Monday, September 26, 2011

TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ ẤN ĐỘ

TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ ẤN ĐỘ


ẤN ĐỘ : KINH TẾ PHÁT TRIỂN

TRONG MÔI TRƯỜNG DÂN CHỦ

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 30.03.2010. Cập nhật 21.09.2011

Web: http://VietTUDAN.net

Cập nhật 21.09.2011 :

Tóm tắt nội dung Bài này là Bài phỏng vấn của Đài RFI truyền thanh về Việt Nam ngày 30.03.2010. An Độ là một tỉ dụ cụ thể cho Chủ trương Phát triển Kinh tế trong Môi trường Chính trị-Luật pháp Dân chủ phù hợp (Environnement Politico-Juridique Démocratique adéquat), đầu đề mà chúng tôi đã trường kỳ khai triển với 3 cuốn sách liên tiếp trong những năm 2009, 2010, 2011 và đã xuất bản tại Ventura, California : (i) DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN (xb 2009, 216 trang) ; (ii) DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ (xb 2010, 305 trang) ; (iii) DÂN TRÊN ĐƯỜNG NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN (xb 2011, 465 trang).

Trong thời gian hiện nay, Việt Nam bắt tay với An Độ trong việc khai thác Biển Đông. Chúng tôi thấy rất hợp thời cập nhật Bài này và đăng như một hướng NỔI DẬY dứt bỏ một Cơ chế độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế, để toàn Dân có thể phát triển Đất Nước và chống lại xâm lăng Trung quốc.

Nguyễn Phúc Liên

Viết về ẤN ĐỘ, một cường quốc Kinh tế tương lai, như một bài học dưới Chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ, chúng tôi dựa trên những bài báo hòan tòan có tính cách thời sự :

* Le Monde 09.03.2010: UNE LECON INDIENNE par Martin WOLF

* The Wall Street Journal 10.03.2010: INDIA’S MICROLENDERS TO SHARE DATA by Eric BELLMAN

* Financial Times 10.03.2010: SUGAR SUFFERS AS INDIA RAISES OUTPUT ESTIMATE by Chris BLOOD

* Financial Times 11.03.2010: PUTIN SEEKS TO BOLSTER LINK WITH NEW DELHI by James LAMONT

* The Wall Street Journal 11.03.2010: INDIA: WOMEN AND DEMOCRATY

* Le Monde 11.03.2010: EN INDE, GUERRES DES TERRES ENTRE PAYSANS ET INDUSTRIELS par Julien BOUISSOU

* Le Monde 11.03.2010: LES DEPUTES INDIENS VOTENT L’INSTAURATION D’UN QUOTA DE FEMMES AU PARLEMENT par Julien BOUISSOU

Hai Quốc gia đông dân nhất và nhì Thế giới, đó là Trung quốc và Aán độ. Cả hai thuộc Á-châu và được Thế giới xếp vào những nước bắt đầu phát triển mạnh (Pays émergents). Nếu việc phát triển Kinh tế Trung quốc lấy độc đảng làm gốc và hiệu quả của phát triển là cho một nhóm người, thì Aán Độ lấy dân làm gốc cho phát triển và hiệu quả của phát triển là cho dân. Nền Kinh tế Aán Độ phát triển song hành với xây dựng Dân chủ. Đó là bài học qúy giá cho Chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ của chúng tôi áp dụng cho Việt Nam.

Chính Kinh tế gia Martin WOLF cũng lấy tựa đề bài viết của Oâng trong Le Monde 09.03.2010 là “UNE LECON INDIENNE“ (BÀI HỌC ẤN ĐỘ). Vào thập niên 1970, Kinh tế gia Martin WOLF là người Trách Nhiệm chính của Ngân Hàng Thế Giới tại Aán Độ. Oâng là bạn thân từ 39 năm nay của Kinh tế gia Montek Singh AHLUWALIA, Phó Chủ tịch ỦY BAN KẾ HỌACH KINH TẾ ẤN ĐỘ, đứng sau Thủ tướng MANMOHAN SINGH.

Viết chính yếu về Kinh tế Aán độ như một bài học tích cực cho Việt Nam cần được áp dụng, chúng tôi cũng nhắc đến Kinh tế Trung quốc, với những nan đề đang gặp phải hiện nay, làm một bài học cho Việt Nam, nhưng là bài học tiêu cực cần phải tránh.

Chúng tôi đề cập đến những điểm sau đây :

=> Kinh tế Trung quốc, một bài học phải tránh

=> Kinh tế An độ: Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ

=> An Độ: Dân chủ hóa Chương trình phát triển Kinh tế bền vững

Kinh tế Trung quốc,

một bài học phải tránh

Kinh tế Trung quốc là Kinh tế hướng ngọai, lệ thuộc vào thăng trầm của những nước ngòai, nhất là những cường quốc Kinh tế đã phát triển. Chính Thủ tướng ÔN GIA BẢO, trong Diễn văn trước Quốc Hội Nhân dân ngày 14.03.2010, đã tuyên bố rằng 60% xuất cảng của Trung quốc là từ những Công ty nước ngòai liên doanh sản xuất tại Trung quốc do Nhân lực rẻ. (Le Monde 16.03.2010, trang 16)

Chúng tôi xin trích ra đây đọan tóm tắt rất gọn và xác thực về Kinh tế Trung quốc, đăng trong Financial Times 09.03.2010, trang 10, để độc giả so sánh với việc Phát triển Kinh tế Aán độ mà chúng tôi sẽ viết dài trong hai phần sau đó:

“It is absurd that a poor country (national income per capita was some $3,000 las year) should be devoting its human and physical resources to producing gadgets for the enjoyment of consumers elsewhere when ordinary Chinese are not reaping the fruits from this effort. A large part of proceeds is instead saved and recycled into lending to rich western countries”

(Thật là phi lý một nước nghèo (thu nhập quốc gia theo vốn là khỏang $3,000 năm ngóai) đã hy sinh nguồn nhân lực và vật chất để sản xuất những lọai hàng nhất thời mua vui cho những khách tiêu thụ nơi khác trong khi ấy những người Trung quốc bình thường không được hưởng những thành quả từ sự cố gắng ấy. Một số lớn những thu nhập được tiết kiệm và chuyển thành những vốn cho những nước giầu Tây phương vay). (Financial Times 09.03.2010, p.10)

Đó là nền Kinh tế sản xuất những “gadgets” để mau chóng xuất cảng mua vui cho những người tiêu thụ tại những xứ khác, do một nhóm đảng tổ chức thu tiền nhanh vào cho mình và rồi chuyển những tiền ấy ra đặt tại những xứ giầu Tây phương. Người dân chỉ được hưởng một phần rất nhỏ hiệu quả Kinh tế qua đồng lương bóc lột. Đó là Kinh tế Trung quốc.

Bình thường, thì những Lãnh đạo chính trị độc tài bưng bít không dám nói ra những khuyết điểm của một nền Kinh tế do chính mình điều hành Kế họach Phát triển. Nhưng lần này, ngày 14.03.2010 trước Quốc Hội Nhân dân, một Thủ tướng đành phải thú nhận những đe dọa cho Kinh tế Trung quốc có thể dẫn đến những bất ổn Xã hội và Chính trị. Oân Gia Bảo nói rõ rệt như sau:

“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement”

(Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16)

Lạm phát (Inflation)

Trung quốc đang lo sợ lạm phát. Tháng hai vừa rồi lạm phát tăng 2.7% và Nhà nước đang lo sợ rằng lạm phát tòan năm có thể lên 2 con số. Chính Oân Gia Bảo đã nhắc lại rằng năm 1989, vụ đẫm máu tại Thiên An Môn là do lạm phát tăng lên hai con số.

Sự phân phối không đồng đều những thu nhập

(Redistribution inéquitable des revenus)

Đúng theo hình ảnh Kinh tế Trung quốc mà Tờ Financial Times ngày 09.03.2010, trang 10, đã tóm tắt như trên đây. Đó là Kinh tế Mafia đảng CSTQ, bóc lột nhân lực đại đa số dân Trung quốc mà không cho họ hưởng tương xứng với thu nhập, đám Mafia đảng trở thành giầu sụ và tiền thu nhập lại chuyển ra nước ngòai đầu tư chứ không đầu tư trong nước để đa số dân nghèo có thể được hưởng. Đồng Nhân Dân Tệ là tiền của Tầu mà chính đám Mafia giầu có lại sợ giữ tiền Tầu, nên mua đồng Đo-la để trữ. Tờ Le Monde ngày 16.03.2010, trang 16 viết:

“La Chine est alarmée par le fait que le fossé ville-campagne va continuer à se creuser dans la mesure òu le pays se focalise sur le développement urbain et pas du monde rural.”

(Trung quốc bị báo động bởi sự việc là hố sâu thành phố—nhà quê sẽ tiếp tục tự đào sâu thêm ở mức độ nước này đặt tiêu điểm phát triển thành thị và không phải là lãnh vực nông thôn)

Cách đây 6 năm, số người giầu từ 150 triệu Đo-la, liên hệ với đảng CSTQ, là 100 người. Ngày nay con số đó đã tăng lên 1’000 người (Le Monde 16.03.2010, p.16)

Tham nhũng (Corruption)

Tham nhũng mọi cấp tràn lan. Không cho hối lộ, thì công việc không chạy. Đó là lời nhận xét của một doanh nhân nước ngòai làm việc với Trung quốc. Ký giả Jamil ANDERLINI từ Bắc kinh đã viết trên tờ FINANCIAL TIMES ngày 27.01.2010, trang 17, viết về con trai của Oân Gia Bảo, Oân Yunsong, và con trai của Hồ Cẩm Đào, Hồ Heifeng, nhờ quyền hành của Bố mình mà hòanh hành tham nhũng.

Tác hại đến ổn định Xã hội, ngay cả ổn định Nhà nước

(Affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement)

Oân Gia Bảo đã nói trước Quốc Hội Nhân Dân rằng những sự việc trên đây đang diễn ra trong nền Kinh tế Trung quốc và sẽ đưa tới sự bất ổn Xã Hội và Chính trị. Sự nổi dậy của khối dân nghèo nếu có lạm phát làm họ thiếu ăn. Những bóc lột sức lao động đã làm giầu cá nhân thuộc đảng CSTQ đến một lúc sẽ làm nhân công không thể chịu đựng được và nổi dậy. Sự tị hiểm, uất hận sẽ tăng lên trong giới trẻ và trí thức khi nhìn những tệ đoan, bất công trên đây. Hình ảnh nổi dậy Thiên An Môn là một tỉ dụ cụ thể lịch sử.

Thú nhận những điểm như trên đây rồi, Oâng Gia Bảo tuyên bố một điều làm cho những ai thường ca tụng “cường quốc Kinh tế Trung quốc” phải ngạc nhiên:

“Cela prendra cent ans, même plus pour que la Chine devienne un pays moderne” (Điều đó còn cần 100 năm, ngay cả lâu hơn nữa, để Trung quốc trở thành một nước tân tiến) (Le Monde 16.03.2010, trang 16)

Trong bài viết về tương lai phát triển Kinh tế Trung quốc, Tác giả Minxin PEI (Chuyển ngữ: Minh Huy) đã viết:

“Kiểu phát triển ăn xổi của Trung Cộng là dựa vào năng lượng giá rẻ và không có chi phí cho môi sinh sẽ không còn đứng vững trong tương lai gần.”

Tác giả Ian BREMMER, trong một bài mới nhất đăng trên tờ Financial Times 29.03.2010, đã viết về sự lệ thuộc của Kinh tế Trung quốc vào Hoa kỳ và việc tự ý thức phải tạo Mãi lực nội địa để Kinh tế có độc lập. Tác giả viết:

“This rethink began when the western financial meltdown put millions of Chinese out of work in early 2009”

“China saw the US as indispensable to its rise”

“China is signalling that it wants its model of growth to rely more on its growing consumer base. Some Chinese officials predict Beijing can create a truly consumption-driven economy in five years (?). But it will not happen this rapidly, for political and structural reasons.”

(Việc nghĩ lại (Tầu) đã bắt đầu khi mà việc đổ vỡ tài chánh Tây phương đã làm cho những triệu người Trung quốc mất việc trong năm 2009.

Trung quốc đã thấy rằng Hoa-kỳ là cần thiết cho việc đứng lên của mình.

Trung quốc đang cho biết rằng mô hình phát triển của họ lệ thuộc vào căn bản mãi lực của chính họ. Một số nhân viên chính quyền tiên đóan rằng Bắc Kinh có thể tạo một nền Kinh tế tự tiêu thụ trong vòng 5 năm (?). Nhưng việc này không xẩy ra nhanh chóng như vậy được bởi những lý do chính trị và tổ chức cơ sở) (Financial Times 29.03.2010, trang 9)

Kinh tế An độ:

Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ

Kinh tế Trung quốc, nói là Kinh tế Tự do và Thị trường, nhưng thực chất vẫn là Kinh tế Tập quyền trực tiếp hay gián tiếp và một đảng duy nhất. Nền Kinh tế Tự do và Thị trường thực sự đòi hỏi một Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ phù hợp (Environnement Politico-Juridique Démocratique Adéquat). Nền Kinh tế Aán độ được phát triển song hành với Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ.

Qua những bài báo liệt kê trên đây liên quan đến Phát triển Kinh tế Aán Độ, nhất là bài của Kinh tế gia Martin WOLF, chúng tôi ghi nhận những điểm như sau.

Người dân và tính tình

Dân Aán Độ ít ồn ào hơn dân Trung quốc. Người ta thường nói rằng người Aán Độ thuộc lọai người suy tư đầu óc, chiêm ngưỡng (contemplatifs). Con số bí hiểm 0 (zéro) được phát sinh từ Aán Độ chứ không phải từ A-rập. Người ta không hiểu “zéro“ là gì, mặc dầu nó hiện hữu. Có người cắt nghĩa đó là ý niệm Niết Bàn. Phật Giáo được phát sinh từ Aán Độ, một Tôn giáo lấy giải thóat cá nhân và tự mình giải thóat làm trọng. Tính chiêm ngưỡng (contemplatif) và ảnh hưởng Tôn giáo là nền tảng tính tình dân Aán Độ. Ngày nay, người ta thường nhận thấy dân Aán Độ rất giỏi về ngành điện tử.

Nền tảng Dân chủ

Dân chủ chỉ là một Nguyên Tắc giải quyết tương đối những tranh chấp khi mà những cá nhân sống chung với nhau thành một cộng đồng. Như vậy CÁ NHÂN CHỦ là nền tảng để từ đó mới xây dựng nguyên tắc dân chủ. Một xã hội nào biết tôn trọng cá nhân, thì tự động họ xây dựng nguyên tắc DÂN CHỦ. Tôn giáo tại Aán Độ đã un đúc cho dân tinh thần phải tôn trọng CÁ NHÂN CHỦ. Chúng tôi không bao giờ chấp nhận ngụy biện của Cộng sản cho rằng dân trí còn ngu nên không thể cho Dân Chủ. Thực vậy, Dân Chủ không phải là kết quả của Dân trí mà là nguyên tắc thực tiễn giải quyết giữa những cá nhân chủ khi có va chạm.

Cái tinh thần tôn trọng cá nhân luôn luôn đòi hỏi việc xây dựng hệ thống quản trị Xã hội theo nguyên tắc Dân chủ:

=> Phân quyền, tránh tập trung quyền hành để dễ dẫn đến độc tài. Aán Độ theo hệ thống phân quyền dưới thể chế Liên Bang.

=> Khi quyền hành được tản ra, thì những tranh chấp chính trị cũng đỡ hẳn tính cách gay gắt, ác độc. Một chủ trương tập quyền như Cộng sản chẳng hạn, thì đó là nguồn gốc tranh chấp, thậm chí đến thanh trừng nội bộ một các tàn nhẫn.

Xã hội Aán Độ được xây dựng, phát triển theo những nguyên tắc Dân chủ. Nó khác với Xã hội Trung quốc hiện nay. Thực vậy, nếu phải so sánh từ cách thế đấu tranh đến quản trị xã hội, chúng ta cũng nhận thấy sự khác nhau giữa Trung quốc và Aán độ:

* Aán độ dành Độc lập do một cuộc đấu tranh bất bạo động. Thánh GANDHI chủ trương cuộc đấu tranh không bằng lực lượng võ khí, mà bằng sức đòan kết của tòan dân cô đọng trong tinh thần bất bạo động. Đây là cuộc đấu tranh không phải từ một nhóm đảng dùng sức mạnh mà đặt để, nhưng là hợp nhất tinh thần của tòan dân đứng sau Thánh GANDHI để Nước Anh phải trả lại Độc Lập cho Dân. Trong khi ấy, Trung quốc dành lại quyền hành do một nhóm đảng Chính trị dùng sức mạnh dành dựt lấy quyền hành cho nhóm đảng mình. Đó là cuộc đấu tranh nặng tính cách nhóm đảng tranh chấp quyền hành.

* Từ ngày dành lại Độc Lập đến nay, Aán độ dứng ở vị trí Khối không liên kết (non-alignés) giữa những tranh chấp Ý thức hệ Cộng sản hay Tự do. Nhà Nước nghĩ đến Dân của họ và xây dựng Dân chủ theo những điều kiện của Dân của họ. Trong khi ấy, từ ngày MAO TRẠCH ĐÔNG nắm quyền dến bây giờ, Dân chúng Trung quốc luôn luôn phải sống dưới chế độ độc tài theo Ý thức hệ Cộng sản. Ý thức DÂN CHỦ bị bóp chết tại Trung quốc, trong khi đó Ý thức này được mỗi ngày mỗi khai triển cho Dân Aán độ.

* Cũng phải lưu ý rằng tinh thần mở rộng của giới Lãnh đạo Aán độ có môi trường phát triển hơn vì sự rộng lớn của Thuộc địa Anh. Trong khi ấy, giới Lãnh đạo Trung cộng mang tinh thần kép kín trong nội địa của mình. Việc khép kín này tiếp tục, trừ việc mở cửa kinh tế mang tính chộp dựt ăn xổi ở thì.

An độ: Dân chủ hóa

Chương trình phát triển Kinh tế bền vững

Ơû phần đầu, khi nói về Kinh tế Trung quốc, chúng tôi đã viết rằng đó là Kinh tế Mafia nhóm đảng, lệ thuộc vào nước ngòai, không tạo mãi lực nội địa và làm mất Độc lập Kinh tế của mình.

Kinh tế Aán độ nhằm người dân của mình, tạo mãi lực cho dân Aán độ để có Độc lập Kinh tế. Việc phát triển độc lập này mang tính cách bền vững của nền Kinh tế.

Phát triển Kinh tế bởi cá nhân và cho cá nhân

Chính cá nhân là tác nhân Kinh tế chính và cá nhân làm kinh tế trước tiên là phục vụ cho chính mình chứ không phải hy sinh cả cuộc đời để phục vụ cho một Lý thuyết trừu tượng, một Chủ nghĩa Xã hội để những người nhân danh Chủ nghĩa mà bóc lột cá nhân. Cá nhân có sống, thì Chủ nghĩa mới có. Cá nhân chết, thì Chủ nghĩa trở thành trống rỗng. Ai cũng lo lắng đến cái bụng đói của mình trước tiên. Và rất hiếm người lo đến cái bụng đói của người khác trước khi nghĩ đến cái bụng của mình. Vậy hãy để cho mỗi cá nhân làm ăn để lo lắng trước tiên đến việc nuôi sống thân xác mình.

Một xã hội mà nền Kinh tế được tản ra cho từng cá nhân, nền kinh tế ấy mới có nhiều sáng kiến và sự thăng bằng phát triển mới bền vững và lâu dài. Nền Kinh tế được đặt trên nền tảng cá nhân, những công ty gia đình, những công ty nhóm nhỏ... mà tiến lên là nền Kinh tế phát triển có nhiều sáng kiến và bền vững nhất.

Tôn trọng cá nhân, lấy cá nhân trách nhiệm, phát triển những nguyên tắc dân chủ để giải quyến, nền Kinh tế Aán Đo,ä dù không ồn ào, yên lặng tiệm tiến, sẽ phát triển trong bền vững và lâu dài.

Một tỉ dụ điển hình mà chúng tôi thường lấy ra làm tỉ dụ, đó là sự đổi hướng của Kinh tế Ý cách đây 30 năm. Thời ấy, nền Kinh tế Ý dựa trên những đại Công ty. Tình trạng đình công xẩy ra như cơm bữa làm Kinh tế Ý tê liệt. Người Ý mang tinh thần tôn trọng gia đình cao nhất Aâu châu. Từ nền Kinh tế Đại Công ty bị tê liệt, dân Ý đã chuyển Kinh tế về hệ thống Gia đình. Mọi người trong Gia đình phải tuân theo MAMA mà làm việc, không được đình công, nếu không MAMA không cho ăn Spaghetti nữa. Nền Kinh tế đặt nền tảng trên Gia đình đã dần dần phát triển lớn mạnh đến ngày nay.

Chương trình Phát triển Kinh tế An Độ

Theo tinh thần trên đây lấy cá nhân làm tác nhân kinh tế chính, một Chương trình phát triển Kinh tế đã được họach định cho cả nước. Kinh tế gia Martin WOLF đã tóm tắt Chương trình ấy ở những điểm sau đây:

“Les Infrastructures, l’Agriculture, la Reglementation du Travail, le Secteur Bancaire, l’Energie, l’Education et le Commerce de détail“

(Những hạ tầng cơ sở, NÔNG NGHIỆP, LUẬT LỆ LAO ĐỘNG, Lãnh vực Ngân Hàng, Năng lượng, Giáo dục và THƯƠNG MẠI NHỎ) (Le Monde 09.03.2010, p.2)

Việc xây dựng hạ tầng cơ sở là lãnh vực của Nhà Nước. Chúng tôi viết chữ hoa cho một số lãnh vực để độc giả lưu ý rằng Kế họach Kinh tế này đặt trọng tâm vào người nghèo và những đơn vị Kinh tế nhỏ làm căn bản:

=> NÔNG NGHIỆP :

Đó là lãnh vực ưu tiên đầu tiên của Kế họach. Việc phát triển nông nghiệp là tạo cho đa số dân nghèo có đủ miếng ăn, rồi sau đó tạo cho dân nghèo có khả năng tiêu thụ để mới có thể sản xuất công kỹ nghệ phục vụ cho chính trong nội địa. Đó cũng là tạo độc lập về Kinh tế. Kinh tế Trung quốc hiện giờ không có độc lập vì nó lệ thuộc vào xuất cảng phục vụ ngọai quốc.

=> LUẬT LỆ LAO ĐỘNG:

Đây cũng là sự lo lắng cho khối người nghèo phải đi bán sức lao động của mình để nuôi thân. Phải có những luật lệ cho công bằng, tránh những tình trạng bóc lột lao động.

=> THƯƠNG MẠI NHỎ:

Đây cũng là chủ trương đi từ những đơn vị nhỏ thương mại mà tiến lên. Từ tiểu thương, rồi tiến dần lên đại thương. Săn sóc, hỗ trợ những Thương mại nhỏ để phân phối các nơi. Hãy nhìn Kinh tế Việt Nam để thấy khác biệt giữa hai chủ trương. Trong bao chục năm trường, Nhà Nước Việt Nam bỏ rơi Nông Nghiệp, một lãnh vực mà chúng ta có cả khả năng thiên nhiên để phát triển cho 75% dân số nghèo tại nông thôn. Nhà Nước Việt Nam chỉ nhằm bán Lao động cho tài phiệt nước ngòai, rồi xuất khẩu Lao động phục vụ ngọai quốc mà không lo phát triển những Luật lệ bảo vệ công bằng cho giới Lao động. Về thương mại, mỗi thành phố chỉ chuyên lo khuếch trương Siêu thị mà ít nâng đỡ những Tiểu thương, thậm chí còn tàn nhẫn đi hốt những người nghèo buôn thúng bán mẹt ở những góc phố. Tìm cách nâng đỡ họ. Họ là những Tiểu thương đấy, để họ có chỗ buôn bán độ thân và tiến dần lên Trung thương hoặc có thể là Đại thương sau này.

Hệ thống Tiểu Tài chánh “Microfinance“

Hệ Tiểu Tài chánh “Microfinance“ đi song hành rất nhịp nhàng với việc khuếch trương Nông Nghiệp và việc nâng đỡ các Tiểu thương. Hệ thống Tài chánh này cũng nhằm nâng đỡ tính năng động và sáng kiến của tuổi trẻ. Tính đa dạng của nền Kinh tế tùy thuộc vào tuổi trẻ. Trong những năm làm Tài chánh cho những Dự án, chúng tôi thường đưa ra một số tỉ dụ để công kích chính những Ngân Hàng lớn. Tỉ dụ sau đây thường được đưa ra khi phải chạm trán với Ngân Hàng:

Một sinh viên trẻ mới học xong. Anh đang mang cả bầu nhiệt huyết để thực hiện Dự án mà trong suốt thời gian học anh mơ mộng. Anh viết Dự án. Xử dụng môn học Phân tích Chi tiêu Xí nghiệp (Analyse des Charges Industrielles) để tính tóan rất kỹ. Xử dụng môn Marketing và Ước lượng Thu nhập để cho thấy rằng Lợi nhuận từ mỗi chặng thực hiện Dự án là bao nhiêu. Đọc Dự án, tôi cảm phục anh sinh viên nghèo mới ra trường này.Nhưng phải có VỐN thì mới thực hiện được Dự án. Anh can đảm đến Ngân Hàng để trình bầy Dự án với những Chi—Thu đã tính tóan kỹ.

Anh xin Ngân Hàng cho vay vốn để thực hiện Dự án của mình. Anh chấp nhận mọi kiểm sóat của Ngân Hàng. Ngân Hàng khen anh, nhưng trả lời rằng:“Vậy Bank Guarantee hay Standby Letter of Credit của anh đâu để làm Collateral cho vốn vay ?“. Anh sinh viên nghèo chua chát ra đi và nghĩ: thực là ngược ngạo ! Để lấy được Bank Guarantee hay Standby Letter of Credit, thì anh phải có tiền đặt trong Ngân Hàng làm Deposit. Mà nếu anh đã có tiền rồi để làm Deposit, thì anh cần gì phải đến Ngân Hàng kia để xin vay. Có lẽ anh phải đi làm vất vả trong 10 năm để có tiền làm Deposit. Nhưng 10 năm sau, thì sức lực anh đã giảm, anh không muốn theo đuổi Dự án như lúc mới ra trường.

Tôi rất khâm phục ý tưởng đặc biệt của Aán Độ đã thiết lập hệ thống Microfinance, nghĩa là cho những người nghèo, những cá nhân muốn làm ăn vay. Hệ thống này đã trở thành thời danh mà vị sáng lập đã được khen tặng giải Nobel Hòa Bình.

Chương trình Phát triển Kinh tế Aán Độ đặt trọng tâm vào những người nghèo muốn làm việc: Nông dân, Lao động và Tiểu thương. Cùng với Chương trình nghĩ đến người nghèo như vậy, Aán Độ đã có sáng kiến tổ chức hệ thống Tiểu Tài chánh “Microfinance“ để giúp phương tiện làm ăn cho dân nghèo thiếu vốn như anh sinh viên trên kia. Đó là hai ngả giúp hữu hiệu cho phát triển Kinh tế từ nền tảng. Xin lưu ý: thống kê cho thấy rằng dân nghèo vay nợ làm ăn là dân hòan vốn rất chu đáo “Bon payeur“ !

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 30.03.2010. Cập nhật 21.09.2011

Web: http://vietTUDAN.net

CHƯƠNG TRÌNH OBAMA:

THÂU THUẾ NGƯỜI GIẦU CHO NGÂN SÁCH

HAY

THU PHIẾU NGƯỜI NGHÈO CHO BẦU CỬ ?

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 22.09.2011

Web: http://VietTUDAN.net

Năm 2008, nợ cá nhân Địa ốc Mỹ là nguyên cớ trực tiếp cho Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế lan tràn cả Thế giới. Năm 2011, nợ công của Nhà Nước đang gây Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế cho hai đầu tầu Kinh tế Thế giới là Hoa kỳ và Liên Aâu. Đồng Dollar và đồng Euro đang yếu đi. Tất cả là vì cá nhân hay nhà nước tiêu xả láng tiền tương lai (monnaie virtuelle) qua những phát hành tín dụng dễ dãi qua hệ thống ngân hàng. Đồng tiền bỏ ra chi tiêu hôm nay là thực, còn đồng tiền mong thâu vào được trong tương lai (monnaie virtuelle) có những rủi ro do những điều kiện kinh tế cho phép thâu được hay không.

Bây giờ các Nhà Nước đã trót tiêu rồi mà tương lai tăng trưởng Kinh tế để thâu nhập thì đen tối. Hoa kỳ và Liên Au mang nợ nần công chồng chất, nên các nhà nước chạy vắt chân lên cổ nghĩ kế để cân bằng tiêu và thâu cho những năm sắp tới. Đó là những Chương trình (i) một đàng thắt lưng buộc bụng giảm chi tiêu; (ii) một đàng tìm mọi cách tăng mức thuế từ dân mặc dầu độ tăng trưởng kinh tế đi xuống.

Khủng hoảng Tài chánh sôi động

trong hai tuần gần đây nhất tại Liên Âu

Từ cuối tháng 7, đầu tháng 8/2011 cho đến nay, các chỉ số chứng khoán khắp Thế giới giao động trong chiều đi xuống mất mát nhiều. Nhưng trầm trọng hơn cả là vùng Euro bị đe doạ tan rã vì một số nước đứng bên bờ vỡ nợ. Giới Tài chánh ghi nhận những biến động quan trọng sau đây:

1) Lần đầu tiên, cấp Tín dụng Hoa kỳ bị Tổ chức Thâm định Standard & Poor’s hạ từ cấp AAA xuống AA+, nghĩa là Tín dụng Mỹ mang rủi ro hơn và do đó phải trả cao hơn về Lãi suất.

2) Tín dụng Hy Lạp bị mất hẳn giá và nợ công Hy Lạp đứng rõ rệt bên bờ vỡ nợ không thể tránh. Các quốc gia vùng Euro, nhất là Đức và Pháp, và Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF/ FMI) phải hợp lực cứu vớt Hy Lạp. Qua đàm phán cấp bách tay ba MERKEL-SARKOZY-PAPANDREOU ngày thứ Tư 14.09.2011, Đức và Pháp như buộc lòng phải cứu Hy Lạp, không phải vì tình thương mến nhau, mà vì sự sống còn của vùng Euro trong đó có những quyền lợi của chính Đức và Pháp. Cuộc họp các Bộ trưởng Tài chánh tại Ba Lan cuối tuần vừa rồi vẫn chưa giải quyết hẳn cách thế cứu vớt bởi lẽ tất cả đều đòi buộc Hy Lạp phải có những điều kiện khách quan và đứng đắn khôi phục Kinh tế tương lai, thắt chặt chi tiêu hiện tại và biện pháp cấp bách thâu thuế lúc này. Đã hai đợt cứu vớt Hy Lạp rồi, nhưng với cả hai đợt Hy Lạp không tôn trọng đủ những điều kiện đặt ra. Chính vì vậy mà lần này Hy Lạp đang bị nghi ngờ về Chương trình thắt lưng buộc bụng và những biện pháp thâu nhập làm cân bằng từ từ Ngân sách. Các Thị trường Chứng khoán vẫn giao động theo chiều giảm những chi số vì việc cứu vớt Hy Lạp vẫn chưa được quyết định minh bạch.

3) Trong khi việc cứu vớt nợ công Hy Lạp vẫn bấp bênh, thì tình trạng nợ công của Ý-đại-lợi trở thành điểm nóng thứ hai. Ngaỳ thứ Hai, 19.09.2011, Tổ chứ Moody’s đã quyết định hạ cấp bực Tín dụng của Ý-đạ-lợi xuống. Nước Ý nằm trong G7 các nước giầu đã Kỹ nghệ hóa và là nước đứng hàng thứ ba về Kinh tế trong Liên Au. Việc hạ Tín dụng Ý xuống không phải hoàn toàn là do số nợ công lớn, mà vì hai lý do chính sau đây:

* Ý-đại-lợi không có một chương trình khơi động Kinh tế rõ rệt. Độ tăng trưởng của Ý cho năm tới chỉ ước lượng tới mức 0.6% quá thấp nếu phải nói Kinh tế là chỉ số đo mức độ tiến tới cân bằng Ngân sách.

* Tình trạng Chính trị Ý bị phân tán vì đời tư của Thủ tướng BERLUSCONI. Khuynh hướng đòi buộc Thủ tướng BERLUSCONI từ chức tăng lên mạnh. Ngoài ra có sự chia rẽ trong dân chúng giữa Nam và Bắc Ý-đại-lợi. Tình trạng nợ công, khả năng Kinh tế và chia rẽ Chính trị của Ý-đại-lợi có thể mang hậu quả trầm trọng cho vùng Euro, Liên Au.

4) Các Ngân Hàng lớn của Liên Aâu bị xuống cấp vì các Ngân Hàng này đứng trước những khách hàng Nhà nước đang bị đe dọa vỡ nợ công như: Hy Lạp, Ý-đại-lợi, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, thậm chí cả Pháp. Cả hai cuộc Khủng hoảng 2008 và 2011 về nợ tư hay nợ công đều do hệ thống Ngân Hàng cổ võ và cung cấp phương tiện Tín dụng (Monnaie virtuelle) một cách dễ dãi để thâu vào mau chóng Lợi nhuận cho Ngân Hàng. Bây giờ Khủng hoảng tới, thì hệ thống Ngân Hàng phải chịu trận đầu tiên vậy.

Trong bài này, chủ yếu nói về Chương trình phục hồi Ngân sách của Hoa kỳ và Chương trình giảm Thất nghiệp của TT.OBAMA, nhưng chúng tôi trình bầy thêm ở trên những điểm nóng đang làm nát óc những Lãnh đạo Liên Aâu. Chúng tôi tiếp tục theo rõi những điểm này trong những bài kế tiếp để xem giải quyết ra sao.

Những Chương trình Thâu thuế và

Giảm Thất nghiệp của Tổng thống OBAMA

Nợ nần công tại Aâu châu chồng chất. Thất nghiệp tại một số lớn các nước Liên Au tăng mạnh: 25% tại Hy Lạp, 23% tại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, 15% tại Pháp. Thất nghiệp các nước Đông Aâu tràn sang phía Tây Au. Tất nhiên các Chính quyền phải giải quyết hai vấn đề Nợ công và Thất nghiệp. Hoa kỳ cũng không thể không quan tâm giải quyết hai vấn đề này: tiến trình cân bằng nợ công và tạo công ăn việc làm để giảm Thất nghiệp.

Tổng thống OBAMA đã tuyên bố về hai giải quyết này:

1) Chương trình USD.447 tỉ để giảm Thất nghiệp

Tổng thống OBAMA chỉ tuyên bố tổng quát số chi USD.447 tỉ, nhưng chưa đi vào chi tiết cụ thể việc chi tiêu và ước lượng hiệu qua thâu được. Có hai vấn đề đặt ra ở đây : (i) Kiếm nguồn tiền ở đâu cho ra USD.447 tỉ trong lúc nợ công đang chất chồng; (ii) Chi tiêu vào những lãnh vực nào để có hiệu quả ngắn hạn, cấp bách vì nợ công đang thôi thúc. Về những Chương trình STIMULUS Plans theo Lý thuyết của KEYNES, phải có những chi tiết tính toán chi tiêu trong những Lãnh vực để việc chi tiêu và hiệu quả thau nhận trở thành một chu trình khép kín, tránh những thất thoát.

Chúng tôi nhớ lại một số STIMULUS Plans của TT.OBAMA thời Khủng hoảng 2008. Những Chương trình này lỏng lẻo và hiệu quả không nhìn thấy khách quan. Có thể những Chương trình này đã góp phần vào việc làm tăng nợ công tại Hoa kỳ hiện nay.

2) Chương trình tăng thuế người giầu để cân bằng Ngân sách

Thứ Hai, ngày 19.09.2011, từ Vườn Hồng của Tòa Bạch ốc, Tổng thống đã tuyên bố Chương trình tiến đến cân bằng hóa Ngân sách, nghĩa là giảm tiêu và tăng thu. Việc tăng thu được mọi người lưu ý nhất, đó là TĂNG MỨC THÂU THUẾ CHO NHÀ GIẦU VÀ NHỮNG CÔNG TY LỚN.

Tờ THE WALL STREET JOURNAL 20.09.2011, trang nhất, viết tóm tắt:

“President Barack Obama on Monday offered a plan to reduce the US deficit by US$ 3.6 trillion, almost half of which would come from tax increases, including a new tax on millionaires.“ (Tổng thống Barack Obama hôm thứ Hai đã đưa ra một chương trình giảm thiếu hụt ngân sách tới US$3.6 ngàn tỉ, mà chính yếu một nửa trong đó sẽ do việc tăng thuế, thậm chí thuế mới trên những triệu phú).

Tờ The Wall Street Journal tóm tắt như sau:

* US$ 580 billion from cuts to mandatory spending

(US$ 580 tỉ từ việc cắt đi những chi tiêu bó buộc)

* US$ 1'500 billion in tax revenue targeting the wealthy, oil and gas firms and corporate-jet-owners

(US$ 1'500 tỉ thâu từ thuế đánh trên những người giầu, những công ty dầu và khí đốt và những chủ công ty máy bay)

* US$ 1'100 billion down from Iraq and Afganistan wars

(US$ 1'100 tỉ giảm đi từ chiến tranh Iraq và A-phú-hãn

* US$ 430 billion from interest savings

(US$ 430 tỉ từ tiết kiệm tiền lời)

Phản ứng tức thời đối với

Chương trình tăng thuế

Tại Aâu châu, tất cả những Chương trình tăng mức thuế đều bị công kích, thậm chí bằng những cuộc biểu tình lớn từ khối dân chúng, thợ thuyền. Dân chúng ngày nay tại những nước Kỹ nghệ hóa đều hiểu rằng việc tăng thuế dù cho người giầu và những công ty đều mang những hậu quả trên giá cả tiêu dùng mà chính đại đa số quần chúng tiêu thụ phải gánh chịu một phần.

Việc tăng thuế, thậm chí thuế mới trên những người giầu, những công ty dầu, khí đốt và những chủ máy bay đã gặp phản ứng tức khắc tại Hoa kỳ, nhất là từ phía Cộng hòa.

Chủ tịch Hạ Viện, Oâng John BOEHNER, đã cho rằng đây là Chương trình làm chia rẽ dân Mỹ : “Pitting one group of Americans against another is not a leadership“ (Đào hố sâu giữa nhóm người Mỹ này với nhóm khác, đó không phải là lãnh đạo) (FINANCIAL TIMES 20.09.2011, p.1).

Đứng về khía cạnh Kinh tế và Tài chánh, Oâng Paul RYAN, Chủ tịch Ủy Ban Ngân sách Hạ viện nói: “If you tax job creators more, you get less job creation. If you tax investment more, you get less investment“ (Nếu ông đánh thuế nhiều trên những người tạo công ăn việc làm, ông sẽ có ít việc được tạo ra. Nếu ông đánh thuế nhiều trên đầu tư, ông sẽ có ít đầu tư. “ (THE WALL STREET JOURNAL 20.09.2011, p.9)

Thượng Nghị sĩ Mitch McCONNELL, Trưởng khối Cộng Hòa Thượng viện, đã nhận định:

“Une hausse massive des impôts, des économies en trompe l’oeil et un renvoi de la balele sur la question, ce n’est pas une recette pour une croissance de l’économie ou de l’emploi, ou même une réduction significative des déficits “ (Việc tăng lên từng đống thuế, những nền kinh tế lừa dối con mắt và việc đẩy trái banh sang vấn đề của những chương trình xã hội, đó không phải là thu nhập cho việc tăng trưởng kinh tế hay tăng công ăn việc làm hoặc ngay cả việc giảm những những thiếu hụt ngân sách.) (LE FIGARO 20.09.2011, p.21).

Nhận định tổng quát của chúng tôi về

Chương trình Giảm Thất nghiệp và

Chi-Thu cân bằng Ngân sách

Cũng như tại Liên Au lúc này, Hoa kỳ ở trong tình trạng yếu kém về Kinh tế và nợ công chồng chất đến nỗi phải bị hạ thấp cấp bậc Tín dụng từ AAA xuống AA+. Chính hôm nay, Chủ tịch Dự trừ Trung ương FED, Giáo sư Tiến sĩ BERNANKE, đã nhận định về tình trạng chưa phục hồi Kinh tế sau Khủng hoảng 2008 để Giáo sư đưa ra những biện pháp chuyển đổi những Công phiếu dài hạn sang ngắn hạn và vẫn giữ lãi suất chỉ đạo thấp trợ lực cho những Công ty sản xuất và làm cho Thị trường Địa ốc dễ thở hơn.

Nhận định của chúng tôi liên quan đến những khía cạnh sau đây:

* Những nguyên tắc Kinh tế Chính trị làm nền tảng nhận định

* Căn bản của Lý thuyết Keynes cho Chương trình giảm Thất nghiệp

* Những rủi ro của Chương trình tăng thuế lên người giầu

* Chương trình Thâu thuế người giầu hay Thu phiếu người nghèo ?

Những nguyên tắc Kinh tế Chính trị

làm nền tảng nhận định

Chương trình Giảm Thất nghiệp và Chương trình Chi-Thu cân bằng Ngân sách gồm những Biện pháp thuộc Chính trị Kinh tế (Mesures de la Politique Economique) nên phải được thẩm định dựa trên những Nguyên tắc của Kinh tế Chính trị khách quan (Principes objectifs de l’Economie Politique), chứ không quy chiếu theo những tiêu chuẩn khác về Khuynh hướng Luân lý (Tendance Moraliste), Khuynh hướng Xã hội (Tendance Socialiste), Khuynh hướng Nhân bản (Tendance Humaniste), vân vân…

Những Chương trình mà Tổng thống OBAMA mới đưa ra thuộc vào Chi-Thu cho Thất nghiệp hay cho Ngân sách và được tóm tắt bởi công thức tổng quát sau đây:

E = R - D

(Hiệu quả) = (Thu) - (Chi)

Có ba trường hợp xẩy ra cho E (Hiệu quả):

=> Nếu R (Thu) lớn hơn D (Chi) thì E (Hiệu quả) > 0 : Hiệu quả dương, tích cực, tốt

=> Nếu R (Thu) nhỏ hơn D (Chi) thì E (Hiệu quả) < 0: Hiệu quả âm, tiêu cực, xấu

=> Nếu R (Thu) chỉ bằng D (Chi) thì E (Hiệu quả) = 0: Hiệu quả cân bằng

Theo Nguyên tắc căn bản ở công thức tổng quát về Chi-Thu trên đây, chúng tôi nhìn những Biện pháp Chính trị Kinh tế mà Tổng thống OBAMA đưa ra trong những Chương trình để xem có những rủi ro nào về Thu (R), Chi (D) và Hiệu quả (E) của những Biện pháp Chi-Thu ấy ra sao. Chi-Thu Kinh tế được đo lường bằng lượng tiền gọi là Thủy triều Tài chánh (Flux Financier).

Chi (D) hay Thu (R) chỉ là cách nhìn lưỡng diện của một thực thể Thủy triều Tài chánh triền miên chảy khắp nơi, đến và đi cho mọi người và từ mọi người. Chi một lượng Tài chánh của một người cũng là Thu lượng Tài chánh ấy của người khác. Cái Thủy triều Tài chánh là một, nhưng nhìn theo khía cạnh Thu và Chi. Chính vì vậy mà giữa Sản xuất để Thu Tài chánh và Tiêu thụ phải Tiêu Tài chánh có sự hỗ tương liên hệ vì Thủy triều Tài chánh lưu chuyển chỉ là một thực thể cho cả hai phía. Thu Tài chánh vào thì phải Chi Tài chánh ra, dòng nước Tài chánh mới không bị tắc nghẽn. Chính về điểm này mà người ta có thể công kích thái độ làm Kinh tế của Trung quốc là làm tắc nghẽn Kinh tế toàn cầu. Thực vậy Trung quốc chỉ nghĩ đến Sản xuất để Thu Tài chánh, rồi tích lũy cất kỹ lượng dữ trữ USD.3'000 tỉ mà không tiêu để thả lượng Tài chánh ấy ra cho dòng sông làm nước sông cạn. Kinh tế gia Don PATINKIN, cựu Khoa trưởng Kinh tế Đại học Tel Aviv, gọi đây là túi tiền không sinh lời (Encaisse oisive). Trung quốc làm tắc nghẽn Thủy triều Tài chánh vậy.

Trở lại một số Nguyên tắc về Chi-Thu Kinh tế và Hiệu quả được tóm tắt trong công thức trên đây:

* Chi tiêu ở đây là Chi tiêu Kinh tế chứ không phải Chi tiêu Xã hội hay hoang phí vất tiền qua cửa sở. Chi tiêu Kinh tế phải hiểu theo câu tục ngữ: “Làm ra tiền đã khó, mà chi tiêu tiền còn khó hơn “. Phải đứng ở quan điểm Chi tiêu Kinh tế thì mới hiểu đúng được câu tục ngữ này, nghĩa là Chi tiêu tiền cũng là làm Kinh tế. Trước khi quyết định chi tiêu một đồng, thì phải tính toán kỹ xem việc chi tiêu ấy có thu vào được lượng tiền cao hơn một đồng hay không, rồi mới quyết định tiêu. Nếu thấy không thu vào được Hiệu quả (E ) tích cực, thì đó không phải là chi tiêu Kinh tế. Chúng tôi nhắc lại Nguyên tắc chi tiêu Kinh tế này để thẩm định ở trong những đoạn dưới đây về Chi tiêu Xã hội, Chi tiêu Đạo Đức, Nhân bản…

* Về Thu nhập, cũng có nguyên tắc Kinh tế của nó. Câu tục ngữ : “Không ai giầu một mình“. Người ta thường nghĩ rằng Sản xuất hàng hóa, bán ra thật nhiều, bán càng với giá cao càng hay, thậm chí moi móc từng đồng xu của người Tiêu thụ để Thu vào thật nhiều tích lũy cho giầu có của mình. Tác giả KOTLER, ông tổ của Martketing, đã định nghĩa môn Marketing như sau: “Marketing là môn học phân chia đồng đều những quyền lợi giữa người sản xuất và người tiêu thụ “ (Marketing est une étude de la répartition équitable des intérêts entre le Producteur et le Consommateur). Thực vậy, người Tiêu thụ là nguồn Thu cho người Sản xuất. Phải nuôi dưỡng Mãi lực cho người Tiêu thụ, thì việc Thu của người Sản xuất mới sống lâu dài. Đứng về phương diện nuôi dưỡng Tiêu thụ, chúng ta lấy tỉ dụ Lịch sử của Plan Marshall USD.173 tỉ tái thiết Aâu châu sau Thế chiến thứ II. Đây là việc làm tăng Mãi lực Aâu châu để Hoa kỳ có thể bán hàng của mình. Về phương diện này, chúng ta thấy Trung quốc đã moi móc Mãi lực Mỹ và Aâu châu trong suốt những chục năm. Câu nói của Henry FORD cũng theo hướng này: “Tôi trả lương cao cho Thợ để họ mua xe của tôi“

* Về Hiệu quả, chúng tôi cũng nhấn mạnh rằng đây là Hiệu quả Kinh tế chứ không phải là hiệu quả Xã hội, Đạo Đức hay Tình người. Những quyết định Kinh tế phải lấy Hiệu quả Kinh tế làm tiêu chuẩn quyết định. Chúng tôi đã có dịp dậy học về môn Quản trị Xí nghiệp, nhất là Quản trị Nhân lực. Có một sự khác biệt giữa Quản trị Nhân lực của Mỹ và của Aâu châu (Pháp). Quản trị Nhân lực theo quan điểm Mỹ là theo Hiệu quả (Efficacité), còn Quản trị Nhân lực theo quan điểm của FAYOLL (Pháp) còn kể đến tình người với người. Tỉ dụ sau đây cho thấy sự khác biệt ấy. Một công nhân làm việc cho Công ty, đã nhiều năm mang lời lại cho Xí nghiệp. Đến một thời gian, nhân công ấy trở thành cản trở trong công việc ở chuỗi nhân lực được sử dụng. Sa thải nhân công đó hay không ? Fayoll trả lời rằng phải kể đến tình người trong việc quyết định sa thải. Quan điểm quản trị của Mỹ chỉ kể đến việc nhân công còn Hiệu quả Kinh tế hay không để sa thải. Aâu châu coi rằng việc sa thải nhân công kia của Mỹ là thiếu tình người. Quan điểm Mỹ thì nói rằng chính Mỹ mới có tình người vì nếu không sa thải công nhân mất Hiệu quả thì Lợi nhuận của Xí nghiệp hạ xuống và có thể đi đến phá sản. Lúc ấy, Xí nghiệp không những phải sa thải chỉ một mình nhân công kia, mà phải đóng cửa sa thải cả hàng trăm nhân công khác.

Dựa trên những Nguyên tắc Kinh tế tế Chính trị vừa nêu trên liên hệ đến Chi-Thu và Hiệu quả, chúng tôi đưa ra một số nhận định cho Chương trình Chi tiêu USD.447 tỉ và Chương trình tăng thuế người giầu để Thu cho Ngân sách mà Tổng thống OBAMA mới đưa ra.

Căn bản của Lý thuyết Keynes

cho Chương trình giảm Thất nghiệp

Sau cuộc Đại Khủng hoảng Kinh tế 1929-30, Kinh tế Gia KEYNES đưa ra lý thuyết Chi tiêu để kích cầu Kinh tế, giảm Thất nghiệp. Cuộc Khủng hoảng 1929-30 gặp phải đường xoắn ốc Giảm giá (Spirale déflationniste). Dân chúng kiệt quệ, không còn Mãi lực để mua hàng tiêu thụ. Giảm giá đến nỗi các Công ty phải thiêu huỷ hàng hóa. Một số nhà Đạo Đức đã công kích rằng trong khi dân không có tiền tiêu thụ, tại sao không phân phát hàng hóa cho dân, mà đem đốt hàng hóa đi ? Những Nhà Kinh tế trả lời rằng phải đốt hàng hóa đi để làm cho phía CUNG khan hiếm và làm cho giá cả ở Thị trường tăng lên, thì Sản xuất mới tiếp tục được.

Trong tình trạng dân kiệt quệ Mãi lực như vậy, KEYNES chủ trương Nhà Nước phải Chi tiêu, một hình thức phân phát tiền bạc làm cho dân chúng có Mãi lực. Khi dân chúng có Mãi lực, thì Tiêu thụ (Consommation) tăng và do đó kích thích Sản xuất (Production). Như vậy Kinh tế mới có thể quật ngược lại Đường xoáy Giảm giá (spirale déflationniste). Lý thuyết này đã được thực hiện và mang Hiệu quả thực sự cho Hoa kỳ.

Những Chương trình STIMULUS Plans Chi tiêu để giảm Thất nghiệp lấy Lý thuyết của KEYNES làm căn bản. Theo Lý thuyết này, Chi tiêu phải nhằm vào giới có cường độ Tiêu thụ mạnh, thì việc Chi tiêu của Nhà Nước mới mang lại Hiệu quả lớn và mau chóng. Cái Hiệu quả có thể nhân lớn lên nhiều lần sánh với số Chi tiêu ban đầu. Người ta gọi đó Số nhân bội của Keynes được tóm tắt trong công thức:

1

K = -----------

1 - c

c = cướng độ tiêu thụ (propension marginale à consommer). Số Chi tiêu ban đầu của Nhà Nước cũng là số Thu nhập của dân chúng. Dân chúng dành một cường độ Tiêu thụ trên số Thu nhập của mình. Nếu cường độ Tiêu thụ của dân chúng yếu, thì Hiệu quả của Chi tiêu kích thích Kinh tế sẽ nhỏ. Nếu cường độ Tiêu thụ của dân chúng cao, thì Hiệu quả Chi tiêu ban đầu kích thích Kinh tế sẽ lớn.

Tỉ dụ hai trường hợp c = 0.5 và c = 0.75 và số Chi tiêu kích cầu Kinh tế để giảm Thất nghiệp là USD.447 tỉ.

Hiệu quả của trường hợp c = 0.50 sẽ là :

1

K x USD.447 tỉ = ----------- = 2 x USD.447 tỉ = USD.894 tỉ

1 – 0.50

Hiệu quả của trường hợp c = 0.75 sẽ là:

1

K x USD.447 tỉ = ----------- = 4 x USD.447 tỉ = USD.1'788 tỉ

1 – 0.75

Vì vậy vấn đề hệ trọng là việc Kích cầu Kinh tế để giảm Thất nghiệp bằng Chi tiêu USD.447 tỉ phải nhằm vào giới dân chúng có cường độ Tiêu thụ (propension marginale à consoomer) cao. Thực vậy nếu Chương trình Kích cầu USD.447 tỉ chi tiêu vào tay những Công ty lớn, giới Ngân Hàng hay giới Trung lưu dễ dãi, thì cường độ tiêu thụ (c) nhỏ và Hiệu quả Kích cầu sẽ thấp. Giới có cường độ chi tiêu lớn là dân nghèo thợ thuyền và trẻ trung. Vì vậy, việc Kích cầu USD.447 tỉ phải nhằm vào những Công ty Trung bình hoặc nhỏ, sử dụng nhiều nhân công.

Chính KEYNES đã chú thích điểm quan trọng là Mãi lực do Tiêu thụ Kích cầu tạo ra không được thất thoát ra ngoài, mà phải sử dụng để Tiêu thụ trong nước. Vì vậy mà phải lưu ý những điểm sau đây:

* Nếu nhân công là người nước ngoài, họ sẽ mang Mãi lực về Tiêu thụ tại nước họ. Tỉ dụ dân Mễ Tây cơ nhận được lương Kích cầu, họ dễ dàng mang Mãi lực về tiêu thu tại Mễ tây cơ. Đây là Mỹ kích cầu cho Mễ tây cơ, chứ không phải cho chính nước Mỹ.

* Cũng vậy, nếu nhân công Mỹ nhận được lương kích cầu, lại đem Mãi lực mua hàng hóa Trung quốc rẻ và tràn lan tại Mỹ, thì Hoa kỳ chiêu tiêu USD.447 tỉ là để kích cầu cho Kinh tế Trung quốc, chứ không phải cho Kinh tế Mỹ.

Những rủi ro của Chương trình

tăng thuế lên người giầu

Việc chắc ăn nhất của Nhà Nước mà chế độ Cộng sản chủ trương trước đây là triệt hạ những nhà giầu, tịch thu hết tài sản của họ để làm một Thế giới vô sản, mọi người đồng đều. Nhưng chế độ Cộng sản vô sản đã thất bại về Kinh tế vì chế độ Kinh tế như vậy đã thiêu rụi một yếu tố rất quan trọng cho những hoạt động Kinh tế là yếu tố KÍCH THÍCH (stimulation) làm Kinh tế của cá nhân.

Chính vì vậy, việc thu thuế đánh vào nhà giầu động chạm đến việc làm giảm yếu tố KÍCH THÍCH làm Kinh tế này. Trong cuộc Khủng hoảng 2008, một số những Nhà Nước muốn can thiệp vào những sinh hoạt Kinh tế kiếm Lợi nhuận cao bằng cách đặt số lương và tiền thưởng cho những Chủ Ngân Hàng, những Xí nghiệp lớn hạ thấp xuống. Việc can thiệp đặt mức thu nhập trần nhà này đã khiến thất thoát những tài năng Kinh tế ra nước ngoài.

Chương trình OBAMA tăng thâu thuế những người giầu, những Công ty dầu khi, khí đốt và chủ máy bay có thể gặp những rủi ro thất thoát Thủy triều Tài chánh Hoa kỳ chảy ra nước ngoài để trốn thuế. Hoa kỳ có nhiều những đại Công ty liên quốc gia. Hoạt động của họ nằm phần lớn ngoài lãnh thổ Hoa kỳ. Nếu thuế tăng tại Mỹ cho họ, thì một phần những Lợi nhuận thu được từ nước ngoài, có thể sẽ không được mang về Mỹ để chịu đóng thuế.

Không phải chỉ nguyên tại Hoa kỳ, mà các nước có nhiều người giầu luôn luôn đặt ra vấn đề trốn thuế bằng cách chuyển tiền ra để tại những Ngân Hàng các nước khác. Ở thời đại toàn cầu hóa hiện nay, việc chuyển tiền ra giữ tại nước ngoài nhằm trốn thuế trở thành dễ dàng mà các Nhà Nước khó lòng kiểm soát. Tại mỗi châu lục, đều có những nơi để cất giữ tiền trốn thuế mà người ta gọi là những “Thùng rác Tài chánh“ để tích lũy số vốn gọi là “Offshore Funds“ trốn thuế: Singapore cho Á châu, Dubai cho Trung Đông, Nassau cho Hoa kỳ, Aâu châu có Andora, Liechenstain, Monaco và Thụy sĩ.

Còn những “Thùng rác Tài chánh“ ít được nhắc đến thường xuyên, nhưng đầy bí mật. Chúng tôi xin kể ra đây:

* ILES ANGLO-NORMANDES (Anh quốc)

* LUXEMBOURG/ AUTRICHE (Aâu châu)

* GIBRALTAR (Anh quốc)

* DELAWARE (Hoa kỳ)

600000 Công ty ghi danh thương mại tại đây với dân số chỉ có 865000 người. Trong Tiểu bang Mỹ này, những Cổ phần viên và những Sở hữu Công ty có thể hoàn toàn được dấu danh tánh.

* BERMUDES (Hoa kỳ)

Đây là Thiên đàng Thuế khóa tuyệt hảo. Không đánh thuế trên thu nhập. Không thuế TVA. Nơi dành ưu đãi cho Bảo Hiểm.

* ILES CAIMANS (Aâu châu)

* ILES VIERGES BRITANNIQUES (Anh quốc)

Chì có 22 ngàn dân, nhưng với 500 ngàn Công ty bình phong ghi danh tại đây. Thuế : 0% trên thu nhập, tài sản hay thừa kế. Đây là đền thánh thế giới cho trốn thuế.

Việc tuyên bố tăng thuế nhà giầu sẽ tạo một làn sóng thất thoát vố Hoa kỳ ra nước ngoài TỴ NẠN (Boat Monney)

Chương trình Thâu thuế người giầu

hay Thu phiếu người nghèo ?

Sau khi Tổng thống OBAMA tuyên bố từ Vườn Hồng Tòa Bạch Oác về Chương trình Chi-Thu cân bằng Ngân sách bằng tăng thuế cho giới giầu, người ta thấy ngay đây là Chương trình không mang thuần túy Kinh tế theo những Nguyên tắc Thu-Chi và Hiệu quả như chúng tôi đã trình bầy trên đây để làm căn bản nhận định. Tại Hoa kỳ cũng như tại Aâu châu, người ta nhìn thấy dài hạn ý nghĩa “Định hướng Xã hội “ và ngắn hạn đó là Chương trình đấu tranh Chính trị nhằm THU PHIẾU cho cuộc bầu Tổng thống năm tới.

Chương trình này không phải là Chi tiêu mang thuần túy Hiệu quả Kinh tế. Đây là Chi Tiêu Xã Hội nhằm lấy phiếu từ đa số dân nghèo. Việc Chi-Thu không thuần túy Kinh tế sẽ không những không mang lại Hiệu quả Kinh tế mà Hoa kỳ đang cần lúc này, mà còn có thể làm trầm trọng hơn tình trạng nợ nần của Mỹ.

Trong bài trả lời cho Phỏng vấn của Đài RFI thú Năm tuần vừa rồi, chúng tôi đã phân tích những Chi tiêu Xã hội mang lại hậu quả tình trạng nợ công cho các Quốc gia thuộc châu lục này.

Nợ công của các Nhà Nước, nhất là Liên Au, có những nguyên nhân chi tiêu tích lũy như sau:

=> Các Chính trị gia, nhất là khuynh hướng Xã hội Chủ nghĩa, trong những chục năm trường, đã chủ trương chi tiêu xã hội với mục đích lấy phiếu của số đông. Nhà nước phát hành những Công phiếu nhận nợ dài hạn để có tiền chi tiêu cho những vấn đề xã hội, chứ không phải là chi tiêu kinh tế nhằm thu lợi nhuận thực tiền bạc vào. Chi tiêu xã hội nhiều chỉ thu vào cái lợi có phiếu bầu cho mình, trong khi ấy chi tiêu kinh tế mới có lợi nhuận tiền bạc.

=> Khuynh hướng Xã hội tại Âu châu đã kéo dài mấy chục năm trường, cổ võ bảo hiểm sức khỏe do Nhà nước chịu, rút vắn giờ làm việc cho nhân công, đẩy mạnh những Nghiệp đoàn đấu tranh xã hội cho giới thợ thuyền.

=> Liên Au từ đầu thành lập đã từng tuyên bố rằng đó là một Tổ chức “Europe social” (Au châu Xã hội), nhấn mạnh đến những chi tiêu mang tính cách xã hội.

Tiện đây, chúng tôi muốn nói thêm rằng những Chính trị gia đã chi tiêu xã hội quá nhiều để rơi vào tình trạng nợ công chồng chất. Khi nợ công sắp rơi vào tình trạng vỡ nợ, thì họ cuống cuồng đưa ra những Chương trình thắt lưng buộc bụng. Giới thợ thuyền, các Nghiệp đoàn đã quen với những chi tiêu xã hội dễ dãi, nay gặp phải những Chương trình thắt lưng buộc bụng, nhất là phải làm việc nhiều hơn, lương bị hạ thấp xuống, rồi thuế lại tăng cao, tất nhiên họ xuống đường phản đối những Chương trình ấy. Quen ăn uống ngon rồi, bây giờ phải chắt bóp ăn uống kham khổ, thì xuống đường biểu tình phản đối vậy.

Kinh tế Hoa kỳ đang cần những Chi-Thu mang HIỆU QUẢ thuần túy Kinh tế. Những Chi-Thu “định hướng xã hội “, nhất là thêm ngầm ý đấu tranh Chính trị lấy phiếu có thể gây đối kháng thất lợi cho nước Mỹ.

Chủ tịch Hạ Viện John BOEHNER có lý để công kích rằng đây là Chương trình làm chia rẽ dân Mỹ : “Pitting one group of Americans against another is not a leadership“ (Đào hố sâu giữa nhóm người Mỹ này với nhóm khác, đó không phải là lãnh đạo) (FINANCIAL TIMES 20.09.2011, p.1).

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 14.09.2011

Web: http://VietTUDAN.net

No comments: