Saturday, May 1, 2010

TRẦN HUY BÍCH * VŨ HOÀNG CHƯƠNG


MỘT BÀI THƠ NGỤ Ý THẬT HÀM SÚC
CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG




Sau khi những người Cộng sản lấy được miền Nam tháng 4 năm 1975, hầu hết văn nghệ sĩ của miền Nam đều bị bắt giam. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị họ bắt ngày 13 tháng 4 năm 1976, đưa vào giam ở khám Chí hoà. Khi ông bị bệnh gần nguy kịch, họ mới đưa về để chết ở nhà. Năm hôm sau ông qua đời, nhằm ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sàigòn.
Một số thơ ông làm sau tháng 4-1975 như bài “Tranh gà lợn,” hoặc bài thơ từ nhà giam gửi về thăm vợ con, đã được phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, một số thi phẩm khác, như 12 bài thơ vịnh một số nhân vật lịch sử và văn học Việt Nam (như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát …) cùng lịch sử và văn học Trung Hoa (như Hán Vũ đế, Thôi Hộ, Trần Đào, Bành Ngọc Lân …) chưa đuợc nhiều người biết tới. Chúng tôi xin giới thiệu một trong những bài thơ ấy ở phía sau. Đây là bài thơ Vũ Hoàng Chương viết về Bành Ngọc Lân, một danh tướng Trung Hoa cuối đời Thanh. Bài này cũng là một trong những bài thơ hay nhưng ý tưởng rất kín đáo, hàm súc của thi hào họ Vũ. Viết sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản, ngụ ý thời thế của ông rất rõ, nhưng người đọc cần lưu tâm mới nhận thấy.


ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA:
BÀNH NGỌC LÂN




Thập vạn đại quân tề cổ chưởng
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi.
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ
Từ bao giờ đến bao giờ
Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành
Kể chi lúc ấy đời Thanh
Sá chi người ấy là danh tướng nào
Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao
Nghe Bành Lang độ thấm vào lòng chân
Non xưa bến cũ nhập thần
Đoạt non về bến đâu cần hùng binh.


Để có thể trình bày rõ ý nghĩa bài thơ, trước hết xin được nói qua ít hàng về Bành Ngọc Lân. Sau đó, xin giải thích mấy câu thơ chữ Hán của họ Bành được trích dẫn phía trên, cùng giải thích một số danh từ riêng trong bài thơ như Tiểu Cô sơn, Bành Lang độ.
Bành Ngọc Lân:
Bành Ngọc Lân (彭玉麟 -- Peng Yulin): là một danh tướng Trung Hoa cuối đời Thanh, sinh năm 1816, mất năm 1890. Khi cuộc loạn Thái Bình Thiên Quốc (với những lãnh tụ Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh …) bùng nổ, chiếm gần nửa nước Trung Hoa, lấy được Nam kinh để lập kinh đô và chia đôi giang sơn với nhà Thanh trong 11 năm từ 1853 tới 1864, triều đình nhà Thanh đã rung rinh, đất nước cực kỳ xáo trộn. Góp công đáng kể nhất trong việc dẹp yên được Thái Bình Thiên Quốc là một nhân sĩ tỉnh Hồ nam là Tăng Quốc Phiên (Zeng Guofan) cùng đạo quân tình nguyện của ông, đa số gốc Hồ nam, lấy tên là “Tương quân” (“quân đội vùng sông Tương,” một con sông chảy qua tỉnh Hồ nam). Bành Ngọc Lân là một tướng lãnh của đạo quân tình nguyện ấy, chỉ huy thủy binh, có công rất lớn trong việc dẹp Thái Bình Thiên Quốc. Sau đó ông được cử làm Thủy sư Đô đốc, dần dần thăng tới Binh bộ Thượng thư của nhà Thanh. Sau khi người Pháp lấy miền Bắc Việt Nam và đem quân tới biên giới Hoa Việt năm 1883-84, Bành Ngọc Lân đã tới biên giới trong chức Binh bộ Thượng thư để quan sát cùng tổ chức việc phòng thủ. Ông về hưu và mất ít năm sau đó.
Tiểu Cô sơn:
Có nhiều Tiểu Cô sơn (小孤山 -- Xiaogushan hay Hsiao ku shan) trong lãnh thổ Trung hoa. Nếu tra cứu các tài liệu địa dư, ta sẽ thấy ít nhất 5 ngọn núi có tên như thế tại Nội Mông cổ, Cam túc (Gansu), Cát lâm (Jilin), Liêu ninh (Liaoning), và An huy (Anhui). Ngọn Tiểu Cô sơn do Bành Ngọc Lân chiếm được và nhắc tới trong bài thơ này nằm trong tỉnh An huy. Núi này ở gần tỉnh lỵ An khánh (Anqing), sát bên bờ Trường giang (Dương tử giang). Quân Thái Bình Thiên Quốc đóng trên núi này đã bắn xuống dữ dội, ngăn chặn đường tiến binh của đạo thủy quân do Bành Ngọc Lân chỉ huy trên đường tới bao vây Nam kinh. Muốn các chiến thuyền của mình có thể đi qua một cách an toàn, Bành Ngọc Lân bắt buộc phải đánh chiếm ngọn núi. Theo các sử liệu Trung hoa, việc này xảy ra vào tháng 2 năm 1853. Sau khi chiếm được núi, Bành Ngọc Lân cao hứng làm ra bài thơ sau:

書生笑率戰船 来,
江 上旌旗耀日 開,
十萬貔貅齊奏凱
彭 郎奪得小姑回

Thư sinh tiếu suất chiến thuyền lai
Giang thượng tinh kỳ diệu nhật khai
Thập vạn tì hưu tề tấu khải
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi.


Nghĩa: Thư sinh cười, đốc thúc chiến thuyền tiến lại
Trên sông, cờ xí, mặt trời, và các sao sáng cùng mở ra
(chỉ việc quân Thái Bình Thiên Quốc bắn xuống như mưa)
Mười vạn quân dũng mãnh cùng hát khúc ca chiến thắng:
“Bành lang đã đoạt được Tiểu Cô trở về”
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã đưa hai câu cuối của bài thơ này lên phía trước bài thơ của ông nhưng đổi đi mấy chữ trong câu thứ ba. Ông đã đổi “thập vạn tì hưu” (mười vạn quân dũng mãnh, nghĩa gốc của “tì hưu” là con gấu trắng, một giống thú rất mạnh) ra “thập vạn đại quân” (đạo quân đông tới mười vạn). Ông cũng đổi “tề tấu khải” (cùng hát khúc ca chiến thắng) ra “tề cổ chưởng” (cùng vỗ tay), có lẽ để gần với hoàn cảnh của Việt Nam năm 1975 hơn.
Từ “Tiểu Cô sơn 小孤山” tới “Tiểu Cô 小姑,” mối chung tình của Bành Ngọc Lân:
Một điểm đáng lưu ý là ngọn núi đã chiếm được có tên小 孤山 (núi nhỏ cô đơn)
nhưng trong bài thơ, Bành Ngọc Lân đã cố tình viết sai, dùng một chữ cùng có âm “cô” nhưng nghĩa khác, là小姑 (người cô bé nhỏ). Thừa tiếp ý ấy, trong câu thơ thứ 3, Vũ Hoàng Chương viết, “Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây.” Muốn hiểu rõ điểm tế nhị này, ta cần biết qua về cuộc đời của Bành Ngọc Lân.
Khi còn ít tuổi, Bành Ngọc Lân yêu một thiếu nữ, con nuôi của bà ngoại ông. Đúng ra ông phải gọi bằng “dì” vì là em nuôi của mẹ. Nhưng hai người trạc tuối, cùng lớn lên và chơi đùa với nhau, tình yêu đến một cách tự nhiên. Gia đình không chấp nhận vì trong xã hội cổ, một hôn nhân như thế có thể bị coi là “loạn luân.” Bành Ngọc Lân phải đưa đi học xa trong khi cô gái, có biệt danh Mai cô, được gả cho người khác. Một năm sau Mai cô qua đời, lý do chính là sinh nở khó, nhưng Bành Ngọc Lân suốt đời không quên. Ông tới mộ Mai cô khóc, nguyện sẽ vẽ một vạn bức tranh hoa mai để trọn đời nhớ tới cô (ông giữ lời nguyện, vẽ được trên một vạn bức tranh hoa mai, trở thành một trong những họa sĩ Trung hoa chuyên về hoa mai). Khi chiếm được Tiểu Cô sơn năm 1853, Bành Ngọc Lân đã 37 tuổi và Mai cô đã mất từ lâu. Nhân lúc cao hứng sau một trận đánh sinh tử, ông tưởng như đã vào tới cõi chết và đem được Mai cô từ cõi ấy trở về. Vẫn gọi nàng là “Tiểu Cô” (người cô bé nhỏ), nên trong bài thơ ông đã hạ bút:
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi
(Bành lang đoạt được Tiểu Cô [từ cõi chết] trở về).
Mối thiện cảm Vũ Hoàng Chương dành cho Bành Ngọc Lân:
Cùng có một tình đầu tan vỡ và cùng suốt đời không quên mối tình ấy, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã dành rất nhiều thiện cảm cho Bành Ngọc Lân. Ý tưởng nguyên thủy trong các câu:
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
nhưng:
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
biểu lộ một thông cảm “đồng cảnh” giữa thi nhân họ Vũ với vị tướng quân kiêm họa sĩ họ Bành: không thể làm sống lại người yêu cũ, không thể sửa đổi được định mệnh. Dù có nhân chuyện cùng một âm “cô” để cố tình hiểu “ngọn núi cô đơn” ra “người cô bé nhỏ” thì sau khi đoạt về, “Tiểu Cô” cũng không còn sự sống. Nhưng mối thông cảm Vũ Hoàng Chương -- Bành Ngọc Lân đã dừng ở đó. Toàn bài, nhất là 6 câu cuối, là những phán đoán rất bình tĩnh của tác giả về cuộc thống nhất đất nước năm 1975.
Cuộc thống nhất Việt Nam năm 1975 qua ngòi bút của thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
Sống tại miền Nam cho tới tháng 9 năm 1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã chứng kiến tận mắt những kinh hoàng của dân chúng trước cuộc tiến công của Hà nội trong các tháng 3 và 4-1975, được liên tục nghe những lời tự tôn đầy huênh hoang của những kẻ chiến thắng, và nhất là hiểu rõ nỗi chua xót thấm thía của người dân miền Nam qua những “ca dao mới” như:"Nam kỳ khởi nghĩa” tiêu “Công lý”
“Đồng khởi” vùng lên mất “Tự do.”
Bản thân ông, một người cầm bút, càng hiểu rõ thực trạng xã hội mới:
Rằng vách có tai, thơ có họa
và đã từng bị giam trong cảnh ngộ:
Nửa manh chiếu nỉa hồn ngây ngất
Hai chén cơm rau xác mỏi mòn.
Sống tại Sàigòn, chắc chắn ông cũng từng nghe những câu nói rất được phổ biến trong dân chúng, “Đến cái cột đèn, nếu có chân, nó cũng muốn đi…”
Qua bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” Vũ Hoàng Chương cho ta thấy: tuy những người cầm đầu chế độ và tay chân của họ luôn huênh hoang ca tụng công ơn “giải phóng miền Nam,” nhưng những ngưòi được “giải phóng” không hưởng ứng, chỉ biểu lộ một thái độ dửng dưng, lãnh đạm:
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ.
Người dân miền Nam, vốn thực tế, không bị chi phối bởi những thơ văn tuyên truyền đầy tính cách phóng đại:
Từ bao giờ đến bao giờ
Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành
Kể chi lúc ấy đời Thanh
Sá chi người ấy là danh tướng nào.
Vũ Hoàng Chương cũng ghi nhận thái độ khinh miệt của dân miền Nam với những kẻ chỉ biết dùng sức mạnh để đoạt chiến thắng:
Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao
Nghe Bành Lang độ thấm vào lòng chân.
Trong cuộc tấn công giành Tiểu Cô sơn năm 1853, Bành Lang độ (bến Bành Lang) là nơi Bành Ngọc Lân cho thủy quân đổ bộ để đánh lên núi.
Ý tưởng then chốt của Vũ Hoàng Chương nằm trong hai câu cuối. Non nước vẫn thiêng liêng. Muốn đưa “non” về với “nước,” muốn non sông thống nhất, cần có những thứ khác hơn là sức mạnh quân sự:
Non xưa bến cũ nhập thần
Đoạt non về bến đâu cần hùng binh
vì nếu chỉ biết dùng sức mạnh để chiếm đoạt, sẽ được một cơ thể không có sự sống:
… Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ.
Tóm lại, “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân” là một bài thơ ngụ ý vô cùng
hàm súc của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Ông rất xứng với danh hiệu “một người cầm bút ngay thẳng,” có lương tâm, sống rất thành thật, nói rất thành thật về thời đại của mình. Tuy dùng những lời rất hiền hoà, thái độ của ông thật không khác thái độ của Phùng Quán qua những câu sau đây:
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ cầm dao viết văn lên đá.

Trần Huy Bích

*

No comments: