướng Ðặng văn Quang, Phụ Tá An Ninh Quốc Gia, Phủ Tổng Thống.
05 Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Phụ Tá Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
06 Trung Tướng Ðồng văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng, Tổng Tham Mưu, Kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
07 Trung Tướng Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
08 Trung Tướng Phan Trọng Chinh, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Quân Huấn.
09 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1. Người hùng của chiến trường Thành nội Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 và chiến trường Huế-Quảng Trị trong trận chiến Mùa Hè đỏ lửa 1972.
10 Trung Tướng Nguyẽn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, Quân Khu 3.
11 Trung Tướng Nguyẽn văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
12 Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 1.
13 Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Khu 1.
14 Chuẩn Tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
15 Thiếu Tướng Nguyễn duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
16 Chuẩn Tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
17 Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù.
18 Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
19 Phó Ðề Ðốc (Trung Tướng) Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân.
20 Trung Tướng Trần văn Minh, Tư Lệnh Không Quân.
21 Thiếu Tướng Võ xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân.
22 Chuẩn Tướng Ðổ Kiến Nhiễu, Ðô Trưởng Sài Gòn.
23 Thiếu Tướng Nguyẽn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo Trung Ương, cùng các vị Tướng nắm giữ các ngành của lực lượng Cảnh Sát.



Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trong ngày mất nước
:

01 Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ, cựu Tư Lệnh Không, cựu Phó Tổng Thống. Những ngày cuối cùng, ông tuyên bố là sẽ rút về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức tử thủ.
02 Trung Tướng Vĩnh Lộc, nhận chức Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà lúc 3 giờ chiều 29.04.1975.
03 Chuẩn Tướng Nhuyễn Hữu Tần, Tư Lệnh Sư Ðoàn 4 Không Quân, kiêm Tư Lệnh Không Quân từ ngày 29.04.1975.
04 Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận lúc 5 giờ chiếu 29.04.1975. Khi nhận chức ông nói rằng: Nếu không xong thì ông xuống Cần Thơ đem Liên Ðoàn 7 Công Binh Kiến Tạo lên Thất Sơn (tỉnh Châu Ðốc) tổ chức chiến đấu.



Những Vị Tướng đã bị Kẹt Lại

Những Vị bị Cộng Sản đày đọa trong các trại tù tập trung từ 12 năm đến 17 năm
01 Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 3 tại chiến trường Phan Rang, bị bắt khi thất thủ.
02 Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Ðoàn 6 Không Quân, bị bắt cùng Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi khi chiến trường Phan Rang thất thủ.
03 Chuẩn Tướng Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2.
04 Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3.
05 Chuẩn Tướng Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh.
06 Thiếu Tướng Lê minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh.
07 Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh.
08 Thiếu Tướng Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
09 Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, Tư Lệnh Phó Quân Khu 4.
10 Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân.
11 Chuẩn Tướng Phạm duy Chất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân Quân Khu 2, chỉ huy cuộc hành quân rút bỏ tỉnh Cao Nguyên hồi tháng 3.1975.
12 Ðại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
13 Ðại Tá Lê hữu Ðức, Quyền Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
14 Chuẩn Tướng Lê văn Thân, Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Ðộ. Nhận chức chiều 29.04.1975.
15 Chuẩn Tướng Lê trung Trực, Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng.
16 Ðại Tá Nguyễn xuân Hường, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh.
17 Ðại Tá Nguyễn đức Dung, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh.
18 Chuẩn Tướng Trần quang Khôi, Tư Lệnn Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh.
19 Ðại Tá Trần ngọc Trúc, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 4 Kỵ Binh.
20 Thiếu Tưóng Trần bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
21 Chuần Tướng Vũ văn Giai, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
22 Chuần Tướng Lê văn Tư, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
23 Thiếu Tướng Văn Thành Cao, Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
24 Thiếu Tướng Ðoàn văn Quảng, cựu Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
25 Trung Tá Bùi thế Dung, Thứ Trưởng Quốc Phòng trong thành phần chánh phủ chưa kịp trình diện.
26 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn May, Tư Lệnh Vùng 5 Duyên Hải.
27 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn bá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Nhiệm Thủy Bộ 211.
28 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn Tấn, Quyền Tư Lệnh Hải Quân vào những giờ cuối cùng.
29 Thiếu Tướng Cảnh Sát Bùi văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
30 Cựu Thiếu Tướng Huỳnh văn Cao, Nghị Sĩ.
31 Chuần Tướng Hồ trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra Quân Ðoàn 3.
32 Ðại Tá Nguyễn khắc Tuân nhận chức Tham Mưu Trưởng Tổng Tham Mưu chiều 29.04.1975. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
33 Ðại Tá Lại Ðức Chuẩn, Trưởng Phòng Nhất Tổng Tham Mưu
34 Ðại Tá Phạm bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
35 Ðại Tá Ngô văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Ðô.
36 Ðại Tá Vũ Ðức Nghiêm.


Những Vị bị Cộng Sản đày đọa trong các trại tù tập trung trên 10 năm

01 Cựu Trung Tướng Nguyễn hữu Có.
02 Cựu Ðề Ðốc Trần văn Chơn.
03 Cựu Thiếu Tướng Nguyễn chấn Á.
04 Cựu Thiếu Tướng Phan Ðình Thứ, Tự Lam Sơn.
05 Ðại tá Ðàm Trung Mộc cưụ Viện Trưởng Học Viện Cảnh Sát QG. Sau 30-4, ông bị giam tại Chí Hòa để rồi tháng 2/1976, ông bị đưa ra Vĩnh Phú rồi về Hà Tây, và ông mất tại đó vào ngày 14/11/1982, thọ 65 tuổi.


Những Vị bị Cộng Sản bị giam chưa đến 3 năm

01 Thiếu Tướng Quân Y Vũ ngọc Hoàn, cựu Cục Trưởng Cục Quân Y.
02 Chuẩn Tướng Quân Phạm bá Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y.
03 Ðại Tá Nguyễn văn Lộc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 106 Biệt Ðộng Quân. Sư Ðoàn này thành lập vào những ngảy cuối tháng 4.1975 và bảo vệ vùng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Sài Gòn. Thời gian trong tù chưa đến một năm.
04 Ðại Tá Dương thanh Sơn, em ruột Tổng Thống Dương văn Minh.








“Anh hùng tử, khí hùng bất tử”

Tháng 4 năm 1975, khi Tổng Thống 48 giờ không do dân bầu Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân CSBV, QLVNCH lại sản sinh ra nhiều vị anh hùng “thà chết không hàng giặc”. Đó là các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, và Phạm Văn Phú. Người đời xem năm vị tướng anh hùng này là “Ngũ Hổ Tướng”.

Đại úy Hoàng Bôi phục vụ tại Phi Đoàn 247, Trực Thăng Vận Tải Chinook CH47, Sư Đoàn 1 Không Quân, QLVNCH. Bôi quê ở làng Lai Hà, một ngôi làng bé nhỏ, nằm ven bờ Tây ngạn phá Tam Giang. Phá Tam Giang nổi tiếng, không những vì là con phá lớn nhất của đất nước, mà còn nổi tiếng nhờ qua những câu thơ:

“Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biết như tranh họa đồ.

Yêu em, anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”

Là phi công trực thăng, trước khi trở thành phi công lái Chinook, anh đã từng bay yểm trợ cho mặt trận vùng giới tuyến, anh đã bay qua phá Tam Giang, nơi chôn nhau cắt rốn. Bài hát “Chiều Trên Phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh làm cho anh chợt nhớ Sài Gòn, chợt nhớ làng quê nhỏ bé đang điêu linh vì cuộc chiến vô nghĩa do bọn Cộng Sản Bắc phương đang tiến hành từ mấy chục năm nay. Ngôi giáo đường Lai Hà, và Trường Trung Học Tam Giang ẩn mình sau lũy tre xanh, nơi đã chôn dấu

biết bao kỹ niệm của thời niên thiếu, với vị Linh mục khả kính, Cha Nguyễn Phùng Tuệ, giờ chỉ còn trơ lại những bức tường loang lổ. Dấu vết chiến tranh đang tàn phá làng quê anh.

Những ngày cuối tháng 3 năm 1975, thành phố Đà Nẵng hầu như lính nhiều hơn dân. Dưới quyền Tư Lệnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, đáng lý phải xảy ra một trận thư hùng giữa quân CSBV với quân của Tướng Trưởng, mà phần thắng bại chưa biết nghiêng về bên nào, dù quân viện do ông bạn đồng minh Hoa Kỳ cắt giảm, nhưng lòng anh dũng, ý chí quyết chiến quyết thắng của người lính Cộng Hòa vẫn có thừa. Nhưng cuối cùng “lệnh lạc” sao đó, Đà Nẵng đã bị bỏ ngỏ, toàn quân, toàn dân đành tháo chạy. Hoàng Bôi cũng như tất cả mọi người, tháo chạy trong cảnh bát nháo, hỗn loạn, hơn cả những ngày tháng của mùa Hè đỏ lửa năm 1972, khi quân CSBV, với xe tăng và đại pháo, ngang nhiên vượt sông Bến Hải, ranh giới chia đôi đất nước theo Hiệp định Đình chiến Geneva tháng 7 năm 1954.

Sáng sớm ngày 29 tháng 3 năm 1975, trời Đà Nẵng trở mưa. Cơn mưa Xuân cuối mùa lất phất nhẹ, như những cơn mưa phùn dầm dề xứ Huế, nhưng cũng đủ thấm ướt và làm lạnh lòng những ai phải rời thành phố, ra đi trong vội vã trước làn sóng đỏ đang đổ ập vào từ phương Bắc, đang nhận chìm một đô thị rộng lớn vào hàng thứ hai của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Sân bay Đà Nẵng hỗn loạn, đạn khói mù trời. Người dân từ các vùng lân cận, từ Huế đổ vào, tìm cách vào phi trường kiếm một chỗ bay để thoát thân. Những ngày trước, Chính phủ đã thuê bao nhiều chuyến bay của máy bay ngoại quốc để di tản dân tỵ nạn, nhưng số lượng người đông đảo, chen lấn nhau, ai cũng muốn nhanh chóng được ra đi, nên đã xảy ra nhiều cảnh thương tâm. Trung tá Hùng, thuộc Trung tâm Hành Quân Sư Đoàn 1 KQ, sau khi không còn liên lạc được với ai – gọi qua Quân Đoàn hay các đơn vị bạn, chỉ nghe tiếng chuông reo, không có ai trả lời –anh vội vã chạy ra phi đạo, ẳm theo hai đứa con thơ, vì vợ anh đã tử nạn trong một trận pháo kích của Cộng quân. Anh leo lên một chiếc L19 còn sót lại, nhưng không thể nào đề được máy. Anh vội tìm một chiếc xe để câu bình điện. Cuối cùng, máy bay nổ máy, anh bay được, thoát vào Nam (theo lời kể lại của Hùng, khi ở tù chung một đội tại thành Ông Năm, Hóc Môn, năm 1975).

Đại úy Hoàng Bôi và một số đồng đội cùng thân nhân của họ lên một trong những chiếc Chinook cuối cùng vội vã rời bến. Khi phi cơ của anh bay ngang bãi biển Sa Huỳnh, bị súng VC bắn lên trúng đạn, không thể bay tiếp, đành phải đáp khẩn cấp. Đó là một xóm làng ven biển, thuộc thôn Vĩnh Tuy, xã Phú Thạnh. Ngoài phi hành đoàn, còn có 17 hành khách. Hầu hết họ là quân nhân thuộc SĐ1KQ và thân nhân. Một toán VC gồm du kích địa phương và quân CSBV tiến ra kêu gọi đầu hàng. Trong hoàn cảnh không thể chống cự, đụn cát trắng trống trải không nơi ẩn núp, tất cả hành khách đành tuân thủ. Nhưng phi hành đoàn gồm Đại úy Hoàng Bôi và một Thiếu úy Hoa tiêu phó đã “Thà chết, không hàng giặc”. Hoàng Bôi là một tín đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo. Theo giới luật, người tín hữu Thiên Chúa Giáo không được tự sát.



Anh không muốn phạm vào giới luật. Nhưng đứng trước tình thế khẩn trương, một bên là giới luật, một bên là danh dự của một sĩ quan QLVNCH. Anh bắt buộc phải có sự lựa chọn. Là người dân xứ Huế, đã trãi qua những giờ phút kinh hoàng hồi Tết Mậu Thân năm 1968, với những cảnh giết người không gớm tay của bọn Việt Cộng, nhất là đối với những quân nhân, công chức VNCH khi bị lọt vào tay giặc. Linh Mục Bữu Dưỡng, Thượng Nghị Sĩ Trần Điền, những vị Giáo sư người Đức dạy tại Đại học Y khoa Huế, cùng hàng ngàn người dân vô tội đã bị giặc bắt đi chôn sống. Một thoáng suy nghĩ trôi qua. Quyết định của anh là chọn lựa cái chết. Người lính ra đi không hẹn ngày về. Là một sĩ quan QLVNCH, với lời thề bảo vệ “Tổ Quốc”, tôn trọng “Danh Dự”, và chu toàn “Trách Nhiệm”, anh đã “Xem Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”.


Đại úy Hoàng Bôi và người Hoa Tiêu phó, rút vội khẩu súng lục tùy thân đang đeo trước ngực ra, mở khóa an toàn, kê vào đầu của nhau (có nghĩa là anh đã không tự sát!), và đếm: 1,2,3. Hai tiếng nổ chát chúa nhưng nghe như một vang lên, hai viên đạn cùng rời khỏi nòng súng một lượt. Hai thây người gục ngã. Máu của họ ướt đẩm đất Việt, tô thắm màu cờ vàng ba sọc đỏ. Thân xác của họ làm phân bón cho quê hương nghèo xơ nghèo xác vì đạn bom của chiến tranh.

Trong số hành khách, có một thiếu phụ là vợ của một HSQ/KQ cùng phi đoàn (nghe nói người thiếu phụ hiện đang sống tại Mỹ). Người thiếu phụ khẩn khoản tên du kích có vẻ là tên chỉ huy, sau này được biết là tên Lê Tiền, và một du kích gái tên Phan Thị Cư, biếu họ hai chỉ vàng, xin được chôn cất tử tế hai người lính vừa chết. Một trong số những hành khách, Trung sĩ Kháng, thuộc một đơn vị ĐPQ cùng vài người khác, sau khi được bọn du kích cho phép, đào vội hai cái hố. Hai nấm mồ chôn vội, không có gỗ ván để làm quan tài, chỉ là bộ đồ bay làm cổ áo quan (theo lời kể lại của người anh người quá cố, một Đại Đội Phó Cảnh Sát Dã Chiến, hiện định cư tại Orange County, và anh Nguyễn Điền, từ Việt Nam). Như là một chiến lợi phẩm, tên du kích mang hai chiếc nón bay về nhà.



Ngày 5 tháng 4 năm 1975, những quân nhân và công chức còn kẹt lại Đà Nẵng được lệnh tập trung để nghe Ủy ban Quân Quản thành phố nói chuyện…Nhưng rồi họ được chở đi những nơi nào không ai biết. Vài tháng sau, trong số những cựu quân nhân được gọi đi “thi hành nghĩa vụ lao động”, có anh Nguyễn Văn Linh, BĐQ, Nguyễn Điền, QC, được điều động đi sửa chửa đường sắt ở vùng Sa Huỳnh, được phân chia ngủ nghỉ ở nhà một tên du kích. Tình cờ họ thấy hai chiếc nón bay trong cái tủ thờ của người chủ nhà. Đến gần nhìn kỹ, họ sững sờ khi thấy bảng tên đề “Hoàng Bôi”. Vì họ là những người bạn học của Bôi, thỉnh thoảng vẫn gặp nhau nhậu nhẹt tại Đà Nẵng, nên tìm cách lân la làm quen người chủ nhà để tìm hiểu. Người chủ nhà cũng là tên du kích, đã kể lại toàn bộ câu chuyện, và còn hướng dẫn hai người lính ra ngoài đụn cát ven biển, chỉ hai nấm mồ “vô chủ ai mà viếng thăm”. Nhưng lạ lùng thay, ngoài sự tưởng tượng của hai người lính. Hai nấm mồ vô chủ, nhưng không phải như nấm mồ Đạm Tiên của cụ Nguyễn Du:

“Sè sè nấm đất bên đường,

Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.

Hai nấm mồ đã được tên du kích, thôn đội trưởng, đắp cao, và có mộ bia (bằng gỗ) đàng hoàng. Có một lý do nào đó lớn lao như một phép nhiệm mầu đã biến đổi một tên du kích vô thần thành một gã giữ “từ đường”, lo hương khói, mồ mã cho đến ngày cải táng.

Biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã làm sụp đổ toàn bộ cuộc sống của người dân miền Nam, mà nạn nhân trực tiếp là thân nhân, gia đình “ngụy quân ngụy quyền”. Vợ của Bôi, một giáo viên tốt nghiệp trường Sư Phạm Qui Nhơn, đang dạy học, bị đuổi việc, ôm đứa con còn đang măng sửa tìm về nương tựa nơi nhà ngoại. “Tấn về nội, thối về ngoại”. Nhưng khốn nổi, ngôi nhà ngoại đã bị kẻ chiến thắng chiếm đoạt – cho đến bây giờ. Bên nội cũng ly tán. Người đi tù, kẻ đi “kinh tế mới”, một số trở về quê . Quê nội, một làng quê nhỏ, cách kinh thành Huế lối nửa ngày đường.

Những ngày hè, gió nồm lồng lộng thổi từ phá Tam Giang, xua đi cái nóng bức do cơn gió hạ Lào nung nấu. Sau những tháng năm điêu tàn vì chiến tranh, giờ quê nội cũng đang chịu khốn khổ vì bọn VC ngu dốt tập kết trở về trong việc làm thũy lợi, bắt đập và ngăn phá, làm cho ruộng đồng khô cằn. Quê hương miền Trung nghèo, vốn cày lên sỏi đá, nay sỏi đá cũng không còn để mà cày! Người dân phải tha phương cầu thực. Người sống đã không lo được miếng cơm manh áo, làm sao lo được cho người chết. Cũng có vài lần, những người thân tìm đến mộ phần của anh thăm viếng và có ý muốn cải táng. Nhưng người dân địa phương tìm cách ngăn cản không cho di dời, vì họ tin vào những ơn ích có được mỗi khi họ đến cầu xin. Thời gian đã đi qua khá lâu, vợ con và thân nhân của Đại úy Bôi quyết định cải táng, nhất quyết đem nắm xương tàn về gởi gắm nơi cố hương. Người nhà đã đến gặp tên Chủ tịch xã, cũng chính là tên du kích, thôn đội trưởng ngày xưa. Chẳng biết có đút lót hay quà cáp gì không, nhưng hắn đã dễ dàng đồng ý, với sự thân thiện khác thường.

Thay bộ áo quần đang mặc (không còn chân đi dép râu, đầu đội nón tai bèo), trịnh trọng trong chiếc áo dài đen, khăn đóng, dẫn đoàn người hướng về độn cát ven biển. Vừa đi, hắn vừa kể lại những gì đã xảy ra từ 30 năm trước. Câu chuyện sống động tưởng chừng như thể mới xảy ra hôm qua. Giọng kể đều đều, pha đôi chút ngậm ngùi, ăn năn. Hắn xin phép gia đình được thắp nén hương, và lâm râm khấn nguyện trước phần mộ. Sau đó hắn lại xin phép được tự tay đào tìm hài cốt vị anh hùng, như để đền bù lại cái ngày hắn đã “say men chiến thắng” một cách lầm lỡ, với những xúc động nghẹn ngào…

“Hơn 30 năm, bộ áo bay còn giữ màu *** ngựa, gói trọn bộ xương tàn của một người thỏa chí tang bồng” (‘Lối Về’, Đặc San Phượng Hoàng, Nguyễn Văn Thống, người anh em bà con). Mộ phần của viên Thiếu úy Hoa tiêu phó đã được cải táng trước – rất tiếc, người viết không được tin tức gì về vị anh hùng này.

Hai người phi công tuẩn nạn đã được người dân địa phương thờ phụng, và hương khói quanh năm. Và chính tên Chủ tịch xã cũng rất sùng bái hai “tên sĩ quan ngụy” mà hắn đã trút hết những hận thù năm xưa! Nhưng bây giờ đã trở thành hai vị Thần Làng.

Bảo Định - Michigan, Mùa Tuyết 2008

(Nhân dịp đọc tin và xem video buổi lễ Phủ Cờ hai anh hùng KQ Lê Văn Bé và Nguyễn Văn Lộc)

*

No comments: