Truyện cổ tích đã giữ một chỗ đứng đặc biệt trong tuổi thơ của tôi. Nội dung các câu chuyện tôi đọc qua thường mang ngụ ý giáo dục trẻ thơ nên làm điều thiện và tránh điều ác. Hình ảnh thiện thường được thể hiện qua những nhân vật như bà tiên, ông bụt luôn ra tay giúp đỡ những người hiền lành thật thà hay bị kẻ xấu bắt nạt. Còn hình ảnh ác là những người xấu thích làm những chuyện gian ác để hại người giống như những bà phù thủy có cái mũi khoằm và đôi mắt cú vọ trông rất dữ tợn v.v...
Có lẽ trẻ thơ nào khi lớn lên cũng vẫn còn giữ trong ký ức mình một kỷ niệm thời thơ ấu qua hình ảnh ông bụt hay bà tiên nào đó . Riêng đối với tôi, nhân vật thần tiên biểu hiệu cho sự thiện mà tôi còn nhớ cho tới ngày hôm nay là hình ảnh ông Bụt trong câu chuyện cây tre trăm đốt. Với chòm râu dài và mái tóc trắng bạc phơ, trong bộ y phục trắng tay cầm chiếc đũa thần, ông hay nhoẻn miệng cười từ ái với tôi trong giấc ngủ thơ ngây.
Khi bước vào cuộc đời người lớn hình ảnh nọ bỗng phai nhạt dần trong trí óc tôi để nhường chỗ cho những chuyện thực tế hàng ngày. Bẵng đi hơn 20 năm sau, tình cờ khi được xem lần đầu tiên tấm hình Hoà Thượng Thích Quảng Độ, tôi giật bắn mình vì thấy sao mà khuôn mặt này giống ông bụt trong trí óc tưởng tượng của tôi đến thế. Một ông Bụt sống với chòm râu, tóc bạc phơ và ánh mắt nụ cười ôi phúc hậu làm sao! Càng ngắm nghiá tấm hình tôi càng cảm kích thêm về những việc làm của Ngài. Chả cần học tướng số, chỉ nội ánh mắt và nụ cười từ bi của Ngài cũng đủ nói lên một điều là Ngài đã thực sự sống và thể hiện tinh thần Bồ Tát đạo.
Cuộc đời của Hoà thượng Thích Quảng Độ đã giúp cho tôi hiểu thêm về con đường tu hành nhập thế của Phật giáoViệt Nam. Tinh thần nhập thế đó đã bàng bạc trong thơ văn của Ngài. Ngài sinh ra đời như bao nhiêu người bình thường khác. Trên bước đường tu hành Ngài cũng có những cảm xúc khổ đau buồn vui lẫn lộn và những thử thách như mọi người. Ngài cũng biết thấm nỗi đau của một người con hiếu thảo khi phải chứng kiến sự ra đi của người mẹ mà Ngài một lòng kính yêu phụng dưỡng :
Xuân này tôi mất mẹ rồi
Cũng là mất cả cuộc đời còn chi
Từ nay đoạn đường tôi đi
Qua hàng thông lạnh gió vi vu sầu
Một mình lặng lẽ cúi đầu
Quanh tôi tất cả nhuộm màu tóc tang
Trong suốt thời gian 10 năm trường bị giam mình trong lao ngục, người tù lương tâm Thích Quảng Độ đã bao đêm nhìn trăng xuyên qua khung cửa tù nhỏ bé ngậm ngùi đếm tuổi đời tù. Nhưng sau đó tâm thức thiền soi sáng ảo mộng trần thế đã biến giai điệu buồn trong thơ thành những câu thơ dí dỏm diễu cợt cái "gia tài mất tự do" của Ngài nhiều đến nỗi không biết chứa vào đâu cho hết:
Trăng một túi gió mấy bầu
Tôi nghĩ như tôi thế cũng giầu
Năm tháng thu dùng không hết
Để dành? Chẳng biết chứa vào đâu?
Có ai mua gió trăng không?
Để tôi đem bán kiếm đồng tôi tiêu
Gió trăng tôi vốn có nhiều
Ai mua, tôi bán bao nhiêu cũng vừa.
Giáo lý nhà Phật thấm trong tâm cũng đã khiến cho Ngài coi cái chết nhẹ tựa hồng mao để rồi thú vị cười diễu cợt với tử thần :
Xà lim trông hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần tôi sợ con cóc khô
Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa tôi mời : dô
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khoái trá cười hô hô!
Trong cảnh cô đơn tù tội, bị cô lập với thế giới bên ngoài, Ngài chỉ còn biết chia sẻ tâm sự vui buồn với người bạn tri kỷ là ánh trăng :
Buồn vui ta vốn có nhau
Giờ đây trăng ốm ta đau buồn nhiều
Cùng mang cái kiếp cô liêu
Giữa khung trời lạnh bao nhiêu đêm rồi
Đêm nay tâm sự bồi hồi
Thâu canh không ngủ ta ngồi với trăng
Tuy nhiên nỗi u phiền riêng tư kia vẫn chỉ là hạt bụi so với niềm xót xa thương cảm mà Ngài dành cho dân tộc bị đọa đày:
Bên cửa sắt xà lim tăm tối
Tôi đứng nhìn những giọt mưa rơi
Từ mái nhà đổ xuống
Lênh láng chan hòa
Trông như những dòng nước mắt của muôn vạn người dân vô tội
Đã chảy ra
Khi trải qua 1 cuộc đổi đời
Trước biển khổ của dân tộc và đạo pháp bị trù rập, những giọt nước mắt từ bi của vị sa môn Thích Quảng Độ đã nhỏ xuống đời và hòa tan trong lòng biển nước mắt dân tộc:
Rộn ràng tiếng én báo xuân sang
Lòng tôi nguội lạnh nắm tro tàn
Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm
Giang sơn phủ kín lớp màu tang
Áp bức đoạ đày đời khổ nhục
Đói nghèo rách nát kiếp lầm than
Thẫn thờ đứng tựa khung cửa ngục
Nhìn bóng xuân sang mắt lệ tràn.
Đối với Hòa thượng Thích Quảng Độ , mùa xuân không khoe sắc hoa tươi thắm mà ảm đạm màu tang thê lương. Màu tang này đã phủ kín giang sơn kể từ hơn nửa thế kỷ qua. Cái chết của trên nửa triệu người dân trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất mà trong đó Ngài là một nhân chứng sống của lịch sử đã khiến chàng thanh niên 18 tuổi đời Thích Quảng Độ rơi lụy khi phải chứng kiến cảnh sư bá mình Hoà thượng Thích Đại Hải và sư phụ mình Hoà thượng Thích Đức Hải bị đấu tố dã man và bị bắn chết tại tòa án nhân dân vào đúng ngày Cách Mạng Muà Thu 19/8/1945.
Phải chăng những hình ảnh đau thương của dân tộc mà Ngài được chứng kiến và nhất là hình ảnh một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp của cha Ngài bị đấu tố và bắn chết dã man ở trước đình mà Ngài vẫn còn nhớ như in cho tới ngày hôm đã trở thành tiếng gọi của lương tâm nhắc nhở vị sa môn Thích Quảng Độ đừng khép chặt trái tim từ ái đi tìm niết bàn cho riêng mình trong khi máu và nước mắt dân tộc vẫn còn nhỏ dài trên quê hương?
Trong đời người tu hành, có lẽ một trong những thử thách lớn lao nhất mà một hành giả phải vượt qua là sự chọn lựa một trong hai con đường: con đường nhập thế đầy gian truân để cứu khổ chúng sinh hay là con đường xuất thế xa lánh cõi đời để đi tìm Niết bàn cho riêng mình. Dĩ nhiên Hoà thượng Thích Quảng Độ cũng phải đối đầu với cuộc chiến nội tâm đó. Không những thế, thử thách mà Ngài phải vượt qua lớn gấp trăm lần so với những vị sa môn khác sống ở những quốc gia an lành không bị lương tâm dằn vặt về thảm nạn của dân tộc bị dày xéo dưới gọng kìm của bạo quyền.
Tiếng gọi của Bồ tát đạo đã không cho phép Ngài cúi đầu im lặng khuất phục bạo lực, an phận tu hành trong ngôi chùa nguy nga đồ sộ có hàng ngàn đệ tử xì sụp lạy.Vì tình yêu quê hương dân tộc nên Ngài đã chọn con đường nhập thế cứu độ chúng sanh. Một sự chọn lựa nghiệt ngã đòi hỏi tinh thần vô úy thí, chấp nhận tù tội lẫn cái chết để cứu khổ dân tộc và đạo pháp đang bị bóp chết trên mảnh đất ngày càng khô héo tình người.
Thật vậy, chính ngay trong bối cảnh đen tối nơi lao tù, qua những giây phút thiền định, ánh sáng của hạnh Bồ tát đã thức tỉnh vị sa môn Thích Quảng Độ ngộ được chân lý :
Ánh đạo vàng bừng lên chói lọi
Đốt tiêu tan màn hắc ám vô minh
Những khổ đau thù hận ngục hình
Đã vây hãm chúng sinh từ muôn thuở
Tất cả
Tất cả trong tôi đang thiêu hủy
Với tham sân và cuồng vọng si mê
Ánh sáng chan hòa trên nẻo đường về
Suốt cuộc đời
Hôm nay tôi thấy sao mai đẹp nhất
Xin cảm tạ hồng ân đức Phật
Đã cho con giờ phút hôm nay
Giờ phút thiêng liêng thành đạo của Ngài
Con tin tưởng sẽ đi vào giòng thời gian bất tận
Bao sự nghiệp huy hoàng xây trên thù hận
Từ ngàn xưa dấu vết phủ rêu xanh...
Những lúc trầm tư nếm vị thiền,
Lâng lâng không bợn chút ưu phiền,
Ngục thất dầu sôi thành cam lộ
Lao tù lửa bỏng hóa hồng liên.
Hạnh Bồ tát đã giúp Ngài chiến thắng bản ngã thấp hèn, dìu Ngài bước trên con đường nhập thế cứu khổ chúng sinh, mà Phật Giáo Việt Nam đã thể hiện từ ngàn xưa. Với hành trang tu hành là hạnh bồ tát, vị sa môn Thích Quảng Độ đã bình thản lên đường :
Giờ phút này đây đánh dấu cuộc đăng trình
Về miền Bắc
Tôi nguyện sẽ không bao giờ khuất phục
Những kẻ chỉ biết tin nơi bạo lực
Nuôi hận thù và giết chết tình thương
Đường tôi đi- buổi sáng nay
Tràn ngập ánh thái dương
Và cảnh vật reo vui chào tiễn biệt
Miền Nam ôi
Niềm nhớ thuơng nói sao cho xiết
Thôi xin tạm biệt người
Và hẹn hội mùa xuân
Bình thản nhưng rất cương quyết:
Tôi đã không chịu sống nhục đầu hàng
Nên vận dụng giành tự do tín ngưỡng
Sự quyết tâm đó đã khiến cho bạo quyền Cộng sản Việt Nam đành phải bó tay. Họ chỉ bỏ tù được thân xác Ngài nhưng không lay chuyển được tâm Ngài:
Thân ta trong chốn lao tù
Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ
Bao trùm khắp cõi hư vô
Lao tù đâu thể nhiễm ô tâm này
Mặc cho thế sự vần xoay
Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được nào
Sống trong một xã hội gian dối bủa vây bởi bạo lực thì sự thể hiện tinh thần như thị thấy sao nói vậy không phải là dễ. Thế nhưng Hòa thượng Thích Quảng Độ vẫn quyết tâm sống với Sự Thật:
Qua bao chế độ lưng vươn thẳng
Trải mấy phen tù lưỡi chẳng cong
Đây không phải là hai câu thơ viển vông khách sáo. Tinh thần Vô úy thí đã giúp Ngài vượt qua sự sợ hãi để thể hiện tinh thần như thị, thấy sao nói vậy được tìm thấy trong bài viết "Nhận định những sai lầm tai hại của đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo" gửi chính quyền Cộng sản Việt Nam: "Tôi chắc rằng, khu đảng Cộng sản Việt Nam đọc bản nhận định này, sẽ cho tôi là chống Đảng tức là chống tổ quốc. Hơn thế nữa là chống trời, thì chắc chắn sẽ bị đấu tố đến chết rồi. Tôi đã ý thức rõ điều đó, nhưng tôi sẵn sàng đón nhận, bởi vì những điều tôi nói trong bản nhận định này đều là sự thật, vậy nếu phải chết cho sự thật thì cũng chẳng có gì đáng ân hận nối tiếc cả".
Đối với tôi, Hòa thượng Thích Quảng Độ không làm chính trị. Ngài chỉ là một vị Sứ giả của Như Thị. Thể hiện hạnh Bồ tát, Ngài lên tiếng dùm cho những người dân thấp cổ bé họng bị bóc lột đàn áp và đòi dùm cho họ những gì mà những kẻ cầm quyền tước đoạt của họ. Ngài đang làm việc của một vị sa môn Việt Nam tiếp nối con đường tu hành nhập thế mà Phật giáo Việt Nam đã thể hiện từ ngàn xưa: "Lịch sử Phật giáo Việt, lồng trong lịch sử dân tộc trên hai nghìn năm qua, đã bao lần minh chứng rằng Hộ Dân, Hộ Quốc và Hộ Pháp hòa quyện trong nhau làm kim chỉ nam cho nếp sống và hành động của người Phật tử Việt Nam. Một trong những bộ kinh của Phật giáo do vị cao tăng Việt Nam Khương Tăng Hội phiên dịch rất sớm, là Lục độ tập kinh, xuất hiện vào thế kỷ II Tây lịch, có những câu viết thể hiện tinh thần này: "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than" (Lời kêu gọi cho dân chủ Việt Nam".
Gần 200 bài thơ trong tập "Thơ tù" và tập "Thơ lưu đày" của sa môn Thích Quảng Độ đã ghi lại khá đầy đủ những cảm xúc và trăn trở nội tâm của tác giả. Dẫu có những giây phút vui buồn, cô đơn, thèm khát tự do, và khổ đau như bao nhiêu người khác, nhưng những dòng thơ Thích Quảng Độ không hề bộc lộ tình cảm oán hận hay có ác tâm muốn trả thù những kẻ đã đày đọa mình. Trong những đêm trường cô đơn nhìn trăng khao khát thân mình được bay bổng ra khỏi khung cửa sắt tù đầy, đã có những lúc cái phàm ngã ích kỷ rỉ tai người tù lương tâm Thích Quảng Độ rằng thôi thì cứ nhắm mắt bịt tai trước mọi sai quấy ở đời để đổi lấy tự do và cuộc đời tu hành an nhàn cho sướng thân mình:
Đêm ngày tôi dạy cái thằng tôi
Đạo pháp suy vi bởi lẽ trời
Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
Nhìn người đập tượng: mắt nhắm ngồi
Bắt bớ tăng ni: thây mẹ nó
Giam cầm phật tử: mặc cha đời
Miễn được yên thân là khôn đấy
Can chi ậm ọe để thiệt thòi.
Thế nhưng cái "thằng tôi" vị kỷ đó đã biến thành tro bụi dưới sức nóng mầu nhiệm của ngọn lửa Bồ tát. Còn cuộc chiến thắng nào vĩ đại cho bằng cuộc chiến thắng cái tôi vị kỷ! Còn hình ảnh nào cao thượng và đẹp cho bằng hình ảnh vị lái đò tóc bạc phơ cô độc trên dòng thác bạo lực, bình thản lặng lẽ cố lèo lái con thuyền chánh pháp mỏng manh vượt qua cơn lốc lịch sử đen tối.
Trên hành trình nhập thế cứu đời và cứu đạo pháp, hành trang mà Ngài mang trên vai chỉ vỏn vẹn có hạnh Bồ Tát và tinh thần Vô úy thí - là hai đức tính cần thiết đã giúp cho Phật Giáo Việt Nam vượt qua mọi khó khăn của mọi thời đại để tồn tại cho tới ngày hôm nay.
Ngày nào trên quê hương Việt Nam vẫn còn những vị sa môn Thích Quảng Độ can đảm tiếp nối và gìn giữ con đường nhập thế cứu đời thì ngày đó không một bạo lực nào có thể tiêu diệt được Phật giáo Việt Nam.
Kính Bạch Hoà thượng Thích Quảng Độ,
Dù bị cô lập nơi Thanh Minh thiền viện xa xôi, nhưng Ngài không cô đơn đâu, bởi vì vẫn có hàng nhiều triệu trái tim Việt Nam trong đó có con, ngày đêm kính cẩn hướng về Ngài, niệm Phật qùy xin Đức Phật Tổ độ trì cho Ngài, cho Đức Tăng thống Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, và qúi tăng ni phật tử Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sớm vượt qua giòng thác bạo lực hầu đến được bờ giác ngộ an toàn cùng với toàn dân trong ngày vui lớn của dân tộc.
Thanh Minh thiền viện rồi sẽ có
Tiếng chuông chùa vang dội khắp muôn nơi
Trong ngày vui dân tộc mỉm nụ cười
Mừng đạo pháp hồi sinh trên đất nước.
Nam Dao (Adelaide)
Nửa Khuya Đọc Thơ Tù của HT. Quảng Độ
Đào Văn Bình
Cơn đại hồng thủy 30-4 kéo tới phá xập cả đình, chùa, nhà thờ, lăng miếu và đẩy cả nước vào một ngục tù khổng chưa từng thấy tại Việt Nam. Tuy nhiên chế độ ngục tù này khác hẳn với ngục tù của thuở xa xưa. Thi Vũ Võ Văn Ái trong bài giới thiệu tập thơ đã nhận xét thật sâu sắc khi ông viết
“ Dưới các triều đại bạo ác,
tù ngục biểu trưng cho sự hà khắc, bức hiếp.
Kỷ nguyên tù Việt Nam ngày nay vượt xa lằn ranh tàn bạo,
trở thành cuộc diệt chủng văn hóa và đạo đức.
Vị thế người bị đẩy xuống tầng đáy hạ nhân, súc vật, ngạ quỷ (quỷ đói).
Người đâu còn là người khi mất tiếng nói?
Người đâu còn là người khi hết được độc lập suy tư?
Lạ thay, ở nơi sơn cùng thủy tận lặng câm ma quái ấy,
Thơ hiện lên như một niềm hy vọng.” (Trang14).
Đúng vậy, thơ làm trong tù ngục, ngòai nỗi oán than, còn nổi lên như một niềm hy vọng, một cứu cánh giải thóat. Bởi vì nếu địa ngục là sự chết thì thơ là sự sống. Nếu kiếp tù là tuyệt vọng thì thơ là niềm tin. Nếu bạo lực tù hãm xác thân thì thơ có thể cởi trói. Thơ nâng ta dậy, thơ giúp ta bay bổng ra khỏi nhà tù, thơ nuôi dưỡng phẩm giá và khí phách. Thơ là khí giới của kẻ ngã ngựa. Trước họng súng thơ vẫn hiên ngang. Trước cái chết thơ nói hồi sinh. Trước khổ đau thơ ca hát. Trước mất mát thơ nói đền bù. Trước hận thù thơ nói yêu. Thơ khóc cười theo nhân thế. Thơ là trái tim chưa tha hóa. Còn thơ - lòai người chưa thành người máy.
Chính vì thế mà khi cộng sản lùa hằng triệu người Miền Nam vào các quần đảo ngục tù, họ tưởng rằng khối triệu người này sẽ biến thành vượn người và quên mất tiếng người. Thế nhưng giữa tận cùng của khổ đau, một số rất đông đã đứng dậy- nói đúng ra đã tự vực mình dậy bằng cách làm thơ. Do đó tại hải ngọai đã nở rộ những đóa hoa thơm ngát, đóng góp vào dòng văn học hiện đại của đất nước, trong đó có một số tập thơ tù mà tôi đã được đọc, được biết xin liệt kê như sau:
-Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện.
-Tĩnh Tọa của Hoàng Liên – Nguyễn Văn Đãi xuất bản năm 1991.
Ông là một cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, nguyên Đại Biểu Chính Phủ Miền Trung, bị giam tù 18 năm trong hầm tối đào dưới đất từ cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968.
-Lời Viết Hai Tay (1994), Bài Ca Níu Quan Tài (2001) và Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định (2002) của Cung Trầm Tưởng mà nhà thơ “Lên Xe Tiễn Em Đi” gọi đây là bộ ba tâm sử thi.
-Thơ Tuyển Tô Thùy Yên (1995) trong đó một nửa sáng tác trước 1975 với hai thơ nổi tiếng là Tàu Đêm và Ta Về.
-Khúc Hát Gia Trung (Thơ Hồi Niệm của Một Tội Đồ) của Nguyễn Sĩ Tế xuất bản năm 1995.
-Tiếng Hờn Chiến Mã (1996) của Song Nhị.
Và hai vị nữa là Hà Thượng Nhân và Diên Nghị làm khá nhiều thơ tù nhưng chưa chính thức xuất bản thành một tuyển tập. Ngòai ra lại còn có một bài thơ dài Tháng Chạp Buồn với 128 câu buồn xé ruột của một người tù vô danh, hoặc đã chết trong tù, xin trích ra một vài đọan như sau:
Tết này con vẫn chưa về được
Chân mỏi còn lê nặng kiếp tù
Con nghĩ mà đau muôn nỗi nhớ
Chín năm lòng bạc những thiên thu
Chín năm những tưởng là vô tận
Rồi cũng qua như tiếng rụng rời
Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn
Nghe chừng gãy những cánh chim ơi
Con đi đã mấy miền Nam- Bắc
Đâu cũng thì đau đớn giống nòi
Con khóc hồn tan thành nước mắt
Lâu rồi trời đất hết ban mai.
Riêng tôi, tôi cũng làm thơ trong tù và xuất bản Thơ Tuyển và Kịch Bản Tổ Ấm Cuối Cùng năm 1987. Còn các tu sĩ đi tù khá đông đảo sau ngày cộng sản “giải phóng Miền Nam” họ làm thơ tù rất nhiều nhưng xuất bản thành sách thì tôi chưa thấy - ngọai trừ một số bài trong Hồi Ký 26 Năm Lưu Đày (2007) của TT. Thích Thiện Minh. Và ngày hôm nay, chúng ta hân hạnh được tiếp nhận tập thơ của người tù nổi tiếng khắp thế giới đó là HT. Thích Quảng Độ vừa được Quê Mẹ tại Pháp xuất bản với lời giới thiệu của Thi Vũ Võ Văn Ái. Sách dày 230 trang, bìa cứng rất trang nhã.
Hình bìa của Nguyên Hạnh mô phỏng theo bức hình tác giả chụp năm 1991 khi bị lưu đày tại Xã Vũ Đòai, Tỉnh Thái Bình năm 1991. Nếu không có tấm ảnh này, nhìn hình bìa không thôi, người ta có cảm tưởng đây là cảnh Đạt Ma Tổ Sư đang ngồi diện bích tại Núi Thiếu Thất với bóng tối chập chùng vây phủ, vạn vật chung quanh đều chết trong tĩnh lặng - ngọai trừ một đốm lửa rất nhỏ tỏa ra từ một que diêm.
Đốm lửa là “sự sống” duy nhất có mặt tại đây bởi vì khuôn mặt của Hòa Thượng cũng đã đi vào đại định. Thi tập bao gồm 138 bài trong số 400 bài thơ mà tác giả còn nhớ nhẩm lại và đã được Thi Vũ phân lọai thành: thơ trong tù, thơ lưu đày, thơ trào phúng và lưu đày. Thành thực mà nói, khi đọc xong lời giới thiệu của Thi Vũ Võ Văn Ái tôi nghĩ ít ai còn có can đảm viết một bài phê bình thứ hai bởi vì kiến thức uyên bác và tài phê bình thơ rất “thể nhập”của ông.
Chỉ một bài giới thiệu của ông cũng đã đủ rồi. Tuy nhiên tôi lại có một ý nghĩ ngộ ngĩnh khác. Hồi còn nhỏ khi sau khi đi coi ci-nê về, tôi thường háo hức tìm cách kể lại cho mấy thằng bạn nghe cuốn phim, dù tài kể chuyện của mình rất dở. Thế nhưng do lòng bồng bột, do đam mê, do vì cuốn phim hay quá, phải kể lại cho mấy thằng bạn nghe - may ra mới giải tỏa được nỗi vui sướng trong lòng. Nếu không thì “tức chết mất”. Ngày hôm nay cũng thế. Tôi sẽ không làm chuyện phê bình mà Thi Vũ Võ Văn Ái đã làm, mà chỉ kể lại những đọan thơ hay những gì tôi nhận thấy ở tập thơ hi hữu này. Tác giả đã khởi đầu tập thơ bằng một cuộc hành trình đi vào cơn ác mộng, cơn ác mộng 30-4:
Vào một đêm Trời không trăng sao
Bóng tối ngập tràn
Tôi bắt đầu cuộc hành trình từ đó
………………………………….
Tôi thấy những nấm mồ nằm la liệt
Giữa những đám cỏ úa vàng.
…………………………………..
Tôi thấy những người mà không ra người
Những giống đười ươi
Nằm trong gông cùm xiềng xích cũi sắt kẹp kìm
Trên tường,
Tôi thấy những vết máu đào loang lổ
Trông như những con vật không đầu
Hay những hình thù ma quái
Mặt ngựa đầu trâu
Phồng mang trợn mắt
Như muốn ăn tươi nuốt sống khách bàng quan
Và từ đâu đây vọng lại
+Tiếng kêu cầu cứu thất thanh
Tiếng rên la quằn quại
Và những tiếng kêu “oan”
(Ác Mộng trang 40, 41& 42)
Trong cơn ác mộng dài đó, tác giả đã đứng lặng yên trong đêm mưa để nghe tiếng trẻ khóc. Tác giả đã nhìn thấy khổ nghiệp của một em bé đang còn nằm trong nôi:
Đêm khuya rồi
Trời mưa gió lạnh
Bé thơ ôi
Hãy ngủ ngon đi
Và đừng khóc nữa
……………………….
Bé đang nằm trong nhà tù của Việt Nam anh hùng
Quang vinh độc lập
Bé được chào đời vào những ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no
Rồi mai này Bé sẽ là “cháu ngoan Bác Hồ”
Và được đọc những lời vàng ngọc
“Không có gì qúi hơn độc lập tự do”
Bé biết không Đó là niềm vinh hạnh rất to
Mà hôm nay, vì còn thơ ngây Bé chưa hiểu nổi
Niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội
Khi bé lớn lên với tuổi thanh niên
Cùng với hàng vạn trẻ đồng trang
Bé sẽ được “đảng ta” đào tạo luyện rèn
Để xứng đáng là thanh niên của thế hệ “Hồ Chí Minh” vĩ đại
Rồi noi gương” Bác” Bé sẽ không từ chối ngần ngại
Hiến cả đời mình cho sự nghiệp “giải phóng loài người”
Ôi! Vinh dự làm sao
Và tự hào biết mấy
Một sứ mệnh cao cả thiêng liêng
Thôi nhé Bé thơ ôi
Đêm khuya lắm rồi
Và mưa vẫn còn rơi
Hãy ngủ cho ngon
Và đừng khóc nữa
………………………….
(Đêm Mưa Nghe Trẻ Khóc trang 59 &60)
Chỉ có mấy vần thơ nhẹ nhàng như lời mẹ ru con thế thôi mà tác giả đã tuyên một bản án ngàn đời cho tên tội đồ phản quốc Hồ Chí Minh đã dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc đấu tranh giai cấp, vào cuộc diệt chủng và nô dịch văn hóa với máu xương dài vô tận. Cũng trong cuộc hành trình lưu đày viễn xứ này, “bên cửa sắt của xà-lim tăm tối” (*) tác giả vẫn còn nghe thấy tiếng réo gọi của quê hương Miền Nam:
Miền Nam ôi!
Tôi thầm gọi
Đây là Miền Nam trong căn phòng giam chật hẹp âm u
Ngoài kia Miền Nam trong một nhà tù rộng lớn
Còn nơi nào yên ổn
Xin cho tôi ẩn trốn
Hỡi Miền Nam thân mến của tôi ơi!
(Trời Đã Sáng trang 61&62)
Và vẫn thao thức, ưu tư về sinh mệnh của đất nước, dân tộc.
Mây chiều ôi
Hãy ngừng trôi
Cho ta nhắn gửi mấy lời
Hỏi người góc bể chân trời bấy lâu:
“Trải bao gió Á mưa Âu
Dặm khách sương pha nửa mái sầu?
Non nước nghìn trùng mờ mịt
Cùng ai thao thức những đêm thâu?”
Còn ta nay đã bạc mái đầu
Ngày tháng trơ trơ một khối sầu
Sợ hãi vui mừng như gió thoảng
Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.
(Gửi Mây trang 152)
Bài thơ buồn man mác nói lên tâm trạng của bậc sĩ phu mẫn quốc nhưng nhuốm đượm mùi Thiền qua hai câu:
Sợ hãi vui mừng như gió thỏang
Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.
Bài thơ đắc ý này đã được nhạc sĩ Lê Quốc Tấn ở San Francisco phổ nhạc và đã được chính tác giả trình bày và đưa lên hệ thống liên mạng tòan cầu. Tới đây tôi thấy cũng cần phải mở thêm một dấu ngoặc là: Thơ do một vị sư làm thì đương nhiên có huơng vị Thiền rồi, tại sao lại nói thơ của tác giả nhuốm đượm mùi Thiền?
Tôi đã đọc khá nhiều thơ do các vị sư hoặc do một số cư sĩ làm, mặc dù tựa đề có vẻ Thiền lắm nhưng thực tế đó là thơ “giảng đạo” chứ chẳng có chất Thiền tí nào cả. Tôi đồng ý với Thi Vũ Võ Văn Ái thơ Thiền “ Nghĩa là thơ mang màu sắc siêu thóat ẩn tàng sau phong, hoa, tuyết, nguyệt, chim, rừng, trúc, suối…lung linh biểu tượng, hoặc thuần vị chùa chiền, chuông mõ thóat tục…” (Trang 10)
Nhưng theo tôi, cần phải nói thêm, thơ có chất Thiền là thơ làm thăng hoa cuộc sống này lên một tầng, làm giảm nhẹ nỗi đau của nhân thế mà tác giả đã sáng tác nó trong một trạng thái an tĩnh tâm hồn, hiu hiu thóat tục mà mùi vị giáo lý Phật Đà chỉ thỏang nhẹ, phải tinh ý hoặc phải có tầm tri thức mới cảm nhận được. Chính vì cái ý đó mà bài thơ Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp dù thật hay nhưng lại không có phong vị Thiền, trong khi thơ của Phạm Thiên Thư – cũng nói về tình yêu lại chan chứa chất Thiền. Thiền ở đây phải hiểu như giáo lý nhà Phật đã thấm sâu vào lòng đất, vào lòng người, vào chim muông, cây cỏ, hoa, trúc, núi đồi và cả những đám mây đang lững lờ bay và được diễn đạt bằng những lời thơ, lời văn thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ phải thật nhẹ nhàng, tâm ý cũng phải nhẹ nhàng.
Nếu đọc hết tập thơ, đi hết cuộc hành trình trong ác mộng cùng tác giả, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều câu thơ Thiền, phong thái Thiền, tư tưởng Thiền của tác giả.
Ráng chiều giăng mắc ven trời
Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ
Đi tìm nơi đậu bến mơ
Không gian biển rộng cõi bờ mù khơi
(Thuyền Đời trang 81)
Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao ?
Cánh gío đưa qua lá xạc xào
Cửa sắt xà lim ngăn gió lại
Sợ làm ta vỡ cuộc chiêm bao
(Ai Gọi trang 84)
Nhưng trong những lúc quá ngán ngẩm, tác giả cũng luận bàn về kiếp phù sinh qua hai nhân vật một thời lẫy lừng như Tần Thủy Hòang và Hạng Võ (và có lẽ phải thêm cả Hitlervà Saddam Husein nữa).
Trên cành lá đọng giọt sương mai
Hạt ngọc lung linh ánh sáng ngời
Cơn gió thỏang qua cành lay động
Đột nhiên tan biến một bóng người
(Vô Thường trang 71)
Và:
Tranh vương tranh bá với công hầu
Nước chảy tràn sông máu đượm màu
Những tưởng cuộc đời bền vững mãi
Nào ngờ bãi biển hóa nương dâu
(Kiếp Người trang 73)
Thuờng thường các tập thơ do các tu sĩ sáng tác đều mang phong thái trang nghiêm, đạo hạnh. Thế nhưng ở đây tác giả đã sáng tác tới 21 bài thơ tự trào, thợ tự vịnh để giễu cợt mình. Đây không phải là lối giễu cợt hay bông đùa của các anh hề trên sân khấu. Sự tự trào ở đây có dụng ý phản tỉnh, phá mê, phá chấp và phá cái tự ngã cao ngạo của chính mình. Tự trào là hình thức cởi mở, xuề xòa, nhân hậu, dung dị và rất người để cho thấy dù mình có giữ một ngôi vị cao như thế nào trong tôn giáo hay chính quyền - thì vẫn chưa phải là ông Thánh Sống mà vẫn còn là một con người.
Chính vì thế mà các cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê v.v..năm xưa vẫn thường sáng tác thơ tự trào, tự vịnh. Chúng ta hãy nghe tác giả trào lộng mình: Quảng Độ là mi mi biết chưa
Vóc dáng xem ra kể cũng vừa
Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp
Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa
Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học
Tính tình nóng nảy vẫn không chừa
Năm nay tuổi tác vừa năm chục
Tù ngục hai lần đã sướng chưa?
(Tự Trào 1 trang 97)
Quảng Độ tên mi quê ở đâu?
Thái Bình, Tiên Hải, Xã Thanh Châu
Dốt đặc cán mai mà lên mặt
Khôn nhà dại chợ lại lên râu
Nhìn đời “tiến bộ” giương mắt ếch
Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu
Thôi về xếp áo đi tập hát
Theo làm nghề xiếc với ông bầu
(Tự trào 2 trang 98)
Rồi đôi khi tác giả còn bông đùa bằng cách nói chuyện cả với Thần Chết:
Xà lim trông hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần tôi sợ con cóc khô!
Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa tôi mời : “dô”
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khóai trá cười hô hô
(Nói Chuyện Với Tử Thần trang 101)
Có lẽ đây là bài thơ duy nhất làm tôi cười và tôi nghĩ cả triệu anh em quân-cán-chính Miền Nam đi tù cộng sản cũng sẽ cuời, cười khóai trá vì chuyện một anh tù mời Thần Chết hút thuốc lào chơi mà Thần Chết lại cũng làm một “bi” và cười hô hố.
Dĩ nhiên còn nhiều bài thơ tự trào khác mà tôi không thể liệt kê hết ở đây. Xin quý vị, quý bạn tìm đọc, để cười và rồi nước mắt trào dâng từ bao giờ. Trong phần còn lại, tác giả mô tả tâm tình của mình trong chuyến lưu đày với những bài thơ theo trình tự Qua Đèo Hải Vân, Đêm Ngủ Tại Huế, Qua Cầu Hiền Lương, Qua Đèo Ngang, Qua Cầu Hàm Rồng. Và Ngày Đầu Lưu Đày tại Chùa Long Khánh, Xã Vũ Đòai đã được đám lê dân ”xanh xao và rách rưới”(*) ở đây tiếp đón và báo cáo:
“Sư cụ trước đây nay đã khuất
Cũng đã từng sản xuất chăn nuôi
Hằng năm góp cho Đảng mấy chục cân hơi (lợn mổ thành thịt)
Và được bằng khen nuôi heo xuất sắc”
……………………………………….
“Tấm gương sáng ngời sư ông nên theo
Để xứng đáng là nhà sư yêu nước
Trước đây sư ông đã lầm đường lạc bước
Thì nay là dịp để cải chính quy tà
Với sự khoan hồng và chiếu cố của Đảng ta
Chúng tôi mong sư ông sẽ mau giác ngộ “
(Ngày Đầu Lưu Đày trang 135, 136, 137 & 138)
Và đây là cảnh tượng Chùa Long Khánh nơi lưu đày của tác giả:
Dưới án quyển kinh sâu cuốn tổ
Trên tòa tượng Phật nhện giăng tơ
Câu đối mối xông mùn đắp kín
Hòanh phi mọt đục bụi che mờ
(Vịnh Chùa Long Khánh trang 139)
Nhưng cũng chính tại cõi cô đơn, sầu tủi này, tác giả đã có dịp thả hồn chu du khắp cõi thiên hà, vào “Cung Diệu Thắng chiêm bái đức Phật Đà” , tham dự Pháp Hội Hoa Nghiêm, lắng nghe “muôn triệu côn trùng tưng bừng hớn hở đang hát bản trường ca muôn thuở ” (*).
Rồi có lúc tác giả miên man rồi đam mê “Uống Cả Trăng “ mà không sợ trăng, ớn lạnh trăng như Hàn Mạc Tử:
Đêm thu cùng với bạn hiền
Thảnh thơi ngồi giữa rừng Thiền uống trăng
Ngàn xưa thanh khí lẽ hằng
Tiếng đàn non nước hỏi rằng mấy ai ?
Uống đi ! Đêm hãy còn dài
Còn trăng còn uống miệt mài thâu đêm
Ngày mai bể lặng trời yên
Cánh bằng lướt gió băng miền dặm khơi
Tung bay khắp bốn phương trời
Áo cơm trang trải nợ đời cho xong
(Uống Trăng trang 158)
Tôi nghĩ cũng nên kết thúc bài giới thiệu ở nơi đây bởi vì nếu viết nữa thì còn gì là “bí mật” của thi tập? Vả lại người giới thiệu cũng không nên chóan hết chỗ mà phải dành một chút suy nghĩ riêng cho người đọc. Đêm qua tôi đã thức dậy vào lúc 1:30 sáng để tìm một kết luận cho bài giới thiệu này. Theo tôi mỗi người Việt nên có một tập Thơ Tù Thích Quảng Độ ở trong nhà, không phải chỉ để trưng bày trên tủ sách, mà là để gìn giữ một khối tình, một chia xẻ, một cảm thông và bảo bọc một tác phẩm văn chương, một hình ảnh đang là biểu tượng của cuộc đấu tranh vì Tự Do Tôn Giáo, Dân Chủ, Tự Do và Nhân Quyền cho Việt Nam. Chúng ta chưa có vũ khí lớn là hằng triệu người xuống đường đấu tranh chống lại bạo quyền thì hãy gìn giữ lọai vũ khí nhỏ bé như thế này.
Đào Văn Bình
(14-4-2007)
Cước chú:
Dấu (*) là những lời rích dẫn từ thi tập. Qúy vị, quý bạn muốn có thi tập xin gửi thư và chi phiếu về Quê Mẹ B.P. 63, 94472 Boissy Saint-Léger Cedex (France) hoặc điện thư về địa chỉ: queme@free.fr Thi tập không đề giá bán nhưng tôi nghĩ với sách in đẹp như thế giá phải từ $ 25 tới $30 USD.
Tiệc Ra Mắt “Thơ Tù” của Hòa Thượng Thích Quảng Độ do Chùa Diệu Pháp tổ chức thành công viên mãn
Đáp theo lời mời của TT. Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký VPII Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, gần một ngàn đồng bào, đồng hương Phật tử đến tham dự buổi tiệc ra mắt tập “Thơ Tù” của Hòa Thượng Thích Quảng Độ tại nhà hàng nổi tiếng, Ocean Star Seafood, thành phố Monterey Park, vào buổi tối mát dịu đầu Thu ngày 13 tháng 10.
Hiện diện trong buổi lễ này ngoài các cơ quan, hội đoàn, truyền thông báo chí, đặc biệt còn có đầy đủ chư Tôn đức Giáo phẩm của VPII Viện Hóa Đạo, Hòa thượng Hộ Giác, Hòa Thượng Chánh Lạc, Pháp sư Niên trưởng Giác Đức, Hòa Thượng Chơn Trí, Hòa Thượng Viên Thành, TT. Thích Viên Lý, TT. Thích Giác Đẳng, HT. Thích Huyền Việt, TT. Thích Nguyên Thảo từ Canada, TT. Thích Ân Đức, TT. Thích Viên Huy, TT. Mongala, TT. Thích Viên Thông.
Về phía quan khách gồm có Gs. Võ Văn Ái, Tổng Uỷ Viên Ngoại Vụ VPIIVHĐ, Giám đốc phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Nữ sỹ Ỷ Lan, phóng viên Đài Á Châu Tự Do, Nữ sỹ Ái Cầm và nhà thơ Thái Tú Hạp, chủ nhiệm và chủ bút tuần báo Saigon Times, Ô. Nguyễn Văn Quý, chủ tịch khu hội tù nhân chính trị tại Los Angles, Huynh trưởng Tâm Hòa – Lê Quang Dật, Trưởng ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Quảng Đức, quý Huynh Trưởng GĐPT Chánh Đạo, nhiếp ảnh gia Phạm Chinh, Hàn Quốc Dân, Hồ Đăng.
Điều khiển chương trình do những MC nổi tiếng – Nam ca nhạc sỹ Nam Lộc, Nữ sỹ Ái Cầm và Ca nhạc sỹ Mộng Lan. Buổi lễ diễn ra trong không khí thật trang nghiêm, và sinh động. Ban tổ chức đã thiết trí toàn cảnh Nhà Hàng thật trang hoàng đầy nét thiền vị mang giá trị thẩm mỹ cao, ngay lối ra vào được trình bày hai bức chân dung thật lớn của đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cùng với tấm ảnh phóng đại tập “Thơ Tù”, xung quanh không gian Nhà Hàng được treo những bài thơ thiền của Hòa Thượng Quảng Độ với những nét thư pháp uyển chuyển dịu dàng tuyệt đẹp làm cho quan khách tham dự có cảm giác thanh thoát như lạc vào cõi thơ mộng. Một màn hình Camera Slide Show thật lớn chiếu trực tiếp hình ảnh của các diễn giả, ca sĩ ở trên sân khấu làm cho mọi người cảm thấy hết sức vui vẻ thoải mái.
Sau phần nghi thức khai mạc, TT. Thích Viên Lý tuyên bố lý do tiệc ra mắt tập “Thơ Tù”: “Hòa Thượng Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, là bậc chân tu thạc đức đương đại, một nhân vật lịch sử lỗi lạc được mọi người trên thế giới kính trọng. Ngài không những là nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền nổi bật cho Việt Nam mà còn là một nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu uyên bác cả thế học lẫn Phật học. Tập “Thơ Tù” được Hòa Thượng sáng tác trong suốt thời gian bị lưu đày và quản thúc dưới chế độ CS Việt Nam, nó toát lên một tinh thần vô úy hùng dũng bất khuất của một bậc đại nhân trước móng vuốt của chế độ độc tài CS; nó biểu hiện một tinh thần khai phóng ung dung tự tại của bậc lãnh đạo kỳ tài trong chốn lao tù và chứa đựng thấm đượm đạo tình từ bi trước những thống khổ của dân tộc Việt Nam dưới ách đảng trị Cọng sản. Tập “Thơ Tù” gồm 138 bài tuyệt tác thi ca của Hòa Thượng Quảng Độ được nhà thơ Thi Vũ – Võ Văn Ái sưu tập. Vì biểu tỏ lòng quý kính bậc lãnh đạo kiệt xuất ưu tú nhất của Phật Giáo Việt Nam và yêu mến những vầng thơ rất thơ của Người, hôm nay tập “Thơ Tù” được trân trọng ra mắt đến quý liệt vị.”
Pháp sư Niên Trưởng Thích Giác Đức trình bày tóm tắt nhưng hết sức rõ nét quá trình hành hoạt của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Hai câu “Qua bao chế độ lưng vươn thẳng, trải mấy phen tù lưỡi chẳng cong” phác họa trọn vẹn đầy đủ nhất về cuộc đời của Người với chí khí kim cương bất hoại, với lập trường kiên định vững chãi để lèo lái con thuyền Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trước những nguy biến hiểm ách nhất trong lịch sử truyền bá Phật giáo tại Việt Nam. Dù trải qua biết bao gian nguy tù tội thống khổ nhưng Người vẫn một lòng trung kiên sắt son với Giáo Hội Thống Nhất, vẫn một lòng chung thủy với dân tộc Việt Nam khổ đau dưới bạo quyền CS mà gióng lên tiếng nói lương tâm nhân loại đòi tự do dân chủ cho Việt Nam.
Với một giọng diễn thuyết hùng hồn thu hút nhưng đầy cảm xúc, nhà thơ Thi Vũ – Võ Văn Ái, người có công lao rất lớn trong sự sưu tập những vầng thơ và xuất bản thành tập Thơ Tù, đã toát yếu toàn bộ nội dung phản ánh trong tập Thơ Tù của Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Tập thơ là những bài thơ còn sót lại nơi trí nhớ trong 400 bài thơ sáng tác trong thời gian Hòa Thượng Quảng Độ bị cầm tù ở Saigon và giai đoạn lưu đày ở tỉnh Thái Bình, miền Bắc. Thơ của Hòa Thượng mang tính siêu thoát của một bậc cao tăng từ bi giác ngộ, thấm đẫm tình nhân đạo; tập thơ phác họa bức tranh hoàn hảo nhất về cảnh bi thống nhất của dân tộc Việt Nam dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng thơ của Hòa Thượng không kêu gọi sự căm oán, thù hận, giết chóc mà chỉ nói lên tình thương yêu của con người và chỉ phản ánh một thực trạng chưa từng có trong lịch sử dân tộc Việt Nam khi hàng triệu người đã bị bỏ tù chịu những cảnh giam cầm của địa ngục trần gian. Đặc biệt thơ của Hòa Thượng mang tính trào phúng châm biếm rất cao làm cho người đọc cười ra nước mắt trước những cảnh tang thương của đất nước Việt Nam.
Bằng những lời trang trọng quý kính nhất với âm giọng hùng dũng biểu tỏ định lực tu tập, tinh thần khí khái, Hòa Thượng Thích Chánh Lạc nói đến cuộc đời hy sinh cao cả của Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cho đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa Thượng cũng phân tích sắc bén căn nguyên sâu xa dẫn đến hiện tượng dân oan khiến kiệu càng ngày bùng phát mạnh mẽ tại Việt Nam, đó chính là hệ quả tất yếu của một chế độ CS độc tài tham nhũng. Hôm nay chúng ta hiện diện ở đây không những chỉ thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc đối với đồng bào bất hạnh mà còn cứng rắn bày tỏ thái độ phản đối đến chế độ Đảng trị đã đẩy dân tộc vào cảnh đói nghèo lạc hậu.
TT. Thích Giác Đẳng đã nói lên lòng ngưỡng phục của mình trước thi tài lỗi lạc của một bậc Cao tăng. HT. Thích Chơn Trí đã cùng với chư Tôn đức Giáo phẩm có mặt như HT. Viên Thành, TT. Ân Đức, TT. Viên Huy, TT. Viên Thông, TT. Mongala và quý đồng hương, Phật tử đọc kinh cầu an cho nhị vị Hòa Thượng lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN và cầu nguyện cho chư Tăng cùng nhân dân Miến Điện sớm thoát cảnh tù đày, áp bức.
Cả hội trường im lặng lắng lòng nghe lời đạo từ của Hòa Thượng Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo Thích Hộ Giác. Ngài ngỏ lời khâm tạ tri ân đến quý đồng bào đồng hương Phật tử tham dự buổi tiệc ra mắt tập “Thơ Tù”. Sự tham dự đông đảo của quý liệt vị hôm nay nói lên tất cả thâm tình cao quý, tình người, tình dân tộc, tình quê hương, tình đạo pháp, đồng thời cũng nói lên tấm lòng cung kính ngưỡng mộ đối với một bậc cao tăng của Phật Giáo Việt Nam, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ và hết lòng ủng hộ lời kêu gọi của Người.
Sau những lời cảm tưởng của chư Tôn đức, Nữ sỹ Ỷ Lan từ Paris ngâm một bài thơ được chuyển dịch qua tiếng Anh với giọng Huế truyền cảm, và lời cảm niệm đầy ý nghĩa và ngưỡng mộ của nhà thơ Thái Tú Hạp. Chương trình văn nghệ vui nhộn trẻ trung sinh động được thể hiện bởi các ca sỹ nổi tiếng ở hải ngoại như ca sỹ Nam Lộc, Trọng Nghĩa, Mộng Lan, Mỹ Lan, bé Trần Thiện Anh Chí, nhạc sỹ Nhân Tính và toàn ban nhạc của Bảo Anh. Đặc biệt trong chương trình văn nghệ, ca sỹ Nam Lộc thực hiện hai bài hát nổi tiếng do tự anh sáng tác để cúng dường chư Tôn Đức được thính giả hoan nghênh rất nhiệt tình với hai nhạc phẩm Saigon Ơi Vĩnh Biệt và Người Di Tản Buồn.
Buổi lễ ra mắt tập thơ cũng đã dành những giây phút trang nghiêm nhất để cầu nguyện cho những người dân oan khiếu kiện. Quý quan khách và quý đồng bào đồng hương Phật tử tham dự đã hết lòng hỗ trợ qua việc mua tập “Thơ Tù” của Hòa Thượng Quảng Độ với giá ủng hộ rất cao. Tất cả mọi người đều nhiệt tâm đón nhận tập thơ nhưng rất tiếc số lượng sách rất nhiều vẫn không đủ đáp ứng lòng mỏi của chư vị hảo tâm ủng hộ.
Dưới sự điều khiển chương trình thông minh khéo léo, duyên dáng, tài hoa của hai vị MC nổi tiếng Ái Cầm và Mộng Lan, buổi đấu giá cho ba tập thơ với đầy đủ chữ ký của chư Tôn đức, Thi sỹ Thi Vũ và Nữ sỹ Ỷ Lan đã diễn ra hết sức sôi động phấn khởi lôi cuốn mọi người tham gia. Mạnh thường quân Trung, Brian Fashion Inc, đã đấu giá kỷ lục 4,000 USD cho tập Thơ Tù, mạnh thường quân Phong Dinh, chủ nhà hàng Phong Dinh nổi tiếng ở vùng Valley, đấu giá 1,888 USD cho tập thơ thứ hai, anh Chương, chủ hãng may, đấu giá 1,000 USD cho tập thơ thứ ba; ngoài ra, ca sỹ Diệp Mỹ Tâm, em ruột của nghệ sỹ Bảo Anh đấu giá bộ bàn ghế 700 USD ủng hộ và nhiều mạnh thường quân khác đã nhiệt tâm yểm trợ lời kêu gọi của Hòa Thượng Quảng Độ.
Qua buổi lễ ra mắt tập “Thơ Tù”, mọi người ngạc nhiên nhận thấy một hiện tượng hết sức đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam ở Hải Ngoại. Trong suốt 32 năm trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam Hải Ngoại, chưa có một tác phẩm văn học hay thi phẩm nào chỉ trong một thời gian rất ngắn, chỉ gần một tiếng đồng hồ mà số lượng sách bán ra nhiều như tập Thơ Tù của Hòa Thượng Thích Quảng Độ; và cũng chưa có tập thơ nào được người đọc hết lòng ngưỡng mộ yêu thích đến độ bỏ ra 4,000 Mỹ Kim để có một tập thơ trong tay như tập “Thơ Tù” của Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
Qua sự vận động của chư Tôn đức, những vị MC, anh chị em Văn nghệ sỹ, ban tổ chức đã thu nhận được thành quả khả quan, qua tính toán sơ bộ, số tiền ủng hộ tại chỗ là 9,464USD, số tiền thỉnh tập thơ là 3,500USD, chưa kể những tập thơ bán đấu giá.
Quý quan khách ra về trong niềm hỷ lạc vô biên với một tập thơ giá trị trong tay, vừa thưởng thức một đêm thi ca văn nghệ thâm thúy vừa làm một nghĩa cử cao quý, chia sẻ nỗi đau thương bất hạnh của người dân oan ở quê nhà. Qua buổi ra mắt tập “Thơ Tù” của Hòa Thượng Quảng Độ, người ta thấy tinh thần dấng thân của quý Phật tử tại chùa Diệu Pháp rất cao, từ lớp trẻ đến người già, ai cũng hết lòng chung lo Phật sự; chính vì vậy, ngoài uy tín của Hòa Thượng Quảng Độ, do nhờ sự nổ lực hỗ trợ của tất cả mọi người mà buổi tiệc đã thành công hết sức tốt đẹp.
No comments:
Post a Comment