Friday, October 21, 2011

KIỀU PHONG * CHÂN DUNG BÁC HỒ



Phần 3


Giã từ ông Bốn và nghề bồi tầu, bác Hồ đi Anh, nói là để học tiếng Anh. Người kể chuyện về cuộc đời bác khúc này là ông Nam. Ở Anh, việc đầu tiên của bác là đi cào tuyết cho trường học. Làm đúng được một ngày thì mệt bá thở, phải quịt. Sau đó, xin được một chân đốt lò. Nhưng nghề này cũng không khá. Bác than:

“Ở đây thật đáng sợ, luôn luôn ở trong cảnh tranh tối tranh sáng... Trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét, và không có đủ quần áo, tôi bị cảm...” (trang 25)

Vì bị cảm, bác nằm phè luôn hai tuần. Lúc ăn gần cạn láng, bác xin được một chân rửa bát kiêm đổ rác. Ông Nam kể rằng trong lúc hành nghề đổ rác, bác biểu diễn được một trò ngoạn mục: Thấy những phần ăn thừa bị vứt đi phí quá bác "giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp". Người đầu bếp Ét-cốp-phi-e bèn cảm khái và cho bác lên chức làm bánh. Công việc nhẹ nhàng hơn rửa bát mà lương cao hơn.



Đi Xem Chiến Tranh

“Ông Nam kể tiếp: Thế giới đại chiến bùng nổ... Anh ba đến nói với tôi: 'Xin từ biệt anh Nam.'
- Anh đi đâu?
- Tôi đi Pháp.
- Không nói chơi chứ? Nước Pháp đang có chiến tranh. Anh đến Pháp làm gì?
- Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh.
Anh Ba bắt tay tôi, chúng tôi hôn nhau. Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không hành lý”. (trang 27).

Bác Hồ đòi "đi xem chiến tranh!"

Các cụ ta dạy rằng: "Ăn tìm đến, đánh nhau tìm đi". Dân tộc các nước khác dù không từng nghe kinh nghiệm khôn ngoan của các cụ ta, cũng chỉ xem chiến tranh trên màn ảnh, trong rạp hát, trong sách vở... Lạng quạng vào vùng chinh chiến để chết mất xác à? Bác Hồ từ đầu sách tới giờ vẫn đưa ra những lý do khôn ngoan để giải thích cho việc xuất ngoại của mình: đi Phi châu để xem các nước, đi Pháp để học hỏi, đi Anh để học tiếng Anh, v.v... Bây giờ, bác hùng dũng tuyên bố: đi Pháp để xem chiến tranh! Chắc bác cũng không tối tăm đến thế, đây chỉ là một quả phét lác để loè ông Nam đấy thôi. Ông Nam mô tả cuộc ra đi của bác Hồ với vẻ khâm phục: “Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không hành lý”. Mẹ kiếp! Đi xem chiến tranh dĩ nhiên phải đi chân tay không chứ bê theo hành lý, va ly cồng kềnh thì... chạy lẹ thế nào được!

Đến Đây Là Hết

Viết đến khúc này tiểu thuyết gia Hồ Chí Minh bút hiệu Trần Dân Tiên lại đột nhiên lên cơn sảng. Không biết bom đạn ở Pháp có làm kẻ "đi xem" là anh Ba mát dây chăng? Sau khi lảm nhảm ít dòng mô tả tình trạng chiến tranh, nhắc lại nội dung lá thư của anh Ba khoe rằng đã được gặp nhà ái quốc Phan Chu Trinh v.v... chú Trần Dân Tiên viết:

“Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết, và cũng từ đó bắt đầu khó khăn cho chúng tôi. Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không biết sau này anh Ba làm gì.” (trang 28).

Thế là hết chuyện, thế là cuốn sách ngưng lại ở giữa trang 28 chăng? Cuộc phỏng vấn hết. Hết người để hỏi. Không biết gì thêm về anh Ba. Cuốn sách được thực hiện dựa trên lời kể đi đến chỗ hoàn toàn bế tắc. Chú Trần Dân Tiên tịt ngóp, buông bút và độc giả có thể buông cuốn sách rồi chăng? Chưa đâu, 28 trang văn chương ca tụng đâu có làm bác thoả mãn được.

Thế nên ngay sau khi kêu mình lâm vào chỗ bế tắc, bác lại viết tiếp, tỉnh bơ. Ðây là một vài đoạn văn xuất hiện ngay sau khi chú Trần Dân Tiên bế tắc:

“Đức bị đánh bại. Chiến tranh chấm dứt. Vua Đức trốn sang Na uy, và ở đây vua làm nghề xẻ gỗ. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích và Lê Nin đã lãnh đạo công nông Nga nổi dậy. Cách mạng tháng Mười thành công. Những đoàn đại biểu các nước thắng trận và các nước bại trận đến Véc-xây họp Hội nghị hoà bình. Bên cạnh những đoàn đại biểu chính thức, có nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị áp bức. Họ tới là vì nghe có 14 điểm của tổng thống Mỹ Uynsơn (Wilson). Có cả người Ái nhĩ lan, người Ấn độ, người Triều tiên, người Ả Rập v.v... Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó người ta thấy có ông Nguyẽn Ái Quốc (tức là anh Ba).

Ông Nguyễn liên lạc với các đoàn đại biểu Triều tiên, Ái nhĩ lan và các đoàn đại biểu khác. Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt nam yêu nước ở Pa-ri và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã những yêu cầu ra trước hội nghị Véc xây. Yêu cầu gồm có 8 khoản. Những khoản chính là:

- Việt nam tự trị
- Tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do đi lại, đại xá tù chính tri..
- Quyền lợi bình đẳng giữa người Pháp và người Việt Nam.
- Bãi bỏ việc bắt ép dân mua rượu và thuốc phiện, bãi bỏ thuế đinh (người), thuế muối và sưu dịch.

Những yêu cầu ấy gửi đến cho các đoàn đại biểu đồng minh và tất cả nghị viên của Quốc hội Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan chu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là ‘trẻ con’ ” (trang 29).

“... Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác không có kết quả gì hết.” (trang 30).

Cả đoạn văn hoàn toàn là lời tự thuật của bác. Bác làm gì, nghĩ gì, bác cứ vanh vách kể ra. Học khôn được gì trong lúc ấy, bác cũng khai luôn (“Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng...”). Cái trò viết tiểu sử dựa trên các cuộc phỏng vấn, dựa trên lời kể của các ông Bốn, ông Dân, ông Nam v.v... đến đây bị dẹp đi cái rụp. Cả đến những lời huyênh hoang tự nâng bi: Bác bận không viết tiểu sử, bác khiêm tốn không muốn ai viết tiểu sử... ở đầu sách, lúc này cũng bị bác quên tiệt. Tưởng như, đêm hôm trước, bác đeo mặt nạ Trần Dân Tiên ngồi viết thật khuya, mệt quá, trí tưởng tượng cạn, phịa ra đến ông Nam là hết vốn sáng tác, Trần Dân Tiên phóng đại xuống giấy mấy dòng: “Cuộc phỏng vấn đến đây là hết” rồi buông bút lăn quay ra ngủ. Hôm sau, bác bừng mắt dậy, hốt hoảng nhảy lên bàn viết tiếp sự nghiệp nâng bi, bác quên mất tiêu chú Trần dân Tiên, cũng chẳng nhớ chú ấy đã bày ra trò gì, viết cái gì. Bác phom phom kể tiếp thành tích, bất cần lời rên xiết của chú Tiên: “Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không ai biết sau này anh Ba làm gì?”

Bảo rằng vì quên mà bác hành động kỳ quái như thế thì cũng không đúng. Chữ nghĩa bác viết ra còn lù lù trên giấy, văn chương bác lại được in tới in lui. "Văn mình" đã là một món hấp dẫn, hay ho. "Văn mình" tự ca tụng thì còn hay biết mấy, chắc bác phải đọc lại cả ngàn lần, đọc thủng giấy luôn, quên sao được.

Không kém trí nhớ, không đần độn, mà nhất định không thấy một đoạn sách lố bịch như thế... chắc chắn bác Hồ kính yêu của chúng nó khi đọc đến đoạn ấy lại lên cơn mê. Văn tự nâng bi của bác đã tác dụng vào tâm trí bác như ma túy làm đê mê, đờ đẫn như những anh ghiền. Cũng trong đoạn văn lạc bầy vô duyên này, bác Hồ tặng cho độc giả nhiều chi tiết hay ho. Xin quí vị độc giả coi lại đoạn văn được trích dẫn ở trên nói về bản yêu cầu tám khoản của bác và lời chê của quí ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Hai vị chê nhóm của bác Hồ là... trẻ con.

Bị chê bác có vẻ hậm hực lắm, bác nhắc lại vụ này bằng giọng cay cú ra mặt. Nhưng lại chính bác là người chứng minh lời chê của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường là đúng. Bởi vì sau đó: “Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như của các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác không có kết quả gì hết” và “Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.”

Tám Khoản Yêu Cầu

Lại xem tám khoản yêu cầu nhóm của bác đưa ra trước hội nghị Véc-xây thì thấy "nhóm thanh niên" không những trẻ con mà còn khờ khạo tức cười. Bản yêu cầu gồm 8 khoản thì đã có tới 7 khoản dư thừa. Đòi "Việt Nam được tự trị" là đủ rồi, còn đòi thêm: bãi bỏ việc ép dân mua rượu, bãi bỏ thuế muối, đòi tự do hội họp, tự do tín ngưỡng v.v... chi nữa. Làm thế có khác gì một anh viết giấy đòi nhà, đòi lại quyền làm chủ căn nhà, xong rồi lại thêm những khoản: tôi phải được tự do nấu nướng trong bếp căn nhà đó, tôi phải được tự do sử dụng cầu tiêu căn nhà đó v.v... Việt nam được tự trị rồi, mình được làm chủ mình, được tổ chức đất nước mình rồi thì Pháp nó đứng ở đâu để bãi bỏ dùm mình việc ép dân mua rượu và thuốc phiện? Ngố can không nổi!

Tự nhiên nhảy chồm vào khơi khơi viết một đoạn (từ trong 28 đến giữa trang 31) rồi thình lình, không báo hiệu trước, không giải thích, bác rút lui tỉnh bơ, trao lại công tác cho chú Trần Dân Tiên. Sau ba cái hoa thị ngăn cách "cụm" văn chương lạc loài của bác, chú Trần Dân Tiên viết tiếp:

“Một người quen ông Nguyễn ở Pa-ri đã cho chúng tôi nhiều tài liệu rất quí báu.” (trang 31)

Đến phiên chú Trần Dân Tiên lên cơn mê sảng. Tất nhiên, trong tình trạng "tuy hai mà một" chú Tiên, bác Hồ làm gì cũng có đôi, có cặp, bác đã sảng thì chú phải mê. Nhưng cơn mê này kéo hơi dài. Mới câu trước chú Tiên khẳng định: “Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết. Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. KHÔNG AI BIẾT sau này anh Ba làm gì.” Ngay câu sau bác đã viết tỉnh bơ: “Một người quen ông Nguyễn... cho chúng tôi nhiều tài liệu quí báu”.

Hai câu văn lăng mạ ông thân sinh của nhau thậm tệ như thế chắc chắn đội ngũ văn nô Hà nội phải thấy. Nhưng không anh nào dám hó hé phê bình, dám đề nghị cắt bỏ. Bác Hồ thì mê sảng mà các cháu thì rét!

Càng Lớn Càng Dốt

Người quen ông Nguyễn ở Pa-ri quả thực đã cho chú Trần Dân Tiên và độc giả nhiều tài liệu rất quí báu. Ông ta tiết lộ về khả năng, kiến thức thực sự của bác Hồ lúc đó. Trần Dân Tiên viết:

“Ông này nói với chúng tôi như sau:
‘Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả cho Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó RẤT ÍT HIỂU VỀ CHÍNH TRỊ, KHÔNG BIẾT THẾ NÀO LÀ CÔNG HỘI, thế nào là BÃI CÔNG và thế nào là CHÍNH ĐẢNG.‘ ” (trang 31)

Lúc đó, "ông Nguyễn" đã hết tuổi vị thành niên, đã đến Pháp, đã đi qua các xứ Phi châu, đã đến nước Anh v.v... nghĩa là đã học hỏi được nhhiều rồi thế mà vẫn mù tịt, không viết thế nào là bãi công, là công đoàn, là chính đảng, vẫn "rất ít hiểu về chính trị". Hẳn quí vị độc giả còn nhớ. Ở những trang đầu sách, lúc Nguyễn tất Thành mới là một cậu bé 15 tuổi, chưa ra khỏi nước, thì lại được Trần Dân Tiên tâng bốc là một cậu bé sáng suốt về chính trị, cậu chê bai khắp lượt các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... rồi chê cụ Hoàng Hoa Thám là phong kiến. Lúc nhỏ sáng suốt thế, đến tuổi trưởng thành, bôn ba hải ngoại, học hỏi trau giồi kiến thức hàng ngày lại hoá ra "rất ít hiểu về chính trị" nghĩa là càng lớn càng ngu dốt đi.

Phải chăng vì bác Hồ tự thương mình quá, tự phục mình quá nên hay sốt ruột, bốc nhằng. Vừa thấy cậu bé Nguyễn Tất Thành ra tuồng là bác phải ca tụng ngay, cầm lòng không đậu, chờ không nổi. Thế nên chính những lời ca tụng vội vàng của bác làm cho bác hoá ra kẻ tiến bộ giật lùi. Lúc nhỏ khôn, lúc lớn dại. Mười lằm tuổi thì sáng mà lúc hai mươi đầu óc lại tối hù? Đọc đi đọc lại đoạn văn này, Kiều Phong đâm ra hồ nghi: Phải chăng kỹ thuật tự nâng bi của bác có chỗ trục trặc đã tạo ra tình cảnh nghịch thường, hay sự thật đúng như thế? Sự thật đúng là bác Hồ càng lớn càng tối tăm đi. Bởi vì cứ nhìn vào phần đất nước Việt nam được bác hướng dẫn thì cũng thấy một tình trạng giật lùi tương tự. Dưới sự lãnh đạo anh minh của Bác, cả miền Bắc hùng hục chạy ngược chiều tiến của nhân loại. Bác Hồ càng lớn càng tối tăm, ác độc. Nhân dân được bác lãnh đạo càng lúc càng đổ dốc ào ào "từ người xuống vượn" mất có mấy năm! (thơ Nguyễn Chí Thiện).

Đỡ Đầu Văn Học

Từ trang 31, bác Hồ viết về thời kỳ bác học làm báo, viết văn.
Cũng chính trong thời kỳ này, con cáo già Cộng sản đã nhìn thấy ở Nguyễn Tất Thành một đệ tử sáng giá, một tên tay sai đắc lực. Nó ra tay ve vuốt, nuôi nấng, dạy dỗ cậu:

“Trong tất cả những tờ báo Pháp, chỉ có tờ "Dân chúng", cơ quan của Đảng Xã hội Pháp là đã in những lời yêu cầu của Việt nam. Ông Nguyễn đến toà báo. Chủ nhiệm báo, ông Sạc-Lông-ghê (Charles Longuer), cháu ngoại Các Mác và nghị viên của Quốc hội Pháp, đã tiếp ông. Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta được ai đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn là đồng chí thân ái. Ông nói cho ông Nguyễn rõ tất cả cảm tình của ông đối với nhân dân Việt nam. Ông khuyến khích ông Nguyễn viết bài và ông sẽ đăng lên tờ báo "Dân chúng" để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt nam. Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn. Nó cũng làm cho ông Nguyễn hiểu rõ nhân dân Pháp.

Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo. Nhược điểm về trí thức làm cho ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.

Thường lui tới toà báo "Dân chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình còn kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại; có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài: năm, sáu dòng cũng được.

Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt nam ông Nguyễn không thiếu, ông thiếu nhất là văn Pháp ...” (trang 31-32)

Đoạn văn này cho độc giả thấy hai điều:

1- Những người như ông Phan Văn Trường đối xử với cậu Nguyễn Tất Thành rất tử tế, bao dung. Tuy chê nhóm của Hồ là "trẻ con", không tán thành đường lối hoạt động của Hồ, nhưng thấy Hồ dốt Pháp văn, viết không được, ông Phan Văn Trường vẫn ra tay viết giúp, rồi cho Hồ ký tên. Trong tập hồi ký này Hồ kêu ca rằng: "Ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói". Nghĩa là Hồ muốn nói nhiều, có "ý kiến" này nọ ghê lắm nhưng ông Trường cứ dẹp đi, cất bớt đi. Nghe Hồ rên xiết, ta có cảm tưởng là ông Trường đã ếm tài của mầm non chính trị Nguyễn Tất Thành, đã cắt bỏ của cậu những ý kiến, lời lẽ hay ho, xuất xắc lắm.

Nhưng ông Trường đã chịu khó viết bài dùm cậu, cho cậu ký tên, để thổi cậu lên, tất nhiên ông cũng mong cậu có những ý kiến hay ho để ông đỡ vất vả. Còn ém tài cậu làm gì. Vậy tại sao ông cứ không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói"? Ta đã có câu trả lời nằm trong đoạn trước "ông Nguyễn" đã trổ tài nói ở hội nghị Véc-xây. Ông đòi hỏi rằng nước Pháp phải để "Việt Nam tự trị". Và đó mới là một khoản. Sau khi Việt Nam tự trị rồi ông còn đòi thêm tới bẩy khoản nữa: Pháp không được ép dân Việt mua rượu và thuốc phiện, phải bỏ thuế dinh, thuế muối và sưu dịch v.v.. "Ông Nguyễn" nói như thế thì chắc đoàn đại biểu đồng minh ở hội nghị đã được một phen cười vỡ bụng. Ông Phan Văn Trường chắc phải dẹp bớt những lời lẽ lèm bèm của "ông Nguyễn" đi vì đâu có chủ đích giúp "ông Nguyễn" viết văn khôi hài.

2- Bác Hồ lúc về già thèm khát lời xưng tụng mà lúc trẻ thì cứ chết lịm người đi vì những câu vuốt ve. Cả hai nỗi thèm khát này đều làm cho bác u mê, đờ đẫn. Khi được cháu ngoại Các Mác xoa đầu, bác hả hê ghi lại: “Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta được đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn là "đồng chí thân ái" ” và bác reo lên: “Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn.”

Lúc mới tới Pháp, đi uống cà phê, lần đầu tiên được một anh bồi gọi là ông, bác đã sướng mê tơi và vội vã kết luận: “Người Pháp ở Pháp rất tốt”. Bây giờ được một anh Cộng sản gộc gọi là "đồng chí thân ái" thì tất nhiên "ông Nguyễn" phải thấy ngay: Cộng sản là một chế độ dễ thương nhất thế giới. Nhờ anh chủ bút một tờ báo Cộng sản hướng dẫn, bác Hồ dần dần viết được những mẩu tin ngắn. Ðây là đoạn mô tả thời kỳ bác học làm báo:

“... Khi thấy viết đã bớt sai lầm ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tí, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. Dần dần ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ, người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo: "Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn." ”

“Ông Nguyễn thấy rằng phải rút ngắn cũng khó như trước kia phải kéo dài. Nhưng cũng hết sức cố gắng. Và ông thành công. Ông bắt đầu vào làng báo từ đó.” (trang 32-33).

Tài nghệ mới viết được một cột báo đã bị chủ bút bảo phải viết... ngắn lại. Thế mà mầm non báo chí Nguyễn Ái Quốc đã khoe ngắng lên là mình "vào làng báo" rồi! Nếu ở miền Nam trước năm 1975, với văn tài "bảy tám dòng" như thế, ký giả Nguyễn Ái Quốc may phước lắm thì xin được làm đàn em của ông Văn Đô chuyên trị đi nhặt tin xe cán chó.

Những bài học về báo chí của bác cũng chẳng giống ai. Trong khi một ký giả phải học cách săn tin, viết tin, điều tra, phỏng vấn v.v... thì bài học mà anh chủ bút cộng sản dạy bác quanh đi quẩn lại vẫn là: "Viết năm, sáu dòng". "Bây giờ, phải viết dài một tí độ bảy tám dòng". "Bây giờ, phải viết ngắn lại". Khi viết hồi ký khoe mình "vào làng báo" tất nhiên bác phải trình làng tất cả những bài học hay ho sáng giá nhất, những câu đối thoại sâu sắc nhất giữ thày trò bác. Cái sâu sắc nhất ấy chỉ là chuyện viết ngắn, viết dài! Nhưng báo chí không phải là nạn nhân duy nhất. Sau khi hành hạ làng báo, bác quay qua tra tấn, đấu tố làng văn.

Trần Dân Tiên kể tiếp:

“Về văn học, ông Nguyễn thích đọc Sếch-Pia (Shakespeare) và Đích-ken (Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy-gô (Hugo), Dô-la (Zola) bằng tiếng Pháp. A-na-ton Phơ-răng-sơ (Anatole France) và Lê-Ông Tôn-stoi (Leon Tolstoi) có thể nói là những người đỡ đầu văn học cho ông Nguyễn.

Đọc những truyện ngắn của A-na-tôn Phơ-răng-Xơ và của Lê-ông Tôn-stôi, ông Nguyễn thấy hứng thú về văn chương giản đơn và tự nhủ: "Người ta chỉ cần viết điều gì người ta thấy và cảm, bằng cách nắm lấy màu sắc và hoạt động của sự vật, như thế thì viết cũng không khó lắm.” (trang 33).

Riêng lời tự nhủ của bác đã là một câu nhận định về văn chương lảm nhảm, lủng củng và có thể khiến các ông Antole France và Leon Tolstoi khóc thét. Viết điều gì "người ta thấy và cảm" thì được rồi, nhưng lại "bằng cách nắm lấy (?) màu sắc và hoạt động của sự vật" thì là nghĩa thế nào?

Lê-ông Tôn-stôi và A-na-tôn Phơ-rang-Xơ là 2 nhà văn xấu số nhất. Họ là thủ phạm gợi hứng cho bác Hồ lăn xả vào làng văn, gây cho bác cảm tưởng "viết cũng không khó lắm". Nhưng cái tội lớn nhất của họ là "đỡ đầu văn học" cho Hồ chí Minh. Đỡ đầu bằng cách nào. Đọc văn Hồ? Sửa văn Hồ? Khuyến khích Hồ viết? Giới thiệu tác phẩm của Hồ? Chỉ cho Hồ những sách cần đọc? Những chuyện cần học? Thư từ qua lại bàn chuyện văn chương với Hồ? Hướng dẫn Hồ vào làng văn?

May phước cho ông văn sĩ Nga và ông văn sĩ Pháp này: Cả hai đều không sống đồng thời với Hồ. Cả hai chỉ có một hành động liên hệ với Hồ duy nhất là họ viết sách để lại cho đời, và Hồ đọc được, hứng thú về "văn chương giản đơn" của họ, thế thôi. Cái việc Hồ mừng rỡ reo lên: hai ông ấy đỡ đầu văn học cho tôi, hoàn toàn ngoài dự tưởng của họ, ngoài trí tưởng tượng của người bình thường.

Đọc sách của người xưa, cảm hứng vì sách rồi cầm bút viết văn, làm thơ... chuyện ấy xảy tới cho nhiều người. Nhưng nhận vơ tác giả cuốn sách là người "đỡ đầu văn học" cho mình thì cổ kim, đông tây chỉ có mầm non văn nghệ Hồ chí Minh dám làm cái công việc nhận quơ, nhận quàng trơ trẽn đến thế. Trong tất cả những trường hợp "thấy kẻ sang bắt quàng làm họ" của dân Việt, cũng chưa từng có vụ nhận quàng nào khôi hài hơn. Theo gương bác, những anh văn công chuyên làm vè có thể hô hoán "Nguyễn Du đã đỡ đầu văn học cho tôi" bởi vì các anh ấy đã đọc và thích truyện Kiều. Các thi hào, thi bá Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị v.v... sẽ can tội "đỡ đầu văn học" cho một ông chuyên làm thơ quảng cáo thuốc ho bà lang trọc vì ông này cũng mê đọc Đường thi dữ lắm .

Bác Sáng Tạo

Dù sao, nếu Hồ trở thành một văn thi sĩ lỗi lạc thì vụ nhận vơ này cũng không làm đau lòng quí ông Anatole France và Leon Tolstoi. Ta hãy xem thành tích của mầm non văn nghệ Nguyễn Ái Quốc: Bác có viết một số truyện ngắn, được tờ "Nhân Đạo" đăng tải. Nhân đạo không phải là một tờ báo văn chương. Nó là tờ truyền đơn quảng cáo chế độ Cộng sản. Truyện ngắn được đăng trên "Nhân Đạo" không chứng tỏ văn tài, chỉ thể hiện khả năng làm đầy tớ Cộng sản. Về tác phẩm lớn của Hồ thì:

“Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án kết tội chế độ thực dân Pháp" quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở Thư viện Quốc gia” (trang 34)

Tài sáng tác của bác đã yếu kém mà đến khả năng viết sách kể tội thực dân của bác cũng không khá. Công tác cực nhọc nhất của mầm non văn nghệ Nguyễn Ái Quốc là chạy vào thư viện cóp nhặt những trang sách của các tác giả Pháp, gom lại, làm một cuốn sách của mình, mà lại là "QUYỂN SÁCH DUY NHẤT".

Ở đoạn trên, chú Trần Dân Tiên đương huyênh hoang rằng bác “không có một phút nào quên Tổ quốc mình bị giày xéo và đồng bào mình bị áp bức.” (trang 34). Nhưng tổ quốc bị giày xéo, đồng bào bị áp bức thế nào bác không viết (hay không viết nổi) thành sách. Việc ấy đâu có đòi hỏi ở bác một khả năng sáng tác, tưởng tượng. Chỉ cần ghi lại vụng về những chuyện đang xảy ra ở Việt Nam là bác có một cuốn sách dày. Nhưng người được Leon Tolstoi và Anatole France "đỡ đầu văn học" chỉ làm nổi một việc là đi chép những trang sách trong thư viện, sắp xếp lại rồi hùng dũng ký tên! Tội nghiệp hai ông Leon Tolstoi và Anatole France! Chỉ vì viết văn "giản đơn" được bác thích mà mang cái họ "đỡ đầu văn học" cho một cây bút quá tồi.

Về công trình sáng tác của bác, Trần Dân Tiên bốc:

“Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả một vở kịch Rồng Tre”. (trang 34)

Đáng lẽ chú Tiên phải viết: "Ông Nguyễn viết vở kịch Rồng Tre" hoặc "Ông Nguyễn viết một vở kịch nhan đề là Rồng Tre". Nhưng thôi, chuyện văn chương bác lủng củng thì nói sao cho hết. (Vả lại, trễ rồi. Nếu bác còn sống, "Nếu có bác trong ngày vui di tản" thì ta đã gửi bác đến Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng tu nghiệp là mọi chuyện em thắm ngay, khỏi mất công chê bai)

Xin quí vị độc giả chú ý đến chữ "cả" trong câu văn của Trần Dân Tiên. Chữ "cả" làm cho câu văn như reo lên một cách lãng xẹt. “...ông Nguyễn viết CẢ một vở kịch” . "CẢ" không hàm ý tất cả (có ai viết nửa vở kịch rồi ngưng đâu). Viết cả một vở kịch thì có gì là ghê gớm, phi thường? Trần Dân Tiên reo hò thán phục với ngụ ý rằng: ngoài cuốn sách cóp nhặt, bác còn viết được một vở kịch nữa đấy. Ôi chao! Chỉ cần giở bất cứ một đặc san, bích báo nào của trẻ em trung học miền Nam, chúng ta cũng gặp những siêu nhân ngang tài với bác "viết cả một vở kịch". Có em viết cả hai ba vở kịch lận. Vở kịch Rồng Tre hay ho cỡ nào? Trần Dân Tiên viết:

“Đại ý vở kịch như thế này: Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi. Là con rồng nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng. Tuy vậy chỉ là một quái vật vô dụng.” (trang 34)

Tre, trúc là giống mọc thẳng. Tây con có thể không biết, chứ người gốc Mít như bác Hồ phải biết. Một cây tre mọc cong queo là đã là hiếm, ở đây bác Hồ bảo: “Có những cây tre thân hình quằn quẹo” nghĩa là nhiều. Như lời Án Tữ xưa nói: "Cây quít mọc ở phía Nam sông Hoài thì ngọt, mọc ở phía Bắc sông Hoài thì chua, là vì thủy thổ khác nhau". Vậy nay, những cây tre mọc ở ngoài đời thì thẳng mà mọc trong lòng bác lại quằn quẹo chẳng là vì tâm địa bác cong queo khác thường chăng?

Tre cong queo đã hiếm, mà cong queo đến độ như con rắn, con rồng uốn khúc thì đúng là kim cổ kỳ quan. Trên thế gian những giống cây cong queo đâu có thiếu gì. Bác lại chọn đúng loài cây mọc thẳng nhất, bắt nó cong để viết kịch thì đúng là đã "vận dụng hết óc sáng tạo", hết tiệt luôn. Đấy là cái khoản chọn vật, bây giờ hãy xét cách chọn người của kịch tác gia Hồ. Người chơi đồ cổ là người chuyên sưu tầm và có thể buôn bán đồ cổ. Một cây tre cong queo đâu có phải là một món đồ cổ đáng để họ sưu tầm. Nhà chơi đồ cổ đi kiếm cây tre cong đã lạ, cái việc đẽo gọt nó thành con rồng càng lạ hơn. Việc chơi đồ cổ không cho họ có bàn tay tài hoa của một nhà điêu khắc. Viết như thế thì cũng không khác gì kể chuyện rằng ở bên đường có một khúc gỗ, có mấy anh chuyên gia thiến heo đem khúc gỗ về đẽo gọt nó thành một... cây đờn!

Muốn đẽo gọt cây tre cong queo thành con rồng, nhân vật kịch của bác phải là một nhà điêu khắc, hay hèn nhất thì cũng là một ông thợ mộc khéo tay. Nhưng kịch của bác nhất định bắt mấy tay chơi đồ cổ hì hục gọt cây tre thành con rồng, coi bộ họ cũng gian khổ ác liệt như nhân dân bị bác bắt biến sỏi đá thành... cơm vậy! Anh nào lọt vào tay bác cũng hốc hác!

Vở kịch được bác gán cho một ý nghĩa cao siêu: “Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng”. Mới nghe tưởng ghê, tưởng sáng kiến mới lạ. Nhưng ý kiến này, tiếc thay, bác Hồ lại thuổng của tiền nhân. Bài thơ "Tiến sĩ giấy" của cổ nhân thâm trầm, sâu sắc biết bao nhiêu. Cái anh chàng thuổng lại, đem về viết kịch, làm thành chuyện rồng, huyện rắn vừa ngô nghê vừa ngớ ngẩn chẳng ra làm sao cả.

Xưa nay, trong hồi ký, bút ký, những truyện tức cười, những hành động lố bịch, những sáng tác vụng dại, non kém được kể lại không phải là hiếm. Nhưng khi kể những chuyện ấy, tác giả chỉ cốt dựng lại một thuở xa xưa, một thời non trẻ lúc mà tác giả chưa trưởng thành, chưa làm ra cái gì nên hồn. Chỉ những thiên tài, thần đồng mới có những thành tích lớn lao đáng khoe khoang từ lúc còn rất trẻ. Ngoài ra người ta kể lại chuyện cũ để cười, để giễu cợt chút đỉnh... kiểu như một người nhắc lại cái bệnh tè dầm của mình thời bé dại, vậy thôi. Bác không phải là thiên tài, thần đồng. Nền văn chương, kịch cợm của bác dù được tới hai văn hào Nga và Pháp "đỡ đầu văn học" vẫn chỉ là một cuốn sách cóp nhặt, một vở kịch lèm bèm, dở ẹc. Thế mà bác long trọng ghi lại tất cả một cách nghiêm trang, như ghi lại một đoạn đời thành công lớn lao, với những thành tích to lớn!

Tình yêu quả thực đã làm người ta mù quáng. Bác si mê bác quá nên không bao giờ thấy nổi sự lố bịch của người yêu.

Nghề Nghiệp và Hoạt Động

Sau khi khoe bác viết kịch được các nhà phê bình văn nghệ khen hay, bác học tập nghề làm báo rất gian khổ và được vào làng báo Tây v.v... chú Trần Dân Tiên kể tiếp:

“Trong thời gian ở Paris, ông Nguyễn sống rất cực khổ...” (trang 34).

Ô hay! Đã vào làng báo Tây là ngon rồi, khỏe rồi sao còn "rất cực khổ". Tây vốn trọng nhà văn, nhà báo. Ông nhà văn, kịch tác gia kiêm ký giả Nguyễn Ái Quốc sao lại thảm vậy? Hãy nghe chú Trần Dân Tiên kể tiếp:

“Để kiếm tiền, ông Nguyễn làm nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. Chính cụ Phan Chu Trinh đã dạy cho ông Nguyễn nghề này”. (trang 34).

(Ở đây chúng ta lại có dịp thấy tấm lòng bao dung của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Gặp một kẻ lấc cấc, bắng nhắng như Hồ, ông vẫn không giận, không ghét, vẫn dạy nghề cho). Con người đói nhất của làng báo Tây, ngoài nghề rửa ảnh, còn có một cái "gióp" cao quí hơn:

“Ông làm cả nghề sơn vẽ đồ cổ. Ở Paris có nhiều nhà làm giả đồ cổ Trung quốc; họ làm đồ gỗ, bình phong và những vật khác bắt chước theo kiểu Trung quốc. Họ sơn bằng sơn Nhật và vẽ hoặc viết những chữ ngoằn ngoèo giả chữ Trung Quốc. Những bà quí tộc giả, những trọc phú rất ham những vậy ấy, không biết là đồ giả và mua rất đắt. Công việc sơn vẽ giả đồ cổ Trung quốc rất dễ cho ông Nguyễn, không may đấy chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng.” (trang 34-35)

Ối trời! Hóa ra bác Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng của chúng nó đi làm cái nghề chế tạo đồ cổ giả để lừa bịp mấy bà già!

Tưởng tượng ra cái mặt bác nghệt, cái lưỡi bác thè, cái tay bác cặm cụi viết những chữ "ngoằn ngoèo" giả làm chữ Trung Quốc, thấy "anh minh" không thể tả được, chỉ hơi kém lương thiện tí thôi. Đọc đến chỗ này, ta thấy một nghi vấn văn học đã được giải toả, đã có lời giải thích. Quí vị còn nhớ: khi viết vở kịch Rồng Tre, bác "sáng tạo" rằng: “Những người chơi đồ cổ đem khúc tre cong quẹo về đẽo gọt thành con rồng v.v..”. Thật ra có lẽ bác định viết: "những người LÀM ĐỒ CỔ đem khúc tre về đẽo gọt..."

Làm đồ cổ? Ở trên đời đâu có loại người tài ba đến thế. Món đồ được coi là cổ, phải có bàn tay của thời gian xiá vô. Kẻ làm cái đĩa thời Khang Hy cũng chỉ là một anh thợ đồ gốm chuyên làm đĩa làm chén. Trăm năm, ngàn năm sau, một món đồ tầm thường hóa ra đồ cổ. Đâu có ai làm ra một món gì rồi lập tức biến nó già đi vài trăm năm thành đồ cổ. Đồ cổ không ai làm được trừ phi nó là đồ... giả. Và đó là nghề của chàng.

Bác ngồi làm đồ cổ giả hung hãng quá nên nó nhập tâm, hóa ra nó méo mó nghề nghiệp, khi viết kịch cũng đưa đại cái nghề bất lương đó vô tác phẩm và khán giả mới có dịp thấy "người chơi đồ cổ" lại có khả năng đẽo rồng, gọt phượng! Ôi chao! Nếu trời không xui, đất không khiến cho bác tự khoe ra thì bố ai mà biết được bác lại có lúc chơi những trò gian vặt, bất hân, đi lừa lọc mấy bà già khờ khạo như thế! Cũng ở chỗ này, thêm một lần nữa ta biết Trần Dân Tiên chính là bác. Nếu đứa khác viết hồi ký giùm bác mà lại phang ra cái nghề lừa bịp bà già của bác thủa thiếu thời, khiến bác nom buồn cười quá như thế thì đội ngũ văn nô sẽ xúm lại khiền nó thấy mẹ. Bác có hai nghề độ thân. Cái nghề cụ Phan Chu Trinh dạy cho (rửa ảnh, phóng đại ảnh) thì oai hùng, lương thiện mà cái nghề bác tự kiếm lấy lại bất lương quá đi thôi.

Sao không noi gương những lão ông di tản rực rỡ tên vàng, thường cày hai “gióp” phom phom mà “gióp” nào cũng đàng hoàng cả. Lúc ấy còn trẻ túng đói, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc bấn quá phải sinh nhai bằng cái nghề lừa bịp. Thôi thì cũng thông cảm, bỏ qua. Nhưng khi viết hồi ký, bác đã già đầu rồi, đã biết suy nghĩ, đắn đo rồi, thế mà còn lên giọng tiếc hùi hụi: “KHÔNG MAY, đây chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng”

Bác không may một, thì nhân dân Việt Nam không may mười.

Giả thử rằng cái trò sơn đồ cổ bịp bà đầm già của bác lúc đó mà phồn thịnh, bác may mắn hơn, kiếm ăn khá hơn, bận rộn suốt bốn mùa thì có lẽ bác đã thành một tay sơn đồ cổ giả chuyên nghiệp và, với sự chịu khó, tài láu cá vặt, bác sẽ thành công. Nước Pháp có thêm một thằng bịp nhưng nước Việt thoát được một kẻ hại nước, tàn dân. Không may thật. Uổng thật. Kiều Phong cũng tiếc hùi hụi.

Phần 4

Đó là chuyện nghề ngỗng, bây giờ đến cái khoản ăn ngủ và hoạt động của bác.
Về khoản ăn, theo lời Trần Dân Tiên, bác thuộc loại dễ nuôi:

“Mỗi buổi mai, ông Nguyễn nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây đặt trên một ngọn đèn dầu. Với một con cá mắm hoặc một tí thịt. Ông ăn một nửa và để dành một nửa đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả ngày” (trang 35)

Về ở, bác lại vận dụng trí sáng tạo đưa ra một kiểu chống lạnh rất ly kỳ:

“Ông trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rất rẻ tiền ở xóm lao động. Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và một cái ghế. Chỉ thế thôi, không có gì khác. Về muà đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét.” (trang 36)

Nếu đây chỉ là lời bịa đặt thuần tuý, để tự đề cao, để cho đời thấy bác đã có thuở thiếu thời vô cùng rét mướt, vv... ta nên bỏ qua vì trí sáng tạo của bác chỉ có vậy. Nhưng nếu thật sự bác đã từng chống rét bằng cái kiểu gói viên gạch vào những tờ báo cũ thì lúc đó bác còn tối tăm lắm, không hơn gì cái thuở ăn xúp bằng nĩa.

Không ai gói giữ nhiệt độ bằng giấy báo cũ. Khách sạn bác trọ không có máy sưởi ở các phòng, mùa đông Paris sẽ lạnh tàn nhẫn vô nhân đạo. Lò bếp khách sạn đâu có ở cạnh phòng bác. Cục gạch lấy từ bếp ra, gói vào giấy báo thì chỉ một lúc sau, bác về tới phòng là nó lạnh như cục nước đá rồi. Để cục nước đá ấy xuống nệm mà nằm cho nó oặt xương sống ra à!

Yêu cầu các cháu văn nô của bác trong kỳ tái bản tới sửa lại khúc này là: bác bọc cục gạch nóng vào mớ giẻ rách. May ra đỡ lạnh hơn và nằm chắc chắn êm hơn, xương sống được an toàn.

Có Vẻ Dễ Yêu

Về sinh hoạt thường ngày của bác, chú Trần Dân Tiên kể:

“Thường thường, ông chỉ làm việc nửa ngày, làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến ông đi dự mít tinh ở Paris... Hầu hết trong những buổi mít tinh này, ông đều phát biểu ý kiến” (trang 36)

Vừa kể đến đó, bác cầm lòng không đậu, lại tự khen ngay một phát ra gì:

“Vì ông là người ngoại quốc độc nhất trong những nơi này và vì ông có vẻ dễ mến cho nên thính giả thích nghe ông. Ông Nguyễn khéo lái những vấn đề thảo luận sang vấn đề thuộc địa, đặt biệt là vấn đề Việt nam” (trang 36)

Mới có mấy dòng kể chuyện đi mít tinh bác đã nhồi nhét vô được ba bốn lời tung hô vạn tuế: nào là bác "khéo lái", bác được thính giả thích nghe, bác có vẻ dễ yêu mến. Nhưng ở đoạn này, bác muốn "nói có sách, mách có chứng" đàng hoàng, bác đưa ra ví dụ về chuyện "khéo lái" rồi chuyện "dễ yêu". Bác kể:

“Có một lần bác sĩ Cu-ê (Coué) nói về thuật thôi miên. Nhiều người phát biểu ý kiến, người đồng ý, người phản đối phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên. Đến lượt ông Nguyễn, ông kịch liệt phản đối thuật thôi miên. Lý do của ông: Thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột chúng tôi” (trang 36)

Ông Nguyễn phát biểu ý kiến kiểu đó thì thính giả thích nghe ông thật. Người ta vẫn khoái nghe lời nói giễu, khoái coi vẻ mặt ngô nghê, hành động lố bịch tức cười của những thằng hề.

Các cụ hãy tưởng tượng phong cảnh một phòng họp: Các chuyên gia đang hăng say thảo luận về thuật thôi miên, đề tài tranh cãi là có nên dùng thôi miên trong y khoa không. Đột nhiên có một anh Mít nhẩy lên diễn đàn, phản đối thuật thôi miên ầm ĩ, kêu la rằng chính thực dân đã... thôi miên dân tộc của anh ấy! Thực dân nào dùng thuật thôi miên? Chúng nó đem vũ khí tối tân, quân đội hùng hậu, sách lược thâm độc đến Việt nam để đàn áp bóc lột chứ thôi miên làm gì cho thêm rắc rối. Có bao giờ ta thấy một anh thực dân đứng đưa cái quả lắc trước mặt anh Mít ngơ nghệch và dụ khị "Ngủ đi! Ngủ đi! ..." để rồi sau đó mới bóc lột, đàn áp! Bác "khéo lái" thế thì khán giả đến cười lăn ra mà chết. Sự ngô nghê của bác có khả năng chọc cười, làm khán giả bị bất ngờ. Lời nói càng ngu, mặt mũi càng nghiêm chỉnh thì người ta càng buồn cười, càng thấy bác "có vẻ dễ yêu".

Khi kể chuyện lên diễn đàn chống thuật thôi miên, bác không nhắc đến phản ứng của khán giả. Nhưng ở một dịp phát biểu ý kiến khác, bác mô tả rõ hành động của mọi người sau khi nghe bác nói: Họ cười lăn ra! Bác kể:

“Một hôm, ông Nguyễn đứng lên phát biểu: "Các bạn thân mến! Các bạn đều là những người xã hội, rất tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải phóng giai cấp công nhân. Vậy như thế dù đệ nhị, đệ nhị rưỡi hay đệ tam quốc tế phải chăng cũng thế cả.

Những Quốc tế ấy đều không là cách mạng cả sao? Những Quốc tế ấy đều không đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc Quốc tế nọ, các bạn cũng phải đoàn kết, nhất trí. Tại sao tranh luận nhiều thế. Trong khi các bạn tranh luận ở đây thì đồng bào chúng tôi đang rên xiết ở Việt nam". Mọi người cười .” (trang 44)

Bác làm thiên hạ phá lên cười. Nhưng nghe bà con cười, bác lại hiểu rằng: "Mọi người cười, nhưng không là mỉa mai, mà là cười cảm tình với một đồng chí non, chưa hiểu được vấn đề". Có thể họ không cười mỉa mai thật. Nhưng cười cảm tình thì chưa chắc. Đó là những tiếng cười dành cho một anh lấc cấc, lố bịch, rất hề.

Từ trang 38 đến trang 46 bác Hồ kể lại những chuyện du lịch, thời gian làm tờ báo "NGƯỜI CÙNG KHỔ" và vụ gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Về tờ báo "NGƯỜI CÙNG KHỔ" thì “ông Nguyễn được mọi người cử ra để làm tờ báo chạy. Vì vậy ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc.”

Tờ báo do một ông tài nghệ mới mấp mé tới mức ký giả săn tin xe cán chó chủ trương kiêm nhiều chức vụ như thế nên “lúc đầu ông Nguyễn gửi bán tại những cửa hàng nhỏ. Nhưng bán không chạy lắm”. Nghĩa là không khá, báo ế. Ông Nguyễn giải thích cái sự báo ế này bằng lý do “vì ở Paris có vô số báo, người ta không thể đọc và mua tất cả.” (trang 41).

Bác nói phét, làm như người ta không mua báo bác là tại thị trường nhiều báo quá chứ không phải tại báo bác dở ẹc.

Về vụ vào Đảng Xã hội, bác than thở là người ta thảo luận nhiều quá và thú thực rằng bác chẳng hiểu mẹ gì:

“Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng không tưởng, khoa học, Xi mông, Phu-ri-ê, Mác (Saint Simon, Fourrier, Marx) chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề, phản luận đề... Ngoài những ý kiến trên, còn có những lời giải thích và những lời tranh luận khác. Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu” (trang 43).

Riêng vụ du lịch, bác có vẻ rành, nên bác ba hoa:

“Sau mỗi chuyến đi, ông Nguyễn kể cho chúng tôi nghe cảm tưởng của ông. Thường thường ông nói nửa đùa nửa thật. Trong những ngày nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thời giờ ở bải bể để nhìn người đàn bà đi tắm, mà nên du lịch, học hỏi được nhiều” (trang 38).

“Không phải chỉ vì thích đi du lịch mà ông nhịn ăn, nhịn tiêu. Ðiều đó cũng có, nhưng nhất là ông muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào” (trang 40)

Khoe là đi các nước để xem người ta tổ chức và cai trị như thế nào, nhưng những đoạn văn đưa ra nhận xét của bác về các quốc gia thì toàn là văn tả cảnh hoặc mô tả sinh hoạt một cách mơ hồ và lèm bèm kiểu như:

“Va-ti-căng có nhiều lâu đài vĩ đạị Nhà thờ thánh Pi-e (Pierre) là một kỳ công kiến trúc. Viện bảo tàng Va-ti-căng là một cuốn sách sống về lịch sử tôn giáọ. Ngoài những vật quí khác, người ta còn thấy cả những bánh xe thời Trung cổ. Khi nào nông dân không nộp thuế cho nhà chung, ngươì ta buộc chân tay người nông dân vào bánh xe vừa đánh, vừa quay” (trang 38)

“Phụ nữ Ý hát rất hay. Tiếng hát trong như tiếng chuông. Theo ông Nguyễn thì nước Thụy Sĩ xinh hơn hết. Bá linh so với Pa ri và La mã giống như một miếng bánh mì so với bánh ga tô. So sánh như vậy cũng không đúng lắm vì Bá linh cũng như tất cả nước Ðức đang khốn khổ vì nạn đói. Nạn lạm phát ghê gớm. Một chút gì cũng trả mấy ngàn Mác (đồng tiền Đức)” (trang 40).

Có thấy "cách tổ chức và cai trị" của nước nào đâu, chỉ nghe lời kể lảm nhảm, nhạt nhẽo của một nhà du lịch kiến thức nghèo nàn. Lời kể cũng đầu Ngô mình Sở, lộn xộn không đáng viết thành sách.

Sau những thảo luận kịch liệt "làm ông Nguyễn nhức đầu lên" vì khó hiểu, Đảng Xã hội Pháp chia ra làm hai: Phần lớn thành đảng Cộng Sản Pháp. Bác Hồ đi theo nhóm đa số và được đưa qua Nga học tập, bắt đầu dợt nghề làm tay sai cho điện Cẩm Linh.

Ra Đi Bí Mật

Sau đây là cảnh bác Hồ rời khỏi Paris, văn sĩ Trần Dân Tiên dàn văn, xếp ý, gò khúc này dữ lắm để cho cảnh biến mất của bác hết sức đột ngột, ly kỳ và cải lương ra rít. Cũng phải nói thêm: trong cảnh biệt ly ảo não này có mấy nhân vật như cô bé Alice và cậu bé Paul đột ngột xuất hiện đóng tuồng. Trước đó, không ai hề được nhắc tới. Bà B., Alice, Paul ra đời chỉ vì nhu cầu "lâm li" của đoạn văn mà thôi.

“Theo lệ thường, chiều thứ bẩy, những đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma rốc, An-giê-ri, Man-gát, vv .. vv đến toà báo Người Cùng Khổ để thảo luận về những bài viết cho số báo sau. Ngày hôm ấy họ thấy toà báo đóng cửa. Họ gõ cửa. Không thấy trả lời.

Người ta bắt đầu ngạc nhiên và bàn bạc.
- Có lẽ ông Nguyễn ốm chăng?
- Không, nếu ốm thì ông đã báo cho chúng ta biết.
- Hoặc bị bắt chăng?
- Không thể. Chúng nó không dám làm như thế ở Pa-ri.
- Có lẽ ông bận đi việc gì.
- Ông Nguyễn sẽ để lại cho chúng ta một chữ. Ông Nguyễn thường làm như thế.
- Như vậy chúng ta đợi một lát.
- Không cần. Chúng ta đến nhà ông B..., chúng ta sẽ trở lại sau.

Ông B... là một luật sư người Ăngri. Ông Nguyễn thường đến nhà ông. Bà vợ ông coi ông Nguyễn như anh em. Ông Nguyễn rất yêu hai đứa con ông, một cháu gái tám tuổi và một cháu trai bốn tuổi, và cũng được chúng rất mến.

Những người bạn gặp ông B... trong phòng khách cùng vợ và hai con. Hai vợ chồng có vẻ buồn. Hai đứa trẻ khóc.
- Gì thế? Những người bạn hỏi ông B.

Bà B... gạt nước mắt chỉ mảnh giấy gấp để trên bàn và nói:
- Các bạn đọc đi sẽ biết…

(Sau đây là đoạn chót lá thư của "ông Nguyễn")

"Tôi sẽ viết thư cho các bạn. Nhưng tôi không giám hứa với các bạn, vì không phải dễ viết thư khi người ta hoạt động bí mật. Dù tôi có viết thư cho các bạn hay không, các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng ta. Bây giờ một vài lời với cháu trai và cháu gái.

Các cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu, phải không các cháu? Chú sẽ nói với những người bạn nhỏ Việt Nam là các cháu rất ngoan. Chú sẽ thay mặt các cháu bắt tay các bạn nhỏ Việt nam. Có lẽ rất lâu, các cháu sẽ không thấy được chú Nguyễn, không được leo lên đùi, lên lưng chú như các cháu thường làm. Và cũng rất lâu chú sẽ không thấy cô A-lít-sơ (Alice) và cậu Pôn (Paul) của chú. Khi chú cháu mình gặp nhau, có lẽ chú đã già, các cháu lớn bằng ba và má. Ðiều đó không ngại gì. Chú sẽ luôn nhớ đến các cháu. Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé A-lít-sơ và cậu bé Pôn thân yêu của chú. Các cháu ngoan. Học thuộc bài. Vâng lời cha me. Ðừng đánh con chó nhỏ Ma-ri-uýt (Marius) của các cháu. Khi các cháu đã hơi lớn, các cháu sẽ đấu tranh cho tổ quốc của các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và những chú khác.
Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêu. Các cháu hôn mẹ hộ chú. Chú Nguyễn"

Bác sĩ R... ngừng đọc. Mọi người nhìn nhau không nói. Cậu bé Pôn phá tan cảnh im lặng hỏi mẹ:
- Chú Nguyễn đâu hở mẹ?
- Khi nào thì chú ấy trở lại hở mẹ? Cô bé A-lít-sơ hỏi theo.
- Chú ấy sẽ trở lại khi nào nước chú độc lập. Bà B... trả lời và ôm chặt lấy hai con.” (trang 47-50)

Các đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, Man-gát vv... cùng chung một lý tưởng, hoạt động "bí mật" cùng với bác, làm báo "Người Cùng Khổ" với bác. Tóm tắt, họ chia xẻ với bác những chuyện sinh tử lớn lao. Thế mà lúc bỏ Pháp qua Nga bác không báo trước cho anh nào một lời . Ðến nỗi cả lũ đồng chí phải lốc nhốc kéo nhau đến nhà ông bà B... Mà bác có ra đi bí mật hoàn toàn không? Ðâu có, bác gửi lại những dòng thư tâm tình tha thiết, cảm động mê tơi cho hai "đồng chí" Alice và Paul (một cháu tám tuổi và một cháu mới bốn tuổi). Với cậu bé bốn tuổi bác đem cả chuyện đấu tranh cho tổ quốc ra dặn dò, nhưng với các đồng chí lớn, bác hoàn toàn bí mật. Cho cả lũ tha hồ xớn xác tìm bác.

Ôi chao! Các đồng chí nước bạn Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-grê-ri, vv... cũng chả nên buồn vì lối cư xử ngớ ngẩn, nhảm nhí của bác. Chẳng qua là tại bác mê cải lương quá đỗi. Và trong cảnh ly biệt rất cải lương này, các đồng chí không có vai trò nào gây cảm động bằng hai đứa bé con. Thế nên các đồng chí mới bị bác tỉnh bơ dẹp qua một bên.

Nghệ Thuật Vẽ Rồng

Viết xong khúc này, chú Tiên, bác Hồ có vẻ đắc trí, hả hê lắm. Bác lại long trọng hạ hai câu:

“Thế là một lần nữa ông Nguyễn biệt tích. Một lần nữa chúng tôi mất khâu chuyền” (trang 51)

Bây giờ thì độc giả biết tỏng ra rồi. Lời đe doạ của bác hết thiêng. Dù bác biệt tích, dù chú la lối mất khâu chuyền thì rồi câu chuyện vẫn tiếp tục như thường. Nhưng tại sao ông Nguyễn lại hay "biệt tích" thế? Sẽ có độc giả đặt câu hỏi như vậy, và đó là mối lo của nhà cầm bút Trần dân Tiên. Cái trò bắt bác khi biến, khi hiện này là một nghệ thuật cao cường của chú. Nếu người đời không thấy được cái chỗ hay ho, tài tình ấy thì uổng lắm, thiệt thòi cho chú lắm. Thế là chú Tiên đành khơi khơi giảng huỵch toẹt cái hay trong nghệ thuật viết văn của mình ra:

“Một câu châm ngôn Trung quốc nói: ‘Một nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn, khi hiện giữa những đám mây’ ” (trang 51)

(Đáng lẽ chỗ này nên để cho lũ văn nô xúm lại bốc thơm hồi ký của bác, "phát giác" ra, nhưng bác sốt ruột quá, xí luôn công việc ấy. Thành ra bác viết văn tự ca tụng rồi lại viết ca tụng chính cái nghệ thuật tự ca tụng của mình)

Viết xong câu giải thích, ngẫm nghĩ lại bác thấy hình như chú Trần Dân Tiên hơi át giọng bác Hồ kính yêu. Ðộc giả có thể hiểu lầm rằng sở dĩ con rồng đẹp là nhờ nhà hoạ sĩ có tài. Cái kỹ thuật tài tình dùng mây che bớt rồng làm cho con rồng nổi bật, chứ sự thật, rồng có thể xấu xí hơn rồng trong tranh. Thế là, bác vội đè cổ chú Tiên xuống bắt viết những lời khiêm tốn.

“Chúng tôi không phải là những nhà họa sĩ có tài. Chúng tôi không để những đám mây trong tiểu sử của Hồ chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải thú thật rằng đã mất mối câu chuyện.” (trang 51)

Nghĩa là bức tranh đẹp không nhờ tài họa sĩ mà nhờ chính con rồng. Con rồng, khi đứng chụp hình, đã biết lấy mây che bớt vài khúc cho mình thêm mờ ảo tranh đẹp vì Rồng Hồ khéo dàn cảnh, không vì họa sĩ Tiên khéo vẽ.

Tất cả những trò ly kỳ rùng rợn như "bác biệt tích", "chú Tiên mất khâu chuyền" được giải quyết dễ dàng bằng hai chữ "May thay...". Từ nay thì độc giả có thể yên tâm, trong sách còn nhiều "may thay!" nữa.

“May thay lần nầy, khâu chuyền thiếu không lâu. Chỉ trong thời gian ngắn một người bạn Pháp đã kể cho chúng tôi nghe như sau: Tuyết xuống nhiều, phủ một lớp dầy trên chiếc tầu Xô viết tên là X... Chiếc tầu vừa thả neo trước cửa bể Lê-nin-gờ-rát. Vị thuyền trưởng đưa cho một người Á đông trẻ tuổi một bộ áo quần lông và vừa nói vừa cười: "Anh tạm dùng, sẽ trả lại tôi khi nào anh không cần đến nữa". Người Á đông trẻ tuổi cảm ơn, mặc áo quần ấm và đợi. Hai người thủy thủ trẻ tiến đến và nói với người Á Đông: "Nếu anh cho phép, chúng tôi đưa anh đến trụ sở".

Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp, mời ngồi, mời một điếu thuốc lá Nga, dài bằng hai ngón tay, và hỏi:
- Xin đồng chí cho biết tên.
- Tôi là Nguyễn.
- Đồng chí muốn đi đâu?
- Tôi muốn đến đây, đến Nga.
- Đến có việc gì, đồng chí vui lòng cho biết?
- Để gặp đồng chí Lê-nin.
- Rất đáng tiếc, không thể gặp đồng chí Lê-nin, vì Người vừa mới mất hôm kia - Người cán bộ vừa nói vừa lau nước mắt.
- Trời ơi! Đồng chí Lê nin mất rồi sao?
Ông Nguyễn sửng sốt và vô cùng cảm động. Người cán bộ hỏi tiếp:
- Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tầu... không có giấy phép?
- Đúng, tôi bí mật.” (trang 52)

Đến đây, độc giả thấy rằng ngoài cái tật mê những cảnh cải lương, bác còn khoái truyện gián điệp rẻ tiền, hơi một tí là kêu nhắng lên: "bí mật!". Ở đây bác lên chiếc tàu Nga, "bí mật" thế nào mà đến cả ông thuyền trưởng cũng biết, được ông tặng bộ quần áo lông. Cả cán bộ và thủy thủ đoàn trên tàu đều biết bác. Rời tàu, bác phải đi bắt tay từng người, lại được cán bộ hướng dẩn đến tận trụ sở. Ông thuyền trưởng thì khai vanh vách về tình trạng của bác với cán bộ địa phương. Thế mà khi công an hỏi, bác cứ nghiêm nghị đáp tỉnh bơ: Đúng, tôi bí mật! "May thay" cho tên cán bộ Nga lúc đó, nhờ chế độ Cộng sản kìm kẹp, nó hết biết cười. Nếu không thì đến đứt ruột mà chết.

Trò bí mật bác khoái từ hồi nhỏ. Quí vị độc giả còn nhớ: Ở đầu sách, cậu bé Nguyễn Tất Thành khi rủ một cậu bé khác ở Sàigòn đi ra nước ngoài cũng bắt cậu kia phải giữ "bí mật". Vì lý do gì? Vì cậu Thành được gởi ra nước ngoài bằng đường dây cách mạng? Vì cậu sẽ lên đường trong một đêm tăm tối, mưa gió bão bùng, không để ai phát giác được hành tung? Không có. Cậu xuất ngoại bằng cách giữa thanh thiên bạch nhật đàng hoàng đến bến tàu xin việc. Xin hết tàu nầy đến tàu kia mới gặp một kẻ thương tình cho chân phụ bếp. Thế mà cũng cứ nhất định khăng khăng giữ... bí mật!

Bốc Thơm Quan Thầy

Con người đến Nga "một cách bí mật" ấy đã bị cán bộ Nga đón tiếp một cách không bí mật tí nào cả. Sau màn phỏng vấn, biết gặp được một tên tay sai đầy triển vọng, cán bộ Nga cho Hồ đến ở khách sạn quốc doanh và nuôi nấng cẩn thận, chỉ cấm không cho ra ngoài. Thế cho nên mấy hôm sau, được hỏi nhận xét, cảm tưởng về nước Nga, bác phang ra một câu xanh rờn: “Tôi thấy rất rét”. Nguyên văn đoạn đối thoại:

“- Anh đấy ư? Paul hỏi.
- Vâng tôi đây, ông Nguyễn trả lời.
- Anh làm thế nào mà đến đây được?
- Như lệ thường thôi, bằng cách bí mật.
- Anh đến đây vào lúc đang buồn. Lê nin vĩ đại vừa mới mất.
Hai người bạn lặng yên một lát, buồn rầu. Rồi Pôn nói tiếp:
- Anh thấy xứ này thế nào?
- Tôi thấy rất rét. Ngoài ra không biết chuyện gì khác, vì tôi đã hứa với người cán bộ là không ra khỏi khách sạn.” (trang 54)

Coi bộ tình cảnh bác tới Nga lần đầu thảm hơn lần tới Pháp. Đến Pháp, bác còn được tà ta ra tiệm cà phê, được bồi gọi là Ông nên bác có nhận xét rất rộng ra rãi: "Người Pháp ở Pháp tốt và lịch sự v.v...". Đến Nga, bị cán bộ cấm ra khỏi phòng bác sầu đời, phang ra một quả nhận xét cộc lốc: "Tôi thấy rất rét". Nghe tuy quê mùa nhưng cũng khá dũng cảm.

Nhưng sự hậm hực chê bai nước Nga chỉ có thế. Sau đó là tràng giang đại hải những lời ca ngợi, kiểu như:

“Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội nước Nga. Ở đây, mọi người ra sức học tập, nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đở khuyến khích nhân dân học tập. Ở đâu cũng thấy trường học...” (trang 56)

Điều này bác ca ngợi đúng. Nga mở ra nhiều trường lắm. Tây bá lợi á cũng đầy trường. Chính phủ không những khuyến khích mà còn còng dân, dí súng vào lưng dân đẩy đến trường học tập.

“Có một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông trường triệu phú. Những nông trường nầy có trường học sơ cấp và trung cấp, thư viện, nhà chiếu bóng, sân vận động, nhà thương, phòng nghiên cứu nông nghiệp, nơi chứa máy móc, vân vân...” (trang 56).

Trích dẫn nhiều chỉ làm nhàm tai độc giả. Hàng triệu cuốn sách, bài báo tuyên truyền của Cộng sản đều có những lời tương tự.

Bác cũng còn dành một trang để ca tụng Nga là thiên đường của con nít (trong khi chờ đợi thành thiên đường của người lớn.) Những điều ca tụng của bác, nữa thế kỷ sau nước Nga vẫn... chưa thực hiện được.

Đặc biệt ở những trang ca tụng nước quan thầy này, bác viết như chép từ những tài liệu tuyên truyền hoặc nghe lại lời ba hoa của một cán bộ tuyên truyền. Bác không kể nổi tên một người, một địa danh nào đặc biệt. Có lẽ tụi Nga chỉ cho bác đi vài vòng ngắm cảnh rồi giam bác ở khách sạn cho học tập tối ngày. Cái khúc con rồng hiện ra ở nước Nga này hơi thảm. Giá bác cứ cho nó "biệt tích" luôn thì lại đỡ hơn.

Từ trang 62, bác kể lại thời gian hoạt động ở Tầu, ở Xiêm (Thái Lan).

Được quan thầy Nga huấn luyện, dậy dỗ, bác tiến bộ thấy rõ. Tài chôm chỉa của bác nhuyễn lắm rồi. Các sáng kiến, công lao của người khác, ở mọi địa hạt, nếu vừa mắt, hạp ý, bác vồ gọn. Thí dụ ở trang 62, bác kể:

“Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật Tiên là:
- Dân tộc độc lập.
- Dân quyền tự do.
- Dân sinh hạnh phúc.”

Quí vị có thấy cái gì quen quen không? Vâng, mấy khẩu hiệu ấy, bác thuổng hết, xài suốt đời, thành ra ta cứ đọc thấy những câu dài dòng: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc" được gắn nguyên con cho miền Bắc.

Về vụ dựa hơi hại nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, bác kể:

“...Thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, lúc bấy giờ ở Trung quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu tha cụ Phan. Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậỵ Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước” (trang 63).

“Nhà lão ái quốc Phan Chu Trinh ở Pháp trở về Việt Nam. Về được một năm thì cụ mất. Từ Bắc chí Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm quyền Pháp can thiệp cấm những cuộc truy điệu và bắt bớ những thanh niên, sinh viên hăng hái nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước của ông Nguyễn...” (trang 64)

Bác Tự Cứu Đói

Nhưng lý thú nhất là vụ bác ăn cướp cơm chim, nghĩa đen.

Nguyên là hồi bôn ba ở Thái Lan, bác thất nghiệp nặng. Lúc ở Tầu, bác sinh sống bằng nghề thông dịch. Ở Nga, bác được nuôi. Ở Anh thì có nghề rửa chén. Thời gian ở Pháp huy hoàng hơn cả, bác cầy hai "dóp": một là rửa và phóng đại hình, hai là ngồi sơn vẽ đồ cổ giả để bịp mấy bà già. Riêng thời ở Thái, bác khai nghề nghiệp rất mơ hồ: "Cuốc đất, đi buôn". Chắc là đói, bác bèn kể lại một mưu mẹo thần sầu để cứu đói cho chính mình và đồng bọn. Bác kể:

“Người Xiêm mộ đạo Phật và rất hiền lành. Đến tuổi nào đó, con trai phải đi tu ở chùa mấy tháng. Vì vậy trong nước có hàng ngàn nhà sư. Sư rất được nhân dân kính trọng. Và được nhân dân nuôi. Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa, vào mười giờ sáng. Chị em mang cơm đến chùa. Sư cứ việc ăn không cảm ơn ai. Họ chỉ cảm ơn Phật tổ. Khi sư ăn xong, cơm rau còn lại khách qua đường có thể ăn. Những người đưa cơm đều rất sung sướng được dịp bố thí. Nhờ thế mà ông Nguyễn và những người bạn của ông có thể đi đường không tốn tiền cơm. Nếu không gặp những người khách đói, người đưa cơm đem một phần cơm thừa cho chim ăn.” (trang 66)

Tội nghiệp những con chim bị những người khách đói "ăn chặn". Trước khi có "ông Nguyễn và đồng bọn" xuất hiện, chim Thái Lan sống rất phủ phê. Cơm thừa của các nhà sư bao giờ cũng dư giả. Bây giờ thì "những người khách đói" vét sạch bách. Nguồn gốc của từ ngữ "ăn cướp cơm chim" chắc là đây. Nghĩ kỹ ra thì những con chim Thái Lan thửa ấy vẫn còn may mắn lắm. Ngày đó có bác đi nhẹ vào đời chim, chim phải một phen bữa đói bữa no, nhưng còn tự do đậu trên cành hót chửi bác và tự do bay đi. Còn dân Việt Nam bị bác đi nhẹ vào đời thì đói kinh niên, mất tự do thê thảm cho tới chết.

Bạn Đọc Hồi Hộp

Khi rời nước Tầu, đến Thái Lan hoạt động bác lại biểu diển tuồng "biến mất" thêm một phát nữa:

“Một lần nữa ông lại mất tích. Ông Nguyễn đi đâu. Không ai biết. Những đồng chí của ông cũng bị nghi ngờ và bị Quốc dân đảng bắt bỏ tù. Chúng tôi lại mất mối thêm một lần nữa...” (trang 65)

Trong trò "biến mất", "mất mối" kỳ này, chú Trần Dân Tiên và vai trò của chú lại bị bác quên mất tiêu. Hai chữ "may thay" bác cũng quên luôn. Sau khi than bác mất tích, chúng tôi "mất mối" bác viết tỉnh bơ, không cần ai kể, không cần "may thay có người biết..." như thường lệ. Cả ở những việc không đáng gì bác cũng cứ nhơn nhơn, trắng trợn phơi sự láo khoét của mình ra như thế! Quái đản thật. Rồi đến cuối trang 85, thình lình bác Hồ lại la hoảng:

“Ông Nguyễn lại mất tích!”

Và lần này coi bộ bác sốt ruột lắm rồi, chịu không nổi, bác nói thẳng với độc giả:

“Các bạn thân mến, chắc các bạn cũng hồi hộp khi đọc chuyện của một người khi xuất hiện khi mất tích, lại xuất hiện, lại mất tích luôn luôn và đột ngột như thế”.

Hóa ra bác Hồ thèm thuồng sự vinh quang của mấy tay viết truyện trinh thám, gián điệp rẻ tiền. Bác xào đi xào lại cái trò "ông Nguyễn mất tích" để bắt bà con "hồi hộp" đấy. Nhưng hồi hộp thế quái nào được. Kết cuộc câu chuyện của bác đã được phơi ra từ những trang đầu. Độc giả biết tỏng rằng "ông Nguyễn" dù có biến, hiện loạn xị thì cuối cùng cũng về ngồi lù lù ở Bắc bộ phủ. Vả lại, cứ theo tình tiết câu chuyện thì thường mỗi lần gặp thế nguy, bác lại biến mất tiêu. Bị Quốc Dân Đảng Trung Hoa muốn hãm hại, bác biến. Bị thực dân giăng bẫy bắt, bác "mất tích". An toàn khỏe ru như thế, hồi hộp vào cái khổ nào.

Đầu tiên, bác biểu diễn kỹ thuật viết: cho nhân vật lâu lâu biến một lần. Rồi bác giải thích cái hay của kỹ thuật ấy bằng thí dụ ông họa sĩ vẽ rồng để nhắc khéo độc giả rằng bác viết tài tình lắm đó. Sau chót, chả cần giữ ý tứ gì, bác huỵch toẹt hỏi thẳng độc giả: Tôi viết có hay không? Có khéo không? Chắc là tôi làm quí ngài hồi hộp phải biết! Loại văn sĩ nghĩ văn mình là nhất không hiếm trên đời, nhưng vừa viết văn vừa tự khen, cưỡng bách độc giả phải khen ngay tại trận thì chỉ có mình bác. Tình cảnh ấy thảm thương như một anh hề vừa giễu xong vội giải thích tất cả kỹ thuật giễu của mình rồi chất vấn khán giả: chắc là "các bạn thân mến" đang buồn cười lắm vì tài giễu của tôi!

No comments: