Kính gởi
Tôi muốn gởi đến diễn đàn một cuốn sách khảo
cứu nhỏ (chưa được ấn hành) :TT Ngô Đình Diệm, Quốc sách cư
dân để làm tài liệu lưu trữ.
Trân trọng
Tác giả: Lạp Chúc Nguyễn Huy
2415 Place Lafortune O
St Laurent, H4M 1A7
Quebec, Canada
Tel. (438) 386 0638
TT Ngô Đình Diệm
Quốc sách cư dân
Lạp Chúc Nguyễn
Huy
Cựu
giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn
Tác phẩm của Lạp
Chúc Nguyễn Huy
Sách sắp in
Văn Hóa Cao Đài
Thiên Nhơn
Hiệp Nhứt
Hệ phái Cao Đài
Sách đã
in
2016 Âm
Dương Ẩm Thực, TT Seatle xuất bản
2015 Thiên Thư Tòa Thánh , Viện Nghiên Cứu Đạo
Cao Đài USA xuất bản
2005 Le Caodaïsme, Théorie des Trois Trésors et
des Cinq Fluides, Chân Tâm Publisher, California.
1995
Triết Lý Đạo Cao Đài, Minh Thiện xuất bản, Canada.
1994 Văn Hóa Việt, Nắng Mới xuất bản, Canada.
1992
Religion et adaptation: les réfugiés vietnamiens au Canada, Université
Laval, Canada. *
1990 Fleur de lotus et feuille d’érable, La vie
religieuse des Vietnamiens du Québec, Univertsité Laval, mars 1990*
1988 Exile in a cold land, a vietnamese community
in Canada, Yale Center, U.S.A. *
1984 Les Vietnamiens du Québec:
profil sociolinguistique, Centre international de recherche sur le bilinguisme,
B.136, Québec *.
1972 Hịên tình kinh tế Vịêt Nam, 2 tập, Lửa
Thiêng xuất bản, Saigon.
Bài khảo cứu
2008 Des poids et des mesures
dans les campagnes du Vietnam, École française d’Extrême-Orient, (Institut de
Recherche sur le Sud-Est Asiatique, T.2, Paris*
1998 Le Thờ Mẫu, un chamanisme vietnamien?,
Anthropologie et Société, Université Laval, Québec *
1993 De quelques usages du sel dans la culture
vietnamienne, Collection Grand Sud No 4, Prince of Songkhla
University,
Thaïland
1990 Le caodaïsme, Fleur de lotus et feuille
d’érable, La vie religieuse des Vietnamiens du Québec, Univertsité Laval, mars
1990*
1987 Les Vietnamiens à
Québec et leurs problèmes d'intégration, Centre international de recherche sur
le bilinguisme,
publication
B-164, Canada *.
1985
The survival of the vietnamese language in Quebec, The Vietnam forum
No.6, U.S.A. *
1974 Les marais salants de
la province de Bạc Liêu, Société des Études indochinoises, T.XLIX.
1968 Les formations
latéritiques à Bình Dương, Société des Études indochinoises, T.XLIII.
1962 Une agglomération de
sampans habités à Saigon, C.O.M., T.XV, Bordeaux. *
* Đồng tác giả
Mục lục
Dẫn nhập
Phần 1. Cư dân dưới triều đình nhà
Nguyễn
1. Dưới triều nhà Nguyễn
Giai đoạn lịch sử mở
mang bờ cõi
Mốc di dân đầu tiên
Hướng bành trướng di
dân
Doanh điền có tính
cách tư nhân
Đồn điền
Khó khăn của khẩn
hoang
2. Kênh đào
Kênh đào thời nhà
Nguyễn
Kênh đào thời Pháp
Phần 2. Quốc sách cư dân và doanh
điền dưới thời TT Ngô Đình Diệm
3. Chính sách định cư 887 917 dân tỵ nạn
A. Khu định cư Cái
Sắn
B. Khu định cư Xóm
Mới
4. Quốc sách dinh điền
A. Dinh điền Cái Sắn
1
B. Dinh điền Tư Hiền
5. Khu trù mật
A. Khu trù mật Vị
Thanh
B. Vùng
trù mật Ba Thê
C. Ấp
trù mật
D. Ấp
chiến lược
6. Thiên nhiên và quốc sách
Nhà và
nông địa
Phù sa
cổ miền Đông
Vùng
trũng đất phèn
Vùng
đất hữu cơ
Vùng
nước ngọt (Miệt vườn)
Phù sa nước lỡ và
mặn
Kết luận
Dẫn nhập
Dưới thời vua Minh
Mạng, quan Thoại Ngọc Hầu cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên. Để tri
ân, dân dựng bia Vĩnh Tế Sơn ở núi Sam, ghi lại lời quan Thoại Ngọc Hầu: «…vỗ
về dân sự, mở mang thôn lạc, khai khẩn ruộng vườn; ngắm dòng nước biếc bên bờ
cao, ruộng vườn bao quanh chân núi, hơi lam tuôn cuốn lẫn với khói cơm, chùa
chiền trên chót hương tỏa mây lồng, thật không kém gì phong cảnh trung
châu vậy». Cũng trên vùng đất trũng phèn chua, nước mặn này, TT Ngô Đình Diệm đã
cho thực thi quốc sách cư dân nối tiếp công trình mở mang bờ cõi của tiền nhân.
Ngày xưa thì nhân dân đúc bia đá nhớ ơn, nhân dân ngày nay như chúng tôi thì
viết lại trên giấy một trang sử quốc sách cư dân để tưởng nhớ đến TT Ngô Đình
Diệm. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chính vị nguyên thủ quốc gia trực tiếp
chỉ thị, theo dõi và điều khiển quốc sách cư dân, mở mang kinh tế tiếp nối dòng
lịch sử nam tiến xuống đồng bằng Cửu Long.
Cuốn sách gồm hai
phần.
Phần 1 đề cập đến
công trình mở mang bờ cõi bằng chính trị, quân sự và kinh tế dưới triều nhà
Nguyễn. Trong phần này, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến :
- đường lối cư
dân, mở mang nông địa bằng khuyến khích quyền tư hữu đất đai cuả tư nhân nghèo,
vô sản,
-chính sách đồn
điền bán quân sự giúp người có tiền bạc chiếm hữu nông địa để trở thành điền
chủ.
Dưới thời Pháp,
làn sóng di dân chạy theo kênh đào dẫn nước ngọt, ồ ạt kéo xuống vùng đất thấp
nước mặn, phèn chua bỏ hoang dưới thời nhà Nguyễn.
Trọng tâm của phần
2 chú trọng đến công trình mở mang nông địa của nhà Nguyễn được tiếp nối bởi chính
sách cư dân có hoạch định dưới thời TT Diệm. Đó là chính sách định cư dân tỵ
nạn miền Bắc, quốc sách dinh điền và khu trù mật của Đệ Nhất Cộng Hòa. Mục tiêu
chính của quốc sách là tiếp tục cư dân, khẩn hoang các vùng đất thấp phèn chua
nước mặn mà nhà Nguyễn chưa hoàn tất vì diện tích lãnh thổ tăng quá nhanh so
với dân số.
Cuối phần 2, chúng
tôi trình bày sơ lược những điều kiện thiên nhiên khắt khe như vùng trũng đất
phèn, đất hữu cơ, nước mặn miền duyên hải mà thôn dân chiếm hữu như thế nào.
Nêu nên vài thí dụ khắc phục đất đai của thôn dân ngày xưa nhằm giúp chúng ta
hiểu những khó khăn của sự định cư khẩn hoang dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Sau năm 1963, cư
dân tạm bợ dưới hình thức làng tỵ nạn, làng Việt Kiều hồi hương từ Miên quốc,
làng Chiêu Hồi định cư các cán binh cộng sản hồi chánh, làng Thương Phế Binh dành
cho chiến sĩ quốc gia ghi lại nỗi đau khổ của cuộc nội chiến tương tàn giữa
người Việt.
Về tài liệu nghiên cứu, chúng tôi dùng hai
nguồn tài liệu chính sau.
1) Tài liệu chính
thức của các cơ quan chính quyền: Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn, bộ Nội Vụ, bộ Canh
Nông Cải Cách Điền Địa, cơ sở hành chánh địa phương…
2) Tài liệu được
chính chúng tôi sưu tầm trong thời gian 1968-1975 và do nghiên cứu trực tiếp tại
chỗ cùng với một số bạn bè và sinh viên trường đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Phần I
Cư dân dưới
triều đình
nhà
Nguyễn
1
Dưới triều nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn đã dựng
cơ đồ bằng sức mạnh quân sự, thành lũy kiên cố bảo vệ di dân, mở mang nông địa
và hoàn tất định ranh giới hiện nay của đồng bằng Cửu Long.
Sau khi dân Việt
xuống đến đồng bằng Cửu Long đất hoang rừng rậm, sình lày, nước đọng mênh mông,
triều đình áp dụng hai biện pháp chính
là :
- khuyến khích chế
độ tư điền vì cấy được lúa, dựng được nhà là điều kiện căn bản bảo tồn định cư theo
truyền thống «ruộng là da, nhà là xương». Lưu dân tới đâu là tìm đất khẩn canh,
dựng nhà, lập thôn xã tới đó. Xã ấp nương theo các dinh, đạo, bảo có quân lính
đóng giữ là mốc bảo vệ bành trướng cư dân.
- áp dụng chính
sách đồn điền bán quân sự hóa để cư dân lập ấp, mở mang nông nghiệp làm nền
tảng kinh tế xã hội.
Giai đoạn lịch sử mở mang bờ
cõi
Nhà Nguyễn đã áp
dụng biện pháp ngoại giao, chính trị lẫn quân sự để mở mang bờ cõi vào miền
nam.
Năm 1620, chúa
Nguyễn gả một công nữ cho vua Chân Lạp Chetta II và được phép cho người Việt
đến lập nghiệp ở Prey Kôr (Sài Gòn).
Năm 1698, chúa sai
thống xuất Nguyễn Hữu Kinh vào kinh lược, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai
đặt huyện Phước Long lập dinh Trấn Biên (nay là Biên Hòa), lấy Sài Gòn làm
huyện Tân Bình lập dinh Phiên Trấn (Gia Định).
Năm 1679, chúa
Thái Tôn sai Xá Sai Vân Trình cầu vua Chân Lạp cấp đất đai cho các bại tướng
nhà Minh. Tướng sĩ Long Môn của Dương
Ngạn Dịch đến định cư ở Mỹ Tho, binh sĩ của Trần Thượng Xuyên
vào cửa Cần Giờ đến định cư tại Bàn Lân (Biên Hòa).
Mỗi lần gởi quân
sang giúp vua Chân Lạp đánh quân Xiêm xâm lăng hoặc can thiệp vào nội chính
xung đột dành ngôi trong triều đình cao miên, chúa Nguyễn đều đòi trả công bằng
sát nhập thêm đất đai Cửu Long.
Từ năm mậu ngọ
(1738) đến năm đinh sửu, vua Chân Lạp đền ơn bằng dâng đất. Vua Nặc Nguyên dâng
Tầm Đôn (Tân An) và Xuy Lạp (Gò Công). Vua Nặc Nhuận hiến Trà Vang (Trà Vinh,
Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu) để xin được phong vương. Vua Nặc Tôn
được Võ Vương đưa về nước đã dâng vùng Tầm Phong Long. Để tạ ơn, vua Nặc Tôn
dâng Tầm Phong Long (Châu Đốc, Sa Đéc), Hương Úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt,
Linh Quỳnh (Kiên Giang, Long Xuyên).
Trong vòng một thế
kỷ (1658-1759) cả vùng Thủy Chân Lạp từ Biên Hòa đến Cà Mau đã thuộc về lãnh thổ
Việt Nam. Theo kế «tàm thực», dân chúng từ Bố Chính trở vô được khuyến khích di
dân vào Gia Định khai khẩn ruộng đất, xây dựng xã thôn, phường ấp để lập nên
lục tỉnh.
Mốc di dân đầu tiên
Biên Hòa, Mỹ Tho,
Hà Tiên và Bạc Liêu là những điểm mốc định cư đầu tiên rất quan trọng cho cuộc
di dân việt.
Năm kỷ mùi (1673),
3000 binh sĩ với 50 chiến thuyền của các bại tướng nhà Minh được chúa Nguyễn
cho vào định cư ở vùng Tiền Giang chưa được kinh lý.
Binh sĩ của Trần
Thượng Xuyên vào cửa biển Cần Giờ, lên đồn trú ở Bàn Lăng xứ Đồng Nai, khai phá
đất hoang, lập chợ phố thương mại, giao thương với người Tàu, Nhật, Tây Dương,
Đồ Bà… thuyền buôn tụ đông đảo, phong hóa từ đấy lan ra khắp vùng Giản Phố.
Binh sĩ Long Môn
của Dương Ngạn
Địch vào cửa Tiểu, cửa Đại nương theo thủy triều lớn, vượt qua địa thế sình
lày, nước mặn, nước lợ rồi đến vùng nước ngọt ở Mỹ Tho và định cư ở vùng Ba
Giồng rất thuận lợi làm canh nông. Tiếp theo,
tướng Văn Trinh dẫn binh sĩ của Long Môn đến đóng dinh trại ở địa phương Mỹ Tho
rồi dựng nhà cửa, tụ tập người kinh, người thượng kết thành chòm xóm. Tại sao chọn Mỹ Tho làm nơi định cư? Với
người Hoa, phong thủy (long mạch, tứ linh, minh đường thủy tụ…) là lý do chính
yếu lựa chọn nơi định cư. Địa thế Mỹ Tho nhìn ra Tiền Giang được Trịnh Hoài Đức
mô tả như sau :« Cù lao Qui Sơn khuất khúc uốn lưng như hình con rồng…đứng giữa
cảnh phong ba, rộng lớn mà cây cối tươi tốt, đất phì nhiêu… cù lao Long Ẩn thì
quanh co u ảo, có vực sâu, ở giữa có một cồn, hình dạng có gáy có đuôi, ở giữa
sông lớn, chẳng khác con giao long giỡn nước, dấu kín đầu sừng. Hơn nữa là cồn
hẹp cây thấp, lại giống con giao long ẩn». Ngoảnh lại phía sau gặp từng thế đất cao dài của
vùng Ba Giồng trông như long mạch thích hợp cho định cư.
Cũng trong thời kỳ
này, người Hoa đến quy tụ tại Hà tiên với Mạc Cửu để giao thương với ghe thuyền
qua lại trong vịnh Thái Lan. Một số nông dân và thương gia Hoa Kiều quy tụ ở Bạc Liêu, Sóc
trăng làm nghề rãy và thương mại.
Hướng bành trướng di dân
Từ năm 1698, mỗi
lần sát nhập thêm một vùng đất mới, triều đình cho xây thành đắp lũy, cử quan
binh vào cai trị, chia cắt đất đai thành phủ huyện, chiêu dụ dân chúng từ miền
Trung vào cư dân lập nghiệp. Vì lưu dân việt lấy nghề trồng lúa làm chánh, nên
vùng phù sa nước ngọt tưới bón, thoát thủy dễ dàng của trung tâm đồng bằng đã
định hướng tự nhiên cho làn sóng di dân lập ấp, trồng lúa. Công cuộc di dân
việt nối liền dần các mốc định cư hoa kiều đầu tiên, men theo phù sa nước ngọt
sông Cửu, tựa vào các cứ điểm quân sự như:
- thành trì lớn
như thành Sài Gòn, thành Vĩnh Long, thành Châu Đốc án ngữ vị trí chiến lược và
giao thông
- thành trì nhỏ
của các đạo trấn giữ hai bên sông Cửu như Tân Châu (cù lao Giêng), Đông Khẩu
(Sa Đéc),
-đồn binh nhỏ trấn
giữ các vàm rạch lớn với binh thuyền kiểm soát giao thông, giữ gìn an ninh.
Doanh điền có tính cách tư
nhân
Dưới thời quân chủ, trên lý thuyết, tất cả ruộng đất là thuộc quyền sở
hữu của vua. Trong thực tế hành sử quyền hành đó nhằm giảm bớt diện tích đất tư
hữu và tăng diện tích đất công (công điền, công thổ). Cuối thế kỷ XIV, luật
pháp nhà Hồ cấm mỗi người dân sở hữu trên 10 mẫu ruộng (trừ hoàng tử, công
chúa)
và luật Hồng Đức cấm lập trang trại.
Trước cảnh đồng bằng Cửu Long bát ngát, đầy rừng rậm hoang vu, sình lày
nước đọng, triều đình nhà Nguyễn đã khuyến khích doanh điền của tư nhân bằng
những biện pháp thích hợp sau :
-
nếu
đất khẩn hoang rộng trên 15 mẫu, thôn dân được tha thuế, miễn dịch, ban chánh
cửu phẩm, bá hộ…tùy theo mỗi địa phương.
-
Tiền
thuế tư điền nhẹ hơn công điền;
-
được
mộ tá điền, nông nô từ các thành phần nghèo đói…
Đến năm 1836, quan kinh lược Trương Minh Giảng cho đo được 630 075 mẫu ở lục
tỉnh.
Trước khi người Pháp đến, các lưu dân hướng về miền nước ngọt sông Cửu.
Các vùng trũng đất phèn (Đồng Tháp), đất nước mặn gần duyên hải, rừng sát đất
hữu cơ miền Cà Mau coi như bỏ hoang.
Từ thế kỷ XVI, áp lực nhân khẩu, loạn lạc đã thúc đẩy một số nông dân
hoa kiều nhất là nông dân Tiều đến định cư tại Bạc Liêu, Ba Xuyên, Cà Mau. Địa điểm
cư dân tiều là:
-giồng đất cao làm rãy (rau cải xanh, dưa, củ cải làm sái pấu…), trồng
cây trái nhất là nhãn;
-đầu vàm sông rạch làm chài lưới (đẩy sịp, đặt đăng nò, dăng lưới);
-ven rừng chồi, làm ruộng muối.
Trước nhất nhà Nguyễn bỏ lệ cũ (giảm tư điền, cấm lập
trang trại lớn) và đặt lệ mới cho tư nhân phát triển quyền tư hữu đất đai với
nhiều tự do và dễ dãi.
Mỗi người dân được
tùy nghi chọn đất cao hay ẩm thấp để ở hay cày cấy và chỉ việc đến quan địa
phương khai báo là trở thành sở hữu chủ chính thức của mảnh đất đó. Ngay cả
việc đóng thuế cũng dễ dãi, người dân được chọn hộc lớn hay hộc nhỏ…
Theo lệ, muốn lập
ấp, xin khai khẩn đất hoang, phải có đủ 10 người dân cam kết nạp thuế, hưởng
nhiều tự do, ít bị câu thúc. Trịnh Hoài Đức viết : « Pháp chế còn khoan
dung, giản dị. Có đất ở hạt Phiên Trấn mà Kiến Trung (sở thuế) làm đất ở hạt
Trấn Biên… cũng tùy theo dân nguyện không có ràng buộc chi cả, cốt yếu khiến
dân mở đất khẩn hoang cho thành điền, lập làm thôn xã mà thôi…đến như rào mẫu
khoảnh sở tùy theo miệng khai rồi biên vào bộ chứ không hạ thước đo khám».
Triều đình còn
khuyến khích các người giàu có, quan chức bỏ tiền ra mộ dân khẩn hoang, lập
điền ở miền Nam. Giới này được hưởng nhiều ân huệ như được quyền tuyển nông
dân, tá điền trong đám dân lậu thuế, tù binh, dân thiểu số.
Ngoài ra các chủ điền này còn được miễn thuế, ban thưởng quan chức, thí dụ ai
mộ dân lập ấp được 30 người thì miễn xâu thuế trọn đời, 100 người thì được ban
chánh bát phẩm. Khi chết các bá hộ trở thành tiền hiền thờ trong đình làng.
Đồn Điền
Chính sách đồn
điền cư dân lập ấp khẩn hoang bắt đầu từ thời nhà Lê, nhưng thực sự bành trướng
trên đồng bằng Cửu Long dưới triều nhà Nguyễn trực tiếp điều hành và kiểm soát.
Mục đích
- bình định đất
mới hoang vu. Đồn điền là pháo đài tiền phong của nông dân vừa làm ruộng vừa
tập luyện vũ khí,
- giải tỏa áp lực
nhân khẩu « đa đinh, điền thiểu» ở miền Trung. Chính quyền khuyến khích nông
dân nghèo đói, vô sản gia nhập đồn điền,
- kinh tế. Khẩn
đất hoang làm ruộng và đóng thuế lúa. Nguyễn Tri Phương tâu : « Đất Nam Kỳ
liền với giặc miên, dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc
việc khai khẩn để nuôi ăn, thật là một cách quan yếu…».
Định chế
Năm 1830, thành
Sài Gòn được chọn làm nơi luyện tập thí nghiệm đồn điền. Binh lính làm đồn điền
chia thành 4 đội, mỗi đội 50 người dưới quyền một đội trưởng được hưởng đất vua
ban. Hàng năm, đồn điền đóng địa tô là 2 nén bạc, 10 giạ lúa và hàng năm phải
về thành Gia Định ôn luyện lại võ nghệ, binh khí.
Định chế đồn điền
được ấn định trong dụ ngày 1 tháng 1 năm Tự Đức thứ 6 (1853).
Đồn điền được tổ chức thành đội và cơ.
- Đội. Mỗi đội 50
người, nộp địa tô sau 7 năm khẩn hoang, phải dựng chợ buôn bán, xây đồn lũy gần
sông rạch kiểm soát lưu thông, tập trung vũ khí, canh gác mỗi đêm. Theo lệ,
người mộ đươc một đội được phong làm suất đội và đương nhiên làm ấp trưởng sau
này.
-Cơ. Mỗi cơ tập
trung 10 đội. Ai mộ được một cơ được phong làm chánh đội và sau này lãnh chức
tổng trưởng theo qui chế dân sự.
Hình ảnh đồn điền.
Pallu mô tả « …giống như làng binh lính Kì Hòa. Nhà của đội trưởng ở giữa với
cái cồng, một cái trống để tập họp khi có báo động. Tất cả đồn điền được bao
quanh bởi những vị trí chiến đấu tạm».
Trợ cấp của triều
đình
Vua cấp 300 quan
cho mỗi 300 người để mua điền khí và 200 quan mua trâu cày
và đồng thời phong chức sắc cho những người có phương tiện tài chánh (bá hộ) đi
mộ dân làm đồn điền. Các đồn điền được
miễn thuế 7 năm đầu và chỉ phải đi lính khi việc binh khẩn yếu.
Thành quả
Khởi đầu các đồn
điền gồm 6 cơ (3000 người) rồi tăng lên 24 cơ (10 000 người) rải rác trong
5 tỉnh : Gia Định (7 cơ), Mỹ Tho (6 cơ), Vĩnh Long (5 cơ), Biên Hòa (4
cơ), An Giang (2 cơ). Chỉ mới phát triển điều hòa trong vòng 12 năm thôi, chánh
sách đồn điền đã thành lập được 500 làng, khẩn hoang ít nhất 100 000 Ha đất ở
khắp miền Nam.
Năm 1842, thí điểm đồn điền đã thành công tại xã Thanh Sơn, tổng Lợi
Trinh (Mỹ Tho), đồn điền được phát triển mạnh bởi Nguyễn Công Trứ. Nguyên trong
vùng Cần Thơ thôi, đồn điền đã dựng được các chợ thương mại như chợ Bình Thủy,
Cái Răng, Ô Môn, Trà Ôn… Hiện nay ở Châu Đốc, một số thôn dân chàm và mã lai
(chà và) sống ở xã Châu Giang là di tích chính sách đồn điền thời nhà Nguyễn.
Với kế hoạch «tận dân vi binh», triều đình Huế cho phép thâu dụng người Chàm và
Mã Lai lập đồn điền, chia thành 9 đội dưới quyền một quan hiệp quản ở Châu
Giang để phòng giữ biên giới, sống tập trung trong 7 làng với khoảng 5000 dân. Năm 1973, theo ty phát triển sắc tộc ở
Châu Đốc, có 8348 dân chàm sống trong 9 ấp từ đầu cù lao Ka Tầm Bong đến rạch
Bình Gĩ.
Trên đường bành trướng đồn điền từ Sài Gòn đến Vĩnh Long, qua hành lang
Long An xuống vùng Miệt Vườn sông sâu nước chảy (Mỹ Tho, Sa Đéc, Phong Dinh…),
lưu dân bị ngăn chặn ở phía bắc bởi vùng trũng đất phèn Đồng Tháp. Binh sĩ đồn điền đồn trú tại xã Thanh Sơn (Mỹ Tho) đã khởi công khẩn
hoang Đồng Tháp Mười lập nên chợ Vàm Ngựa và Cai Lạy. Ra đến duyên hải, lưu dân bị cản trở bởi
nước mặn; tại đây chính quyền đã lập đồn điền ở Tân Lý Tây (Gò Công) và đồn
điền Cầu Ngạn (Vĩnh Bình).
Trong trận Kì Hòa vì đồn điền cung cấp lính đánh Pháp nên De La Grandière đã ký nghị
định 20/9/1867 hủy bỏ và sát nhập vào làng địa phương.
Khó khăn của khẩn hoang
Ngoài những khó
khăn thiên nhiên như đất ngập lụt sình lày, nhiều phèn, quá mặn, luồng di dân
ngừng lại bởi cản trở kỹ thuật canh tác thô sơ, dân số quá thưa thớt trước diện
tích bao la của đồng bằng.
Khó khăn kỹ thuật
Kỹ thuật canh tác cổ truyền trông cậy vào loại cày mun, cày vơi, dùng
nhiều sức người và trâu bò. Khi sa mưa, dẫn trâu ra cày lật đất, nhổ mạ, cấy
lúa cho đến khi gặt bông lúa chín vàng, nông dân thường xuyên chăm sóc khó nhọc
lúa mạ chống lại côn trùng, chuột bọ. Tài chánh eo hẹp lại thiếu kỹ thuật thoát
thủy đào thải khoáng chất độc hại cho cây lúa nên diện tích chiếm hữu hẹp
thường không quá 5Ha. Lý do đó đã khiến cho việc mở mang ruộng đất ngừng lại
những trước những điều kiện địa lý khắt khe sau : gặp lung bào lớn sình lày,
ngập nước úng thủy quanh năm, độ phèn quá cao (pH dưới 3), nước mặn vùng duyên
hải.
Khó khăn dân số
Dưới thời nhà
Nguyễn, dân số lục tỉnh quá thưa thớt so với diện tích của đồng bằng, vì vậy,
đất hoang dã còn rộng lớn cho phép giải tỏa áp lực nhân khẩu ở miền Trung và
định cư dân tỵ nạn miền Bắc dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Các tài liệu xưa chỉ
cho biết số dân đinh (người có đóng thuế thân) nên nay phải cộng thêm 5 lần nữa
để có tổng số vì theo quan niệm thời đó « suy theo cái số cố giả, một người cày
ruộng phải nuôi năm người».
Dựa vào Đại Nam
Nhất Thống Chí, số dân đinh tại Nam kỳ lục tỉnh biến chuyển như sau.
|
Triều Gia Long
|
1836
|
Triều Tự Đức
|
Biên Hòa
Gia Định
Định Tường
Vĩnh Long
An Giang
Hà Tiên
|
10 600
28 200
19 800
37 000
7
500
|
10 242
34 124
20 167
27 457
75 136
1
481
|
16 949
51 788
26 799
41 336
22 998
5
724
|
Dưới
thời Tự Đức, tổng số dân đinh là 165 598 và cộng thêm 5 lần, số dân là
993 588 người. Số dân đã tăng lên 1 960 032 (1894),
4 483 000 (1936) và
vẫn tiếp tục tăng dần.
Kênh đào
Một phần lớn diện tích đồng bằng Cửu Long được bao phủ
bởi đất phèn, đất hữu cơ và đất duyên hải ngậm muối. Nông địa và cư trú sẽ
ngừng lại trước nồng độ cao của các khoáng chất rất độc hại cho cây lúa. Trong
vùng đất này, giải pháp hữu hiệu và duy nhất để mở rộng nông địa là đào kênh xẻ
rạch dẫn nước ngọt sông Cửu vào rửa phèn, muối và thoát thủy. Ý thức được điều
đó nên nhà Nguyễn đã cho đào kênh nhưng nặng giao thông chiến lược nhằm kiểm
soát đất đai mới chiếm hữu. Phải đợi đến kỹ thuật tân tiến của Pháp thì công
tác đào kênh thủy nông mới phát triển mạnh.
Kênh đào thời nhà Nguyễn
Vào thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã cho đào hai
kênh lớn và nhiều kênh nhỏ nhằm phát triển thủy lộ chiến lược từ Gia Định xuống
Hậu Giang.
Kênh Đông Xuyên (1816), dài 30 cs, nối rạch Thu Thảo
đến Rạch Giá ngang qua núi Sập
Kênh Vĩnh Tế do Thoại Ngọc Hầu cho đào từ năm 1819 đến
1820 dưới thời vua Minh Mạng. Kênh dài 71 cs, lấy nước từ rạch Châu Đốc đổ vào
sông Giang Thành ra vịnh Thái Lan qua Đông Hồ (Hà Tiên).Trịnh Hoài Đức viết về
kênh Vĩnh Tế: «Từ đấy về sau, những kế hoạch trong nước và viêc biên trú cho
đến việc dân buôn bán được tiện lợi vô cùng», Các
kênh nhỏ ngắn nối với sông rạch cho tiện giao thông: Kênh Vĩnh An đào từ năm
1843 đến 1845, từ bắc xóm chàm Châu Giang sang quận lỵ Tân Châu và kênh Vĩnh An
Hà (1843) nối liền Hậu Giang với Tiền Giang.
Kênh đào thời Pháp
Trong
thời kỳ đầu pháp thuộc, dân số và xã ấp «Miệt Dưới» còn thưa thớt trên một diện
tích bao la như nhận xét của Baurac: « Cái gì thiếu ở Cà Mau, đó là những cánh
tay. Số dân đinh tổng cộng có 6 379 tức khoảng 31 900 dân trên một
diện tích 580 000 Ha…làng xóm sống thưa thớt với nhiều phần đất bỏ
hoang…các xóm thường ở trong ngọn rạch đôi khi cách xa các xóm gần nhất cả ngày
thuyền ». Từ năm 1910 nông địa miền
Hậu Giang phát triển mạnh nhờ kỹ thuật đào vét kênh của người Pháp.
Chương trình đào kênh của Pháp nặng tính cách thủy
nông và giao thông bắt đầu từ năm 1900. Hệ thống kênh đào dẫn nước ngọt đã mở
rộng nông địa thu hút cư dân đổ xuống miền Hậu Giang, chuyên sống về ruộng lúa
và đã tạo nên nếp sống «văn minh kênh sáng» của «Miệt Dưới».
Vùng
trũng đất phèn, đất hữu cơ úng thủy được tưới bón bởi một hệ thống kênh đào suôi,
ngang dẫn nước ngọt sông Cửu vào rửa phèn vùng đất hoang vu xưa. Đường nước
ngọt chảy tới đâu là kéo theo dân tới đó mở mang xã ấp nông địa.
« Xáng đổ đất lên hai bờ chưa ráo là hàng trăm gia
đình nông dân đã đi xuồng tới mang theo dao búa, nồi chén, gà vịt…đổ bộ lên cất
nhà, dành địa thế làm ăn thuận tiện, tuy phía bên trong vẫn là rừng rậm».Trong
thời gian 1864-1910, thể thức khai khẩn đất mới dọc theo kênh đào rất dễ dãi.
Theo các nghị định, muốn khẩn thì làm đơn ghi diện tích, ranh giới rồi đóng thuế.
Vì vậy, dân miệt vườn đông đúc ồ ạt đến chiếm hữu đất dọc theo kênh đào, dân
đến đóng cọc, chiếm nền nhà dù bùn chưa ráo để một thời gian sau lo hợp thức
hóa bằng khai báo, đóng thuế cho làng xã như Sơn Nam mô tả.
Từ sau 1910, các nghị định đã hạn chế dễ dãi trưng
khẩn. Tư nhân trưng khẩn đất công phải mua với giá thuận mãi, hoặc qua điều
kiện đấu giá công khai, hoặc đặc nhượng để làm «điền »… Các điều kiện này làm
giảm bớt số thôn dân xuống Bạc Liêu và Cà Mau và thúc đẩy sự thành hình các đại
điền chủ nhất là ở Bạc Liêu, Sóc Trang. Vùng Hậu Giang sình lày hoang dã xưa
kia nay là những cánh đồng thẳng cánh cò bay, chó chạy cong đuôi, trở thành vựa
lúa miền Nam như câu hát mô tả:
Cái Răng, Ba láng, Vàm Xáng,
Phong Điền,
Anh thương em thì cho bạc cho
tiền;
Đừng cho lúa gạo, xóm giềng
cười chê.
Sau
thời kỳ phát triển thủy nông ở Hậu Giang, sự bành trướng cư dân việt đã làm
thay đổi tỷ lệ người Miên so với 100 người Việt như sau.
Tỉnh
|
Năm 1886
|
Năm 1930
|
Rạch Giá
Sóc Trăng
Trà Vinh
|
114
80
84
|
38
47
48
|
Hệ thống kênh đào đã làm tăng diện tích ruộng và dân số từ 522 000 ha, 1 679 000
dân (1870) lên 2 200 000Ha, 4 484 000 dân (1943).
Và câu hát
«Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,
Anh thương em sắm một chiếc đò.»
nói nên vai trò giao thông của kênh đào.
Tại sao nước ngọt kênh đào biến đất phèn thành ruộng lúa phì nhiêu, thu
hút cư dân? Chất vôi và phù sa trung tính (pH 7) trong nước ngọt của sông Cửu
Long lắng trong đất phèn, tạo kết tủa hóa học các muối khoáng chất độc hại cho
cây lúa. Nhờ ảnh hưởng thủy triều bán nhật, vào mùa khô chất phèn và muối được
mao dẫn lên mặt đất rồi được nước ngọt kênh đào cuốn ra sông.
Phần II.
Quốc
sách cư dân và doanh điền dưới thời
TT
Ngô Đình Diệm
Trong vấn đề cư dân lập ấp
phát triển nông nghiệp, di dân và đất khả canh là hai điều kiện căn bản để thực
hiện chính sách cư dân ở Việt Nam xưa và nay.
Điều kiện dân số
Dưới triều nhà Nguyễn, khi
dân Việt bành trướng xuống đồng bằng Cửu Long bát ngát đất đai mầu mỡ nhưng
thiếu nông dân đến canh tác nên triều đình phải áp dụng nhiều biện pháp khuyến
khích di dân như đã trình bày trong phần 1. Trái lại, dưới thời Đệ Nhất Cộng
Hòa, khó khăn không phải là thiếu nông dân mà là đất khả canh để hữu sản hóa
thôn dân.
Trong khoảng gần một triệu
người bắc tỵ nạn cộng sản, có khoảng gần 200 000 nông dân và một số binh
sĩ giải ngũ cần được tái định cư. Ngoài ra một số lớn nông dân nghèo, vô sản
trên các đồng bằng miền Trung đa đinh điền thiểu sẵn sàng di dân vào Nam. Vì
vậy, khó khăn chính yếu của quốc sách cư dân là vấn đề đất khả canh.
Điều kiện đất canh tác
Ở Miền Đông đồng bằng, vùng
đất xám có rất nhiều diện tích chưa chiếm hữu còn bỏ hoang, bao phủ bởi rừng
thưa. Cho nên, phân phát đất cho di dân không đụng chạm đến quyền sở hữu tư
nhân, chỉ cần có xe phá rừng ủi đất là thôn dân có đất canh tác lúa rãy, trồng
cây kỹ nghệ, cây ăn trái, xẻ gỗ rừng bán làm nhà hoặc hầm than.
Trái lại, ở Miền Tây đồng
bằng Cửu Long, chính phủ gặp nhiều khó khăn sau :
Đất canh tác bỏ hoang nhưng
thuộc quyền sở hữu của một số điền chủ;
Đất hoang như ở Đồng Tháp
Mười, Cà Mau thì gặp nạn phèn chua, nước mặn phải có cơ giới và tài chánh để
đào kênh rửa phèn.
Nhằm giải quyết các khó
khăn làm cản trở áp dụng quốc sách cư dân, chính phủ đã áp dụng các biện pháp
giải quyết đất canh tác, cơ giới, tài chánh.
Giải pháp áp dụng
Sau hiệp định Genève, để có
đất khả canh phân phát cho nông dân, TT Diệm ban hành 2 Dụ (số 2 và số 7) đánh
dấu bước đầu của cải cách điền địa, thiết lập qui chế tá canh thiết yếu liên
quan đến địa tô. Theo hai dụ trên, địa tô được ấn định 15% vụ lúa thu hoạch
(ruộng cấy một mùa), từ 15% đến 25% vụ
lúa chánh nếu ruộng cấy 2 mùa.
Sau đó tổng thống ban hành
dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956, thiết lập chính sách cải cách điền địa với
các điểm chính sau:
-Mỗi chủ điền được quyền
giữ lại tối đa 100 Ha, trực canh 30Ha, 70 Ha cho tá điền thuê theo quy chế tá
canh. Điền chủ bị truất hữu được bồi thường thỏa đáng: 10% trị giá ruộng bị
truất hữu được trả bằng tiền mặt, 90% được trả bằng trái phiếu trong thời hạn
12 năm;
-Ruộng bị truất hữu sẽ bán
lại cho tá điền, trả trong 12 năm,(mỗi gia đình được quyền mua tối đa 5 Ha).
Để hỗ trợ quốc sách cư dân
mở mang nông địa, Tổng Thống Diệm cho thiết lập :
-Phủ Tổng Ủy Dinh Điền điều
hành trực tiếp quốc sách cư dân lập ấp phát triển nông nghiệp,
- Quốc Gia Nông Cụ Cơ Giới
Cuộc với sự trợ giúp kỹ thuật và tài chánh của Hoa Kỳ và Pháp. Cơ quan này được
trang bị xáng đào kênh dẫn nước ngọt rửa phèn, muối vùng trũng Đồng Tháp, Cà
Mau, đem máy cày bừa sửa soạn đất sẵn sàng cho vụ mùa đầu; ở Miền Đông đất xám
thì dùng máy ủi phá rừng, san đất, chia lô trước khi di dân đến.
- ban hành nghị định số 65
DTCC tháng 4 năm 1957 lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc, cơ quan quốc doanh tự trị,
yểm trợ chính sách cải cách điền địa, ngư nghiệp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp,
cho vay không đòi hỏi vật thể thế chấp hoặc người bảo lãnh, cho vay tiền lãi
xuất thấp để giúp nông dân canh tác, mua trâu bò, heo nái giống ngoại quốc cho
năng xuất cao (Landrace, Duroc Berkshire). Lãi xuất được áp dụng là:1%
/tháng (vay dưới 18 tháng), 8% /năm (vay từ 18 tháng đến 5 năm), 6% /năm (vay
từ 5 đến 15 năm).
Với
những biện pháp thực tiễn trên, TT. Diệm cho phát động quốc sách cư dân sau:
tái định cư di dân tỵ nạn cộng sản, dinh điền và khu trù mật.
Bản đồ hành chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Chính
sách định cư 887 917 dân tỵ nạn
Sau hiệp định Geneve 1954, sự chia đôi nước Việt thành hai quốc gia đã
tạo nên luồng sóng di dân ồ ạt vào miền Nam tự do. Sự chuyên chở người tỵ nạn
hầu hết do hải quân Hoa Kỳ
và Pháp phụ trách. Với trợ giúp tài chánh của Hoa Kỳ, chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập tại Hà Nội
Ủy Ban Di Cư gồm ba người đảm nhiệm
và tại Sài Gòn Phủ Tổng Ủy Di Cư tỵ Nạn để hoạch định chương trình định cư dân
tỵ nạn đặc biệt là các nông dân trên đồng bằng Cửu Long.
Từ 20 tháng 7 đến tháng 8 năm 1955, làn sóng di cư vào miền Nam tự do
đã lên tới 887 917 người.
Từ 1954 đến 1955, hầu hết các tàu chở dân tỵ nạn đều cập bến Sài Gòn. Chính phủ
tổ chức ủy ban đón tiếp và hướng dẫn dân tỵ nạn đến tạm cư tại các trạm cư trú
rải rác tại Sài Gòn và Gia định. Các thành phần tư sản, trí thức, công tư chức
và thương gia tự túc định cư tại các thành phố. Riêng các nông dân và ngư dân
thì phải trông cậy vào kế hoạch định cư và trợ giúp tài chánh của chính phủ. Do
đó, Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn đã hoạch định một chính sách thành lập các khu
định cư thường trực, lo chuyên chở nông dân và ngư dân đến định cư, giúp đỡ
tiền bạc, thực phẩm và vật liệu xây cất trong thời gian đầu chưa ổn định.
Kế
hoạch định cư
Kế hoạch định cư được thực hiện theo ba giai đoạn.
Giai đoạn 1 : từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1954
Phủ Tổng Ủy Di Cư cố gắng giải quyết các vấn đề cấp bách trong các trại
tạm cư như :
- cung cấp lều tạm trú, thực phẩm (gạo, mắm muối, cá khô…),
- tìm kiếm đất cho các khu định cư.
Trong thời gian này, đời sống của dân tỵ nạn rất là khó khăn :
sống chui rúc dưới lều vải, chia nhau từng giọt nước uống cung cấp bởi các
«camion citerne», làm bếp dưới nắng cháy da, muỗi, ruồi, bệnh tật quấy nhiễu
ngày đêm. Thêm vào khổ ải đó là nhàn rỗi, nhớ thôn xóm xưa, lo lắng đến một
tương lai bất định…Vì vậy một số di dân sanh ra bất mãn, phiền trách sự chậm
chạp tìm đất định cư cho họ.
Giai đoạn 2 : Định cư từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1955
Đây là thời kỳ thành lập các trung tâm định cư. Với sự giúp đỡ của
chính quyền địa phương, Phủ Tổng Ủy Di Cư quyết định chọn lựa các khu định cư,
hoạch định đồ án xây cất (làm đất, chia lô…), ước tính kinh phí của chính phủ…
rồi phổ biến tin tức đó trong các trại tạm cư. Sau đó một đại diện dân chính
hoặc cha xứ của khu định cư tương lai sẽ đi quan sát khu định cư để lấy quyết
định thay cho di dân. Tiếp theo, chính phủ sẽ lo việc chuyên chở, giúp đỡ tài
chánh, thực phẩm, đồ gia dụng thiết yếu như mùng mền, đũa chén…
Giai đoạn 3 : Kiện toàn định cư từ tháng 6 năm 1956
Sau khi di dân đã sống trong các khu định cư rồi, Phủ Tổng Ủy Di Cư làm
nhiệm vụ cuối cùng là kiểm điểm và hoàn thiện một cách khoa học và hợp lý như
tìm địa điểm, tài nguyên thích hợp cho từng nghề nghiệp cho từng loại dân di
cư. Thí dụ, trước số di dân quá đông đảo, lại thiếu nhân viên phụ trách, Phủ
Tổng Ủy Di Cư phạm một số sai lầm trong việc lựa chọn địa điểm định cư và phân
chia di dân theo nghề nghiệp.
Năm 1955, chính phủ thành lập một Ủy Ban Cao Cấp gồm các chuyên viên
nha định cư, nha kỹ thuật và phái đoàn viện trợ mỹ. Ủy ban này duyệt xét lại
các trung tâm định cư về mặt kỹ thuật và phối trí di dân theo ba nghề (nông,
ngư, thủ công) cho phù hợp với mỗi trung
tâm.
Theo tài liệu năm 1955 củaTổng Ủy Di Cư, số dân tỵ nạn do chính phủ trợ
giúp được phân phối theo nghề nghiệp như sau : nông dân chiếm 80% trên
tổng số, còn công nghiệp 10% và ngư nghiệp 10% được phân phối trong các trung
tâm sau :
Tỉnh
|
Trung tâm định cư tỵ nạn
công nghệ
|
Sài Gòn
Gia Định
Biên Hòa
|
Thủ Trí, Phú Bình
Xóm Mới, Đông Hòa
Xa, Giồng Ông Tố, Suối Lồ Ồ
Hố Nai, Tân mai,
Hòa Bình, Thanh Bình
|
Tỉnh duyên hải
|
Trung tâm định cư ngư dân tỵ nạn
|
Bên Tre (Kiến Hòa)
Phước Tuy
Vũng Tàu (Phước Tuy)
|
Cồn Hựu, Khâu Băng
Phước Tĩnh, Tân Phước, Cù My
Thạnh Thới, Rạch Dừa A, Rạch Dừa B
|
Thành
quả
Cuối năm 1955, Phủ Tổng Ủy Di Cư đã định cư trên đồng bằng Cửu Long
393 354 di dân trên tổng số 508 949 thôn dân di cư.
Số di dân đã định cư được phân phối như sau.
Tỉnh
|
Số dân tỵ nạn đã định cư
|
Số trung tâm định cư
|
A. Miền Tây phù sa mới
Ba
Xuyên
Phong
Dinh
Kiên
Giang, An Giang
Vĩnh
Long
Kiến
Hòa
Định
tường
Long
An
B. Miền
Đông đất xám
Phước
Tuy
Sài
Gòn
Gia
Định
Biên
Hòa
Bình
Dương
Tây
Ninh
Tổng
cộng
|
780
10 638
42 145
2803
12 268
26 241
24 925
110 339
107 947
16 353
13 726
……….
393
354
|
1
3
15
6
11
20
12
37
56
12
14
…..
206
|
Theo bảng phân phối trên, hai phần ba dân tỵ nạn sống tiếp cận Sài
Gòn-Gia Định để hành nghề thủ công, dịch vụ…Riêng tỉnh Biên Hòa có 56 trung tâm
định cư với 107 947 dân tỵ nạn sống nghề khai thác gỗ rừng và canh tác trên các
mảng phù sa cổ. Từ 1955, các trung tâm định cư ở Gia Định và Biên Hòa giữ vai
trò điều hòa dân số tỵ nạn như vừa cung cấp di dân cho các khu dinh điền và khu
trù mật, vừa là nơi rút lui của những di dân gặp khó khăn về kinh tế cũng như
an ninh do cộng sản gây ra.
A. Khu định cư Cái Sắn 1
Năm 1955, nhằm đi tìm đất định cư dân tỵ nạn, chính phủ thành lập một
phái đoàn gồm các chuyên viên hoa kỳ, tây đức và đại diện bộ canh nông và cải
cách điền địa. Phái đoàn trình lên chính phủ dự án Cái Sắn tổn phí 228 607 252VN$
(1/4 ngân khoản mỹ viện trợ cho 129 dự án định cư). Dự án Cái Sắn 1(số 15), gồm
bốn dự án định cư khoảng 100 000 dân tỵ nạn trên 77 000 ha đất bỏ
hoang. Dự án chính là đào kênh và ba dự án phụ là cất nhà, mua nông cụ, thực
phẩm và tiền trợ cấp cho di dân trong năm đầu.
Thực hiện
TT Diệm ký sự vụ văn thư 133 TTP/KH ngày 17 tháng 1 năm 1956 bổ nhiệm
bảy công chức cao cấp trách nhiệm thực hiện dự án Cái Sắn :
- Tổng Ủy trưởng Di Cư Tỵ Nạn và đại biểu chính phủ tại Nam Phần theo
dõi thi hành huấn lệnh của Tổng Thống;
- Tổng giám đốc kế hoạch lo phối trí
kế hoạch và thanh toán viên ngân sách;
- Đổng lý văn phòng bộ Cải Cách Điền Địa lo việc cày đất và bảo trì
nông cụ;
- Giám đốc định cư thuộc Tổng Ủy trông nom việc chuyên chở di dân;
- Tổng thư ký bộ công chánh phụ trách đào vét kênh ;
- Giám đốc nha canh nông phát lúa giống, cày cuốc…
Từ tháng 3 năm 1956, bộ Công Chánh đã vét hai kênh đào cũ nối với kênh
Rạch Sỏi-Bắc Sắc và kênh Rạch Giá-Long Xuyên và đào 17 kênh mới song song với nhau,
cách nhau từ 2 đến 2,5 cây số và thẳng góc với hai kênh trên. Mỗi kênh mới dài
12 cây số, rộng 8m, sâu 1,5 m.
Công việc đào kênh kết thúc vào tháng 5 năm 1956.
Ngày 14 tháng 1 năm 1956, báo chí loan tin dự án Cái Sắn. Một tuần lễ
sau, Tổng Ủy Di Cư nhận được 42 850 đơn xin định cư. Trung tâm Cái Sắn 1
được chính thức thành lập ngày 27 tháng 1 năm 1956 tại xã Thạnh Qưới trên một
diện tích 27 153 Ha
(16 337 Ha
nằm trong địa phận tỉnh An Giang và 10 816 Ha thuộc tỉnh Kiên Giang). Trên lý
thuyết, trung tâm Cái Sắn dự liệu định cư 9000 gia đình gồm khoảng 45 000
người trong giai đoạn đầu tiên.
Việc thu mua ruộng đất để cấp phát cho di dân thì dưạ vào dụ số 7 và 57
của luật cải cách điền địa :
- Dụ số 7 (ngày 5 tháng 2 năm1955) qui định dân tái canh ruộng hoang
với tư cách tá điền. Chủ điền khai báo ruộng bỏ hoang và ruộng xin giữ lại,
phần còn lại bán cho chính phủ cấp lại cho dân tỵ nạn nhưng việc thi hành dụ số
7 gặp rất nhiều khó khăn. Tổng kết ruộng Cái Sắn cấp phát cho dân qua dụ số 7
là 15 387 Ha.
-Dụ số 57 (ngày 22 tháng 10 năm 1956). Chủ điền chỉ giữ laị 100Ha và
bán số Ha còn lại cho chính phủ. Tổng cộng 4 845 Ha (qua thỏa
ước Việt Pháp) và 6 252
Ha công điền, công thổ đã được cấp phát theo dụ số 57.
Đón tiếp di dân
Khi tới Cái Sắn, dân di cư tỵ nạn sống tạm dưới lều nhà binh hoặc trong
những lán lợp lá dừa nước cất tạm bên lộ đường. Mỗi lán dài 20m và rộng 9m, mỗi
gia đình ở một căn (9m2) trong lán. Chính phủ trù liệu ngân khoản
45 360 000$ để giúp đỡ di dân trong những ngày khó khăn đầu tiên trên
vùng đất bỏ hoang từ 10 năm nay.
Mỗi người di dân trên 18 tuổi nhận được trợ cấp như sau :
-244 VN$ để đầu tư lúc đầu vào việc định cư,
-lãnh 4 VN$ mỗi ngày trong 9 tháng kể từ ngày định cư,
15 giạ (300 lít) hạt giống lúa, một bao lớn đựng túi hạt giống bắp, đậu,
cà chua.
Về thực phẩm hàng ngày, di dân được cung cấp gạo, bột bắp, nước mắm,
muối, cá khô và thỉnh thoảng có bơ, sữa bột của chương trình viện trợ hoa kỳ
dưới nhãn hiệu «Food for freedom».
Chính phủ cung cấp cho mỗi gia đình
- một chiếc ghe tam bản « dài 2,5 m trên 0,5 m) để di chuyển,
- cưa, liềm gặt lúa, dao phát cỏ, cuốc và hai thùng phuy đựng nước uống
rất hiếm trong vùng này.
Trong chương trình y tế, chính phủ cho xây trường học và bệnh xá, mua
6730 chiếc mùng đơn trị giá 750 000 VN$ và 6 730 mùng đôi phí tổn 740 000
VN$.
Thiết kế và quản trị
Trung tâm định cư được chia thành lô rộng 30m, dài 1000m, chạy dài theo
kênh đào tạo nên hình ảnh cư trú đươc hoạch định gồm những hàng nhà song song
dọc theo hai bên bờ kênh và đâu mặt với nhau. Mỗi kênh dài 12Km, ngang 8M, sâu
1,5M gồm hai xứ đạo, mỗi xứ có một giáo đường xây dựng trên 3 hoặc 6 lô đất, ở
cây số thứ 3 và 8 để cho tiện giáo dân di chuyển.
Sau khi bốc thăm chọn lô đất, mỗi chủ gia đình được phát 800 VN$ để làm
nền nhà và một số vật liệu kiến trúc để dân tự cất, mướn, đổi công đắp nền.
Ngoài ra chủ gia đình phải tham dự đắp đường làng trải dài theo bờ kênh và vui
lòng đóng góp công sức vào việc xây cất giáo đường của xứ.
Về việc điều hành hành chánh, các nhà dọc theo kênh tập hợp thành nhiều
trại. Mỗi trại có một ban quản trị gồm ba người (chủ tịch do Tổng Ủy bổ, thư ký
và ủy viên tài chánh do dân của trại bầu). Tất cả các ủy ban quản trị đặt dưới
sự điều hành của ủy ban định cư do tỉnh trưởng làm chủ tịch quản trị nội bộ,
thi hành dự án. Về an ninh, 100 nhà cử 20 người vào ban tự vệ do quận trưởng
điều động. Trên thực tế, các cha xứ là người nắm giữ nhiều quyền hành, nhất là
về ổn định đời sống tinh thần và vật chất của di dân.
Khó khăn
Việc định cư gặp rất nhiều khó khăn trong những năm đầu.
Khó khăn thứ nhất là sự bất mãn của 636 điền chủ bị truất hữu hoặc
không hưởng được tiền bồi thường vì không cung cấp được cho chính quyền giấy tờ
chứng minh sở hữu và thừa kế.
Khó khăn tiếp là vấn đề kỹ thuật và tổ chức. Để sửa soạn cho mùa lúa
1956-1957, bộ Canh Nông gởi 200 máy cày, máy ủi và trâu đến cày 12 000 ha. Vì thiếu kinh
nghiệm kỹ thuật (ráp nhầm, máy hư, thiếu người lái…) nên chỉ có 63 máy cày hoạt
động được. Công việc cày rất là gian khổ vì đất bỏ hoang từ 10 năm nay, đất
lún, nhiều mô đất cao, cỏ dại khó ủi mọc lại ngay sau một tháng. Đến tháng 7
chỉ cày được 9126 Ha
cho mùa 1956. Đầu tháng 7 năm 1957, chính phủ gởi đến 466 con trâu mua của Thái
Lan (dự trù 2400 con mới đủ một con cho bốn gia đình) nhưng trâu này nghịch
phá, không thuần như trâu việt. Tiếp theo, chính phủ cung cấp thêm 650 cày tay
mua của Đài Loan nhưng cày tay loại này quá yếu ớt nên gãy dễ dàng khi gặp đất
thịt cứng.
Trong mùa lúa đầu, chính phủ cung cấp cho mỗi gia đình : 15 giạ
thóc giống, 1
bao hạt giống (bắp, đậu, bí, cà chua…), cào cỏ, liềm, xẻng, cuốc bản, bình xịt
thuốc. Ban quản trị và cha xứ hết sức đôn thúc dân làm tập thể vụ mùa 1956
nhưng vì nạn chuột và cỏ dại nên chỉ thu hoạch được 7 882 tấn lúa.
Tiến đến thành công
Trước khi chính thức thành lập khu định cư Cái Sắn, nhờ thông tin của
chính phủ cùng với phóng sự báo chí rất là lạc quan về tương lai của miền đất
hứa nên rất nhiều đơn xin đi định cư. Sau vài tháng thu hoạch thất bại vụ mùa
1956, dân tỵ nạn mất tin tưởng và ảnh hưởng đến tinh thần định cư tại Cái Sắn.
Các ban quản trị và các cha xứ cố gắng đốc súc dân cải thiện điều kiện canh tác cho mùa lúa 1957 như xử dụng
máy cày, vét kênh rút nước, san bằng đất gồ ghề, chăm phạt cỏ giết chuột. Kết
quả sự thâu hoạch vụ mùa 1957 tăng lên 13 400 tấn lúa. Tương đối tổng số
thâu hoạch chưa đủ thỏa mãn nhu cầu thực phẩm của dân chúng nhưng cũng đủ để
dân chúng an tâm cho thu hoạch vụ mùa tới nếu chịu cải thiện điều kiện canh
tác. Cuối năm 1957, Cái Sắn được địa phương hóa.
Tháng 2 năm 1958, Tổng Ủy Dinh Điền loan báo Cái Sắn phải tự túc cho
những vụ mùa tới và thu lại đoàn máy cày của Quốc Gia Nông Cụ Cơ Giới Cuộc. Sợ
dân bỏ đất hoang vì tiền thuê máy cày và trả công rất cao (550$/Ha), cha xứ
kênh Dđược
Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay 1 090 000 VN$ mua 4 máy cày Fiat, 350 000
VN$ mua hạt giống, 510 000 VN$ bảo trì máy cày. Nhờ vậy mà dân hăng hái ra
đồng làm việc và dân đã bỏ đi thì trở lại. Tới tháng 6, dân đã cày đủ
21 000Ha ruộng. Theo gương đó, kênh G (230 gia đình) cũng góp mua được 2
máy cày. Các kênh khác cũng được Quốc Gia Nông Tín cho vay để mướn cày máy cho
kịp vụ mùa. Các biện pháp tự túc trên làm cho khu định cư nhộn nhịp trở lại với
đầy tin tưởng vào tương lai.
Vụ mùa 1958 đã nâng số sản xuất lên 21 500 tấn lúa, tăng thêm đất
canh tác, trồng thêm nhiều loại hoa màu mới (thuốc lá, bắp, rau cải…) và số
lượng sản xuất nông phẩm tăng đều mỗi năm.
Khu định cư tỵ nạn
Cái Sắn (hình năm 1957)
Bản đồ khu định cư Cái Sắn
Khu định cư di dân tỵ nạn miền Bắc tại xã
Đại Hải tỉnh Ba Xuyên vẫn giữ
cách xây cất cổ truyền miền Bắc mái tranh,
vách đất (hình năm 1970)
B.
Khu định cư Xóm Mới
Khu định cư Xóm Mới nằm trong địa phận xã An Nhơn, cách Sài Gòn 4 cây
số. Xã An Nhơn lập năm 1868 trên một diện tích 5,8 cây số vuông gồm những mảng
phù sa cổ cao ráo để dân dựng nhà cửa trồng rẫy và dưới thấp phủ bởi phù sa mới
ẩm ướt làm ruộng cấy lúa. Năm 1954, chính phủ cho một số dân tỵ nạn tạm trú
trên những mảng phù sa cổ đất cát nghèo nàn bỏ hoang.
Đầu năm 1954, dân tỵ nạn gốc Thái Bình, Bắc Ninh và Hà Nội đến tạm trú
hai bên hương lộ 12 rồi chiếm dần hai bên tỉnh lộ 16 và hương lộ 11 (ấp 9 và
4). Vào cuối năm 1954, dân tỵ nạn gốc Cao
Bằng, Lạng Sơn đến tạm trú phía cuối hương lộ 16 (ấp 10). Tất
cả khu này mang tên Xóm Mới gồm 15 trại định cư tổ chức thành những xứ đạo. Năm
1955, dân số tỵ nạn ước lượng 20 000, cư ngụ trên cả ruộng đất hai bên
tỉnh lộ 16, hương lộ 11 và 12 lập thành một khu tam giác chia thành 7 ấp.Tại
đây dân tỵ nạn sống về công nghiệp như sản xuất pháo tết (Pháo Từ Châu, Việt
Quang…), nấu rượu, thương mại như dệt, nhuộm, chăn nuôi heo, gà và đủ thứ dịch
vụ cung cấp cho Sài Gòn-Gia Định. Nhờ làm ăn phát đạt, khu định cư Xóm Mới
thành thị hóa dần dần, nhà lầu gạch, xi măng thay thế cho nhà tôn vách ván
trông như một thị trấn nối liền với thủ đô.
Hình thức cư trú Xóm Mới gồm hai khu vực khá rõ rệt :
- Khu phố thương mại dọc theo tỉnh lộ 16 và hương lộ 11 và 12 thuộc về
thương gia, cơ xưởng công nghiệp, công chức thợ thuyền. Từ năm 1957, Xóm Mới có
15 thánh đường, hai tu viện, trường công lập (2 trung học, 6 tiểu học) và tư
thục (4 trung học, 11 tiểu học), 3 hợp tác xã dệt được hưởng tiền bồi thường
của Nhật…
- Khu ngõ hẻm. Đằng sau các cửa tiệm sầm uất là những hẻm bùn lày, nhà
cửa chen chúc sống chui rúc thợ thuyền, lính tráng, dân chăn nuôi heo gà và
những người trở về từ những trại định cư gặp khó khăn.
Giống như khu định cư Hố Nai (Biên Hòa), Bùi Chu (gia Định), Xóm Mới
giữ vai trò quan trọng trong việc điều hòa dân số tỵ nạn bất ổn. Chính các khu
định cư này cung cấp dân số cho các trung tâm định cư mới thành lập và đồng
thời là nơi trú ẩn khi rút lui khỏi những trung tâm định cư bất ổn. Thí dụ năm
1956-57, khoảng 5000 dân tỵ nạn rời bỏ trại định cư tỵ nạn về trú ẩn ở Xóm Mới
để tìm việc ở tỉnh thành. Nhất là sau 1963, tình trạng an ninh nông thôn và
cộng sản tấn công nhiều trại tỵ nạn đã làm dân số Xóm Mới tăng lên 55 600
dân.
Kết luận
Năm 1957 đánh dấu kết thúc chính sánh định cư dân tỵ nạn di cư vào Nam.
Từ đó vì thiếu tài liệu (phúc trình, thống kê chính thức) nên sự nghiên cứu và
đánh giá kết quả chính xác của dự án này rất là khó khăn. Tuy nhiên, sau 1970,
việc quan sát một số khu định cư tỵ nạn đã cho những nhận xét sau.
Mặc dầu những xáo trộn chính trị xã hội sau hiệp định Genève, thiếu
nhân viên kinh nghiệm và tài chánh, chính phủ đã định cư tốt đẹp hơn
300 000 dân tỵ nạn. Kết quả này là nhờ thời kỳ an ninh trên quê hương và
các ban quản trị nhất là các vị linh mục ở các xứ đạo.
Sau nữa chúng tôi nhận xét thấy những khu định cư phát triển, tồn tại
là phần nhiều nhờ vào yếu tố chính sau :
- dân tỵ nạn cùng gốc ở một tỉnh hoặc một xứ đạo miền Bắc,
- người dân mộ đạo nên rất có kỷ luật nghe lời cha xứ.
- đa số dân sống tựa vào khu thành thị thí dụ như Xóm Mới, Hố Nai, Hòa
Bình, Bùi Chu…
Sau cùng, các khu định cư quá nhỏ bé khiến cho dân bỏ đi vì :
-thiếu đất canh tác thí dụ như khu định cư ấp Sơn Lộc (xã Tân Phú
Trung, tỉnh Hậu Nghĩa) mỗi gia đình hưởng một lô đất canh tác là 0,3Ha trên đất
cát nghèo nàn;
-không thích ứng được với dân địa phương vì khác biệt nếp sống, tôn
giáo thí dụ như khu định cư ở ấp Sơn Hải (xã Đại Hải, tỉnh Ba Xuyên) thuộc giáo
xứ Phụng Hiệp.
4
Năm 1957, sau khi đi thị sát miền rừng núi cao nguyên và vùng sình lày
bỏ hoang trên đồng bằng Cửu Long, Tổng Thống Diệm quyết định hoạch định chính
sách dinh điền để tiếp tục công cuộc doanh điền (mở rộng thêm ruộng) và tiếp
tục chính sách đồn điền của triều Nguyễn.
Sắc lệnh số 103 TTP ngày 23 tháng 4 năm 1957 và nghị định số 1502 và
1503 TTP ngày 25 tháng 9 năm 1957 thiết lập bốn vùng dinh điền cao nguyên trung
phần, Đồng Tháp Mười, Ba Xuyên và Cái Sắn. Chính sách dinh điền đươc nâng lên
hàng quốc sách được điều hành bởi Phủ Tổng Ủy Dinh Điền, tiếp nối chính sách cư
dân tỵ nạn sau hiệp định Genève.
Mục đích
Ngày quốc khánh song thất (7-7-1958), trong thông điệp gởi đồng bào, TT
Diệm nói rõ mục đích chính sách dinh điền : « Võ trang vật chất cho dân
theo đúng chính sách thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội. Chính phủ chủ trương
hữu sản hóa dân vô sản, trái với chủ trương của cộng sản là vô sản hóa nhân
dân. Chính phủ chủ trương mỗi người dân được làm chủ một tư sản cơ bản cụ thể
cho đời sống tự do cho mình và gia đình đồng thời là cái vốn để tiến tới một
đời sống mới ngày thêm sung túc». Ngoài ra, chính sách dinh điền còn theo đuổi
các mục đích sau:
- Mở rộng đất canh tác trên những cánh đồng bỏ hoang vì chiến tranh,
khẩn hoang vùng đất phèn sình lày, miền Đồng Tháp, khai phá lau lác, rừng sát
miền Hậu Giang, phá rừng làm rẫy và trồng cây kỹ nghệ miền Đông và cao nguyên…
- Định cư các đồng bào vô sản địa phương, binh sĩ giải ngũ, đồng bào
nghèo miền Trung đi tìm một tương lai sáng lạn hơn;
- Gia tăng sản xuất lúa gạo để xuất cảng;
-Quy dân thành những xã lớn cho tiện thiết lập các cơ sở cộng đồng
(trường học, bệnh xá…) cải tiến dân sinh .
Thực hiện
Tại mỗi vùng dinh điền, các địa điểm dinh điền được tuần tự thành lập
theo cách «vết dầu loang» đã được nhà Nguyễn áp dụng trước đây. Sự hình thành
địa điểm dinh điền trải qua nhiều giai đoạn. Khởi đầu, Phủ Tổng Ủy Dinh Điền lo
các công việc chính sau với sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chánh của chính phủ :
- điều nghiên địa thế của khu cư trú đối với hệ thống giao thông, dẫn
thủy, đặc tính thổ nhưỡng khả canh;
-trù liệu đồ án : phân lô đất canh tác và đất dựng nhà vườn, phác họa
đường xá, vị trí các cơ sở cộng đồng (trường học, bệnh xá, chợ, trụ sở ban quản
trị, chùa hoặc thánh đường, ước tính phí tổn ngân sách…
-kế hoạch cư dân : trợ cấp cất nhà, ngưu canh điền khí, gạo đủ ăn từ 5
đến 9 tháng;
- vận động di dân và lập danh sách các gia đình xin định cư; theo
nguyên tắc, mỗi gia đình phải gồm có một đàn ông và hai người trưởng thành khỏe
mạnh để có thể canh tác đất cấp phát (3 đến 5 Ha) và thu ngắn thời gian lệ
thuộc chính phủ;
- chuyên chở di dân đến địa điểm dinh điền;
- định cư : chia lô đất (cất nhà, làm ruộng hay rãy), tổ chức cất nhà,
cơ sở cộng đồng, tôn giáo, cấp bằng khoán, hướng dẫn canh tác, đào kênh, xẻ
mương, đào đìa cá…
Trợ cấp của chính phủ
Mỗi địa điểm dinh điền gồm độ 200 gia đình (khoảng 1000 người), chính
phủ dự trù hai loại trợ cấp : trợ cấp trực tiếp cho mỗi cá nhân và trợ cấp xây
dựng địa điểm.
Trợ cấp trực tiếp cho mỗi cá nhân thành niên.
|
Tính theo
đồng VN$
|
Chuyên chở
Phí tổn cất nhà
Tiền mặt cho 3 tháng đầu
Tiền mặt cho 3 tháng sau
Số lượng gạo cho 9 tháng
Mùng, mền, chiếu
Nông cụ
Gia súc
Hạt giống
Thuốc men
Khai hoang
Tổng cộng
|
300
300
540
360
945
60
70
100
70
60
2000
4805
|
Tiền
trợ cấp xây dựng cơ sở cộng đồng dự chi cho một địa điểm dinh điền 200 gia đình
gồm khoảng 2000 người.
|
Tính theo
đồng VN$
|
Cơ sở hành chánh, giếng nước
Lương bổng hàng năm cho nhân
viên
Quản trị
Tổ chức từ thiện
Văn phòng phẩm
Xăng nhớt
Bảo trì, sửa chữa máy móc
Tổng cộng
|
213 912
223 200
73 000
34 000
101 160
36 000
681 272
|
Trước khi dân đến định cư, Quốc Gia nông cụ cơ giới
cuộc đến khai hoang và cày bừa. Cơ quan này được trang bị 234 máy kéo, 168 máy
ủi, 393 máy cày bừa. Trong trường hợp một địa điểm dinh điền gặp khó khăn như
mất mùa, cây khó mọc vì đất xấu… chính phủ viện trợ thêm cho ngân sách và gia
tăng thêm thời hạn trợ cấp cho tới 12 hay 18 tháng với mục đích giúp dân tự túc
và hội nhập mau chóng vào môi sinh mới.
Quản trị hành chánh
Mỗi địa điểm dinh điền dặt dưới sự điều khiển của một
ban quản trị gồm 5 người: chủ tịch địa điểm, thư ký, y tá, bà mụ, ủy viên canh
nông. Năm địa điểm dinh điền nằm gần nhau sẽ trở thành một tiểu khu dinh điền
đặt dưới quyền một sĩ quan quân đội với hai phụ tá lo về kỹ thuật máy móc nông
cụ. Một khi đã tự túc được, địa điễm sẽ mất quy chế dinh điền và trở thành một
ấp hay xã.
Thành quả
Năm 1963, theo tài liệu của phủ Tổng Ủy Dinh Điền, các
địa điểm dinh điền đã canh tác 119 788 Ha ruộng, trồng 28 678 Ha cây cao
su, 1 208 Ha
cây cacao, kenaf và cây sơn. Chính phủ đã làm được 1313 cây số đường lộ nối với
hệ thống giao thông cũ, đào 66 giếng nước đào tay và 970 giếng đào máy, xẻ 37
cây số kênh đào, bắc 1678m cầu, dựng 25 990 căn nhà, 14 kho chứa đồ, 26
trạm y tế và hộ sanh, 37 trường học.
Từ năm 1957 đến năm chấm dứt chính sách dinh điền
(1963), tổng cộng chính phủ đã thành lập 192 địa điểm dinh điền, định cư
50 931 gia đình (khoảng 289 790 người).
năm
|
Chi phí của chính phủ
(đồng VN$)
|
Số địa điểm
|
Số dân định cư
|
1957
1958
1959
1960
1961
1962
1963
|
240 080 000
145 780 000
388 400 000
495 000 000
401 770 000
430 000 000
267 900
000
|
17
29
35
40
21
29
21
|
40 582
43 479
57 880
51 840
33 182
33 537
29
270
|
Bảng
phân phối số địa điểm dinh điền theo vùng và tỉnh năm 1963
Tỉnh
|
Số địa điểm
(năm
1963)
|
Miền Tây Nam Phần
Kiến Phong
Kiến Tường
Kiên Giang
An Xuyên
Ba Xuyên
|
8
11
4
7
1
|
Miền Đông Nam Phần
Phước Long
Bình Tuy
Tây Ninh
Bình Long
Phước Thành
Bình Dương
Long Khánh
Phước Tuy
Bình Thuận
|
25
10
3
11
7
6
7
3
2
|
Cao nguyên
Quảng Đức
Darlac
Pleiku
Kontum
Phú Bổn
|
9
14
20
4
7
|
Bảng phân tích quê quán, tuổi, tín ngưỡng và nghề
nghiệp của 289 720 dân định cư tại dinh điền.
Quê quán
Dân
di cư miền Bắc
Quảng
Ngãi
Bình
Định
Quảng
Nam
Quảng
Ngãi
Thừa
Thiên
Đồng
bào Thượng
Cựu
binh sĩ
Trung
Hoa
Số
khác
|
Tỷ
lệ % theo
Tổng
số
26
14
11
22
10
4
5
4
2
2
|
Tuổi
Dưới
16
Từ 16
đến 59
Trên
60
|
48,6
45
6,4
|
Tôn giáo
Phật
giáo
Công
giáo
Tôn
giáo khác
|
48,3
45
6,4
|
Nghề nghiệp
Nông
nghiệp
Ngư
nghiệp
Công
nghệ
Thương
mại
Nghề
khác
|
93,2
2
2
0,1
2,7
|
Các bảng thống kê trên cho chúng ta những nhận xét
sau.
- Từ 1961, số di dân và địa điểm dinh điền giảm dần vì
chính phủ ưu tiên cho chính sách ấp chiến lược,
-Trên tổng số dân dinh điền, gốc ở miền trung chiếm
61% tổng số, làm nghề nông 93,2% .
Để có một cái nhìn chi tiết về chính sách dinh điền,
chúng tôi mô tả sự định cư ở hai địa điểm dinh điền Cái Sắn và Tư Hiền mà chúng
tôi có dịp tìm hiểu tại chỗ.
A. Dinh điền Cái Sắn
Tháng 3 năm 1958, Phủ Tổng Ủy Dinh Điền nhận đơn xin
định cư ở dinh điền Cái Sắn 2 nằm trong tỉnh Kiên Giang. Địa điểm dinh điền
rộng khoảng 4000 Ha
gồm 1515 Ha ruộng truất hữu do luật cải cách điền địa số 57, diện tích còn lại
là ruộng của chính phủ mua lại của điền chủ pháp theo thỏa ước Việt-Pháp ký năm
1956.
Rút được kinh nghiệm và thành công của khu định cư tỵ
nạn Cái Sắn 1, dinh điền Cái Sắn 2 dập theo đồ án chia lô của Cái Sắn 1. Đất
dinh điền được chia thành 1304 lô, mỗi lô rộng 3Ha, phân chia như sau:
-276 lô nằm đầu kênh cạnh tỉnh lộ dành cho các chủ
điền bị truất hữu
-28 lô dùng để xây cơ sở cộng đồng: công sở, trường
học, nhà hộ sanh, giáo đường…
-1000 lô còn lại phát cho 1000 gia đình (đa số là
người tỵ nạn gốc Bùi Chu, Nam Định).
Cái Sắn 2 chia thành hai xứ đạo, thánh đường do tín đồ
góp công xây cất.
Hình thức cư trú giống như Cái Sắn 1. Nhà nhìn ra
kênh, ruộng sau nhà, lô này nằm sát lô kia chạy dài hai bên bờ hai kênh mới đào
xong. Kênh số 7 dài 11,2 cây số, rộng 9m, sâu 2m, tập trung 441 gia đình. Kênh
số 8 dài 10,7 cây số tụ tập 559 gia đình. Hai kênh này nối với hai kênh chính
Cái Sắn, Chương Bàu, nằm cách nhau 2000m.
Trước khi di dân đến, Quốc Gia Nông Giới Cuộc đã cho
cày bừa đất sẵn sàng chờ vụ mùa tới.
Sau khi đã chọn lô đất, mỗi gia đình nhận được một
sườn nhà, một tam bản, mùng mền chiếu, hạt giống, gạo đủ ăn trong 3 tháng…
Nhờ kinh nghiệm của Cái Sắn 1, sự ổn định định cư chỉ
kéo dài 6 tháng. Cuối năm 1958, dinh điền Cái Sắn 2 được sát nhập vào xã Thạnh
Đông tỉnh Kiên Giang.
Địa Điểm dinh điền Cái Sắn 3. Sau thành công của Cái
Sắn 2, Tổng Ủy Dinh Điền cho thành lập dinh điền Cái Sắn 3 nằm kế bên Cái Sắn 2
với dự tính:
- định cư 1500 gia đình khoảng 75 000 người,
- gia cư và ruộng vườn chạy dài dọc theo 3 kênh đào
(số 6, 9, 10) trên một diện tích 12 000Ha.
Xây dựng địa điểm dinh điền này bỏ dở coi như bị thất
bại vì không giải quyết được vấn đề bồi thường cho các điền chủ cũ.
Sau khi địa phương hóa, các khu định cư Cái Sắn được
sát nhập vào 3 xã địa phương:
- Xã Thạnh An, quận Thốt Nốt, tỉnh An Giang,
- Xã Thạnh Đông, quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang,
- Xã Tân Hiệp, quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang.
B. Dinh điền Tư Hiền
Năm 1956, TT Diệm quyết định cho thành lập tỉnh Phước
Long để thu hút di dân khai thác cây kỹ nghệ giữa miền rừng hoang vu ở miền
đông Nam Phần. Việc cư dân mở rộng đất canh tác dựa vào chính sách dinh điền.
Năm 1957, Tổng Ủy Dinh Điền cho thành lập thí điểm
dinh điền tiền phong: địa điểm Phước Quả nằm gần tỉnh lỵ và địa điểm Vĩnh Thiện
cạnh quốc lộ 14. Tiếp theo các địa điểm khác được thiết lập tuần tự dựa vào
kinh nghiệm của hai thí điểm trên. Đến năm 1963, tỉnh Phước Long xây dựng được
25 địa điểm dinh điền chia ra làm hai khu vực.
Khu vực dinh điền 1 gồm các địa điểm sau : Phước Quả,
Phước Tín,, Bà Rạt, Đức Bổn, Hiếu Phong, Lễ An,, Thuần Kiệm, An Lương, Phong
Thuần, Thuần Kiên 4, Vi Thiện, Vĩnh Thiện, Văn Đức, Trạch Thiện, Thuận Đáo,
Rạch Cát.
Khu vực dinh điền 2 : Nhơn Lý, Phú Văn, Đức Hạnh, Tư
Hiền, Khiêm Chưng, Tùng Thiện, Khắc Khoang, Hòa Kỉnh, Phú Nghĩa.
Để có một ý niệm về các địa điểm dinh điền ở Phước
Long, chúng tôi chọn địa điểm dinh điền Tư Hiền làm thí dụ.
Tháng 4 năm 1962, trong dịp đi kinh lý tỉnh Phước
Long, TT Diệm đặt lại tên địa điểm Trúc Sơn là Tư Hiền vì đa số dân quê quán xã
Tư Hiền, tỉnh Thừa Thiên. Địa điểm dinh điền được thành lập năm 1961, cách tỉnh
lỵ 2 cây số. Đợt di dân đàu tiên đến Tư
Hiền gồm 50 gia đình, 305 người. Đợt thứ hai gồm 40 gia đình, 262 người. Ngay
khi đến, 65 gia đình nhận được 65 căn nhà đã dựng sẵn, mỗi gia đình còn lại
nhận được 1300 VN$ để dựng nhà. Cũng như các địa điểm khác, đất khả canh đã
đươc khai hoang, phân thành lô. Mỗi gia đình chiếm một lô 30m/50m và có thể mở
rộng sâu vào trong tùy theo khả năng tài chánh và nhân công của mỗi gia đình.
Trong 6 tháng đầu định cư, mỗi người lãnh trợ cấp hàng tháng là 360 VN$, 15 kí
lô gạo (trẻ em dưới 15 tuổi lãnh 180 VN$, 9 kí lô gạo). Số trợ cấp sẽ giảm đi
một nửa trong 5 tháng tiếp theo.
Sau khi định cư rồi, các di dân lo trồng cây ăn trái
quanh nhà, soạn đất trồng đậu phọng, khoai lang, khoai mì, lúa mọi… Vì là đất
rẫy trên phù sa cổ, nghèo nàn, thiếu nước tưới nên năng xuất thấp, nhất là cấy
lúa mọi.
Từ năm 1973, các địa điểm dinh điền ở Phước Long tan
rã trước sức tấn công của cộng sản. Dân dinh điền phải di tản về Bình Dương.
Khu trù mật
Ngày quốc khánh Song Thất 1959, trong bài diễn văn gởi
toàn dân, TT Diệm tuyên bố : « Năm nay, tôi đề ra công tác lập khu trù mật tại
thôn quê, ở những nơi giao thông thuận lợi, hợp vệ sinh, có những tiện nghi tối
thiểu, để tập hợp những người nông dân sống lẻ tẻ thiếu thốn…». Bắt đầu năm
1960, quốc sách khu trù mật được thực hiện một cách long trọng nhằm qui tụ dân
địa phương thành những vùng cư trú mang sắc thái thành thị để trở thành quận lỵ
hay tỉnh lỵ. Tính cách quan trọng của quốc sách được đánh dấu bởi chính TT Diệm
cũng tham dự vào lựa chọn địa điểm khu trù mật. Nhân ngày khánh thành long
trọng khu trù mật Vị Thanh- Hỏa Lựu (12-3-1960), TT Diệm tuyên bố nhấn mạnh đến
lợi ích của quốc sách khu trù mật như sau: « Ý nghiã khu trù mật là xây dựng
một xã hội mới để thực hiện công bằng, bác ái, đồng tiến xã hội với phương tiện
của một nước kém mở mang, thiếu tiền, cán bộ…».
Lý do thiết lập khu trù mật
Rất nhiều tài liệu chính phủ điều nghiên nhân sinh,
kinh tế, chính trị, an ninh đã thúc đẩy sự hình thành quốc sách khu trù mật với
những mục tiêu sau :
1) Các nông dân sống lẻ loi, thấp kém ở sâu trong vùng
hoang vắng cần được tập hợp lại để chính phủ có thể cải thiện đời sống tăm tối
của họ,
2) Giải tỏa các khu cư trú ổ chuột, lụp sụp, thiếu vệ
sinh bên bờ sông, kênh rạch để đưa họ đến sống trong khu trù mật với các tiện
nghi bảo đảm cho đời sống,
3) Biến khu trù mật thành động cơ giúp các vùng nông
thôn lân cận cải tiến dân sinh và phát triển kinh tế;
4) Tạo một đời sống mới trong mỗi khu trù mật về
phương diện :
- xã hội với nhà hộ sanh, trường học, ký nhi viện…
- kinh tế bằng mở đường giao thông thương mại với
quận, tỉnh lỵ, xây chợ, phát triển công nghệ, điện khí hóa,
- an ninh như tránh nạn cường hào ác bá.
Theo đuổi những mục đích trên, các khu trù mật đều đươc
thiết lập ở địa điểm thích nghi về phương diện an ninh, kinh tế, giao thông.
Giai đoạn thực hiện
Với kinh nghiệm rút tỉa từ những khu định cư dân tỵ
nạn và dinh điền, chính phủ có sáng kiến kêu gọi người dân đích thân tham dự
vào công tác xây dựng khu trù mật mà họ sẽ sống để tránh sai lầm của chính sách
dinh điền. Sai lầm này là vì chính phủ trợ cấp tất cả chi phí định cư cho nên
người dân lợi dụng kéo dài trợ cấp cá nhân, ù lì, ăn bám trợ cấp… Với chính
sách khu trù mật, chính phủ chỉ cung cấp phương tiện vật chất như chuyên chở,
chi phí dựng nhà, dự trữ lương thực trong một thời gian ngắn. Công việc của
chính phủ là lo xây dựng hạ tầng cơ sở, dịch vụ cộng đồng và cho khu trù mật
vay dài hạn để cất chợ, trường học, nhà hộ sanh, cơ xưởng công nghệ… Trợ cấp
của chính phủ cho mỗi khu trù mật là 1 000 000 VN$ và việc thiết lập
chia ra từng giai đoạn.
Giai đoạn 1. Chọn địa điểm.
Với sự cộng tác của chính quyền địa phương, một ủy ban
chuyên viên đi tìm kiếm địa điểm phù hợp với điều kiện thành lập khu trù mật,
rồi đề nghị lên chính phủ. Mục đích chính của chính sách là thành thị hóa khu
trù mật nên sự lựa chọn địa điểm dựa trên các dữ kiện sau:
- điều kiện giao thông có thể nối khu trù mật với tỉnh
lỵ gần bên,
- có khả năng phát triển thương mại, công nghiệp và
nông nghiệp,
- được bảo vệ an ninh bởi quân đội.
Giai đoạn 2. Phác họa dự án.
Ban giám đốc xây cất chịu trách nhiệm vẽ đồ án khu trù
mật dựa trên tài liệu phúc trình của ủy ban chuyên viên. Sau khi dự án được
chấp thuận, chính phủ cho xây cất hạ từng cơ sở (đường xá, cầu cống…) và bổ
nhiệm một ban quản trị.
Giai đoạn 3. Định cư và dựng nhà.
Công việc này được thực hiện dưới hình thức tương trợ
và làm việc tập thể với nguyên tắc là tất cả dân đều tham dự vào xây dựng khu
trù mật. Mọi người dân đều cùng chung góp sức vào việc dựng nhà, đắp nền, dọn
đất vườn…và tham dự vào công việc chung xây dựng khu trù mật.
Hình thức cư trú
Khác với địa điểm dinh điền, hình ảnh cư trú khu trù
mật có đặc điểm thành thị và nông thôn cổ truyền. Cư trú có hoạch định, tập
trung, phân lô, đường lộ kẻ thẳng góc. Đồ án khu trù mật gồm ba khu hoạt động
rõ rệt:
- khu hành chánh (văn phòng ban quản trị, chùa, thánh
đường, trường học, nhà hộ sanh, trạm y tế),
- khu công thương (tiệm buôn, tiệm tạp hóa) quanh chợ,
sát lộ , sông, kênh đào,
- khu cư trú và canh tác cũng được chia thành lô vuông vắn làm nhà,
trồng rau cây trái, chăn nuôi, đào ao nuôi cá, cấy ruộng sau nhà; trong khi đó,
mỗi nông dân vẫn tiếp tục canh tác ruộng cũ;
- số dân cư đông khoảng 10 000 người (theo lý thuyết);
- quê quán là người dân địa phương lân cận hành nghề
thương mại, công nghệ, nông nghiệp…
Thành quả
Tính từ ngày 7 tháng 7 năm 1959 đến ngày 30 tháng 6
năm 1963, chính phủ đã thành lập 26 khu trù mật và 10 ấp trù mật, định cư 9127
gia đình, khai thác 6 706
Ha đất. Dưới đây là bảng phân phối khu và ấp trù mật
trong các tỉnh trên đồng bằng Cửu Long.
Tỉnh
|
Khu
trù mật
|
Ấp trù mật
|
An
Xuyên
Ba
Xuyên
Chương
Thiện
Kiên
Giang
An
Giang
Vĩnh
Bình
Vĩnh
Long
Kiến
Hòa
Định
Tường
Kiến
Tường
Long
An
Biên
Hòa
Kiến
Phong
|
Khai Quang, Khánh Bình
Hòa Tú, Cái Trầu
Vị Thanh, Hỏa Lựu, Phước
Long, Ngọc Hà
Thanh Hòa
An Long, Hạc Phong, Thạch
Lâu
An Trường, Long Vĩnh
Cái Sơn, Tân Lược
Thành Thới, Thới Thuận, Hàm
Long, An Hiệp
Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây
Bình Thành Thôn, Thụy Đông
Đức Huệ
Hang Nai
|
Mỹ
Phú, Sơn Hà
Ngã
Ba
Phú
Mỹ
An
Long, Phú Thạnh,Bè Ngàn, Gõ Mười Tài, Vườn Tãi, Vườn Tràm
|
Một số khu trù trở thành quận lỵ như khu Thanh Hòa
(kiên Giang), khu Thụy Đông (nay là quận lỵ Tuyên Nhơn, Kiến Tường), thành tỉnh
lỵ như khu Vị Thanh (Chương Thiện).
Tuy địa điểm các khu dinh điền được lựa chọn ở vị trí
tiện giao thông, thương mại, canh tác để cải tiến dân sinh, nhưng vì nhu cầu
chiến lược cấp bách nên đa số chiếm vị trí tiền đồn đối diện với vùng hoang
vắng và xâm nhập cộng sản. Đơn cử vài thí dụ sau.
Khu trù mật núi Ba Thê, núi Trọi (An Giang) án ngữ
hành lang xâm nhập cộng sản từ mật khu Thất Sơn về vựa lúa An Giang, Kiên
Giang.
Khu trù mật Cái Sơn (Vĩnh Long) chặn đường xâm nhập
cộng sản từ mật khu Vĩnh Bình vào Vĩnh Long.
Khu trù mật Vị Thanh-Hỏa Lựu kiểm soát thủy lộ chánh
từ Cà Mau đi Cần Thơ và đối diện với cả khu rừng tràm, rừng sát của U Minh.
Khu trù mật Thụy Đông (Kiến Tường) tập hợp dân các ấp
Nước Trong, Ngã Cây, Xóm Mới, Bến Kè nhằm kiểm soát giao thông thượng lưu sông
Vàm Cỏ Tây, đầu kênh Lagrange và Trà Cú Thượng.
Khu trù mật Mỹ Phước Tây (xã Mỹ Phước Tây, quận Khiêm
Ích, Định Tường) nằm giữa kênh Tổng Đốc Lộc và kênh Cái Chuối, bảo vệ lộ trình
từ Đồng Tháp về quận lỵ Khiêm Ích, Cai Lạy và quốc lộ 4.
Vì vậy, sau 1963, có khu trù mật như khu trù mật Đức
Huệ (Long An), nhất là các ấp trù mật bị chiếm đóng và phá hủy bởi cộng sản,
thí dụ như ấp trù mật Phú Mỹ (định Tường), được thiết lập để cô lập hóa cộng
sản vùng ven biên Đồng Tháp bằng cách qui tụ vào ấp các nông dân sống hẻo lánh
dọc theo rạch Láng Cò, Láng Cát.
A. Khu trù mật Vị Thanh
Chính TT Diệm tham dự lựa chọn địa điểm và có sáng
kiến xây dựng khu trù mật Vị Thanh để biểu lộ quyết tâm thành thị hóa nông thôn
của tổng thống. Ngày 12 tháng 3 Năm 1960, tổng thống đích thân đến khánh thành
khu trù mật.
Tại sao chọn địa điểm Vị
Thanh?
Xã Vị Thanh là giao điểm của một hệ thống giao thông
quan trọng nối các tỉnh miền Hậu Giang. Vị Thanh nằm trên :
- tỉnh lộ 31 chạy ngang qua tỉnh Kiên Giang, Phong
Dinh, Ba Xuyên.
- kênh lớn thương mại Xà No nối Cà Mau, Phong Dinh và
Chợ Lớn. Nhờ có kênh Xà No, Cái Nhum, Ông Cai, người dân ở Vị Thanh có thể lui
tới được các vùng bán đảo Cà Mau và đặc biệt với vùng sình lày U Minh.
Vì vị trí giao thông, thương mại và chiến lược ngăn
chận xâm lăng cộng sản mà địa điểm Vị Thanh được chọn để sẽ trở thành một tỉnh
lỵ kiểm soát kinh tế, chính trị trên bán đảo Cà Mau.
Thành lập
Sau khi quyết định chọn Vị Thanh, đầu năm 1960, chính
phủ phái đến Vị Thanh mấy trăm công chức và thanh niên tự nguyện làm công việc
lên đất nền nhà, đào mương rãnh dẫn nước, khai hoang cỏ dại, vét sình lày, chia
lô đất… Đồng thời chính phủ trợ cấp 1 100 000VN$ để hoàn tất dự án
sau:
-100 000VN$ : thiết kế đồ án khu trù mật;
-100 000 VN$: mua thuốc men và tổ chức công tác
cộng đồng;
- 600 000 VN$: xây trường học, một bệnh xá, nhà
hộ sanh;
-300 000 VN$: máy phát điện, đào giếng bằng khoan
máy.
Ngoài ra chính phủ cho vay dài hạn số tiền
400 000VN$ để xây cơ sở hành chánh và chợ.
Sau khi xây dựng xong hạ tầng cơ sở, chia lô… chính
phủ khuyến khích các nông dân sống rải rác ở sâu trong vùng sình lày nước đọng
miền rừng sát đến định cư tại khu trù mật.
Quyết tâm của TT Diệm
Ngày 12 tháng 3 năm 1960, TT Diệm đích thân đến khai
mạc khu trù mật. Từ ngày đó, cộng sản gây áp lực bằng pháo kích, khiến một số
dân bỏ đi. Để tỏ quyết tâm thực hiện quốc sách trù mật, ngày 24 tháng 12 năm
1961, tổng thống ký sắc lệnh số 244 NV thành lập tỉnh Chương Thiện, tỉnh lỵ là
khu trù mật Vị Thanh. Tiếp theo, tổng thống chỉ thị bộ chỉ huy sư đoàn bộ binh
đồn trú thường trực tại đó. Hai biện pháp trên khiến an ninh trở lại, dân chúng
an tâm ở lại làm ăn và thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại một cách nhanh
chóng. Theo thống kê của tỉnh , năm 1972 dân số đã tăng lên 24 391 so với
18 824 người năm 1961, hoạt động kỹ nghệ có 15 nhà máy xay lúa, 2 máy in, 4 máy
sản xuất nước đá, 1 lò gạch…
Khó khăn chính yếu của khu trù mật là hệ thống thoát
thủy (kênh, rạch, cống rãnh nghẹt vì bùn) nên gây ra bệnh sốt rét. Năm 1969,
chính quyền xây cất bệnh viện Lê Hữu
Sanh trang bị một phòng thí nghiệm nghiên cứu ngừa bệnh sốt rét và tiêu diệt
muỗi anophèles.
Chợ tại khu trù mật Vị Thanh
(hình Sở Thông Tin năm 1960)
(A) (B)
Bản đồ xã Vị Thanh trước (A) và sau (B) khi
thành lập khu trù mật
Trạm y tế tại khu trù mật Vị Thanh
(hình Sở Thông Tin năm 1960)
B. Vùng trù mật Ba Thê
Năm 1959, xã Vọng Thê (quận Huệ Đức, tỉnh An Giang)
được chọn làm địa điểm vùng trù mật Ba Thê gồm 3 khu trù mật : khu trù mật An
long bao dưới chân núi Ba Thê, khu trù mật Hạc Phong bao quanh núi Tượng và khu
trù mật Thạch Lâu bọc núi Chóc.
Địa thế thiên nhiên và cơ cấu
điền địa
Xã Vọng Thê nằm trong vùng trũng thấp, đất phèn, cấy
lúa nổi. Mùa nước lớn, mực nước dâng cao đến 3m có thể làm thiệt hại vụ mùa lúa
nổi. Mùa nắng khô ráo, nước giựt, cỏ vàng khô cháy, lác đác trâu tìm bóng mát
bên gốc cây gáo sơ rơ, đất sét nứt nẻ và mao dẫn chất phèn lên mặt đất làm hại
vụ mùa.
Bốn ngọn núi nhỏ : núi Ba thê, núi Tượng, núi Trọi và
núi Chóc trấn giữ vùng trù mật Ba Thê. Núi Ba Thê gồm Ba Thê lớn cao 210m, dưới
chân có chợ của An Long và Ba Thê nhỏ nơi đồn trú văn phòng quận Huệ Đức (1959).
Xã Ba Thê rộng 21 347 Ha gồm :
- đất truất hữu theo dụ số 57 : 2 292Ha,
- đất thuộc điền chủ pháp Noblet : 446Ha,
- công điền : 2 286 Ha
- công thổ : 14 093 Ha,
- thổ cư : 122 Ha.
- diện tích còn lại là rừng tràm.
Để cung cấp đất ruộng cho vùng trù mật, chính phủ
trưng dụng:
- 270
Ha công thổ và đất tư nhân cải bộ thành công sản quốc
gia,
- 250
Ha của 90 chủ điền miên và việt.
Kênh đào
Dưới triều nhà Nguyễn, năm 1818, quan Thoại Ngọc Hầu
cho đào kênh Thoại Hà (từ núi Sập đến Rạch Giá) và kênh Mướp Văn. Thời Pháp cho
đào kênh Ba Thê chạy qua Ba Thê (12 cây
số) và nối với kênh Thoại Hà và kênh Mướp Văn ở chợ An Long . Công trình dẫn
nước rửa phèn, mở rộng thủy lộ đã thu hút nông dân và các điền chủ trồng cấy
lúa nổi.
Chung quanh núi Ba Thê, một kênh đào tay để rút nước
vào mùa mưa nhưng khô cạn vào mùa nắng khô.
Kênh núi Chóc nối với kênh Ba Thê tới Ba Dầu trước đào
tay rồi được nha Thủy Nông soáy vét.
Kênh núi Tượng (6 cây số) đào năm 1959 gồm kênh vòng
đai từ kênh Ba Thê bọc quanh núi Tượng rồi đâm trổ ra chợ Ba Thê.
Kênh núi Trọi do điền chủ đào xưa kia để thoát thủy và
chuyên chở lúa.
Khi bắt đầu lập khu trù mật, chính phủ cho đào tay rồi
xáng vét lại các kênh nhỏ trong lòng khu trù mật dài 1500m.
(A) (B)
Xã Vọng Thê trước (A) và sau (B) khi thành
lập vùng trù mật
Lý do chọn Xã Vọng Thê
Lý do kinh tế
và quân sự đã đưa đến quyết định chọn địa điểm vùng trù mật Ba Thê.
Trong thời kỳ chiến tranh (1945-1954), các đại điền và
nhiều đất ruộng bỏ hoang, không thoát thủy vì phù sa bít kênh rạch nên một lớp
phèn dày phủ trên mặt đất. Chính phủ muốn tập trung dân để tái canh, khẩn hoang
rừng tràm và biến nơi hẻo lánh này thành một thị tứ giống như khu trù mật Vị
Thanh.
Mục đích quân sự là chiếm cứ các ngọn núi nhỏ làm pháo
đài kiểm soát cả một vùng sình lày rộng lớn và nơi trú ẩn cộng sản trong khu
rừng tràm.
Thành lập
Tháng 10 năm 1959, sau khi đã mở rộng đường giao thông
thủy bộ, dự án vùng trù mật Ba Thê đươc thực hiện gồm ba khu trù mật : An Long,
Hạc Phong và Thạch Lâu.
Khu trù mật An Long. Đây là khu trù mật lớn nhất trong
vùng tập trung:
- 508 lô đất làm nhà (mỗi lô rộng 40/60m), bọc tựa vào
chân núi Ba Thê,
- công sở, trường học, công trường, hồ nước, 10 giếng
đào, ký nhi viện, vườn ương cây, máy phát điện…
Khu trù mật Hạc Phong có 192 lô nhà bọc quanh núi
Tượng và 101 lô nằm dưới chân núi Trọi. Mỗi lô rộng 40/75m.
Khu trù mật Thạch Lâu, nằm trong ấp Vọng Đông, có 106
lô đất (mỗi lô rộng 25/60m) bọc quanh núi Chóc.
Năm 1969, vùng trù mật Ba Thê sát nhập với xã Vọng Thê
và trở lại quyền kiểm soát quân đội quốc gia nên chúng tôi có thống kê năm 1973
của xã Vọng Thê như sau :
- dân số: ấp Vân Hiệp A chỗ chợ An Long có 553 nhà,
3665 dân; ấp Trung Sơn:
168 nhà, 976 dân; ấp Tân Tây: 458 nhà, 2622 dân.
-giáo dục : một trường trung học, ấp Tân Hiệp A (1 sơ
cấp), ấp Tân Tây (1 tiểu học, 2 sơ cấp), ấp Trung Sơn (2 sơ cấp), Vọng
Đông (4 sơ cấp), Hạc Phong (2 sơ cấp), Hai Trân (1 sơ cấp).
-y tế : 1 tiểu bệnh xá, 2 trạm hộ sanh, 2 trạm dự trữ
thuốc tây.
-kinh tế. dân chuyên sống về nông nghiệp sạ lúa nổi
vào mùa mưa, đào mương lên líp cao 2m làm vườn trồng rau cây trái, mùa khô vào
rừng tràm khai thác gỗ, đi làm công, cày gặt, lòi lúa vì diện tích đất khả canh
do chính phủ phát quá nhỏ.
Khó khăn
Khác với khu trù mật Vị Thanh, vùng trù mật Ba thê gặp
rất nhiều khó khăn về kinh tế, khác biệt sắc dân, tôn giáo…
Diện tích khu gia cư và canh tác quá nhỏ (0,24Ha ở Ba
Thê, 0,3Ha ở núi Tượng), đất thấp không phát triển được vườn rau, cây trái, mỗi
năm chỉ làm một mùa lúa nổi, năng xuất thất thường, không có thủ công nghệ, mùa
khô thất nghiệp thì vào rừng tràm lấy gỗ, đào đìa bắt cá lại bị cộng sản ngăn
cản.
Về tín ngưỡng, thành phần dân số nhiều dị biệt chính
trị và va chạm tôn giáo. Năm 1973, xã Vọng Thê có: 4 chùa việt dưới chân núi Ba
Thê (2894 tín đồ), một chùa miên tên Kalbobrưk, một trụ sở phật giáo Hòa Hảo
(7995 tín đồ), một thánh thất Cao
Đài (584 tín hữu), một giáo đường (865 tín đồ), đạo ông bà
(470 người).
Chính phủ không tôn trọng được nguyên tắc thành lập
khu trù mật. Trước khi thành lập vùng trù mật, năm 1959, 5700 dân sống ở xã
Vọng Thê. Chính phủ muốn tăng dân số lên 30 000 người để đáp ứng việc
thành thị hóa. Vì đa số dân chúng địa phương sống nghèo nàn hẻo lánh không chịu
về định cư tại khu trù mật, từ năm 1959 đến năm 1961, chính phủ phải bỏ nguyên
tắc căn bản của quốc sách khu trù mật bằng cách đưa 8500 di dân quê quán miền
Trung, 2900 dân di cư miền Bắc đến định cư ở khu trù mật và áp dụng trợ cấp như
trong chính sách dinh điền (mỗi gia đình nhận một lô đất đã đắp nền sẵn, 5000
VN$ làm nhà, dự trữ gạo, muối mắm cho 6 tháng).
Vì mục đích tối hậu là thành thị hóa vùng trù mật nên
đồ án hoạch định đường xá, kênh đào, nhà cửa theo đường thẳng. Vì vậy, đồ án đã
lấn chiếm ruộng đất tư nhân của dân địa phương và gây nhiều bất mãn dù được bồi
thường.
Năm 1959, quận lỵ Huệ Đức đặt dưới chân núi Ba thê
nhưng phải rút lui từ năm 1963 đến 1969 vì vấn đề giao thông tiếp viện và địa
bàn cô lập giữa vùng sình lày rừng tràm, dân thưa thớt. Một số dân chúng đã rời
bỏ vì vấn đề an ninh.
Khu trù mật An Long dưới chân
núi Ba Thê (Hình năm 1971)
Khu trù mật Thạch Lâu kéo dài tới chân núi Chóc
(hình năm 1971)
Quang cảnh vùng trù mật Ba Thê
(hình năm 1962)
C.
Ấp trù mật
Thành lập ấp trù mật trong trường hợp dân số tập trung không đủ cho một
khu trù mật. Trên thực tế, ấp trù mật nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của tình
hình chiến sự và hoàn toàn không theo tiêu chuẩn quốc sách khu trù mật. Ấp trù
mật nằm ở những vị trí chiến lược, tập trung dân rải rác sống ở những vùng hẻo
lánh về sống trong một vòng đai của ấp dưới sự bảo vệ của quân đội quốc gia để
cô lập hóa cộng sản tập trung trong vùng sình lày, lau sậy. Chúng tôi lấy ấp
trù mật Phú Mỹ làm thí dụ.
Xã Phú Mỹ thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường nằm giữa con đường
huyết mạch của đồng bằng Cửu Long (quốc lộ 4) và cánh đồng lau sậy bát ngát,
nơi đây là mật khu cộng sản huấn luyện
cán bộ, dự trữ binh khí lương thực trong thời kỳ 1945-1954. Sau hiệp định Genève
1954, sự lựa chọn xã Phú Mỹ làm nơi tập kết cán binh cộng sản lui về Bắc Việt
đủ nói nên tầm quan trọng vị trí chiến lược của xã Phú Mỹ và lập ấp trù mật Phú
Mỹ dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Năm 1959, ấp trù mật Phú Mỹ được thực hiện trong ấp Phú Xuân (xã Phú
Mỹ) ở hạ lưu rạch Láng Cát. Ấp tập trung 285 người sống rải rác dọc theo rạch
Láng Cát, Láng Cò và ven cánh đồng lau sậy sình lầy.
Mỗi gia đình nhận một lô đất (10/20m), một số tiền 8000VN$ để làm nhà,
một số thuốc men cần thiết và lương thực gạo mắm. Chính phủ cất văn phòng quản
trị và một trường sơ cấp (3 lớp học). Dân chúng được quyền ban ngày trở về nhà
cũ để bắt cá, gặt mùa, nhưng đến chiều tối phải trở về nghỉ trong ấp trù mật
được phòng thủ bởi một vòng đai đất cắm chông, gài mìn và dây kẽm gai. Sau
1963, cộng sản phá ấp trù mật, giải tán dân.
Tiếp theo ấp trù mật là quốc sách ấp chiến lược nặng tính cách quân sự
nên chỉ được đề cập sơ qua.
D.
Ấp chiến lược
Trước nguy cơ xâm lăng của cộng sản miền Bắc và để đối phó với tình
hình chiến sự, TT Diệm tuyên bố tổ quốc lâm nguy (1961) và ký sắc lệnh số 11
TTP ngày 3 tháng 3 năm 1962 phát động quốc sách ấp chiến lược. Bốn bộ (nội vụ, quốc phòng, giáo dục và
cải tiến nông thôn) được phối hợp chặt chẽ nhăm xây dựng quốc sách ấp chiến
lược dưới chỉ thị của tổng thống.
Mục đích
Ấp chiến lược theo đuổi mục đích
quân sự, kinh tế và cải tiến dân sinh nông thôn. Tuy nhiên, áp lực xâm lăng
cộng sản ngày một tăng khiến mục đích chính của ấp chiến lược là quân sự nhằm
tạo nên một trường thành ấp chiến lược võ trang chống lại cộng sản.
Mục đích quân sự
Áp dụng đường lối «tát nước bắt cá», chống bao vây thành thị, dành thế
chủ động, bắt dân chọn chiến tuyến;
-dành thế chủ động bằng thúc đẩy đến chiến tranh có giới tuyến,
-phá thế nhân dân của cộng sản, và dồn họ vào thế thụ động tập trung bị
bao vây bởi phòng tuyến ấp chiến lược rồi bị tiêu bởi quân đội chính qui, biệt
kích quốc gia;
-ép dân chọn phòng tuyến chống cộng và tránh tiếp súc tuyên truyền giả
dối.
Mục đích chính trị
Hướng dẫn dân làm quen với thể chế dân chủ bằng cách để dân tự bầu ban
trị sự ấp, lập hương ước dựa vào tập tục, lệ làng mà dân muốn.
Mục đích xã hội
-
thực hiện bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật không phân biệt
giai cấp xã hội,
-
tạo điều kiện thuận lợi cho ấp chiến lược cải thiện và thăng tiến xã
hội,
-
trên bình diện xã hội, tôn trọng và ưu tiên tinh thần cộng đồng và định
chế xã ấp xưa.
Mục đích kinh tế
Giúp cho ấp chiến lược tiến đến tự phòng, tự quản, tự
túc tạo thành một sợi dây xích vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội
quốc gia rảnh tay chống xâm lăng.
Sau khi các mục tiêu đươc ấn định, quân, dân, chính
học tập chính trị, đường lối của ấp chiến lược để phổ biến và giải thích cho
công chúng nhất là cho nông dân. Đồng thời chính phủ tổ chức các nhóm dân tình
nguyện đi thực hiện các ấp chiến lược ở nông thôn và kêu gọi dân thành thị cũng
như nông thôn hợp tác với chính sách.
Thực hiện
Chính sách ấp chiến lược được tiến hành nhanh chóng là
vì cơ cấu của ấp:
-
dân của ấp là dân sống tại chỗ,
-
địa bàn của ấp có thể là một ấp cũ, nhiều ấp tụ lại, nguyên một xã cũ
nếu có thể qui tụ lại trong một hàng rào phòng thủ.
Công việc thực hiện trải qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1. Tổ chức hệ thống phòng thủ chiến đấu từ
21 đến 45 ngày. Thực hiện các công tác sau:
- đắp một bờ lũy bằng đất, bên ngoài là đào hào cắm
tre nhọn, giăng dây kẽm gai và hầm chông,
- mở một cổng ra vào dưới sự kiểm soát của dân tự vệ
võ trang,
- đặt hệ thống báo động trang bị bằng còi tu huýt,
thùng hộp sắt trống phát tiếng báo động,
- kiểm tra và thanh lọc dân theo tuổi, tín ngưỡng,
khuynh hướng chính trị,
- đoàn ngũ hóa và tập quân sự dân từ 18 đến 45 tuổi để
bảo vệ ấp,
- bầu ban trị sự ấp và lập hương ước trong vòng 45
ngày.
Giai đoạn 2. Võ trang tinh thần nhằm kiện toàn dân sự.
Huấn luyện chủ nghĩa nhân vị tóm tắt trong ba khẩu hiệu sau:
- tam túc. Hướng dẫn dân ý thức tự túc quản trị hành
chánh, tự túc tổ chức kỹ thuật, tự túc tư tưởng về đời sống;
-tam giác. Mỗi người dân tự cảnh giác về sức khỏe, đạo
đức và óc sáng kiến;
- tam nhân. Phát triển con người toàn diện về bề sâu
(thân tâm), bề rộng (nghĩa vụ và quyền lợi đối với cộng đồng) và bề cao (tâm
linh hướng thượng).
Giai đoạn 3. Kiện toàn áp dụng chính sách ấp chiến lược từ trung ương xuống đến
địa phương.
Thành quả
Theo tài liệu của bộ nội vụ, đến tháng 10 năm 1963,
chính phủ đã thực hiện được :
- 11 847 ấp chiến lược
trong số đó 8679 ấp đã bầu ban quản trị và 8200 ấp đã lập hương ước,
-8 972 524 dân trong 8 371 ấp sẵn sàng
chiến đấu chống xâm lăng.
Tiếc rằng chính sách ấp chiến lược hoàn toàn
bị hủy bỏ sau năm 1963.
Thiên nhiên và quốc sách
Đồng bằng Cửu Long bao gồm các vùng đất phù sa cổ và
phù sa mới do hệ thống sông Cửu Long-Đồng Nai bồi đắp. Chính quyền cũng như dân
chúng thường chia đồng bằng làm hai miền: miền đông (từ tiền giang về các tỉnh
miền đông), miền tây từ tiền giang đến vịnh thái lan). Đồng bằng gồm năm vùng
đất lớn ảnh hưởng sâu đậm đến công trình cư dân khẩn hoang lập ấp dưới thời nhà
Nguyễn và Đệ Nhất Cộng Hòa.
Vùng đất cao miền đông Cửu long thuộc các thềm phù sa
cổ rộng và cao ráo nằm trong tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa,
Tây Ninh.
Các vùng trũng đất phèn (Đồng Tháp, Cà Mau),
Vùng trũng đất hữu cơ (U Minh, Cà Mau).
Miền phù sa nước ngọt dọc hai bên sông Tiền, Hậu.
Vùng đất giồng duyên hải từ tỉnh Gò Công qua Kiến Hòa,
Trà Vinh, Ba Xuyên và chấm dứt ở Bạc Liêu cách sông Gành Hào 3Km, chịu ảnh
hưởng nước mặn. Giồng là giải duyên hải xưa cũ
nằm gần song song với bờ biển.
Bảng tóm tắt địa điểm các trung tâm định cư trên các
vùng đất trên cho ta một ý niệm về lý do chọn lựa các khu định cư của quốc sách
thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
|
Số khu tỵ
nạn miền Bắc
|
Số khu
dinh Điền
|
Số khu
trù mật
|
Phù sa cổ
miền Đông
Sài
Gòn
Gia
Định
Biên
Hòa
Bình
Dương
Tây
Ninh
Phước
Tuy
|
20
12
37
56
14
20
|
|
1
|
Vùng đất
phèn
Kiến
Tường
Kiến
Phong
Châu
Đốc
An
Giang
Chương
Thiện
|
15
|
11
8
|
2
3
4
|
Vùng đất
hữu cơ
An
Giang
Kiên
Giang
|
|
7
4
|
2
1
|
Phù sa nước
ngọt
Định
Tường
Sa
Đéc
Phong
Dinh
Vĩnh
Long
|
10
3
6
|
|
2
2
|
Phù sa nước
lỡ, mặn
Long
An
Kiến
Hòa
Vĩnh
Bình
Ba
Xuyên
Bạc
Liêu
|
9
11
1
|
1
|
1
4
2
2
|
Nhà và nông địa
Ngày xưa, với quan niệm « nông dã thiên hạ chi đại
bản» cho
nên mỗi năm vào đầu mùa xuân, vua cày ba luống (tam thôi) ruộng « tịch điền »
mở đầu mùa lúa cho dân. Và mỗi người dân đều ước mơ sở hữu một vuông vườn, một
manh ruộng để có lúa đóng thuế cho vua, có tiền dư dã thờ cúng tổ tiên, có đất
chia cho con cháu phụng dưỡng mình sau này. Ruộng lúa mang nặng sắc thái tinh
thần cũng như vật chất như vậy nên ưu tư của thôn dân và chính quyền là mở mang
nông địa ruộng lúa.
Nhà và nông địa (vườn và ruộng) tượng trưng cho thôn
dân tự túc, tự cường, biểu hiệu cho phát triển khẩn hoang lập ấp và định ranh
giới cho quốc gia.
Đối với nông dân, «ruộng là da, nhà là xương» nên sự
lựa chọn cảnh trí cho nhà và nông địa rất quan trọng cho định cư trường tồn.
Tổng quát, khi đến định cư ở bất cứ vùng đất nào, nông
dân cũng chọn thế đất cao dựng nhà, lên vườn, có nước ngọt tưới bón rau cải,
cây trái. Khởi đầu, cư trú xã ấp đều uốn lượn theo những thế đất cao như các
giồng ở miền duyên hải, các mảng phù sa cổ cao ráo ở miền Đông, từ bờ sông vàm
rạch đổ vào sâu trong đất bưng và ngọn rạch (từ xóm vàm vào đến xóm ngọn)…
Nông địa bao gồm tất cả các vùng đất đai được sử dụng
nhằm phục vụ đời sống vật chất của thôn dân. Nông địa gồm hai loại: nông địa
nhân tạo (ruộng, vườn), nông địa thiên nhiên (rừng tràm, rừng sát, lung đìa…).
Nông địa nhân tạo gồm:
-vườn cây trái,
vườn rãy trồng rau, cải trên đất cao tự nhiên có sa cấu cát dễ cày bừa, thoát
thủy hay vun mô, lên líp. Còn ở vùng phù sa thấp ngập nước, lên vườn trồng cây
trái đòi hỏi nhiều công phu hơn; phải đào mương lấy đất lên líp, đánh vồng nhằm
hạ thủy cấp, xa chân nước phèn hay mặn để tránh úng thủy và mao dẫn các khoáng
chất độc hại. Cặp theo sông, rạch và kênh đào nước ngọt, thôn dân phải đào cái
xẻo hay mương nhỏ dẫn nước sông rạch thông thương với mương vườn, mương cá qua
hệ thống « bọng » điều hòa mực nước. Trái lại, xuống vùng nước lỡ, mặn, lên
vườn phải vào sâu trong rạch, xa sông lớn để giảm ảnh hưởng của độ mặn.
- ruộng. Loại ruộng phân biệt theo địa thế và cao
độ.Thí dụ ở miền Đông, ruộng gò, ruộng rãy nằm trên mảng phù sa cổ cao ráo,
ruộng triền uốn theo triền mảng phù sa, ruộng sâu hay ruộng bưng trải trên đất
phù sa nhiều sét, ngập nước chỉ cấy lúa vào mùa mưa vì vấn đề thoát thủy, rửa
phèn, muối. Từ nông địa căn bản đó, nông
dân mở rộng nông địa phụ (trồng khoai, sắn, bắp…) lên vùng đất cao sa cấu cát
nghèo nàn của mảng phù sa cổ hoặc tiến xuống vùng trũng khai mương rạch đắp bờ
cho thoát thủy, hạ độ phèn, muối để nới rộng diện tích ruộng lúa. Bành trướng
nông địa trồng lúa thường bị ngăn chặn bởi đất ngậm nước có nồng độ phèn pH
dưới 3 và độ mặn trên 4g/lít nước.
Nông địa thiên nhiên là sông, rạch cung cấp cá tôm,
rừng tràm (gỗ, củi, nung than, gác cây lấy mật, sáp ong, hái lá làm dầu tram), «động»
dừa nước cho lá lợp nhà.
Phù
sa cổ miền đông,
Vào thế kỷ XVII, triều đình đã lập trấn Gia Định, các cựu thần nhà Minh
đã đến cư trú ở Mỹ Tho, gần tỉnh lỵ Long An. Khi các lưu dân đầu tiên đến miền
đông thì một phần lớn đất đai ở đây còn hoang dã và rất ít người Miên sống thưa
thớt và bỏ đi về miền dưới như Trịnh Hoài Đức
viết « người Cao Miên
khâm phục oai đức của triều đình đem nhượng hết đất rồi tránh ở chỗ khác, không
dám tranh trở chuyện gì».
Cỏ um tùm dưới thấp ngập nước, rừng cây dã thú hùng cứ trên cao mảng phù sa cổ.
Cho đến năm 1904, số dã thú bị giết là 38 con cọp, 19 con báo, 6 con voi
.
Miền đông, dân Việt đến Biên Hòa-Gia Định, hướng dần theo các triền của từng mảnh phù sa
cổ đất xám hướng lên phía Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Khi di dân đến đây, việc đầu
tiên là định cư trên mảng phù sa cổ cao ráo dễ thoát nước, phá rừng lấy gỗ làm
nhà, cành làm củi, lấy đất làm vườn, đào giếng lấy nước ngọt. Tiếp theo dựng
nhà, lên vườn là khai thác nông địa trồng lúa trên các loại ruộng gò, triền,
bưng theo truyền thống: Thượng gia, hạ
điền.
Ruộng gò (ruộng rãy) trên phù sa cổ, sa cấu cát không giữ nước lâu lại
chóng bốc hơi nên dễ mất mùa, đất xấu nhưng đa dụng. Mùa mưa, cấy lúa sớm, bắt
mạ cho ruộng bưng, mùa khô làm rẫy trồng hoa màu phụ như đậu phọng, khoai, sắn,
bầu bí, thuốc lá.
Ruộng triền nằm suôi theo triền mảng phù sa cổ, có sa cấu sét pha cát,
được bao quanh bởi bờ mẫu cao giữ nước, cấy lúa (mùa mưa) trồng hoa màu phụ
(đậu phọng, khoai sắn, thuốc lá…) mùa nắng. Nhiều mảnh ruộng triền có thể canh
tác suốt năm thí dụ như trồng đậu phọng có thể tỉa mỗi năm ba lần : hai
mùa thuận và một mùa nghịch (bắt đầu mùa khô).
Ruộng bưng hay ruộng sâu
dưới triền phù sa cổ, trên phù sa mới pha nhiều đất sét ngập nước, chứa nhiều
chất hữu cơ, thường ẩm ướt chứa phèn hay muối do mao dẫn, thôn dân canh tác ruộng
bưng (ruộng sâu) vào mùa mưa như lời dạy :
Ra đi cha mẹ dặn dò,
Ruộng sâu thì cấy, ruộng gò thì gieo.
Ngoài ra, thôn dân còn có thể khai thác rừng sau ấp, bắt cá dưới rạch
sâu trong trảng.
Sau khi nhà đã dựng, lúa đã mọc, lưu dân mở rộng nông địa bằng :
-gia tăng đất trồng lúa. Nông dân xuống bưng, bàu,
trảng phạt cỏ, xẻ mương, đắp bờ khẩn thêm ruộng trên dải phù sa mới dưới thấp
trũng nước làm vụ lúa mùa mưa, hoặc phá rừng thưa trên đất podzolic xám nghèo
nàn để làm rãy,
- khai thác nông địa thiên nhiên bằng nghề làm rừng
kiếm củi, chặt gỗ làm than…
Từ thế kỷ XVIII, sau khi đã tận dụng nông địa trồng
lúa, nông dân miền Đông di dân xuống miệt vườn, sông sâu nước chảy. Sự kiện đó
cho thấy rằng:
-các trung tâm tỵ nạn quan trọng ở miền đông đều bám
vào các thành thị;
- tại sao vắng bóng khu trù mật;
-chỉ có những khu dinh điền nhỏ thưa dân nằm trên
những mảng đất xám nghèo nàn, thiếu đất ruộng canh tác, thôn dân phải trồng
rãy, vào rừng xẻ gỗ bán hoặc làm than, kiếm củi…Thí dụ định cư tại dinh điền
Văn Hữu để giải thích điều đó. 214 gia đình tỵ nạn gốc Thanh Hóa Nghệ Tĩnh đến
định cư ở Bình Giã (Q. Đức Thanh, Phước Tuy), được chuyển đến dinh điền Văn Hữu
(Q, Châu Thành, Bình Long). Năm
1960, chính phủ cho ủi rừng cây để giúp dân có nông địa sau:
-trồng bắp, khoai, lúa rãy đầu mùa mưa (du canh kiểu
người Thượng) bằng đào lỗ cách nhau khoảng 30cm rồi bỏ năm, bảy hột vào mổi lỗ,
-mỗi gia đình trồng được 100 cây cao su tháp giống mã
lai.
Còn nông địa thiên nhiên, thôn dân cưa cây lớn bán cho
xe be còn cây nhỏ hầm than bán về Sài Gòn.
Vùng trũng đất phèn
Phân tích bảng phân phối các trung tâm định cư của
quốc sách cư dân cho ta nhận xét sau: hầu hết các trung tâm quan trọng (về dân
số và kinh tế) của định cư dân tỵ nạn miền Bắc, dinh điền, khu trù mật đều nằm
trong vùng đất phèn. Lý do chính là đất có nồng độ phèn cao, thiếu phương tiện
thủy nông rửa phèn giúp cây lúa mọc đã ngăn chận bành trướng nông địa theo
phương tiện cổ truyền. Vì vậy, diện tích đất phèn hoang dã mênh mông vẫn nằm chờ
đợi quốc sách của Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trên đồng bằng Cửu Long, đất phèn bao phủ khoảng một
triệu Ha trong các vùng trũng ngập nước nguyên là biển hay đầm cô lập xưa như
Đồng Tháp. Dưới thời nhà Nguyễn, đất phèn là cản trở lớn cho mở rộng nông địa
và di dân. Phải đợi đến khi người Pháp đào kênh qui mô rửa phèn, nông địa trồng
lúa mới mở rộng được dọc theo các kênh dẫn nước ngọt từ sông Cửu đổ vào. Tuy
nhiên, đất phèn vẫn còn hoang dã trên nhiều vùng rộng lớn và chờ đợi quốc sách
dinh điền, khu trù mật và định cư dân tỵ nạn đến khẩn hoang khai thác. Chính
vùng đất phèn hoang dã này đã đánh dấu thành công quốc sách dinh điền của Đệ
Nhất Cộng Hòa vì đa số các khu tỵ nạn miền Bắc, khu dinh điền lớn và khu trù
mật đều nằm trong vùng đất phèn có nồng độ pH dưới 3 ở Đồng Tháp, U Minh, Kiên
Giang. Nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn những khó khăn thành lập địa điểm dinh
điền và của người dân sống trong đó. Chúng tôi mô tả lại cư trú và nông địa của
người dân sống tự túc trên đất phèn để cho thấy nếu không có sự trợ giúp qui mô
về tài chánh, kỹ thuật của chính quyền thì quốc sách định cư khẩn hoang không
thực hiện được.
Đặc điểm đất phèn
Loại đất quá phèn (nồng độ pH dưới 3) có sa cấu sét,
bùn lày không thấm nước, bị úng thủy ngập nước mùa mưa, khô ráo nứt nẻ mùa nắng
khiến chất pyrite bị oxyt hóa cho SO4H2 nên pH dưới 3. Nước phèn độc hại cho nước
uống và cây lúa vì chứa sulfate d’alumine Al2(SO4)3 và sulfate sắt Fe2(SO4)3. Vì vậy, cư trú xưa kia không
tiến sâu vào Đồng Tháp và bị giới hạn bởi nồng độ phèn cao làm hại cây lúa.
Cư trú
Giữa vùng đất phèn, nổi lên những gò sót cao sa cấu
thịt pha cát sỏi, những đồi thấp (núi Ba Thê, núi Trọi, núi Tượng…) là những
nơi cư trú hoặc len trâu vào mùa nước lớn trong vùng trũng đất phèn. Riêng Đồng
Tháp có nhiều gò đất cao giữa đầm lày. Gò nhỏ thì thu hút cư trú thành thôn ấp
(gò Ba Cảnh, gò Truông Óp, xã Tân Thạnh, Kiến Phong). Gò lớn nhất là gò Bắc
Chiên làm tỉnh lỵ Mộc Hóa. Trên đất phèn ngập nước này, quốc sách khu trù mật
đã chọn núi Ba Thê làm địa điểm trung tâm của vùng trù mật Ba Thê, cho đào kênh
thoát nước và dẫn nước ngọt vào rửa phèn, nước uống trông cậy vào nước mưa trữ
trong lu, hũ, khạp nên cư trú của di dân có thể thích ứng được với địa thế ngập
đọng nước phèn. Quan Trịnh Hoài Đức thời nhà Nguyễn tả Ba Thê như sau: «Cao 3
trượng, nơi đây 3 ngọn núi trùng điệp, xanh tốt có nhiều cổ thụ rườm rà…dân cao
miên ở theo triền núi và đường rừng, rạch, đã sinh nghiệp về sự săn bắn, lại
theo việc bủa lưới thả câu ở trong ao đầm thâu hoạch được hai mối lợi…».
Đào mương hạ thủy cấp và phèn
để lên
líp vườn, nền nhà trên đất
phèn
(hình năm 1972)
Kênh Đồng Tiến dẫn nước ngọt vào giữa Đồng
Tháp
đào dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa
(hình năm 1972)
Nhà thôn dân trong vùng ngập nước
trồng lúa nổi (hình năm 1972)
Nông địa
Để nói nên những nỗi khó khăn và vất vả muôn chiều của di dân đến vùng
này dù với hỗ trợ vật chất của quốc sách, chúng tôi nêu vài thí dụ cụ thể của
nông dân bành trướng nông địa theo phương thức cổ truyền với nỗi lo sợ quanh
năm: mùa mưa sợ nước dâng mau, mùa nắng sợ « phèn dậy » quá nhiều.
Ruộng lúa sạ được chia thành « cơi » hay « thiên » (thiên một, thiên
hai…). Mỗi thiên dài 1000m. Từ bờ sông đổ vào sâu bên trong, thiên một tính từ
ranh vườn vào sâu 1000m, tiếp đến là thiên hai…Ranh giới ruộng là những trụ đá,
gốc cây bên đường, bờ rạch, tầm mắt quen thuộc… vì quanh năm đất ruộng lúa sạ
là một tấm thảm liên tục mút tầm con mắt. Trên những mảnh đất phèn không cư
trú, các người dân sống ở những vàm rạch gần đó chờ mưa vào tháng lụt lội dưới
nước sông Cửu làm giảm phèn mới đến cấy lúa nổi được. Năm hạn hán hoặc tiểu hạn
kéo dài, chất phèn ít loãng, mùa thất bát. Dễ mất mùa vì nạn chuột và «chim lá
rụng» cả đàn sa xuống vụt lên là hết lúa.
Tuy nhiên, vùng đất phèn rộng lớn đó không có cùng một độ acid nghĩa là
mỗi cuộc đất lớn có nhiều độ pH khác nhau nằm xen kẽ nên có chỗ trồng được lúa,
chỗ bỏ hoang cho cỏ lát, cỏ ống mọc như
ở khu Tư dọc kênh Đồng Tiến ở Đồng Tháp. Năm 1970, xã Nhơn Ninh (quận Kiến
Bình, Kiến Tường) rộng 7520
Ha, chỉ trồng lúa trên 980 Ha còn lại bỏ hoang vì
độ phèn cao, sâu rầy, chim chuột đầy đồng cỏ.
Muốn chiếm canh một nông địa trồng lúa trên một « vạc » đất độ phèn
thấp, nông dân phải tốn rất nhiều sức lao động. Thí dụ ở xã Thạnh Trung (quận
Chợ Mới, An Giang), thôn dân đào mương rửa phèn, vớt lục bình bón vào đất
trũng, trồng cây điên điển đầy rễ giữ phù sa làm cứng đất và giảm phèn. Sau vài
năm đất thuần rồi mới được cấy lúa mà không sợ thất.
Theo kinh nghiệm, thôn dân khẩn những «vạc đất» mọc nhiều cỏ bông, lau
sậy dấu hiệu đất đã cứng, cao ráo có thể cấy lúa được ngay. Từ đầu tháng giêng
đến tháng ba, vào đốt đồng cỏ, chờ sa mưa dẫn trâu vào cày và dùng bừa chĩa bừa
cho tróc gốc cỏ rồi sạ lúa. Thôn dân nghèo thì dùng dùi «tỉa lỗ» gieo lúa rồi
lấy chà tre gai lấp các lỗ vừa gieo hạt để tránh chim, chuột phá hoại, trồng
cây điên điển sau nhà để rễ hạ phèn, cành làm củi.
Trong thời gian cày bừa gặt hái, thôn dân cất căn chòi nhỏ (trại ruộng)
tạm trú lúc làm việc đồng áng, hoặc cầm trâu lại nuôi, chăn một đàn vịt, bẫy
chim cò cuốc, le le, dí chuột, đào đìa, dăng câu, thả ấu sen trong lung, láng… Sau
mùa lúa chín, cảm thấy vững bụng sống được, thôn dân bắt đầu xẻ mương lên líp
lập vườn, đắp nền dựng nhà cư trú thường xuyên chăm sóc ruộng đất, lung, đìa.
Nông địa thiên nhiên
Sống trong vùng trũng đồng chua nước mặn ở Đồng Tháp, Cà Mau, rừng
tràm, đìa cá thường mang lại lợi tức quan trọng cho nông dân.
Từ xưa, ngoài việc trồng lúa nổi, dân địa phương sống cạnh vùng trù mật
Ba thê còn sống về khai thác rừng tràm gần đó. Ở quận Kiến Bình (Kiến Tường),
các khoảnh đất có độ phèn cao dành để trồng cây tràm (bán cây làm nhà, lá làm
dầu tràm, gác sào nuôi ong lấy mật). Bóng cây tràm thu hút cá lóc, rô, trê…cho
chài lưới, tát đìa.
Ngoài rừng tràm, nông địa thiên nhiên đìa cá là mối lợi lớn của nông
dân. Đìa là những nơi trũng, kín đáo mà cá hay tới lui trú ẩn, tìm mồi. Đến mùa
nước đổ (từ tháng bảy âm lịch), nước từ Kampuchia đổ xuống tràn đồng cuốn theo
cá trôi dạt lên đồng ruộng sanh sống cho tới mùa «nước dựt» (15 tháng 8 âm lịch đến 15 tháng 11) là tháng cá
xuống, lội ngược về xứ chùa Tháp. Một số cá tìm vào đìa sanh sống. Đến mùa khô,
nông dân tát đìa bắt cá bằng gầu hoặc chụp đìa bằng lưới cho cá ngộp thở, nổi
lên rồi túm lưới lại bắt cá.
Có hai loại đìa chính :
-đìa bưng là những vũng nước sâu tự nhiên được dân đắp bờ, xẻ họng đìa
đón cá.
-đìa đào có đìa lung nằm cạnh lung, đìa đồng đào ở một góc ruộng bao quanh
bởi bờ mẫu cao giữ nước cho cá. Lòng đìa được cắm chà tre gai, me keo, châm
bầu, lá dừa nước và thả rong, lục bình, cỏ ngựa cho cá được mát. Đìa đào có
kích thước trung bình 6m/12m sâu 2,5m và một họng đìa quay ra mương ruộng hay phía trũng của đường cá vô đìa.
Dân ở xã Tân Lập (kiến Tường) ngoài nghề tát đìa, giăng câu, đặt mọp ở
bệ cỏ, còn sống nghề cắt cỏ bàng mọc đầy đồng nước phèn. Cỏ bàng được neo thành
bó đem về giã cho thẳng sợi rồi đương thành từng đôi đệm 2m/2m. Những lúc rảnh
hơn, bơi xuồng đi vào giữa đám lúa trời, cầm hai thanh tre đập ngọn lúa vào be xuồng cho lúa
rụng vào khoang, móc củ sen, bẫy chích, bắt rùa, dí chuột dùng đinh ba nhỏ đâm
cá…
Tại U Minh Cà Mau, đất hữu cơ bao phủ khoảng 150 000 Ha, tạo nên
«cảnh tối tối, sáng sáng», nổi tiếng với «muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh bềnh
như bánh canh». Loại đất này có thể dày tới 4m, được cấu tạo bởi sự tích tụ cây
cỏ của rừng sát xưa, thường nằm trên lớp đất phèn hay hải vật sò hến. Các khu
đất có tỷ lệ hữu cơ cao (than bùn) đều bỏ hoang. Đất xốp chuồi, năm 1957, chính
phủ cho hai xáng nhỏ đào sâu thêm hai kênh Ranh Hạt nhưng phải bỏ dở vì đào
đằng trước thì đàng sau đất xốp chuồi lấp cạn ngay. Vì lý do đó mà thiếu bóng khu dinh điền cũng
như khu trù mật trên đất hữu cơ dù diện tích hoang dã rộng lớn.
Cư trú và nông địa.
Sau rừng tràm, là khu hậu rừng sát của cây choai, ràng dai tiếp theo là
vùng cỏ sậy, cỏ năng, thủy cấp gần mặt đất, phải đào mương thóat thủy mới cư
trú canh tác được. Nói chung, các thôn dân chọn vùng đất đã cứng cát có lớp mùn
mỏng và cây ráng mọc; đầu mùa nắng cắt cây ráng để khô héo trong nửa tháng, nổi
lửa nương gió mạnh để tiêu diệt cây ráng lấy đấy làm ruộng đầu mùa mưa. Lửa sẽ
làm cháy lớp mùn xốp tỉch trữ nước mưa nhưng cho tro tốt cấy lúa.
Lấy một thí dụ mở nông địa theo lối cổ truyền tại làng Đông Thái, Rạch
Giá. Một nhóm người từ long Xuyên xuống men theo bờ biển vào rạch, băng qua
rừng cây mấm, vùng cỏ thấp mọc trên đất phù sa mặn đắng, rồi dến khu rừng tràm
trầm thủy nằm gần U Minh. Đến rừng tràm, thôn dân đốn cây dựng nhà và lấy đất
trồng lúa, đào mương dẫn nước, lấy đất đắp nền nhà. Mùa mưa, nước đổ từ U Minh
ra biển nên đủ nước ngọt để dùng, nhưng đến mùa hạn phải đắp đập chận nước mặn…
Rừng tràm là nguồn tài nguyên phong phú cung cấp sáp và mật ong, cây gỗ
(cao từ 15 đến 20m) để làm nhà hoặc chở đi bán, cành làm củi, lá đem lọc làm
dầu tràm (gomenol), nước ngọt mang màu đỏ, nhiều mùi vị nhưng uống được. Các
địa điểm này đã mang lại cho dân một đời sống thoải mái như M. Gérard mô
tả : « Tại Cà Mau, đời sống thoải mái, dễ dàng, rừng ngay bên cạnh, những
cây dừa nước cao lớn mọc hai bên bờ sông rạch; đào ao nuôi cá thật quá dễ.
Nhiều rừng thưa rộng lớn, đất lại dễ cầy cấy. Lúc rảnh đồng áng, vào rừng săn
ong lấy mật, sáp hay chặt cây lấy củi làm than đem bán, hoặc đến mùa thì chèo
mướn…».
Một thí dụ khác đi tìm nông địa như thôn dân làng Long
Trị (Rạch Giá) lập xã ấp đầu tiên. Sơn Nam mô tả như sau « Một đoàn người từ
vùng cao dùng 4, 5 chiếc ghe xuống đem theo dao, búa, cưa, nồi, chó, lúa… đến sông
Cái Lớn là đất cao, không ngập nước nên rừng gừa mọc dày bịt cùng với cây bàng,
mù u, vẹt, bần… Họ vào vàm rạch nhỏ, đi quá 6 hay 700m cây rừng thưa dần; vào
sâu gần ngọn rạch là đến vùng sậy đế, đất thấp hơn ngoài ven sông cái… vùng
trong ngọn thuận tiện định cư canh tác nhờ đất thấp nên mùa mưa đủ nước làm
ruộng, và mùa nắng đắp đập giữ nước ngọt lại, sậy đế dễ dọn, cứ đốt trước rồi
chặt gốc còn lại… vào rừng đốn củi kiếm mật, sáp ong đem đổi lấy đồ gia dụng».
Những thí dụ trên đủ nói nên khó khăn áp dụng quốc
sách dinh điền tại đây. Dưới thời TT Diệm, các khu dinh điền như U Minh, Khánh
Lâm thiết lập trên đồng cỏ bao quanh đất hữu cơ Cà Mau là nhờ chọn địa điểm cư
trú trên các dải đất đã cứng cát, dễ khai phá, ít ảnh hưởng nước mặn, gần rừng
để có thêm lợi tức, cạnh rạch để dễ thông thương và nhất là có thể lên vườn
trồng cây ăn trái.
Vùng nước ngọt (miệt vườn)
Trong vùng nước ngọt «sông sâu, nước chảy» (Phong
Dinh, Sa Đéc, Vĩnh Long, Định Tường), dân cư đông đúc, đất đai gần như tận khai
nên không còn mảnh đất phù hợp cho dinh điền. Chỉ tiến gần đến nước mặn, đất cù
lao hoang vắng ẩm thấp, nhiều bùn non, dừa nước, bần, lác mọc um tùm. Muốn khai
phá, nông dân phải tốn rất nhiều công sức. Theo lệ thì trong tường hợp cù lao
«mọc» cách bờ không quá 10 sải bơi thì thuộc quyền sở hữu của các nhà đối diện
bên bờ rồi mới đến người khác; nếu quá 10 sải, mọi người đều có quyền đến cắm
cây phân ranh.
Thí dụ năm 1920, làng Tân Thạch (Kiến Hòa) cho phép
mỗi người dân khẩn 5 công (3 600
m2) theo chiều
ngang «dây đất ngang» và tự do khẩn «dây đất suôi» vào xâu bên trong gần lung,
láng, sẽ đóng thuế điền sau 12 năm. Công việc đầu là dọn dẹp cây cối, trồng
thêm lác cho đất thuần, mau cứng cát và bán lác dệt chiếu. Tiếp theo, thôn dân
đắp bờ bao ngạn dọc theo bờ cù lao để ngăn nước sông tràn vào. Lúc nước ròng,
đẩy xuồng ra lòng sông phía bờ bồi, móc đất rồi chờ nước lớn kéo xuồng đầy đất
vào bờ. Đất ướt đem phơi khô, dẻ lại mới đem đắp bao ngạn. Nhằm tránh đất lở,
dùng một vỉ tre kẹp sát vào bờ bao mới đắp, đóng sâu những cây cừ sát vào vỉ
tre. Bờ bao ngạn cứng cát rồi sẽ thành đường giao thông chạy bọc cù lao. Con
đường sẽ được bảo vệ bởi hàng dừa nước, bần trồng ven sông. Sau cùng, thôn dân
dọn «dây đất suôi» sâu vào bên trong để đắp nền nhà, lên líp vườn, xẻ mương
thoát thủy làm ruộng lúa.
Phù
sa nước lỡ và mặn
Vùng phù sa nước lỡ
gần duyên hải, chỉ lác đác có 20 trung tâm tỵ nạn miền Bắc (Long An, Kiến Hòa)
một địa điểm dinh điền tại Ba xuyên và vài khu trù mật nhỏ như thôn ấp. Lý do
chính là đường nước mặn xâm nhập nội địa, khắp nơi trên giồng đất cao có chứa
nước ngọt đều đã được chiếm cư, và đất trồng lúa dưới thấp đã được chiếm canh. Muốn
mở mang nông địa trồng lúa thì phải đắp đê, xây cống ngăn nước biển như người
Pháp đã làm tại Gò Công.
Cư trú và nông địa
Thôn dân cư trú trên giồng, cặp theo kênh rạch nước ngọt hay phân tán
trong vùng nước lỡ trồng dừa ở Kiến Hòa, Bến Tre (xứ dừa) hay trên ruộng cấn
giai ở Long An.
Xuống đến Long An, sự định cư chi phối bởi đường xâm nhập của nước mặn,
sa cấu có chứa nước ngọt. Vào mùa khô cuối tháng 3, độ mặn trên 4g/l tràn vào
sâu là vì :
-sức nóng mặt trời làm đất khô ráo tạo thẩm thấu của chân nước mặn tiến
sâu vào trong;
-lưu lượng hai sông Vàm Cỏ giảm, gió và thủy triều đẩy nước mặn vào
tràn ngập các địa thế thấp như ruộng biền dọc theo sông rạch.
Ở phía đông đường liên tỉnh 14, vì vấn đề nước mặn, nhà cửa lưu dân đầu tiên phân tán trên vùng
ruộng cấn giai cao chứa nước ngọt, xa đường nước mặn, có thể đào hào, ao ngay
cạnh nhà. Nhà nào cũng phải có hàng lu mái chứa nước mưa xếp hàng sau hè.
Ra đến gần duyên hải, cư trú tập trung trên các giồng (hình thoi, hình
cánh cung, hình tàu lá dừa nước…).Trung bình giồng rộng khoảng 200m, cao từ 3
đến 4m, dài 1 đến 2Km. giồng ở sâu nhất trong nội địa cách bờ biển 70 cây số, là giồng Nhị Quí và
Cai Lậy (Định Tường). Giồng biển ở Bạc Liêu dài đến 20 cây số, tại Kiến
Hòa, Ba Xuyên, nhiều giồng nhỏ dài từ 50m đến 100m gọi là «gò chạy» sa cấu cát
nghèo nàn.
Sự chọn lựa giồng làm nơi dựng nhà lập ấp còn bị ảnh hưởng của khoa
phong thủy vì giồng có chứa nước ngọt (thủy tụ), thế đất cao (dương), dài coi
như long mạch còn gò là «cù dậy» «cù nổi» là đất phát dương rất tốt cho dựng
nhà, xã ấp. Thí dụ trên đất giồng Gò Công, giồng Nâu và Vạn Thắng là mình rồng,
đầu rồng ở xóm Kiểng, hai chân trước ở xóm Tre và xóm Đập, hai chân sau ở xóm
Bưng và xóm Dinh.
Ở Bạc Liêu, người Tiều gọi giồng nhãn (giồng biển) là lếng (long) là
long mạch đầu ở hướng bắc, đuôi hướng nam. Nhiều người tiều mang hài cốt cha ông bên Tàu đem về mai táng.
Nông địa
Nông địa chính là vườn và ruộng lúa. Trên các giồng, nhờ cao độ và sa
cấu nhiều cát, dễ thoát nước, lên vườn trồng hoa màu phụ (rau cải, dưa, bắp,
sắn…), đào ao chứa nước ngọt, trồng được cây trái đa niên (mãng cầu, nhãn trên
giồng biển Bạc Liêu). Tại xã Mỹ Hòa quận
Cầu Ngan (Vĩnh Bình), thôn dân đào giếng cạn vì nếu đào sâu quá 15m sẽ gặp nước
mặn. Trên đất «rộc» (đất thấp nhiều sét), thôn dân đào nhiều bào lớn dài tới
500m để trữ nước ngọt và trồng rẫy (dưa hấu) vào mùa khô.
Dọc theo sông rạch là loại ruộng biền thấp sình lày thường bị thủy
triều tràn vào nên chỉ trồng được lúa vào mùa mưa.
Sau cùng, dọc theo duyên haỉ thôn dân chỉ sống nghề hạ bạc :
Chồng chài vợ lưới con câu
Chàng rể đi xúc, con dâu đi nò.
Thôn ấp tập trung ở vàm sông như xóm Đèn Đỏ, xã Vàm Láng (cửa sông Soài
Rạp), ở mỗi vàm rạch lớn nhỏ dọc duyên hải Cà Mau là trại tôm, xóm lưới, xóm
chài, trại nò, trại đáy.
Kết luận
Viết cuốn sách nhỏ này là để tưởng nhớ đến một vị tổng thống yêu nước
có đường lối, phát triển kinh tế có chính sách, mở mang nông nghiệp và phân
phối dân số có quốc sách. Ngày nay ai đi qua Cái Sắn, Hố Nai, Xóm mới, Vị
Thanh…phồn thịnh mà chẳng nhớ đến những quốc sách định cư dân tỵ nạn miền Bắc,
dinh điền hữu sản hóa nông dân bần cùng, khu trù mật thành thị hóa nông thôn…
Về tác giả Lạp Chúc Nguyễn Huy
|
Trước năm 1975, giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn,
1981-1992, chuyên viên nghiên cứu tại đại học Laval,
Québec, Canada.
Từ 1995, tác giả chuyên tâm nghiên cứu Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ và vẽ tranh
Email. nguyenhuyquebec@yahoo.ca
|
Nguyễn văn Hầu, Tập
san sử địa, số 19-20, tr,12,13
Nguyễn Huy, Huỳnh Tư, Les marais salants de
la province de Bạc Liêu, Société des Études indochinoises, T.XLIX. 1974
Trịnh Hoài Đức,
GĐTTC, quyển thượng, tr.89
Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Phù Sa
xuất bản, Sài Gòn 1959, tr.95
Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô
hộ, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1970, tr. 184
État de la Cochinchine française
pendant l’année 1904, imprimerie commerciale et Reuf, Saigon, 1905, tr. 7
Trịnh Hoài Đức, Gia
Định Thành Thông chí, Nha Văn Hóa,, Phủ quốc vụ khanh dịch,xuất bản 1972, tập
thượng, tr. 71
H, Fontaine, trace
d’un ancien rivage marin à Cai Lạy (Sud VN) VNDCKL no13, fasc.2 Saigon 1970
TIN QUỐC TẾ
Ông Mattis đảm bảo Mỹ cam kết lâu dài với châu Á
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis hồi cuối tuần đã sử dụng một
diễn đàn hàng đầu về an ninh khu vực để trấn an châu Á rằng Hoa Kỳ không
rút khỏi cam kết lâu dài của họ đối với khu vực.
Ông Mattis lưu ý rằng ông chủ yếu tham gia Đối thoại Shangri-La để lắng nghe.
Sáng Chủ nhật, ông đã có cuộc gặp đặc biệt với toàn bộ 10 lãnh đạo quốc phòng của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á.
Tuy nhiên, trong bài phát biểu của ông, là diễn văn thực sự đầu tiên của
chính quyền ông Trump trước toàn khu vực, ông Mattis nói về tầm quan
trọng của trật tự quốc tế dựa trên luật lệ và làm thế nào để mọi quốc
gia, cả lớn lẫn nhỏ, đều có tiếng nói trong việc định hình hệ thống quốc
tế.
Ông nói Hoa Kỳ là một quốc gia Thái Bình Dương.
Kể từ khi ông Trump nhậm chức, cả ông Mattis lẫn Ngoại trưởng Rex
Tillerson đều đã thực hiện một số chuyến đi đến khu vực, theo Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ, điều này thể hiện rõ cam kết lâu dài của Washington đối
với an ninh và thịnh vượng của khu vực.
Ông phát biểu: "Sự cam kết lâu dài này dựa trên các lợi ích chiến lược
và các giá trị chung là người dân tự do, các thị trường tự do, và một
quan hệ đối tác kinh tế sôi động và mạnh mẽ, một quan hệ đối tác cởi mở
đối với tất cả các quốc gia bất kể quy mô, dân số hay số lượng tàu trong
hải quân, hoặc bất kỳ tiêu chuẩn nào khác".
Ông cũng cam kết rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục mở rộng khả năng làm việc với
các nước khác để đảm bảo một châu Á hòa bình, thịnh vượng và tự do, một
châu lục tôn trọng tất cả các quốc gia đang duy trì luật pháp quốc tế.
Ông nói: "Chúng tôi không nhận thấy không quốc gia nào là một hòn đảo cô
lập khỏi các quốc gia khác, chúng tôi sát cánh với các đồng minh và
cộng đồng quốc tế cùng giải quyết các thách thức an ninh bức bách”.
Ông Kurt Campbell, cựu trợ lý Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về Đông Á và Thái
Bình Dương, nói bài phát biểu của ông Mattis đã mô tả tốt tính liên tục
về quan điểm của Hoa Kỳ đối với khu vực.
Theo đánh giá của ông Campbell, bài phát biểu rất mạnh mẽ và có tác dụng
trấn an, nhưng nó được đưa ra ngay sau khi Tổng thống rút khỏi Hiệp
định Paris về biến đổi khí hậu. Tuần trước, tại NATO, Tổng thống Trump
đã không khẳng định điều 5 của Hiến chương NATO, là điều quy định rằng
tấn công vào một nước là tấn công cả khối.
Ông Campbell nói ông Trump là tổng thống đầu tiên làm như vậy.
Những động thái chính sách của Tổng thống Donald Trump, dù là việc rút
khỏi hiệp định Paris, hay việc ông rút khỏi nhóm các nước tham gia TPP,
đều đã đặt ra những câu hỏi về con đường phía trước ở châu Âu và châu Á.
Ông Campbell nói rằng điều thấy rõ từ bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ là có một khoảng cách không thể phủ nhận giữa các phương pháp
tiếp cận truyền thống mạnh mẽ của các bộ trưởng Mattis, Tillerson, và
những người khác so với cách làm của tổng thống.
Ông Campbell nói: "Chúng ta chưa có câu trả lời về việc chúng ta đang đi
đến đâu liên quan đến TPP, chúng ta chưa có câu trả lời về thương mại,
chúng ta chưa có câu trả lời về sự ủng hộ của chúng ta đối với các định
chế. Khu vực hiện đang kiên nhẫn, họ đã chấp nhận là Hoa Kỳ đúng dù
không có bằng chứng, nhưng điều đó sẽ không kéo dài được lâu hơn nữa".
Tuy nhiên, một số người không lo lắng, họ lưu ý rằng tổng thống Mỹ mới
nắm quyền vài tháng và các quan chức của ông đã thường xuyên thăm khu
vực, những điều này nêu bật cam kết liên tục với khu vực.
https://www.voatiengviet.com/a/mattis-dam-bao-my-cam-ket-lau-dai-voi-chau-a/3886354.html
TUỆ CHƯƠNG * NGÀY TẾT ĐƯỢC THA
NGÀY TẾT ĐƯỢC THA
TUỆ CHƯƠNG
Trẻ Tạo hóa đành hanh quá ngán Chết đuối người trên cạn mà chơi!
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Mấy hôm nay trong trại anh em tù nhân bàn tán xôn xao vì sắp tới tết ta
Tết đến, hoặc "Ba ngày lễ lớn", thế nào cũng có một số người được "tha
ra khỏi trại cải tạo". ...
... Thời gian cải tạo, nhìn chung toàn bộ số người trong trại, ai ai
cũng tròm trèm 5 năm rồi. Có lẽ đó cũng là một cái mốc án tù nào đấy để
hy vọng được về.
Người ta chỉ đoán vậy thôi chứ tù ở đây chẳng ai có án, chỉ là "tập
trung cải tạo", "lao động tốt, học tập tốt" thì được thạ "Cách mạng" nói
như thế là cách nói lửng lơ, chẳng ai biết thế nào là tốt; cứ không
trốn trại, "an tâm học tập cải tạo", còn lao động tốt là cuốc đất làm
rẫy hết mình, không "chây lười lao động", còn ngày về thì có "cách mạng
lo". Toàn là những mỹ từ, hay nói cho đúng hơn là bánh vẽ, cứ thế mà
chờ. Hễ tới các dịp lễ tết, "ba ngày nễ nớn" - tiếng thường nhại theo
"cán bộ" Bắc kỳ - người ta lại hy vọng được thạ Cấp bậc càng nhỏ, trung
sĩ, thượng sĩ, thiếu úy v.v... thì hy vọng nhiều hơn trung úy, đại úy.
Nghĩ tới ngày về, Tăng đâm lọ Về đâu hè?!
Tăng vào "rờ sẹc" (recherche) hồi 18 tuổi, hồi đó là làm mật thám cho
Tây, hay còn gọi là "Công an Liên Bang" mà "xếp xòng" là cò Xuân. Trình
diện ông ta xong, nhận cây súng, Tăng lận vào lưng quần, phủ cái áo "sơ
mi" cụt tay ra ngoài, cố làm sao cho nó hơi cộm một chút để "giựt le"
chơi. Tăng cũng bắt chước "đàn anh", vào quán vịt quay ở Chợ Cũ, cố vói
tay chỉ con vịt treo cao để lòi cây súng dắt bên hông, cho chú Ba thấy,
chú sợ.
Tăng nhởn nhơ sống, cưới vợ, bồ bịch, ly dị, rồi lại cưới, rồi ly dị,
khi Tăng đã 40 tuổi, cưới vợ lần thứ ba, cô dâu chỉ mới 20. Đúng là "Khi
anh hai mươi, em mới sinh ra đời..."" Từ "rờ sẹc", sau gọi là Công An,
rồi Cảnh Sát Công An... Bao nhiêu lần đổi tên đổi họ như thế, cuối cùng,
trước khi CS chiếm miền Nam, Tăng mang "loon" thiếu úy, nhân viên Phòng
Tư Pháp một quận Cảnh Sát ở Saigon và sau ngày 30 tháng tư, trình diện,
đóng tiền đi ở tù theo lệnh của "cách mạng".
Khi Tăng vào trại cải tạo rồi, cửa nhà tan nát. Vợ Tăng lấy một "ông cán
bộ", vai vế lắm, con gái Tăng cũng đi lấy chồng xa. Hai đứa con trai
của hai bà vợ trước, nghe người ta nói là đã vượt biên cùng gia đình
-tức là mẹ, bố ghẻ và con cái của họ. Nói là nghe nói, bởi vì từ khi ly
dị với các bà ấy, Tăng chẳng bao giờ thăm hỏi mẹ con họ, chẳng bao giờ
gởi cho chút tiền bạc cấp dưỡng...
Đời Tăng, kể từ khi lớn lên, đi làm, chẳng bao giờ khổ. Vật giá Saigon
hồi xưa rẻ lắm, đồng lương của Tăng dư xài. Khi vật giá lên, lương cũng
lên. Khi mọi thứ leo thang quá, thì nhờ lâu năm, "sống lâu ra lão làng",
nhờ kinh nghiệm trong ngành, Tăng qua làm phòng Tư Pháp, làm nhân viên
thôi, nhưng nhân viên mới thật là khỏe. 'Đương đơn", ở đất Saigon này,
từ hồi dân di cư vào đông, kinh tế phát triển nhiều, thì bao giờ cũng
rất quen việc, trên dưới đâu đó ơn nghĩa đàng hoàng.
Đùng một cái, Tăng đi ở tù, mọi sự sụp đổ hết. Bây giờ Tăng mới thấm
thía câu nói của ông Thiệu: "Đất nước mất, mất tất cả". Ngày trước, nghe
câu đó, Tăng cho là chỉ hù thiên hạ. Mấy chả nói chính trị, hơi đâu mà
nghe, cái việc "mất đất nước", dễ không, làm sao có được!
Dĩ nhiên Tăng đau khổ. Hai năm đầu trong trại cải tạo, Tăng ở chung với
mấy ông "Đại úy Tuyên úy". Từ lâu, Tăng chẳng gần gũi với tôn giáo nên
chẳng ưa gì mấy ông tuyên úy. Tăng cho rằng "mấy chả đi tu còn ưa đeo
loon". Vậy thôi. Chùa, nhà thờ, Tăng có lai vãng, nhất là thời gian mấy
năm "mấy ông tu hành làm chính trị" cũng chỉ vì công tác thượng cấp giao
phó. Điều tra mấy ông tu hành này khi họ bị bắt, cũng như điều tra đám
sinh viên biểu tình, Tăng thấy phiền, chẳng có "xơ múi" gì mà mấy chả
thì ăn nói ngang phè, chướng tai. Thường thì Tăng tránh né, để thượng
cấp giao cho người khác.
Bây giờ, sống chung với mấy ông tuyên úy, nghe ông nói chuyện đạo, Tăng
cũng thấy hay hay, nhất là sau khi "cửa nhà tan nát". Dù Tăng chẳng hiểu
sâu sắc gì về kinh kệ, Tăng cũng thấm nhuần đôi chút "sắc sắc không
không". Tăng thấy đời Tăng thôi thế cũng đủ rồi, chẳng mong gì thêm.
Thật ra, Tăng hiểu có muốn thêm cũng chẳng được. Thời của mình, thế là
qua rồi, bây giờ là thời của người tạ Người ta từ ngoài kia vô đây, cầm
súng mấy chục năm rồi, tốn hao biết bao nhiêu xương máu, nay mới có được
chừng ấy, sức mấy mà người ta chịu nhả miếng ăn ra mà hòng tranh giành
với họ. CS, quanh thế giới, từ ngày họ có mặt đến giờ, chỉ có tới mà
không có lùi. Chịu thua đi cho xong. Với lại, kinh nghiệm mấy chục năm
trong nghề, Tăng thấy rõ, ai có quyền là người đó hơn.
Quyền là cây súng trong tay. Ngày hôm trước, chưa vô "rờ sẹc", chẳng ai
coi Tăng là cái gì. Vậy mà ngày hôm sau, nhận việc rồi, cây súng dắt vào
lưng quần, thấy chỗ thắt lưng của Tăng cồm cộm, người ta đâm ra sợ
Tăng. Đời là vậy đó.
Tự do, Dân chủ là cái quái quỉ gì đâu, giả hiệu cả!
Với lại cuộc sống trong Nam dễ dãi quá, cuộc sống Saigon cũng dễ dãi
quá, đời Tăng cũng không có gì sóng gió, tới tháng thì lãnh lương, tới
năm thì người ta "đè cổ ra" mà móc "loon", Tăng chẳng chạy chọt, xin xỏ.
Thậm chí việc vợ con, ưng thì lấy, chán vợ thì có bồ, vợ rầy rà thì ly
dị cho khỏe. Cuộc đời cứ thế mà trôi đi, chẳng có gì vướng bận cả.. .
Bây giờ vào tù, Tăng mới thấy cái trăm ngàn khó khăn hiện ra, nhưng mà
đời, như ông tuyên úy nói "sắc sắc không không". Cái có rồi sẽ mất, cái
mất rồi sẽ có. Tăng, như mấy ông tuyên úy nhận xét khi Tăng tâm sự
chuyện nhà với họ, đã có một đời nhởn nhơ sung sướng trong khi đất nước
chịu cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn 30 năm, bao nhiêu người chết
chóc khốn khổ, nay Tăng có chết, cũng là thường tình. Không trả trước
thì trả sau. Vay trả trả vay. Mấy ông tu hành nói vậy mà hay.
Mới tháng trước đây, Trần Hứa Sơ, chung đội với Tăng, sáng sớm xuống nhà
bếp xin nước sôi, buồn tình đâm đầu vào lò củi đang cháy rần rần, may
người ta thấy kịp, kéo ra, đưa xuống trạm xá, cấp cứu, thành ra chỉ cháy
mấy mảng tóc, chỗ cháy thành sẹo, không có tóc, trông như con chó vá.
Ngu thiệt! Vợ bỏ đi vượt biên với bồ - bồ cũng là bạn thân của Sơ - thì
cho chúng nó đi một duộc với nhau -quân lừa thầy phản bạn- quân trốn
chúa lộn chồng- có gì mà tiếc để đến nổi phải đâm đầu vào lửa, mang cái
đầu chó vá, ngu thiệt là ngu! Tăng rủa thầm. Năm ngoái, cũng thằng Lịch,
nghe tín vợ bỏ, đang làm đội mộc, lấy đinh đóng vào đầu. Anh em người
ta khiêng ngay vào trạm xá cứu chữa, cũng tai qua nạn khỏi.
Ngoài kia, ngoài hàng rào trại tù, là đời thường, là Tự do, Hạnh phúc...
Người ta nghĩ thế. Và một điều gì đó xảy ra, bất như ý, có nghĩa là làm
cho người ta cho rằng hạnh phúc đó không còn nữa, tự do đó không còn
nữa, thì người ta đâm ra tuyệt vọng, rồi tự tử.
Tăng thì chẳng có ý niệm gì xa xôi hơn thế, nhưng Tăng cho rằng, ngoài
kia, ngoài hàng rào trại tù kia, Tăng chẳng có gì cả. Hạnh phúc đã không
mà tự do cũng không. Hạnh phúc, như Tăng thấy trong đời y, căn bản là
tiền, cũng như "Mác" nói, kinh tế là hạ tầng cơ sở vậy thôi. Còn tự do,
không có tiền thì chỉ có tự tử hay tự do làm nô lệ cho người tạ Tiền,
Tăng nghĩ là y đã hết thời.
Hết cây súng trong tay là hết tiền. Ngoài cái nghề y đã làm mấy chục
năm, từ hồi còn trẻ, tháng tháng lãnh lương, lâu lâu có tư lợi, Tăng
chẳng quen với bất cứ một nghề nào khác. Huống chi Tăng đã già, sức khỏe
không còn. Thằng Chiêu, thằng Ngọ, thằng Nẫm... bao nhiêu thằng ở chung
trại với Tăng, được tha hồi năm ngoái, năm kia, chỉ làm cho "đội ngũ
dân biểu" (1) càng thêm đông mà thôi, chẳng anh nào làm nghề gì khác, có
muốn làm cũng không làm được.
Gia đình tan nát, vợ không còn, con không còn, cha mẹ không còn, không còn ai hết, hạnh phúc, tự do cũng không còn.
Vậy thì Tăng về làm gì?! Nghĩ tới ngày về, Tăng băn khoăn, lo lắng. Về?
Về đâu? Về với ai? Ở nhà ai? Nếu một ngày kia, "cách mạng khoan hồng",
cho Tăng thoát khỏi "tù trong" ra "tù ngoài" thì Tăng nhận cái lệnh tha
để làm gì. Ra "tù ngoài", có nghĩa là Tăng phải tự lo lấy cái ăn, cái
mặc mà Tăng thì đã quen với cuộc sống chính phủ lo cho Tăng hết rồi.
Chưa bao giờ Tăng tính toán, lời lỗ mà thành ra tiền. Tăng không quen
buôn bán bao giờ. Tăng chỉ quen tháng tháng lãnh lương. Bây giờ, nếu ra
"tù ngoài" mọi thứ phải tự lo cho mình, Tăng thấy nhiều khó khăn.
Hơn thế nữa, Tăng không nhà không cửa không vợ không con, không bà con
bạn bè, nhất là bạn bè, Tăng thấy cô đơn. Dù sao ở đây cũng có bạn,
người thân kẻ sơ, chuyện trò với nhau. Về Saigon, đông mấy triệu dân, cả
tháng, chưa chắc gặp được ai quen để chuyện trò. Về? Về đâu? Nhà đâu? Ở
với ai? Không lý Tăng chui sống ở gầm cầu. Ở đó, toàn là ăn mày và đám
tội phạm, những thứ trước kia mỗi khi Tăng gọi lên điều tra thường run
rẩy, sợ hãi trước mặt Tăng. Tăng về ở chung với họ sao?! Vậy thì về làm
gì?! Tăng lo, nhưng để bụng, không nói với ai. Nếu "cách mạng" cho về mà
không về, thế nào tụi nó cũng cười cho thúi đầu. Thế rồi Tăng có lệnh
tha thiệt.
Chiều hôm qua, đi lao động về, anh em đã xôn xao lắm. Mấy người quen với
"cán bộ", được họ tiết lộ cho biết tên vài người đã có danh sách về.
Tăng lại lo hơn. Chẳng ai để ý đến Tăng. Tăng không phải là "đối tượng"
để anh em theo dõi kỳ này có tên Tăng hay không.
Tăng cũng chẳng nhờ cậy ai hỏi thăm giùm có tên hay không. Tăng sợ
chuyện đó xảy ra cho Tăng thì Tăng còn hỏi thăm hỏi lom làm gì. Sáng
nay, kẻng đánh tập trung ngoài sân trại để gọi đi lao động như thường lệ
thì "thượng sĩ Thắng", "cán bộ giáo dục" cầm xấp giấy vào, xăm xăm đi
thẳng vào chỗ phía trước mặt các đội tập trung. Thấy thế, anh em ồ lên
một tiếng, biết là có lệnh tha, rồi chuyện vãn, gọi nhau ơi ới, xôn xao.
Tăng ngồi im.
Khi "cán bộ" Thắng gọi tới tên Tăng, y uể oải đứng lên, buồn rầu quay
gót vào "láng", treo "gô" (2) vào cột giường, lên chỗ nằm, nằm im, bất
động.
Sau khi các đội đi hết rồi, "cán bộ" Lâm vào từng "láng" gọi các người
đưọc tha tập trung ngoài sân để được đưa lên văn phòng "ban" lập thủ tục
ra về. Tăng vẫn nằm im.
Thấy Tăng, "cán bộ" Lâm gọi:
- "Anh Tăng, sao còn "lằm" đó, thay áo quần nhanh "nên" ra "nàm" việc với "ban"."
Tăng ngập ngừng:
- "Thưa... thưa cán bộ, tui... tui không muốn về, cán bộ cho tui ở lại đây."
"Cán bộ" Lâm chưng hững:
"Anh 'lói' gì kỳ thế. "Cách mạng" khoan hồng, cho anh về, sum họp với
gia đình. Thế "nà" xung xướng "nắm", tại sao anh không về?!""
Thưa "cán bộ", tui còn ai nữa mà về. Gia đình tui chẳng còn ai nữa hết.
Vợ tui đi lấy chồng, con tui đi lấy chồng, chẳng còn ai, chẳng còn nhà
cửa chi hết, biết về đâu mà về." -Tăng cố gắng nói một hơi cho hết ý
muốn nói.
Cán bộ" Lâm xẳng giọng:
Đó "nà" chuyện của anh. Bây giờ "cách mạng khoan hồng" cho anh về "nà" anh phải về. Anh không thể cãi "nệnh" cách mạng được."
Tui không cãi lệnh. Nhưng mà "cách mạng khoan hồng" cho tui về thì "cách
mạng" cũng nên xét hoàn cảnh tui mà "khoan hồng" cho tui ở lại. Đó là
tình thiệt. Tui còn ai đâu mà về." Thôi, không "lói" "nôi" thôi. Tôi bận
việc, đưa mấy anh kia "nên" "ban". Anh không về sẽ có biện pháp." -"Cán
bộ" Lâm giận dữ.
Biện pháp gì?" -Tăng cũng nổi sùng- "Ở tù thì tui cũng đang ở tù đây
rồi, chỉ chờ có đem bắn mà thôi. Bắn tui, càng khỏe, tui ưng chết quách
cho rồi, cho xong nợ đời. Ở tù đây cũng chỉ là "tha tội chết, bắt tội
sống thôi"." (3)
Nghe Tăng nói liều, mấy ông già quét phòng cũng phì cười!
Mười phút sau, hai ba "cán bộ" cùng vào, đi ngay lại chỗ Tăng. Tăng ngồi dậy. "Cán bộ" Thắng vẻ quan trọng:
- "Thế "lào"? "Cách mạng khoan hồng" cho anh, anh từ chối hả? Anh không tuân "nệnh" "cách mạng" hả?"
-"Thưa "cán bộ" -Tăng từ tốn nói- "Tui không từ chối, tui không chống
lệnh. Chẳng qua hoàn cảnh gia đình tui, sau khi tui đi cải tạo, đổi khác
rồi, vợ tui lấy chồng rồi, con tui lấy chồng rồi, nhà cửa không còn,
tui biết về đâu? Dzậy nên tui xin ở lại đây để... "phục vụ cách mạng".
"Cán bộ" Thắng xẳng giọng:
- "Chẳng ai cần anh. Các anh "nà" người phản "cách mạng", ở tù, "lay"
được tha, thế "nà" khoan hồng "nắm" rồi đấy, không thì có mà "dũ tù",
biết không? Thế mà con ngoan cố, chống "nệnh". Anh phải ra "ban" ngay,
nhận giấy tờ mà về."
Tăng cố nhịn. Một lúc lâu, y nói:
- "Tui có theo "cách mạng" hồi nào đâu mà nói tui phản? Tui đã nói rồi,
tui không về được, tui không có chỗ mà về, vợ tui lấy chồng rồi, chồng
bả là "cán bộ" làm lớn. Tui về sao được? Tui về, ông "cán bộ" sợ tui
giành vợ lui, ông bỏ tù tui. Vậy tui đừng về là hơn."
-Tăng cố lý luận.
- "Anh "lói" bậy. -"Cán bộ" Thắng nói- Ngày trước, anh có tiền, anh có
quyền, anh ép buộc người ta "nấy" anh. Từ chối anh cũng không được.
"Lay" nhờ "cách mạng", phụ "lữ" được giải phóng, thế "nà" tốt. Còn "cán
bộ" "lào" mà "nấy" vợ anh, bỏ tù anh được. Tù anh "nà" chỉ có "cách
mạng" mà thôi."
- "Cán bộ" là "cách mạng", "cách mạng" là "cán bộ" chớ còn ai vô đây.
Tui hỏi, "cán bộ" vô đây, nói chuyện với tui, nhắm bộ không phải "cán
bộ" là "cách mạng" sao?"
"Cán bộ" Thắng giận dữ:
-"Tôi không muốn anh "lói" nhiều. Yêu cầu anh về. "Lếu" anh không tuân "nệnh", chúng tôi có biện pháp.
Xong, họ đi ra.
Trưa hôm đó, cả trại lại xôn xao về việc Tăng không chịu về. Thôi thì
người ta bàn tán lung tung. Tăng ít khi chuyện trò với ai nên chẳng ai
biết rõ hoàn cảnh của y để "tham mưu". Có điều, chuyển về trại này thế
là gần 4 năm, chẳng bao giờ Tăng được gọi thăm nuôi. Tăng an phận với
cái y có: Khoai, sắn, bobo, chủ nhật được chén cơm, lâu lâu gặp "ba ngày
lễ lớn", "quốc khánh", Tết ta, có thêm chút thịt "ruồi tha" -ý anh em
nói đùa miếng thịt nhỏ quá, ruồi có thể tha mất- Tăng âm thầm "cải
thiện": nắm rau muống mọc hoang bên hồ, nắm rau trai dưới suối v.v...
mỗi khi có dịp.
Với Tăng, Tăng hy vọng ngày nào đó, Tăng xuống đội "cấp dưỡng". "Giàu nhà kho, no nhà bếp". Ở đó suốt đời cũng chẳng sao.
Chiều hôm đó, khi các đội lại đi lao động, "cán bộ" lại xuống làm việc
với Tăng. Tử tế với Tăng thì Tăng tử tế, hung dữ với Tăng thì Tăng hung
dữ lại. Mấy ông già quét phòng thấy vậy, cười với nhau:
- "Dân Nam bộ mà, dân Saigon mà. "Chơi" thì "chơi" với.
Chọc thằng chả nổi nóng, chả chưởi thề tùm lum, làm gì được nhau! Không
lý không về mà cho vô "cát-xô"?" Tình trạng kéo dài được ba hôm. Tới
buổi sáng ngày thứ ba, "cán bộ" Thắng dẫn theo mấy "cán bộ" bảo vệ
xuống, ban đầu, ôn tồn với Tăng:
- "Nguyện vọng anh, "ban" đã trình về bộ "Lội vụ 2". Trên không bằng
"nòng" cho anh ở "nại". Yêu cầu anh chuẩn bị về. Các anh kia, người ta
về hết rồi."
- "Họ về kệ họ, ai có hoàn cảnh nấy, mắc mớ chi tui.
Họ còn vợ còn con, họ không "hy sinh", còn tui, tui không còn ai, tui
"hy sinh" được. Tui ở lại đây ngày nào là tui "phục vụ cách mạng" ngày
nấy. Tui lao động mà, tui có "ngồi mát ăn bát vàng" đâu?"
- "Nhưng "cách mạng" không cần anh. "Cách mạng" biểu anh về, anh phải về, tức "nà" "phục vụ cách mạng" đấy."
Thượng sĩ Thắng cố nén tức.
- "Cán bộ" nói mắc cười không. Tui về, tui "phục vụ" tui chưa xong, có đâu "phục vụ cách mạng" được?" -Tăng cố cãi.
- "Anh không được ngoan cố. Thượng sĩ Thắng gằn giọng. Anh phải rời khỏi trại ngay."
Nói xong, Thượng sĩ Thắng ra hiệu cho hai "cán bộ bảo vệ". Hai người này đứng hai bên, xóc nách Tăng kéo đi.
Ban đầu Tăng cố trì lại, nhưng hai "cán bộ bảo vệ" xiết cánh tay Tăng đau quá, Tăng nổi sùng, la to:
- "Đ. Mẹ, làm gì dzữ dzậy?! Cứ thủng thẳng để tui đi, tay tui gần muốn lọi ra rồi nè!"
Một "cán bộ bảo vệ" nói gần như nạt Tăng:
- "Chửi thề hả? Vào "cát xô" đấy."
Tăng cũng chẳng sợ:
- "Vào thì vào, tui đâu có ngán. Giờ "cán bộ" muốn tui về hay muốn tui ở
lại? "Cán bộ" muốn tống tui đi cho nhanh. Tui biết quá mà!"
Nói rồi, Tăng thờ thẩn đi giữa hai người công an. Thượng sĩ Thắng gọi người giữ phòng lục đồ đạc của Tăng, xách theo.
*
Tăng ôm cái bị bàng đựng quần áo ra chợ Gia Rây, với 30 đồng được trại
phát, Tăng lên xe lam ra ngã ba ông Đồn. Tăng đứng tần ngần ở đó, tay
cầm hơn 20 đồng còn lại, không biết đi hướng nào. Còn mấy ngày nữa là
Tết rồi. Ngày thường còn chưa biết sống đâu, nói chi Tết. Y nhìn dọc
theo quốc lộ, ra hướng Bắc, bỗng trong trí y hiện ra lờ mờ tấm ảnh mà y
từng được coi nhiều lần trong trại cải tạo: Hình lăng "bác Hồ vĩ đại" có
cờ đỏ cắm trên nóc cao.
Tăng thở dài, nhìn về hướng Nam, y thấy xa xa, có trụ sở xã hay gì đó,
cũng có cây cờ đỏ đang bay lất phất. Tăng sực nhớ "đất nước thống nhất"
đã mấy năm nay rồi, cờ xanh đỏ "mặt trận" ngày y đi "cải tạo" bị vứt vào
góc tủ rồi, chỉ còn cờ đỏ sao vàng thôi. Tăng bỗng nghe sau lưng y,
phía chân núi Chứa chan, tiếng còi tàu xe lửa hú lên dằng dặc một hồi
dài. "Hay mình nằm dài trên đường xe lửa, xe chạy qua cái ào, thế là
xong", Tăng nhủ thầm.
"Nhưng biết đâu tới khi tàu sắp chạy qua thì mình lại hốt hoảng nhãy ra
khỏi đường rầy". Ý nghĩ đó làm Tăng buồn cười mà y cũng không thể cười
được
Worcester, cuối thu Đinh Sửu.
tuệ chương
(Sự kiện là có thật, chi tiết do tác giả hư cấu).
Ghi chú:
(1) Đội ngũ dân biểu: Tiếng gọi đùa những người đạp xe xích lô, người "dân biểu" đạp đi đâu thì đi đó.
(2) "Gô": hộp đựng sữa Guigoz bằng nhôm, không sét, xài bền, "cải tạo" thường dùng để nấu, đựng thức ăn.
(3) Câu "cải tạo" mỉa mai mỗi khi nghe CS nói "khoan hồng"
LÊ THỊ HOÀNG ANH * XẾP VÀO KỶ NIỆM
XẾP VÀO KỶ NIỆM
LÊ THỊ HOÀNG ANH
Thúy đang loay hoay xếp lại chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:
- Mẹ ơi! Con làm bài toán đố này không được, Mẹ chỉ cho con đi Mẹ! - Ừ,
chờ Mẹ một chút. Cầm quyển vở của con lên tay, chỉ đọc thoáng qua, Thúy
không khỏi cau mày khó chịu khi thấy lối tuyên truyền rẻ tiền của các
cấp lãnh đạo ngay cả trong việc giáo dục trẻ con: " Trong một trận đánh,
ngày đầu quân ta anh hùng giết được 4 tên lính Ngụy. Ngày thứ hai, giết
thêm được 8 tên. Ngày thứ ba, giết được 2 tên. Vậy ba ngày đánh giặc,
chiến sĩ ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy?". Thúy thừ người
suy nghĩ. Bé Kiệt thấy Mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào bắp vế Mẹ, hỏi
khẽ: - Bộ khó quá, Mẹ cũng không làm được hả mẹ?
Thúy cười buồn vì nàng cũng không biết phải giải thích thế nào với con.
Từ biến động Bẩy Lăm, chồng đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn
kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn
hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của mình với một trí óc
non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa
bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi! Nàng chỉ giúp con bằng cách bảo nó
viết ngắn gọn:4 + 8 +2 = 14 và cố tình né đi chữ "Lính Ngụy" mà nàng
biết chắc con mình khi nộp bài lên cho "giáo viên" chấm sẽ không đạt
được điểm cao. Những đêm thức trắng, ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu
kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ mỗi ngày nghe tên một
người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có người thì chưa
nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương
cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!
Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để
lén nghe những lời ca ngọt ngào của những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài
mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt
máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường. Tiếng gõ cửa lớn hơn. Nàng lên
tiếng: - Ai đó? - Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"! - Nhưng
bà là ai? - Tui là A Múi! - A Múi là ai, tui đâu có quen! - Chời ơi! Mở
cửa đi mà! Có tin dui! Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm
không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu,
bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi: - Cô có phải là Lê Thị Thúy không? -
Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà? - Có phải cô có hai thằng "con
chai"? Thúy nghi ngờ: - Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê
quá! - Mà có đúng hông đã? - Thì đúng! - Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng"
cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!
Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè
dặt: - Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ
có giấy tạm đây thôi. - Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng
tên thì tui mới giao "dàng" chớ! Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù
lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm. - Không!
Tôi không nhận đâu! vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi? - Chời ơi! "dàng"
mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà? Giọng của bà ta thay đổi
tiếng Bà thay cho tiếng Cô, Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi
hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem.
Nàng không quên đưa ta chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như
ngầm cho biết về gia đình của mình. - Đó! Hai thằng con của tôi! Bà xẩm
rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới
giao cho Thúy: - Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả! Thúy run run
đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên
tiếng: - Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó! Thúy
lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà
đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy: - Ký "dận" vô đây đi! - Viết gì bây
giờ hả Dì? - Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây!
Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy
mới hoảng hốt: - Mời Dì uống miếng nước rồi đi! Bà ta lắc đầu từ giã,
vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình.
Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con
dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình.
Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó:" Bất chấp sống hay
chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe
anh!" Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân
nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an
toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước tổ chức.
Ngày hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy
trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt
cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể nàng chỉ cần một người
nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là nàng sẽ phun ra tất cả
không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im lặng, không nói
không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà. Đêm cuối, nàng và
hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an
toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình
mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn:"
Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả
lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy
không tài nào chợp mắt được.
Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn
vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long
lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho
anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này ". Ba năm anh đi "cải tạo" về,
anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm
bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ! Tập trung tại một ngoi chùa Tàu tại Bạc
Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn
gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa
cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước
ngoài.
Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã
đóng cho "chính phủ", ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của
nhà nước thì cầm chắc cái thắng trong tay! Thế mà... Đã bốn tuần trôi
qua, tiền cầm theo đi đường của ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai
con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì
dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm
cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật lên. Một bà xẩm
tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào mặt cậu ta
bà la bài bài: - Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả? Một tay bị nắm quá
chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói: - Cháu không phải mò bác
đâu! Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi thôi.
Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi! Nghe câu giải thích rõ ràng của cậu
ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên: - Cái lồ
chó lẻ! Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày! Tiếng cười xen lẫn
tiếng thở dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng
thanh niên sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười
nổi. Nàng chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết
xoay sở làm sao? Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn
diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho biết là được công an
báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ " nhà nước " phải tạm ngưng, chờ
lệnh mới sẽ cho đi ngay.
Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào
dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại
về ngay điểm tập chung! Hôm sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu
vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài
Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn
tiền tầu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên
mới yên chí mà cho mượn.
Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với
mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn ". Tất
cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh
ấy... Ba ngày vật lộn với tử thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen
chúc ngồi trong tầu, vừa đói, vừa khát...Những cơn sóng dữ...đập vào
hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ, nước từ từ chảy vào khiến cả
tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền lên boong tàu
đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong hầm tầu
nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của Thúy cũng may mắn gặp được tầu
của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.
Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm
vàng và...tìm gái. Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng
nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo
trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị
bò cạp...kẹp! Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ
láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh
buốt xương. Cuối cùng...một dịp tình cờ vì có người đói người đói quá.
Trèo lêm trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta
đánh liều vẫy tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được
tầu vượt biển của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội.
Chiều đó, một chiếc tầu của Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám
lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác:
đảo Pulau Bidong!
Đến đây rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có
tiền để dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con
núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường,
ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như
đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con,
đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy! Đứa con trai lớn đột ngột hỏi
mẹ: - Mẹ nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba? Thúy im lặng vì
nàng cũng đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào?
Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ
người đem "quà" đến, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", không rõ ở
đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy
đành phải trả lời bừa đi cho xong: - Thì phải vài ba bữa nữa người ta
mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con! Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu
và càu nhàu: - Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ? Con không
muốn ở đây, nắng quá hà! Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm
tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo: - Các con mặc áo vào để che nắng
thì bớt nóng! Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận.
Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực.
Thúy vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau: - Bữa nay mẹ nói
mình được ăn no! Đứng dưới cái nắng gay gắt của Mã Lai, hơi nước biển
tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào, thêm chứng kiến
chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi
lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo
cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển
cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp
vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay
hung bạo của chúng.
Trong số đó có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng
ôm ném mạnh vào khoang tầu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế!
Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với
trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai
người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được cứu
vớt (cùng với những người khác) thì trở nên...vô hồn, khi thì nhớ, nhớ
mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt ngập mặt! Anh ta có
lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm! Anh điên
rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không biết
mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng mình
còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" và hát bài quốc
ca của nhạc sĩ Văn Cao " Thề phanh thây xác quân thù..." Qua tuần lễ
sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh
niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn.
Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển
bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn
quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng
hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng
bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra
từng mảnh! Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con
dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho
hai con. Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế
thốc nó đến trạm Y Tế.
Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm
đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật bật ngồi dậy, đứng lên
lảo đảo chạy theo như cái bóng...đến trạm Y Tế. Bác sĩ khám, mới biết:
bệnh thòng ruột của nó bị tái phát. Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt
vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi
lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ
của người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi
ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: " Nếu anh
đã có gia đình cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con -
Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC
3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp.
Lá thư viết trên giấy bạc của một gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ
biển Bidong.
Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là
"Hốt Rác" ( tiếng lóng có nghĩa là ai -không -có - thân - nhân, hai chữ
hốt rác từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm
động:" Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến!
). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt
biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình
chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái
đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người
nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi
coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy
nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục
địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con
lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy, trông thương quá
là thương.
Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập
Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm
người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó và trời ơi...chỉ còn vài tiếng
đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, loa phóng thanh vang dội
tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu
chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc
liền: " Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con.
Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp ".
Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một
người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì?
". Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc
trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có
hiểu hay không... Không lâu sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng,
với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà
con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ
trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được
phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.
Đi về phía mặt trời mọc, nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người
tài công chiếc tàu vượt biển đã nói: " Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi
tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt ".
Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng.
Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh
một cơn mơ... Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều
may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít,
cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời dân mình bỏ
nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng:" Một là con nuôi má, hai là
con nuôi cá, ba là má nuôi con! "
Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ giử tiền về
để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp phong
ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá. Là nếu bất hạnh
hơn cả cái chết là bị công an biên phòng bắt được thì..."Má ơi! Con đang
bị tù tội đây, má hãy bán....bán máu để nuôi con!" Những cuộc hành
trình trên biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng
muốn quên đi để sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như
muôn vàn mũi kim châm vào tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh
viễn....và vĩnh viễn nàng xếp vào kỷ niệm. :::
Lê Thị Hoàng Anh:::
VÕ PHƯỚC HIẾU * NỖI BUỒN HOÀI NIỆM
NỖI BUỒN HOÀI NIỆM
VÕ PHƯỚC HIẾU
Tôi vào năm thứ nhất trường Trung học Trương Vĩnh Ký thường gọi là
trường Pétrus Ký, niên khóa đầu tiên khi trường được quân đội viễn chinh
Pháp sang tái chiếm Đông Dương sau thế chiến thứ hai, giao hoàn lại
chánh quyền Việt Nam. Đó là năm 1947 sau một thời gian trường ăn nhờ ở
đậu nơi nhiều cơ sở giáo dục khác như trường Sư Phạm ở cạnh Sở Thú,
trường Nữ Trung học Gia Long, chủng viện Mossard, trường Marie Curie…
Chính nơi trường Marie Curie nguy nga đồ sộ nầy, thấp thoáng đó đây
nhiều khuôn mặt tây đầm oai vệ với quần áo thẳng thớm phẳng phiu, thằng
nhỏ nhà quê là tôi chưa hoàn hồn khi đang ngơ ngác, chới với giữa đô
thành tráng lệ, lại ngỡ ngàng âu lo lúc dự thi tuyển vào trường Pétrus
Ký. Và cũng trong năm 1947 đó, trường mở lại chế độ nội trú sau nhiều
năm gián đoạn vì thời cuộc và chiến tranh.
Một may mắn khác là tôi thuộc thành phần học sinh nội trú này. Chẳng qua
nhờ ăn "dưa leo chấm nước cá kèo" nên theo chân "mấy anh học trò nghèo
học buộc xi ê". Nhờ ông trời thương vì với lớp nghèo như tôi thi tuyển
vào trường Pétrus Ký lúc bấy giờ mà trợt một keo thì cuộc đời kể như đi
đứt. Nói theo ngôn ngữ dân gian chân quê của bà con tôi là kể như tôi
sụm bà chè luôn. Lý do là tôi đâu còn cơ hội nào nữa để được dự thi lần
thứ hai.
Chế độ tuyển chọn thời thực dân thịnh trị vô cùng khắc khe nghiệt ngã.
Bao nhiêu nam nữ hiếu học cầu tiến thời đó đã mất hết tuổi thanh xuân
mộng mơ của mình và đành chấp nhận định mệnh phải bỏ dở dang việc học
hành để tiến thân khi dứt cấp sơ học.
Thực tình cũng nhờ tôi tốt số do nhờ ơn trên và hồng phúc dòng tộc hay
sao mà tôi lại đậu có hạng trong kỳ thi tuyển khó khăn đó. Và tôi đương
nhiên được ban giám đốc nhà trường chọn vào chế độ nội trú. Một thành
quả tôi không hề dám ước mơ nhưng đã là sự thật. Một nỗi mừng không bút
mực nào tả được đối với tôi lúc bấy giờ. Không như ở mẫu quốc này hiện
nay, gia đình nào không có thu nhập cao, con cái đều được cấp học bổng
do chánh sách nâng đỡ và khuyến khích học hành của chánh quyền. Cho dù
kết quả của chúng nơi trường ốc có đạt như ý muốn hay không.
Mấy năm ở nội trú, tôi giữ rất nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm đầu đời này
khó quên, không sao kể xiết. Chính nơi đây, tôi đã gặp "anh hùng tứ xứ",
từ cuối mũi quê hương Bạc Liêu, Cà Mau quanh năm rì rào sóng vỗ đến Tây
Ninh ngất nghểu Núi Bà huyền thoại, Biên Hòa bắp ngon bưởi ngọt... từ
vùng biển mặn Gò Công, Mỹ Tho đến Hà Tiên với Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch
Động thôn vân v.v... trong Hà Tiên thập cảnh, Châu Đốc những ngày Vía Bà
"ngựa xe như nước, áo quần như nêm"... Toàn là những tay hiếu học say
mê cầu tiến.
Trường bãi bỏ hẳn chế độ nội trú khoảng năm 1951 sau đám tang Trần Văn
Ơn được tổ chức trong khuôn viên nhà trường với thành phần nồng cốt là
học sinh nội trú. Đây là một trong những đám tang lịch sử trọng thể hiếm
có sau đám tang vĩ đại của chí sĩ Phan Châu Trinh thuở trước. Từ năm đó
trở về sau, trường chỉ nhận duy nhứt học sinh ngoại trú mà thôi.
Gần năm mươi năm tuần tự tiếp nối, kẻ mất người còn, trải qua lắm biến
cố biển dâu, đất nước đổi đời. Bao nhiêu bè bạn bằng hữu ngày xưa, nay
dở sống dở chết nơi "xứ tù chung thân" Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bao
nhiêu tri âm tri kỷ lưu đày nơi xứ lạ, ngậm đắng nuốt cay khắp năm châu,
canh cánh trong lòng nỗi hờn ly hương mãi mãi quặn xoáy không nguôi.
Tuy nhiên dù hoàn cảnh có oái oăm nghiệt ngã đến thế nào nhưng trong tâm
tư tình cảm của chúng tôi vẫn in sâu, đậm nét câu đối chữ Hán do giáo
sư Ưng Thiều viết và được khắc trên hai cột trụ đứng hoành tráng ở cổng
chánh của trường:
«Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt
Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm».
Lật bật chúng tôi đã trang bị đầy đủ rương hòm để vào nhập học năm thứ
nhứt, khởi sự cuộc sống tập đoàn với những sinh hoạt râm rấp theo một
nội qui chặt chẽ. Chương trình học giao tiếp giữa hai bậc tiểu học và
trung học nhằm giúp đám học sinh "ra ràng" còn non chèo chúng tôi làm
quen với nề nếp, phương pháp và nhịp độ sinh hoạt mới của trường ốc. Do
vậy, chưa có những gò bó, bức bách khắc khe như mấy năm sau này khi phải
chuẩn bị trần thân khổ ải, thi cử trầy vi tróc vảy do chính sách giáo
dục của thực dân Pháp.
Họ chủ trương hạn chế nhân tài bản địa vì sợ nguy cơ tiếp xúc nền tảng
văn chương văn hóa phóng khoán cùng những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng,
bác ái và tự do, dân chủ Tây Phương. Nhưng trong thực tế, họ đành chấp
nhận thất bại chua cay. Dù họ có trăm mưu ngàn kế dùng những thủ đoạn và
biện pháp độc tài độc đoán thất nhân tâm cách nào đi nữa vẫn không sao
thoát khỏi nấm mồ ô nhục, nấm mồ phũ phàng chôn chính chế độ của họ sau
thế chiến thứ hai.
Chúng tôi học tà tà. Hằng ngày, đa số chúng tôi mặc bộ đồ bà ba trắng
phao được ủi xếp nếp. Giống như dáng vóc các anh công tử bột miệt vườn,
chúng tôi đều mang guốc dông nhẹ hêu, lũ năm lũ ba kéo lẹp xẹp đến lớp
học, qua dãy hành lang vừa dài hun húc, vừa khoản khoát, lúc nào cũng
sạch sẽ lộng gió. Vài đứa thuộc hàng giàu có, con cái các địa chủ lục
tỉnh khét tiếng, mang guốc lồng mức rắng chắc, nặng ì, mỗi bước đi nện
mạnh xuống sàn gạch nghe lốp cốp lốp cốp như tiếng ngựa phi nơi đại đạo.
Bài vỡ đã ít. Tuy vậy, sáng nào chúng tôi cũng có lệ "ngồi ê tuýt" ôn
lại bài học trong ngày hay chuẩn bị chu đáo sách vỡ hoặc dụng cụ cần
thiết... trước khi đến lớp. Ngán nhứt là lúc "ngồi ê tuýt" bắt buộc vào
buổi tối. Thì giờ quá dư giả, thừa mứa. Không biết phải làm gì. Chập
chập chúng tôi cứ nhìn đồng hồ tay, thấy kim đồng hồ dường như ngừng
chạy hẳn.
Thật chán phèo! Những lúc ấy, tôi thường hay nhớ lại những ngày tháng
dài mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học tại quận nhà. Nơi đây có quá
nhiều thoải mái, tự do nên trong lòng tôi thoáng dậy vu vơ bao nhiêu
tiếc nuối ngậm ngùi, phảng phất rất nhiều khuôn mặt bạn bè nối khố
nay đã chia tay tản lạc, thằng góc biển, đứa chơn trời mù tăm.
Giờ đây, có đứa học hành xuôi chèo mát mái, đổ đạt thành danh thành tài.
Chúng ăn nên làm ra, cuộc đời lên hương như diều gặp những ngày lộng
gió, lúc nào cũng ăn trên ngồi trước. Thật tâm mừng cho chúng nó. Và
chúng tôi cũng tự hào và hãnh diện chung cho tăm tiếng của nhà trường mẹ
nữa.
Nhưng đại đa số còn lại, ngày ngày tất bật bon chen kiếm sống, chắt chiu
từng đồng xu cắt bạc mà vẫn chưa yên thân yên phận. Nơi đây, tôi xin
được chia xẻ nỗi niềm với những đồng môn bất hạnh này. Từng đứa từng tên
cứ mãi ẩn hiện vấn vương trong tôi những lúc bâng quơ ngoái nhìn về dĩ
vãng. Mới hay những hình ảnh mất đi bao giờ cũng dễ nhớ và đòng đọng dài
lâu trong mỗi con người chúng ta.
Nghĩ đến ngày may mắn gặp lại đám trời đánh, tinh nghịch khuấy phá thuở
thiếu thời này thật vô cùng mong manh mà nghe xao xuyến, buồn vô hạn.
Đôi khi bên tai tôi lại văng vẳng lời của thầy tôi nơi trường tiểu học,
dong dài về huyền sử của dân tộc, về định mệnh của người Việt nam qua
truyện kể Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Hai ông bà đã chia tay nhau, mỗi người dẫn dắt năm mươi con theo hai ngả
khác nhau. Hai ngả cách ngăn diệu vợi: rừng núi chập chùng và biển cả
thẳm sâu. Những lúc đó, tôi trầm ngâm lặng thinh như cúi đầu chấp nhận
định mệnh của chính mình!?
Ngồi không khơi khơi nơi phòng «ê tuýt», chúng tôi đâm ra buồn ngủ. Lại
không được quyền ngủ. Chỉ còn nước tự cứu rổi lấy mình là ngủ gà ngủ gật
một vài thoáng ngắn ngũi chờ tiếng chuông reo giải thoát cuối giờ. Vì
đây là giờ học bắt buộc mà!
Các thầy giám thị rất dễ thương. Thầy Nguyễn Văn Tình, thầy Thân, thầy
Xáng, thầy Trương Minh Ứng, thầy Hồ Văn Trị, thầy Nguyễn Gia Tốn, "papa"
Lê Văn Khiêm v.v... thỉnh thoảng hò hét cầm chừng để áp đặt trật tự
phòng ốc. Hoặc phân xử những vụ kiện cáo lặt vặt không đâu đâu giữa
chúng tôi.
Những lúc này được nghe hai bên nguyên cáo và bị cáo cãi qua cãi lại
theo kiểu móc họng, giành phần thắng về mình. Thêm mấy đứa nhân chứng
lứng khứng, làm nhưn làm nhụy, nhập nhầy lải nhải trước sau bất nhứt,
không ra hồn. Rồi những lời phán quyết hàng hai, huề cả làng, làm đẹp
lòng tất cả của các thầy là dịp cứu tinh qua giờ giấc.
Có đêm, ông Motais de Narbonne, Tổng Giám thị người Pháp cuối cùng của
trường, bách bộ hóng mát xa xa bên ngoài phòng học để nhắc nhở sự hiện
diện dù chiếu lệ của ông. Lúc ấy, ông đã lụm khụm, đi đứng chậm chạp khó
khăn, thêm móm xọm, sắp về hưu.
Càng về khuya càng buồn ngủ hơn. Hai mí mắt mỏng tanh, nhẹ bong cứ kéo
xụp xuống nặng nề, dù chúng tôi cố nhướng cách mấy cũng không sao hé mắt
được. Thỉnh thoảng, các thầy gõ thước cốp cốp rồi gọi từng tên cảnh
cáo, nhắc nhở phải học bài làm bài hoặc khuyên đọc sách trao dồi kiến
thức.
Lớp học lại trở nên im thin thít. Từng chập từng chập, chúng tôi nghe
mấy con tắc kè sống lâu năm, to thân lớn xác, thường thập thò ở cửa
chánh hướng vào "đọt toa", kêu lên những tiếng nặng nề ngắt khoảng, trầm
buồn khôn tả. Những lúc ấy, tôi cảm thấy trong lòng mình dấy lên nỗi
nhớ nhà nhớ quê, nhớ mái chùa xưa cong cong rong rêu, nhớ vòm me cổ thụ
xum xuê, nhớ đình nhớ miễu um tùm rập rạp… Những nơi tôi từng nghe phát
ra lạnh lùng tiếng những con tắc kè thân quen hằng đêm.
Ngồi học nhưng chúng tôi canh giờ. Tai lắng nghe bác lao công giè thân
quen xách thùng nước trà Huế nóng đổ vào hũ da bò lớn kê bên ngoài, phía
sau lớp. Thế là chúng tôi nối đuôi nhau, hết đứa này đến đứa khác, xin
thầy giám thị trực đêm cho phép đi lấy nước uống. Nước trà nóng giúp
tỉnh táo trở lại không mấy hồi như có phép tiên vậy.
Hơn nữa, ra được ngoài sân là một cơ hội ngàn vàng, trông chờ đỏ con
mắt. Có gió mát trong lành thoang thoảng mơn trớn. Có sao trời lấp lánh
nên thơ quyến rủ. Có trăng non lơ lửng đồng tình...
Tha hồ cho chúng tôi ở nán lại đấu chuyện tào lao, vội vàng hấp tấp.
Khốn nỗi đôi lúc chúng tôi bị níu kéo nán lại. Vì có thằng dốt đặc cán
mai cũng tập tành con cà con kê, dong dài vẽ viên những câu chuyện Chị
Hằng Chú Cuội, dặm mắm thêm muối cho lâm ly lôi cuốn rồi cao hứng chúng
nó lang bang vào cõi mơ hồ, nào chòm sao Đại Hùng Tiểu Hùng, nào sao vua
Xử Nữ v.v... Làm như chúng nó sành sõi, thông hiểu rành rọt về khoa
thiên văn địa lý vậy. Nhưng thực tình bây giờ nhớ lại lúc đó chúng nó
xạo hết chỗ nói, nhưng xạo có căn cơ, gốc ngọn, nghe cũng bùi tai. Nhờ
vậy chúng tôi vốn mù tịt nhưng được một cái là tỉnh táo trở lại.
Một số bạn khác lén trốn ở các dãy bàn chót để đánh cờ tướng, cờ chó, cờ
ăn ừ chờ giờ. Việc này không thoát được đôi mắt rất tinh của các thầy.
Nhưng các thầy cũng thương tình thông cảm, giả điếc giả mù làm ngơ. Miễn
sao chúng tôi giữ yên lặng để đứa nào muốn học hành có đầy đủ điều kiện
tối thiểu, sẽ không phàn nàn hay khiếu nại gởi thưa.
Nay các thầy chắc đã nằm xuống thảnh thơi toại nguyện nơi lòng đất mẹ ấm
tình ruột thịt, tâm thần thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm một kiếp
người. Vì lúc ấy các thầy cũng đã trọng tuổi, trừ thầy Nguyễn Gia Tốn
hãy còn trẻ măng, chỉ lớn hơn chúng tôi chắc chưa tròn một kỷ.
Sau này, đến 30/04/1975, chúng tôi vẫn thường gặp thầy trên "chiếc xe
mẫu" bốn bánh, do chính thầy vẽ kiểu và thực hiện, có lấp máy nổ. Thầy
làm phương tiện di chuyển trong thành phố, trông không giống ai nhưng
lúc nào cũng lôi kéo người tò mò, quến kẻ hiếu kỳ. Kể ra thầy rất có
khiếu sáng chế, tiếc thay "sanh lầm thế kỷ" nên không gặp thời để cải
tiến thêm và thương mãi hóa sáng kiến của mình. Các thầy không còn nữa
nhưng hình ảnh các thầy vẫn đậm nét và sống mãi trong lòng tôi.
Nhưng kỷ niệm có ảnh hưởng lớn đối với tôi có lẽ là phong trào đọc tiểu
thuyết ở nội trú. Gia đình tôi ở xa thành phố, không phải cuối tuần nào
hay ngày lễ nào cũng về thăm nhà được. Tài chánh có giới hạn, chỉ dành
cho những chi tiêu tối cần cho việc học hành thi cử. Phương tiện di
chuyển thời ấy hãy còn nhiêu khê, phôi thai và quá đắt.
Vẫn những chiếc xe điện cũ kỹ nối liền Sài Gòn Chợ Lớn theo đại lộ
Galliéni sau này là Trần Hưng Đạo và đường Marins tức Thủy Binh hay Đồng
Khánh ở Chợ Lớn... Chúng vẫn giữ một nhịp độ bất di bất dịch từ năm này
sang tháng nọ, cứ cà rịt cà tang với những tiếng chuông báo động leng
keng leng keng, đêm đêm nẹt điện xèn xẹt sáng ngời, chớp tắt không
nguôi.
Vẫn những chuyến xe lửa Mỹ Tho Sài Gòn đen ngòm, nặng nề, chạy bằng củi
thay vì than đá do thời buổi nhiễu nhương khan hiếm nguyên liệu. Lắm khi
lên dốc cầu Phú Lâm, chúng phải phải thụt tới thụt lui đôi lần ba lượt
để lấy trớn từ xa. Có khi mãi tận Mũi Tàu, An Dưỡng Địa An Lạc, tức
khoảng xa cảng Miền Tây bây giờ. Những lúc đó, lũ nhỏ chúng tôi tha hồ
đánh đeo theo các toa xe, mặc tình đùa giỡn nói cười thỏa thích.
Thêm vào đó, còn cảnh tượng khách đi xe đông như kiến, bám đeo đầy các
cửa lên xuống, cả trên mui xe rất nguy hiểm. Bỗng nhiên tôi lại nhớ hình
ảnh bác gác cổng già nơi ga xe lửa Phú Lâm hấp tấp thổi mấy hơi còi dài
để báo động trước khi bác cẩn thận kéo hai cổng tre sơn trắng đỏ đều
khoản, xuống nhằm chận xe cộ và bộ hành qua lại.
Vẫn những chiếc xe thổ mộ lụp cụp leng keng, leng keng lụp cụp với mấy
con ngựa có tuổi ốm nhôm, chạy đi chạy về không biết bao nhiêu lượt
trong ngày. Chung qui các chuyến xe đã làm nên một thời đó đều bắt đầu
và được đợi chờ ở hai bến ga xe lửa Sài Gòn và Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ.
Mấy chú ngựa uể oải lúc cuối đời này, phóng uế bừa bãi, rải rác ngay
giữa lòng đường. Dù vậy, bà con vẫn quen mắt từ bao đời rồi nên chẳng có
một phản ứng nào cả.
Vả lại, mỗi lần về thăm nhà do phương tiện di chuyển vốn trắc trở đã
đành mà còn tốn kém lắm đối với hạng học sinh có tiêu chuẩn "dưa leo, cá
kèo". Tiền cha mẹ cho bỏ túi mang theo không đáng giá là bao nhưng là
cả một hy sinh lớn lao của một đời người.
Chồng làm quần quật trên đồng không mông quạnh, quanh năm thách thức gió
mưa sương nắng. Vợ thì lam lũ ngày nắng ngày mưa, đội trên đầu hay gánh
gồng oằn vai băng qua những cây cầu khỉ khập khểnh hay đường làng quanh
co trơn ướt, nào là rau khoai, cây trái vườn nhà đem bán ở chợ xa.
Chúng tôi thường ở lại trường vào mỗi cuối tuần. Cả một vài tháng hay
gặp lễ lớn mới có hy vọng về thăm nhà. Số học sinh nội trú bất hạnh này
tương đối không đông mấy vì có những bạn may mắn tốt số hơn, nhờ kiếp
trước khéo tu, lánh dữ làm lành sao đó nên bây giờ được bà con quen biết
ở thành phố hay những vùng phụ cận bảo lãnh đi phép ngày thứ bảy hay
chủ nhật. Sáng chúng đi trọn ngày, tối về trường trước giờ đóng cửa "đọt
toa".
Thời gian rổi rảnh của chúng tôi trong hai ngày cuối tuần dài thăm thẳm,
buồn thúi ruột thúi gan. Bạn bè ở lại trường thường quá ít nên quang
cảnh thêm trống vắng hắt hiu. Tuy trời nắng tốt với màu xanh rộn rả thắm
tươi mà sao cảnh vật đối với chúng tôi trông quá nhạt nhòa thểu não.
Mới hay "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!" (Nguyễn Du).
Chép bài hộ các anh lớn, vốn tiện tặn từng giờ từng phút mài miệt chuẩn
bị ngày đêm để thi "bắc on", "bắc đơ" riết cũng chán. Chúng tôi cứ lần
lữa hứa cuội, cười trừ, khất tiều khất quảng kéo dài mãi khiến các anh
tới lui thúc hối như đi đòi nợ ngày nợ tháng không bằng. Đôi khi các anh
buông những lời chê trách cho rằng chúng tôi làm ăn chậm lụt như lục
bình trôi, còn hơn ba ba lội biển.
Chúng tôi chỉ có cách đọc sách để tiêu khiển. Thường là tiểu thuyết Pháp
hoặc Việt mới giết hết thì giờ. Dọc sách ở nội trú là một cái thú tuyệt
vời. Nhứt là vào khoảng mười giờ ruỡi mười một giờ, chúng tôi vừa đọc
sách vừa run đùi nhâm nhi loại cơm cháy chảo đụn. Các chú các bác phụ
trách ẩm thực sâm soi vàng hườm, dòn rụm, còn tráng lên một lớp mỡ thịt
heo kho tàu óng ánh, thêm lởm chởm hành hương xắt nhỏ, thơm ngon lạ
lùng.
Sau này, rời trường lưu lạc khắp nẻo đường quê hương, lăn lóc bập bũm
trong những hoàn cảnh trái ngược nhau, rồi đến hôm nay ly hương bất đắc
dĩ, lặn hụp nơi xứ lạ quê người từ mấy mươi năm qua, tôi vẫn còn tiêng
tiếc cái thuở “vàng son” của một đời người này. Vì chẳng cách nào tôi
tìm lại được hương vị qua ư đặc thù xa xưa ấy nữa.
Sách Pháp không ngoài những tác giả chúng tôi mua ở nhà sách Khai Trí
hoặc Văn Đàn ở Chợ Cũ Sài Gòn những khi đi phép hiếm hoi cuối tuần. Đại
khái như các tác giả Alphonse Daudet, George Sand, René Chateaubriand,
Alexandre Dumas, Victor Hugo, Hector Malot, Pierre Loti và... giáo sư
Phạm Duy Khiêm với tác phẩm "Les Contes en Terre Sereine" mà các thầy
dạy Pháp văn như thầy Phan Quốc Quân, thầy Lê Văn Phước, thầy Hồ Văn Kỳ
Trân, thầy Nguyễn Văn Thơ, thầy Huỳnh Văn Hai, thầy Lê Chí Thiệp v.v...
thường khuyến khích khuyên bảo chúng tôi cố tìm đọc.
Riêng tiểu thuyết Việt thì nhiều, nhiều lắm. Thị trường chữ nghĩa tiếng
Mẹ đang phát triển mạnh mẽ và tràn ngập lúc bây giờ. Hầu như hằng tuần
nào cũng đều có những tựa sách mới với kỹ thuật in ấn trình bày ngày
càng cải tiến hấp dẫn. Dù sao, sách Việt cũng dễ đọc, dễ hiểu, không
phải lôi thôi tra cứu tự điển, mất thì giờ và mất cả hứng thú.
Chúng tôi dành dụm, chầm khíu đồng lặn đồng mọc, hạn chế tối đa chi xài
lặt vặt không cần thiết để có tiền mua sách. Mua được cuốn nào là
chúng tôi trao đổi, chuyền tay nhau đọc. Đôi khi còn tranh giành đọc
trước đọc sau như tôm tươi không bằng.
Lúc này, “toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến” nên phong trào yêu nước
bừng lên mãnh liệt, sục sôi khắp mọi nơi. Các tầng lớp công dân trẻ già
trai gái hạ quyết tâm hy sinh, chung một lòng kháng chiến chống Pháp xâm
lăng sau thế chiến thứ hai. Từ thành phố chí đến thôn làng hẻo lánh đều
vang dội những bước quân hành. Những bản hùng ca đánh động lương tâm
của Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ thời cách mạng tháng Tám
vẫn còn âm hưởng quẩn quanh đâu đây.
Chiều chiều, ở những giờ giải trí, các anh lớn tụ tập hòa đàn những bản
Thanh Niên Hành Khúc, Việt Nam Mến Yêu, Lên Đường, An Phú Đông... lôi
cuốn, quến lũ chúng tôi bu quanh rất đông đảo. Rồi động lòng sanh hứng,
chúng tôi cùng nhảy vào tham gia nhưng chỉ biết vỗ ghế đập bàn ầm ầm
theo nhịp hát hồn nhiên muốn vỡ cả lồng ngực.
Thời đó, ở Sài Gòn, hầu hết báo chí thống nhứt hằng ngày đồng thanh lên
tiếng tỏ rõ lập trường dứt khoát chống lại nhựt báo phân ly Phục Hưng
của nhà báo Hiền Sĩ, người chủ trương đòi Nam Kỳ tự trị theo đúng sách
lược của thực dân. Và cây bút móc lò nổi tiếng lúc bấy giờ ký dưới bút
hiệu Nam Quốc Cang, tức ký giả Nguyễn Văn Sinh, trong mục "Trớ Trêu", ví
von đã kích không nương tay những tên thực dân giàu sụ. Bọn này cố bám
níu quyền lợi mong manh còn sót lại. Đặc biệt là nhóm "Tam B" chọc trời
khuấy nước: Béziat, Bazé và Bonvicini.
Trong khi đó, các văn nghệ sĩ ở thành hầu hết đều hướng nhìn về phía
chiến khu hoặc có thiện cảm với kháng chiến. Những đề tài sáng tác của
họ xoáy quanh giai đoạn lịch sử ấy nhằm khích động bấu nhiệt huyết tuổi
trẻ và lương tri độc giả, thúc giục họ đứng lên "chống xâm lăng", đấu
tranh giành độc lập, tự do, dân chủ cho nước nhà. Về sau nhà phê bình
văn học Nguyễn Văn Sâm gọi giai đoạn này là "Phong trào Văn chương Kháng
chiến Nam Bộ".
Nhiều tựa tiểu thuyết đến nay vẫn in dấu sâu đậm trong trí nhớ tôi như
Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Nửa Bồ Xương Khô của Vũ Anh Khanh, Trên
Đường Nhiệm Vụ, Những Tia Nắng Mới của Đặng Thị Thanh Phương, Kòn Trô,
Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Manh Áo Ngự Hàn, Người Chiến Binh
Bạt Mệnh của Nguyễn Đạt Thịnh, Tình và Nghĩa Vụ, Lá Cờ Hồng Thập của
Nhất Tâm, Bên Mồ, Hận Người Tử Sĩ của Hoàng Kim...
Ngao Châu dịch Đường Lên Cõi Bắc trong khi ký giả nhà văn Việt Quang đi
xa hơn với Xin Đắp Mặt Tôi Mảnh Lụa Hồng. Lụa hồng ở đây có ý nghĩa gì?
Chẳng qua là lá cờ đỏ của Cộng sản được tác giả tô vẽ phai nhạt bớt để
qua mặt kiểm duyệt lúc bấy giờ.
Chưa kể những tác giả khác như Trần Thanh Mại (Ngô Vương Quyền), Dương
Tử Giang (Duyên hay Nợ), Sơn Khanh (tức cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc
trong chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ), Liên Chớp, Bùi Nam Tử, Võ Hòa Khanh, Tô
Nguyệt Đình... Tôi nghĩ rằng một số anh em chúng tôi đã thực sự chịu ảnh
hưởng của những tiểu thuyết đấu tranh này, hầu hết do nhà xuất bản Tân
Việt in ấn và phát hành rộng rãi ở thành phố.
Vì chịu một phần ảnh hưởng ấy nên một số không nhỏ thanh niên nặng lòng
yêu nước đã từ bỏ thành phố hoa lệ đi vào chiến khu với ước mơ trong
sáng đem đến chiến thắng vinh quang nhanh chóng cho dân tộc, cho tổ
quốc. Nhưng thảm thương thay, đa phần đều vỡ mộng, không tìm được lối
thoát.
Một số nhắm mắt buông xuôi theo định mệnh để bảo toàn mạng sống rồi từng
bước bị lôi cuốn vào guồng máy hận thù chém giết, đấu tranh giai cấp
của cộng sản để thân bại danh liệt về sau. Một số khác kiên cường bất
khuất với tâm niệm hướng thượng, vì quê hương dân tộc, vì tổ quốc trên
hết nên bị Việt minh Cộng sản thanh toán, bức tử giữa lúc tuổi thanh
xuân tràn đầy nhựa sống yêu đời.
Trường hợp nhà văn tên tuổi Vũ Anh Khanh là một điển hình đến nay vẫn
chưa phai nhòa trong ký ức tập thể của toàn dân Miền Nam. Anh đã vượt
tuyến và bị bộ đội biên phòng bắn chết nơi sông Bến Hải, xác bị bọn
chúng dập vùi đâu đó bên bờ sông?
Duy chỉ một số may mắn hơn, vượt thoát được gọng kềm quá ư khắc nghiệt
và tàn nhẫn của cộng sản. Họ bất chấp hiểm nguy, quyết tâm trở về vùng
đất tự do và bị chúng với ác tâm cố hữu gán cho hai chữ Việt gian nhục
nhã chỉ vì không chấp nhận chủ trương và đường lối độc tài đảng trị của
chúng.
Khoảng năm 1958/59, tôi có giữ một chức vụ nho nhỏ trong guồng máy chánh
quyền Đệ Nhứt Cộng Hòa và có cơ hội hướng dẫn một phái đoàn nhân viên
đi khảo sát Côn Đảo. Tôi lưu lại đây tròn một tháng vì thời bấy giờ mỗi
tháng chỉ có một chuyến tàu duy nhứt xuất phát từ Bến Bạch Đằng để tiếp
tế cho đảo. Lúc này Thiếu tá Bạch Văn Bốn làm tỉnh trưởng Côn Sơn.
Tôi được dịp thăm viếng hầu như tất cả các trại giam, cả khám biệt lập
mà một thời báo chí thiên tả trong nước cũng như giới truyền thông quốc
tế ác ý đồng thanh gọi là “chuồng cọp” với những mô tả thiếu khách quan.
Tôi cũng có thăm khám tử hình và nơi đây tôi có gặp nhà văn nhà chánh
trị Hồ Hữu Tường, ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, chủ nhân sáng lập báo Đời
Mới nổi tiếng một thời, rồi những đàn em của tướng lưu vong Bình Xuyên
Lê Văn Viễn như Tư Cốc, Tiểu Lý Quảng, Chín F.M v.v...
Một nỗi buồn dấy lên trong tôi lúc đó khi trông thấy một số khuôn mặt
bạn bè chung lớp hoặc biết mặt biết tên trong những năm chung sống vui
vẻ dưới mái trường Pétrus Ký đang trong vòng lao lý nơi các trại giam
khổ sai, ngày ngày đi đốn củi hoặc lao động nặng. Tôi suy nghĩ có thể
một số nào đó vẫn còn trung thành với giấc mơ không tưởng của chủ nghĩa
Mác Lê-nin. Nhưng tuyệt đại đa số khó mà chọn lựa một lối thoát thân do
sự kềm kẹp rúng ép của các chi bộ đảng nhà tù.
Thuở đó, chánh sách của chánh quyền Miền Nam là mở rộng vòng tay đón
nhận những người phía bên kia thành tâm trở về với chính nghĩa quốc gia.
Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn có tổ chức một khu riêng biệt cho những người
hồi tâm hối cải này. Họ được tự do thoải mái, sống chung đụng nhau và
nơi khu này tôi còn nhớ có cả quán xá bán đầy đủ cà phê, hủ tiếu, thuốc
lá cùng những dụng cụ cần thiết v.v...
Có nhiều người ngày ngày được cho ra sinh hoạt ngoài phạm vi của khu và
chỉ trở lại đây để ngủ đêm. Cho nên anh em tù nhân gọi khu này là “thiên
đường” để đối lại với các trại khổ sai hay cấm cố là “địa ngục”. Chính
nơi “địa ngục” này, biết bao thanh niên trong đó có không ít bè bạn đồng
song của tôi đã vĩnh viễn từ giã cõi đời, mang xuống tuyền đài giấc mơ
dang dở.
Trong giai đoạn đó, tôi có cơ may và cũng chắc do định mệnh sắp sẵng là
rất say mê đọc các tác phẩm bất hủ về nông thôn đồng ruộng quê mùa của
nhà văn đặc sệt Miền Nam, Phi Vân. Có lẽ do gốc gác tôi chân quê, sinh
trưởng và lớn lên trên thửa ruộng vồng khoai, sông nước bát ngát, quanh
năm bà con tôi cày sâu cuốc bẩm, gắn bó với lũy tre xóm làng nên dễ cảm
thông và cảm nhận chăng?
Tác phẩm của Phi Vân không lớn lao đồ sộ, không như đối với các tiểu
thuyết gia dấn thân đương thời. Ông chỉ trình làng suốt cuộc đời khá dài
cầm bút của ông, dăm ba cuốn nhưng với ngần đó cũng đủ để tên tuổi ông
sáng chói trên văn đàn bấy giờ.
Những cuốn Đồng Quê (Phóng sự), Tình Quê (Truyện dài), Cô Gái Quê
(Truyện ngắn), Dân Quê (Truyện dài), trước đây tôi đọc đi đọc lại không
biết bao nhiêu lần. Và lần nào cũng đầy hứng khởi say mê. Và càng say mê
hứng khởi hơn từ những ngày sống ly hương, xa quê hương cội nguồn.
Tôi say mê thích thú đọc Phi Vân ở những giờ "ê tuýt" ban đêm đã đành mà
ngay ở giờ giấc được tự do giải trí nữa. Đôi khi tôi quên lững tiếng
chuông reo báo hiệu chuẩn bị đi ăn cơm chiều. Hoặc lúc lên "đọt toa",
khi bốn bề đã yên lặng, tôi vẫn liên tục lén đọc nốt chương sách lở dở
dưới ánh đèn xanh xao, mờ mờ ảo ảo, vừa đủ để phân biệt từng chữ một.
Phi Vân đã gợi trong lòng tôi cảnh đồng quê tươi đẹp rất đặc thù của
Miền Nam thuở thanh bình xa xưa, thời "tiền cách mạng", qua những tập
hợp phóng sự sống động trong Đồng Quê. Có thể nói trong các tác phẩm của
ông, tôi tâm đắc nhất quyển này.
Tác giả đã dùng ngòi bút tài tình linh hoạt, quyến rủ lôi cuốn tôi qua
những sinh hoạt quen thuộc của đời sống hằng ngày nơi thôn dã, chất chứa
tình tự và tình yêu. Bao nhiêu phong tục tập quán, lề lối hành xử tình
nghĩa cân phân giữa nhau, bao nhiêu tín ngưỡng hun hút một thời đã được
ông mô tả nổi bậc qua hình ảnh chân quê rất dễ thương của những thầy
pháp, thầy bùa, của các đám hỏi, lễ cưới...
Rồi nào là câu hát huê tình trên sông rạch rẻ nhánh chia dòng, điệu hò
đối đáp bắt trả quyện nhau tuyệt vời qua khúc quanh thời đại mang đầy
tính chất thơ mộng lãng mạn như ca tài tử với giọng ngân nga não nuột
theo tiếng đờn ai oán réo rắc... Đến những hiện tượng đặc biệt của thời
đại ông nay không còn nghe nhắc nhở nữa để nhạt nhòa trong dĩ vãng như
trộm cướp trên sông rạch, như bối có tổ chức v.v...
Bàng bạc qua những dòng chữ, những trang giấy vừa mới rọc cạnh lướt dưới
mắt hằng đêm trước khi ngủ, tôi hân hoan bắt gặp những bong hình ngày
xưa, những sinh hoạt năm cũ. Tôi nghe tâm hồn lâng lâng xao xuyến, rộn
rả ngập tràn một tình cảm luyến lưu trên nền xanh tinh anh dịu dàng,
mênh mong bất tận của quê hương mình. Một quê hương ngàn đời tươi đẹp.
Một quê hương muôn thuở diễm tuyệt mà tôi vừa đành lòng rời bỏ trong
tiếc nuối nhớ thương, khi phải dặt chân đến ngôi trường Pétrus Ký, tiếng
tăm vào bậc nhứt Miền Nam.
Đối với tôi, qua tác phẩm Đồng Quê, Phi Vân quả đã thành công vẽ lên một
cách truyền thần bức tranh xã hội đất Nam Kỳ Lục Tỉnh trước biến cố
lịch sử 1945: mùa thu sơn hà nguy biến. Một bức họa đầy màu sắc thắm
tươi với những đường nét điêu luyện độc đáo ấy từ lâu đã tan biến trong
hun húc của dĩ vãng.
Nhưng điều quan trọng hơn hết đối với cá nhân tôi là Phi Vân đã gieo
trong tôi những khúc chiết thắm thiết, những kỳ bí thôi thúc, những âm
vang ngân nga của tình yêu quê hương chơn chất, đậm đà bất diệt. Vì lẽ
đó, tôi xin đặc biệt có đôi dòng hoài niệm mà cũng để tạ ơn người cho
trọn tình và phải đạo của một độc giả trung thành và của một bạn vong
niên sau này.
Vốn là người rặc nòi Miền Nam, sanh quán ở cuối mũi quê hương, vùng Bặc
Liêu/Cà Mau, thừa hưởng một truyền thống xuề xòa dễ dãi, cởi mở thứ tha,
sống dung dị giản đơn, quý khách, chuộng bạn bè, quấn quít cột chặt vào
đồng ruộng đất nước Miền Nam nên khi phải chỉ trích đả phá một số hủ
tục nào đó, Phi Vân đắn đo nâng niu ngòi bút. Ông cân phân từng chữ từng
câu, bài xích rất nhẹ nhàng, vừa chọn lựa đủ lời đủ ý, không dư không
thiếu, vừa cợt đùa dí dỏm dễ thương.
Chính cái tính xây dựng, chung sống hài hòa giữa con người với con
người, giữa con người với thiên nhiên vạn vật, chính cái ý hướng trong
sáng gieo rắt niềm vui thanh thản nơi những người chung quanh, khiến ông
tin tưởng ở việc tốt điều lành trong tình yêu, trong việc xử thế có ta
có người, biết mình biết người, có trước có sau. Do vậy, ông chọn dứt
khoát một thái độ đứng đắn xuất phát từ tình yêu thương chân thật, mộc
mạc tinh tuyền của người dân tiêu biểu vùng quê nghèo Miền Nam.
Ông có một vốn sống quá phong phú vì trong thời thanh xuân bay nhảy,
tiếu ngạo giang hồ, đã từng lăn lóc nhiều ngõ ngách xóm thôn nơi vùng
sông nước bạt ngàn của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, nhứt là ở vùng cuối mũi quê
hương, nơi chôn nhau cắt rún của ông. Từ đó, những kỷ niệm sống động
được lắng đọng, chắt chiu trong sâu thẳm của trí nhớ để được ông sàng
lọc, chọn lựa kỹ lưỡng, đúc kết thành những cốt truyện quyến rủ lôi
cuốn.
Ngay trong các tác phẩm kế tiếp như Tình Quê, Dân Quê sáng tác trong
thời kỳ kháng chiến với nhu cầu tâm lý bức bách đánh động lương tâm và
lương tri con người, vực dậy lòng yêu nước của mọi công dân có trách
nhiệm, ông đắn đo đề cập những tình tiết, trạng huống mới cho phù hợp
với trào lưu sôi động lúc bấy giờ nhưng vẫn trung thành với những réo
gọi, câu thúc nội tâm của thuở ban đầu. Ông vẫn lấy bối cảnh thôn quê
hữu tình của Miền Nam làm khung để những trạng huống tình tiết ấy được
triển khai và diễn tiến chan chứa tình người.
Tôi có cảm tưởng như ông có sẵn trong huyết quản mình duyên tình thắm
thiết với đất đai làng xóm, với bản quán xã thôn, với hương đồng vị đất
thoang thoảng không ngưng trên quê hương ông. Tôi cũng có cảm tưởng như
ông có nợ nần níu kéo trói buột, keo sơn gắn bó với thôn xa xóm gần, với
ruộng rẫy kinh mương, với những người khuất mày khuất mặt mà vong linh
lãng đãng quanh quẩn đó đây. Cái duyên tình và nợ nần đó đã được ông
thăng hoa trong các tác phẩm bất hủ của ông vậy.
Khác với một số lớn cây viết đồng thời với ông trong thời kỳ dầu sôi lửa
bỏng sau bao nhiêu thập niên dài bị đô hộ vừa tiếp cận cao trào quật
khởi đấu tranh, đường lối sáng tác của ông không vượt ngoài những nét
sâu đậm của cá tính Miền Nam. Những cá tính truyền thống nơi thôn quê
căn đày kiếp đọa nhưng chân chất thật thà, thực tế như củ khoai hòn đất,
như con cá con cua, không vọng tưởng mơ mơ hồ hồ xa vời, không mù quáng
quá khích nông nổi.
Tôi vẫn tin rằng trong ý hướng, ông đả kích để xây dựng. Ông chỉ trích
để hợp tác. Ông đề xuất góp ý để cuộc sống chung thêm hài hòa dễ chịu
hơn.
Nếu như ông có đặt thành vấn đề về "sự chuyển mình" của nông dân trong
thời kỳ bị điền chủ phú hào và giới chức quyền địa phương toa rập cậy
thế, đàn áp bóc lột, bức bách những người thế cô ngắn cổ, ông cũng cố
gắng bóp méo thành tròn, giảm thiểu những gốc cạnh dị biệt. Ông nuôi
dưỡng ý hướng xóa lấp bớt lằn ranh ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo,
giảm thiểu cái hố phân chia giữa chức dịch hội tề và người dân bình
thường.
Tôi không biết mình có chủ quan trong nhận xét hay không? Nhưng công
bằng mà nói, ông lấy sự rộng lượng bao dung, hỉ xả thứ tha làm khuôn
vàng thước ngọc nhằm tạo cảm thông hiểu biết giữa nhau. Ông đề xướng cổ
võ sự đoàn kết cần thiết trong tinh thần trong sáng có trách nhiệm, có
tình thương, rốt ráo trong hai chữ "tình người".
Cái hay và cái nét đặc thù của Phi Vân theo tôi là ở chỗ đó.
Ở chỗ tiếp nối truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lấy
tình nghĩa thủy chung, lấy cảm thông nhân hậu xóa bỏ tranh chấp hận thù
giai cấp.
Ở chỗ ông không chủ trương cuồng tính loại trừ hoặc tận diệt một ai hay
một giai từng nào trong xã hội trên cái chéo quê hương thơ mộng mỹ miều
của ông. Nơi này tình nghĩa bà con, lâng bang lối xóm cột chặt vào nhau
như cá với nước, không thể tách rời được. Cũng tại nơi này, ông ao ước
mỗi người trên mảnh đất chung đụng hiền hòa ấy đều có một chỗ đứng trang
trọng, xứng đáng. Mỗi người có bổn phận đồng hành, vui vẻ góp bàn tay
cần cù lam lũ để tích cực đem mồ hôi công sức xây dựng hạnh phúc của tập
thể, của cộng đồng.
Ở chỗ ông không thiển cận, không câu nệ, không hề hẹp hòi đào sâu thêm
hố chia rẻ giữa nhau, làm suy yếu tiềm năng sản xuất, phục vụ cộng đồng,
phục vụ nhân sinh. Ông tránh làm vấy bẩn màu xanh tươi thắm và dịu dàng
của quê hương ông.
Nếu ông có đề cập đến "sự trổi dậy" tất nhiên của từng lớp người kham
khổ bất hạnh, suốt đời bám đất bám làng, sống dung dị với chéo mạ vuông
vườn để lập nghiệp tiến thân, nếu ông có đề cập đến những xung đột giữa
chủ và tá điền nhưng vẫn không đến nổi quyết liệt phải loại trừ, khống
chế, tận diệt nhau. Vì lẽ đó, sau ngày cộng sản hiếu chiến miền Bắc đã
cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam bằng súng đạn hận thù, chúng đã không
nương tay, từng phát biểu rất nghiêm khắc khi phê bình những tác phẩm
một thời vang danh của Phi Vân.
Bọn “đỉnh cao trí tuệ” có “ba tăng” của đảng cho rằng tác giả Phi Vân đề
cập "sự trổi dậy" đó của nông dân trong Liên Minh Công Nông, từng bị
bốc lột tận xương tủy một cách đột phá, bọc phát. Việc mà cộng sản, vốn
có manh tâm và ý đồ cướp công cướp của của người khác, không thể nào và
không bao giờ chấp nhận và tha thứ được.
Vì tác giả không hề nói đến hoặc cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo "thần
thánh", “bách chiến bách thắng” của Đảng Lao Động, thối thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Lý do biện giải của chúng là trước đó, Đảng cộng sản
đã được thành lập từ lâu (1930) và đã thực sự lãnh đạo mọi cuộc đấu
tranh trên toàn quốc (sic).
Theo họ, nơi Phi Vân có sự nhân nhượng trầm trọng. Ngòi bút của Phi Vân
cố tình ngừng lại ở quan điểm “tạch tạch xè” cố hữu của tuổi thanh xuân
chập choạng thiếu lãnh đạo. Tác giả thiếu hẳn lập trường giai cấp dứt
khoát cùng chiến đấu tính cương trì.
Và sự đấu tranh trổi dậy của nông dân đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo tầm nhìn
của Phi Vân thiếu hẳn tính chất hận thù thâm căn cố đế, thiếu hẳn thái
độ sắt máu quyết liệt như của những năm đấu tố dã man cường hào ác bá,
địa chủ phú nông trong chiến dịch cải cách ruộng đất dã man, đẫm máu và
nước mắt ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tức thời kỳ chuẩn bị phát động
chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi nghĩ điều này, tác giả không bao giờ và chẳng bao giờ nghĩ đến trong
quá trình xây dựng và sáng tác. Lý do nó đi ngược lại cảm thức và
nguyện vọng trong sáng của dân tộc. Nó đi ngược với lương tâm và sứ mạng
cao cả của người cầm bút chân chính.
Phi Vân đã nhắc nhớ tình yêu thôn làng bất diệt để bám rễ ăn sâu vào
tình cảm và tâm khảm tôi trải dài từ bao nhiêu thập niên qua. Quê hương
ngàn đời dấu yêu. Quê hương bao dung chan chứa tình người. Quê hương
trường tồn. Quê hương trên hết.
Một tình cờ đến với tôi. Vì tôi không hề ước mơ mà đã thành sự thật. Từ
sự kính trọng và ngưỡng mộ thuở thiếu thời đối với tác giả, hai mươi mấy
năm sau, tôi có dịp chủ trương một nhà
xuất bản nho nhỏ thuộc loại cò con, có tính cách thủ công gia đình, đẩy
đưa tôi gặp tác giả tại tòa soạn nhật báo Cấp Tiến. Tờ báo của hai cố
giáo sư khả kính Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy, cơ quan ngôn luận
chánh thức của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Nơi này, ông làm việc phụ
trách trang nhứt.
Trong giới truyền thông báo chí chuyên nghiệp ở Miền Nam tự do, ông được
đồng nghiệp đánh giá là một trong hàng ký giả cao thủ thuộc lớp đàn anh
già giặn kinh nghiệm. Ông có tài chọn tin và "đi tít" đập mạnh ngay vào
nhãn quan của độc giả. Họ so sánh ông ngang hàng với những bậc làm báo
vang danh đã làm nên một thời như: Nguyễn Kỳ Nam, Trần Tấn Quốc, Nguyễn
Duy Hinh, Việt Quang, Nguyễn Kiên Giang... nếu chỉ kể những người cầm
bút gốc gác Miền Nam như ông.
Nhật báo Cấp Tiến vốn thối thân của nhật báo Bình Minh của ông bầu vui
tánh Võ Văn Ứng, bút hiệu Võ Bình Sơn, chủ nhân nhà hàng Nam Đô ở gốc
đường Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Thái Học. Các bạn ghiền bóng tròn trước năm
1975 không thể nào quên được hình ảnh bệ vệ của vị Chủ Tịch Tổng Cuộc
Bóng Tròn Nam Việt quý mến và hào sãng ấy trên khán đài danh dự, mỗi khi
có những cuộc tranh tài quan trọng hay quốc tế ở sân cỏ Vườn Ông Thượng
hay Vận động trường Cộng Hòa sau này.
Không dè lần gặp gỡ tình cờ đó lại là khởi điểm cho một đoạn đường dài
hợp tác giữa hai anh em chúng tôi. Chính tôi đã mấy lần trang trọng in
lại quyển Đồng Quê, một tác phẩm đạt nhiều cảm tình và thương mến của
độc giả trong nước trước ngày Miền Nam bị bức tử. Vì sách được liên tiếp
tái bản trước sau hơn mười lần nếu tôi không lầm.
Mấy năm trước đây, tôi có thấy tái bản ở Hoa Kỳ, bày bán khắp nơi ở hải
ngoại. Và gần đây, do sự đòi hỏi và khát khao chánh đáng của độc giả
trong nước luôn luôn hướng về căn cơ cội nguồn, cộng sản phải cho tái
bản qua khuôn khổ bỏ túi.
Từ dạo đó, giữa tôi và Phi Vân có mối giao tình đậm đà kéo dài đến khi
tôi vượt biên ngày 5 tháng 6 năm 1979. Và anh cũng đã từ trần vào những
năm sôi động đó trong hoàn cảnh cực kỳ bi ai trầm thống.
Thuở ấy, cái thuở “ngăn sông cách chợ”, “thắt lưng buột bụng” đến xác xơ
rã rời thể xác lẫn tinh thần, người dân bị khống chế trong những biện
pháp hận thù giai cấp, nào là chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo
công thương nghiệp, văn hóa đồi trụy, truy quét đưa đi kinh tế mới
v.v... mọi di chuyển xê dịch đêm ngày bị kiểm soát, phép tắc khắc nghiệt
đến nghẹt thở. Tôi được bạn bè cho biết khá muộn màng anh đi thăm người
con vốn là sĩ quan chế độ cũ bị Việt cộng tập trung cải tạo. Vì chứng
kiến tận mắt, thấy con mình tiều tụy đói trơ xương nơi trại tù man rợ
chưa từng thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước, anh quá đỗi xúc động
chán chường và qua đời không lâu sau đó.
Tôi đoán biết có lẽ do hậu quả nguy hại của chứng áp huyết cao mà anh đã
mắc phải từ lâu lắm rồi. Vì trong đôi lần gặp gỡ nhau, anh có tâm tình
với tôi: nhiều khi áp huyết lên quá cao, gia đình phải buột tay buột
chân anh vào thành giường để anh nằm yên bất động. Tôi không dám tìm
hiểu thêm lý do gì hay nguyên nhân nào đưa đến sự ra đi vĩnh viễn của
anh để thêm ngậm ngùi đau đớn trong lòng. Dẫu sao, sự mất mát đáng tiếc
này đã là sự thực rồi.
Hơn nữa, cũng vì lúc ấy tôi không còn tinh thần nào để tiếp thu và phán
đoán những lời đồn đãi ấy. Tôi chỉ tha thiết mong muốn sau này bạn bè
thân cận đã từng chứng kiến hay thân nhân anh sẽ làm sáng tỏ thêm. Nhưng
tôi thiết nghĩ cho dù có làm sáng tỏ hay không, sự ra đi của anh trong
thời điểm thương đau tột cùng ấy vẫn là một mất mát lớn lao không xóa
lấp được của nền văn chương học thuật và của báo chí truyền thông Miền
Nam. Do ở tuổi anh, anh vẫn còn thừa công sức và nhứt là tâm trí minh
mẩn để dùng ngòi viết trân quý của mình tiếp tục phục vụ đồng bào, phục
vụ nhân sinh.
Làm sao tôi quên được hình ảnh người anh lớn dễ thương dễ mến ấy. Làm
sao những kỷ niệm giữa anh và tôi lại có thể nhạt nhòa nhanh chóng trong
tâm khảm tôi được?
Sau ngày quốc nạn tháng Tư Đen, anh vẫn trung thành khắn khít với chiếc
vespa ọp ẹp màu xanh dương nhạt để làm phương tiện di chuyển đó đây
trong thành phố thay tên đổi đời, đã bắt đầu có những triệu chứng nghiệt
ngã, trả thù tập thể. Anh thường hay đến thăm chúng tôi tâm tình về
những đổi thay của trò đời đen bạc.
Mỗi lần đến nhà tôi, anh có thói quen hỏi vợ chồng tôi:
- Sao chị?
- Sao anh?
Chỉ đôi lời ngắn gọn rồi anh giữ im lặng một hồi lâu. Nhưng tôi nhìn nụ
cười chua chát nơi gương mặt uể oải bơ phờ, không còn sức sống thuở nào,
đoán biết không sai niềm thất vọng chua cay nơi anh, qua cuộc đổi đời
tai hại quá trầm trọng này và nhứt là qua sự lo âu sâu lắng của cuộc
sống tương lai.
Trong câu chuyện giữa nhau, thỉnh thoảng anh buông ra những tiếng thở
dài cay đắng, những nức nở hoàn toàn bế tắc. Trái với những lần gặp gỡ
trước thảm họa tháng Tư, những câu chuyện về văn chương chữ nghĩa, về
thông tin báo chí, những toan tính về in ấn xuất bản, rồi những quan hệ
giữa bạn bè kẻ mất người còn, không bao giờ được anh có can đảm đề cập
đến nữa. Trong âm thầm mãi mãi gậm nhấm đay nghiếm và trong niềm đau uất
hận riêng rẻ của mỗi người, chúng tôi mặc nhiên ý thức rằng cái quyền
tự do sinh sống cho đáng mặt người, cái quyền tự do hội họp, tự do ngôn
luận, tự do phát biểu, tự do báo chí... những thứ tự do trân quý ấy đã
bị bọn độc tài độc đoán tước đoạt trong thể chế lãnh đạo xích hóa tư
tưởng phục vụ chế độ.
Vô hình trung, chúng tôi xem như bị bắt buộc tự mình làm lễ an táng
không kèn không trống nhằm tiễn đưa để chôn vùi từ đây tất cả các thứ tự
do mà mình đã được thừa hưởng trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa. Chúng
tôi xem như đã vĩnh viễn tiễn đưa nó dưới nấm mồ của độc quyền độc tôn
xã hội chủ nghĩa.
Lúc này quán cơm bình dân thường được đồng bào gọi là quán cơm xã hội
của vợ chồng anh ở đường Triệu Đà trong Chợ Lớn đã bị "dẹp tiệm" từ lâu.
Quán cơm này do anh lập ra và giao cho chị hoàn toàn trông nom từ những
năm tháng trước 1975. Mục đích duy nhất nhằm giúp giới nghèo khó ở Đô
Thành, đa số là những phu xe xích lô, xe ba bánh cùng nhân công các hảng
xưởng lân cận và ngay cả sinh viên lận đận có bữa cơm trưa và chiều với
giá phải chăng, vừa với túi tiền của họ. Bây giờ tìm đâu mỗi ngày
mấy bao chỉ xanh gạo khi chánh sách “ngăn sông cách chợ” của cộng sản
được ban hành và được kiểm tra chặt chẽ ngặc nghèo.
Anh quá đổi thất vọng. Nhưng sự thất vọng của anh được nhân lên gấp bội
khi anh cộng thêm cái quyền cầm bút chuyên nghiệp bị tước đoạt, bị cấm
đoán trong khi anh hoài công xuôi ngược giữa lòng thành phố đổi họ thay
tên, mong tìm một phương kế sinh nhai trong tiếng thở dài. Lúc này quả
thật đời sống của anh vất vả lắm. Chứng bệnh áp huyết cao không được
theo dỏi thuốc men thường xuyên và đầy đủ do phần tài chánh eo hẹp đã
đành mà còn vì loại thuốc này đắc giá lại khan hiếm dần.
Một nỗi buồn nằng nặng ám ảnh tôi luôn. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 làm
tiêu tan bao Nhiêu chương trình dự định mà chúng tôi ấp ủ cưu mang từ
nhiều tháng trước và đang trên đà hoàn tất. Đó là bộ "Phi Vân Toàn Tập"
gồm những tác phẩm chính vừa kể trên như Đồng Quê, Dân Quê, Tình Quê, Cô
Gái Quê cùng một số bài viết chọn lọc như truyện ngắn, tùy bút, tạp ký,
chuyện vừa v.v... mà ít người biết đến do tác giả ký dưới nhiều bút
hiệu khác nhau.
đã chuẩn bị chu đáo xong một bản tiểu sử của anh Phi Vân khá đầy đủ
và chính xác. Bản tiểu sử này đã được chính anh thận trọng duyệt kỹ
lưỡng, thêm thắt bổ sung với những chi tiết về thân thế cũng như về sự
nghiệp mà đến nay xem như chưa hề được công bố. Thêm vào đó còn có hình
ảnh cá nhân qua nhiều thời kỳ và những ảnh lưu niệm gia đình phong phú.
Nhưng tất cả đều bị thiêu hủy cùng chung số phận với nhiều bản thảo giá
trị của các tác giả khác trong những chiến dịch đánh tư sản mại bản,
kiểm kê tài sản và "chống văn hóa đồi trụy" dồn dập của cộng sản nơi
thành Hồ.
Những bản thảo văn thơ và nghiên cứu giá trị của cụ Thuần Phong, của
giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, của nhà biên khảo sử học Nguyễn Văn
Xuân, của các cụ Vương Hồng Sển, thi sĩ Quách Tấn xứ Trầm Hương, sử gia
kiêm giáo sư thỉnh giảng ban Sử thuộc Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cụ Lê
Thọ Xuân qua tác phẩm đồ sộ về địa danh Miền Nam, nhà văn Nguyễn Hiến
Lê, học giả Bùi Đức Tịnh, giáo sư Nguyễn Văn Hầu của Viện Đại Học Hòa
Hảo... đều chung số phận bị thiêu hủy phũ phàng trong cơn lốc của ngọn
lửa bạo tàn hận thù giai cấp.
Tôi quên ghi chú thêm là anh Phi Vân còn là tác giả quyển "Nhà Quê Trong
Khói Lửa" viết trong khi anh tham gia kháng chiến những năm đầu thời
Nam Bộ chống xâm lăng. Theo anh kể thì quyển này đã được giải thưởng văn
học ở chiến khu do ông Hoàng Xuân Nhị làm Chủ tịch Ban Chấm giải. Tuy
nhiên từ dạo ấy đến nay, hơn nửa thế kỷ qua, tôi chưa từng thấy phổ biến
tập sách này, ngay cả tựa sách, cho dù sau ngày Miền Nam bị cưỡng
chiếm.
Anh còn cho biết thêm anh cũng là tác giả hai tiểu thuyết dài đã được
đăng hằng ngày trên các nhật báo ở Sài Gòn thuở anh vừa bước chân chập
chững vào chốn văn chương báo chí. Nhưng anh cố công tìm kiếm mãi,
chẳng bao giờ được mãn nguyện. Hoặc giả anh không toại nguyện lắm về
những tiểu thuyết này so với các tập truyện đã được trình làng chăng?
Anh tên thật là Lâm Thế Nhơn, sanh năm 1917 tại Cà Mau thuộc tỉnh An
Xuyên trong một gia đình trung lưu. Là nhà văn nhà báo chuyên nghiệp,
anh cộng tác với nhiều tạp chí văn học và nhứt là nhựt báo quan trọng
như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Thủ Đô Thời Báo, Bình Minh, Cấp
Tiến... Anh mất tại Sài Gòn vào ngày 11 tháng 1 năm 1977 theo tài liệu
của nhà biên khảo Nguyễn Thiên Thụ trong Văn Học Sử Việt Nam - Văn Học
Hiện Đại, tập IV do Gia Hội xuất bản ở Canada năm 2006.
Có một sự trùng hợp lý thú về danh tánh giữa anh với một nhà văn nổi
tiếng khác là Đoàn Thế Nhơn. Nhà văn này hiện định cư ở Mỹ. Anh Đoàn Thế
Nhơn chẳng ai khác hơn là nhà văn lớn Võ Phiến, một cây đại thụ trong
chốn văn chương chữ nghĩa trong nước trước đây và ở hải ngoại sau này.
Một sự ngẩu nhiên là hai nhà văn tên tuổi cùng tên thật là Thế Nhơn. Một
người là Lâm Thế Nhơn lấy bút hiệu là Phi Vân tức "Mây Bay", đã ra đi
về cõi vĩnh hằng. Một người là Đoàn Thế Nhơn với bút hiệu Võ Phiến, đảo
ngược lại là "Viễn Phố" báo trước một giai đoạn lưu đày xa xôi cuối đời!
Giống như trường hợp của lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn, vì mang tên
Viễn nên bỏ thây nơi đất lạ quê người.
Nhớ Phi Vân, nếu tôi thiếu sót không nói thêm Phi Vân không phải là lý
thuyết gia chỉ lối dẫn đường hay một nhà văn dấn thân xu thời thế. Anh
không phải là một cây viết bị ràng buộc trong khuôn khổ gò bó theo một
mẫu mực qui định. Anh không sáng tác theo đơn đặt hàng dưới sự chỉ đạo
như những tác giả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đồng Quê, Dân Quê... không có tham vọng dẫn dắt dư luận thế hệ
mình phải làm gì và xã hội thời mình hướng về đâu theo một chủ thuyết cố
đỉnh nào đó. Nếu anh có xu hướng cổ vũ một tập thể nhỏ bé nơi thôn làng
quê mùa hẻo lánh trổi dậy chống lại những bất công áp bức đương nhiên
phải có, dù ở bất cứ xã hội nào hay thời đại nào, tôi nghĩ đó chỉ là một
phản ứng của lương tâm, một khắc khoải trong thời điểm nhất định mà
thôi.
Vì anh không thể dửng dưng trước nghịch cảnh bất công. Vì anh không thể
dưng dửng trước những thay đổi trong nước, đặc biệt là ở nông thôn xa
xôi mà sức mạnh đồng tiền và quyền thế lấn át tất cả.
Anh chỉ là một họa sĩ phác vẽ bức tranh quê để qua màu sắc thắm tươi độc
đáo, đường nét đậm đà quyến rủ, người xem có một ý niệm khá chính xác
về xã hội thời đó. Anh cố gắng ghi lại một cách trung thực để lưu hậu
thế khung cảnh quê hương nay không còn nữa, những tình tiết trạng huống
về phong tục tập quán, về mê tín dị đoan, về hội hè đình đám, những cái
đó qua ngôn ngữ đặc thù địa phương đất Nam Kỳ Lục Tỉnh đã mất húc trong
dĩ vãng.
Đúng như anh viết trong lời tác giả tập sách Đồng Quê:
“Hình ảnh những nhân vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống
chung – ngày nay đã mờ trong ký ức “Kể lại một quãng đời phải chăng là
sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: vẽ một bức
tranh phong tục và tập quán.
“Thật là quá cao vọng !»
Nhưng tất cả những cái không còn đó, những cái mất mát đó phối hợp nhuần
nhuyễn với nhau tạo nên kho tàng văn chương Nam Kỳ Lục Tình vô giá. Nó
giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu về nhân chủng học và xã hội học
Việt Nam về sau.
Nhắc nhớ, thăng hoa hồn đất, hồn người lãng đãng trong hồn thiêng sông
núi, khơi dậy thời quá khứ xa xôi với ước mơ tìm về cảnh địa, thổ địa,
tìm về sinh hoạt truyền thống dằng dặt ẩn hiện bao nhiêu phong tục tập
quán xưa, tôi nghĩ Phi Vân không hề thụ động. Anh không ngừng lại ở hiện
tại.
Trái lại, tác giả tích cực hướng ngòi bút mình thực sự trở về với căn
cơ, gốc tích, cội nguồn. Tôi có thể nói một cách trang trọng là Phi Vân
quả đã đóng góp và đã thành công làm sáng danh vùng đất chôn nhau cắt
rún của anh. Anh đã tích cực giúp khám phá trở lại nhân diện và giá trị
đích thực của nó, bàng bạc trong tinh anh tú chất của dòng giống Rồng
Tiên muôn đời muôn thuở vậy.
Nền văn hóa nông thôn đồng ruộng bề ngoài tưởng như thô sơ tầm thường,
không tinh không nhả. Nhưng những nhà quan sát nghiêm túc trên thế giới
chú tâm nghiên cứu và phát hiện nhiều khía cạnh đa dạng, vừa sắc sảo
tinh tuyền, vừa uyển khúc thâm sâu.
Những thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang đường, truyền kỳ,
chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện châm biếm, những chuyện kể dân
gian nói chung, gói ghém, hàm chứa những phong tục tập quán, những suy
nghĩ, những ước vọng thiết tha của một nhóm người vào một thời điểm nhứt
định nào đó v.v... Tất cả kết hợp nhau nhằm bảo tồn và phát huy ngày
thêm phong phú ký ức và kỷ niệm tập thể của một vùng đất.
Trong chiều hướng đó, Phi Vân đến rất gần với nhận xét của thi sĩ
Patrice de la Tour du Pin của Pháp. Ông sinh ở thủ đô Paris năm 1911,
được giới văn gia thi sĩ biết tới qua bài thơ "Les Enfants de Septembre"
ấn hành năm 1931 lúc vừa mới hai mươi mốt tuổi. Hai năm sau, ông in thi
tập "La Quête de Joie" và sau thế chiến thứ hai, ông lại in tiếp tác
phẩm "Une Somme De Poésie" (1946).
Chính trong bài "Dẫn Nhập" thi tập sau cùng này, ông có viết:
"Tous les pays qui n'ont pas de légende
"Seront condamnés à mourrir...".
Do ám ảnh này, nhiều nhà văn trên khắp thế giới đã suy tư gắn bó, cột
chặt sự nghiệp văn chương của mình vào ký ức tập thể đó. Những trường
hợp điển hình không sao kể xiết và được giới hậu sanh nhắc nhớ luôn.
Miền Nam, sau lớp các nhà văn một thời chói sáng trên văn đàn như cụ Hồ
Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), nhà văn nhà báo Phi Vân Lâm Thế Nhơn, nhà
chơi đồ cổ Vương Hồng Sển, nhà biên khảo đất Nam Kỳ Nguyễn Văn Hầu
v.v... phải kể đến Sơn Nam Nguyễn Minh Tây, người đã có công đưa sông
nước đồng quê Miền Nam lên đỉnh cao của nghệ thuật qua các tác phẩm nổi
danh như Hương Rừng Cà Mau, Vọc Nước Giỡn Trăng, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang,
Văn Minh Miệt Vườn... và gần đây Một Mảnh Tình Riêng, đầy màu sắc địa
phương, đặc thù về cảnh thổ và tình người.
Ngay ở Âu Mỹ và ngay ở thời đại tân tiến hiện tại, không thiếu gì tác
giả đã giành cả một đời để ghi lại những gì đã mất nơi quê hương họ. Và
đây chính là những công trình thầm lặng đóng góp vào bước tiến vững vàng
trong sáng của mỗi quốc gia và của cả nhân loại.
**
Những giòng hoài niệm nào đều cũng như nhau, phảng phất chất chứa một nỗi buồn riêng. Đôi khi chỉ mình ta cảm nhận.
Nỗi buồn tưởng tiếc những người đã để lại nơi lòng mình bao nhiêu nghĩa
tình, trong từng nỗi buồn vui do cuộc sống vô tình đẩy đưa tới tấp đến
chóng mặt.
Nỗi buồn hồi nhớ để cố gắng vẽ lại trung thực chân dung những người đã
trực tiếp tham gia đóng góp, chia xẻ với mình những thôi thúc cô đơn
chán chường, những thăng trầm vinh nhục đã qua, hòa lẫn với nỗi trầm
thống tận cùng và niềm hãnh diện tự hào chung của dân tộc.
Nỗi buồn bùi ngùi đứng trước thực tế phũ phàng của ngày hôm qua và của
hiện tại, những khuôn mặt thân thương hay quen biết ít nhiều đã đi qua
đời mình, kẻ trước người sau đều từ giã cuộc đời, từ giã cuộc chơi nhân
thế để miên viễn đi vào vùng thiên thu siêu thoát. Như những tuyến sông
lạch nước rải rác khắp đó đây đến những khúc quanh rẽ nhánh chia dòng
bớt đi lưu lượng nguồn nước.
Tuổi trẻ của tôi mới đó với khung cảnh đầm ấm của ngôi trường Pétrus Ký
nguy nga tráng lệ bậc nhứt Miền Nam, nơi có những dãy lầu nội trú hai
tầng kiên cố thách thức gió sương, với những thầy cô hy sinh tận tụy,
một lòng một dạ chăm lo dìu dắt thế hệ mới tấn lên của chúng tôi… những
khung cảnh đầm ấm đó không mấy chốc bay vèo theo năm tháng.
Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, chân mỏi gối dùng, trong thầm lặng
ngoái nhìn lại những chặn đường đã qua mà nghe lòng thêm xao xuyến nghẹn
ngào. Lòng càng dằng dặt bao đắng cay tủi nhục liên tiếp bủa vây từng
bước trong kiếp sống lưu vong.
Nếu trong đời, nhiều lúc đối diện với chính mình, tôi từng cám ơn Cha
tôi đã ban cho tôi mảnh hình hài không thô không lịch nhưng tràn đầy sức
sống và âm thầm mặc nhiên đã mớm thêm cho tôi ý nghĩa cuộc sống để hăm
hở hy vọng chào đón tương lai.
Nếu tôi đã từng hoen tròng lặng lẽ cám ơn Mẹ tôi đã khổ cực cưu mang ban
cho tôi hơi thở đầu đời và tiếp tục hy sinh, chắt chiu săn sóc, dưỡng
nuôi tôi qua dòng sữa thương yêu trắng ngần, tinh tuyền thanh khiết.
Thì hôm nay, một mình lặng lẽ ngồi đối diện với chính mình dưới ngọn đèn
bàn giấy không được sáng tỏ, tâm thần lắng đọng trong vắng vẻ quạnh
hiu, tôi cũng xin cám ơn Trường xưa Thầy cũ, cám ơn bạn bè trang lức
thuở tuổi hồn nhiên mộng mơ. Những tâm hồn trong trắng, cửa lòng luôn
rộng mở này, đã tuần tự mang đến tôi bao nguồn vui tuổi trẻ, rộn rả
tiếng cười yêu đời, từ ấy mãi đến bây giờ.
Tôi cũng xin cám ơn các văn nhân thi sĩ đã có dịp góp mặt trong cuộc
sống và cuộc đời tôi để qua lời văn tim óc, qua ngôn ngữ của thi ca, qua
lời hay ý đẹp đã vĩnh viễn cột chặt tâm hồn tôi vào dải đất Quê Hương
mến yêu và duy nhứt này của tôi.
Tôi cũng xin đặc biệt cám ơn anh Phi Vân, người trước tiên giúp tôi thấm
thía nét đẹp tuyệt vời của bản quán xóm làng, của nông thôn đồng ruộng,
thơm nồng mùi rơm hương rạ. Anh cũng giúp tôi được dịp thấm đẫm tình
cảm tinh ròng đối với nơi chôn nhau cắt rún cố thổ. Nơi mà mỗi con người
tôi gặp gỡ lan man đâu đó trên bờ ao kinh rạch, bên liếp mía vồng khoai
luống mì, ven đường mòn quanh co uốn éo tận chân trời xa thẳm... cứ
vừa là lạ nhưng lại vừa quen quen. Tựa hồ như tôi đã năm lần bảy lượt
đối diện chuyện trò, tựa hồ như tôi đã bao phen tâm tình thân mật trước
đây lâu rồi.
Tôi lại trở về lặng lẽ, nhớ quê hương, lòng ray rứt trong cái khoảng
trống không hiện tại của cuộc đời lưu lạc. Nhưng cũng may, niềm đau ray
rứt ấy đôi khi mang đến tôi một chút an ủi vỗ về, thoáng ẩn thoáng hiện,
đã có ma lực xoa dịu phần nào tâm tư tình cảm tôi.
Mới hay sự gắn bó với làng quê thôn xóm, bà con láng giềng, tha thiết
với mỗi bến sông vàm nước, eo vịnh kinh mương, mỗi ánh nắng sớm chói
chang lung linh huyền diệu, mỗi ngọn gió chiều hiu hiu se lạnh, từ chiếc
lá khô úa vàng nằm im thin thít trên mặt nước ao bèo đến con cá lìm kìm
thon thon nhỏ nhắn se sẽ ve vẫy đuôi làm chao động ngọn cỏ non, từ cây
xoài cà lăm tróc gốc oằn nhánh say trái chua lè đến ngôi nhà từ đường
xưa với nhiều thế hệ tiếp nối dóc tâm xây dựng, bất chợt tôi mang máng
nhớ, tôi mang máng thấy đâu đây... phảng phất hồn đất, hồn người hòa
cùng nhịp điệu của muôn tiếng reo vui của thiên nhiên, của lịch sử. Thật
là linh diệu biết dường nào!
Nơi đây tôi xin ghi lại những vần thơ tôi viết cách đây hơn mười lăm năm
nhưng nay trong hoàn cảnh hoài niệm nhớ nhung vẫn thấy thích hợp để tạm
nói lên phần nào một chút ngậm ngùi thổn thức, một chút sắt son gắn bó
đối với đất nước quê hương nơi xứ lạ quê người.
Lòng Vẫn Vương Mang
Không Xuân trang điểm xác pháo hồng,
Không mai vàng thắm trải non sông,
Không câu đối đỏ rồng phượng múa
Lòng vẫn vương mang nỗi nhớ nhung.
Không cau thiu ngủ cạnh sân đình
Không ngọn mưa rào đất nước xinh,
Không tiếng bịp kêu bờ bến vắng,
Lòng vẫn vương mang một khối tình.
Không cánh cò xa điểm trắng cành,
Không hàng dừa lửa ngắm sông xanh,
Không bóng thuyền câu soi trăng bạc
Lòng vẫn vương mang giấc mộng lành.
Không ga hoang vắng rít tàu chiều,
Không khói hoàng hôn mái tranh xiêu,
Không người viễn khách ôm trăng hận,
Lòng vẫn vương mang kiếp hẩm hiu.
Không áo thướt tha ngọn gió đùa,
Không cầu lắt lẻo bắt mương xưa,
Không bến quạnh hiu đò lỡ chuyến,
Lòng vẫn vương mang giọt lệ thừa.
Bềnh bồng biển Thái chiếc thuyền con,
Ly hương phiêu bạt mấy xuân tròn,
Kinh hoàng đeo đẳng đau trang sử,
Lòng vẫn vương mang chút sắt son.
Võ Phước Hiếu