Tuesday, October 11, 2011

LS.LƯUNGUYÊNĐẠT * THƯ NGỎ



Tư Cách và Vai Trò Trí Thức Đối Diện “Thư Ngỏ”
Gửi Các Nhà Lãnh Đạo Việt Nam


TS. LS. Luu Nguyen Dat

Ngay sau khi được công bố vào ngày 21 tháng 8 năm 2011, với chữ ký của 36 vị “trí thức” đang sinh sống tại hải ngoại, “Thư Ngỏ gửi Các Nhà Lãnh Đạo Việt Nam về Hiểm Hoạ Ngoại Bang và Sức Mạnh Dân Tộc”[1] đã khơi động một số phản ứng chống đối ồ ạt.

Lý do chính là đa số người Việt hải ngoại là những tỵ nạn cộng sản, dù 36 năm đã qua, vẫn cảm thấy căn cước chung của họ bị “vi phạm” bởi hành động bất tất của những người “đồng ký tên” trên. Lý do phụ là sự công phẫn đôi khi có tính cách cá nhân, với những lời lẽ mạt sát nặng nề, khi có dịp chỉ trích giới “trí thưc”. Đôi khi sự phẫn nộ còn có tính cách dây chuyền, căn cứ vào lời lẽ bất bình của người vừa phẫn nộ.

Để có một khái niệm khách quan, sáng suốt và công bằng, chúng ta hãy vịn vào chứng cứ cụ thể để đưa ra vài nhận định bên lề, đối chiếu ngay với lá “Thư Ngỏ” trên.

MẶT NỔI THƯ NGỎ

Trước hết, tài liệu đó không phải là một “kiến nghị”, với mục đích đề xuất những ý kiến trọng đại lên cấp trên, hạ mình cầu khẩn, xin xỏ, khúm núm, như một số điện thư và những bài tham luận đã ám chỉ hay minh thị chế trách trên mạng. Trái lại tài liệu được xác định rõ rệt là một “Thư ngỏ”, công khai, không có tính cách một thư mật, giấu giếm, đi đêm.

Những thuật ngữ như “Kính gửi…Thưa quý vị…Trân trọng kính chào…” chỉ là cách thức thảo bút xã giao, lịch thiệp, mà một người thư ký trung bình cũng biết sử dụng. Những thuật ngữ này không hề ẩn ý một thái độ kính nể quá đáng hoặc khúm núm bất xứng.


Mục đích công khai của lá “Thư ngỏ” là để [a] “ủng hộ những ý kiến chính đáng của nhân sĩ, trí thức trong nước” qua bản “Tuyên cáo” ngày 25 tháng 6, 2011 của 95 nhân sĩ, trí thức, tố cáo và lên án nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục gây hấn, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” và [b] để “hưởng ứng bản “Kiến nghị” ngày 10 tháng 7, 2011 của 20 nhân sĩ, trí thức, kêu gọi Quốc hội và Bộ Chính trị công khai hoá thực trạng quan hệ Việt-Trung, nhấn mạnh vào nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước”.[2]


Như vậy, thiết nghĩ những mục đích trên có tính cách chân chính, xác thực, xứng đáng với ý thức dấn thấn khẩn trương của người trong cuộc, không vô cảm, không thờ ơ với vận mệnh đất nước.
Thoạt tiên, phải thấy đó là những cảm nghĩ, tư duy và quyết tâm của những người yêu nước, thương dân, dù đang bị cô lập, thất thế trong nước, ruồng bỏ nơi hải ngoại, xứ khách quê người.


Và cũng phải công nhận rằng, với những thời điểm nhiễu nhương, đổi đởi trong và ngoài nước, khi không những đồng ký tên nơi Thư ngỏ “,[3] mà còn đích danh tự nhận mình là “trí thức” thì quả thật quý vị này vừa can đảm, vừa táo bạo.

Cam đảm là dám trườn mặt đương đầu với những khó khăn, thách thức, trong khi thái độ trùm chăn, nằm yên chờ thời, hay dè dặt vô cảm có bề dễ dàng hơn và được coi là bình thường, khôn ngoan. Táo bạo ở chỗ dám thú nhận gốc gác “bất sủng” với chế độ cộng sản mà từ Mao Trạch Đông tới Hồ Chí Minh, thường bị đánh giá [về thực dụng và chất phẩm] không bằng cục phân đồng quê, hay loại phân bón made in China, vừa giả mạo, vừa rẻ mạt

NỘI DUNG BẤT TÚC, THẤT CÁCH

Vậy cai sai lầm, thất cách đầu tiên của Nhóm “Thư Ngỏ” là, tuy có thiện chí, có khả năng trí tuệ, nhưng lại dấn thân không đúng cách, đối thoại không đúng chỗ, đối diện không đúng người.

Trong khi ai ai cũng đều biết ngụy quyền cộng sản Việt Nam là con đẻ [hay con-ghẻ], cháu ngoan [hay cháu-nợ] của bạo quyền Trung Cộng; trong khi người dân biểu tình chống kẻ láng giềng tham lam, ác độc lại bị công an đảng phiệt CSVN tức khắc giải tán, đánh đập, bỏ tù; trong khi rõ rệt từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng tới nhóm hậu sinh bất khả-kính, tiếp nối tiếm quyền, minh thị bán nước, hợp doanh, làm ăn chia chác với kẻ thù dân tộc…thì Nhóm “Thư Ngỏ” lại “trân trọng” dấn thân đầu tư vào thiện chí, thiện tâm của chính lũ bán nước, phản dân, của băng đảng tội ác tày trời đó.

Không khác nào nhắm mắt đập đầu vào đá, hay tự đốt cháy như con thiêu thân khi dắt díu nhau bước vào hẻm cụt của vấn nạn, mà người Tây phương gọi là “impasse” hay “dead end”, có thể trắng trợn chuyển ngữ thành con đường-chết hay tử đạo…


Thật vậy, cái “Thư Ngỏ” đó, nêu thực sự chân chính, thì đương nhiên bị “thanh lọc”, loại bỏ tức khắc, rồi yên ngủ nơi bùn lầy nước thải. Chỉ khi nào đó là loại tài liệu hiến kế a tòng bán nước, hại dân, do mấy ngài “trí thức” dởm đề đạt thì may ra mới lọt vào mắt đỏ, mắt xanh của quý ngài “lãnh đạo” đảng phiệt CSVN bất chính [nghĩa] tại nước ta.[4] Vậy, cả dưới hai dạng — chính hay dởm — “Thư Ngỏ” như vậy đều dẫn tới tử địa xã hội chủ nghĩa.


Cái sai lầm bất túc thứ hai, cái sơ hở đáng trách của Nhóm “Thư Ngỏ” là quá tự tin, tự hào, khi tự quyết đóng khung trong vị trí độc đạo, độc diễn — “Chúng tôi, một số trí thức sinh sống tại nước ngoài” — đến nỗi mang tiếng bè nhóm quyền lực trí não siêu đẳng [“đại-trí-thức”], tự coi vượt chúng, độc nhất có ý kiến xây dựng,[5] có ưu thế dấn thân yêu nước hơn đám dân đen trong nước, hơn đám tỵ nạn cộng sản, cưỡng đày nơi hải ngoại. [6]

Nhóm “Thư Ngỏ” đã quên rằng hay không muốn thấy, ngoài con đường thảo công-văn-thơ-ngỏ, còn có rất nhiều cách xuống đường [“tới La-mã”] tới Sài-gòn, tới Hà-nội, với đầy đủ tư cách và thực tâm yêu nước, thương nòi, khi dõng dạc, kiên trì lên tiếng và hành động quy mô nhằm loại bỏ một chính thể bất nhân, phản nước, hại dân như ngụy quyền CSVN còn sót lại.


KHẢ NĂNG, TƯ CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC

Trước tiên, chúng ta hay định nghĩa rõ ràng thế nào là “trí thức”. Căn cứ vào các từ điển cổ và thông dụng ngày nay, từ kép “trí thức” bao gồm một số ý nghĩa chính đáng:


[a] tư cách, sinh hoạt liên hệ tới giới chuyên làm việc “lao động trí óc”, có “tri thức chuyên môn” cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp giao phó;
[b] trí thức cần có “tri thức”, khả năng hiểu biết nhờ học tập hoặc kinh nghiệm, có hệ thống về sự việc, hiện tượng tự nhiên hay xã hội;
[c] tầng lớp trí thức, có giáo dục khoa bảng.

Căn cứ vào cách định nghĩa theo khoản [a] và [b], người trí thức chỉ là các nhân vật xã hội lạm lụng bằng trí óc và có khả năng hiểu biết chuyên môn. Vậy họ là giới nhân viên văn phòng [white collar] song song với giới thợ thuyền làm việc tại cơ xưởng [blue collar]. Cao hơn, họ trở thành quản trị viên, giám đốc, giám thị, chuyên viên, cán sự, kỹ sư v.v. Tóm tắt, người trí thức căn bản là những người có khả năng làm việc bằng đầu óc, trí não [profession intellectuelle].

Nếu chỉ căn cứ vào khoản [b], trí thức cần có “tri thưc” [connaissance] do học vấn và kinh nghiệm tạo thành. Vậy người trí thức trước tiên phải là người hiểu biết rộng rãi, không ngu ngơ, biết tôn trọng sự thật và lẽ phải.


Riêng khoản [c] định nghĩa người “trí thức” thuộc giai cấp hay thành phần xã hội có giáo dục khoa bảng [classe intellectuelle]. Thành phần này vừa có khả năng, vừa có trách nhiệm xã hội và chuyên khoa. Họ thường là những nhà văn, tác giả, giáo chức, luật gia, bác sĩ, chuyên viên khoa học, quản trị viên. Ứng dụng khả năng với trách nhiệm, người trí thức phải có tài đức về mặt xã hội và chức nghiệp [professional ethics/social responsibilities]. Không thể chấp nhận loại trí thức, chuyên gia vô trách nhiệm, thiếu đức độ chức nghiệp. Loại trí thức-phản-trí thức này sẽ bị xã hội chê trách, ruồng bỏ, trừng phạp [đã xẩy ra nhiều vụ mất tư cách và đạo đức chuyên nghiệp, điển hình trong giới giáo chức, bác sĩ, luật sư, quản trị viên, v.v.].


Như vậy, hiện tượng “trí thức” không có gì xa lạ, biệt đãi, đáng tránh né. Họ là chúng ta, người hàng xóm, anh chị em, con cháu, họ hàng chúng ta.

Họ trước sau chỉ là những con người đáng trọng, đáng khen nếu thực sự có khả năng, có tư cách, có tài đức, có trách nhiệm. Họ là những nhân lực luôn luộn phải tự tạo, tự xét, biết tự trọng. Nếu khiếm khuyết những điều kiện cần và đủ trên, tốt hơn hết họ nên khước từ tư cách và vai trò của người trí thức trong xã hội cẩn mẫn, nhân bản.


Tối thiểu, người trí thức không thể sát nhập với lũ văn nô, nhân sĩ giả mạo, xuất thân từ những lò in bằng giả, bằng dởm, bằng đại học rừng rú, phế thải, mua bán như “đồ mã” nơi vỉa hè, xó xỉnh, hoặc thứ giấy bản loè loẹt bịt mắt thế gian.

Trong tương lai, một nhà nước chân chính tại Việt Nam phải có thái độ gương mẫu và những biện pháp hữu hiệu gạt bỏ tất cả những mảnh bằng giả mạo, lừa lọc đó, để trả lại chính danh chính nghĩa cho những vị thầy khả kính, những học trò có kiến thức, thực tài, xuất thân từ những giảng đường uy tín, được chứng nhận theo mẫu mực quốc gia, quốc tế [accredited colleges & universities].[7]


Do đó, chúng ta nên dung hoà quan niệm “trí thức” trên căn bản “tri thức”, tài đức và trách nhiệm chức nghiệp. Như vậy, hiện tượng “trí thức” sẽ trong sáng hơn, cần thiết hớn, chính đáng hơn, sau khi đã gạt bỏ mọi mặc cảm tự tôn và tự ti, mọi thù hằn ngăn cách “giai cấp xã hội”; gạt bỏ mọi đặc ân, đặc định giả tạo, tiếm quyền lố bịch; gạt bỏ hay giải toả mọi hình thức ảo tưởng, mọi tung hô ma mãnh, bịp bợm.

TẠM KẾT ĐỐI DIỆN “THƯ NGỎ”
Trong giai đoạn cứu nước và bảo tồn dân tộc Việt Nam, người trí thức đúng nghĩa phải là hình ảnh chân thực và toàn diện của mọi công dân ý thức khả năng và trách nhiệm xây dựng một nếp sống mới, có tự do, có dân chủ, có phát triển nhân bản, trong thế hoà đồng, kết sinh, tiến bộ.
Người trí thức là người cầm đuốc soi sáng, không những cho chính mình mà còn cho tha nhân. Họ là nhũng mẫu mực tài đức sẵn sàng “kết-sinh-chuyển-lực” tới đại chúng, khi toàn thể người dân cần minh mẫn, đòi hỏi sinh tồn, tự do và quyền dân tự quyết.

Do đó, người trí thức chân chính cần tạo dựng cho mình và tha nhân một môi trường sinh sống cẩn mẫn, trung thực, rộng lượng, cho phép con người suy đoán, chọn lựa cái hay, cái tốt; đồng thời tôn trọng khả năng suy nghĩ và hành động khả chấp, tương xứng, thức thời của người khác.
Riêng đối với “36 vị trí thức đồng ký tên thư ngỏ”, người viết với tư cách đồng môn, đồng nghiệp, đồng thuyền, đồng cảnh - người trong cuộc – xin ân cần và trân trọng tiếp lời:

Nếu Quý Vị thực sự yêu nước trọng dân, thực sự nhận trách nhiệm cao cả, đáng trọng của người trí thức, của người Việt tử tế, hiểu biết rộng, tự trọng và tôn trọng sự thật về hiện tình đất nước, về nguyện vọng và sứ mạng chung của 90 triệu người dân trong nước,[8] của 3 triệu người dân tại hải ngoại, thì Quý Vị ắt phải thấy rõ CSVN là nguồn gốc và động lực của mọi tai ương hủy hoại tổ quốc, đầy đọa nhân dân.

CSVN chuyển từ một thực trạng tiếm quyền tới một tổ chức quốc tế khủng bố nhân loại, cướp của, giết người, nay vỏn vẹn là một băng đảng mafia đợi ngày phá sản tập thể.


Nếu so sánh về mắt khoa học đối chiếu, chắc Quý Vị cũng phải thẩm định rằng hiện tượng cộng sản tại Trung Hoa và Việt Nam là những biến chứng của một căn bệnh nan giải, một thứ ung thư đã di căn, vô phương cứu chữa, vừa ngụy xã hội, vừa ngụy ý thức hệ, vừa vô nhân đạo đến nỗi cả Karl Marx đã phải lên tiếng chối từ: “… Je ne suis pas Marxiste”, [9] để đổi lấy mạng sống.


Vậy nếu Quý Vị thực sự không muốn “tái nhập” căn bệnh CS, ít nhất Quý Vị đừng nên công nhận [9B], vun xới, góp sức kéo dài căn bệnh hiểm nghèo đó. Nếu Quý Vị không nỡ ra tay cắt bỏ những bọc lở loét thân thể Việt Nam, ít ra Quý Vị không nên để người khác lo ngại, có cảm tưởng Quý Vị coi thường những cố gắng trị bệnh, ngăn bệnh của đa số người Việt tỵ nạn cộng sản.


Và nhất là — tối thiểu — Quý Vị cũng không nên chỉ trích những nạn nhân lịch sử, từng bị CS hành hạ, bỏ tù, hủy hại thân xác, khủng bố tinh thân, bôi nhọ danh dự, tước đoạt tài sản và mạng sống nhân bản… là “những phần tử chống cộng cực đoan…hạ cấp” [10], là những kẻ “ngoại đạo”, sai đường, lạc lối.


Nếu có dịp thảo lại “Thư Ngỏ”, mong Quý Vị điền thêm vài chữ biểu hiện mức độ “danh chính ngôn thuận” như sau: “Thư Ngỏ Cảnh Cáo Các Nhà Lãnh Đạo Việt Nam”.
Còn phần trân trọng, thiết tha, xin Quý Vị dành lại cho toàn dân. Họ mới là đối tượng thực sự của các “Thư Ngỏ, Kiến Nghị, Tuyên Cáo”. Họ mới là thành tố quyết định mọi cải tổ tốt đẹp, vững bền cho đất nước, cho chính họ.[11]


Xin Quý Vị bảo trọng thanh danh chân chính của giới trí thức Việt Nam bằng cách nuôi dưỡng chí khí phục thiện, thuần khiết, hoặc ít ra cũng có thiện tâm, thiện cảm tôn trọng những người Việt Nam tử tế, có liêm sỉ và nghị lực thực hiện nốt sứ mạng giải thể cộng sản, cứu nước, trọng dân.
Chúng ta hãy cùng nhau thực hiện chí khí đanh thép bất diệt của Nguyễn Trãi, đúc kết trong áng văn bất hủ Bình Ngô Đại cáo – “Đem Đại Nghĩa Để Thắng Hung Tàn. Lấy Chí Nhân Để Thay Cường Bạo.” [12]
Trân trọng,

TS.LS. Lưu Nguyễn Đạt

No comments: