Friday, October 21, 2011

KIỀU PHONG * BÁC HỒ

CHÂN DUNG “BÁC” HỒ: Phần I



(tặng Lôi Tam và anh em Nhân Văn)
Sau 10 năm quy ẩn, xuống núi phen này, Kiều Phong quyết định viết chuyện tình: mối tình lớn nhất của bác Hồ. Bác Hồ đã say mê… chính mình, mê như điếu đổ.


Như một anh si tình khờ khạo, bác Hồ làm nhiều trò quái đản để biểu lộ tình yêu. Chúng ta đều biết, muốn tìm một đội ngũ văn nô mạnh, phải tìm ở các nước Cộng Sản, muốn thấy một lực lượng nâng bi khỏe nhất, có nghiệp vụ cao nhất thế giới, phải hướng về Hà Nội, thủ đô của đỉnh cao điếu đóm. Quanh bác Hồ, các chuyên viên thổi ống đu đủ đông như kiến, tên nào cũng có những ngón nghề ác liệt, thế mà bác không hài lòng, không thỏa mãn, bác đích thân cắm cúi đi làm một công việc vô cùng độc đáo là ngồi viết sách tự ca tụng, tự bốc thơm.


Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, bác viết cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” (từ đây sẽ được ghi ngắn là “Những mẩu chuyện…”). Sau đó, bác chế thêm bút hiệu Th.Lan, cũng với mục đích cao cả là viết bài tự khen nức nở.
Trong cuốn sách này, Kiều Phong chỉ hỏi thăm sức khỏe bác Hồ và chú… Trần Dân Tiên. Các chú khác như Th.Lan tạm thời được bỏ qua, nhưng sẽ có ngày Kiều Phong gom chung lại dẫn ra kho đồ nghề, dụng cụ ở sau nhà, phát cho mỗi chú một cán búa. Anh nào cũng sẽ có phần cả, đừng sốt ruột.

PHẦN I
Mặt Nạ Rớt Đều Đều
Bác Hồ là người ham học, ham viết. Cả hai đức tính ấy đều tốt, đều đáng khuyến khích. Chỉ kẹt chút đỉnh là bác có tật ưa táy máy. Khi đọc, vớ được câu văn lời hay ý đẹp, người bèn mắt la mày lét, nhìn trước ngó sau không thấy có ai canh chừng là ra tay chôm liền. Mấy đứa ăn cắp xe hơi mang “hàng” về còn chịu khó sơn phết, cạo sửa cho mất dấu tích. Bác Hồ của các đồng chí thì hành nghề chôm danh ngôn một cách lười biếng hơn nhiều. Văn chương, lời nói của người xưa, bác không chịu sửa đổi, cứ để nguyên nước sơn láng coóng trình làng, lái chạy khơi khơi. Thế nên người ta mới bắt quả tang những câu bác Hồ nói giống hệt câu nói của các danh nhân, hoặc lời sáng tác mới toanh nóng hổi của bác, xem lại thì đã cũ hàng thế kỷ, đã được cụ Khổng cho chào đời từ xưa rồi.

Các đồng chí cháu bác Hồ có anh cũng biết ngượng, bẽn lẽn giải thích một cách rất “lô-gích” xã hội chủ nghĩa rằng: “Đây chỉ là trường hợp chí lớn gặp nhau”. Chí lớn của bác chúng tôi có hẹn với chí lớn của cụ Khổng. Chẳng may bác bị kẹt xe, đến chỗ hẹn hơi trễ. Người Việt Nam mình vốn giờ cao su, trễ có ngàn năm nhằm nhò gì mà quí thầy di tản cứ cười đểu hoài. Nhưng đó là chuyện sẽ được nói ở cuốn sách khác, khi Kiều Phong có thì giờ nhìn lại toàn bộ tác phẩm lớn bé của bác Hồ. Đây chỉ sơ sơ vài đường để độc giả làm quen với các thói hư tật xấu của bác vậy thôi.

Khi đọc sách thì hơi có tật xấu nhưng trong địa hạt sáng tác, công bằng mà nói, bác Hồ đưa ra được những sáng kiến độc đáo, mới lạ. Nếu không bị cái tật chôm chĩa nó hại, phải tự túc tự cường thì bác cũng dựng cờ, gióng trống dựng lên được một trường phái không giống ai: Trường phái văn chương mặc áo thụng tự vái mình.

Cuốn “Những mẩu chuyện …” được in tới, in lui cho toàn dân học tập. Mới đây, Hà Nội mới chính thức công bố Trần Dân Tiên, Th. Lan chính là bác Hồ. Thật ra, chả cần Hà Nội chính thức xác nhận, chỉ cần đọc vài trang, người di tản buồn biết ngay tên thực của tác giả.

Xin mời quí vị đọc trang đầu cuốn “Những mẩu chuyện …”:
“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này:
“Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến
Ký tên: Hồ chí Minh”.
Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất băn khoăn…” (trang 5).

Mới đọc đến đây, 19 hàng, chưa được một trang, ta đã có tới hai dịp biết Trần Dân Tiên chính là bác, đã có chứng cớ về sự giả dối lố bịch của bác, đã bắt quả tang bác đang len lén đeo mặt nạ ngồi hồ hởi viết văn bốc thơm chính mình. Chứng cớ thứ nhất: câu mở đầu cuốn sách đã có hai chữ dùng không chỉnh. “Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết…nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công”. Chữ “thành công” ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng chưa thực hiện được, chưa làm được hay đã viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác chưa đủ thơm nên sách không thành công?

Đó là một lỗi nhỏ, không đáng kể, nhưng khi nó được viết, được in trong một nước đầy nhóc văn nô, thì nó tố cáo rằng tác giả ở cái vị thế mà cóc anh văn nô nào dám phê bình, sửa chữa. Văn nô chỉ có cái tội là dồn cả cuộc đời, chí hướng, sức lực vào sự nghiệp nâng bi nên người ngợm, văn chương lúc nào cũng dơ dáy, tồi tàn. Nhưng khả năng sử dụng chữ Việt, khả năng viết của họ đều thuộc loại khá cả, không mấy khi phạm những lỗi “chưa sạch nước cản”. Giả thử Trần Dân Tiên đúng là một văn nô trẻ tuổi mà viết lách như thế thì các văn nô đàn anh sẽ ghè vỡ đầu ngay. Ðàn anh Tố Hữu sức mấy mà để cho một kẻ nâng bi tay mơ, dùng chữ còn chưa vững như Trần Dân Tiên gia nhập đội ngũ. Văn chương Trần Dân Tiên dù lạng quạng cũng không bị chê bởi vì nó là văn bác. Nhưng văn tài chưa hại bác ác liệt bằng trí tưởng tượng và trí nhớ của bác.

Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn đã đột ngột làm rớt mặt nạ Trần Dân Tiên, phơi mặt bác ra ánh sáng với nguyên cả râu ria: “Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ chủ tich. NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời …” (trang 5).

Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện ấy. Kiều Phong ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ cho chủ tịch thì mới nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại giám đốc bưu điện San Diego, được trả lời: “Hệ thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao thư vào ngày hôm sau, nghĩa là qua một đêm mới tới tay người nhận”. Bưu điện Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện nhà nước xã hội chủ nghĩa vào ngày 3 tháng 9 năm 1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên gửi thư cho Hồ chủ tịch buổi sáng, buổi chiều nhận được thư trả lời!

Giả thử rằng bưu điện nhà nước ta ngày ấy đã thực hiện được phép lạ thì cái sự chú Tiên nhận được thư hồi âm, hẹn gặp cấp kỳ ngay buổi chiều cùng ngày cũng có nhiều chỗ tức cười. Coi bộ bác không có việc gì làm, đang ngồi vêu ra nên vừa nhận được thư của một khách mộ điệu là vồ lấy trả lời ngay, cho gặp mình ngay. Nếu có một số người hơi đông cũng muốn gặp bác, chú Trần Dân Tiên chắc phải chờ lâu, ít nhất lâu bằng một bệnh nhân trong phòng mạch bác sĩ, chứ đâu được bác chụp giựt vồ vập ác liệt cỡ đó. Cảnh bác Hồ vồ chú Tiên làm Kiều Phong liên tưởng tới cảnh chị em ta đang ế khứa lại thấy anh khách sộp Thúc Sinh tà tà đến nạp mạng.

Dù sao, những bí ẩn ấy cũng có lời giải thích ổn thỏa: lỗi chẳng phải ở chú Trần Dân Tiên viết nhảm, không phải vì bưu điện nhà nước ta năm 1945 làm phép lạ, mà vì bác gửi thư cho chính mình nên thư qua từ lại cứ nhanh như chớp. Chưa viết được một trang, bác đã đãng trí quên bẵng mất rằng mình đang giả làm Trần Dân Tiên để nâng bi chính mình. Cũng chưa quá một trang, chú Trần Dân Tiên đã bị bác xử tệ, bỏ quên thê thảm. Cái thư của bác, được chú in lại từng chữ, đóng ngoặc kép cẩn thận, lại chỉ vỏn vẹn có vài dòng: “Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký tên: Hồ Chí Minh”. Người gửi thì cả chữ ký được ghi rõ còn kẻ nhận thì không được bác nhắc tới họ tên, dù chỉ là cái tên trần xì như “chú Tiên” chẳng hạn.

Bác Không Muốn
Trên đời có kẻ không chịu bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể tự khen. Bác Hồ hơn đời nhiều, chưa có cơ hội bác vẫn tự khen được. Vừa xì ra một câu hẹn: “Ngày mai mời chú đến”, hoàn toàn tầm thường, không có gì ghê gớm, cao siêu, vậy mà bác đã bắt chú Tiên phải rối rít bốc thơm rằng: “Thư trả lời chóng, nội dung giản đơn…”. Mẹ kiếp, bốc kiểu đó thì trên thế giới, mỗi ngày có nhiều triệu người đáng được khen chỉ vì họ cũng viết ra những cái giấy hẹn. Giấy hẹn của anh cha căng chú kiết nào mà chẳng “nội dung giản đơn…”.

Không những thế, giấy hẹn của thiên hạ còn đầy đủ, lịch sự hơn vì có ghi tên người nhận đàng hoàng. Còn giấy hẹn của bác, xét kỹ lại thấy thiếu đầu thiếu đuôi, lỡ nó rớt vào tay chú Giáp, chú Đồng hay được gửi lộn vào nhà chú Trường Chinh thì các chú ấy cũng sẽ nhào tới trình diện bác đúng 7 giờ 30 sáng mai cùng với chú Tiên! Thư hẹn thiếu sót, vớ vẩn đến thế mà vừa viết xong bác đã buông bút, đeo mặt nạ Trần Dân Tiên vào rồi hả hê thò tay xuống tìm… bi.


Bác lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thấy lời khen ngợi là phải vồ ngay. Bác có thể chiến đấu trường kỳ, lì lợm nướng hàng triệu người trong chiến tranh… không sốt ruột. Nhưng có cơ hội được khen thì nhất định bác chẳng chịu chờ. Xin đọc lại câu văn của bác: “Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng HOAN HÔ NHIỆT LIỆT, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản tuyên ngôn độc lập …”. Người bình tĩnh, kiên nhẫn sẽ viết là: “… đứng trước quần chúng, Hồ chủ tịch đọc bản tuyên ngôn độc lập và được hoan hô nhiệt liệt”.


Chờ chút xíu thôi, nào có lâu la gì, đợi chủ tịch đọc xong người ta sẽ hoan hô nhiệt liệt cho nó đúng thứ tự thời gian và đỡ ồn ào, lộn xộn. Nhưng bác Hồ cứ thấy “quần chúng” là cầm lòng không đậu, gặp quần chúng là bác bắt họ hoan hô nhiệt liệt ngay tức khắc.


Những sơ sót ấy đã tố cáo một số bản tính của bác. Sơ sót hãy tạm coi là nhỏ và tật xấu chưa trầm trọng lắm. Nhưng cũng chỉ mới viết trang đầu bác đã để lộ cái tính xạo ke ra. Bác viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế mình”.
Không muốn nhắc lại thân thế mà tự mình ngồi viết cả một cuốn sách bốc thơm mình, bịa đặt phét lác để nâng bi mình tối đa, “không muốn” kiểu này hơi lạ! Câu ấy, đáng lẽ phải được viết như thế này: “Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn… đứa khác viết về thân thế của người. Chính người phải tự viết lấy, tự ca tụng, tự thổi ống đu đủ, tự nâng bi thì người mới cảm thấy đã đời”!


Bác Đẹp Trai
Nào chúng ta chịu khó đọc tiếp:
“Sáng 4-9, 7 giờ 25, tôi đến dinh Chủ Tịch. Đúng 7 giờ 30, một người thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi: “Hồ chủ tịch đợi anh ở phòng làm việc”. Phòng làm việc của Chủ Tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa sổ lớn. Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ sách nhỏ kê sát vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đấy là tất cả những đồ trong phòng làm việc, không có một thứ trang trí gì khác. Hồ chủ tịch thường mặc bộ quần áo kaki, đi giầy vải đen.” (trang 6)
Chúng ta mới ở phần đầu trang thứ hai (trong sách là trang 6 vì 4 trang đầu dành cho nhan sách và những thủ tục lỉnh kỉnh), chưa đi xa đến một trang rưỡi, ta đã bắt gặp bác để rớt mặt nạ Trần Dân Tiên lần thứ ba.


Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy bác Hồ là ngày 2 tháng 9. Sáng 4 tháng 9 chú mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã biết “Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC …”. Nếu bác cứ phịa đại Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo điếu đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt “thân thế” chú Tiên là người xa lạ, mới gặp… để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo này, thường đi giầy kia, thông thạo cứ như… chính bác vậy. Đầu chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve vẩy loạn lên, trông không ra làm sao cả.


Bây giờ đến khoản bác tả dung nhan của chính mình. Bác viết: “Tóc người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng …”. Gớm! Bác thấy bác bảnh trai đến thế thì bác si mê bác là đúng quá rồi. Khúc sau, phải tả tới màu da, bác hơi kẹt vì da bác “ngăm ngăm đen…”. Phịa là nó trắng trẻo hồng hào thì lộ liễu quá, sợ các cháu cười, bác đành phải nhận là mình đen. Nhưng lại e nhận như thế nó hơi xí giai đi, bác vội vã thêm: “Da ngăm ngăm đen khiến ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích…” (trang 6).


Nhờ bác Hồ tí! Sương gió dãi dầu thì đen nhưng “trong rừng sâu” thì lại chỉ xanh mướt hoặc vàng ra chứ đâu có đen. Cái khoản chiến tranh du kích lại càng xa sự đen đủi nữa vì đánh du kích là chuyện của những kẻ theo bác, còn chính bác quanh quẩn chiến đấu dầu dãi gió sương trong những cái hang kiểu như hang Pắc Bó vậy thôi.


Không ai trách bác chuyện ở ru rú trong hang để điều khiển cuộc chiến, nhưng ở chỗ an toàn như thế mà cũng đòi có màu da đen rám nắng của các chiến sĩ gió sương thì… tham lam quá. Cái phần “trán cao, mũi thẳng, mắt sáng ngời…” bác đã vồ hết, xí hết, lũ đàn em thực sự làm du kích có tí da ngăm ngăm đen phong trần để lấy le với đào, bác cũng chôm luôn.

Đã tham lam, bác còn tỏ ra ích kỷ quá sức. Khi tự mô tả mình bảnh trai như thế, bác cóc thèm nghĩ đến những cộng sự viên đắc lực, những chú em đồng chí hơi xấu trai: thí dụ như chú Đồng vều. Trong khi bác “mũi thẳng, mắt sáng” thì chú ấy mũi vẹo, môi dầy cồm cộm. Bác càng khoe mình đẹp giai thì chú Đồng vều càng buồn duyên tủi phận dữ lắm. Con người đi làm cách mạng đâu có cần bề ngoài hoa lá cành như mấy anh đóng tuồng cải lương. Làm chi mà huênh hoang dữ thần vậy cho lũ đàn em nó thêm đau đớn phận nghèo!


Bác Khiêm Tốn Nhường Ấy
Sau khi để mặt nạ Trần Dân Tiên rơi lộp bộp mấy lần, bác chợt tỉnh lại và nhớ ra trò chơi phân thân của mình. Bác mô tả tiếp:
“Tôi bước vào phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói: “Tôi có thể giúp chú việc gì nào?”. Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, người cười và đáp: “Tiểu sử. Đấy là một ý kiến haỵ. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã!” (trang 6)
Mặt nạ Trần Dân Tiên lại rớt cái kịch.


Bởi vì trên đời này, nếu có một tên Trần Dân Tiên thật mà tên ấy mới gặp bác lần đầu đã khờ khạo ngu si đến độ đòi viết tiểu sử ca tụng người thì làm sao nó có thể sống sót ra khỏi dinh chủ tịch. Bọn văn nô chuyên nghiệp của bác sẽ bủa vây hàng hàng lớp lớp đón cậu Trần Dân Tiên ở cổng dinh mà bịch cho cậu một trận tơi bời hoa lá vì cậu cả gan tính tranh “gióp” của chúng nó. Sau bao tháng ngày gian khổ đi theo bác chiến đấu, chúng đã thành văn nô được biên chế, chúng đã được đảng cấp cho dụng cụ hành nghề là những cái ống đu đủ rất to.

Ðứa nào cũng chấp chới mong ngóng có ngày được vinh dự kê ống của mình vào rốn bác mà thổi, nay có thằng tay mơ ở đâu nhào tới đòi dẹp những văn nô nhà nghề, văn nô có chức sắc, để dành cái rốn của bác thì đâu có thể để cho nó sống sót được.
Về việc thực hiện cuốn tiểu sử, bác bảo: “Đồng bào đang đói khổ, có nhiều việc cần kíp phải làm trước. Hãy gác cái ý viết tiểu sử bác lại, v.v…”. Vừa phán như thế xong, bác lại nhặt cái mặt nạ Trần Dân Tiên dưới đất lên, đeo vào, nâng bi tiếp: “Một người như Hồ chủ tịch của chúng ta, với ĐỨC KHIÊM TỐN NHƯỜNG ẤY và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được”.


Nếu bác biết tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách “Những mẩu chuyện …” không bao giờ được viết. Bởi vì từ ngày 4-9-1945 cho tới lúc các cháu khiêng bác ra quảng trường Ba Ðình, có lúc nào hết cảnh “rất nhiều đồng bào đang đói khổ” hay có khi nào bác hết “những công việc cần kíp” đâu. Kiên cường rước cho được chủ nghĩa Cộng Sản về chụp lên đầu dân tộc, hô hào một nửa nước đem súng ống đi tàn sát ép nửa kia vào cuộc đời đói rách… những công trình ấy đâu có lúc nào cho phép bác được rảnh rang. Đã bề bộn công việc lại còn có “đức khiêm tốn nhường ấy” nghĩa là rất thẹn khi phải tự đề cao mình… bác sẽ không chịu kể tiểu sử cho ai, nói chi đến việc tự viết ra.


May thay cho nền văn chương hài hước, tiếu lâm của dân tộc, bác đối xử với những lời nói của chính bác giống hệt như mấy cái hiệp định, hòa ước, lệnh ngưng bắn Tết Mậu Thân mà bác đã ký kết, hứa hẹn… nghĩa là vi phạm lia chia. Hiệp ước ký rồi bác vi phạm ngay lúc chưa ráo mực.

Lời bác phán thì bị vi phạm ngay từ lúc đang… viết ra! Cái việc bác ngồi cầm bút viết những câu văn Trần Dân Tiên để tự ca tụng đã như một bàn tay vả bôm bốp vào cái mồm huênh hoang rằng bác có nhiều việc cần kíp, bác khiêm tốn, bác bận lo cho đồng bào đói khổ không có thì giờ khoe tiểu sử, v.v… Tự mình cầm bút khoe tiểu sử, bốc thơm chính mình rồi cùng lúc lại nức nở ca ngợi rằng mình là người quá khiêm tốn, quá bận lo cho dân đói không muốn bỏ thì giờ vào việc kể tiểu sử… Cổ kim, đông tây khó kiếm được anh chàng nào ăn gian nói dối, lố bịch đến thế.


Mới đọc chưa hết ba trang sách của bác chúng ta đã thấy hiện ra rành rành trước mắt chân dung một con người thèm thuồng lời ca tụng, không chịu thỏa mãn với các kỹ thuật nâng bi tối tân của một đội ngũ văn nô nâng khỏe nhất thế giới, một con người dám làm cả những trò tiếu lâm, cà chớn nhất để thỏa mãn nỗi khát khao được xưng tụng, một người hoàn toàn vì mình mà quên… dân, vì trong khi dân chúng chết đói, chết vì chinh chiến thì bác ngồi rung đùi hả hê viết sách tự ca tụng mình tài, tự vẽ mình là mắt sáng, mũi thẳng, trán cao.
Với ba trang sách mà đã mô tả được ngần ấy chuyện, gửi đến độc giả ngần ấy đức tính cao cả của bác, phải công nhận là văn chương bác Hồ cũng phong phú lắm chớ bộ…


Trên mọi địa hạt, bác tỏ ra rất tự kiêu, tự mãn. Lời bác nói ra là chân lý, hành động của bác không bao giờ sai lầm, bác làm gì cũng thành công, v.v… Thế nhưng khi đọc tới trang 7 cuốn tiểu sử này chúng ta thấy có một công việc bác đã làm với tinh thần thiếu tự tin. Bác cảm thấy mình chưa đạt chỉ tiêu và bác băn khoăn, bào chữa dữ lắm. Cuối trang 7, bác viết: “Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của Hồ chủ tịch, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài Hồ chủ tịch, thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó.”


Bây giờ, ta đã biết Trần Dân Tiên chính là bác, câu văn trên cần được sửa lại cho đàng hoàng, đứng đắn như sau: “Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của tôi, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài tôi ra thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó.”


Câu văn lảm nhảm tức cười ấy đã thể hiện một thảm kịch do tật khoái được nâng bi gây ra. Đầu tiên, bác chê hết cả đội ngũ văn nô, chỉ tin ở tài tự ca ngợi. Nhưng mới viết vài trang, bác teo. Bác sợ mình sẽ không ca tụng mình tới mức. Bác phải thòng câu đó để nhắn nhe đồng bào, độc giả rằng: “Cuốn sách này ca tụng bác chưa đủ đâu nhé, bác Hồ còn nhiều cái hay ho tài ba, ly kỳ bí mật khác chưa được kể ra, người viết sách nâng bi Trần Dân Tiên nâng chưa tới đâu. Bi bác còn đáng… cao hơn nhiều, v.v… “.


Ngàn năm một thuở mới có dịp thấy bác nhũn nhặn nhận là mình có chỗ còn yếu kém, làm chưa đạt chỉ tiêu. Đồng bào đổ xô lại xem chỗ yếu kém hiếm hoi đó là cái gì thì hóa ra bác khiêm tốn thú nhận rằng: tôi không đủ tài để ca tụng tôi, tôi là con người vĩ đại vượt ra khỏi tầm nâng bi, ca ngợi của chính tôi!
Từ thủa vua Hùng dựng nước, trải qua lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta chưa từng gặp một con người “Khiêm Tốn Nhường Ấy”!
(xem tiếp phần II)

CHÂN DUNG “BÁC” HỒ: Phần 2

Về gốc gác, gia tộc của bác Hồ, chú Trần Dân Tiên viết:
“Hồ chủ tịch sinh năm 1980. Quê người ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (Trung bộ). Phụ thân người là một cụ Phó Bảng, nhưng gia đình người là một gia đình nông dân” (trang 8).
Tại sao bác phải “nhưng gia đình người là một gia đình nông dân” thì ai cũng biết, bởi vì lũ dân con của bác, bác truy đến ba đời nhà chúng nó để hành tội, chả lẽ ông chủ tịch lại là con của một tay phong kiến hạng nặng. Thế nhưng tại sao ông già bác là Phó Bảng mà gia đình bác vẫn cứ là nông dân thì bác không chịu nói, không giảng giải một lời. Chỗ này chú Trần Dân Tiên gặp chuyện khó ăn, khó nói chăng?

Sau khi viết một câu ngắn, rất bí hiểm về ông bố, về gia đình mình, bác bắt đầu lờ tịt đi. Bác xoay qua nói chuyện ông… Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám, hai người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Người đọc, thoạt đầu, không dám nghĩ là bác lạc đề. Vừa nghe bác nhắc đến ông già lại thấy bác kể liền tới chuyện Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, người đọc chờ đợi bác đưa ra sự liên hệ giữa ông bố và hai nhân vật anh hùng này. Hèn ra thì cũng có một màn ông Phó Bảng đi theo phò tá người làm việc lớn. Tóm tắt là ông Phó Bảng có đóng góp tí ti cho phong trào chống Tây.

Nhưng không! Càng đọc thì càng thấy ông Phó Bảng bị quên luôn. Ông ấy chẳng dính dáng tí ti nào đến những chuyện nước non. Thành tích của thân phụ bác chỉ là cụ Phó Bảng. Hết!


Ông Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám và các người Việt yêu nước khác muốn xả thân chống Tây thế nào cũng được, cụ Phó Bảng vẫn bình chân như vại đứng bên lề. Trong đoàn quân kháng chiến không hề có bóng dáng cụ. Bác Hồ viết:
“Cụ (Phan Đình Phùng) tổ chức những phần tử trí thức và nông dân Trung bộ, lãnh đạo họ đấu tranh gian khổ chống bọn xâm lược… Bọn Pháp bắt nông dân từ mười tám đến năm mươi phải đi phu… Năm 1907, lần đầu tiên nông dân ở các tỉnh Trung bộ nổi dậy chống thuế”.

Ngần ấy chuyện, có biết bao nhiêu cơ hội cho cụ Phó Bảng đóng góp. Thế mà cụ chẳng có mặt trong đoàn quân của cụ Phan (dù cụ Phó Bảng vừa là trí thức vừa là nông dân). Trong đám người nổi dậy chống thuế không có cụ, mà cho đến cái việc bị Tây bắt đi phu cụ cũng lọt sổ luôn. Thế thì khoe khoang chuyện Phó Bảng ra làm gì? Thà cứ viết: bác sinh ngày: …, tên bố bác: … , tên mẹ bác: …, lại đỡ ngớ ngẩn và không làm người đọc chờ đợi mất công.


Cách hành văn khoe khoang vớ vẩn của bác lại có vẻ như ngầm sỉ vả ông bố về tội chẳng đóng góp được cái tích sự gì. Càng kể thành tích chiến đấu anh dũng của người khác, bác càng làm nổi bật sự trống rỗng, vô ích, thừa thãi của cuộc đời cụ Phó Bảng nông dân. Phải chăng cái ý tưởng đấu tố cha mẹ đã nhen nhúm trong đầu vị chủ tịch nước từ ngày ấy?

Suốt hai trang sách, bác viết về thành tích của các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám rồi Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Bác quên mình để ca tụng người khác rồi chăng? Không đâu. Đến ông già bác mà còn bị cho de vì không đóng góp gì cho sự vẻ vang của bác, các vị Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… đâu có thể được ca tụng khơi khơi, vô vị lợi như thế được. Bác chịu kể thành tích của họ chẳng qua chỉ để làm mình nổi bật thêm. Đến trang 10, bác oang oang khoe rằng mình khôn ngoan, sáng suốt hơn cả bốn vị, hơn từ lúc bác mới mười lăm tuổi! Bác viết:

“Đó là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:
- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, anh nhận điều đó sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” ( trang 10)

Cậu Nguyễn Tất Thành lúc 15 tuổi thông minh tài giỏi cỡ nào rồi ta sẽ nói vì trong sách có ghi lại nhiều bằng cớ. Nhưng bác xấc láo với tiền nhân đến độ khoe mình sáng suốt hơn họ từ lúc còn niên thiếu thì bác ngu và phét lác quá. Hai chữ “phong kiến” bác mới học được sau này, sau khi được bọn Cộng Sản Nga Tầu dạy dỗ. Mới nứt mắt ra thì chữ nghĩa kiến thức đâu mà chê bai các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, lại còn hồ đồ chê cụ Hoàng “theo lời người ta kể”! Già như bác ngày gần chầu tổ mà thở ra cái giọng ấy cũng đã can tội hỗn láo rồi. Chê cụ Phan Chu Trinh sai lầm trong cách xử sự với Pháp nhưng bản thân bác lại từng năn nỉ Pháp và bị lừa xiểng liểng nhiều phen.

Chê cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp là “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” nhưng chính bác thì lại còng lưng cõng rắn Nga, Tầu và một chủ nghĩa Cộng Sản gớm ghiếc về nhà, thành ra bác “đuổi hổ cửa trước, rước hàng tá hùm beo, rắn rết cửa sau”. Thế mà bác lại ngồi viết sách chê tiền nhân là kém sáng suốt, lại còn chê bằng lời nhô con Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi, ra cái điều là ngay lúc hỉ mũi chưa sạch, bác đã sáng láng hơn các bậc tiền bối rồi!

Cậu Bé Siêu Phàm
Sau khi cho cậu bé 15 tuổi chê bai tiền nhân xong, bác bèn mô tả rất kỹ tầm kiến thức, sự hiểu biết, kinh nghiệm của cậu. Bác viết:
“Một trí thức ở Sàigòn kể lại cho tôi: Trong khi còn học ở trường Chasseloup-Laubat, tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng lứa tuổi, cho nên chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến trước tiệm cà-phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy. Một hôm, tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên, anh mới nếm mùi kem…” (trang 11)
“Tàu điện đối với anh Ba (cậu Nguyễn Tất Thành 15 tuổi lúc đó và bác Hồ sau này) là một chuyện kỳ lạ. Lần đầu tiên anh ta trông thấy những “cái nhà biết chạy” ấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả.” (trang 15)
“Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được bánh mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa…” (trang 14)
Cái vụ thộn mặt ra khi được ăn cà rem hay thấy xe điện thì kêu thảng thốt: “Ô! Cái nhà biết chạy!” không đáng trách. Cậu bé Nguyễn Tất Thành ở quê từ nhỏ, chưa theo kịp nếp sống văn minh, chả sao. Nhưng cậu lại dùng nĩa để ăn xúp thì… tối dạ không chịu được. Dù cậu Thành chưa từng được trông thấy cái thìa, cái muỗng thì ở nhà quê dân ta đã có những dụng cụ để múc cháo và các chất lỏng khác giúp trí khôn cho cậu. Vậy mà cầm tô xúp trên tay cậu ta lại cứ dùng nĩa mà… múc lấy múc để thì đầu óc có hơn gì đứa trẻ lên ba.
Quê mùa và tối dạ chưa hẳn đã là người bỏ đi. Cậu nhóc Nguyễn Tất Thành khờ khạo, dại dột, chưa từng thấy que cà rem hay cái tầu điện, nhưng có thiên tài về chính trị, hiểu biết rộng rãi về nhân văn, địa lý thì sao? Hãy cho cậu một cơ hội để khoe tài. Và đây là những phát biểu của cậu Nguyễn Tất Thành về những địa hạt ấy: Nói về nước Pháp, ở trang 14 và 15, có tới hai lần cậu biểu lộ sự ngạc nhiên. Chuyện gì ở Pháp làm cậu bỡ ngỡ, bàng hoàng đến thế? Một lần cậu há hốc mồm kêu: “Ô! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta” (trang 15). Ngoài vụ kinh ngạc vì nước Pháp “cũng có người nghèo” cậu còn một phen kinh ngạc nữa vì nước Pháp có… người tốt.
Bác viết:
“Anh (Hồ Chí Minh) nói với tôi với một vẻ ngạc nhiên: Anh Mai, cũng có những người Pháp tốt anh ạ”. (trang 14, 15)
Ông nhóc con cầm nĩa múc… xúp, ngạc nhiên rằng nước Pháp có người nghèo, không biết rằng dân tộc Pháp cũng có người tốt, v.v… lại oang oang lên tiếng chê bai các nhà cách mạng từng bôn ba hải ngoại! Con dại cái mang. Hành vi ngôn ngữ của cậu bé vị thành niên Nguyễn Tất Thành, cụ Phó Bảng phải chịu một phần trách nhiệm. Phép nhà của cụ lỏng lẻo, cụ không dậy con tử tế chăng? Hay cậu Nguyễn Tất Thành có được dậy, nhưng quên bén mất lời cha?
Kẻ hậu sinh không dám chê cụ Phó Bảng đã khiếm khuyết trong việc giáo huấn. Đành ngờ rằng cậu bé hỗn xược Nguyễn Tất Thành bỏ nhà giang hồ vặt từ nhỏ, nên sớm đánh rớt mất những lời dạy dỗ của cha ông. Cậu Nguyễn Tất Thành tìm cách xuất ngoại để học hỏi. Cậu ra đi “bí mật” bằng cách lêu bêu ở bến tàu, năn nỉ hơi ồn ào để xin việc. Có kẻ thương hại, cho cậu chân phụ bếp trên chuyến tàu đi Pháp. Đây là vài thành tích lớn của cậu bé đã từng chê tuốt luốt các nhà Cách Mạng lão thành.
Ngoài việc khoe những cái ngu nho nhỏ như dùng nĩa để múc xúp, bác còn khoe ra một quả tối dạ vĩ đại: tối dạ đến độ suýt mất mạng! Bác Hồ viết :
“Một lần, dọc đường anh Ba (tên của bác Hồ lúc đó) suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rổ rau vào dây để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.” (trang 14).
Dây Xích Oan Nghiệt
Tàu đang gặp bão. Mọi người say sóng ngất ngư cả. Các ông bà chủ của bác cũng như hành khách trên tàu đều nằm bẹp, đâu có muốn ăn uống gì. Thế mà “anh Ba” cứ nhất định sợ chủ đói bụng, cứ liều chết để chu toàn vai trò khuân vác. Khôn ngoan một tí, anh Ba chỉ việc đau ốm như mọi người, hoặc ít nhất thì cũng chờ cho tàu ra khỏi vùng giông bão, rồi hãy phục vụ chủ cũng còn kịp chán. Nếu không có cột buồm và sợi dây xích giữ lại, thì bác Hồ đã hi sinh tính mạng, đã đi đoong và lịch sử ngành bồi bếp sẽ có một gương danh nhân: anh phụ bếp bỏ mạng sa trường vì quyết tâm phục vụ những cái bụng chủ nhân… không đói. Ôi, sợi dây xích oan nghiệt nào đã giữ cậu phụ bếp Nguyễn Tất Thành lại ngày hôm đó, không cho cậu đi chơi với Hà Bá? Nếu không có nó thì lòng biển đã có thêm bộ xương khô của một anh bồi có tinh thần bồi bếp nặng và hơn nửa thế kỷ sau hàng trăm ngàn người dân Việt đã không chết thảm trên biển Đông.
Chê bác Hồ tối dạ có thể là chê oan. Nên tìm một cách giải thích khác cho hành động “liều mình cứu cái dạ dày chủ” của bác. Bác đã suýt chết chẳng vì khờ khạo mà vì có tinh thần bồi bếp quá cao, sẵn sàng phục vụ các ông bà chủ đến độ quên cả bản thân mình. Lời giải thích này có vẻ hợp lý và đỡ tai hại cho nhân vị của bác. Cái tinh thần vì chủ mà hầu hạ tận tụy chết bỏ, bác giữ suốt đời. Sau này, khi có cơ hội tiến thân trong sự nghiệp tôi tớ, bác được dịp phục vụ những ông chủ to hơn: hai ông chủ Nga, Tàu. Cũng với tinh thần liều mình trong giông bão, bác biểu diễn một tác phong tôi đòi vô cùng ác liệt. Bác hy sinh cả đất nước, cả sinh mạng của hàng triệu người dân Việt để cho các quan thầy hài lòng. Tinh hoa bồi bếp đã phát tiết ra ngoài từ lúc bác còn vị thành niên.
Từ trang 15, bác Hồ kể chuyện ở Pháp. Tàu cặp bến Mạc-xây. Các nhân viên Việt Nam được lãnh lương hèn nhất là một trăm quan lại thêm vô số tiền thưởng của hành khách. Riêng bác Hồ, kẻ liều mình trong giông bão, suýt chết mất xác vì quá hăng say phục vụ, lại chỉ được phát đúng… mười quan! Bác bị bốc lột thê thảm! Để tự an ủi, bác viết:
“Anh ta (bác Hồ) được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ”.
Và một trong những điều mới lạ bác học được trong chuyến này là “Ồ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”. Hóa ra, khi chưa được “học” cậu Nguyễn Tất Thành cứ đinh ninh rằng nước Pháp là thiên đường, là nơi chỉ có toàn người giàu!
Người Pháp Tốt
“Ông Mai, người giúp đỡ bác Hồ ở Mạc-xây kể rằng: Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta (bác Hồ) mượn bộ áo quần, và chúng tôi đi đến tiệm cà phê ở đường Ca-nô-bia. Không cần phải nói, Đây là lần đầu tiên anh ta vô tiệm cà phê, và cũng là lần đầu tiên được người Pháp gọi bằng ‘ông’ ”. (trang 16).
Được gọi bằng ‘ông’, bác sướng mê tơi, sướng đến độ mấy ngày sau, được hỏi cảm tưởng, bác khen Pháp rối rít:
“Sau những ngày đầu tiên ở Mạc-xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ: Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương” (trang 16)

Được gọi bằng ‘ông’ một cái là đã sướng run người, vơ đũa cả nắm khen “người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép …”. Mới gặp vài anh Pháp bồi bàn đã vội kết luận về toàn thể dân Pháp, đã đưa ra nhận xét về tất cả người Pháp ở Đông Dương! Cậu Nguyễn Tất Thành tỏ ra vừa hấp tấp vừa ngu. Bởi vì những tên Pháp thực dân chúa, chủ trương đánh chiếm và cai trị Đông Dương, bày ra những mưu sâu kế độc… chính là những người Pháp ở Pháp chứ bọn Pháp chân tay ở Đông Dương đâu có “tốt” được đến thế.

Đang say sưa kể chuyện bác, đến khúc này, chú Trần Dân Tiên chợt ngưng lại. Chắc là đọc xong những trang đã viết, chú khoái tỉ lắm, tự phục mình lắm. Thế nên, theo đúng gương sáng của bác, chú Trần Dân Tiên tạm dẹp bác qua một bên để tự… nâng bi. Chú viết những dòng tự khen như sau:

“Cho đến nay, cách của tôi – cách làm tập thể – hình như được việc. Những người cộng tác đầu tiên và tôi chỉ cứ nhẫn nại theo đường dây, ghi chép cẩn thận những mẩu chuyện giữ nguyên như thế. Và đây là một tiểu sử trung thành, đứng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt”. (trang 16)
Hai chữ “trung thành” bác dùng sai, đáng lẽ phải viết là “trung thực”. Còn cái khoản “không thêu dệt, không bày đặt” thì sau này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội nói tới.

Bác Học Văn Chương
Ta hãy tiếp tục đọc hồi ký để xem thành tích của bác hồi ở Mạc-Xây. Bác viết:
“Theo địa chỉ ông Mai mách, anh Trần, người cộng tác trẻ tuổi của tôi, đến gặp ông Dân ở Nha Trang. Đây là những điều anh Trần ghi chép: Ông Dân sáu mươi hai tuổi, chủ một cửa hàng nhỏ sạch sẽ và đông khách, nhà đông con. Ông ta tiếp tôi niềm nở và kể chuyện: “Tôi có hai con trai đi Vệ quốc quân và một con gái đi cứu thương. Nhà tôi còn ba con nữa: hai mươi hai, hai mươi và mười sáu tuổi, đều là đoàn viên của đoàn Thanh niên cứu quốc…

Ông Dân có tài nói. Ông bắt chuyện này sang chuyện khác rất thần tình. Kéo ông về câu chuyện mà tôi đặc biệt chú ý không phải là dễ. Nhưng sau tôi đã thành công.
- Có chứ, tôi còn nhớ anh Ba ấy. Chắc chắn tôi còn nhớ anh ta mặc dầu cách đây đã ba mươi năm. Tôi ở với ông chủ của tôi ở Xanh Addơ-rét (Saint-Adresse), một ngoại ô của Ha-vơ-rơ, một hôm, ông chủ già dẫn về một người trẻ tuổi, gầy yếu, quần áo lôi thôi nhưng có vẻ lanh lợi. Tên anh ta là Ba. Ở nước ngoài mà gặp được một người đồng hương, thì lập tức người ta dễ trở thành bạn thân. Chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi ở một biệt thự có vườn hoa. Ông chủ già khi rảnh việc thì ở câu lạc bộ thành phố. Bà chủ thường đến nhà người con gái, vợ một nhân viên của công ty.

Một người nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon, nhưng khi bà ta cáu thì như một mụ yêu tinh. Một cô sen xinh xinh hay làm dáng, có một “bà mẹ hay ốm”. “Bà mẹ ốm” chính là một chàng thủy thủ. Để đi gặp tình nhân, chị ta lừa dối chúng tôi luôn, và nói là đi thăm mẹ ốm. Trong nhà tất cả là sáu người. Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế là ông chủ, bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều “con” hai điều “con”. Nhưng phần lớn công việc do cô sen làm. Chị ta muốn cho chóng xong để đi gặp “bà mẹ ốm”.

Vì vậy chúng tôi có rất nhiều thì giờ rảnh. Anh Ba dùng thì giờ, chăm bón hoa với người làm vườn hoặc giở những tờ báo có ảnh trong tủ sách ra xem. Sau khi đến được ba ngày, anh hỏi tôi: “Anh Dân, anh có biết viết chữ quốc ngữ không?”. Tôi hơi thẹn nhưng trả lời thành thật: “Không, tôi không biết”. Anh Ba liền giảng giải và khuyến khích tôi học. Tôi làm theo lời anh. Anh Ba cũng thế, anh học tiếng Pháp với cô sen.”
(trang 16, 17, 18).

Cả đoạn văn này làm nổi bật hai chuyện :
1/ Bác khôn vặt và cũng ưa bốc lột, lợi dụng sức lao động của kẻ đồng cảnh ngộ, cùng thân phận như mình.2/ Bác học văn chương chữ nghĩa Pháp từ một sến nương.
Về sự khôn vặt và tài bốc lột của bác thì ta thấy lúc làm bồi tàu, là chân phụ bếp hạng bét, bác đành lao động chết bỏ. Thế mà lúc ở Mạc-Xây, gặp chị sen tốt bụng, bác bốc lột sức lao động của chị ngay. Biết chị này đang bị ái tình vật, chỉ mong cho sớm xong việc để đi với kép, bác trút hết cả công việc lên đầu chị, “phần lớn công việc do cô Sen làm”. Gặp một đồng nghiệp khôn vặt và chơi bẩn như thế, sến nương không hề giận, lại vẫn ra công dạy tiếng Pháp cho bác. Chẳng hiểu bác Hồ khoe cái thành tích vừa hèn vừa vô ơn này ra để nêu gương gì cho các đồng chí cháu ngoan của bác.

Về nguồn gốc tài viết văn tiếng Pháp của bác như thế là chúng ta đã rõ, bác thụ giáo từ một sến nương. Còn văn chương Việt thì sao? Mầm non văn nghệ bác Hồ có được một chị sen nào dẫn dắt lúc đầu đời không mà viết tiếng Việt lủng củng chịu không nổi. Quí vị đọc lại những câu này:

“Một bà nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon”.
“Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế là ông chủ bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều “con” hai điều “con”. Nhưng phần lớn công việc do cô sen làm”.
Ngôn ngữ nhân vật cũng như văn chương của bác cứ như ông Tây nói tiếng Việt. Trang 19, bác ghi lời một người kể chuyện: “Anh ta làm việc như một con bò”. Chẳng biết lối so sánh ấy có Tây lắm không nhưng chắc chắn rất khác Ta. Người Việt ta thì hay nói: “làm việc như trâu” mà ngu thì mới “như bò”. Suốt cuốn sách, có khá nhiều câu văn lủng củng, lai căng như văn dịch của một anh chàng đang tập viết.


Tới đây, ta ngưng một chút để xét lại lời tự khen của chú Trần Dân Tiên “không thêu dệt, không bày đặt”. Để thực hiện cuốn hồi ký, chú Tiên lần lượt đi tìm (hoặc nhờ phụ tá), phỏng vấn những người này:

Một trí thức ở Sài gòn (được gọi là anh Lê) kể chuyện bác đến rủ đi làm bồi tàu để xuất ngoại. Anh ta không đi theo nên không biết sau đó, bác Hồ đi ngoại quốc bằng cách nào. Anh Lê nói: “Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ chủ tịch của chúng ta ngày nay.

Kẻ thứ hai được phỏng vấn là ông Mai, người cùng làm việc trên tầu với bác. Ông Mai đã cứu bác nhiều lần, dậy bác gọt khoai, gọt măng tây (có lần ông Mai phải ném xuống biển tất cả đống măng tây bác gọt tầm bậy để xóa tội, giữ job cho bác). Ông Mai cũng là người dạy bác bài học của lớp mẫu giáo: không nên dùng nĩa để múc xúp, v.v. Cuối cuộc phỏng vấn ông Mai kể rằng ông và bác chia tay nhau ở Pháp. Ông theo tàu trở về Đông Dương, bác muốn ở lại nên được chủ tàu đem về nhà nuôi, cho làm một chân phụ tá của sến nương nhà ông. Ông Mai kết luận: “Từ đấy, tôi không được tin tức gì của anh Ba nữa.”

Sau khi anh Ba biến đi một cách “bí mật” như thế thì cũng chính ông Mai là người mách cho chú Trần Dân Tiên cái địa chỉ của ông Dân ở Nha Trang. Bởi vì ông Mai biết rõ là ông Dân đã sống cùng với bác suốt thời gian bác ở đợ cho ông Tây chủ tàu. Ông Mai “không được tin tức gì về anh Ba” nhưng lại là người liên lạc thường xuyên, biết rõ địa chỉ hiện tại của người đã sống với anh Ba. Ly kỳ thật! Nhưng đến phiên ông Dân ra tuồng thì tình thế còn ly kỳ hơn. Sau khi kể ra những thành tích đẹp đẽ của bác Hồ trong thời ở đợ, ông Dân bèn ngạc nhiên khi được cho biết anh Ba chính là Hồ chủ tịch bây giờ. Ông diễn xuất rằng ông không biết tí gì về quảng đời sau của anh Ba. Nhưng cũng lại chính ông Dân là người “biết chắc chắn” về ông Bốn, kẻ đã đi cùng với Bác sang Phi châu. Được phỏng vấn, sau khi chu toàn nhiệm vụ nâng bi anh Ba, ông Bốn lại giới thiệu ông Nam là người đã sống cùng với bác ở Luân đôn.
“-Ông có biết ông Nam không? (trang 22).
-Có, hầu hết chúng tôi biết nhau, vì chúng tôi đều ở cả trong tổ chức.”
Những người đã sống cùng với bác một thời hoặc là cùng ở trong tổ chức, hoặc là thường xuyên liên lạc đến nỗi biết cả địa chỉ hiện tại của nhau lại cứ nhất định không chịu chia xẻ những tin tức về anh Ba, để cho anh ấy tha hồ bí mật!


Các ông Mai, ông Bốn, ông Nam đều biết anh Ba là bác Hồ. Cả đến một vị trí thức ở Sàigòn (anh Lê), người gặp bác sớm nhất, lúc bác còn là một học sinh, cũng biết anh Ba là Hồ Chí Minh. Chỉ có một mình ông Dân là cóc biết! Tách riêng ông Dân ra như thế, bác có lý do. Bác muốn bắt ông ta diễn tuồng sửng sốt. Bác Hồ viết:


“Để kết luận cuộc phỏng vấn của tôi, tôi hỏi ông Dân:
- Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không?
- Không, tôi rất tiếc là không biết.
- Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?
- Còn gì bằng nữa .
- Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa. Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến. Ông Dân quay đầu, mở to đôi mắt, há miệng, gãi tai. Và ông bật lên như một cái lò xo, và kêu: “Hồ chủ tịch! Hồ chủ tịch của chúng ta! A di đà Phật! Nhưng làm sao anh biết? Anh nói thật đấy chứ? Ồ, lạ quá nhỉ! Hồ chủ tịch là anh Ba ấy ngày xưa. Hay quá nhỉ! Tôi sẽ kể điều đó cho bà nhà tôi nghe, cho các cháu nghe. Chúng nó sẽ mừng biết mấy! Cha của chúng nó được quen biết cụ Hồ ngày xưa.”(trang 19, 20).
Rõ ràng là giữa một chuỗi những người đã từng sống với bác, biết tiểu sử của bác, vẫn giữ liên lạc với nhau, ông Dân bị bác tách ra, bắt đóng vai ngớ ngẩn để có cớ reo lên: “Hồ chủ tịch là anh Ba ngày xưa! Hay quá nhỉ!”, cho bác được dịp sướng tê mê, cho tác phẩm của bác có một cú bất ngờ rẻ tiền. Đây là một trong những đoạn văn tiêu biểu nhất cho tinh thần “không thêu dệt, không bày đặt” của bác. Kiều Phong sợ mình kết luận quá vội vàng mà ngờ oan cho bác nên đọc lại khá kỹ đoạn văn tả ông Dân “bật lên như một cái lò xo”.
Đọc kỹ, thấy một chi tiết có thể giải oan cho bác. Không chừng bác chỉ là nạn nhân. Cái ông Dân này mới chính là kẻ bày đặt, thêu dệt, vờ vịt “không biết anh Ba hiện nay như thế nào” để diễn tuồng sửng sốt, phỉnh bác chơi. Nguyên văn đoạn tả phản ứng của ông Dân khi được biết anh Ba chính là bác Hồ: “Ông Dân quay đầu, mở to đôi mắt, hà miệng, gãi tai. Và ông bật lên như cái lò xo và kêu…”. Chính hành động “gãi tai” đã tố cáo sự vờ vịt của ông Dân. “Quay đầu, mở mắt, há miệng, bật lên như cáo lò xo” đều được, người ngạc nhiên, sửng sốt đến độ bật lên như lò xo không có giây phút nào dành cho việc gãi tai.


“Gãi tai” là hành động của kẻ băn khoăn, suy tính hay đang áy náy một điều gì. Gặp chuyện kinh hãi người ta giật mình, gặp chuyện ngạc nhiên người ta nhảy đựng, phản ứng ấy tự nhiên như khi chạm nước nóng thì rụt tay lại, bị đau thì hét lên, không có thì giờ nào để băn khoăn, suy tính, càng không có đủ thì giờ để có hành động thể hiện sự băn khoăn, suy tính.


Trước khi bật lên như một cái lò xo, ông Dân gãi tai suy tính. Ông suy tính gì? Có lẽ ông sợ cái tuồng ngạc nhiên ông sắp diễn chuế quá, lộ liễu quá. Tất cả những người đã quen biết bác Hồ thủa hàn vi đều biết anh Ba ngày nay là ai, chỉ có một mình ông giả bộ không biết, lỡ bác sùng lên ghép cho cái tội “khi quân” thì bỏ mạng. Nhưng trong lúc gãi tai, suy tính, ông lại trông thấy hình bác Hồ để trên bàn thờ nhà mình, không ai có thể ngờ là ông coi rẻ bác được, thế nên ông quyết định diễn xuất tiếp. Và ông bật lên như lò xo, v.v… Kết quả rực rỡ. Bác Hồ sướng mê tơi vì tấn tuồng kinh ngạc của ông Dân, bác trịnh trọng viết vào sách.
Bác Thương Người
Sau ông Dân, tới phiên ông Bốn ca tụng bác. Theo lời ông Bốn, bác là người rất nhân từ:
“Đến Đa-Ca, bể nổi sóng rất dữ. Tầu không thể vào bờ. Cũng không thể thả ca nô xuống vì sóng rất to. Ðể liên lạc với tầu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tầu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”.


“Cảnh tượng ấy, mọi Người coi là thường. Nhưng điều đó làm cho anh Ba hết sức cảm động, anh khóc. Ngạc nhiên tôi hỏi tại sao.”(trang 21)
Nhờ ông Bốn “ngạc nhiên hỏi”, bác Hồ có dịp chửi thực dân là lũ hung ác, vô nhân đạo. Cảnh tượng làm bác khóc thì “mọi người” coi là thường. Coi bộ ông Bốn đã hy sinh chính bản thân mình để ca tụng bác. Bởi vì trong số “mọi người coi là thường” có cả ông Bốn. Ông này có là thực dân đâu mà cũng hung ác, vô nhân đạo như thế?


Thực ra, chắc ông Bốn đâu là kẻ xấu xa bất nhân. Chẳng qua là vì trong cái nước “Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” do bác thành lập, những món quí hóa như “sáng suốt, tốt bụng, nhân đạo” đều phải dâng cho lãnh tụ cả. Cũng con người biết cảm động, khóc thương cho những người da đen bị sóng cuốn đi ấy chỉ mấy chục năm sau không hề nhỏ một giọt nước mắt cho hàng triệu người dân Việt bị ném và lò lửa chiến tranh.


Chế độ thực dân biến đổi những người Pháp tốt bụng thành những kẻ hung ác, vô nhân đạo, đứng trên bờ biển Đa-Ca hôm ấy. Chế độ Cộng Sản cũng biến anh thanh niên Việt “thương người” trên bờ biển Đa-Ca hôm ấy thành một anh già tàn nhẫn, độc ác ngồi trong Bắc Bộ Phủ sau này. Cảm ơn ông Bốn. Nhờ câu chuyện ông kể về anh Ba mà từ nay người Việt sẽ bớt băn khoăn áy náy. Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam đã nẩy sinh ra một kẻ lòng dạ độc ác ngay từ tấm bé. Hóa ra không, cậu bé Nguyễn Tất Thành cho đến lúc này vẫn là một cậu bé Việt Nam tử tế. Chính chủ nghĩa Cộng Sản sau đó giết cậu và ném trả về cho dân Việt một anh già tai ác, quái đản.

No comments: