Saturday, January 31, 2009

TRẦN BÌNH NAM * OBAMA NHẬM CHỨC TỔNG THỐNG






Barack H. Obama nhậm chức
tổng thống Hoa Kỳ



Trần Bình Nam
Jan. 27, 2009
binhnam@sbcglobal.net
http://www.tranbinhnam.com/




Ngày Thứ Ba 20/1/2009 là một ngày tưng bừng của nước Mỹ. Vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ nhậm chức. Hơn một triệu người Mỹ đổ về thủ đô để chứng kiến buổi lễ nhậm chức trước sự chú mục của toàn thế giới.


Buổi lễ tuyên thệ trễ 5 phút trước sự chờ đợi bồn chồn sốt ruột của cử tọa tại chỗ và những người theo dõi trên truyền hình. Nhiều người da đen đã khóc vì xúc động. Họ không thể ngờ có ngày hôm nay. Chỉ cách đây chưa đầy 60 năm, cha anh và cá nhân họ chưa được đi cùng xe buýt hay cùng toa tàu lửa với người Mỹ da trắng, chưa được đi bỏ phiếu, thế mà giờ đây một người Mỹ da đen gốc Kenya tại Phi châu đã có thể đứng trên thềm tòa nhà quốc hội Mỹ tuyên thệ nhận lãnh nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia, trong đó có nhiệm vụ cao quý nhất là Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ.



Sự việc người Thượng nghị sĩ trẻ tuổi da đen tại bang Illinois có thể đắc cử tổng thống nói với thế giới rằng Hoa Kỳ quả là đất nước dành cơ hội đồng đều cho mọi người không phân biệt mầu da và chủng tộc. Nó cho thấy nền dân chủ chói lọi của Hoa Kỳ, người dân có quyền chọn người lãnh đạo của mình, không có một bàn tay vô hình nào lèo lái trên đầu trên cổ họ. Đảng nào, cá nhân nào lãnh đạo kém sẽ được mời xuống. Đảng nào, cá nhân nào có hứa hẹn, sẽ được mời lên thay. Không gian trá, không bạo lực.



Tổng thống Barack Obama sẽ lãnh đạo quốc gia như thế nào? Chúng ta hãy theo dõi nội dung bài diễn văn của ông sau khi tuyên thệ nhậm chức. Nội dung diễn văn và cung cách phát biểu rực lửa của vị tân tổng thống đã mang đến sự tin tưởng của dân chúng Mỹ dù trước mắt còn nhiều thử thách.


Trong không khí phấn khởi có ba việc nhỏ đáng ghi nhận: Ông Chủ tịch Tối cao Pháp viện John Roberts Jr. đã đọc lời thề không đúng theo văn bản của Hiến pháp, và ngày hôm sau tổng thống Obama đã cho mời ông Chủ tịch đến Tòa Bạch Ốc nhận lời tuyên thệ lại cho đúng với văn bản Hiến pháp.

Thứ hai, trong buổi cơm trưa với tân tổng thống tại nhà ăn quốc hội với các dân biểu nghị sĩ khác Thượng nghị sĩ Edward Kennedy (Dân chủ, Massachusetts) té xỉu, xe cứu thương đến đưa đi bệnh viện, và sau cùng thị trường chứng khoán trong ngày sụt hơn 350 điểm, sụt nhiều nhất như chưa từng có trong ngày một vị tân tổng thống nhậm chức. Người tin dị đoan cho rằng đó là những điềm xấu.


Qua diễn văn nhậm chức (2), tổng thống Obama quả quyết rằng Hoa Kỳ vẫn là một siêu cường dù đang ngập ngừng ở hướng xuống. Ông hứa với quốc dân và thế giới rằng Hoa Kỳ sẽ vượt thắng mọi trở lực để vươn lên và làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo thế giới.
Chúng ta hãy lắng nghe (3):

“Cùng quốc dân đồng bào:
Tôi không khỏi cảm thấy hổ thẹn được sự tin cậy của đồng bào đứng đây hôm nay nhận một trọng trách tiền nhân - với bao hy sinh cao cả - để lại. Tôi cám ơn tổng thống Bush đã tận tình phục vụ đất nước và cởi mở hợp tác giúp đỡ tôi trong những ngày chuyển tiếp.
Đến phiên tôi đã có 44 công dân nhậm chức tổng thống. Những lời lẽ đẹp đẻ và hứa hẹn nhất đã được cất lên lúc đất nước đang hòa bình thịnh vượng. Nhưng cũng có lúc lễ nhậm chức diễn ra khi đất nước đang trải qua sóng gió. Nhưng rồi chúng ta vẫn vượt qua do sự khéo léo và nhìn xa của người lãnh đạo, và nhất là vì chúng ta vẫn trung thành với những lý tưởng của tiền nhân, và với những văn bản nền móng của quốc gia.
Người đi trước làm vậy. Chúng ta sẽ theo con đường đó.
Ai cũng thấy Hoa Kỳ đang trải qua một cuộc khủng hoảng. Chúng ta đang có chiến tranh với một tập đoàn chủ trương bạo lực và hận thù. Nền kinh tế chúng ta đang bị lung lay tận gốc, kết quả của sự vô trách nhiệm của một số người, nhưng cũng là trách nhiệm của tập thể không dám lấy những quyết định khó khăn để chuẩn bị đất nước bước vào thời đại mới. Người mất nhà, thợ mất việc, kinh doanh đóng cửa. Hệ thống săn sóc sức khỏe cho dân quá tốn kém, trường học xuống cấp, và cách xử dụng năng lượng làm chúng ta phải lệ thuộc vào kẻ địch, đồng thời ảnh hưởng xấu đến môi sinh.
\

Đó là những khủng hoảng bày ra trước mắt bằng dữ kiện và thống kê. Còn những dấu hiệu khủng hoảng ít rõ ràng hơn như người dân mất tin tưởng và lo sợ rằng đất nước chúng ta đang trên đà suy thoái, và chúng ta phải khép mình lại để sống.
Tôi xin nói trắng ra rằng những vấn nạn trước mắt là có thật, có nhiều và rất nghiêm trọng. Giải quyết những vấn nạn đó không phải dễ và cần thời gian. Nhưng chúng ta sẽ giải quyết được.
Ngày hôm nay chúng ta đến đây vì chúng ta biết đặt sự hy vọng trên sự sợ hãi, biết đoàn kết hơn là chia rẽ.
Hôm nay chúng ta cùng nhau cam kết rằng chúng ta sẽ không thống trách nhau, chúng ta không hứa hẹn hão huyền, không tố cáo nhau, không giáo điều, những điều đã làm cho nền chính trị của chúng ta bị tắc nghẽn .


Hoa Kỳ là một quốc gia còn non trẻ, nhưng như Kinh Thánh nói đã đến lúc giả từ sự ngông cuồng của tuổi trẻ. Chúng ta cần hướng tới tương lai và xiển dương tinh thần Mỹ quốc đã lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác: bình đẳng, tự do, và quyền mưu tìm hạnh phúc .
Chúng ta quả quyết rằng đất nước này vĩ đại, với ý thức rằng sự vĩ đại đó không phải trên trời rớt xuống mà do chúng ta phấn đấu làm ra. Con đường chúng ta đi gian nan, khó nhọc và không dành cho những kẻ lười biếng hoặc những kẻ cơ hội chủ nghĩa chỉ biết tạo tiếng tăm, làm giàu và hưởng thụ. Con đường hướng tới thịnh vượng và tự do của chúng ta chỉ dành cho những ai dám làm, chấp nhận rủi ro, trong đó có những nhân vật nổi danh cùng với những người không tên tuổi.
Đó là những người với một chút hành trang mang theo đã dám lên đường băng qua đại dương đi tìm một đời sống mới.
Đó là những người đã đổ mồ hôi trong những xưỡng làm việc u ám ở miền Tây, bị roi quất vào lưng hoặc trần lưng cày bừa trên những cánh đồng đầy sỏi đá.
Đó là những người đã chết tại các chiến trường Concord, Gettysburg, bờ biển Normandy, Khe Sanh (1) cho chúng ta sống.
Chúng ta đang tiếp tục cuộc hành trình. Và dù đang gặp khủng hoảng kinh tế, trong giờ phút này chúng ta vẫn là quốc gia giàu có nhất, mạnh nhất trên trái đất. Người thợ của chúng ta vẫn có khả năng sản xuất cao, vẫn còn nhiều sáng kiến và thế giới vẫn còn cần dịch vụ của chúng ta. Chúng ta vẫn còn đầy sinh lực, nhưng chúng ta phải chấm dứt cái thói quen ù li bất động, cố chấp bảo vệ quyền lợi một cách ích kỷ và không dám lấy quyết định khó khăn. Kể từ hôm nay chúng ta phải cương quyết lên đường xây dựng lại quốc gia này.


Nhìn vào chỗ nào chúng ta cũng thấy việc cần làm. Kinh tế là ưu tiên một. Chúng ta cần can đảm và nhanh chóng hành động.Chúng ta phải tạo ra công ăn việc làm và đặt một nền móng cho kinh tế tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây cầu cống, đường sá, hệ thống điện lực, hệ thống tin học. Chúng ta sẽ khai dụng khoa học và kỹ thuật để bảo vệ sức khỏe người dân một cách hữu hiệu và ít tốn kém hơn. Chúng ta sẽ dùng năng lượng mặt trời, gió và đất để chạy nhà máy và xe cộ. Chúng ta sẽ cải thiện hệ thống trường học để theo kịp thời đại mới. Đó là những gì chúng ta có thể làm và sẽ làm.
Nhiều người cho rằng chúng ta có quá nhiều tham vọng, rằng hệ thống chính trị của chúng ta không cho phép chúng ta thực hiện nhiều kế hoạch lớn cùng một lúc. Nhưng không phải vậy. Chúng ta, những người có tự do, biết mình muốn gì và ngồi lại với nhau đã từng làm những chuyện vĩ đại và đã thành công.


Những người bi quan chưa nhận ra rằng thế giới đã đổi thay, và không còn ai mãi ngồi tranh cãi nhau vì đảng phái và phe nhóm nữa. Chúng ta không còn thắc mắc chính phủ quá lớn hay quá nhỏ, thay vào đó chúng ta hỏi chính phủ có làm việc hữu hiệu không – có tạo ra công ăn việc làm lương đủ sống, có chế độ săn sóc sức khỏe tốt , có hưu bổng đầy đủ cho người nghỉ hưu không. Nếu câu trả lời là “có” chúng ta sẽ xúc tiến. Nếu câu trả lời là “không” chúng ta dẹp bỏ các chương trình đó. Những ai điều hành ngân sách công đều phải chi tiêu một cách có trách nhiệm – tiêu một cách khôn ngoan, bỏ thói quen phung phí, công khai hóa thủ tục. Làm được vậy quần chúng sẽ tin tưởng và ủng hộ chính quyền.



Không ai chối cãi kinh tế thị trường mang lại thịnh vượng và tự do, nhưng cuộc khủng hoảng hôm nay cũng cho thấy kinh tế thị trường cần được điều chỉnh và can thiệp đúng lúc trước khi nó tuột ra khỏi tầm tay và tạo điều kiện cho một số người làm giàu ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh lâu dài của quốc gia. Sự sung mãn của nền kinh tế chúng ta không phải chỉ do tổng sản lượng quốc gia lớn, mà còn do nó được phân phối đến mọi tầng lớp quần chúng và tạo điều kiện kinh tế cho những ai có quyết tâm muốn vươn lên.



Về an ninh quốc gia, chúng ta dứt khoát từ bỏ ý nghĩ “hy sinh các lý tưởng của ông cha để lại để bảo vệ tự do”. Ông cha chúng ta đã viết ra những văn bản tôn trọng nhân quyền và luật pháp vào thời kỳ đất nước đang đấu tranh để tồn tại, và chúng ta đã tranh đấu bằng máu và nước mắt để duy trì giá trị của những văn bản đó. Các giá trị đó vẫn còn là ngọn hải đăng cho thế giới, và chúng ta sẽ không biện minh vì bảo vệ an ninh mà tạm thời hy sinh những giá trị đó. Tại đây tôi muốn nói với mọi dân tộc, mọi chính quyền trên thế giới từ những thủ đô to lớn cho đến những khu làng nhỏ bé tối tăm ở Phi châu nơi cha tôi đã ra đời rằng: Hoa Kỳ là nước bạn của mọi dân tộc, mọi người, đàn ông, đàn bà, con trẻ, bất cứ ai muốn mưu tìm một đời sống tự do và xứng đáng, và Hoa Kỳ vẫn ở tư thế lãnh đạo công cuộc mưu tìm đó.



Chúng ta còn nhớ rằng thế hệ trước đã đối đầu với chủ nghĩa phát xít và cộng sản không phải chỉ bằng xe tăng và hỏa tiễn mà còn bằng sự liên minh vững chắc và tin tưởng vào lý tưởng của mình. Thế hệ trước hiểu rằng sức mạnh không đủ bảo vệ chúng ta cũng như không cho phép chúng ta muốn làm gì thì làm. Thế hệ đó hiểu rằng chúng ta chỉ mạnh nếu chúng ta biết xử dụng sức mạnh một cách thận trọng, và cũng hiểu rằng chúng ta chỉ được an toàn nếu mục tiêu của chúng ta đúng đắn, chúng ta biết làm gương tốt, khiêm nhường và tự chế.



Chúng ta sẽ đi theo con đường khôn ngoan của tiền nhân. Và dưới tấm bảng chỉ đường của những nguyên tắc đó chúng ta sẽ nỗ lực hơn nữa để đương đầu với những đe dọa mới – và tạo điều kiện hợp tác và thông cảm giữa nước này với nước khác. Chúng ta sẽ rút quân ra khỏi Iraq một cách có trách nhiệm để người Iraq tự giải quyết chuyện của mình, và hợp tác xây dựng một nước Afghanistan sống hòa bình trong cộng đồng thế giới. Với bạn cũng như với kẻ thù cũ, chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết sự đe dọa của vũ khí nguyên tử, cùng nhau giải quyết vấn đề thời tiết. Chúng ta không từ bỏ và quyết tâm bảo vệ lối sống tự do phóng khoáng của chúng ta. Và tôi muốn nói với những ai muốn thống trị thế giới bằng khủng bố và giết hại đàn bà con nít vô tội rằng tinh thần của chúng tôi mạnh hơn các anh và không thể bẻ gãy được. Các anh sẽ mệt mỏi trước chúng tôi và chúng tôi sẽ đánh bại các anh .




Chúng ta biết rằng tính đa chủng mang lại sức mạnh cho Hoa Kỳ. Nước chúng ta có người theo Thiên chúa giáo, người theo Hồi giáo, Do thái giáo, Ấn độ giáo – và nhiều người không theo đạo nào. Nhiều ngôn ngữ, nhiều nền văn hóa từ nhiều nơi quy tụ lại đây. Và vì chúng ta đã kinh qua nội chiến và kỳ thị chủng tộc và trở nên mạnh hơn, đoàn kết với nhau hơn, chúng ta hiểu rằng thù hận quá khứ để lại sẽ trôi đi, đường ranh bộ tộc sẽ lu mờ, rằng thế giới sẽ thu nhỏ lại làm cho nhân loại gần gũi với nhau hơn, và Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò của mình đưa thế giới bước vào thời đại hòa bình mới mẻ.
Chúng ta sẽ đưa tay ra với thế giới Hồi giáo trong tinh thần tôn trọng nhau và đồng có lợi. Tôi muốn nói với các vị lãnh đạo nào cho rằng thảm cảnh trong xã hội quý vị là do Tây phương và tìm cách kình chống Tây phương rằng nhân dân của quý vị sẽ phán đoán quý vị qua những gì quý vị xây dựng được chứ không qua những gì quý vị phá hủy. Với những ai còn bám lấy quyền lực bằng lừa dối, tham ô và đàn áp tôi xin nói rằng quý vị đang đi ngược dòng lịch sử. Nhưng chúng tôi vẫn mở rộng bàn tay, chỉ cần quý vị nắm lấy.


Với nhân dân các nước nghèo khó chúng tôi sẽ giúp sản xuất nông nghiệp, giúp sản xuất nước trong lành và giúp chỉnh đốn việc học hành. Với các nước sung túc tôi muốn mời quý vị cùng quan tâm đến những thống khổ bên ngoài biên giới nước mình và xử dụng năng lượng một cách có trách nhiệm. Thế giới đổi thay chúng ta cũng phải thay đổi theo.

Nhìn con đường trước mắt chúng ta phải nghiêng mình cám ơn những chiến sĩ đang chiến đấu nơi sa mạc hay trong vùng núi non hiểm trở. Họ đang thầm nói với chúng ta những gì những người đã nằm xuống nơi nghĩa địa quốc gia thường nói với chúng ta. Chúng ta vinh danh họ không những vì họ đang bảo vệ sự tự do cho chúng ta mà vì họ biểu dương tinh thần phục vụ đất nước, tinh thần muốn làm một cái gì có ý nghĩa cho đời sống. Và vâng, đó cũng là - vào thời điểm này, thời điểm đánh dấu một thế hệ - tâm tư chung của mỗi chúng ta.


Nếu hỏi chính phủ làm được gì và phải làm gì, thì thật ra chính phủ có làm được gì là do niềm tin và quyết tâm của người dân. Sẵn sàng giúp người khác có chỗ trú ẩn khi vỡ đê; chịu cắt bớt giờ làm việc để người khác có việc làm; tinh thần không ngại nguy hiểm cho bản thân của người lính chữa lửa, cũng như của cha mẹ hy sinh để nuôi dạy con cái.
Cơn phong ba đang chờ chúng ta khác với những cơn phong ba trước. Phương pháp chúng ta dùng để vượt qua phong ba lần này có thể khác trước. Nhưng những giá trị chúng ta dựa vào đó để hoạch định chính sách vượt khó thì vẫn là những giá trị cố hữu như: chịu khó suy nghiệm, chịu khó làm việc, thành thật, ngay thẳng, can đảm, công bình, khoan dung, trung thành và yêu nước. Những giá trị đó đã giúp chúng ta tiến lên suốt chiều dài lịch sử của Mỹ quốc. Chúng ta hãy trở lại với sự thật đó, và lúc này chúng ta cần sáng suốt để nhận ra rằng chúng ta có trách nhiệm đối với bản thân, đối với dân tộc và nhân quần thế giới; những bổn phận chúng ta không ngần ngại nhận lãnh, biết rằng nó thỏa mãn tinh thần của chúng ta, hợp với khuynh hướng thích gánh vác những công việc trọng đại của chúng ta.
Đó là cái giá và sự hứa hẹn của người công dân.
Đó cũng là nguồn cảm hứng của sự tự tin của chúng ta – tin rằng Trời giao phó cho chúng ta trách nhiệm trước một tương lai bất trắc.
Đó là cái nghĩa của sự tự do và lòng tin của chúng ta – nó giải thích tại sao nam phụ lão ấu đủ mọi giống dân, đủ mọi tôn giáo có thể tụ họp nơi đây, và nó cũng giải thích tại sao một người mà thân phụ của ông ta cách đây 60 năm không có quyền làm việc trong một tiệm ăn hôm nay có thể đứng đây tuyên thệ nhận lãnh một chức vụ thiêng liêng và cao cả như thế này.


Hãy cùng nhau đánh dấu ngày hôm nay để nhìn lại chúng ta là ai và con đường vạn dặm chúng ta đã đi qua. Nhớ lúc nước Mỹ ra đời, vào những tháng lạnh nhất trong năm, một đoàn người yêu nước chen chúc nhau tìm hơi ấm bên cạnh một đám lửa sắp tàn bên một bờ sông vắng lạnh. Thủ đô bỏ ngỏ, quân thù đang tới gần, tuyết vương đầy máu. Vào lúc chúng ta tưởng cuộc cách mạng giành độc lập sẽ thất bại thì người cha già dân tộc đã ra lệnh truyền rao cho dân chúng biết rằng:
“Hỡi thế giới hãy lắng nghe ... giữa mùa đông băng giá, trước nguy cơ diệt vong, chúng tôi - thành phố này và đất nước này - không còn gì cả ngoài sự hy vọng và tinh thần quyết tồn tại đã đến đây để đối diện với hiểm nguy.”



Mùa đông này Hoa Kỳ cũng đang đứng trước một nguy cơ lớn, chúng ta hãy cùng nhau nhớ lời người xưa. Với hy vọng và tinh thần dũng cảm, chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua gió lạnh và bão táp trước mắt. Chúng ta hãy cho hậu duệ chúng ta biết rằng, khi bị thử thách chúng ta không chấm dứt cuộc hành trình, chúng ta không lùi bước, chúng ta không té ngã. Tim chúng ta tin vào Trời đất. Mắt chúng ta ta hướng về chân trời trước mắt. Chúng ta quyết gìn giữ trái chín tự do cho thế hệ mai sau.
Cám ơn đồng bào. Trời đất phù hộ chúng ta. Trời đất phù hộ Mỹ quốc .




(1): Trận Concord: Concord cách Boston 32 kilomet, nơi diễn ra trận đánh giữa quân Mỹ và quân Anh tháng 4/1775 trong cuộc chiến tranh giành độc lập của những người Mỹ muốn li khai với nước Anh.
Trận Gettysburg: Trận đánh tháng 1/1863 giữa quân đội Bắc và Nam tại Pennsylvania trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.
Trận Normandy: Quân đồng minh Mỹ, Anh, Gia Nã Đại đổ bộ lên bờ biển Normandy thuộc Pháp tháng 6/1944 đánh bại Đức Quốc Xã giải phóng Âu châu.
Trận Khe Sanh: 6000 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và một tiểu đoàn Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hòa trấn giữ căn cứ Khe Sanh ở cực bắc miền Nam Việt Nam chống lại cuộc tấn công của quân đội Cộng sản Bắc Việt trong cuộc chiến tranh xích hóa Việt Nam Cộng Hòa.
(2): Nguyên văn Anh ngữ của bài diễn văn nhậm chức
var CNN_ArticleChanger = new CNN_imageChanger('cnnImgChngr','/2009/POLITICS/01/20/obama.politics/imgChng/p1-0.init.exclude.html',1,1);
//CNN.imageChanger.load('cnnImgChngr','imgChng/p1-0.exclude.html');
My fellow citizens:
I stand here today humbled by the task before us, grateful for the trust you have bestowed, mindful of the sacrifices borne by our ancestors. I thank President Bush for his service to our nation, as well as the generosity and cooperation he has shown throughout this transition.
Forty-four Americans have now taken the presidential oath. The words have been spoken during rising tides of prosperity and the still waters of peace. Yet, every so often, the oath is taken amidst gathering clouds and raging storms. At these moments, America has carried on not simply because of the skill or vision of those in high office, but because We the People have remained faithful to the ideals of our forebearers, and true to our founding documents.
So it has been. So it must be with this generation of Americans.
That we are in the midst of crisis is now well understood. Our nation is at war, against a far-reaching network of violence and hatred. Our economy is badly weakened, a consequence of greed and irresponsibility on the part of some, but also our collective failure to make hard choices and prepare the nation for a new age. Homes have been lost; jobs shed; businesses shutổng thốngered. Our health care is too costly; our schools fail too many; and each day brings further evidence that the ways we use energy strengthen our adversaries and threaten our planet.
These are the indicators of crisis, subject to data and statistics. Less measurable but no less profound is a sapping of confidence across our land -- a nagging fear that America's decline is inevitable, and that the next generation must lower its sights.
Today I say to you that the challenges we face are real. They are serious and they are many. They will not be met easily or in a short span of time. But know this, America: They will be met.
On this day, we gather because we have chosen hope over fear, unity of purpose over conflict and discord.
On this day, we come to proclaim an end to the petổng thốngy grievances and false promises, the recriminations and worn-out dogmas, that for far too long have strangled our politics.
We remain a young nation, but in the words of Scripture, the time has come to set aside childish things. The time has come to reaffirm our enduring spirit; to choose our betổng thốnger history; to carry forward that precious gift, that noble idea, passed on from generation to generation: the God-given promise that all are equal, all are free, and all deserve a chance to pursue their full measure of happiness.
In reaffirming the greatness of our nation, we understand that greatness is never a given. It must be earned. Our journey has never been one of shortcuts or setổng thốngling for less. It has not been the path for the fainthearted -- for those who prefer leisure over work, or seek only the pleasures of riches and fame. Rather, it has been the risk-takers, the doers, the makers of things -- some celebrated, but more often men and women obscure in their labor -- who have carried us up the long, rugged path toward prosperity and freedom.
For us, they packed up their few worldly possessions and traveled across oceans in search of a new life.
For us, they toiled in sweatshops and setổng thốngled the West; endured the lash of the whip and plowed the hard earth.
For us, they fought and died, in places like Concord and Getổng thốngysburg; Normandy and Khe Sanh.
Time and again, these men and women struggled and sacrificed and worked till their hands were raw so that we might live a betổng thốnger life. They saw America as bigger than the sum of our individual ambitions; greater than all the differences of birth or wealth or faction.
This is the journey we continue today. We remain the most prosperous, powerful nation on Earth. Our workers are no less productive than when this crisis began. Our minds are no less inventive, our goods and services no less needed than they were last week or last month or last year. Our capacity remains undiminished. But our time of standing pat, of protecting narrow interests and putting off unpleasant decisions -- that time has surely passed. Starting today, we must pick ourselves up, dust ourselves off, and begin again the work of remaking America.
For everywhere we look, there is work to be done. The state of the economy calls for action, bold and swift, and we will act -- not only to create new jobs, but to lay a new foundation for growth. We will build the roads and bridges, the electric grids and digital lines that feed our commerce and bind us together. We will restore science to its rightful place, and wield technology's wonders to raise health care's quality and lower its cost. We will harness the sun and the winds and the soil to fuel our cars and run our factories. And we will transform our schools and colleges and universities to meet the demands of a new age. All this we can do. And all this we will do.
Now, there are some who question the scale of our ambitions -- who suggest that our system cannot tolerate too many big plans. Their memories are short. For they have forgotổng thốngen what this country has already done; what free men and women can achieve when imagination is joined to common purpose, and necessity to courage.
What the cynics fail to understand is that the ground has shifted beneath them -- that the stale political arguments that have consumed us for so long no longer apply. The question we ask today is not whether our government is too big or too small, but whether it works -- whether it helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement that is dignified. Where the answer is yes, we intend to move forward. Where the answer is no, programs will end. And those of us who manage the public's dollars will be held to account -- to spend wisely, reform bad habits, and do our business in the light of day -- because only then can we restore the vital trust between a people and their government.
Nor is the question before us whether the market is a force for good or ill. Its power to generate wealth and expand freedom is unmatched, but this crisis has reminded us that without a watchful eye, the market can spin out of control -- and that a nation cannot prosper long when it favors only the prosperous. The success of our economy has always depended not just on the size of our gross domestic product, but on the reach of our prosperity; on our ability to extend opportunity to every willing heart -- not out of charity, but because it is the surest route to our common good.
As for our common defense, we reject as false the choice between our safety and our ideals. Our Founding Fathers, faced with perils we can scarcely imagine, drafted a charter to assure the rule of law and the rights of man, a charter expanded by the blood of generations. Those ideals still light the world, and we will not give them up for expedience's sake. And so to all other peoples and governments who are watching today, from the grandest capitals to the small village where my father was born: Know that America is a friend of each nation and every man, woman and child who seeks a future of peace and dignity, and that we are ready to lead once more.
Recall that earlier generations faced down fascism and communism not just with missiles and tanks, but with sturdy alliances and enduring convictions. They understood that our power alone cannot protect us, nor does it entitle us to do as we please. Instead, they knew that our power grows through its prudent use; our security emanates from the justness of our cause, the force of our example, the tempering qualities of humility and restraint.
We are the keepers of this legacy. Guided by these principles once more, we can meet those new threats that demand even greater effort -- even greater cooperation and understanding between nations. We will begin to responsibly leave Iraq to its people, and forge a hard-earned peace in Afghanistan. With old friends and former foes, we will work tirelessly to lessen the nuclear threat, and roll back the specter of a warming planet. We will not apologize for our way of life, nor will we waver in its defense, and for those who seek to advance their aims by inducing terror and slaughtering innocents, we say to you now that our spirit is stronger and cannot be broken; you cannot outlast us, and we will defeat you.
For we know that our patchwork heritage is a strength, not a weakness. We are a nation of Christians and Muslims, Jews and Hindus -- and nonbelievers. We are shaped by every language and culture, drawn from every end of this Earth; and because we have tasted the bitổng thốnger swill of civil war and segregation, and emerged from that dark chapter stronger and more united, we cannot help but believe that the old hatreds shall someday pass; that the lines of tribe shall soon dissolve; that as the world grows smaller, our common humanity shall reveal itself; and that America must play its role in ushering in a new era of peace.
To the Muslim world, we seek a new way forward, based on mutual interest and mutual respect. To those leaders around the globe who seek to sow conflict, or blame their society's ills on the West: Know that your people will judge you on what you can build, not what you destroy. To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent, know that you are on the wrong side of history; but that we will extend a hand if you are willing to unclench your fist.
To the people of poor nations, we pledge to work alongside you to make your farms flourish and let clean waters flow; to nourish starved bodies and feed hungry minds. And to those nations like ours that enjoy relative plenty, we say we can no longer afford indifference to suffering outside our borders; nor can we consume the world's resources without regard to effect. For the world has changed, and we must change with it.
As we consider the road that unfolds before us, we remember with humble gratitude those brave Americans who, at this very hour, patrol far-off deserts and distant mountains. They have something to tell us today, just as the fallen heroes who lie in Arlington whisper through the ages. We honor them not only because they are guardians of our liberty, but because they embody the spirit of service; a willingness to find meaning in something greater than themselves. And yet, at this moment -- a moment that will define a generation -- it is precisely this spirit that must inhabit us all.
For as much as government can do and must do, it is ultimately the faith and determination of the American people upon which this nation relies. It is the kindness to take in a stranger when the levees break, the selflessness of workers who would rather cut their hours than see a friend lose their job which sees us through our darkest hours. It is the firefighter's courage to storm a stairway filled with smoke, but also a parent's willingness to nurture a child, that finally decides our fate.
Our challenges may be new. The instruments with which we meet them may be new. But those values upon which our success depends -- hard work and honesty, courage and fair play, tolerance and curiosity, loyalty and patriotism -- these things are old. These things are true. They have been the quiet force of progress throughout our history. What is demanded then is a return to these truths. What is required of us now is a new era of responsibility -- a recognition, on the part of every American, that we have duties to ourselves, our nation and the world; duties that we do not grudgingly accept but rather seize gladly, firm in the knowledge that there is nothing so satisfying to the spirit, so defining of our character, than giving our all to a difficult task.
This is the price and the promise of citizenship.
This is the source of our confidence -- the knowledge that God calls on us to shape an uncertain destiny.
This is the meaning of our liberty and our creed -- why men and women and children of every race and every faith can join in celebration across this magnificent Mall, and why a man whose father less than 60 years ago might not have been served at a local restaurant can now stand before you to take a most sacred oath.
So let us mark this day with remembrance, of who we are and how far we have traveled. In the year of America's birth, in the coldest of months, a small band of patriots huddled by dying campfires on the shores of an icy river. The capital was abandoned. The enemy was advancing. The snow was stained with blood. At a moment when the outcome of our revolution was most in doubt, the father of our nation ordered these words be read to the people:
"Let it be told to the future world ... that in the depth of winter, when nothing but hope and virtue could survive... that the city and the country, alarmed at one common danger, came forth to meet [it]."
America. In the face of our common dangers, in this winter of our hardship, let us remember these timeless words. With hope and virtue, let us brave once more the icy currents, and endure what storms may come. Let it be said by our children's children that when we were tested, we refused to let this journey end, that we did not turn back, nor did we falter; and with eyes fixed on the horizon and God's grace upon us, we carried forth that great gift of freedom and delivered it safely to future generations.
Thank you. God bless you. And God bless the United States of America.

(3) Trần Bình Nam chuyễn ngữ: Chuyển ngữ trong tinh thần lột ý chứ không lột lời, nhắm mục đích chuyển toàn bộ ý tưởng và văn chương của bài diễn văn đến độc giả bằng Việt ngữ, không cắt không xén như các cơ sở đưa tin của Trung quốc và Việt Nam đã làm.



PHAN NI TẤN * CHIỀU TRÊN QUÊ HƯƠNG

Chiều Trên Quê Hương







 
1.bắc Cần Thơ
chờ bắc ở bến Ninh Kiều
gío về thổi ướt cả chiều dưới sông
ta như bèo nước bềnh bồng
mấy năm đi biệt mà không về nhà
những thằng sống sót trận qua
chiều nay đợi chuyến bắc ra chiến trường

2.quán lá ở daknil

hớp một hớp nước trà thiu
im nghe tịch lặng hiu hiu thổi về
cái đời lính trận xa quê
nhìn sương khói phủ thấy thê lương chiều
hớp thêm hớp nước trà thiu
nghe trong tịch lặng có điều bất an

3.ghé krongpha ngồi nhớ
quanh co xuống dốc đèo dài
đoàn quân xa đậu dọc hai bên đường
trời chạng vạng đã mù sương
đèn lên quán thấp, ngồi thương nhớ nhà
chim chiều khắc khoải xa xa
lòng buồn như ứa mắt ra đầm đầm
tính ra, ừ, đã nhiều năm
phong trần ta vẫn biệt tăm chốn nào

4.qua đèo Mụ Gìa
xe lên tới đỉnh mụ gìa
trên cao trời đất bao la vô cùng
ngợp hồn ta giữa muôn trùng
lũng sương mây đọng trắng vùng sơn lâm
dưới sâu cây đứng ngàn năm
chìm trên đèo thẳm âm âm bóng chiều
theo xe ta xuống thôn nghèo
hồn còn vắt vẻo giữa đèo hoang vu

5.về Buôn ma Thuộc
lên đèo Dục Mỹ ban trưa
ta về ở dưới gío mưa não nùng
xe qua đồi núi chập chùng
lên heo hút lạnh núi rừng tây nguyên
tưởng đi rủ sạch ưu phiền
ngờ đâu bụi đỏ trên miền cuốn theo
thôi thì về với cheo leo
nghe chim ông láo kêu rêu cũng đành
lên tây nguyên trấn giữ thành
thương con vượn hú trên cành chon von
đón ta về núi về non
bóng tà đỏ tợ như hòn núi rơi



LÊ TẤN LỘC * SỔ TAY HÀNH TRÌNH





SỔ TAY HÀNH TRÌNH

Quê hương ruồng bỏ…
Quê nhà xa lắc xa lơ đó,
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay.


Tân thì thầm trong màn đêm giả tạo qua chiếc mặt nạ che mắt, sau bữa ăn tối với hương vị rượu đỏ nồng ấm còn đọng trên môi, trên chuyến bay rời Xứ Tuyết về hướng thành phố mà một thời, rất thương yêu, Tân đã gắn thêm cụm từ “của những cuộc tình” vào tên gọi Hòn Ngọc Viễn Đông (Saigon de mes amours), sau khi bỏ lại sau lưng trong ray rứt nuối tiếc “Paris của những mộng mơ” (Paris de mes rêves):

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ,
Quay về xem non nước giống dân Hời.

«
*Sàigòn, 20.2.2003

Sàigòn ơi! Anh trở về thăm em sau hai mươi ba năm biệt xứ …
Bước xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, cái nóng hỏa lò hắt mạnh vào mặt khiến tôi hoa mắt, lảo đảo. Những nắng là nắng: nắng chói chang, nắng đổ lửa, nắng thiêu đốt! Hai mươi tám năm về trước, cũng cái nắng cháy da, cái nắng bốc khói như thế nầy đã thuộc da, đã thui sống tôi và đồng bạn “cải tạo” đang hì hục còng lưng dùng tay trần cào xới sỏi đá để “canh tác”, dưới sự thúc ép nghiệt ngã của bọn quản ngục.
Tôi về lại chi mảnh đất ngàn đời thương khó nầy? Chắc hẳn không thể như “quan trạng vinh qui về làng” được rồi: So với nếp sống phồn vinh của bè bạn, hàng xóm láng giềng hiện nay, “Việt kiều nghèo” tôi khác chi phường khố rách áo ôm? Cũng chẳng phải để hí hửng làm “Việt kiều du lịch kiểu du khách ngoại quốc trên đất nước của mình”: tôi không đủ sức mà cũng không thấy hứng thú.


Tình thật, tôi chẳng chút chi “hồ hởi” về thăm một quê hương triền miền khốn khổ mà mình đã đoạn đành lìa xa, bỏ mặc, quên lãng. Chỉ vì bà chị duy nhất của tôi hấp hối, muốn thấy mặt thằng em chị đã bồng ẵm, chăm sóc thay mẹ đau yếu đến phải bỏ dở con đường học vấn -vốn hứa hẹn nhiều thành quả rực rỡ- mà tôi đành múi mặt đối diện tại phi cảng với đám hung thần đã đày đọa, trù đập chí cốt các bạn đồng cảnh ngộ bi phẩn với tôi…


Động lực thúc đẩy khác cũng không kém phần quan trọng là do tôi nuôi hi vọng gặp lại vài thằng bạn đã từng chia cơm xẻ áo, cùng hứng chịu nhục nhằn trong lò cải tạo năm nào. Thử xem chúng nó sống còn ra sao. Nhứt là muốn tìm dấu một vài đồng nghiệp “gõ đầu trẻ” hiếm hoi còn sót lại ở quê nhà, cùng các cựu môn sinh của tôi, hiện rải rác khắp nơi.


Nhưng…làm sao dò tìm những bóng dáng thân thương nầy trên những đường phố thơ mộng, chan chứa ân tình xa xưa -những “con đường xưa em đi”- giờ đây đã hoàn toàn biến thể dưới hàng hàng lớp lớp cao ốc sừng sững hai bên đường, che lấp hết ánh mặt trời…

Đường phồ Sàigòn bưng bít gió,
Tôi biết nơi nào gửi nhớ thương!

Hoàn toàn lạc hướng giữa chốn phồn hoa đô thị xa lạ, tôi chỉ còn biết nhắm mắt mơ hồ ngỡ như nhận ra dáng dấp thân quen của những đứa bạn từng sống chết có nhau, huyền ảo như bóng “muôn ma Hời” thoáng hiện về lung linh trong “Điêu tàn”…
*Gia Định, 21.2.2003

Con đường Hàng Xanh, cạnh Ngã tư xa lộ Biên Hòa, hoàn toàn lột xác. Con đường đầy tang tóc máu lửa xưa kia giờ đây thay hình đổi dạng thành khu phố sầm uất, bán buôn ì xèo, xe cộ như mắc cửi, chiếm hết mặt lộ và “xử lý” luôn cả hai lề đường. Tiếng động cơ chát chúa, tiếng đôi co tru tréo ầm ĩ nghe như tiếng súng nổ rền vang, tiếng kêu la thảm thiết của vô số người bị trọng thương, nằm la liệt bên cạnh hàng đống xác chết đã bắt đầu trương rữa, hôm Tết Mậu Thân… Làm sao mà quên được:

Đây chiến địa, nơi đôi bên giao trận,
Muôn cô hồn tử sĩ thét gầm vang…


Căn nhà thờ Hàng Xanh vách ván, mái tôn lụp xụp năm nào vừa làm trạm cứu thương, cứu đói, vừa làm nơi trú ẩn cho nạn nhân chiến cuộc “Mậu Thân” từ các nơi đầy máu lửa Cầu Sơn, Bình Triệu, Gò Vấp đổ xô về lánh nạn -đồng thời cũng là nơi tích lũy hàng khối tử thi chưa thể đem đi chôn, được bó chiếu sơ sài hoặc nhét vội vào bốn miếng ván ghép hối hả, gở từ phên vách những ngôi nhà cháy dở dang- giờ đây đã hóa thân thành một ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, bê-tông cốt sắt. Khách thập phương, giáo dân và người bán hàng rong chen chút nhau trong sân trước giáo đường có tường rào kiên cố bảo vệ. Tượng Đức Mẹ trước nhà thờ đã được dời đi nơi khác. Di tích duy nhất còn lại để nhắc nhở thời nghèo nàn tang tóc nhưng dồi dào tình người của nhà thờ Hàng Xanh xa xưa là tấm plaque cẩm thạch lưu niệm, gắn trên tường, ghi võn vẹn tên Cha Sở Thomas Trần Lê Vinh, năm sinh và năm mất. Ngắn gọn! Tôi cúi đầu trước di tích buồn tênh đó, đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn vị linh mục đã đóng một vai trò trọng yếu trong đời sống tâm linh của tôi sau khi tôi ra tù cải tạo. Và tự hỏi: “Chúa có còn ngự trong ngôi thánh đường phồn thịnh nầy chăng? Hay Người đã đến một nơi mà con cái Người đang đau thương, quằn quại, khốn đốn như dân chúng xưa kia trong căn nhà thờ Hàng Xanh ngập tràn tiếng kêu khóc thương xót”?

*Thủ Đức, 22.2.2003

Chợ Nhỏ Thủ Đức gần như không thay đổi đáng kề. Cái nóng hâm hấp trong ngôi chợ còn giữ được gần nguyên vẹn nếp sinh hoạt trước 1975 không làm tôi ngột ngạt, bởi vì đó là hơi nóng ấm nồng tình người của đồng bào thân quen của tôi. Không xa lạ, không dửng dưng, không kênh kiệu, khinh khỉnh như đám “bào-đồng=cùng-màu-da” ở cửa khẩu nhập cảnh, chực chờ “bào” đồng đô-la của “khúc ruột ngàn dặm” được họ “ban ơn khoan hồng” cho về thăm nơi chôn nhao cắt rún!
Thế nhưng ngôi chợ nhỏ nầy chỉ là một ốc đảo như “khu bảo toàn sinh vật sắp tuyệt chủng” nằm trơ vơ trong đại đương bao la của những biến đổi phi nhiên tính do tập đoàn “dân-tộc-ra-cửa-gặp-ngay-anh-hùng-nhởn-nhơ-đầy-đường-phố” chủ xướng. Qua khỏi khu bảo toàn nầy, “người con về từ phương xa” chẳng còn nhận diện được đất đai xứ sở của mình nữa: Cả môt vùng đất mênh mông chung quanh Trường Bộ Binh trước kia giờ đây chẳng còn một xẻo đất trống. Nhà cửa xây hỗn loạn, hầu hết là những villa lộng lẫy được bao quanh bởi một vòng đai tường gạch ngạo nghễ mà cổng vào luôn luôn được một bảng hiệu to tướng, đỏ rực “Doanh trại Quân đội nhân dân” xác định quyền sở hữu bất di dịch, bất khả xâm phạm, cha truyền con nối của đám cư dân “con cưng của chế độ” được nhà nước tận tình ưu đãi! Doanh trại tiếp liền doanh trại, liên tục nối dài “xa tít tận chân trời”…Cơ hồ như cả nước, từ Cà Mau đến ải Nam Quan được một dãy Trường-Sơn-Doanh-Trại-Quân-Đội-Nhân-Dân “nối vòng tay lớn”!

Loanh quanh, dò dẫm mãi trong đám rừng doanh trại tôi mới tìm ra lối mòn dẫn tới một vùng chứa rác lộ thiên khổng lồ: vài trăm căn nhà “khiêm tốn” của cư dân bị trục xuất khỏi mấy khu kề cận Trường Bộ Binh mọc lên chung quanh các núi rác. Hai thiếu phụ -một thư ký, một y tá- cựu cộng sự viên ở trường Trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương đón tôi ở đầu ngõ khu “bàn cờ” tái sinh bất đắc dĩ, cho tôi khỏi mất tích trong mê cung nghèo khó nầy. Đôi bên nhìn nhau, rưng rưng…Muốn choàng ôm nhau nghẹn ngào nhưng…vẫn cứ ngại ngần: Dẫu sao chúng tôi vẫn còn chịu ảnh hưởng không khí “cổ kính”, “mô phạm” của cửa Khổng sân Trình thời trước!
Bữa cơm thanh đạm do hai cựu thuộc viên nghèo khó tự tay nấu nướng “chiêu đãi” trưởng cơ quan cũ -cũng chẳng khá giả gì lắm- vậy mà vui hết sức! Mùi nylon cháy khét lẹt từ những núi rác không làm ô nhiểm không khí đậm tình anh em thân thiết giữa chúng tôi.
- Nầy cô Xuân! Không thấy cô giới thiệu chồng con chi cả.
- Ai mà chịu lấy tôi, hở anh? Vừa nghèo vừa xấu.
- Ai dám bảo cô y tá của tôi xấu? Cô kén chọn quá kỹ chăng? Còn cô Cang, cậu con trai giờ ra sao rồi? Cô có bước thêm một bước nữa chăng?
- Nhờ anh đỡ đầu lúc nó ra đời nên nó ăn học khá lắm, bây giờ có việc làm vững chắc, rất hiếu thảo. Từ lúc ba nó mất tích ở Bình Long, tới nay tôi vẫn ở vậy nuôi con. À! Anh còn nhớ chú Trầm, tùy phái không? Tội nghiệp, ổng già yếu lại bịnh nặng. Hai ông bà thương anh lắm, nhắc anh hoài…
Làm sao tôi quên được hai vợ chồng người đã hết lòng ân cần chăm sóc tôi, những ngày đầu tôi nhận trách nhiệm điều khiển trường Trịnh Hoài Đức? Cả ba chúng tôi lặng lẽ thở dài...
- Bé Tám dạy nhạc bây giờ ra sao rồi?
- Anh nhắc làm chi cái thứ nằm vùng ôn hoàng dịch lệ vật đó! Xuân trả lời.
-“Giải phóng” vô hôm trước, hôm sau hắn vênh váo xách AK tới trường hoạnh họe, hạch sách các thầy cô và nhân viên văn phòng đủ điều. Rồi hắn ra lệnh cho tôi đánh máy danh sách phân loại để hắn báo cáo lên Ban An Ninh, Cang tiếp lời. Bây giờ hắn bị cho ra rìa rồi, chẳng ai thèm ngó tới mặt. Đáng đời!


Tôi lắc đầu ngao ngán cho thế thái nhân tình: Bé Tám, người được toàn trường chúng tôi hết lòng thương yêu, đùm bọc, nhiệt tình giúp đỡ mọi mặt…
Lúc bùi ngùi chia tay, tôi kín đáo chạm nhẹ vào bàn tay gầy yếu xanh xao của hai cô em đã giữ nguyên vẹn lòng cảm mến dành cho người anh viễn phương…

Áo em vạt tím ngàn sim,
Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ.





*Trường Dạy Nghề Thủ Đức, 23.2.2003

Lần nầy thì tôi chẳng nghe ai kể hết. Chính mắt tôi thấy, tai tôi nghe: Cửa quyền hống hách coi dân như rơm rác. Chính quyền do “nhân dân làm chủ” đấy nhé!
Quá thương tâm trước cảnh nghèo rớt mồng tơi của gia đình một người thân -nhà dột cột xiêu, cơm ngày hai buổi hẩm hiu với muối hột mà cũng chẳng đủ no lòng, con cái nheo nhóc; đứa con gái đầu đàn phải bỏ học đi bưng mâm rửa chén cho một tiệm phở, trước để được no bụng, sau để kiếm vài đồng bạc phụ mua gạo muối hàng bữa cho gia đình- tôi nhất quyết tìm cách rút đứa cháu gái tuổi chưa quá đôi tám, mặt mũi “dễ coi” ra khỏi cảnh đau lòng đầu bù tóc rối, chân đi trần, đầy vết mỡ loang : giúp cháu học nghề.

Bước vào văn phòng trường dạy nghề tôi chẳng thể nào tưởng tượng sẽ phải đối mặt với một mụ Giám hiệu quá ư mất dạy! Cán bộ nhà nước -“đầy tớ của nhân dân”- vô giáo dục phụ trách công tác giáo dục nhân dân! Đem tiền đến đóng học phí cho họ mà họ coi như mình đến xin ăn không bằng. Nói chuyện phang ngang bửa củi, trả lời nhát gừng, có ghế nhưng không mời khách ngồi. Đóng tiền xong, hỏi chi tiết về chương trình học, giờ giấc. Trả lời cụt ngủn: về đi, trở lại coi thông báo niêm yết. Hết!
- Ban giám hiệu trường nào cũng tiếp phụ huynh như vậy hết hả con?
- Dạ phải, dượng ba ! Chỗ nào của nhà nước cũng vậy hết, chớ không riêng trường học. Dân đem tiền “cúng” cho họ mà bị coi như tới van xin họ ban ơn bố đức!
- Hết ý!




*Bình Dương, 23.2.2003

- Allô! Thưa thầy! Tụi em đang trên đường xuống rước thầy…Thầy biết ai gọi thầy không đây?
- Huê Mỹ phải không?
- Trời Phật! Hai mươi mấy năm rồi mà thầy vẫn còn nhận ra tiếng em!
- Làm sao quên giọng “hai-phai-xì-tê-rê-ô” của nữ lực sĩ được!

Ba mươi phút sau, chiếc mini van đầy người gấp rút tấp vô lề đường trước cổng nhà chị tôi. Một đoàn áo dài trắng tức tốc túa ra, ào tới quấn quít lấy tôi, đứa nắm tay, đứa bá cổ, đứa choàng vai, đứa bẹo mặt, đứa vuốt tóc, vừa reo cười vừa mếu máo khóc!
- Thầy ơi! Phải thiệt thầy Tân dạy Triết của tụi em không đây? Một đứa hỏi. Tụi em nghe đồn thầy tự tử chết trong trại cải tạo rồi. Thầy mình thực sự còn sống, phải hôn tụi bây? Hỏi xong, bèn bật khóc!
- Thầy biết con nhỏ cười qua nước mắt kia là ai không? Huê Mỹ hỏi.
- Không nhớ. Trông rất quen. Đẹp. Nhưng có vẻ buồn thảm quá!
- Hồng Phượng mà thầy không nhớ ra à? Hồi trước, sáng nào nó cũng quá giang xe thầy từ Lái Thiêu tới trường mà!
- Trời đất! Hèn chi tôi cứ ngờ ngợ.
Hồng Phượng đối với tôi như em ruột vì là con của thầy tôi ở Bạc Liêu. Cũng là em gái của Danh, thằng bạn nối khố, đồng nghiệp.
Huê Mỹ ngày xưa thân hình cân đối, rắn chắc, bây giờ gầy gò, cao nghệu như tre miễu, nhưng nụ cười vẫn còn rạng rỡ. Đám cựu môn sinh đang quây quần bên tôi giờ đây đã “ông ông mụ mụ rồi” hết ráo, nhưng không rõ có phải vì cái khung cảnh tái ngộ quá đặc biệt nầy mà đột nhiên chúng trở thành đám nữ sinh lăng xăng tíu tít như dạo nào chăng? Hoài niệm vẫn còn xanh trong chúng tôi…


(Bình Dương)



*
Giám hiệu Trường Trịnh Hoài Đức, một cựu học sinh của Trường, mời tôi, Phúc, một cựu Hiệu trưởngTHĐ kế tôi, cùng đám cựu môn sinh vào văn phòng trò chuyện thân mật. Giám hiệu ngỏ lời chào mừng và hoan nghinh sự trở về trường xưa của người thầy cũ-nguyên hiệu trưởng, lời lẽ cảm động chân thật. Ba hiệu trưởng kế tiếp nhau, mỗi người tiêu biểu cho một thế hệ, ngồi bên nhau trong tinh thần sư đệ: Điều tôi không ngờ có thể “được phép” làm ở một cơ sở giáo dục “do nhân dân làm chủ”! Không khí “có giáo dục” nầy, tôi nghĩ là do vị Giám hiệu đã được “giáo dục” trước 1975. Nếu không, chắc cũng rập khuôn “cửa quyền” như ở trường dạy nghề Thủ Đức thôi.
- Chào thầy! Em là Hiệu phó. Lúc thầy làm Hiệu trưởng, em mới vào đệ thất nên chắc thầy không biết em. Xin mời thầy cùng quí anh chị “tham quan” trường.



Cô Hiệu phó rất xinh, y phục lịch lãm, sở dĩ ăn nói “có văn hoá” là nhờ đã được đào tạo trong môi trường “tôn sư trọng đạo”, cũng trước 1975…
- Xin thầy đứng chụp ảnh trước dãy phòng mới cất, rất khang trang. Cô Hiệu phó vừa nói vừa nằm tay tôi lôi về hướng kỳ đài “phất phới cờ đỏ ngôi sao vàng”!
- Không, không! Huê Mỹ can thiệp, trì tay tôi lại, kéo về hướng khác. Lúc thầy dạy tụi mình, rồi lên làm Hiệu trưởng chỉ có dãy phòng cũ kỹ nhưng rất nhiều kỷ niệm thầy trò nầy thôi! Thầy về thăm trường cũ trò xưa là muốn tìm lại hoài niệm thân thương đó...Em hãy để yên cho bọn chị cùng thầy sống lại vùng hoài niệm xanh lúc thầy mới về trường chúng ta đi nghe !



Quả thật Huê Mỹ nói rất đúng, dãy phòng xưa cũ nầy và văn phòng Hiệu trưởng vừa chật cứng hoài niệm đối với tôi, vừa là di tích lịch sử đối với cựu nhân viên giảng huấn, nhân viên văn phòng và các cựu học sinh trước 1975. Chắc rồi cũng sẽ bị đập bỏ,
thay thế bằng hàng loạt kiến trúc do các ông chủ mới thiết kế đồ án, với lá cờ đỏ sao vàng chói chang -bắt buộc phải có- phất phới như một quyết tâm triệt hạ những gì gợi nhớ tới nền giáo dục nhân bản xa xưa…

- Thưa thầy! Em đứa là học trò nghèo năm xưa chẳng bao giờ quên thầy đã cho em lên xe Toyota của thầy để em khỏi cuốc bộ đến trường : Một điều mà em chẳng bao giờ tưởng tượng có thể xảy ra giữa một học sinh quèn như em và một người vừa là thầy đứng lớp vừa là Hiệu trưởng! Nho, Phó Giám đốc Sở Giáo Dục Bình Dương ngõ lời trong buổi cơm thân mật tiếp đãi tôi và “phái đoàn cựu học sinh 12A1-12A2/THĐ/1970”, qui tụ trên dưới ba mươi khuôn mặt thân thương tại một quán cơm bình dân, ngoài thành phố.
- Em không giấu thầy, Nho tiếp, em là người cộng sản -và em là người cộng sản duy nhứt trong bàn tiệc nầy. Em theo lý tưởng của em, nhưng em vẫn kính mến, thương quí thầy và tôn trọng lý tưởng của thầy. Xin thầy cứ yên tâm: Tổn phí xe cộ đưa đón và bữa cơm hôm nay là do tụi em, học trò cũ của thầy, tự nguyện chung góp đài thọ. Tụi em dứt khoát không cho mấy đứa cựu môn sinh của thầy bây giờ là tay to mặt bự -cỡ bí thư tỉnh ủy, huyện ủy trở lên- gặp thầy, dù tụi nó có yêu cầu. Em nói với chúng nó :«Thầy Tân trực tính. Tụi bây quen thói “lên lớp” sảng, rủi ổng nhịn không nổi “quạt” lại, bị mất mặt, tụi bây dám bắt ổng đi cải tạo lần nữa lắm!».
- Thưa thầy! Chắc thầy không còn nhớ em đâu! Một giọng nữ trong như chuông ngân, không xưng danh, phát biểu. Ngày xưa, nhà nghèo quá, em phải nghỉ học xin làm thư ký đánh máy cho trường. Khi lên làm Hiệu trưởng, thầy không cho em làm…
- Tôi đuổi việc em?...
- Dạ không phải vậy! Thầy nói em còn nhỏ quá, bắt em tiếp tục học buổi sáng và cho em làm việc buổi chiều, thứ bảy, chủ nhựt làm thêm giờ bù…Nhờ vậy em tốt nghiệp đại học sư phạm, nối nghiệp thầy!
- Dù em có khai tên ra thầy cũng không nhớ nổi em đâu! Một cựu môn sinh phái nam chen vào, tiếp chuyện. Xin đọc bài thơ “Tái ngộ” em vừa làm xong tặng thầy, mà em dự trù đưa vào tập thơ “Chàm khúc tình” của em, sắp xuất bản. Em chỉ xin thầy, cũng là người cầm bút, nhớ bút hiệu của em thôi : Chu Ngạn Thư.

(….) Mượn câu vạn lý trùng phùng
Ấm trong tay bắt lòng mừng nỗi xưa.

Lạ thật! Tôi nghĩ thầm. Chàm khúc tình? Chẳng lẽ nhà thơ thấu suốt tâm trạng “quay về xem non nước giống dân Hời” trong Điêu tàn của người-dân-Việt-ngoại-kiều-trên-đất-Việt như tôi? Chàm khúc… Một cơn trốt xoáy tung bụi mù hay… Hồn tử sĩ gió ù ù thổi?


- Tôi kể anh Tân nghe chuyện dài Trịnh Hoài Đức. Phúc uống cạn ly bia, rơm rớm nước mắt, trầm buồn lên tiếng. Lúc tôi ngồi tù cải tạo, trường bị xoá tên và mất luôn vị trí một cơ sở giáo dục. Họ cưỡng đoạt ngôi trường làm trung tâm “bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ”.
Khi tôi ra tù, mấy đứa học trò cũ của mình -“quan lớn” trong chế độ “đổi đời”- tìm tôi, thúc đốc tôi ra nhận lại chức vụ hiệu trưởng. Tôi ra điều kiện tiên quyết : phục hồi danh hiệu Trịnh Hoài Đức và dời trung tâm gì đó đi nơi khác. Yêu cầu được đáp ứng sau nhiều năm dài tranh cãi. Sở Giáo Dục do học trò cũ mình cai quản giao cho tôi điều khiển trường được trao trả và yêu cầu tôi vận động cựu đồng nghiệp và cựu học sinh ở hải ngoại gởi tiền về gây quỹ phát triển trường cũ. Khắp nơi nhiệt tình hưởng ứng. Nhưng rồi tôi nhận ra chính quyền chỉ muốn lợi dụng tôi để moi tiền những ai còn tha thiết với trường cũ.
Anh em điện thư yêu cầu tôi mở trương mục cho họ chuyển tiền. Lúc bấy giờ chánh quyền mới lộ tẩy : Chỉ có Sở Giáo Dục tỉnh Bình Dương mới có tư cách nhận và sử dụng tiền! Tôi thông báo ngay cho bè bạn khắp nơi, rồi cáo bịnh xin từ nhiệm. Sở không chấp nhận, trái lại càng lúc càng thúc ép tôi kêu gọi thiên hạ gởi tiền về.
Viễn ảnh tôi đi cải tạo lần nữa chập chờn…Cuối cùng tôi nghĩ ra cách rút lui an toàn. Tôi dàn cảnh đi xe đạp bị tai nạn chấn thương não, mất trí nhớ, ăn nói ngọng nghịu, lảm nhảm. Bệnh viện -do BS Phượng Hoàng, học trò ruột của chúng ta làm trưởng khoa bệnh lý- xác nhận bệnh trạng. Tôi thoát nạn!
- Lúc đó mình chới với khi nghe Danh báo “hung tin”. Không ngờ Phúc “siêu” quá cỡ!

Trên đường về, các em đề nghị tôi ghé qua khu Trường Nữ THĐ, gần chợ Búng. Trước 1975, Trường cũ gồm hai khu nam nữ, cách nhau trên hai cây số. Bây giờ khu nầy dành cho nữ cán bộ làm trụ sở hợp tác xã gì gì đó.
- Đây mới thật là nơi tụi em có quá nhiều kỷ niệm với thầy! Đấu, cô-nữ-sinh-mít-ướt ngày xưa, lệ đoanh tròng, nhìn tôi nói. Em nhớ, lúc học đệ tam với thầy, em ưa khóc vì mặc cảm nghèo, chỉ có một bộ đồ tương đối coi được mặc đi học. Thầy dỗ em và biểu em lúc nào muốn khóc thì nhìn mặt thầy sẽ hết khóc. Em cũng chẳng hiểu vì sao mà nghe theo lời thầy thì …em nín khóc thiệt! Và từ từ em hết mít ướt luôn!
- Thầy nhìn lên dãy lầu xem! Thầy còn nhớ căn chót phía tay mặt, nơi thầy dạy triết cho lớp đệ nhất A1, năm đầu tiên thầy về trường chăng? Gần Tết năm 1967, thầy đang đứng lớp trên đó thì có hai thanh niên giả dạng nam sinh THĐ sang bán báo Xuân đột nhập vào lùa thầy cô và tụi em ra sân cờ để tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước”. Tình cờ có hai anh chuẩn úy không hay biết gì hết, từ chợ Búng đèo nhau trên xe gắn máy chạy ngang trường…Họ nổ súng sát hại. Em còn nhớ mồn một nụ cười tươi tắn của hai anh còn rầt trẻ đó thoáng qua cổng trường rồi vụt tắt ngấm theo tiếng súng nổ chát chúa. Và ngay bây giờ em vẫn tưởng như sự việc đang xảy ra trước mắt: Chiếc Suzuki màu xanh dương lật ngang giữa đường, máy vẫn còn nổ, bánh xe vẫn còn lăn, hai anh chuẩn úy vẫn còn giẫy chết…


Cơn xúc động do hoài niệm thương động tái xuất hiện dần dần lắng động.
- Thầy à! Đấu-mít-ướt cười hiền hòa nói. Bữa nay sao em cảm thấy như đang học lớp đệ tam đó thấy. Phải hôn tụi bây?
- Ê, con nhỏ! Tụi mình tóc hoa râm hết rồi nghe mậy! Huê Mỹ chọc phá.
- Tao cảm thấy thiệt vậy mà!
- Thầy có thấy cái miễu nhỏ trước cổng trường không? Hồng Phượng hỏi. Cái miễu đó, cho tới nay dân chúng vẫn tiếp tục nhan đèn cúng vái. Họ bảo hai anh chuẩn úy nầy linh lắm! Chánh quyền địa phương muốn dẹp mà không dám, vì nghe đâu mấy cán bộ gộc trên tỉnh cũng thường xuống xá lạy, van vái, cầu xin!
- Thầy ơi! Thầy ở lại chơi với tụi em đi. Lâu lắm rồi thầy mới có dịp trở lại Bình Dương. Đấu năn nỉ. Thầy còn về Việt Nam nữa không?
- Tôi thì không thành vấn đề. Nhưng cô thì không thể ở lại vì sức khỏe không cho phép. Chứ cô cũng rất thích sinh hoạt với các em. Tôi về nữa, các em nghèo quá làm sao đủ gạo nuôi tôi?
- Dạ thầy đừng lo. Tụi em chia nhau nuôi thầy cô, mỗi đứa một tuần. Rồi xây tua làm lại như vậy nữa. Dư sức “nuôi” thầy cô dài dài…
Tôi rời cảnh cũ người xưa, rạt rào thương cảm… Chốn ấy quê hương, ôi cảm tình! :

Đưa nhau đấu rượu hoa nầy,
Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm…

(Thành phố Đà Nẵng)



*Đà Nẵng, 26.2.2003

Bốn mươi lăm năm rồi tôi mới lại có dịp đi xe lửa trên một tuyến đường xa. Lần chót tôi dùng phương tiện giao thông nầy là do năm 1958, giữa niên học, ban Triết Đại Học Sư Phạm chúng tôi tại Sàigòn được lệnh chuyển lên Đàlạt. Lần nầy đặc biệt hơn vì chuyến xe lửa mang tên “Thống Nhất” chạy suốt từ Sàigòn -đã bị mất tên- tới Hà Nội -địa danh trơ trơ như đá vững như đồng vì được “đảng và nhân dân ta” tôn vinh là “cái nôi của loài người ( v.v…)”, không như Sàigòn chỉ mới là Hòn Ngọc Viễn Đông ấm ớ thôi! Có nên nhắc lại, khách mở hàng chuyến tàu hỏa Thống Nhất nầy là hằng hà sa số quân cán chính VNCH được nhồi nhét như gia súc trên các toa tàu bít bùng, đưa ra miên Bắc “học tập cải tạo” và phần lớn đã vĩnh viễn nằm xuống trên con tàu định mệnh, được vùi lấp “không một nấm mồ” hai bên đường rầy “đầy máu và nước mắt” chăng? Bất giác tôi rùng mình: Toa “Couchette” khá tiện nghi tôi đang sử dụng, trước đây chắc chắn đã “tiếp thu” ít nhất trên trăm chiến hữu của tôi đang đói khát, ngộp thở, bịnh hoạn không thuốc thang, bài tiết tại chỗ, chết dần mòn…Phong cảnh nhạt nhòa theo lệ ứa :
Đây những cảnh rừng sâu cây lả ngọn,
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.

Cảnh vật hai bên đường rất đẹp và rất “quê hương”, với trâu bò nhơi cỏ trên đồng áng, với hàng dừa, rặng cao, lũy tre bao quanh đình chùa, làng thôn nếu không có cảnh tượng thương tâm phu dân nghèo khổ đập đá như tù khổ sai kiếm cơm độ nhật, gợi nhớ cảnh đày ải, cưỡng bức lao động trong các trại cải tạo năm nào…Lác đác vài ngôi nhà mồ nguy nga, tráng lệ trông rất bắt mắt nổi bật trên vô số nấm mồ lở lói, xác xơ. Người chết giờ đây cũng phân chia giai cấp trong một xã hội luôn huênh hoang tự hào “không giai cấp”. Nhà mồ huy hoàng, màu sắc rực rỡ : người chết có thân nhân là cán bộ hoặc Việt kiều. Nấm mồ sụp lở : hoặc vô chủ, hoặc con cháu người chết là đa số dân đen sống lây lất qua ngày! Dĩ nhiên nghĩa trang “liệt sĩ” thì y như lăng tẩm vua chúa thời xưa. Và cũng rất dĩ nhiên như một “tất yếu lịch sử” (sic!) vô số doanh trại quân đội nhân dân lại…lấn dân giành đất khằp nơi, khắp nước…



Thành phố Đà Nẵng không xô bồ như thành phố Sàigòn-mất-tên. Đường phố sạch sẽ, lưu thông trật tự, người dân nói năng lễ độ, tử tế. May mắn thay Trường Phan Chu Trinh vẫn còn giữ được tên và nét trang nghiêm của thời trước. Nhưng buồn thay, tôi chẳng gặp được “cố nhân” nào cả : bạn bè và đồng nghiệp cũ chắc đã vượt biên hết rồi!
Hai đứa cháu họ, Sử và Thảo, hướng dẫn chúng tôi thăm bãi Bụt nổi tiếng. Cành trí tuyệt đẹp. Nhà cửa xinh xắn như các chalet nghỉ mát Tây phương. Đất đai được rào phân cách thành lô rạch ròi. Hỏi tên các “phước chủ” mới bật ngửa : Khu đất và các chalet nầy là của Hen-ri Chúc, khu kia là của Eo-vít Phương, khu nọ là của Làng Văn! Cả ba khu nầy chiếm gần phân nửa diện tích bãi Bụt. Ô hô Việt kiều! Cứ đà nầy, bãi Bụt sẽ trở thành Bãi Văn Nghệ Sĩ nước ngoài ”yêu nước”… có đất kinh tài!

Trong buổi cơm chiều, Thảo kể chuyện ông tỉnh ủy từ chức vì thằng con hà hiếp dân lành. Ông là cán bộ cao cấp duy nhất không ém nhẹm chuyện xằng bậy. Nhưng một con én không làm nên mùa xuân. Sau đó, ông từ khước mọi chức vụ khác, xin hưu non.
- Con nghĩ ông ấy thấy xa.Thảo kết thúc chuyện kể. Nếu tiếp tục công tác, trước sau gì ông cũng bị đám tham ô ám hại.
- Con muốn chú xem kỷ vật con cất giữ của thằng bạn cách đây hai mươi tám năm. Sử buồn bã nói. Một tháng sau ngày “giải phóng”, bạn con lén lút đến nhà trao cho con một món quà gói ghém và ngụy trang rất kỹ. Và con cũng đã chôn giấu rất cẩn thận nên mới còn tới ngày hôm nay. Chú xem đây!

Sử trút từ ống tre ra một thanh kiếm nằm trong bao đen nạm vân vàng, mời tôi tuốt kiếm…Lưỡi kiếm đã rỉ sét, nhưng ánh thép vẫn còn lấp lánh! Tôi bồi hồi nhận ra thanh kiếm của sinh viên Trường Võ Bị Quốc Gia!
- Lúc sắp “đứt phim” bạn con là sinh viên sĩ quan đang chuẩn bị “vung kiếm gương cung” ra trường. Những lời cuối của bạn tới giờ nầy vẫn còn văng vẳng bên tai con: «Tao rất may mắn được Trường Võ Bị Quốc Gia giáo dục làm người, rèn luyện tinh thần trách nhiệm, tôn trọng danh dự. Trường đã cho tao một lý tưởng phục vụ tổ quốc. Những thứ quí báu đó không còn trong tay nữa với một quê hương đã mất, tao chẳng còn lý do gì để trường tồn. Hãy giữ hộ tao cây kiếm nầy để nhớ đến thằng bạn đã có lần được làm người, đúng nghĩa Làm Người…».
…Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai,
Không có ai ngày ngày, không có ai đời đời…



*Phi trường Tân Sơn Nhứt, 26.3.2003

Nho, Mỹ, Hồng Phượng và một số cựu môn sinh tiễn tôi xa lìa quê hương lần nữa, có thể chẳng bao giờ quay về lại. Nắm nuối, bịn rịn, “bước đi nhưng chưa nỡ rời…”. Nhưng rối thầy trò lại phải xa nhau nữa thôi!
Đợi nhau tàn cuộc hoa nầy
Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ…
- Nầy anh kia! Một “bào-đồng-cát-kết-cầu-vai-đỏ-ối” trỏ tay về hướng tôi, nhe hàm răng “xâm lăng” hét to. Tôi nói tiếng Việt mà anh không hiểu sao? Có xếp hàng vào cửa lên máy bay ngay không thì bảo? Rõ lẩn thẩn!

Hình ảnh các quản ngục non choẹt năm nào sừng sõ quát tháo -“anh nầy anh kia”- bọn tù cải tạo đáng tuổi cha chú mình lại hiện về...
- Chú theo tôi vào đây làm việc. Một giọng miền Nam -duy nhứt ở phi cảng quốc tế nầy- nhỏ nhẹ rót vào tai tôi. Tuy vậy, tôi cảm thấy “lạnh cẳng” với cụm từ “làm việc” rất dễ động não. Vì bất cứ cựu tù cải tạo nào cũng đã từng đổ mổ hôi hột khi mình được kêu “lên làm việc”! Chắc lại có chuyện rồi… Vì chuyến thăm trường cũ chăng?

Vào phòng an ninh, trước đôi ba bộ mặt gầm gừ, giọng Nam dễ thương kia đổi sang ngay giọng Bắc - vì “lãnh đạo ” là đồng chí phương Bắc- nhưng vẫn nhẹ nhàng :
- Xin chú cho biết có quên cái gì trước khi lên phi cơ chăng?
- Tôi không nhớ. Hình như không.
- Thế thì cái áo gi-lê-phóng-viên-nhiều-túi nầy chắc của tôi, phỏng? Giọng Bắc “cấp trên” chanh chua xoi mói.
- Ô! Xin lỗi quí anh. Tôi già rồi, quên trước quên sau. Lúc nãy tôi bỏ sót nó trên quầy khám xét. Xin lỗi! Xin lỗi!
- Chúng tôi nhặt nó, soát qua các túi, thấy bản sao “bách-bo” của anh nên mới tìm anh trao lại. Anh kiểm lại các thứ xem có thiếu món gì không.
- Dạ, chỉ thiếu quyển sổ tay…
- Anh viết những gì chúng tôi không hiểu, vì viết tiếng nước ngoài. Nhật ký?
- Dạ không! Tôi ghi chú những cảm nghĩ hằng ngày về các luận án tiến sĩ của các sinh viên đại học Paris nhờ tôi nhuận sắc.
- Được rồi. Trả lại anh đây.
Hú vía! May là nhật ký viết bằng tiếng Pháp. Có lẽ nhờ chữ “Paris” mà tôi thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Nếu viết bằng tiếng Anh hay nói tới đại học nào ở Mỹ, chẳng biết cuộc diện sẽ ra sao…
».


Tân dán mắt vào “hublot” ghi nhận lần cuối hình ảnh thành phố thân yêu nhỏ dần khi phi cơ vút lên cao. Cúi nhìn ly rượu đỏ, như chờ đợi Sàigòn “thoáng hiện em về trong đáy cốc”, Tân thầm thì :
- Biết bao giờ còn thấy nhau lần nữa, Sàigòn ơi! Vì…
Tôi sẽ chết như hoàng hôn đã tắt
Mây bay đi không cuốn được u hoài
Chớm đêm về mưa gió sẽ chia tay
Cho lá nhớ mưa buồn dâng ướt mắt…
- Ôi quê hương dấu yêu , phải đoạn đành ruồng bỏ! Bởi…
Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp,
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi!

Thôn trang Rêu-Phong, 30 tháng Tư 2008
- Lê Tấn Lộc-

Xin nghe bản "Trở về mái nhà xưa" qua giọng Ngọc Hạ và Nguyên Khang



TÀI LIỆU VỀ TƯ SẢN ĐỎ VIỆT NAM


TÀI LIỆU VỀ TƯ SẢN ĐỎ VIỆT NAM


Một tài liệu cũ trong báo Quốc gia, Montreal , Canada từ tháng 2/1996 trích tin Nữu Ước cho biết :
"Một thành viên cao cấp của Hội đồng mậu dịch Việt - Mỹ tiết lộ đảng CSVN được xem là một tỉ phú hàng đầu của thế giới vào năm 1995 với tài sản ước lượng lên đến 20 tỉ đôla…VN hiện nay có khoảng từ 80 đến 100 người có tài sản trên 300 triệu đô la, tất cả các tỉ phú này đều là cán bộ cao cấp của đảng.


"Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ sau 3 tuần lễ thăm VN để tính chuyện làm ăn buôn bán, phát biểu rằng các ông lớn trong đảng gồm các thành viên bộ chính trị, các bộ trưởng và thứ trưởng, ít nhất mỗi người có vợ hay con làm chủ một công ty. Theo ông J Shapiro, do việc chính phủ cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên đến 500000 đô la, số ngoại tệ trong nước bắt đầu vơi đi.


"Vẫn theo ông Shapiro, có khoảng 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la. Đây là con số do một nhân vật cao cấp của ngân hàng trung ương cung cấp cho ông. Những đảng viên có tài sản từ 50 đến 100 triệu đô la khoảng 2000 người…Tất cả những con số về tài sản của đảng CSVN là do những chuyên viên thống kê của cơ quan mậu dịch quốc tế. Số tài sản lớn lao trên do thân nhân của đảng viên cao cấp ở nước ngoài làm sở hữu chủ. Ông Shapiro cũng nêu lên nhiều thí dụ điển hình như vợ bé của tổng cục phản gián làm ăn rất lớn ở Âu châu, em ruột của trung tướng VC, tổng cục phó tổng cục phản gián đang kinh doanh rất lớn ở Nam Cali, vợ con của Giám đốc tổng cục kinh tế và thân nhân của Đỗ Mười thủ đắc những tài sản nhiều triệu đô la ở Vancouver, Canada và cả ở New York, Houston. Trong niên khóa 94-95, hàng trăm du học sinh là con cái đảng viên tự túc. Niên khóa 95-96, con số này tăng lên gấp 3…"





(H1,2. Những khu biệt thư, lâu đài của tư sản đỏ Việt Nam)

Một tài liệu khác trong website tạm dịch là mạng điểm (cf. địa điểm, thời điểm) Hận Nam Quan tháng 5/2002 tựa là " Giai cấp mới trong các chế độ CS " cho biết :
"Theo tin của hãng thông tấn Reuter đánh đi từ Hà nội ngày 4 tháng 3 năm 2002 thì ĐCSVN sau khóa họp TƯ Đảng từ 18-2-đến 2-3-2002 đã chính thức ban hành một chính sách mới về kinh tế rất táo bạo: Đảng viên CS được phép làm kinh doanh tư nhân. Phạm Chi Lan, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và kỹ nghệ tuyên bố với phóng viên của hãng thông tấn Reuter rằng:"… Đại hội đã quyết định là các đảng viên đang quản trị các xí nghiệp tư nhân có quyền ở lại trong Đảng".
"Thật ra thì từ nhiều năm nay, các đảng viên cao cấp tuy không chính thức sở hữu một xí nghiệp tư nào cả nhưng thân nhân bà con của họ đã là chủ nhân của những xí nghiệp tư lớn nhất trong nước.

"Cứ hỏi vợ con các ông Phan văn Khải, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng…là sẽ biết ai là chủ nhân của các sân golf, các khách sạn hạng sang, hãng xe taxi, hãng hàng không, nhà máy chế biến hải sản, hãng xuất nhập cảng, siêu thị lớn nhất nước.
"Ai mà không thấy sự giàu có hiển nhiên của giới lãnh đạo CS tại VN. Họ xây nhà lầu, xài tiền như nước, xuất ngoại như đi chợ, chi tiêu một lúc hàng bó đô la tiền mặt. Giới tư bản đỏ nhờ phù phép XHCN đã biến tài sản của quốc gia thành tư sản một cách thần tình, biển thủ công quỹ, buôn lậu hàng quốc cấm thế mà cứ hò hét diệt tham nhũng đến cùng.



"Theo tài liệu FYI (Poliburos network) ngày 19/12/2000 thì các cán bộ và nhân viên cao cấp của nhà nước CS Hà nội hiện làm chủ những số tiền to lớn gửi tại các ngân hàng ngoại quốc cộng với những bất động sản tọa lạc trong nước.
- Lê Khả Phiêu : cựu tổng bí thư ĐCSVN và gia đình có 5 khách sạn (2 ở Hànội và 3 ở Saigon), tài sản và tiền mặt trị giá 1 tỉ 170 triệu Mỹ kim (US$ 1.170.000.000)
- Trần Đức Lương: Chủ tịch nước CHXHCNVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 137 triệu MK
- Phan Văn Khải: Thủ tướng chính phủ, gia đình có 6 khách sạn ở Saigon, tài sản 1 tỉ 200 triệu MK.
- Nguyễn Tấn Dũng: Đệ 1 Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 480 triệu MK
- Nguyễn Mạnh Cầm: Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 150 triệu MK
- Phạm Thế Duyệt: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, tài sản 1 tỉ 173 triệu MK
- Tướng Phạm Văn Trà : Bộ trưởng Quốc Phòng, tài sản gồm có 10 tấn vàng và tiền mặt 1 tỉ 360 triệu MK.
- Trương tấn Sang: Chủ tịch Ủy ban Kinh tế TƯ Đảng CSVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 124 triệu MK
Ngoài ra, còn một số cán bộ và công chức có 1 tỉ và trên 100 triệu MK trong danh sách liệt kê của bảng FYI này là hơn 20 người nữa.
Gần đây nhất, theo điện thư Câu lạc bộ dân chủ số 39 tháng 2/2005 trong mạng điểm Y kiến thì:
"Một nguồn tin tuyệt mật đã được tiết lộ mới đây từ một quan chức cao cấp Bộ Công an cho biết số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy sĩ. Đáng chú ý là:
Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh hơn 2 tỉ USD cộng 7 tấn vàng;
Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười 2 tỉ USD;
Đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm văn Trà 2 tỉ USD cộng 3 tấn vàng;
Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 500 triệu USD;
Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương 2 tỉ USD;
Đương kim Thủ tướng Phan văn Khải hơn 2 tỉ USD;
Đương kim Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn tấn Dũng hơn 1 tỉ USD;
Đương kim Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 1,3 tỉ USD;
Đương kim chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An hơn 1 tỉ USD;
Cựu phó ủy ban thể dục thể thao Quốc gia Lương quốc Đống 500 triệu USD;
Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn mạnh Cầm hơn 1 tỉ USD;
Cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại Mai văn Dậu hơn 1 tỉ USD.
Ngoài ra, nguồn tin cũng cho biết một danh sách dài các quan chức có số tiền gửi hàng trăm triệu USD…"
Tôi phải đưa ra 3 nguồn khác nhau để anh và các bạn trong nước thấy, báo chí trong nước nếu biết cũng không dám đăng vì toàn là "bí mật quốc gia", internet thì không phải ai cũng có để coi, lại bị tường lửa ngăn chặn hay bị theo dõi khi dùng máy điện toán công cộng.


______________________



Quan chức cao cấp gởi tiền ở ngoại quốc
Sunday, September 11, 2005
* CSVN ra luật chống rửa tiền nhưng ...
GENEVA 11-9 (NV) - Một số cán bộ được tin cậy của đám quan chức cao cấp của chế độ Hà Nội đã được giao cho nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị các tài sản khổng lồ của họ có được nhờ tham nhũng hối lộ gửi tại các ngân hàng ngoại quốc. Một nhân vật (yêu cầu dấu tên) từng giao tiếp với một số người này ở một số ngân hàng Thụy Sĩ tiết lộ như vậy trong một cuộc tiếp xúc với báo Người Việt mới đây.
"Chưa kể tại ngân hàng các nước khác ở Âu Châu và Á Châu, riêng tại Thụy Sĩ, tôi biết có hai người ở các ngân hàng thành phố Lausane và hai người ở thành phố Geneva, làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản do xếp của họ gửi." Nhân vật trên tiết lộ.
Lương bổng của đám quan chức cao cấp của đảng và nhà nước, theo sự mô tả của một viên chức ngoại giao Tây Phương thì "không đủ để họ sống 10 ngày", nhưng họ có tiền phải gửi, hay nói đúng hơn, giấu đút, ở các ngân hàng ngoại quốc là một điều hiển nhiên bất bình thường. Cho tới nay, lương căn bản của cán bộ đảng viên chỉ có 290,000 (tương đương khoảng $18 đô la) rồi nhân theo chỉ số cao thấp tùy chức vụ, cấp bậc. Nhưng có lần Vũ Khoan, phó thủ tướng CSVN, khi thăm một xí nghiệp quốc doanh đã so sánh và thấy một viên chức nhà nước chức vụ rất cao như ông còn kém lương của một người thợ chuyên môn. Ðiều này cho thấy lương bổng cán bộ công chức , dù là quan chức cao cấp, cũng không là bao nhiêu và không đủ sống.



Theo lời nhân vật trên tiết lộ, mỗi một số viên chức cao cấp của chế độ đều sử dụng một số thuộc cấp tín cẩn vào công việc chuyển ra ngoại quốc số tài sản khổng lồ mà họ vơ vét được qua các "phi vụ" tham nhũng hối lộ.
Số tiền họ gửi mỗi lần khoảng bao nhiêu, cách bao lâu gửi một lần, các cán bộ có trách nhiệm chuyển đô la và vàng dưới nhiều hình thức khác nhau đến các ngân hàng ngoại quốc, không tiết lộ. Nhưng nếu đó không phải là các số tiền lớn bạc triệu đô la thì người ta không cần đến người chuyên trách "chuyển khoản" cũng như quản trị xuất nhập các số tiền này, ông nói.
"Họ luôn luôn có trách nhiệm đi đi về về", ông tiết lộ tiếp. "Giữa không những Việt Nam và Châu Âu mà còn cả từ Việt Nam đến một số ngân hàng ở Á Châu cũng như cả Nga và Ðông Âu."
Tại sao đám quan chức lại đem tiền gửi cả tại nước Nga là nước có hệ thống ngân hàng thuộc loại bấp bênh nhất trên thế giới?









(H3, 4. Đời sống của giai cấp vô sản Việt Nam bên cạnh đời sống của Cộng sản)
"Họ gửi tiền cả ở ngân hàng Nga vì tin tưởng nguyên tắc khôn ngoan này: Không bao giờ bỏ tất cả các quả trứng vào chung một giỏ." Ông giải thích rằng nếu một quả trứng chẳng may bị vỡ, có thể những quả trứng khác vỡ theo. Ðây là sự khôn ngoan chung của đám quan chức cao cấp của chế độ khi họ rải số tiền kiếm chác được ra nhiều nơi trên thế giới. Theo ông, có rất nhiều người khác nhau làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản của "xếp" ở ngoại quốc. Nhưng cũng có những người là vợ, con, hay thân quyến của đám cán bộ đảng viên tham nhũng đóng vai trò giấu đút tiền tham nhũng hối lộ khi họ đi ra ngoại quốc.

(H5. Công nhân đình công )




(H6. Trẻ em Việt Nam dưới sự cướp bóc của Cộng Sản)
Tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn viết một bài có tính cách "mách bảo" cho cán bộ đảng viên tham nhũng trong nước cách thức gửi tiền ở hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ với tựa đề "Gửi tiền ở nhà băng Thụy Sĩ". Bài báo này được báo điện tử VNExpress lấy lại và phổ biến ngày Thứ Bảy 10-9-2005 mở đầu với câu hỏi "Có thể mở tài khoản ẩn danh - anonymous account - ở ngân hàng Thụy Sĩ không?" Bài báo này giải thích khá tỉ mỉ về thế nào là tài khoản ẩn danh dưới hình thức "tài khoản mang số nào đó thay vì mang tên khách hàng." Và "tài khoản số hạn chế sự hiểu biết về chủ nhân của nó..." Bài báo phục vụ loại độc giả nào, khách hàng ngân hàng nào ở trong nước, người ta có thể hình dung ra ngay khi mà lợi tức trung bình đầu người chỉ có khoảng $500 đô la một năm.



Ngày 8-6-2005, VN theo áp lực của Hoa Kỳ khi lôi kéo Hà Nội hợp tác đối phó với khủng bố, rửa tiền ma túy, buôn lậu trên thế giới, ra nghị định số 74/CP để chống rửa tiền. Nghị định này buộc "Các ngân hàng, các định chế tài chính phải báo cáo về các giao dịch trong một ngày của một cá nhân hay một tổ chức có tổng trị giá từ 200 triệu đồng (khoảng $12,400 đô la) trở lên." Theo sự tường thuật trên báo Tuổi Trẻ ngày 9-6-2005. Tờ báo này kể tiếp rằng: "Tuy nhiên, các qui định có tác động lớn nhất là các ngân hàng buộc phải báo cáo về những khách hàng có lượng tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng từ 500 triệu đồng (khoảng $31,000 đô la) trở lên tại một ngân hàng. Lượng tiền 500 triệu đồng là tổng các khoản tiền gửi của cá nhân đó chứ không phải là một lần gửi tiết kiệm có trị giá 500 triệu đồng."



Nhân vật trên kể cho hay, cách đây mấy năm, ông chánh văn phòng của Hội đồng Bộ Trưởng Chính phủ có lần đã thua bạc tại một casino ở Geneva "mấy trăm ngàn đô la trong một đêm". Ðiều này, số tiền tham nhũng hối lộ mà đám quan chức giấu đút ở ngoại quốc phải "vô cùng lớn."
Khóa họp Quốc hội hồi tháng Tư vừa qua, một dự thảo luật chống tham nhũng được bàn cãi nhưng rồi vẫn không có biểu quyết và được loan báo sẽ thảo luận trở lại vào khóa họp thứ hai của năm nay dự trù vào tháng 11 tới. Hàng năm, các khóa họp quốc hội Hà Nội đều có thảo luận chuyện chống tham nhũng và họ nhìn nhận tham nhũng đã trở thành "quốc nạn".
Nguyễn đình Lộc, đại biểu quốc hội và nguyên là Bộ trưởng Tư Pháp nói với báo chí trong nước rằng tham nhũng chỉ bị lộ diện khi "nội bộ tham nhũng" tố cáo lẫn nhau. Trong một cuộc điều trần trước quốc hội, Phan văn Khải, thủ tướng Hà Nội, nhìn nhận tham nhũng đã "xà xẻo" khoảng 30% các dự án xây dựng, phát triển. Phần lớn các dự án này được tài trợ từ các khoản tín dụng ngoại quốc. Các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết viện trợ, tài trợ cho các dự án phát triển, xóa đói giảm nghèo cho Việt Nam năm 2005 là $3.4 tỉ đô la. (NT)


Nhận đựợc danh sách này qua email, xin bạn kiểm chứng lại giùm, nhưng có nhận xét là nếu thực sự tài sản của chúng chỉ bằng 1/10 của những số liệu dưới đây thôi là cũng kinh khủng lắm rồi.
Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sản có tài sản vài trăm triệu Mỹ kim
Tên
Chức vụ
USD
Phan Văn Khải và con trai

trên 2 tỷ
Nguyễn Thị Xuân Mỹ
Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra TW Đảng
417 triệuUS
Thích Trí Tịnh
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, TW GHP
250 triệu
Lê Đức Anh
Cựu Chủ tịch nước
2 tỷ 215 triệu
Trần Đức Lương
Chủ tịch nước
2 tỷ 100 triệu
Đỗ Mười
Cựu Tổng Bí thư Đảng
1 tỷ 900 triệu
Nguyễn Tiến Dũng
Đệ nhất Phó thủ tướng
1 tỷ 780 triệu
Nguyễn Văn An
Chủ tịch Quốc hội
1 tỷ 700 triệu
Lê Khả Phiêu
Cựu Tổng Bí thư Đảng
1 tỷ 430 triệu
Nguyễn Mạnh Cầm
Phó Thủ tướng
1 tỷ 350 triệu
Võ Văn Kiệt
Cựu Tổng Bí thư Đảng
1 tỷ 150 triệu
Nông Đức Mạnh
Cựu Chủ tịch Quốc Hội
1 tỷ 143 triệu
Phạm Thế Duyệt
Uỷ viên Thường vụ Thường trực TW Đảng
1 tỷ 773 triệu
Trần Ngọc Liễng
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
900 triệu
Hoàng Xuân Sính
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
784 triệu
Lý Ngọc Minh
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
750 triệu
Nguyễn Đình Ngộ
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
656 triệu
Võ Thị Thắng
Phó Chủ tịch Trung ương HLHPN
654 triệu
Ma Ha Thông
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
590 triệu
Nguyễn Đức Triều
Chủ tịch TW Hội Nông dân VN
590 triệu
Trần Văn Quang
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh VN
587 triệu
Nguyễn Đức Bình
Giám đốc Viện Quốc Gia Saigon
540 triệu
Vương Đình Ái
Phó Chủ tịch Uỷ ban ĐKCĐVN
512 triệu
Hoàng Thái
Thường trực Đoàn Chủ tịch
500 triệu
Nguyễn Thị Nữ
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
500 triệu
Nguyễn Tiến Võ
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
469 triệu
Nguyễn Văn Huyền
Nhân sĩ thành phố HCM
469 triệu
Nguyễn Xuân Oánh
Kinh tế Thành phố HCM
469 triệu
Phạm Thị Trân Châu
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
469 triệu
Thích Thiện Duyên
Giáo hội Phật giáo QN ĐN
469 triệu
YA Đúc
uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
469 triệu
Hà Học Trạc
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
400 triệu
Hoàng Quang Đạo
Mặt trận Tổ quốc tỉnh
390 triệu
Lê Hai
Tổng cục chính trị QĐNDVN
390 triệu
Lê Truyền
Uỷ viên Ban Thường trực
390 triệu
Lý Quý Dương
Dân Tộc Dao tỉnh Hà Giang
390 triệu
Phạm văn Kiết
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
390 triệu
Vương Đình Bích
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
390 triệu
Trần Đông Phong
Thường trực Mặt trận Tổ quốc
387 triệu
Trần Văn Đăng
Uỷ viên TƯ Đảng,Tổng Thư ký
364 triệu
Hoàng Đình Cầu
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
300 triệu
Lý Chánh Trung
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
300 triệu
Ngô Bá Thành
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
300 triệu
Trương Thị Mai
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam
300 triệu
Hồ Đức Việt
Bí thư thứ nhất TW Đoàn TNCS
287 triệu
Lâm Công Định
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
287 triệu
Ngô Gia Hy
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
287 triệu
Trần Văn Chương
Chủ tịch Hội người Viẹt Nam
287 triệu
Trương Văn Thọ
Bác sỹ, dân tộc Chăm
287 triệu
Đỗ Duy Thường
Vụ Trưởng vụ Dân chủ pháp luật
280 triệu
Đỗ Tấn Sỹ
Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp
280 triệu
Lê Văn Triết
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
280 triệu
Lương Tấn Thành
Giáo Sư Bệnh viện Bạch Mai
280 triệu
Nguyễn Phúc Tuần
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
280 triệu
Phạm Thị Sơn
Mặt trận Tổ quốc
280 triệu
Lê Bạch Lan
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
269 triệu
Nguyễn Văn Vi
Uỷ viên UBMTTW
269 triệu
Trần Thoại Duy Bảo
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
269 triệu
Vũ Oanh
Lão thành cách mạng
269 triệu
Nguyễn Thị Nguyệt
Cao đài Ban Chỉnh tỉnh Bến Tre
264 triệu
Bùi Thái Kỷ
Mặt trận Tổ quốc tỉnh
257 triệu
Hoàng Hồng
Mặt trận Tổ quốc
257 triệu
Lưu Văn Đạt
Tổng Thư ký Hội Luật gia Việt Nam
257 triệu
Nguyễn Công Danh
T P. Hồ Chí Minh
257 triệu
Nguyễn Túc
Uỷ viên Ban Thường trực
257 triệu
Nguyễn Văn Bích
Uỷ Ban Kế hoạch Nhà Nước
257 triệu
Hoàng Việt Dũng
Giám đốc Công ty TNHH
256 triệu
Phan Quang
Hội nhà báo Việt Nam , Uỷ viên UBMT
256 triệu
Vưu Khải Thành
Tổng công ty hữu hạn BITIS
256 triệu
Cao Xuân Phổ
Viện Đông Nam á
254 triệu
Chu Văn Chuẩn
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
254 triệu
Đăng Thị Lợi
Chủ tịch Hội Thân nhân Việt kiều
254 triệu
Hoàng Văn Thượng
Đại tá, Anh hùng quân đội
254 triệu
Lê Quang Đạo
Trung ương Mặt trận Tổ quốc N
254 triệu
Lợi Hồng Sơn
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
254 triệu
Lý Chánh Trung
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
254 triệu
Ngô Ngọc Bỉnh
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
254 triệu
Nguyễn Kha
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
254 triệu
Nguyễn Văn Hạnh
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
254 triệu
Nguyễn Văn Vĩnh
Mặt trận Tổ quốc
254 triệu
Đinh Thuyên
Chủ tịch hội người mù Việt Nam
250 triệu
Đoàn Thị Ánh Tuyết
Thượng tá, Anh hùng quân đội
250 triệu
Lê Thành
Phó Chủ tịch Thường trực
250 triệu
Mùa A Sấu
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
250 triệu
Trần Kim Thạch
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
250 triệu
Lê Ngọc Quán
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Vĩnh Phú
249 triệu
Nguyễn Quang Tạo
Chủ tịch liên hiệp các hội hoà bình
249 triệu
Nguyễn Văn Thạnh
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
249 triệu
Thào A Tráng
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
249 triệu
Trần Khắc Minh
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
229 triệu
Lê Minh Hiền
Thường trực Mặt trận Tổ quốc
215 triệu
Hà Thị Liên
Thường trực Mặt trận Tổ quốc
214 triệu
Ama Bhiăng
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Âuu Quang Cảnh
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Bế Viết Đẳng
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Đàm Trung Đồn
Đại học Tổng hợp Hà Nội
200 triệu
Đặng Đình Tứ
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Đặng Ngọc Bân
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Đinh Công Đoàn
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Đinh Gia Khánh
Viện Văn học dân gian
200 triệu
Hà Phú An
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Hoàng Đức Hỷ
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Lâm Bá Châu
Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp
200 triệu
Lê Văn Tiếu
Việt kiều tại CHLB Đức
200 triệu
Lương Văn Hận
Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Nguyễn Văn Tư
Chủ tịch Hội Công Thương
200 triệu
Phùng Thị Hải
Giám đốc Công ty TNHH Thuỷ Sản
200 triệu
Rơ Ô Cheo
Dân tộc Gia Lai tỉnh Gia Lai
200 triệu
Sầm Nga Di
Dân tộc Thái, tỉnh Nghệ An
200 triệu
Thích Đức Phương
Thừa Thiên Huế
200 triệu
Thích nữ Ngoạt Liên
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Trần Hậu
Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Triệu Thuỷ Tiên
Dân tộc Nùng
200 triệu
Trương Nghiệp Vũ
Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Trương Quốc Mạo
Chủ tịch Hội nông dân
200 triệu
Ung Ngọc Ky
Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Vũ Đình Bách
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
200 triệu
Mong Văn Nghệ
Dân tộc Khơ mú tỉnh Nghệ An
197 triệu
Đinh Xông
Dân tộc Hrê tỉnh Quãng Ngãi
190 triệu
Lê Công Tâm
Phó Chủ tịch Thường trực
190 triệu
Mấu Thị Bích Phanh
Dân tộc Raklây tỉnh Ninh Thuận
190 triệu
Nguyễn Ngọc Minh
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc tỉnh Huế
190 triệu
Phan Hữu Phục
Cao đài Tiên thiên
190 triệu
Trần Thế Tục
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
190 triệu
Hoàng Mạnh Bảo
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
187 triệu
Nguyễn Thị Ngọc Trâm
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
187 triệu
Phạm Hồng Sơn
Mặt trận Tổ quốc
187 triệu
Phan Hữu Lập
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
187 triệu
Thái Văn Năm
Phật giáo Hoà hảo
187 triệu
Trần Văn Tấn
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
187 triệu
Vi Văn ỏm
Dân tộc Xi mun tỉnh Sơn La,
187 triệu
Bùi Thị Lập
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
184 triệu
Kpa Đài
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
184 triệu
Lê Văn Hữu
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Yên
184 triệu
Nông Quốc Chấn
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
184 triệu
Phạm Khiêm Ich
Viên Thông tin KHXH
184 triệu
Phạm Thanh Ba
Mặt trận Tổ quốc
184 triệu
Từ Tân Vũ
Mặt trận Tổ quốc
184 triệu
Viễn Phương
Nhà thơ Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
184 triệu
Nguyễn Ngọc Thạch
Tổng Biên Tập Báo Đại Đoàn kết
180 triệu
Trương Hán Minh
Người Hoa TP. Hồ Chí MInh
180 triệu
Bùi Xướng
Mặt trận Tổ quốc
157 triệu
Trần Đình Phùng
Chủ tịch Uỷ ban Mặt
157 triệu
Hồ Ngọc Nhuận
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
156 triệu
Phan Huy Lê
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
156 triệu
Nguyễn Thống
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
154 triệu
Trần Minh Sơn
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
154 triệu
Vũ Duy Thái
Giám đốc xí nghiệp trách nhiệm hữu hạn
154 triệu
Chu Phạm Ngọc Sơn
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Đỗ Hoàng Thiệu
Đà Nẵng Ngân Hàng tỉnh QN ĐN
150 triệu
Dương Nhơn
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Huỳnh Cương
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Mai Thế Nguyên
Kiến trúc sư trưởng tại Na Uy
150 triệu
Ngô Minh Thưởng
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Nguyễn Ngọc Sương
Đại học Tổng hợp Thành phố
150 triệu
Nguyễn Văn Diệu
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Phạm Ngọc Hùng
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Thượng thơ Thanh
HT Cao đài Toà Thánh Tây Ninh
150 triệu
Trần Đức Tăng
Phối sư Hội thánh Cđ Minh Chơn đạo
150 triệu
Trần Phước Đường
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
150 triệu
Lê Đắc Thuận
Giám đốc điều hành Cty VANOCO
107 triệu
Nguyễn Đức Thành
Chủ tịch Ban điều hành CLB
107 triệu
Trần Mạnh Sang
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
107 triệu
Amí Luộc
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Bùi Thị Lạng
Thành phố Hồ Chí Minh.
100 triệu
Danh Nhưỡng
Dân tộc Khơ me
100 triệu
Đào Văn Tý
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Đồng Văn Chè
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Hà Den
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Hồ Phi Phục
Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Hoàng Kim Phúc
Tổng Hội trưởng Hội Thánh tin lành
100 triệu
Kim Cương Tử
UBTW MTTQV
100 triệu
Lê Ca Vinh
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Lý Lý Phà
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Nguyễn Hữu Hạnh
Nhân sỹ Thành phố
100 triệu
Nguyễn Lân
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
100 triệu
Nguyễn Lân Dũng
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
100 triệu
Nguyễn Minh Biện
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Nguyễn Phước Đại
Luật sư TP. Hồ Chí Minh
100 triệu
Nguyễn Tấn Đạt
Phật giáo Hoà hảo tỉnh An Giang
100 triệu
Nguyễn Thành Vĩnh
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Nguyễn Thị Liên
Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Nguyễn Thiên Tích
Chủ tịch hội y học cổ truyền VN
100 triệu
Nông Thái Nghiệp
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Phùng Thị Nhạn
Nghệ sỹ nhân dân Thành phố HCM
100 triệu
Sùng Đại Dùng
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Trương Quang Đạt
Dân tộc Sán Dìu tỉnh Vĩnh Phú
100 triệu
Tương Lai
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
100 triệu
Vũ Mạnh Kha
Mặt trận Tổ quốc Hà Nội
100 triệu
Hà Thái Bình
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
56 triệu
Nguyễn Văn Đệ
Thượng tá, kỹ sư thuộc Bộ Quốc Phòng
56 triệu
Trần Bá Hoành
Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc
56 triệu
Võ Đình Cường
Uỷ viên UBTQ Mặt trận Tổ quốc
56 triệu
Cù Huy Cận
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật VN
50 triệu
Lê Khắc Bình
Chủ tịch, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
50 triệu
Huỳnh Thanh Phương
ủy Quân sự thành phố Cần Thơ
32 triệu
Hồ Xuân Long
Dân tộc Vân kiều, Quãng Trị
15 triệu


Xin nghe bản Giọt nước mắt cho quê hương qua giọng hát Khánh Ly


THANH THANH * THƠ



















MẮT ANH




Em xem giùm mắt anh
Có cái gì là lạ
Vừa xanh như trăng thanh
Vừa hồng như lửa hạ
Vừa vàng như nắng hanh

Em xem giùm mắt anh
Có cái gì lấp lóa
Nhưng không là vảy cá
Cũng không là thong-manh

Em xem giùm mắt anh
Có cái gì kỳ dị
Không phải là cận thị
Không phải là viễn thị
Không phải là loạn thị
Giác-mạc vẫn trong lành
Mắt vẫn sáng long lanh

Thật ra, anh biết rành
Không cần tìm loanh quanh
Vì nó là tâm bệnh:
Hình em trong mắt anh!

Thật ra, anh không đau
Không cần tìm bệnh lý
Anh cần em chú ý
Cốt để được gần nhau

Em là một nụ cười
Em là đóa hồng tươi
Cho lòng anh thắm mãi
Cho anh tin yêu đời

THANH-THANH
*

Thursday, January 29, 2009

GIA HỘI * CHÍNH SÁCH CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA HỘI


Ngày nay, cộng sản Việt Nam thực hiện nhiều chính sách. Sau dây là những điểm chính:

1. Cướp tài sản nhân dân, tham nhũng.
Cộng sản cướp tài sản, tham nhũng và bao che tham nhũng, phá hoại đất nước công khai như vụ cướp Việt Nam quốc tự, tòa Khâm sứ Thái Hà, bán đất của của nhân dân, tham nhũng trong vụ cầu Cần Thơ,vụ án PMU 18, miễn tố thứ trưởng Giao thông Vận tải, khởi tố ngược lại một tướng một tá công an cùng hai nhà báo. Lê Đức Anh bị tố là tham nhũng trước Đại hội Đảng 10 là thế, nay cũng bị cho chìm xuồng, và được Nguyễn Minh Triết trao huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
Chúng ra sức bóc lột dân chúng khiến cho dân chúng khốn khổ, còn chúng thì lâu đài ngang dọc, vua chúa và thực dân cũng còn thua xa.



(H1. Biệt thự bí thư tỉnh ủy Vũng Tàu)



(H.2. Dân bị cướp đất biểu tình)

(H3. Dân chúng biểu tình đòi nhà đất)
2. Khủng bố nhân dân.

Chúng cấm tự do tôn giáo, đàn áp Phật giáo Việt Nam thống nhất, khủng bố các nhà tranh đấu dân chủ, bỏ tù nhân dân. Chúng cúi đầu làm nô lệ Trung Quốc, bán nước cầu vinh.





=


(H4. trên và dưới: tên trung tá ác ôn Lê Quý Luận chỉ huy bọn công an đàn áp các ông đồ viết câu đối trong tết kỷ sửu 2009 tại Văn Miếu, Hà Nội)


(H5. công an bịt miệng LM. Nguyễn Văn Lý trước tòa án CS)
3.Mê tâm
Chúng phản quốc, bán nước, hại dân, độc tài, tàn ác. Chúng sợ dân chúng vùng lên đạp tan chế độ cộng sản. Một mặt chúng khủng bố, đàn áp, một mặt chúng thi hành chính sách mê tâm để dân chúng ham vui chơi, theo đuổi nhục dục, mê cái này,cái nọ mà quên ý chí đấu tranh






(H6.Chợ hoa Nguyễn Huệ, Saigon 2009)

(H7. mừng tết kỷ sửu 2009 tại Hà Nội)

Chúng bán xì ke, m atúy, thuốc lắc khắp nơi để đầu độc nhân dân và cũng để kinh doanh. Sách báo bây giờ thiên về tình dục, các cơ sở giải khát, giải trí, khách sạn, nhà hàng đầy rẫy nạn cà phê ôm, karaoké ôm, tắm ôm, bia ôm. . .
Mấy năm gần đây đặc biệt là năm nay, chúng trang trí thành phố với hoa hòe, tranh ảnh, nhảy múa để dân chúng quên nhục vong quốc và cảnh đói nghèo của tuyệt đại đa số nhân dân.


Quả thật:
" Già Hồ to mồm xưng xe ái quốc, bản chất phản quốc,
Đảng Cộng lớn tiếng khoác lác vị dân, thực tế hại dân"


Tóm lại, cộng sản bán nước, hại dân. Chúng ta phải diệt trừ cộng sản để cứu quốc và kiến quốc.

Xin nghe bản Mẹ Việt Nam





Gia Hội