Friday, April 2, 2010

XÃ HỘI VIỆT NAM * ÁO DÀI VIỆT NAM

Áo dài nữ sinh trên đường tuyệt chủng

Tác Giả : Trần Tiến Dũng

Chúa Nhật, 28 Tháng 3 Năm 2010 21:03

Áo dài nữ sinh, vẻ đẹp tinh khiết, biểu tượng phẩm hạnh của tâm hồn thiếu nữ Việt Nam đã mất thật rồi!


Chúng tôi di chuyển giữa một Sài gòn đầy lô-cốt và vấn nạn kẹt xe, đi từ quận 1, quận 3 tới quận 5, quận 6, Tân Bình... chúng tôi tìm tới các trường trung học nổi tiếng như Gia Long (Nguyễn Thị Minh Khai), Trưng Vương, Marie-Curie, Lê Quí Ðôn, Hùng Vương, Mạc Ðỉnh Chi, Nguyễn Thượng Hiền... Trong ánh nắng cháy da và khói bụi đến ngộp thở của cái nắng Sài Gòn, tất cả những trường trung học mà chúng tôi đi qua tuyệt nhiên không còn một bóng áo dài trắng nữ sinh nào. Nữ sinh Sài Gòn hôm nay chỉ mặc đồng phục váy màu, váy sọc, váy ngắn, váy dài. Áo dài nữ sinh, vẻ đẹp tinh khiết, biểu tượng phẩm hạnh của tâm hồn thiếu nữ Việt Nam đã mất thật rồi!

Nữ sinh trung học với đồng phục áo dài trắng truyền thống. (Hình: nusninh.vn)

Vứt bỏ áo dài nữ sinh

Trong một lần họp phụ huynh cho đứa con trai học lớp 12, trường Hùng Vương, tôi được nghe lời đề nghị của nhiều phụ huynh có con là nữ sinh trong lớp về việc bỏ cái áo dài. Một bà ở cùng xóm tôi nói: “Cảnh con tôi mặt cái áo dài trắng đi học giữ trùng vây của xe cộ khói bụi mù trời trông tội nghiệp quá đi. Nhất là những hôm trời mưa ngập đường hoặc triều cường nước cống lên đen thui, tôi chưa từng thấy cảnh nào thảm thương bằng cảnh cái áo dài trắng, cái quần trắng của con tui, thiệt là y như một mớ giẻ rách. Tội con tui, tội cái áo dài quá đi các ông ơi.” Một ông khác, vốn là cán bộ cấp quận nói: “Tôi đưa đón con, ngày ngày luồn lách giữa một rừng xe.

Con tôi là con gái, gặp bữa trời nắng còn đỡ chớ trúng cơn mưa, cha con che chung cái áo mưa nên khó tránh chuyện ướt, vậy là áo với quần của nó chèm nhẹp, thịt da con tôi cứ lộ ra hết, nói thiệt chứ thấy mặt mấy thằng mất dạy dòm lom lom tôi vừa tức vừa xấu hổ muốn chết.” Sau khi gom đủ ý kiến của phụ huynh, kiến nghị bỏ áo dài trắng ra khỏi đời nữ sinh Hùng Vương được chuyển lên ban giám hiệu nhà trường, thế là sau đó toàn bộ nữ sinh của trường này được mặc áo kiểu thủy thủ và quần tây dài.

Ðây là trường trung học Nguyễn Thị Minh Khai tức trường nữ trung học Gia Long cũ. Ngày nay, các nữ sinh của trường trở thành các cô đầm mặc váy tím, không còn mặc áo dài tím (trước thời VNCH) hoặc màu xanh nhạt, màu trắng như trước đây. (Hình: TTD)

Ở Sài Gòn hiện nay, người ta có thể nói và bàn về hình mẫu mặc đồng phục váy của các trường nổi tiếng, như trường Gia Long cũ nữ sinh mặt đầm tím, áo trắng, Trường Trưng Vương váy sọc ca rô... Sài Gòn ngày xưa chỉ có nữ sinh các trường Tây và trường Tàu là mặc đầm. Còn ngày nay, cứ theo đà này, thì tất cả các nữ sinh Việt Nam đều có nguy cơ mặc đồng phục sao cho giống Tây giống Tàu hết ráo. Một tay doanh nhân đỏ chuyên chạy hợp đồng may đồng phục cho các trường vui mừng nói: “Ông biết thị phần này lớn cỡ nào, nhưng ông đâu có biết phải chi để bôi trơn bao nhiêu. Ông đừng kết án là tụi này giết áo dài. Tình trạng xuống cấp của văn hóa xã hội mới là thủ phạm.”

Chúng tôi làm một cuộc phỏng vấn kiểu bỏ túi với một phụ huynh, bà mẹ này chống lại việc bỏ cái áo dài ra khỏi đời các nữ sinh. Bà nói “Có một số người, sau này đi làm công sở cũng mặc áo dài, nhưng đa phần con gái Việt Nam chỉ có khoảng học trung học là được mặc áo dài thường xuyên và cũng là thời kỳ ai cũng thấy mình đẹp nhất với chiếc áo dài. Tôi nói đại như vầy mà đúng lắm nghe. Nếu họ bỏ áo dài cũng có nghĩa là cướp đi vẻ đẹp nhất của đời con gái Việt Nam.”

Chúng tôi được biết thêm là người mẹ này chỉ có một cậu con trai học lớp 12, và có lẽ chuyện bà quan tâm đến áo dài nữ sinh cũng chỉ là “tiếng khóc” cuối mùa tiếc nuối thời áo dài con gái của bà.

Tâm tình của nữ sinh

Chúng tôi lân la hỏi chuyện với một nữ sinh từng rất thích diện áo dài trắng. Cô nữ sinh này nói. “Họ muốn mình mặc gì thì mình theo cho rồi, mặc đồ ngắn phóng Honda vui hơn.”

Ở Việt Nam những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục đều cư xử với học sinh như một bầy cừu. Không ai hỏi ý kiến, không cơ quan truyền thông nào thử thăm dò dư luận học trò. Thật là một lối giáo dục phong kiến-độc tài toàn diện, bắt mặc đồng phục gì, học sách giáo khoa gì... học trò cứ thế cúi đầu tuân theo luật rừng.

Chúng tôi hỏi chuyện một cô gái tên L., trước đây học trường Nguyễn Thái Bình trên đường Lý Thường Kiệt: “Lúc cháu học, trường cháu vẫn mặc áo dài, cháu tự hào lắm!” Mẹ L. là hàng xóm với chúng tôi, bà chỉ là một nhân viên nấu ăn cho một trường tiểu học bán trú. Bà nói: “Ai có con gái mới biết chuyện muốn trào nước mắt khi nhìn thấy con mình lần đầu mặc chiếc áo dài đi học. Họ miệng thì nói bỏ áo dài để tụi nhỏ ăn mặc gọn hơn, nhưng nói vậy thôi chớ ai chẳng biết áo dài đâu may hàng loạt được như mấy loại váy đồng phục. Bây giờ nhà trường bán váy đồng phục bắt học sinh mua, nói giá nào phải mua giá đó. Họ làm cái gì cũng để tư lợi hết.”

Áo dài với một gia đình Việt kiều

Chúng tôi tiếp xúc với một người phụ nữ đang tìm mua áo dài ở chợ Tân Bình. Chị cho biết chị là một Việt kiều về từ Canada. Chị đang tìm mua loại áo dài may sẵn, chị nói: “Một người bạn tôi cũng là xếp của tôi, cô này người Nhật, cô thích áo dài lắm, cô gởi cho tôi số đo với hy vọng là sẽ được mặc áo dài. Tôi về lu bu đủ thứ chuyện nên quên, tới chừng gần ngày về mới nhớ nên không đặt may kịp. Thấy có lỗi quá.”

Người Việt kiều này chỉ tìm mua được ở chợ Tân Bình mấy cái áo dài gấm trẻ con, nhưng chị vui lắm, chị nói: “Mỗi năm tụi nhỏ bên đó chỉ được mặc áo dài ngày mùng một Tết, nhưng đứa nào cũng mừng. Tôi về Việt Nam ăn hết cái Tết, đi chúc Tết khắp nơi nhưng không thấy đứa trẻ nào mặc áo dài. Buồn lắm anh.”

Những gì mà người phụ nữ Việt kiều này tâm sự cũng là nỗi niềm của một nhà thơ đang sống lưu vong ở Mỹ, chúng tôi nhớ anh đã nói: “Rồi đây, chiếc áo dài Việt Nam sẽ chỉ tìm thấy đất sống trong tình cảm tha thiết ở cộng đồng người Việt hải ngoại, trớ trêu vậy đó!”

Việc trẻ con sống trong nước không mặc chiếc áo dài trong những dịp lễ lạt trọng đại của văn hóa Việt Nam vốn đã là chuyện ai cũng biết. Nhiều người chỉ tự an ủi nhau rằng, may là ngày nay vẫn còn đó những người phụ nữ lớn tuổi cảm thấy mắc cỡ trước tổ tiên, họ hàng nếu không mặc cái áo dài trong những ngày trọng đại của gia đình và của dân tộc.

Khi chuyện về cái chết của áo dài nữ sinh Sài Gòn được bàn thảo trên bàn cà phê của một nhóm văn nghệ sĩ, một họa sĩ nói: “Trong đám thủ phạm giết chết áo dài nữ sinh, theo tôi phải kể tới đám thiết kế thời trang, đám này càng nổi tiếng lại càng ăn bám vào cái áo dài, họ đưa áo dài xuất hiện như ruồi trên truyền hình, trên các sân khấu thời trang rồi biến vẻ đẹp của áo dài thành thứ trang phục ẻo lả nhảm nhí.” Khi áo dài không còn là thứ đồng phục của nữ sinh Việt Nam, không còn là thứ y phục được sử dụng hằng ngày trong đời sống phụ nữ thì tất cả những màn trình diễn áo dài diễn trên truyền hình, sân khấu chỉ là chuyện tuyên truyền “bản sắc dân tộc” trơ trẽn.

Với chiếc áo dài nữ sinh Việt Nam, một lần nữa người ta vẫn có thể khẳng định, không một thứ thời trang áo dài nào có thể sánh nổi vẻ đẹp thiên thần của nữ sinh trong cái áo dài trắng. Và cái chết của áo dài nữ sinh ở Sài Gòn hôm nay cùng kéo theo sự còi cọc của cái đẹp tâm hồn tuổi trẻ Việt Nam.
http://www.saigonecho.com/main/doisong/suytudongdoi/17296-ao-dai-n-sinh-tren-ng-tuyt-chng.html


*

ÁO DÀI VIỆT NAM

Khó mà xác định đến thời điểm nào thì hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh với mái tóc thề, chiếc nón bài thơ và tà áo trắng đã trở thành một trong những biểu tượng của xứ Huế, mang đặc tính tượng trưng gợi cảm chẳng khác gì sáu nhịp cầu Trường Tiền mềm mại, dòng sông Hương lặng lẽ và tháp Thiên Mụ cổ kính soi bóng lung linh. Hẳn hình ảnh duyên dáng yêu kiều và nên thơ đó không phải được hình thành do một quyết định của Bộ Giáo Dục, buộc học sinh trung học nam nữ phải đồng phục, như người ta có thể nghĩ một cách đơn giản. Có lẽ nó phải được kế thừa từ một phong cách Huế, thắm đậm từ hàng trăm năm, làm cho người phụ nữ Huế, trong một thời quá khứ không xa, dù giàu hay nghèo, nhàn du hay buôn gánh bán bưng, cũng khoát chiếc áo dài trên mình khi bước chân ra đường. Anh bạn người Cần Thơ của tôi lần đầu tiên bước chân đến Huế đã “nhín cười muốn chết” khi thấy bà bán xu-xoa vai gánh hàng, mặc áo dài, mà . . . chân đất ! Đó là một hình ảnh đầy vẻ cầu kỳ và mâu thuẩn của người Huế so với lối sống bình dị của người miền Nam. . .



Mặc dù trí nhớ ngày càng tồi tệ với thời gian, nhưng một trong những hình ảnh thời thơ ấu còn in đậm trong ký ức tôi trên đất khách này là mụ Mì và mụ Ngãi. Mụ Mì là một người đàn bà tứ cố vô thân, sống trong một căn lều xiêu vẹo sau lưng lầu Ông Hoàng Tùng Đệ . Mụ sinh nhai bằng nghề nói vè: Vè Thất thủ Kinh đô, Vè Cô Thông Tằm, Vè Mụ Đội. . . Hàng ngày, với cặp sanh bằng gỗ trắc lên nước bóng như mun, mụ bước dò dẫm khắp mọi nẽo đường của Huế để nói vè, kiếm vài xu độ nhật. Giọng mụ khàn khàn, khi phải lên giọng diễn tả, cả con người ốm o của mụ rướn lên cùng cặp mắt trắng dã, đã phụ họa hữu hiệu vào tình tiết câu chuyện bi thảm và làm cho nước mắt người nghe khó mà ngăn được tuôn trào. Bà ngoại tôi và mạ tôi đã đổ nước mắt như thế không biết mấy lần, dù nội dung câu chuyện đã được các bà thuộc nằm lòng. Tôi gọi đó là những giọt nước mắt nuôi sống mụ Mì.





Dù cơ cực như thế, dù làm nghề hát dạo của một kẻ ăn xin, mụ Mì vẫn luôn luôn mặc áo dài, một manh áo dài vá chằm vá đụp. Còn mụ Ngãi, có khá hơn mụ Mì một tí, ở ngay trong xóm tôi, và vốn liếng sinh nhai là đôi triên gióng, chiếc đòn gánh lên nước và mấy cái mẹt và mũng đựng nào me, ổi, đào, sấu, khế ngọt, sim, hột móc, hột sót . . . mùa nào thức nấy, cung cấp quà vặt cho bọn thò lò mũi xanh “nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò”. Tứ thời bát tiết, mụ Ngãi cũng áo dài . . . chân đất. Thậm chí đến mấy o, mấy chị làng Chuồng hay Cửa Thuận, người tanh rình, gánh cá chạy ào ào, làm đày và chửi rất ngọt, mồ hôi mồ kê tùm lum . . vậy mà cũng áo dài. Chế độ phong kiến nào cũng tạo ra đẳng cấp với sự phân biệt về đặc quyền đặc lợi trong đời sống, vì đó là một nguyên tắc phải có nhằm mục đích duy trì quyền uy của chế độ và sự hưởng thụ của người ngồi trên. Những đặc quyền đặc lợi đó được thể hiện rõ rệt trong ở trong lối ăn, mặc và ở. Giai cấp quan quyền, ngoài phẩm phục vua ban, họ còn có khả năng may mặc với lụa là gấm vóc, chế tác theo sở thích trong khuôn khổ của luật pháp.


Các bà có chồng làm quan, dĩ nhiên cũng được thơm lây, được sắc phong tùy theo chức tước và địa vị của chồng, từ đó có những quyền lợi phụ thuộc đi kèm. Chiếc áo “mạng phụ” (mệnh phụ) của các bà cùng với chiếc khăn vành về sau đã được phóng tác và phổ biến trong xã hội qua chiếc áo cưới khoác ngoài và cái khăn vành rây đội đầu của các cô dâu ngày nay. Những gì về ăn mặc đã được vua qui định, dĩ nhiên không ai dám vi phạm, nhưng không cấm được những chế tác mô phỏng từ những qui định đó để làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Chẳng hạn, phụ nữ vào các dịp lễ lạc, không phân biệt giai tầng, nếu có điều kiện tài chánh vẫn diện được áo “mớ hai mớ ba” như ai. “Mớ hai” là mặc hai lớp áo dài, “mớ ba” là ba lớp. Các bà chọn màu theo “gam” các bà thích và bảo thợ may các áo đó cùng một lần. Vì sao? Vì các áo đó phải mặc chồng lên nhau và các màu sắc phải được phô bày nên thợ phải đo may một lần mới tính toán được.


Áo trong bao giờ cũng hẹp và ngắn hơn áo ngoài để khi mặc vào các lớp áo ôm sát nhau và khi bước đi, những tà áo theo bước chân phe phẩy khoe màu theo thứ lớp, trông đẹp mắt và khác lạ hơn người. Áo mớ hai, mớ ba, áo gấm, áo mệnh phụ hay bất cứ loại áo đẹp nào cũng phải đi với quần “xếp con”, là loại quần có hai ba đường xếp nhỏ, rộng độ năm sáu ly, chạy hai bên hông. Đường xếp chạy dọc từ lưng xuống lai. Hai tà áo gặp nhau vừa đúng đường xếp của quần. Phụ nữ Huế bình dân còn có một kiểu áo dài khác rất sáng tạo, đó là “áo nối khoác”. Cơm ăn và áo mặc là hai vấn đề bức thiết trong cuộc sống, nên càng tiết kiệm càng tốt. Thế nên khi các bà có áo dài rách vạt hoặc rách vai, rách cổ, thấy chằm vá cũng kỳ mà bỏ đi thì phí của trời, vậy nên các bà mới đem nửa dưới lành lặn của cái này chắp với nửa trên lành lặn của cái kia, tạo thành một chiếc áo mới với hai màu sắc khác nhau, có khi rất nhã. Diễn tả như thế, bạn đọc cũng đã hiểu được chữ “nối” trong “áo nối khoác” là gì.


Thế còn “khoác” là gì? Đây không phải là một từ đệm, nó có một nghĩa ngang hàng với “nối”. Như đã nói, mặc áo dài ra đường là phép lịch sự tối thiểu của phụ nữ Huế, bất kể giàu nghèo sang hèn. Tỏ ra lịch sự, nề nếp, con nhà, là điều cần thiết, dù ăn rau ăn mắm đi nữa, nhưng . . . thiệt tình mà nói, đôi lúc cũng phiền toái. Bước ra đầu xóm hỏi thăm chút việc, ra quán đầu ngõ chờ cá Cửa Thuận gánh lên, bước qua nhà bà Cửu cách có ba nhà để xin ít lá chanh nướng thịt . . . mà cũng mặc nguyên chiếc áo dài sao? Có vẻ long trọng quá! Đã thế, tiết hè oi ả, có việc gì quan trọng để phải chịu cực hình trong chiếc áo dài như thế ? Trong những trường hợp đó, chiếc “áo nối khoác” thật là thích hợp: quơ vội cái áo, các bà khoác lên mình, không xỏ tay, chỉ cài một khuy cho chiếc áo khỏi rơi, và cứ thế ung dung dạo xóm, vẫn giữ được phép lịch sự mà không thiếu thoải mái! Trong ý nghĩ “cù lần” của tôi, chiếc áo nối khoác này là một sáng tạo có giá trị như giá trị sáng tạo của món cơm hến.



Hình như cơm hến được chế tác trong mục đích tiêu thụ cơm nguội của tối hôm trước với vật liệu sẵn có trong tầm tay: ruốc, mỡ hẳn là luôn luôn sẵn có trong nhà; môn bạc hà, bắp chuối, rau thơm, ớt tươi . . . có sẵn sau vườn. Chỉ cần chịu khó đợi “con mệ bán hến” đi ngang ngõ là có đầy đủ thành phần cho một bữa ăn khoái khẩu. Không có một sáng tạo nào vừa tiết kiệm lại vừa có tính nghệ thuật cao tuyệt vời đến thế, vừa vị nghệ thuật vừa vị nhân sinh. Cái áo nối khoác ra đời cũng trong điều kiện tương tự. Sau năm 1975, với “nếp sống văn minh” thể hiện từ những “đỉnh cao trí tuệ”, tà áo dài chợt biến đi như một quá khứ. Trong một lần đi quét vôi thuê cho một gia đình nọ để chuẩn bị đám cưới, tôi đã được nghe một mẩu đối thoại lý thú giữa hai bà sui về chiếc áo dài truyền thống.


Bên đàng gái ở Huế, thuộc gia đình “có công với cách mạng”. Đàng trai gốc Quảng Bình, bà mẹ là một cán bộ trung cấp làm việc tại Hà Nội, có con trai vào làm việc ở Sàigòn và gặp người yêu ở đó. Cả hai dẫn nhau về Huế, đón mẹ từ Hà Nội vào để làm lễ cưới. Bà sui gái: -Chị có đem theo áo dài không? Bà sui trai: -Chị nói áo dài gì cơ? -Thì áo dài để mặc vào các dịp lễ cưới hỏi như ri nì. -Ồ, làm gì có. Loại áo đó xưa rồi, ở ngoài ta họa may chỉ có mấy bà cụ già bảy tám mươi mới còn có loại áo đó. Bây giờ, nếp sống văn minh, để tiện công tác, sinh hoạt, lễ lạc gì người ta cũng ăn mặc đơn giản thôi. -Ở ngoài đó thì được, chớ ở đây cưới hỏi như ri mà mặc rứa không được mô, bà con người ta cười chết.


Thôi, chị cở người cũng bằng em . . .chị coi cái mô mặc vừa và ưng ý thì lấy để mai mốt mặc khi làm lễ. Ở mô thì phải theo phong tục ở đó, làm không giống ai, thiên hạ người ta cười, em chịu không được mô.-Ồ, ồ, hay nhỉ. Mà làm sao chị có nhiều áo dài đẹp thế ? Câu chuyện xảy ra vào mùa hè 1985. Cũng may nhờ có “đổi mới tư duy” nên nay chiếc áo dài truyền thống đã sống lại, nếu không, nghề may áo dài chừng mươi năm nữa thì tuyệt giống và các nhà dân tộc học quốc tế hẳn sẽ khổ công tìm kiếm cái gọi là quốc phục của một nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến! Thành ngữ “ăn Bắc mặc Kinh” phổ biến khắp mọi miền, ai cũng biết. Chữ “Ăn” với nghĩa là “nói năng” hay “ăn uống”, người ta vẫn còn bàn cãi, chưa ai chịu ai, nhưng “mặc Kinh” thì ý nghĩa đã quá rõ ràng, hiển nhiên.


Do ảnh hưởng của lối sống cung đình, việc ăn mặc ở chốn kinh đô đã trở thành một tiêu chuẩn thời trang chẳng khác gì thế giới khi hướng về thời trang Paris hay New York. Vua Minh Mạng, sau cuộc kinh lý miền Bắc (ngự giá Bắc tuần, 1821), thấy lối mặc váy của phụ nữ ngoài đó không được nhã, đã hạ chiêu bắt phải thay đổi cách ăn mặc. Dư luận nhao nhao lên phản đối, phản ảnh qua bài ca dao sau : Tháng Tám có chiếu vua ra,Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.Không đi thì chợ không đông,Đi, thì phải lột quần chồng, sao đang?Có quần thì ra đứng đàng,Không quần, về đứng đầu làng trông quan.


Cũng may là con người có ý hướng hướng thượng, dần dà rồi cũng hiểu ăn thế nào là ngon, mặc thế nào là đẹp, và dù phản đối, dần dà rồi chiếc váy sồi dày như mo cau kia cũng lui về quá khứ, nhường chỗ cho chiếc quần dài tha thướt, hài hoà với chiếc áo dài xinh đẹp, làm tôn giá trị của người phụ nữ Việt Nam. Trong tiến trình làm đẹp cho dân tộc, Huế không dấu diếm niềm hãnh diện mở đường. Nếu bài thơ “Áo lụa Hà Đông” đã đưa Nguyên Sa vào lịch sử văn học thì người dân Huế cũng biết ơn nhạc sĩ Hoàng Nguyên với “Tà Áo Tím”. Màu “Tím Huế” đã trở thành một đặc trưng của Huế mơ màng và trầm mặc. Tạ ơn đời, ngày nay những tà áo trắng đã sống lại bên bờ sông Hương, nối lại một truyền thống tưởng như đã mất hẳn kể từ cái năm 1975 đó. VHA.




Moi quy vi coi pps ve ao dai va nhung ve dep cua chiec ao nay



Bai trươc nếu muôn đọc lại

http://www.saigonecho.com/main/doisong/suytudongdoi/17296-ao-dai-n-sinh-tren-ng-tuyt-chng.html

Áo dài nữ sinh trên đường tuyệt chủng

No comments: