Từ nhỏ theo học Việt văn với nhà thơ Tâm điền, Khởi viết trong thời kháng chiến, đã làm phóng viên cho báo Tiếng Súng Kháng địch (năm 1949-1950) . được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật của Việt Nam Cộng Hòa năm 1973. Tại hải ngoại cọng tác với nhiều tạp chí tiêu biểu như Nắng Mới, Làng Văn, Diễn đàn Tự Do...
độc già có thể tìm trong các thư viện và các nhà xuất bản ở hải ngoại 43 tựa các tác
phẩm của Xuân Vũ xuất bản từ năm 1973 trong nước và sau đó tại hải ngoại. Một số
các tác phẩm nầy là các trường thiên gồm nhiều tập, như Đường đi không đến gồm 5
tập với 5 tựa khác nhau, do đó nếu phải kể tất cả các tựa, thư mục Xuân Vũ có ít nhất
60 tựa với 15 000 trang giấy.
ngoại có 10 nhà xuất bản tại Hoa Kỳ chia nhau xuất bản hay tái bản sách của Xuân Vũ.
Quan trọng nhất phải kể hai nhà Xuân Thu và Đại Nam, còn lại là Thằng Mõ, Trời Nam,
Người Việt, Văn Hóa, Văn Khoa, Tổ Hợp Xuất bản Miền Đông. Quang Phục, Thư viện
Việt Nam Ấn Quán. Tại Canada có Làng Văn (Toronto)
1- Đường đi không đến : hồi ký vượt Trường Sơn. -- Saigon : Xuân Vũ, Sống
Mới, 1973, Đại Nam tái bản năm1979 và Xuân Thu năm 1993.
Xuất hiện lần đầu tiên năm 1968 trên báo Tiền Tuyến dưới dạng « feuilleton », sau
đó tác giả tự xuất bản và nhà Sống Mới tái bản năm 1973 và cũng năm nầy tác
phẩm đoạt được giải văn học Tổng Thống. Vô tình tên tuổi một nhà văn gắn liền với
tên tuổi một Tổng Thống. « Thằng Thiệu đã mất chức Tổng Thống, còn thằng Xuân
Vũ nó không mất chức vì nó là nhà văn….Thằng Thiệu trốn, bỏ lại đất nước, ta còn
có thể sửa lại còn thằng Xuân Vũ bỏ lại tác phẩm thì chả ai sửa lại được vì nó là
chất độc, cực độc. Đất nước bị tàn phá, Đảng ta sẽ làm lại nghìn lần đẹp hơn, con
người miền Nam bị hư hỏng đảng ta thừa sức cải tạo thành con người mới, con
người xã hội chủ nghĩa. Nhưng những tác phẩm văn học phản động như kiểu
« Đường đi không đến » của thằng Xuân Vũ thì làm thế nào sửa lại cho đẹp, làm thế
nào cải tạo nó. Cái nguy hiểm độc hại là ở chỗ đó » (Đến mà không đến, tr.11)
Đó là câu nói hằn học của tên Công An phỏng vấn ông Phạm Thành Tài, Cựu Giám
đốc Nha chiêu hồi mà Xuân Vũ là phó Giám Đốc.
Từ quyển sách dầu tiên nầy xuất bản năm 1973 trong nước đến bộ trường thiên
Tôm hùm huýt sáo mà Xuân Vũ đã không kịp hoàn tất trước khi vĩnh viễn ra đi, tác
giả đã để lại một kho tàng văn chương viết bằng máu và nước mắt về chế độ Cộng
sản bạo tàn và phi nhân mà tác giả là nhân chứng .
Bộ Đường đi không đến gồm 5 tập do nhà xuất bản Xuân Thu (California) tái bản từ
năm 1989 (ĐĐKĐ) đến 1996 (Mạng người lá rụng)
1-1 Tập 1. Đường đi không đến. 462 tr.
1-2 Tập 2. Xương trắng Trường Sơn. 406 tr.
1-3 Tập 3. Mạng người lá rụng. 459 tr.
1-4 Tập 4. Đến mà không đến. 313 tr.
1-5 Tập 5. Đồng bằng gai góc. 384 tr.
2
Truyện dài đồng quê
2- Quê hương mờ trong khói súng . Toronto : Làng Văn, 2004. -- 127 tr.
3- Bến Tre xanh thắm bóng dừa . Toronto : Làng Văn, 2004. -- 319 tr.
4- Quê nội, quê ngoại : truyện đồng quê miền Nam. -- Toronto : Làng Văn, 2004.-
399 tr.
5- Mưu trí đàn bà : truyện dài đồng quê Nam Kỳ.-- San José, Thằng Mõ, 1998. --
270 tr.
6- Dấu chân xuôi ngược : tiểu thuyết. – Houston : Văn Hóa, 1998-
6-1 quyền 1, phần 1 : Biển lửa và núi tro
phần 2 : Đất U Minh ngầu đỏ
6-2 quyển 2 : Mưa phùn gió bấc
6-3 quyển 3 : Dấu chân trên đá
6-4 quyển 4 : Tình cũ Saigon
6-5 quyển 5, phần 1 : Quê người
phần 2 : Ta về hôn đất
7- Buồng cau trổ ngược : truyện dài đồng quê Nam Kỳ. -- Glendale : Đại Nam,
1997. -- 342 tr.
8- Cô Ba Trà : tiểu thuyết . -- Glendale : Đại Nam, 1996. -- 490 tr.
9- Sông nước Hậu Giang . -- Glendale : Đại Nam, 1995. -- 399 tr.
10- Tấm lụa đào : tiểu thuyết . -- Glendale : Đại Nam, 1995. -- 402 tr.
11- Dưới bóng dừa xanh : truyện dài đồng quê Nam Kỳ. -- Bellaire, Tex : Trời
Nam, 1993. -- 299 tr.
12- Xóm Cái Bần : truyện dài đồng quê Nam Kỳ. -- Bellaire, Tex : Trời Nam, 1993.
272 tr.
13- Những độ gà nòi : truyện đồng quê Nam Kỳ . – Los Alamitos : Xuân Thu,
1992. 332 tr. (gồm : Những độ gà nòi & Chuyện hai người kép già)
14- Vàng mơ bóng lúa : truyện dài đồng quê miền Nam. -- Bellaire, Tex : Trời
Nam, 1991 .-- 386 tr.
15- Trăng kia chưa xế : truyện đồng quê Nam Kỳ. -- Bellaire, Tex. : Trời Nam,
1991. -- 316 tr. (còn có tựa là Thầy Tư Cóc)
Tiểu thuyết xã hội dưới chế độ Cộng Sản
16- Đứa bé đi tìm cha qua các trại cải tạo Cộng Sản. – Glendale : Đại Nam, 2000.
--167 tr.
17- Tình trên cánh gió /Xuân Vũ & Phan Đình Minh. – Glendale : Đại Nam, 1998. -
552 tr.
18- Đồng bạc để nái. – San José : Thằng Mõ, 1998.—189 tr.
19- Bùn đỏ (với phụ luc thơ : Ta về hôn đất) -- Los Alamitos : Xuân Thu, 1993. –
387 tr.
20- Đỏ và Vàng. Los Alamitos : Xuân Thu, 1990. -- 453 tr.
Một bức tranh xám của những người dân «bằng mọi giá» bỏ nước ra đi
Những hành động nhơ nhớp, kinh hoàng của những đảng viên đỏVàng ở
đâu mà nhiều thế ?
21- Kẻ sống sót : tiểu thuyết. – Westminster : Văn Khoa, 1989 .—340 tr.
bản dịch Anh ngữ : The survivor.
3
Truyện ngắn
Bộ Tự Điển Đỏ gồm 100 truyện ngắn được đăng trong 6 tập truyện sau đây sẽ lột
trần diện mạo, tâm địa của Cộng Sản cũng như cảnh sống lầm than của mọi tầng
lớp dân chúng trong hỏa ngục đỏ.
22 - Thiên đàng chuột .-- Los Alamitos : Xuân Thu, 2000. -- 309 tr.
23 - Thiên đàng nhẹp . -- San José : Thằng Mõ, 1998. -- 360 tr. (gồm 16 truyện :
Quần dài đen, Ánh chớp trong đêm, Nồi thịt kho, Khúc ruột người tình,
Bức tranh vô sản, Truyện tình trong Vườn hoa Con cóc, Nghệ thuật đấm,
Công ty Xilôvina, Trên nền nhà cũ, Lễ truy điệu liệt sĩ Phan Thành Tít,
Thuế, Đào và Chó, Đứa cháu ngoại, Tự do VN, Thôi rồi, con ngụy nó bay,
Tiếng súng đêm canh.)
24 - Cách mạng tháng 8, cha đẻ cồng số 8 . -- Westminster : Văn Khoa,1997. –
280 tr. (gồm 18 truyện)
25 - Ngọc vùi. -- Glendale : Đại Nam, 1997. -- 328 tr. (20 truyện)
26 -Thiên đàng treo . – San José : Thằng Mõ, 1993. -- 467 tr. (22 truyện)
Đón Bác vô, Trái và chùm vú sửa, Thiếu cái dấu, Ông xà beng, Đi mua
nước hoa, Tết uống rượu ngó, Bướm đen, Chuyện tục về một vùng
thanh, Thiên đàng treo, Trận địa lún, Trạm gác cây sộp, Tình yêu giai cấp
27- Thiên đàng treo đứt dây. Westminster : Người Việt, 1990 -- 285 tr. (12 truyện)
28 - Tự vị thế kỷ. – Los Alamitos : Xuan Thu, 1990. -- 389 tr. (8 truyện)
29 - Con người vốn quý nhất: tập truyện xã hội chủ nghĩa -- Westminster :
Văn Khoa, 1989. --176 tr.
30 - Quê hương yêu dấu. – Los Alamitos : Xuân Thu, 1995. -- 234 tr. (18 truyện)
31 - Ông lão thổi bong bóng. – Bellaire : Trời Nam, 1991. – 290 tr. (20 truyện)
32 - Khúc ruột người Nam. – Houston : Quang Phục, 1986.
Hồi Ký
33- Rừng Sát : tiểu thuyết / Xuân Vũ và Dương Đình Lôi . Los Alamitos : Xuân
Thu, 2003
Cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ Việt Minh trong thời kỳ đầu kháng
chiến chống Pháp, bằng c ách nào CS tiêu diệt các giáo phái và các lực
lượng kháng chi ến chống Pháp không chịu liên minh với CS
34- Búp sen hình tim : những mẫu chuyện của ông Phó chủ tịch Hội ve chai . --
Loa Alamitos : Xuân Thu, 2002. – 315 tr.
35- Những mẫu chuyện về hoạt động của ông phó chủ tịch Hội ve chai.
35-1 - Tập 1 : Hà nội, hà ngoại. -- Los Alamitos : Xuân Thu, 2000. -- 374 tr.
35-2 - Tập 2 : Con đường gió xoáy . -- Los Alamitos : Xưân Thu , 2001. -- 286 tr.
35-3 - Tập 3 : Bảo lửa ở Hạ Long. -- Los Alamitos : Xuân Thu, 2001. -- 298 tr.
36- Những bậc thầy của tôi : ký sự văn học . -- Arlington, VA : Tổ hợp xuất bản
Miền Đông Hoa Kỳ, 1998. -- 300tr.
Trong số có Xuân Tước, Sơn Nam, Kiên Giang, Nguyễn Tuân, Nguyên
Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Công Hoan…
37- Văn nghệ sĩ miền Bắc như tôi đã biết.
4
37-1 Tập 1. Westminster : Người Việt, 1991. -- 276 tr.
Nguyễn Tuân, Văn Cao, Hoàng Cầm, Xuân Diệu, Kim Lân, Nguyễn Xuân
Khoát, Ngân Giang, Nguyễn Bính…
37-2 Tập 2. Glendale : Đại Nam, 1997. -- 450 tr.
Phan Khôi, Phùng Quán, Văn Cao, Chế Lan Viên, Quang Dũng, Hữu
Loan, Nguyễn Khải, Nguyễn Bính, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Vũ Anh
Khanh, Đỗ Phồn, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Vũ Đình Liên
37-3 Tập 3 . Los Alamitos : Xuân Thu , 1998. – 368 tr.
Xuân Quỳnh, Tố Hữu, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, Nguyễn
Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Lưu Hữu Phước…
38- Nửa thế kỷ Phạm Duy. – San José : Thằng Mõ, 1994. -- 266 tr.
39- 2000 đêm trấn thủ Củ Chi : hồi ký / Xuân Vũ & Dương Đình Lôi . Gồm 7 tập,
2250 trang, 4 tập đầu xuất bản bởi Nxb Trời Nam, 3 tập sau bởi Đại Nam.
39-2 Tập 2 còn có tựa là : Đây Củ Chi đất sắt thành bùn
39-3 Tập 3. Tiếng sét ái tình và tiếng sấm bom đạn
39.4 Tập 4. Địa đạo : mồ chôn tập thể tên giặc Nguyễn Chí Thanh
Xuân Vũ và Dương Đình Lôi (người đã sống và chỉ huy chiến trường Củ
Chi từ 1965 đến 1970 là thời kỳ ôi động nhất của chiến trường miền
Nam. Hai tác giả đã vạch trần những gian dối, mưu chước , những cuộc
hành quân và cảnh sinh hoạt của vùng địa đạo chỉ như những hang chuột
mà CS đã huyền hoặc biến thành như một kỳ quan của thế kỷ.
Tiểu thuyết lịch sử, phiêu lưu
40- Giọt máu bốn đời : lịch sử tiểu thuyết. – San José, CA : Thằng Mõ, 2004. 267
tr.
41- Nữ thần giữ kho vàng U Minh /Xuân Vũ và Xuân Tước – San José, Thằng
Mõ, 2004. – 260 tr.
42- Bửa tiệc thịt chó dưới vòm trời Cần Vương : tiểu thuyết dả sử.- Los Alamitos :
Xuân Thu, 1998—306 tr. (Viết về Nguyễn Duy Hiệu)
Trường thiên dự trù 4 tập, nhưng chỉ hoàn tất được tập 1 thì tác giả đã ra đi.
43- Tôm hùm huýt sáo. tập 1. – Escondido : Thư Viện VN ấn quán.com, 2002.
Lâm Văn Bé
2/2008.
Trong bài viết của Nguyễn Trọng Tín về Sơn Nam, có nêu về cuộc gặp mặt bất ngờ tại Nha Cảnh Sát (trước 75) của hai nhân vật kháng chiến là Sơn Nam và Xuân Vũ, một nhân vật “chiêu hồi” đó là nhà văn Xuân Vũ.
Nhà văn Xuân Vũ tên thật là Bùi Quang Triết, sinh quán tại Mõ Cày, tỉnh Bến Tre, ngày 19/03/1930, đã qua đời tại nhà thương San Antonio, Texas, ngày 01 tháng 01, 2004, huởng thọ 73 tuổi.
Năm 15 tuổi ông đã theo người cậu đi kháng chiến chống Pháp. Ông tập kết ra Bắc năm 1955. Ông trở vào Nam năm 1963, và ra chiêu hồi năm 1971.
Ông đã viết 5 tập sách là: Đường Đi Không Đến, Sương Trắng
Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến, và Đồng Bằng Gai Góc. Ông được chính phủ VNCH trao giải Văn Học Quốc Gia năm 1973 về những tập sách này. Chức vụ sau cùng của ông trước khi ông tị nạn sang HK vào năm 1975 là Phó Giám Đốc Nha Chiêu Hồi VNCH. Từ lúc định cư tại HK, nhà văn Xuân Vũ đã viết rất nhiều sách. Có 74 cuốn chính thức được ra thị trường: Kẻ Sống Sót, Trả Ta Sông Núi, Lệnh Tấn Công v.v..Chuyện Tục về một vùng Thanh
Trời rét, mặt ao đóng váng. Tôi đang ngủ mê mệt sau một buổi gánh nước dân vận mệt nhừ. Bỗng giật mình. Có tiếng léo nhéo ngoài đường.
Giọng đàn bà lọt qua phên liếp hở hang, rõ từng tiếng:
"Mày ăn l. bà, mày uống nước l. bà."
Bất giác tôi kéo tuột chăn xuống khỏi mép tai để nghe cho rõ. Chuyện gì vậy? Chuyện gì mới sáng đã chào nhau kinh khủng đến thế? Một giọng khác cũng đàn bà nhưng đã sồn sồn:
"Mày giành cả cứt cho bố mày đây hở? Đã đến giỗ tổ tiên nội ngoại mày rồi đấy hở?"
"Phải, cứt béo nên mày mới giật mang về!"
"Của anh đội miền Nam, anh ấy tứa vào đầu chỗ ấy được, tao không giành, tao không giật!"
"Đứa nào giành đứa nào giật bà bắt bà bỏ l. bà, bà khép lại cho chết bố chúng nó."
Càng đối đáp, chữ nghĩa càng thơ mộng hơn và hình như hai đối phương đang tiến lại gần nhau, sẵn sàng xáp chiến.
Những thằng bạn từ ngoài Bắc vô Nam đã khoe với chúng tôi như vậy và khi ra đây, chúng tôi cũng thấy như vậy.
Những con người đang biến thành súc vật. Còn tên X., sau này tôi biết ra thì hắn chỉ có đâu dăm sào ruộng. Tôi nghĩ, làm chủ một khoảng đất chó ngồi ló đuôi mà là địa chủ, thì dân Nam Kỳ có bao nhiêu địa chủ? (90%) Thì còn ai đấu? Nhưng bởi cái chính sách nó treo lững lơ trước mặt, bọn tôi không đứa nào dám nói gì. Sợ lắm nữa là đằng khác. Ra đường, ngó thẳng như ngựa bịt mắt. Gặp mấy chị đàn bà vén váy tiểu roong roỏng trong chiếc nồi su ở góc sân, miệng vui vẻ "Mời anh đội miền Nam về nhà em xơi nước," cũng không dám đáp, sợ phạm chánh sách.
Ra đây tôi mới được biết nước tiểu cũng dùng tưới rau không bỏ phí của giời như ở trong Nam. Thực ra việc dùng những bài tiết của người để bón hoa màu đã thấy V. Hugo nói tới trong một đoạn sách viết về người Tàu, không lạ lùng gì. Có lạ chăng là bây giờ ta mới biết.
Ra miền Bắc thì rõ ràng là ta độc lập rồi: Tây đã rút. Còn Hạnh Phúc thì chánh sách bảo phải đi tới đó bằng "hai chân" của mình. Chân thứ nhất là nông trường thì chờ Liên Xô viện trợ máy cày. Còn chân thứ hai là hợp tác xã thì đang tiến hành mà Thanh Hóa là lá cờ đầu.
Cái vụ đấu khẩu ngoài đường, hắn có nghe, lẽ nào lại không, nhưng hắn cứ nằm im lìm trong chăn màu cứt ngựa kia từ lúc có tiếng léo nhéo ngoài đường. Thấy thế, tôi đoán chắc hắn có điều gì không thoải mái, nên tôi tốc chăn ngồi dậy vạch liếp ngó ra.
Nhà chỉ cách mặt đường một mảnh sân con và một hàng dậu thưa nên tôi mục kích cuộc chiến đấu như xem văn công. Một trẻ một già, cả hai đều váy nâu, yếm nâu và đều vấn tóc nhưng bà trẻ có lẽ vì múa may hăng quá nên tóc sút ra, đuôi tóc quất qua quất lại sau lưng tùy theo động tác. Bà ta nhảy tưng lên, miệng hò vang, tay vỗ bèm bẹp vào đùi non.
"Bà chìa ra đây này, có ngoạm thì vào mà ngoạm!"
"Bố tiên sư nhà bay, chui vào của bà đây. Của bà to, bà rộng chứa cả họ nhà mày, cả tổ nhóm nhà mày!"
"Cha tiên sư con tố điêu thằng X. để được lên cốt cán!"
"Tao lên cốt cán thì có động gì tới con cho thằng đội trưởng ngủ để nó chia quả thực cái chõng tre nát."
"Cái chỏng tre nát chẳng đẹp hơn cái mâm gỗ to bằng cái tẻng của bà, thế mà có đứa phải cho thằng đoàn viên đáng tuổi con tốc váy mấy phát đấy!"
"Tốc váy mấy phát chưa bằng chửa hoang đẻ con bóp mũi đút bụi tre!"
Tôi nghe bất nhẫn tâm can. Nhưng dường như chưa đã nư giận, hai bà lăn xả vào nhau, túm tóc nhau. Rồi có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình đúng và cần được bênh vực, cho nên cả hai cùng kêu lên một lúc khi vừa túm được tóc đối phương hoặc bị đối phương túm tóc.
"Ôi làng nước ơi! Ôi làng nước ơi!"
"Ôi giời cao đất dày ơi! Con đĩ nó giết tôi!"
Đám con nít tự nãy giờ có lẽ thập thò ở đâu đó, thấy cuộc ấu đả nổ to, hốt hoảng chạy tủa đi trốn trong khi có thêm dăm người lớn xuất hiện, mỗi người một tiếng thúc giục bồ nhà:
"Đánh chết cha con đĩ rỏm chửa hoang kia!"
"Đập đầu con sọm già cho tao. Nó, chính nó là thủ phạm!"
Hai người đàn bà càng hăng tiết. Bà trẻ buông tóc đối phương để chụp lấy váy.
Mụ già cũng buông tóc tóm lấy gấu váy của bà trẻ. Cả hai đã tóm được gấu váy của nhau giằng xé xà quây kịch liệt, nhưng may quá chẳng bên nào thành công trong sự bóc lột đối phương ra.
Khi cái cơ quan gồm hơn trăm người này về đóng ở đây, thì một vấn đề trong sinh hoạt được đặt ra và thi hành ngay: đào hố vệ sinh. Mỗi một ban đều phải có hố riêng. Những hố này được đào ngoài lũy tre làng ở những gò nỗng có nhiều mả loạn. Bộ phận của tôi thiết kế mỹ thuật một cái rất đẹp ở giữa những lùm rậm trong phần đất của tổ Tiên Tiến, còn bộ phận bạn thì xây một cái gần đó, không đẹp lắm, thuộc phần đất của khóm Quyết Thắng.
Nhà nông ta có cái thiệu cơ bản trong nghề nghiệp là "nhất nước nhì phân tam cần tứ giống." Tôi thấy có những thửa ruộng được tưới nước chuyển tới ba tầng gàu giai mà kinh hồn.
Tiếng rằng nhất ỉa đồng nhì quân công, nhưng có chỗ kín đáo vẫn tốt hơn bốn bề trống trải.
Trong kháng chiến có bài hát Đoàn Quân Đi của Việt Lang, rất phổ biến. Tôi rất thích bài hát đó. Trong bài có câu: "Phá tan biên cương loài người sống thân yêu! Ngay mai lớp dân lầm than không còn buồn đau, đập tan gông cùm đẫm máu, đời vang lên đại đồng khúc ca!" (Đừng nghĩ thế mà nhầm. Nhầm to. Một cục phân còn không nhường nhau kia, lại nói chuyện phá tan biên cương và đại đồng ca. Đại đồng ca Nga Hoa, Việt Hoa chăng?)
Chị Hĩm rảo bước sang hố Quyết Thắng của bà Cò. Hố Quyết Thắng địa điểm xấu nhưng bữa nay sản lượng lại vung đầy. Chị Hĩm nhận ra kẻ phá hoại là ai rồi. Chị quyết dứt tình làng xóm lâu đời, nghĩa hợp tác xã keo sơn, chị cất tiếng chửi mụ Cò, người đáng tuổi mẹ chị.
Cuộc chửi nhau, đánh nhau của hai người đàn bà đã kéo dây tới sự thù hằn giữa hai khóm của một hợp tác xã cùng có một mục đích xây dựng miền Bắc thành thiên đàng để sống một cuộc sống làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu ở đâu đó, vào một năm nào đó.
Thanh Hóa, vùng đất xanh cuối cùng của miền Bắc, cửa ngõ vào miền Trung, đối với tôi còn là thơ là văn từ thuở ấu thời. Hình ảnh cầu Hàm Rồng trong sách Quốc Văn, Hòn Trống Hòn Mái, Kho vàng Sầm Sơn, Ngọn đèn dầu lạc v.v... tất cả nét đan thanh bỗng hóa ra trần tục, tục tằn vào ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày tôi ly hương.
Bọn Nam Kỳ chúng tôi rất hoang mang, nhưng cấp lãnh đạo đả thông ngay, và chúng tôi cũng thông ngay một cách dễ dàng, rằng đó là tàn tích của đế phong, xã hội chủ nghĩa sẽ gội rửa dần.
Nhưng thông được chuyện ngoài xóm thì chuyện đế phong lại xảy ra trong cơ quan.
Nhà tôi ở, vách đất, phên liếp hở hang, gió lùa vào như những tia nước đá, nhưng nhờ có tấm chăn bông Trung Quốc nên tôi ngủ được yên lành. Nhiều đêm nghe đám trẻ con trong nhà ngọ nguậy dưới bếp, tôi không ngủ được vì biết tổ rơm không đủ ấm cho chúng. Tôi đem cả chăn màn xuống ngủ chung với chúng. Nhờ ngủ chung với chúng tôi nghe chúng nói chuyện nọ chuyện kia với nhau mà phát hiện ra rằng chúng đói, lạnh. Vậy mà lâu nay tôi ngỡ chúng no, ấm.
Bọn này ngồi chồm hổm không có bàn ghế chi cả. Cứ sáu trự ghép thành một mâm. Ăn nửa chừng thì hết thức ăn, xin anh nuôi cho thêm tí muối. Vô sản là thằng nào? Là ta, là hắn, hay là bọn kia?... Nên biết là tất cả những người ăn khác tiêu chuẩn ấy vừa thoát ra khỏi chiến tranh và còn hăng hái chiến đấu cho một xã hội không giai cấp ở đâu đó, cụ thể là theo khẩu hiệu vì nhân dân quên mình. Tôi thường ăn lưng lửng bụng rồi đứng dậy đến thúng cơm xúc một chén đầy ém chặt và cơi lên có ngọn trước cặp mắt lườm lườm của anh nuôi. Tôi vừa lua vừa nói: "Tớ bỏ quên cái màn phơi ngoài sân, tớ phải về nhanh kẻo địa chủ X. nó quơ mất!"
Bằng cách đó tôi được anh nuôi tán đồng và lọt qua cả cặp mắt của mấy chú bảo vệ cơ quan, đem được bát cơm về nhà cho lũ trẻ. Ba đứa. Hai trai, một gái. Chúng chia nhau dưới bếp. Chúng mừng nhưng không dám reo. Chắc chúng cũng biết, ăn như thế là phạm chánh sách.
Nhưng chẳng được bao lâu, có lẽ do sự khoe khoang của chúng với đám trẻ lối xóm, nên công việc tiếp tế của tôi bị lộ và bị chặn lại. Cơ quan lại họp và đe kỹ không ai được mang cơm về nhà cho nhân dân hoặc trẻ con, vì đó là vi phạm chính sách.
Trước kia thì vào giờ ăn, có một đám trẻ lảng vảng quanh nhà ăn để anh nuôi ném cho tí cháy, nhưng từ khi việc tiếp tế của tôi bị phát giác thì không còn một bóng. Ai có con phải giữ riệt chúng ở nhà, thà cho chúng ăn rau muống nấu với cám để khỏi bị kiểm thảo.
Nhiều lần trong bữa ăn, tôi bị nghẹn vì chợt nhớ đến lũ trẻ ở nhà ngồi quanh nồi cám lẫn với rau muống bố mẹ chúng đã nấu sẵn trước khi ra đồng.Tôi sống hết mùa đông trên đất Bắc như một cực hình. Từ mùa đông ấy trở đi, một sự hối hận dày dò tôi khôn nguôi: "Mình đi đâu thế này? Bỏ quê hương bỏ cha mẹ mà đi thế này?"
Ở trong Nam, cây mạ cao quá lưng quần, người yếu không nhổ mạ nỗi, còn ở Bắc thì cây mạ chỉ bằng bụi hành, người nhổ mạ ngồi trên một chiếc ghế con rứt từng tép như trẻ con đùa. Tôi lại nhớ những bài học về bản tính tư hữu của nông dân, và những phương pháp khắc phục. Tôi thấy khó viết hoặc không biết được về "cái chân" này. Tôi bèn quăng thân vào "cái chân" kia, tức là một nông trường mới thành lập ở Nghệ An để tìm đề tài và hy vọng sẽ viết được một quyển như Đất Vỡ Hoang (Terre Défrichée) của Sô-lô-cốp. Nhưng sau hơn năm lăn lóc ở đó, tôi cũng cảm thấy không viết được, mà nếu có viết ra được thì không nhà xuất bản nào dám in, nhược bằng có liều mạng mà in thì tác giả lẫn giám đốc xuất bản sẽ thù lao nhau trong Hỏa lò.
Cái khổ của tôi là đeo đẳng mộng văn thơ từ thuở còn là học trò, rồi lớn lên cũng vẫn cảm thấy mình không làm gi được ngoài viết văn.
Trước nhất tôi khẳng định rằng: đi đâu cũng được, miễn ra khỏi miền Bắc thì thôi! Cho nên trước nhất, tôi nhắm mục tiêu cảng Hải Phòng. Ở đó có nhiều hoa tiêu, người Nam Bộ. Tôi xuống đó với lý do lấy đề tài miền Nam. Những đêm mưa lất phất tôi trùm áo mưa đi lang thang trên bến Sáu Kho nhìn những con tàu ngoại quốc ra vào, tàu Anh, tàu Pháp, tàu Ba Lan..., tôi muốn biến mình thành một loại lươn chạch đeo lái tàu để ra biển, rồi buông tay cho sóng xô tới đâu thì tới.
Thôi đành chào Hải Phòng, tìm đường bộ thử xem. Nhìn lên bản đồ thấy tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An giáp Lào. Đường Bái Thượng, Hồi Xuân, La Hán ăn thấu ranh Lào. Cho nên tôi lại men vào các đơn vị Nam Bộ quen cũ đóng rải rác khắp các Huyện Nông Cống, Thọ Xuân, Bái Thượng. Qua được Lào thì việc về Sàigòn là chuyện quá dễ. Để tránh sự dòm ngó của bộ đội, tôi không sống với đơn vị mà ra ở với nhân dân.
Nhưng thực tế tôi đang sống ở Thọ Xuân thì nông dân được đảng "tác" mãi mà "bất hợp" hoặc nếu ngoài mặt có tác thì trong bụng lại không hợp, cũng như ta thường nói: bằng mặt chẳng bằng lòng. Còn ở Nam Bộ thì lại có câu: dạ trước mặt đấm C. sau lưng.
Hữu ngạn sông Chu có một cánh đồng chạy dài từ Bái Thượng đến Thọ Xuân. Bên thị trấn Bái Thượng có một đập nước rất lớn do Pháp xây từ lâu. Tôi thường đến đó vào những buổi trưa buổi chiều xem nước chảy qua những bậc đá như để giải phiền, hoặc tắm giặt, nhưng kỳ thực là để tìm đường.
Anh bảo: "Hành quân đi chiến dịch, tôi biết rồi, khiếp lắm. Tôi muốn nó là hẹ nấu canh, tỏi chiên cá!" Tôi hơi thẹn. Tưởng mình đem văn hoa ra dạy dỗ người ta ai dè người ta có văn hoa của người ta. Chị Cò thì đau ốm luôn, còn anh Cò thì ngày nào cũng đi đốn củi trên rừng. Một gánh củi của anh bằng hai gánh của người khác. Các phiên chợ Đầm, chợ Lược, chợ Ngọc Lặc đều có củi của Cò Tập gánh tới. Làm khỏe như trâu mà nồi cơm nhà vẫn độn khoai. Đám con ăn khiếp quá, lắm khi cơm độn khoai không đủ cho chúng ngốn, phải nấu cháo sền sệt, nửa cơm nửa cháo. Hồi chiến dịch Điện Biên anh dẫn đầu xe thồ gạo từ Thanh Hóa đến Lai Châu. Anh được giấy khen và trong cải cách ruộng đất anh được cấp cho ba sào ruộng hạng ba thuộc vạc đất của một "ông địa chủ" đã bỏ đi Nam hồi 54.
Thế là Cò Tập dằng dai bất hợp với Hợp tác xã. Đã thế thì ông bà xã viên tiếp tục bao vây. Ruộng Cò Tập nằm lọt thỏm ở giữa ruộng hợp tác, ông bà xã viên bịt đường ra vào. Cò Tập không nao, Cò Tập có thừa sức lội vòng ba lần để đến ruộng nhà.
Hồi đại tướng chưa đeo giản còn chữa có ai dám cãi huông là nay đã đeo giản ấy rồi. Bài Cây Đa trở thành một thứ cẩm nang cho mọi tầng lớp cán bộ và xã viên hợp tác. Gặp khó khăn cứ giở ra, cẩm nang sẽ chỉ bảo cách khắc phục.
Sáng hôm nay chị Cò ra thăm ao thì gặp người ta đang tát.Mấy ông xã viên chứ chẳng ai lạ. Họ đã được Ban quản trị cầm cán để dứt điểm Cò Tập. Có dứt điểm được Cò Tập thì sự thi hành chánh sách vùng này mới thông được. Cò Tập còn đứng đó, lại có vẻ phây phây hơn xã viên thì nhiều ông bà lung lay cái lập trường rục rịch đòi rút ra, mệt chánh sách lắm.
Thấy chị Cò, có người vọt miệng nói cợt:
"Năm nay chị cho chúng em biết mùi ao cạn hay sâu! Cái ao đáng lẽ ông Tập chỉ được một mép, mà hắn lại tóm cả hai, bên này lẫn bên kia luôn.
Người kia tiếp:
"Hái trái đếch nhớ kẻ trồng cây! Nhà bà ăn cá đã ba năm, cấm có quẳng cho bọn này cái xương đầu cá mút cho biết mặn nhạt."
Chị Cò nhỏ nhẹ:
"Thằng Tập về đây thì đã có cái này hầu chuyện hắn." Một người mang súng, trật súng ra khỏi vai đánh rốp, nói.
Chị Cò chẳng dám đối đáp thêm nữa. Thấy cây súng chị càng hãi. Chị biết cây súng chẳng phải của hăn, mà là của thằng em vợ làm công an.
Về đến nhà, chị bảo thằng Tành chạy lên rú cho bố hay người ta tát cái ao. Cò Tập mới đốn được nửa gánh củi nhưng nghe con nói bèn bó gộp gánh về thẳng ruộng. Đến nơi gặp đám tát ao đang sửa soạn bắt cá. Cò Tập ném gánh củi, nư giận nổ bùng nhưng cố đấu dịu:
"Ơ, có con cá mè to quá! Được bao nhiêu chia hai nhé các cụ!"
Hai người tát ngừng tay, một người cười khề khề:
"Bố khỉ có tát gàu nào mà đòi chia!"
Người kia cũng hùa theo:
"Trước kia bảo chia hai, đằng ấy chẳng nghe, bây giờ hợp tác lấy cả."
"Ai bảo thế?"
"Thì nó là như thế, cần gì ai bảo?"
Cò Tập cố nén:
"Thôi, tôi chỉ xin vài con be bé đủ kho một bữa cho các cháu."
"Một cái nhớt cũng không cho ngửi!"
"Thôi thì các ông bắt cả thì bắt, nhưng mùa này thì tôi ngăn đôi, tôi tát phần tôi, hợp tác tát phần hợp tác!"
"Không có vụ ngăn đôi. Bờ người ta đang phá, bờ gì lại đắp?"
Ông có đeo súng đã bắt được con cá chép to, sấn tới trước mặt Cò Tập: "Cả ao là thuộc về hợp tác kể từ hôm nay - Đảng cấp đất cho anh là để anh vô hợp tác. Nếu đảng biết anh ngoan cố thì đảng chả cấp cho anh cả một hòn phân."
"Đảng bảo hợp tác là tự nguyện."
"Tự nguyện đối với những người giác ngộ kia, còn lạc hậu như anh thì phải có biện pháp mạnh!"
"Biện pháp mạnh là thế nào?"
"Là cúp phân, cắt phiếu! Mạnh nữa là đi tù!"
Cò Tập bật lại:
"Tù là những đứa khoét bồ hợp tác mang về nhà kia, cúp phân là cúp những đứa cho điểm vị tình nữ xã viên trây lười để tối tối mò tới kia!"
"Phản động!" - Ông kia trỏ mặt Cò Tập.
Cò Tập bất thần rút con dao rừng ra khỏi cái vỏ gỗ to xù đeo ở thắt lưng bằng sợi dây da trâu. Con dao rộng bản, anh từng khoe với tôi, rèn bằng díp xe ô tô, cây to bằng cổ chân phạt ngọt như chuối. Một tiếng "phật". Dao sắc thế, cái đùi lại kê trên bờ ranh như nằm trên thớt, gì mà chẳng lìa!
Chiều hôm đó, tôi cuốn gói đi để khỏi phải thấy những chuyện buồn của gia đình anh Tập và nhất là để khỏi nghe bọn thằng Tành khóc sau khi anh Tập bị trói dẫn đi.
Mãi hơn một năm sau tôi có dịp về Thọ Xuân. Bất ngờ tôi gặp một người quen vùng Cò Tập. Tôi lôi anh ta vào một quán nước vối, thết anh một tô đầy. Không đợi tôi hỏi, anh ta nói ngay:
"Cò Tập đi tù. Ruộng bị tịch thu!"
"Còn cái ông kia?"
"Chống nạng nhưng không được lãnh sổ thương binh."
"Không chết là may!"
"Hợp tác cũng không trợ cấp, lấy cớ là hợp tác không chủ trương mà do mấy người kết bè làm càn."
"Còn chị Cò và mấy đứa nhỏ?"
"Lo gì, chị ấy được ông Phó chủ nhiệm tới lui giúp đỡ thường xuyên."
Vậy là gia đình Cò Tập tan nát. Tôi hiểu tiếng "giúp đỡ" qua giọng nói chế giễu của anh chàng.
Ông sẽ bảo: "sự việc Cò Tập chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Đây chỉ là việc lẻ tẻ không phải phổ biến. Bản chất nông dân là đoàn kết đấu tranh chống giặc thì họ cũng sẽ đoàn kết khắc phục khó khăn trong sản xuất." Hoặc nữa. "đó là tự phát chứ không phải tự giác." Sở dĩ Cò Tập hành động như vậy là vì anh ta chưa thấm nhuần chính sách. (Còn các bệnh trây lười, moi vựa đem về nhà là hiện tượng hay bản chất, là tự phát hay tự giác?) Người cộng sản là loại người quá tự phụ, bởi thế, không bao giờ dám nhận lỗi lầm. Có chăng thì rồi cũng kiếm cớ đổ dấy phần lớn cho kẻ khác.
Rất tiếc tác giả bài tùy bút "Cây Đa" nay không còn ở trên trần thế để nối thêm một đoạn dài cho đọc giả báo Nhân Dân thưởng thức.
Vâng, Cây Đa bến cũ, con đò xưa ọp ẹp nhưng chuyến nào sang cũng đến bến. Còn con đò bây giờ của đảng ông đưa đã chắc gì mới hơn? Khách trên đò kinh hãi không phải vì sông to vì nước cả, không phải vì đò nát, vì cặp chèo ngắn mà chính vì lái ẩu lái ngu, lạch xuôi không đi, lại cứ nước ngược mà lao vào. Cho nên từ bấy đến nay chưa có chuyến nào đến bến.
Đò hiện giờ đang ở giữa dòng nước xoáy, đinh long ván vỡ và nước tràn vào. Đã bao nhiêu lần đò thay lái. Tưởng đã thoát nguy, nhưng không, đò vẫn lao sâu vào dòng thác lũ và đang đắm. Chắc chắn sẽ đắm. Lái có mù hay không mà chẳng thấy khách hoảng hốt nhảy khỏi đò, bơi lấy thân?
4-86
No comments:
Post a Comment