TƯƠNG LAI THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM QUA KIM CỔ KỲ QUAN
Bài II
(TIỀN GIANG & KIỀNG TIÊN)
NGUYỄN THIÊN THỤ
Bài II
(TIỀN GIANG & KIỀNG TIÊN)
NGUYỄN THIÊN THỤ
Trước đây, chúng tôi đã viết về " Tương lai Việt Nam qua Kim Cổ Kỳ Quan" và đã đăng tải trên tạp chí này. Nhưng lúc này còn thiếu vài tập. Nay chúng tôi được các độc giả thân mến gửi thêm Tiền Giang và Kiểng Tiên cho nên chúng tôi xin viết thêm cho đầy đủ.
Như chúng tôi đã nói, Kim Cổ Kỳ Quan do ông Nguyễn Văn Thới (1866-1925) viết nhằm khuyên người tu Phật, khuyên người ăn ở nhân đức, nếu ai ăn ở ác, thì sẽ bị Trời Phật trừng phạt. Không riêng gì Phật giáo, mà các tôn giáo khác cũng khuyên các đệ tử phải lo tu đạo vì ngày tận thế sắp tới, kẻ ác sẽ bị tiêu diệt.
Ông Ba là người tu đạo, hiểu đạo và hiểu đời. Tác phẩm này đồ sộ hơn Lục Vân Tiên, Thơ Câu Hai Miêng nhưng vì thực dân cấm đoán, lòng người sợ hãi nên chỉ truyền tụng bí mật. Cũng vì thực dân tự xưng hùng mạnh, khoa học tối tân, và cũng vì cộng sản tuyên truyền duy vật khoa học cho nên một số người bỏ Nho, Phật,Lão, và nghi ngờ Nho, Phật Lão. Thực tế thì tôn giáo nào mà chẳng dị đoan, phản khoa học, ngay cả chủ nghĩa Marx cũng duy tâm, phản khoa học và thêm vào đó là tàn ác, độc tài. Lại nữa, tôn giáo nào mà chẳng có những thần thoại, phép màu và các bậc tiên tri.Ông Nguyễn Văn Thới viết sách khuyên người hành thiện, còn Marx khuyên người hành ác. Ông Ba tiên tri có nhiều điều đúng còn Marx tiên tri không những sai lầm mà còn gây ra nạn diệt chủng ghê gớm.
Ngay lúc sinh thời, ông biết một số kính phục ông, nhưng một số chê bai, bảo ông điên khùng, nhưng vì mến đạo, thương đời, ông phải viết các sách này để giáo huấn và cảnh tỉnh. Trong thiền định, ông đã thấy cơ nguy cho nên ông có nhiệm vụ thông báo cho thế giới, cho đồng bào. Ông Ba đã nói lên nỗi khổ tâm và lòng can đảm của ông:
Như lươn chẳng luận thẹn lời,
Tôi như cá cạn lỡ vời trong ao.
. . . .. ... .... .....
Sợ trời Phật ghét lòng tôi,
Hạ trần người ghét thiệt tôi không sờn.
.. . . .. . . . . .....
Nói đạo bổn đạo chẳng nghe,
Mua vườn, mua đất, trồng tre ở đời"
(TG,196,cột 3,4)
(Ca dao có câu: "Vườn rộng chớ trồng tre ngà/ Nhà rộng chớ để người ta ở cùng". Tre ăn đất cho nên trồng tre rồi thì không thể trồng cây khác, coi như bỏ hoang. Trồng tre nghĩa làm việc vô ích. Còn nhà mà cho người ở đậu thì sẽ có nhiều điều bất tiện).
Mặc ai theo thuở theo thời,
Tôi nay theo Phật theo Trời cãi đây.
(TG 197, 6)
Nghe biết ông Thới tầm thường,
Khùng nói tầm bậy ai dùng nói nghe.
(TG 218, 48)
Thua buồn nói chuyện minh mông,
Tầm khùng làm biếng ở không nói hoài.
. .. .. . .. .. ... .... ... .... ..
Tầm khùng nói thiệt có căn,
Lửa mau bén củi nóng ăn đổ dầu.
(TG 223, 58)
So với Sấm Trạng Trình và sấm của Nostradamus thì Kim Cổ Kỳ Quan phần nhiều nói rất rõ. Chúng tôi xin trình bày hai phần là phần Tổng quát và phần Cá biệt.
Phần Tổng quát là nói chung thế giới, toàn quốc, còn phần cá biệt nói về tình hình các tỉnh, các địa phương.
I.TỔNG QUÁT
1. Thế giới
Thế giới sẽ thay đổi do sự vận chuyển và thay đổi của các thái dương hệ, các hành tinh, và do sự thay đổi của trái đất, có thể do chiến tranh hạt nhân nhưng trên tất cả là do Trời Phật an bài. Và tất cả đều theo luật biến dịch mà các triết gia Đông Tây đã xác định. Phật giáo đã nhấn mạnh luật vô thường như Phật giáo , Nho, Lão cũng đã nói nhiều đến thịnh suy, bỉ thái, tang điền thương hải. Các đạo sư Cao Đài, Hòa Hảo đã nói nhiều về cuộc biến chuyển này. Nay thế giới đang buổi hạ nguyện mà Phật gọi là Mạt pháp thời đại. Sau thời hạ nguyên, thế giới chuyển qua thượng nguyên. Thương nguyện , trung nguyên rối đến hạ nguyên, cứ như thế mà chuyển vận. Những điều ông Nguyễn Văn Thới nói là theo những quan điểm triết lý trên. Hơn nữa, ông Ba không lý thuyết suông, mà ông đã chứng nghiệm mọi việc từ lớn đến nhỏ mà một số đã ứng nghiệm.
Vũ trụ lúc bấy giờ hoàn toàn khác, ngày đêm đều sáng.vì có cả mặt trăng, mặt trời mọc cùng một lúc và không lặn. Hạt lúa to như truyện đời xưa, không cần cối chày, xay máy, chỉ lột vỏ nấu ăn:
Thương đời nhật nguyệt song khai..
. . . . Lúa thời lột vỏ gạo này nấu ăn
(TG. 222,56)
Hạt lúa ngày nay vỏ vàng ruột trắng, còn sau này vỏ trắng ruột đỏ:
Sau hột lúa vỏ trắng thật tình,
Trong ruột thời đỏ thế bình bất vi.
Trước vỏ vàng, ruột trắng phân ly,
Trung nguyên khiến biến người khi tiêu điều. (KT, 201, 48)
Trong tương lai loài người sẽ không bệnh tật, đủ cơm áo và thái bình:
Ngày sau không có bịnh đau...
... Nước nào lúa gạo đủ hoài. . .
.. , Không người nghèo khổ, hạ ngu.. .
(TG, 212, 35; TG, 222, 55)
Sau này trai gái đều đẹp như tiên; vợ chồng theo chế độ một vợ một chồng, vua sáng tôi hiền:
Thương đời không giặc bình yên,
Người đều thanh sắc tựa tiên non Bồng.
Thương đời chỉ thắm tơ hồng,
Xe xăng buộc chặt một chồng mà thôi.
(TG,222,55)
Ngày sau, loài người không sanh đẻ như bây giờ:
Ngày sau không nếp sanh thai.
Vật nào trời Phật hoàn lai mình nhờ.
(TG,222,56)
Phụ nữ không kinh nguyệt:
Đường kinh nguyệt phụ nhơn sau bỏ
(KT 269, cột 2):
Đường kinh nguyệt sau Phật xử tiêu (KT 265, 33)
2. Tây phương và Việt Nam
Như đã nói trong bài trước, ông Ba Thới là đệ tử ông Trần Văn Nhu lãnh tụ chống Pháp, và ông cũng là nạn nhân của thực dân Pháp. Cũng như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Thủ Khoa Nghĩa, ông ghét thực dân:
Trách là trách kẻ đầu Tây,
Tại mình a ý không ngay hại mình.
(TG 224,59)
Vinh chi quan tổng dân làng,
Hùa theo Tây quốc lập đàng tham ngân"
(TG 236, 84)
Nhưng trong thiền định, ông thấy người Tây phương xuyên suốt lịch sử với những biến chuyển chính sách, chế độ. Thực dân tàn ác, tư bản bóc lột nhưng còn khá hơn nhiều chế độ, chủ nghĩa tự xưng là công bằng, tự do, dân chủ. Trước và trong đệ nhị thế chiến, các dân thuộc địa Á Phi nổi lên chống thực dân, đế quốc, nhưng sau đệ nhị thế chiến, Anh Pháp tàn phế, các quốc gia được độc lập dưới ngọn cờ đỏ búa liềm, họ mới cay đắng nhận ra rằng thực dân, đế quốc ác độc và bóc lột nhưng còn tốt hơn cộng sản và đồng bào của họ! Ông Ba mất năm 1925 nhưng đã thấy việc Pháp về nước năm 1955 và Mỹ về nước năm 1975
Ông Ba cho biết sau một thời gian người Tây phương sang Việt Nam rồi về nước hết.
Cộng sản kết tội Pháp Mỹ tàn ác, bóc lột nhưng Pháp Mỹ còn để cho Việt Nam có con đường sống , còn cộng sản thì bóp cổ nhân dân lè lưỡi. Pháp Mỹ còn cho vài tờ báo tư nhân ra đời, ai có tội thì được xét xử phân minh . Người tù có chỗ nằm rộng, được ăn khá no, được thăm nuôi. Còn Cộng sản thì tù chen chúc như đàn súc vật, thiếu thực phẩm, thuốc men, bỏ tù dài hạn, không xét xử . Nếu có ra tòa thì cũng là một thứ tòa án với luật rừng, và công lý bịt miệng. Ca dao mới có câu :" Nam Kỳ khởi nghĩa mất Công lý/ Đồng Khởi vùng lên hết Tự do". Ông Ba đã thấy sau khi Pháp Mỹ về nước, Việt Nam không còn tòa án, không còn công lý:
Tây buồn cởi ngựa về Tây.
Tòa án mất rồi chẳng ai hay.
Nam Việt đổi dời nay chi thế
(TG,263,138)
( Ngày nay người Việt Nam gọi Pháp, Mỹ Nga, Tiệp, Ba Lan,...là Tây hết).
Thực dân, đế quốc về nước, mình không nên mừng mà cũng đừng tức giận mắng họ là đế quốc, thực dân, xâm lược, bóc lột bởi vì Tây Mỹ về rồi thì bọn khác đến càng tàn ác, gian tham hơn! Đúng vậy, Pháp, Mỹ đã rút khỏi Việt Nam trước 1975 để rồi cộng sản độc tài thống trị:
Ai dè là việc lạ kỳ,
Khi không Phật khiến Tây tùy quy Tây.
Tây về người cũng không hay,
Đừng sanh dạ dữ mắng Tây bây giờ!
(TG 212, 36)
Sau khi Tây phương về nước thì Việt Nam rất đói khổ, càng ngày dân nghèo càng khổ trong khi bọn tư bản đỏ giàu sang lại càng cướp phá và bóc lột:
Càng thấy khổ ngày càng túm rụm,
Tây về Tây người khó bụm khu. (KT 278, 19)
(Túm rụm: co rút, héo hon, tàn tạ; Người khó: người nghèo; bụm : lấy tay che, đậy; khu: đít. Nghĩa là càng ngày càng khổ, không quần áo phải ở truồng, lấy tay che hạ bộ. Cũng có thể hiểu là quá nghèo, không quần áo, khó lấy tay che hạ bộ ).
Ông Ba thấy lúc này Việt Nam phân hóa, kẻ theo Nga Tàu, người theo Pháp Mỹ:
Bầu Tây thêm vị bầu Tàu.
(TG, 231, 73)
Trước ông Ba Thới , Tứ Thánh là một cậu bé mười tuổi, được thánh nhập xác phàm , đã nói:
Thương công chú cộng chan dầm/ Đánh đông dẹp Bắc mà lầm kế ai. (TỨ THÁNH )
Việt Cộng, Trung Cộng tự hào là chiến thắng, đánh bại đế quốc Mỹ. Nhưng Tứ Thánh và ông Ba cho rằng Trung Cộng và Việt Cộng đã mắc mưu Mỹ. Khổng Minh là người Trung Quốc, song Mỹ cũng có Khổng Minh. Trong thập niên 60-70, Mỹ can thiệp, không cho Nga đánh Trung Cộng. Mỹ giúp cho con nhái Trung Cộng phát triển bằng con bò để rồi đem tiền bạc sản xuất vũ khí đe dọa thế giới.
Mỹ đẩy Việt Cộng vào tay Trung Cộng, rồi bị Trung Cộng bóp nhừ xương. Bọn chóp bu Việt Cộng cam tâm nô lệ nhưng dân Việt Nam và dân Á Châu căm thù Trung Cộng. Việt Nam thay bàn cờ 1975 là do Mỹ đã chơi ngón thí xe, thí pháo. Việt Nam 75 về sau có hai hạng người kẻ khóc người cười. Một hạng mất tiền, một hạng được bạc. Hạng mất tiền là người Cộng Hòa bỏ tài sản, bỏ tính mạng ( Tiền bỏ mất) đi tìm tự do, và dân oan mất nhà cửa, ruộng đất.
Còn hạng được bạc là tư sản đỏ, độc quyền chiếm tài sản quốc gia. Nhưng bọn chúng phải đối diện với kinh tế suy sụp, phải trở lại con đường tư bản chủ nghĩa mà chúng vênh vang gọi là "đổi mới "( Chốn cũ lòng lo lành trở lại ) như Đặng Tiểu Bình. Từ đó chúng mặc sức lấy vàng bạc, đô la ( Bạc tân trắng nõn), để rồi lại phải lạy Mỹ . Càng ngày, đa số nhân dân, và đảng viên nhận thấy cộng sản là con đường sai lầm (cơn nghèo làm dại) cho nên họ phải theo dân chủ Tây phương để chống Trung Cộng và chủ nghĩa cộng sản:
Nam Việt đổi dời nay chi thế
Khổng Minh lập kế giả thiền.
Cơm chúa ai ăn, tiền bỏ mất,
Bạc tân trắng nõn cất để dành.
Chốn cũ lòng lo lành trở lại
Cơn nghèo làm dại phải lạy tây. (KT 263, 138)
3. Việt Nam và Trung Quốc
Khi khi Pháp chiếm Việt Nam (1865), Pháp bắt Việt Nam không được giao thiệp với Trung Quốc. Từ khi quân Thanh bị vua Quang Trung đánh bại, Trung Quốc không còn xâm lăng Việt Nam, nhất là khi Trung Quốc bị các nước Tây phương chiếm cứ, thì họ giữ thân không nổi làm gì có mộng xâm lược.
Những thiên trước, ông Ba chỉ trích người Tàu tu hình thức, bán tranh, bán tượng. Nay ông chỉ trích Trung Cộng giúp Việt Cộng rồi xâm lược Việt Nam. Ông Ba Thới nhìn thấy sau khi ông chết, Việt Nam lại tôn Trung Quốc làm thầy , một ông thầy bất chánh khiến cho nhân dân và đất nước Việt Nam phải chịu bao khổ nạn từ Hồ Chí Minh cho đến sau này.
Líu lo nói chuyện Xiêm Lào,
An Nam đem dạ nghe Tàu bại gia
.. . . . .. . . . .. .. .
Cớ sao dạ bạc theo Tàu,
Minh sư bất chánh đạo nào mà ngay.
(Tiềng giang, 202, cột 15)
Ông ghét bọn Trung Quốc làm thầy cho bọn nô lệ Việt Nam:
Thương người biết đạo ra bài,
Ghét là thiệt ghét Tàu thầy An Nam.
(tr.206, cột1)
Bọn Trung Cộng đã làm Thầy ( cố vấn) cho Việt Cộng, dạy chính trị, quân sự và cung cấp vũ khí cho Việt Cộng, Việt Cộng đắc chí, cam tâm làm nô lệ bưng trầu rót nước:
An Nam con chú bên Tàu,
Ra tài dao bảy dạ vào búa tay.
Nghề võ người thiệt tài hay,
Bưng mâm, bưng nước giỏi nay lạ lùng.
(TG218, 48)
Ông cũng ghét bọn Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan theo Trung Quốc:
Thương người trí huệ nhịn thua,
Ghét là thiệt ghét a dua Tây tàu.
(tr.206, cột1)
Thời chiến tranh, Việt Nam chia thành nhiều phe: phe theo Tây, phe theo Tàu, chẳng ai theo phe Việt Nam:
Tính Tây người lại tính Tàu,
Tính dư trăm việc, tiếng nào tính Nam?
(TG, 239, 90)
Nước lộn xỏ rế Tây Tàu,
Đố ai biết đặng chỗ nào nước trong?
(TG, 202; 16)
Bọn Việt Cộng ca tụng Trung Quốc vĩ đại, Hồ Chí Minh nịnh hót Trung Quốc với Việt Nam là
" đồng chí anh em, núi liền núi, sông liền sông", và ngày nay, nhiều học giả, nhiều kinh tế gia thế giới ca tụng Trung Quốc giàu mạnh, sẽ thay vai trò Mỹ nhưng ông Ba cho rằng Bắc Kinh xưa nay là đồ chẳng ra gì:
"Bắc kinh xưa chẳng ra gì" ( TG, 204, 20)
Pháp vì lòng tham chiếm Việt Nam rồi cũng phải bỏ. Tàu tham chiếm Việt Nam rồi cũng phải lui:
Tây tham tây chịu gian nan,
Tàu tham Tàu cũng chớ tham khúc tùng.
(TG 239, 90)
Ông Ba Thới đã thấy một ngày Trung Quốc sẽ bị mất nước và Việt Nam do đó mà phục quốc, đòi lại những đất đai đã mất, và không còn bị Trung Quốc lấn áp về kinh tế, chính trị:
Bắc kinh mất, nước Nam nhờ
(Tiềng giang, 209, 29)
Bọn Trung Quốc đã quấy rối, xâm phạm Việt Nam:
Nên muôn dân kẻ dọc người ngang,
Cũng vì bởi Tàu man quấy rối (KT, 278, 20)
Trung Quốc đã áp dụng chính sách đốt sách chôn học trò của Tần Thủy hoàng , và đàn áp, đánh chiếm Việt Nam cho nên Phật xử mất nước:
Tiều Tàu kinh thơ phế thất,
Phật xử người tuyệt quốc tùng bang
Qua nước Nam lấn lướt dọc ngang. . . (KT 277, 18)
Sát Nam địa Tàu nguy mới đáng
(KT 276, 20)
Vì dã tâm xâm chiếm Việt Nam mà TRung CỘng gặp thất bại đắng cay:
Bắc Kinh dương lụy cảm chuổi sầu,
Tại vì ai sớm dức Nam lầu. (KT 260,131)
(Nguỳên bản viết dức là dưc lác, là la mắng. TRung Cộng la mắng bọn Việt cộng như tôi tớ, nhục mạ nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên có thể là dứt viết sai chính tả thành "dức". Sớm dứt thì đúng nghĩa hơn nghĩa là nhanh chóng xâm chiếm Việt Nam. Nếu là dứt Nam lâu thì có nghĩa là Trung Công sẽ xâm chiếm Việt Nam, chấm dứt nền độc lập của Việt Nam, biến Việt Nam thành quận huyện của Tàu cho nên cuối cùng Trung Cộng phải tiêu tan)
Hiện nay Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và biên giới Việt Nam. Chúng dàn quân biển Đông. Chúng có đánh chiếm toàn quốc Việt Nam hay không? Theo văn nghĩa, các chữ" Sát Nam", " Qua nước Nam" , " dứt Nam Lâu " thì có nghĩa là Trung Quốc sẽ đổ bộ, chiếm đánh và tàn sát người Việt từ Bắc chí Nam chứ không phải chỉ lấp ló ở biên cương và ngoài hải đảo.
4. Việt Nam và các nước lân cận
Ông Ba nói nhiều đến Cao Miên sau này sẽ khổ:
-Đất Nam Vang sau thấy it người,
Cao Miên thiệt nhiều lần cay đắng. (KT 279, 22)
-Cao Miên phải lo dùng cơm gói' (KT 285, 33)
5. Việt Nam
(1). Việt Nam trả quả
Đạo Phật, đạo Nho đều nói thuyết nhân quả. Ông Ba tinh thông Nho học và Phật học. Ông cũng như các đạo sư Bửu Sơn Kỳ Hương đều tổng hợp được tinh hoa tam giáo:
Tích thiện phùng thiện để dành,
Tùng ác nhi khứ nan hành cung ly.
(TG, 198,8)
Thiện ác đáo đầu có khi,
Tất chung hữu báo thanh ghi nan kỳ.
(TG 233; 77)
Chữ rằng "Thiên võng khôi khôi,
Sơ như bất lậu" thương ôi Phật Trời.
(TG 233, 78)
Tận thế đa khổ người ôi,
Lòng trong dạ đợi bạc vôi để dành.
Không có một việc làm lành,
Trông đời mau tới tan tành cái thân'
(TG, 200, 12)
Từ thời còn sống, ông Ba đã thấy người Việt Nam mang nhiều tội và phải bị quả báo.
+ Bỏ đạo cha ông theo tà đạo:
Chẳng thương giữ Bửu Sơn Kỳ
Chữ Hương ngó thấy vị vi chữ vì" (TG, 195, 1)
+Người dân không hiểu đạo, chạy theo tiền tài, danh vọng,
Niệm Phật it kẻ phân bì,
Phân bì tiền bạc tưởng gì tớ tôi (TG 196, 3)
+Ngay cả hạng tu hành Phật giáo và các tôn giáo khác cũng vậy:
Bữa niệm, bữa chẳng nam mô,
Bạc tiền có lợi, nam mô lợi gì! (TG 196,3)
Tôi nói anh em hờn nhiều,
Đời nay tu bạc, tu tiền biết chi".(TG, 216; 44)
Trong thời chiến, một số đạo hữu phản đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Hòa Hảo, Trình Minh Thế phản đạo Cao Đài. Sau này một số khác cũng phản đạo như Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu, Thích Thanh Từ, Hồng y Phạm Minh Mẫn, linh mục Phan Khắc Từ.. . làm tay sai cho Việt Cộng bán nước phản dân,
Trong sách, ông Ba Thới dùng Nam Việt, Nam Kỳ, lục tỉnh. Nam Việt là nước Việt Nam mà cũng có nghĩa là Nam kỳ. Vì một số gian ác, ngu dốt gây tai họa cho đất nước và nhân dân nên họ phải gánh tai ương:
Đồng các nước dạ toan hãm hiếp,
Cho nên mới sinh đời lộn kiếp,
Trị nước Nam hãm hiếp người Nam (KT 277,18)
Có lời ghi Nam Việt mắc đày.( KT, 273, 10),
Đừng có trách thời tại người Tây,
Người Nam nhiều việc không ngay hại mình.
(KT 283, 30)
Người Việt Nam nói chung và người Nam Kỳ nói riêng một số phản quốc:
Có lời ghi Nam Việt mắc đày,
Tội phản chúa, tội này phải xử.
(TG.260, 132)
Gặp khi chiến tranh, bom đạn, dân chúng chạy vào các nhà chùa, nhà thờ, đình miếu lánh nạn. Có những lúc như thế, sau này mới được an cư:
Nước Nam Việt đình trú phủ thờ.
Các nơi bát lọan nhà thờ chiêu an.
Hết việc hiệp mới thấy việc tan,
Hết tan rồi hiệp mới an nước nhà. (KT 202, 47)
Qua thời Thượng nguyên, Việt Nam sẽ thay đổi:
Đất Nam Việt tiền Tần hậu Tấn,
Cuộc trời xui hậu Hớn tiền Tần.
(TG 263, 137; KT 279,22)
Chừng nào Nam Việt thạnh thời,
Hết lo, hết sợ, hết lời sầu riêng. (TG 197, 6)
Phật để chỗ Nam bang quyền quới.
(KT, 270, 4)
Người Việt Nam ở ăn coi khác,
Bối ngã ba Rạch Các thiếu gì.
(KT 278, 20)
Việt Nam trở thành một đại quốc:
Nam bang đai quốc lương kỳ,
Tần Hớn Nhất Hổ phép tùy tóm thâu.
(TG, 222, 56)
Sau này Việt Nam gồm ba nước, các nước kia phục tòng Việt Nam:
Ba nước trả quả lương thì,
Tiền căn báo hậu phục tùy Nam bang.
Đem về Tam quốc sửa sang,
Đại Nam trường thọ,trị an thuận hòa.
(TG 238, 88)
Sau này, một số nước khỏa thân, một số nước mang y phục. Việt Nam sau này sản xuất quần áo cho các nước mang y phục:
Nước nào ăn mặc che hình,
Qua Nam mua bán dễ tình hậu phân.
(TG, 223, 57)
Nam Tần (phải chăng là Việt Nam ) có tục ăn trầu, sau này không còn ăn thuốc, ăn trầu. Hiện nay, ở Việt Nam còn một số ăn trầu, xỉa thuốc nhưng tuyệt đại đa số đã bỏ tục này.
Sau Nam Tần không có trầu vôi,
Không ăn thuốc điếu tanh hôi miệng người (KT 287, 38)
II. CÁ BIỆT
1. Nam Kỳ bị trừng phạt:
(1).Một số phản thầy
Nguời buồn bắt mặt trông mai,
Xưa nay một lệ tại ai phụ thầy.
Chí công tội phước tỏ bày,
Nam kỳ lục tỉnh việc này ai hay.
(TG, 204, 20)
(2). Một số người Nam kỳ bỏ đạo cha ông theo tà giáo:
Đất Nam Kỳ không tưởng ông bà ( TG, 259,129)
Nơi nơi hủy hoại đạo Thầy,
Chẳng nghe lời Phật càng ngày tiêu hao.
(TG 205, 21)
(3). Một số người Nam Kỳ tham tiền, tham danh hại đồng bào:
Một số theo Pháp như Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lôc giết hại đồng bào. Đến 1945, người Nam Kỳ lại hại Nam Kỳ mà những tay đồ tể thời đó là Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn đã giết đức Huỳnh giáo chủ, các đảng viên cộng sản đệ tứ như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, các nhân sĩ miền Nam như Hồ Văn Ngà. ,..
Thương bề Nam Việt dắt Tây.
(TG 222,56)
Nam Việt ở đời với Tây,
Nam Kỳ thôi hết ai hay trị đời (TG 196,2)
Tức là thậm tức Nam bang,
Tức người Nam Việt hại oan Nam Kỳ.
(TG,204, 20)
Vì vậy mà Nam kỳ có thời phải bị khốn khổ:
Đất Nam Kỳ cày cấy chai lưng (KT 282, 28)
Bắc kinh xưa cũng chẳng gì,
Nam kỳ nay hại Nam kỳ chớ ai? ( TG,264, 20)
Nam kỳ phải trả quả là phải chịu sự đàn áp, thống trị của Bắc Kỳ. Chính bọn miền Nam như Nguyễn Hửu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Đoàn Văn Toại, Trương Như Tảng .. . đã theo Cộng sản, lập thành Mặt trận giải phóng Miền Nam giúp Bắc Việt xâm lăng miền Nam.
Ông Ba Thới thấy rõ Bắc Kỳ chiến thắng, Bắc Kỳ vào cai trị Nam Kỳ. Bọn Bắc Việt cho dân Nam Kỳ là dân ngụy ( ngụy bang) ngu dốt, đồi trụy. Ông Ba đại diện cho dân Nam Kỳ bác bỏ danh từ này. Theo từ điển, "ngụy" có nhiều nghĩa:
-Ngụy là gian trá, như ngụy trang, ngụy biện;
-Ngụy là phe chống đối triều đình, là quân giặc ( làm ngụy).
Ông bảo rằng dân miền Nam không phải là " ngụy" vì họ là những người chính nghĩa, theo phe dân chủ, tự do, là những chiến sĩ chống độc tài cộng sản. Cộng sản không thể bắt chước Nguyễn Ánh gọi Tây Sơn bằng "ngụy" và bắt đầu hàng:
Đây tôi chẳng phải Tây Sơn,
Đem lòng bắt ngụy xưng hơn chẳng đầu."
(TG 205, 22)
Dưới mắt bọn cộng sản miền Bắc , con người Miền Nam xấu xa, tồi bại. Nửa triệu phụ nữ là gái mãi dâm, hàng triệu thanh niên và đàn ông là trộm cướp, lưu manh, các thầy giáo, bác sĩ, kỹ sư là ngu dốt, các văn nghệ sĩ là thấp kém. Họ cho rằng chỉ có dân Bắc Kỳ, dân xã hội chủ nghĩa mới là tài gỉỏi vì họ đã thắng Mỹ, là đã tốt nghiệp đại học chống Mỹ, đã là "đỉnh cao trí tuệ của loài người". Sau 1975, những dân "ngụy quân, ngụy quyền" bị thất nghiệp, từ bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, giáo viên và văn nghệ sĩ ta đều bị vứt bỏ, bị cấm đoán hoặc phải đào tạo lại, hoặc phải xem xét lý lịch kỹ càng.
Trước lo chúa khổ Bắc Kỳ,
Sau lo Nam Việt bất tùy ngụy bang.
Văn chương Bắc địa hiển vang,
Nam Kỳ dốt nát gian nan chẳng lừa,
(Tiềng giang, 203, cột17)
(Chúa khổ là dân cùng khổ Bắc Kỳ XHCN. Cũng có thể hiểu là chúa ác, kẻ rất tàn độc.)
Như đã nói ở trên, Bắc kỳ XHCN tự phụ đỉnh cao trí tuệ, văn chương, nghệ thuật cao siêu nhưng dưới mắt ông Ba, văn chương, nghệ thuật Bắc Kỳ là rơm rác vô giá trị vì đó là văn câu cơm, sản phẩm đặt hàng, nghệ thuật tuyên truyền giả tạo đúng như Hồ Dzếnh, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Khải đã thú nhận. Tuy vậy, bọn chúng vẫn lăng xăng mồm năm miệng mười ( xuất tam thanh: năm ba giọng lưỡi) tuyên truyền khoác lác:
Mắt đoái xem Bắc địa thương dà,
Văn chương chữ nghĩa sao mà không căn.
Xuất tam thinh mặc sức lăng xăng
(KT , 292, 47)
2. Bất an và Biến đổi
Bắc Kỳ sẽ thành sông ngòi, ao chuôm:
Đất Bắc địa giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng (KT, 271, 6)
Trong kháng chiến, Cộng sản đã phá rừng lấy gỗ xuất cảng bỏ túi như Nguyễn Văn Trấn đã tố cáo trong" Việt Cho Mẹ và Quốc Hội" . Tô Hoài cũng cho rằng xưa nhìn lên phía bắc núi non trùng điệp. Nay từ Phú Thọ nhìn lên trống trơn. Như vậy là "không còn cọp ở rừng"đúng như ông Ba đã thấy! Sau này thiên địa biến chuyển e rằng sẽ đổi thay lần nữa. Nay Hà Nội, Huế, Saigon và các tỉnh miền Trung ngập lụt liên miên, phải chăng đó là dấu hiệu báo trước các nơi này sẽ thành ao, hồ, sông biển?
Sài gòn dân cư đông đúc, có lúc tan tác ( bể om). Dân chúng Sai gòn và các tỉnh phải bỏ nước vượt biển, các nước thấy dân ta bơ vơ nên thương xót ( cảm thương) mà giúp đỡ bằng cách cho định cư tại Mỹ,Pháp, Anh,Úc, Nhật, Đức. . .
Thương đông đảo là xứ Saì gòn,
Bể om việc trước, hao mòn khắp nơi.
Cũng như buồm ra biển chạy khơi,
Cám thương các nước không nơi cậy nhờ. (KT, 202, 47)
(Xứ Sài gòn : có thể hiểu là miền Nam)
Sau này, Sai gòn biến đổi, không còn là đồng bằng, không còn là thành thị nơi ăn chơi có thanh lâu kỹ nữ (điếm), không còn karaoké ôm, càphê ôm. .. Sai gòn vắng vẻ, không người qua lại, không phố phường, không tên đường phố ( bảng chỉ đường) khan hiếm hàng hóa (của cải) :
Ở đất đồng không phải Sài gòn,
Mà buộc điếm đem lòng lấy của.
Có người đi, chó bên mới sủa,
Có chỉ đường biết của để đâu.
(KT 281, 25)
Saigon trước kia thuộc Thủy Chân Lạp, là vùng sông nước, đầm lầy. Người Việt Nam đến phá đầm lầy, đổ đất, đổ xà bần lấp ao hồ mà lập thành phố xá, làng mạc. Vùng Saigon trước đây cứ đào xuống là thấy toàn đá, xà bần. Điều này thấy dân ta đã khai phá vùng hoang phế này thành phố xá. Nhưng người Việt Nam chỉ xây đắp cái vỏ bên ngoài, còn tận dưới đáy địa tầng, trong lòng quả đất thì vẫn là mênh mông sông nước. Nay đến lúc, nước dưới quả đất sẽ phun lên, không cách nào đắp lại được. Có thể rồi đây, thiên địa tuần hoàn, Saigon lại thành Thủy Chân Lạp ngày xưa! Ngày nay, bọn Cộng sản tìm cách bịt cống, đổ rác lấp hồ ao, sông ngòi để lấy đất bán lấy tiền nhưng chúng nó chỉ uổng công vô ích và làm hại nhân dân vì chúng không chống cự nổi Trời Phật!
Gia Định bất an : Thương bề Gia Định tịnh bất an (TG 268, 147)
Rạch Giá sẽ thay đổi, hóa thành núi:
Đồng Rạch Giá xuất sơn đều đất
(TG 269, 2)
Sau lập lại Bạc Liêu hết muối,
Sau có nổi năm mười hòn núi,
Đem lộn về núi muối Hà Tiên (KT 282, 27)
Bà Rịa hóa thành đồng bằng:
Đất đồng nay Thị Rịa ( Bà Rịa) ký tình (KT 272, 8)
Hòn Mường Khai nổi trước phải phân (KT 270,3)
Phát triển nhất là Cần Lố:
Đồng Cần Lố sau cũng bề trên
Sông ngang dọc hai bên phố xá,
Đất Cà Mau phố xá cũng nhiều (KT 275,13)
Vàm Hồng Ngự thị thiền (thành) núi đá. (KT 273, 14)
Đồng Cần Lố sau hết đất sâu,
Nổi giòng đất cát đâu đâu hết rừng (KT 287, 38)
Đồng Cần Lố cửa nhà sung túc,
Đường xe ngựa vầy vui mấy lúc.
Dưới sông thời sung túc tàu ghe... (KT 280, 23)
Bạc Liêu gặp hiểm nguy đầu tiên. Vì chiến tranh hay vì tang điền thương hải?
Lập nguy tiền tại xứ Bạc Liêu
Sát Nam địa Tàu tiêu mới đáng.
.. .. . . . . . . . . .
Cũng vì bởi Tàu man quấy rối
(KT 278, 20)
Mấy câu này liền nhau, do đó mà ta có thể đoán Trung Cộng đánh Việt Nam là chiếm Bạc Liêu đầu tiên . Chiếm vùng này để chiếm Việt Nam , khống chế Thái Lan, Ấn Độ Phi Luật Tân, Singapore và chặn đường thủy đạo của Âu Mỹ. Đánh Bạc Liêu, Cà Mâu thì bất ngờ lắm vì ai cũng nghĩ Trung Cộng sẽ đánh từ biên giới miền Bắc.
Châu Đốc cũng bị thiệt hại:
Hạt Châu Đốc hai ngoài tiêu xuất ( TG 274, 12)
Hạt Châu Đốc it cười nhiều khóc.(KT 279, 22)
3. Trở lại:
Sa đéc hạt ruộng sâu lập lại (KT 270, 4)
Vàm Hồng Ngự An Giang lập lại
Vở Sơn Tô ngó thấy muôn nhà,
Bửu vật thực của mà vô số
Trân châu trọng thị thiềng (thành) quán phố (KT,270, 4)
Đất Đồng nay trở lại Láng Bà (KT 270, 4)
Tồn Hà Tiên sau tồn Cần Vọt. .. .
Xem Cao Lãnh nhiều nơi cười nói (KT, 281, 25)
Tiền Thúy Liễu hậu cải Cây Bần
Ngày sau mé biển định phần mọc ra (KT 284, 32)
4. Phồn thịnh
Đất Biên Hòa thiên địa Tây An (KT 279, 21)
Các vùng Cao Lãnh, An Lưong, Thạnh Mỹ, Kiến An... sẽ trở thành nơi an lạc:
Cao lãnh chợ Tiếng, Mỹ Trà
An Lương ,Thạnh Mỹ, Định Hòa, Kiến An
Dồi lòng son phấn trung cang,
Phật trời mở hội trường an Định Hòa.(TG 237, 85)
Tứ phương bát loạn, Láng Linh vinh kỳ (TG 247, 105)
Chùa Công Phủ Long châu đại điện,
Tồn Long Ấp lập tiền dĩ hạ.. .
Thời Hưng Thới tận lao chi mỹ.
(TG258, 118)
Chùa Công Phủ ngày sau Phật cất,
Có Trung Lang ( Lương) lập thất lầu chuông.
(KT 271, 5)
Thới sơn, Hưng Thới thành vượng địa
Đầu bài đặt để Thới sơn,
Lập làng Hưng Thới vui hơn xứ nào.
(TG 241, 93)
Thạnh Mỹ, Mỹ Trà là nơi Phật địa (KT 270, 4)
Thiền ( Thành) đô thị lập làng Thạnh Mỹ,
Ngoài ngõ bát (?) Phật Trời lập kỷ,
Thuyết di ngôn lập Mỹ Trà thôn,
Cõi trung trần như ngoại càn khôn,
Long châu tự lập thôn Hưng Thới
Phật để chỗ Nam bang quyền quới (quý) (KT 270, 4)
Đất Cà Mâu phố xá cũng nhiều (KT 275, 13)
Sau này thời thượng nguyên, nhiều nơi phát triển, nhưng rõ rệt là nơi biên giới Việt Miên, vùng Thất Sơn, nơi phát tích Bửu Sơn Kỳ Hương sẽ thành nơi đô thị, có thể trở thành kinh đô mới.
Như đã nói trên, thời hạ nguyên bị đọa, đến đời thượng nguyên, dân Nam Kỳ không còn khốn khổ ( cày cấy chai lưng) mà được phước. Lúc này Phật giáo phát triển, Bửu Sơn Kỳ Hương hồi phục:
Đất Nam kỳ cày cấy chai lưng
Đọa mấy đời mấy kiếp cũng ưng.
Khi phép giáo tấn hưng Hương Bửu.
Tích thiện gia bảo an linh cửu,
Vi nhơn nan tri sửu hưởng vinh.
Vọng Đường trào hai chữ khương ninh.
Nguyện Hán thất trung tinh kế hậu. (KT 282, 28)
(Đường trào, Hán thất: Mong Việt Nam sau này thịnh vượng như nhà Đường, nhà Hán)
Sau Nam kỳ trở nên hưng vượng vì một số ăn ở hiền lành, có căn tu:
Lục tỉnh hiền Phật tổ quy lai.
(TG, 260, 132)
Nam kỳ niệm Phật có căn giữ hình. (KT, 292, 47)
Theo ông Ba, Nam Kỳ có Phật Thầy trấm yếm bằng năm "ông thẻ" cho nên rồi cũng được bình an rồi sau sẽ hưng thịnh:
Ngăn tiền lộ mộc bài ông thẻ,
Trấn tứ phương đủ lễ muôn binh
Trường giúp đường hai chữ khương ninh
Phật độ chí muôn binh trợ lực...
Nam kỳ hưởng thọ quốc gia..
Đồng Nai xứ quản nam phát khách... (KT259, 129)
Ông Ba Thới đã tiên đoán đúng rất nhiều, còn một số việc, tương lai sẽ rõ. Về phương diện văn chương, tác phẩm này là một trường thiên hiếm có so với Kim Vân Kiều và Lục Văn Tiên.
Ông Ba đã chịu ảnh hưởng của Lục Vân Tiên:
Ghét là ghét kẻ hổn hào
Thương là thương kẻ anh hào lập thân
Ghét là ghét kẻ vô ân
Thương là thương đức thánh nhân dạy đời
Ghét là ghét kẻ cải lời
Thương là thương kẻ thất thời lâm nguy
(Ngồi buồn)
Ông Ba có lối thơ rất độc đáo: kết hợp vè, nói lối ,song thất lục bát :
Người lại bày binh bố trận cho người An nam,
ấy là cũng một tánh tham -
người bày ra xanh, vàng đen, đỏ,
người An-nam nhiều kẻ thiệt khôn khôn mà chẳng rỏ,
vùng bỏ đọa Phật mà theo Tàu.
(Vân Tiên)
Bá tánh lập tiền, phiền tiếng nói,
Ngồi trần không nói, ói ra cơm.
Chí dốc gánh thơm đơm cúng Phật,
Nào hay lột trật vật mù u.
Khó cúng trung thu, tu không mắt,
Bánh mì Tây bắt cắt làm hai. TG, 267, 146)
Nhơn chánh thời lập ý chí riêng,
Bất khúc tùng đảo điên tà quỷ.
Tài thắng đức tiền suy hậu bỉ,
Đức thắng tài tiền kỷ hậu cang (KT, 270, 4)
Ngoài ra, cách dùng chữ của ông cũng là vượt thời đại. Thời Ngô Đình Diệm nhiều báo hô hào bài trừ "Tứ đổ tường" nhưng danh từ này đã được ông Ba dùng trong Kim Cổ Kỳ Quan: " Tứ đổ tường trí hỉ anh hùng" ( KT, 283, 30).
Trong khoảng 2000, cộng sản chiếm đất nhân dân, danh từ " dân oan" xuất hiện, nhưng trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông Ba đã viết: "Dân chẳng an nay thiệt nhà oan" (KT, 287, 38)
Nói tóm lại, Kim Cổ Kỳ Quan đã đạt mục đích khuyến tu, tiên đoán thời vận thế giới và Việt Nam, đồng thời ông đã dùng nghệ thuật truyền thống khá trau chuốt và tài nghệ.
Xin đọc các đề tài liên hệ:
Như chúng tôi đã nói, Kim Cổ Kỳ Quan do ông Nguyễn Văn Thới (1866-1925) viết nhằm khuyên người tu Phật, khuyên người ăn ở nhân đức, nếu ai ăn ở ác, thì sẽ bị Trời Phật trừng phạt. Không riêng gì Phật giáo, mà các tôn giáo khác cũng khuyên các đệ tử phải lo tu đạo vì ngày tận thế sắp tới, kẻ ác sẽ bị tiêu diệt.
Ông Ba là người tu đạo, hiểu đạo và hiểu đời. Tác phẩm này đồ sộ hơn Lục Vân Tiên, Thơ Câu Hai Miêng nhưng vì thực dân cấm đoán, lòng người sợ hãi nên chỉ truyền tụng bí mật. Cũng vì thực dân tự xưng hùng mạnh, khoa học tối tân, và cũng vì cộng sản tuyên truyền duy vật khoa học cho nên một số người bỏ Nho, Phật,Lão, và nghi ngờ Nho, Phật Lão. Thực tế thì tôn giáo nào mà chẳng dị đoan, phản khoa học, ngay cả chủ nghĩa Marx cũng duy tâm, phản khoa học và thêm vào đó là tàn ác, độc tài. Lại nữa, tôn giáo nào mà chẳng có những thần thoại, phép màu và các bậc tiên tri.Ông Nguyễn Văn Thới viết sách khuyên người hành thiện, còn Marx khuyên người hành ác. Ông Ba tiên tri có nhiều điều đúng còn Marx tiên tri không những sai lầm mà còn gây ra nạn diệt chủng ghê gớm.
Ngay lúc sinh thời, ông biết một số kính phục ông, nhưng một số chê bai, bảo ông điên khùng, nhưng vì mến đạo, thương đời, ông phải viết các sách này để giáo huấn và cảnh tỉnh. Trong thiền định, ông đã thấy cơ nguy cho nên ông có nhiệm vụ thông báo cho thế giới, cho đồng bào. Ông Ba đã nói lên nỗi khổ tâm và lòng can đảm của ông:
Như lươn chẳng luận thẹn lời,
Tôi như cá cạn lỡ vời trong ao.
. . . .. ... .... .....
Sợ trời Phật ghét lòng tôi,
Hạ trần người ghét thiệt tôi không sờn.
.. . . .. . . . . .....
Nói đạo bổn đạo chẳng nghe,
Mua vườn, mua đất, trồng tre ở đời"
(TG,196,cột 3,4)
(Ca dao có câu: "Vườn rộng chớ trồng tre ngà/ Nhà rộng chớ để người ta ở cùng". Tre ăn đất cho nên trồng tre rồi thì không thể trồng cây khác, coi như bỏ hoang. Trồng tre nghĩa làm việc vô ích. Còn nhà mà cho người ở đậu thì sẽ có nhiều điều bất tiện).
Mặc ai theo thuở theo thời,
Tôi nay theo Phật theo Trời cãi đây.
(TG 197, 6)
Nghe biết ông Thới tầm thường,
Khùng nói tầm bậy ai dùng nói nghe.
(TG 218, 48)
Thua buồn nói chuyện minh mông,
Tầm khùng làm biếng ở không nói hoài.
. .. .. . .. .. ... .... ... .... ..
Tầm khùng nói thiệt có căn,
Lửa mau bén củi nóng ăn đổ dầu.
(TG 223, 58)
So với Sấm Trạng Trình và sấm của Nostradamus thì Kim Cổ Kỳ Quan phần nhiều nói rất rõ. Chúng tôi xin trình bày hai phần là phần Tổng quát và phần Cá biệt.
Phần Tổng quát là nói chung thế giới, toàn quốc, còn phần cá biệt nói về tình hình các tỉnh, các địa phương.
I.TỔNG QUÁT
1. Thế giới
Thế giới sẽ thay đổi do sự vận chuyển và thay đổi của các thái dương hệ, các hành tinh, và do sự thay đổi của trái đất, có thể do chiến tranh hạt nhân nhưng trên tất cả là do Trời Phật an bài. Và tất cả đều theo luật biến dịch mà các triết gia Đông Tây đã xác định. Phật giáo đã nhấn mạnh luật vô thường như Phật giáo , Nho, Lão cũng đã nói nhiều đến thịnh suy, bỉ thái, tang điền thương hải. Các đạo sư Cao Đài, Hòa Hảo đã nói nhiều về cuộc biến chuyển này. Nay thế giới đang buổi hạ nguyện mà Phật gọi là Mạt pháp thời đại. Sau thời hạ nguyên, thế giới chuyển qua thượng nguyên. Thương nguyện , trung nguyên rối đến hạ nguyên, cứ như thế mà chuyển vận. Những điều ông Nguyễn Văn Thới nói là theo những quan điểm triết lý trên. Hơn nữa, ông Ba không lý thuyết suông, mà ông đã chứng nghiệm mọi việc từ lớn đến nhỏ mà một số đã ứng nghiệm.
Vũ trụ lúc bấy giờ hoàn toàn khác, ngày đêm đều sáng.vì có cả mặt trăng, mặt trời mọc cùng một lúc và không lặn. Hạt lúa to như truyện đời xưa, không cần cối chày, xay máy, chỉ lột vỏ nấu ăn:
Thương đời nhật nguyệt song khai..
. . . . Lúa thời lột vỏ gạo này nấu ăn
(TG. 222,56)
Hạt lúa ngày nay vỏ vàng ruột trắng, còn sau này vỏ trắng ruột đỏ:
Sau hột lúa vỏ trắng thật tình,
Trong ruột thời đỏ thế bình bất vi.
Trước vỏ vàng, ruột trắng phân ly,
Trung nguyên khiến biến người khi tiêu điều. (KT, 201, 48)
Trong tương lai loài người sẽ không bệnh tật, đủ cơm áo và thái bình:
Ngày sau không có bịnh đau...
... Nước nào lúa gạo đủ hoài. . .
.. , Không người nghèo khổ, hạ ngu.. .
(TG, 212, 35; TG, 222, 55)
Sau này trai gái đều đẹp như tiên; vợ chồng theo chế độ một vợ một chồng, vua sáng tôi hiền:
Thương đời không giặc bình yên,
Người đều thanh sắc tựa tiên non Bồng.
Thương đời chỉ thắm tơ hồng,
Xe xăng buộc chặt một chồng mà thôi.
(TG,222,55)
Ngày sau, loài người không sanh đẻ như bây giờ:
Ngày sau không nếp sanh thai.
Vật nào trời Phật hoàn lai mình nhờ.
(TG,222,56)
Phụ nữ không kinh nguyệt:
Đường kinh nguyệt phụ nhơn sau bỏ
(KT 269, cột 2):
Đường kinh nguyệt sau Phật xử tiêu (KT 265, 33)
2. Tây phương và Việt Nam
Như đã nói trong bài trước, ông Ba Thới là đệ tử ông Trần Văn Nhu lãnh tụ chống Pháp, và ông cũng là nạn nhân của thực dân Pháp. Cũng như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Thủ Khoa Nghĩa, ông ghét thực dân:
Trách là trách kẻ đầu Tây,
Tại mình a ý không ngay hại mình.
(TG 224,59)
Vinh chi quan tổng dân làng,
Hùa theo Tây quốc lập đàng tham ngân"
(TG 236, 84)
Nhưng trong thiền định, ông thấy người Tây phương xuyên suốt lịch sử với những biến chuyển chính sách, chế độ. Thực dân tàn ác, tư bản bóc lột nhưng còn khá hơn nhiều chế độ, chủ nghĩa tự xưng là công bằng, tự do, dân chủ. Trước và trong đệ nhị thế chiến, các dân thuộc địa Á Phi nổi lên chống thực dân, đế quốc, nhưng sau đệ nhị thế chiến, Anh Pháp tàn phế, các quốc gia được độc lập dưới ngọn cờ đỏ búa liềm, họ mới cay đắng nhận ra rằng thực dân, đế quốc ác độc và bóc lột nhưng còn tốt hơn cộng sản và đồng bào của họ! Ông Ba mất năm 1925 nhưng đã thấy việc Pháp về nước năm 1955 và Mỹ về nước năm 1975
Ông Ba cho biết sau một thời gian người Tây phương sang Việt Nam rồi về nước hết.
Cộng sản kết tội Pháp Mỹ tàn ác, bóc lột nhưng Pháp Mỹ còn để cho Việt Nam có con đường sống , còn cộng sản thì bóp cổ nhân dân lè lưỡi. Pháp Mỹ còn cho vài tờ báo tư nhân ra đời, ai có tội thì được xét xử phân minh . Người tù có chỗ nằm rộng, được ăn khá no, được thăm nuôi. Còn Cộng sản thì tù chen chúc như đàn súc vật, thiếu thực phẩm, thuốc men, bỏ tù dài hạn, không xét xử . Nếu có ra tòa thì cũng là một thứ tòa án với luật rừng, và công lý bịt miệng. Ca dao mới có câu :" Nam Kỳ khởi nghĩa mất Công lý/ Đồng Khởi vùng lên hết Tự do". Ông Ba đã thấy sau khi Pháp Mỹ về nước, Việt Nam không còn tòa án, không còn công lý:
Tây buồn cởi ngựa về Tây.
Tòa án mất rồi chẳng ai hay.
Nam Việt đổi dời nay chi thế
(TG,263,138)
( Ngày nay người Việt Nam gọi Pháp, Mỹ Nga, Tiệp, Ba Lan,...là Tây hết).
Thực dân, đế quốc về nước, mình không nên mừng mà cũng đừng tức giận mắng họ là đế quốc, thực dân, xâm lược, bóc lột bởi vì Tây Mỹ về rồi thì bọn khác đến càng tàn ác, gian tham hơn! Đúng vậy, Pháp, Mỹ đã rút khỏi Việt Nam trước 1975 để rồi cộng sản độc tài thống trị:
Ai dè là việc lạ kỳ,
Khi không Phật khiến Tây tùy quy Tây.
Tây về người cũng không hay,
Đừng sanh dạ dữ mắng Tây bây giờ!
(TG 212, 36)
Sau khi Tây phương về nước thì Việt Nam rất đói khổ, càng ngày dân nghèo càng khổ trong khi bọn tư bản đỏ giàu sang lại càng cướp phá và bóc lột:
Càng thấy khổ ngày càng túm rụm,
Tây về Tây người khó bụm khu. (KT 278, 19)
(Túm rụm: co rút, héo hon, tàn tạ; Người khó: người nghèo; bụm : lấy tay che, đậy; khu: đít. Nghĩa là càng ngày càng khổ, không quần áo phải ở truồng, lấy tay che hạ bộ. Cũng có thể hiểu là quá nghèo, không quần áo, khó lấy tay che hạ bộ ).
Ông Ba thấy lúc này Việt Nam phân hóa, kẻ theo Nga Tàu, người theo Pháp Mỹ:
Bầu Tây thêm vị bầu Tàu.
(TG, 231, 73)
Trước ông Ba Thới , Tứ Thánh là một cậu bé mười tuổi, được thánh nhập xác phàm , đã nói:
Thương công chú cộng chan dầm/ Đánh đông dẹp Bắc mà lầm kế ai. (TỨ THÁNH )
Việt Cộng, Trung Cộng tự hào là chiến thắng, đánh bại đế quốc Mỹ. Nhưng Tứ Thánh và ông Ba cho rằng Trung Cộng và Việt Cộng đã mắc mưu Mỹ. Khổng Minh là người Trung Quốc, song Mỹ cũng có Khổng Minh. Trong thập niên 60-70, Mỹ can thiệp, không cho Nga đánh Trung Cộng. Mỹ giúp cho con nhái Trung Cộng phát triển bằng con bò để rồi đem tiền bạc sản xuất vũ khí đe dọa thế giới.
Mỹ đẩy Việt Cộng vào tay Trung Cộng, rồi bị Trung Cộng bóp nhừ xương. Bọn chóp bu Việt Cộng cam tâm nô lệ nhưng dân Việt Nam và dân Á Châu căm thù Trung Cộng. Việt Nam thay bàn cờ 1975 là do Mỹ đã chơi ngón thí xe, thí pháo. Việt Nam 75 về sau có hai hạng người kẻ khóc người cười. Một hạng mất tiền, một hạng được bạc. Hạng mất tiền là người Cộng Hòa bỏ tài sản, bỏ tính mạng ( Tiền bỏ mất) đi tìm tự do, và dân oan mất nhà cửa, ruộng đất.
Còn hạng được bạc là tư sản đỏ, độc quyền chiếm tài sản quốc gia. Nhưng bọn chúng phải đối diện với kinh tế suy sụp, phải trở lại con đường tư bản chủ nghĩa mà chúng vênh vang gọi là "đổi mới "( Chốn cũ lòng lo lành trở lại ) như Đặng Tiểu Bình. Từ đó chúng mặc sức lấy vàng bạc, đô la ( Bạc tân trắng nõn), để rồi lại phải lạy Mỹ . Càng ngày, đa số nhân dân, và đảng viên nhận thấy cộng sản là con đường sai lầm (cơn nghèo làm dại) cho nên họ phải theo dân chủ Tây phương để chống Trung Cộng và chủ nghĩa cộng sản:
Nam Việt đổi dời nay chi thế
Khổng Minh lập kế giả thiền.
Cơm chúa ai ăn, tiền bỏ mất,
Bạc tân trắng nõn cất để dành.
Chốn cũ lòng lo lành trở lại
Cơn nghèo làm dại phải lạy tây. (KT 263, 138)
3. Việt Nam và Trung Quốc
Khi khi Pháp chiếm Việt Nam (1865), Pháp bắt Việt Nam không được giao thiệp với Trung Quốc. Từ khi quân Thanh bị vua Quang Trung đánh bại, Trung Quốc không còn xâm lăng Việt Nam, nhất là khi Trung Quốc bị các nước Tây phương chiếm cứ, thì họ giữ thân không nổi làm gì có mộng xâm lược.
Những thiên trước, ông Ba chỉ trích người Tàu tu hình thức, bán tranh, bán tượng. Nay ông chỉ trích Trung Cộng giúp Việt Cộng rồi xâm lược Việt Nam. Ông Ba Thới nhìn thấy sau khi ông chết, Việt Nam lại tôn Trung Quốc làm thầy , một ông thầy bất chánh khiến cho nhân dân và đất nước Việt Nam phải chịu bao khổ nạn từ Hồ Chí Minh cho đến sau này.
Líu lo nói chuyện Xiêm Lào,
An Nam đem dạ nghe Tàu bại gia
.. . . . .. . . . .. .. .
Cớ sao dạ bạc theo Tàu,
Minh sư bất chánh đạo nào mà ngay.
(Tiềng giang, 202, cột 15)
Ông ghét bọn Trung Quốc làm thầy cho bọn nô lệ Việt Nam:
Thương người biết đạo ra bài,
Ghét là thiệt ghét Tàu thầy An Nam.
(tr.206, cột1)
Bọn Trung Cộng đã làm Thầy ( cố vấn) cho Việt Cộng, dạy chính trị, quân sự và cung cấp vũ khí cho Việt Cộng, Việt Cộng đắc chí, cam tâm làm nô lệ bưng trầu rót nước:
An Nam con chú bên Tàu,
Ra tài dao bảy dạ vào búa tay.
Nghề võ người thiệt tài hay,
Bưng mâm, bưng nước giỏi nay lạ lùng.
(TG218, 48)
Ông cũng ghét bọn Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan theo Trung Quốc:
Thương người trí huệ nhịn thua,
Ghét là thiệt ghét a dua Tây tàu.
(tr.206, cột1)
Thời chiến tranh, Việt Nam chia thành nhiều phe: phe theo Tây, phe theo Tàu, chẳng ai theo phe Việt Nam:
Tính Tây người lại tính Tàu,
Tính dư trăm việc, tiếng nào tính Nam?
(TG, 239, 90)
Nước lộn xỏ rế Tây Tàu,
Đố ai biết đặng chỗ nào nước trong?
(TG, 202; 16)
Bọn Việt Cộng ca tụng Trung Quốc vĩ đại, Hồ Chí Minh nịnh hót Trung Quốc với Việt Nam là
" đồng chí anh em, núi liền núi, sông liền sông", và ngày nay, nhiều học giả, nhiều kinh tế gia thế giới ca tụng Trung Quốc giàu mạnh, sẽ thay vai trò Mỹ nhưng ông Ba cho rằng Bắc Kinh xưa nay là đồ chẳng ra gì:
"Bắc kinh xưa chẳng ra gì" ( TG, 204, 20)
Pháp vì lòng tham chiếm Việt Nam rồi cũng phải bỏ. Tàu tham chiếm Việt Nam rồi cũng phải lui:
Tây tham tây chịu gian nan,
Tàu tham Tàu cũng chớ tham khúc tùng.
(TG 239, 90)
Ông Ba Thới đã thấy một ngày Trung Quốc sẽ bị mất nước và Việt Nam do đó mà phục quốc, đòi lại những đất đai đã mất, và không còn bị Trung Quốc lấn áp về kinh tế, chính trị:
Bắc kinh mất, nước Nam nhờ
(Tiềng giang, 209, 29)
Bọn Trung Quốc đã quấy rối, xâm phạm Việt Nam:
Nên muôn dân kẻ dọc người ngang,
Cũng vì bởi Tàu man quấy rối (KT, 278, 20)
Trung Quốc đã áp dụng chính sách đốt sách chôn học trò của Tần Thủy hoàng , và đàn áp, đánh chiếm Việt Nam cho nên Phật xử mất nước:
Tiều Tàu kinh thơ phế thất,
Phật xử người tuyệt quốc tùng bang
Qua nước Nam lấn lướt dọc ngang. . . (KT 277, 18)
Sát Nam địa Tàu nguy mới đáng
(KT 276, 20)
Vì dã tâm xâm chiếm Việt Nam mà TRung CỘng gặp thất bại đắng cay:
Bắc Kinh dương lụy cảm chuổi sầu,
Tại vì ai sớm dức Nam lầu. (KT 260,131)
(Nguỳên bản viết dức là dưc lác, là la mắng. TRung Cộng la mắng bọn Việt cộng như tôi tớ, nhục mạ nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên có thể là dứt viết sai chính tả thành "dức". Sớm dứt thì đúng nghĩa hơn nghĩa là nhanh chóng xâm chiếm Việt Nam. Nếu là dứt Nam lâu thì có nghĩa là Trung Công sẽ xâm chiếm Việt Nam, chấm dứt nền độc lập của Việt Nam, biến Việt Nam thành quận huyện của Tàu cho nên cuối cùng Trung Cộng phải tiêu tan)
Hiện nay Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và biên giới Việt Nam. Chúng dàn quân biển Đông. Chúng có đánh chiếm toàn quốc Việt Nam hay không? Theo văn nghĩa, các chữ" Sát Nam", " Qua nước Nam" , " dứt Nam Lâu " thì có nghĩa là Trung Quốc sẽ đổ bộ, chiếm đánh và tàn sát người Việt từ Bắc chí Nam chứ không phải chỉ lấp ló ở biên cương và ngoài hải đảo.
4. Việt Nam và các nước lân cận
Ông Ba nói nhiều đến Cao Miên sau này sẽ khổ:
-Đất Nam Vang sau thấy it người,
Cao Miên thiệt nhiều lần cay đắng. (KT 279, 22)
-Cao Miên phải lo dùng cơm gói' (KT 285, 33)
5. Việt Nam
(1). Việt Nam trả quả
Đạo Phật, đạo Nho đều nói thuyết nhân quả. Ông Ba tinh thông Nho học và Phật học. Ông cũng như các đạo sư Bửu Sơn Kỳ Hương đều tổng hợp được tinh hoa tam giáo:
Tích thiện phùng thiện để dành,
Tùng ác nhi khứ nan hành cung ly.
(TG, 198,8)
Thiện ác đáo đầu có khi,
Tất chung hữu báo thanh ghi nan kỳ.
(TG 233; 77)
Chữ rằng "Thiên võng khôi khôi,
Sơ như bất lậu" thương ôi Phật Trời.
(TG 233, 78)
Tận thế đa khổ người ôi,
Lòng trong dạ đợi bạc vôi để dành.
Không có một việc làm lành,
Trông đời mau tới tan tành cái thân'
(TG, 200, 12)
Từ thời còn sống, ông Ba đã thấy người Việt Nam mang nhiều tội và phải bị quả báo.
+ Bỏ đạo cha ông theo tà đạo:
Chẳng thương giữ Bửu Sơn Kỳ
Chữ Hương ngó thấy vị vi chữ vì" (TG, 195, 1)
+Người dân không hiểu đạo, chạy theo tiền tài, danh vọng,
Niệm Phật it kẻ phân bì,
Phân bì tiền bạc tưởng gì tớ tôi (TG 196, 3)
+Ngay cả hạng tu hành Phật giáo và các tôn giáo khác cũng vậy:
Bữa niệm, bữa chẳng nam mô,
Bạc tiền có lợi, nam mô lợi gì! (TG 196,3)
Tôi nói anh em hờn nhiều,
Đời nay tu bạc, tu tiền biết chi".(TG, 216; 44)
Trong thời chiến, một số đạo hữu phản đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Hòa Hảo, Trình Minh Thế phản đạo Cao Đài. Sau này một số khác cũng phản đạo như Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu, Thích Thanh Từ, Hồng y Phạm Minh Mẫn, linh mục Phan Khắc Từ.. . làm tay sai cho Việt Cộng bán nước phản dân,
Trong sách, ông Ba Thới dùng Nam Việt, Nam Kỳ, lục tỉnh. Nam Việt là nước Việt Nam mà cũng có nghĩa là Nam kỳ. Vì một số gian ác, ngu dốt gây tai họa cho đất nước và nhân dân nên họ phải gánh tai ương:
Đồng các nước dạ toan hãm hiếp,
Cho nên mới sinh đời lộn kiếp,
Trị nước Nam hãm hiếp người Nam (KT 277,18)
Có lời ghi Nam Việt mắc đày.( KT, 273, 10),
Đừng có trách thời tại người Tây,
Người Nam nhiều việc không ngay hại mình.
(KT 283, 30)
Người Việt Nam nói chung và người Nam Kỳ nói riêng một số phản quốc:
Có lời ghi Nam Việt mắc đày,
Tội phản chúa, tội này phải xử.
(TG.260, 132)
Gặp khi chiến tranh, bom đạn, dân chúng chạy vào các nhà chùa, nhà thờ, đình miếu lánh nạn. Có những lúc như thế, sau này mới được an cư:
Nước Nam Việt đình trú phủ thờ.
Các nơi bát lọan nhà thờ chiêu an.
Hết việc hiệp mới thấy việc tan,
Hết tan rồi hiệp mới an nước nhà. (KT 202, 47)
Qua thời Thượng nguyên, Việt Nam sẽ thay đổi:
Đất Nam Việt tiền Tần hậu Tấn,
Cuộc trời xui hậu Hớn tiền Tần.
(TG 263, 137; KT 279,22)
Chừng nào Nam Việt thạnh thời,
Hết lo, hết sợ, hết lời sầu riêng. (TG 197, 6)
Phật để chỗ Nam bang quyền quới.
(KT, 270, 4)
Người Việt Nam ở ăn coi khác,
Bối ngã ba Rạch Các thiếu gì.
(KT 278, 20)
Việt Nam trở thành một đại quốc:
Nam bang đai quốc lương kỳ,
Tần Hớn Nhất Hổ phép tùy tóm thâu.
(TG, 222, 56)
Sau này Việt Nam gồm ba nước, các nước kia phục tòng Việt Nam:
Ba nước trả quả lương thì,
Tiền căn báo hậu phục tùy Nam bang.
Đem về Tam quốc sửa sang,
Đại Nam trường thọ,trị an thuận hòa.
(TG 238, 88)
Sau này, một số nước khỏa thân, một số nước mang y phục. Việt Nam sau này sản xuất quần áo cho các nước mang y phục:
Nước nào ăn mặc che hình,
Qua Nam mua bán dễ tình hậu phân.
(TG, 223, 57)
Nam Tần (phải chăng là Việt Nam ) có tục ăn trầu, sau này không còn ăn thuốc, ăn trầu. Hiện nay, ở Việt Nam còn một số ăn trầu, xỉa thuốc nhưng tuyệt đại đa số đã bỏ tục này.
Sau Nam Tần không có trầu vôi,
Không ăn thuốc điếu tanh hôi miệng người (KT 287, 38)
II. CÁ BIỆT
1. Nam Kỳ bị trừng phạt:
(1).Một số phản thầy
Nguời buồn bắt mặt trông mai,
Xưa nay một lệ tại ai phụ thầy.
Chí công tội phước tỏ bày,
Nam kỳ lục tỉnh việc này ai hay.
(TG, 204, 20)
(2). Một số người Nam kỳ bỏ đạo cha ông theo tà giáo:
Đất Nam Kỳ không tưởng ông bà ( TG, 259,129)
Nơi nơi hủy hoại đạo Thầy,
Chẳng nghe lời Phật càng ngày tiêu hao.
(TG 205, 21)
(3). Một số người Nam Kỳ tham tiền, tham danh hại đồng bào:
Một số theo Pháp như Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lôc giết hại đồng bào. Đến 1945, người Nam Kỳ lại hại Nam Kỳ mà những tay đồ tể thời đó là Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn đã giết đức Huỳnh giáo chủ, các đảng viên cộng sản đệ tứ như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, các nhân sĩ miền Nam như Hồ Văn Ngà. ,..
Thương bề Nam Việt dắt Tây.
(TG 222,56)
Nam Việt ở đời với Tây,
Nam Kỳ thôi hết ai hay trị đời (TG 196,2)
Tức là thậm tức Nam bang,
Tức người Nam Việt hại oan Nam Kỳ.
(TG,204, 20)
Vì vậy mà Nam kỳ có thời phải bị khốn khổ:
Đất Nam Kỳ cày cấy chai lưng (KT 282, 28)
Bắc kinh xưa cũng chẳng gì,
Nam kỳ nay hại Nam kỳ chớ ai? ( TG,264, 20)
Nam kỳ phải trả quả là phải chịu sự đàn áp, thống trị của Bắc Kỳ. Chính bọn miền Nam như Nguyễn Hửu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Đoàn Văn Toại, Trương Như Tảng .. . đã theo Cộng sản, lập thành Mặt trận giải phóng Miền Nam giúp Bắc Việt xâm lăng miền Nam.
Ông Ba Thới thấy rõ Bắc Kỳ chiến thắng, Bắc Kỳ vào cai trị Nam Kỳ. Bọn Bắc Việt cho dân Nam Kỳ là dân ngụy ( ngụy bang) ngu dốt, đồi trụy. Ông Ba đại diện cho dân Nam Kỳ bác bỏ danh từ này. Theo từ điển, "ngụy" có nhiều nghĩa:
-Ngụy là gian trá, như ngụy trang, ngụy biện;
-Ngụy là phe chống đối triều đình, là quân giặc ( làm ngụy).
Ông bảo rằng dân miền Nam không phải là " ngụy" vì họ là những người chính nghĩa, theo phe dân chủ, tự do, là những chiến sĩ chống độc tài cộng sản. Cộng sản không thể bắt chước Nguyễn Ánh gọi Tây Sơn bằng "ngụy" và bắt đầu hàng:
Đây tôi chẳng phải Tây Sơn,
Đem lòng bắt ngụy xưng hơn chẳng đầu."
(TG 205, 22)
Dưới mắt bọn cộng sản miền Bắc , con người Miền Nam xấu xa, tồi bại. Nửa triệu phụ nữ là gái mãi dâm, hàng triệu thanh niên và đàn ông là trộm cướp, lưu manh, các thầy giáo, bác sĩ, kỹ sư là ngu dốt, các văn nghệ sĩ là thấp kém. Họ cho rằng chỉ có dân Bắc Kỳ, dân xã hội chủ nghĩa mới là tài gỉỏi vì họ đã thắng Mỹ, là đã tốt nghiệp đại học chống Mỹ, đã là "đỉnh cao trí tuệ của loài người". Sau 1975, những dân "ngụy quân, ngụy quyền" bị thất nghiệp, từ bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, giáo viên và văn nghệ sĩ ta đều bị vứt bỏ, bị cấm đoán hoặc phải đào tạo lại, hoặc phải xem xét lý lịch kỹ càng.
Trước lo chúa khổ Bắc Kỳ,
Sau lo Nam Việt bất tùy ngụy bang.
Văn chương Bắc địa hiển vang,
Nam Kỳ dốt nát gian nan chẳng lừa,
(Tiềng giang, 203, cột17)
(Chúa khổ là dân cùng khổ Bắc Kỳ XHCN. Cũng có thể hiểu là chúa ác, kẻ rất tàn độc.)
Như đã nói ở trên, Bắc kỳ XHCN tự phụ đỉnh cao trí tuệ, văn chương, nghệ thuật cao siêu nhưng dưới mắt ông Ba, văn chương, nghệ thuật Bắc Kỳ là rơm rác vô giá trị vì đó là văn câu cơm, sản phẩm đặt hàng, nghệ thuật tuyên truyền giả tạo đúng như Hồ Dzếnh, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Khải đã thú nhận. Tuy vậy, bọn chúng vẫn lăng xăng mồm năm miệng mười ( xuất tam thanh: năm ba giọng lưỡi) tuyên truyền khoác lác:
Mắt đoái xem Bắc địa thương dà,
Văn chương chữ nghĩa sao mà không căn.
Xuất tam thinh mặc sức lăng xăng
(KT , 292, 47)
2. Bất an và Biến đổi
Bắc Kỳ sẽ thành sông ngòi, ao chuôm:
Đất Bắc địa giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng (KT, 271, 6)
Trong kháng chiến, Cộng sản đã phá rừng lấy gỗ xuất cảng bỏ túi như Nguyễn Văn Trấn đã tố cáo trong" Việt Cho Mẹ và Quốc Hội" . Tô Hoài cũng cho rằng xưa nhìn lên phía bắc núi non trùng điệp. Nay từ Phú Thọ nhìn lên trống trơn. Như vậy là "không còn cọp ở rừng"đúng như ông Ba đã thấy! Sau này thiên địa biến chuyển e rằng sẽ đổi thay lần nữa. Nay Hà Nội, Huế, Saigon và các tỉnh miền Trung ngập lụt liên miên, phải chăng đó là dấu hiệu báo trước các nơi này sẽ thành ao, hồ, sông biển?
Sài gòn dân cư đông đúc, có lúc tan tác ( bể om). Dân chúng Sai gòn và các tỉnh phải bỏ nước vượt biển, các nước thấy dân ta bơ vơ nên thương xót ( cảm thương) mà giúp đỡ bằng cách cho định cư tại Mỹ,Pháp, Anh,Úc, Nhật, Đức. . .
Thương đông đảo là xứ Saì gòn,
Bể om việc trước, hao mòn khắp nơi.
Cũng như buồm ra biển chạy khơi,
Cám thương các nước không nơi cậy nhờ. (KT, 202, 47)
(Xứ Sài gòn : có thể hiểu là miền Nam)
Sau này, Sai gòn biến đổi, không còn là đồng bằng, không còn là thành thị nơi ăn chơi có thanh lâu kỹ nữ (điếm), không còn karaoké ôm, càphê ôm. .. Sai gòn vắng vẻ, không người qua lại, không phố phường, không tên đường phố ( bảng chỉ đường) khan hiếm hàng hóa (của cải) :
Ở đất đồng không phải Sài gòn,
Mà buộc điếm đem lòng lấy của.
Có người đi, chó bên mới sủa,
Có chỉ đường biết của để đâu.
(KT 281, 25)
Saigon trước kia thuộc Thủy Chân Lạp, là vùng sông nước, đầm lầy. Người Việt Nam đến phá đầm lầy, đổ đất, đổ xà bần lấp ao hồ mà lập thành phố xá, làng mạc. Vùng Saigon trước đây cứ đào xuống là thấy toàn đá, xà bần. Điều này thấy dân ta đã khai phá vùng hoang phế này thành phố xá. Nhưng người Việt Nam chỉ xây đắp cái vỏ bên ngoài, còn tận dưới đáy địa tầng, trong lòng quả đất thì vẫn là mênh mông sông nước. Nay đến lúc, nước dưới quả đất sẽ phun lên, không cách nào đắp lại được. Có thể rồi đây, thiên địa tuần hoàn, Saigon lại thành Thủy Chân Lạp ngày xưa! Ngày nay, bọn Cộng sản tìm cách bịt cống, đổ rác lấp hồ ao, sông ngòi để lấy đất bán lấy tiền nhưng chúng nó chỉ uổng công vô ích và làm hại nhân dân vì chúng không chống cự nổi Trời Phật!
Gia Định bất an : Thương bề Gia Định tịnh bất an (TG 268, 147)
Rạch Giá sẽ thay đổi, hóa thành núi:
Đồng Rạch Giá xuất sơn đều đất
(TG 269, 2)
Sau lập lại Bạc Liêu hết muối,
Sau có nổi năm mười hòn núi,
Đem lộn về núi muối Hà Tiên (KT 282, 27)
Bà Rịa hóa thành đồng bằng:
Đất đồng nay Thị Rịa ( Bà Rịa) ký tình (KT 272, 8)
Hòn Mường Khai nổi trước phải phân (KT 270,3)
Phát triển nhất là Cần Lố:
Đồng Cần Lố sau cũng bề trên
Sông ngang dọc hai bên phố xá,
Đất Cà Mau phố xá cũng nhiều (KT 275,13)
Vàm Hồng Ngự thị thiền (thành) núi đá. (KT 273, 14)
Đồng Cần Lố sau hết đất sâu,
Nổi giòng đất cát đâu đâu hết rừng (KT 287, 38)
Đồng Cần Lố cửa nhà sung túc,
Đường xe ngựa vầy vui mấy lúc.
Dưới sông thời sung túc tàu ghe... (KT 280, 23)
Bạc Liêu gặp hiểm nguy đầu tiên. Vì chiến tranh hay vì tang điền thương hải?
Lập nguy tiền tại xứ Bạc Liêu
Sát Nam địa Tàu tiêu mới đáng.
.. .. . . . . . . . . .
Cũng vì bởi Tàu man quấy rối
(KT 278, 20)
Mấy câu này liền nhau, do đó mà ta có thể đoán Trung Cộng đánh Việt Nam là chiếm Bạc Liêu đầu tiên . Chiếm vùng này để chiếm Việt Nam , khống chế Thái Lan, Ấn Độ Phi Luật Tân, Singapore và chặn đường thủy đạo của Âu Mỹ. Đánh Bạc Liêu, Cà Mâu thì bất ngờ lắm vì ai cũng nghĩ Trung Cộng sẽ đánh từ biên giới miền Bắc.
Châu Đốc cũng bị thiệt hại:
Hạt Châu Đốc hai ngoài tiêu xuất ( TG 274, 12)
Hạt Châu Đốc it cười nhiều khóc.(KT 279, 22)
3. Trở lại:
Sa đéc hạt ruộng sâu lập lại (KT 270, 4)
Vàm Hồng Ngự An Giang lập lại
Vở Sơn Tô ngó thấy muôn nhà,
Bửu vật thực của mà vô số
Trân châu trọng thị thiềng (thành) quán phố (KT,270, 4)
Đất Đồng nay trở lại Láng Bà (KT 270, 4)
Tồn Hà Tiên sau tồn Cần Vọt. .. .
Xem Cao Lãnh nhiều nơi cười nói (KT, 281, 25)
Tiền Thúy Liễu hậu cải Cây Bần
Ngày sau mé biển định phần mọc ra (KT 284, 32)
4. Phồn thịnh
Đất Biên Hòa thiên địa Tây An (KT 279, 21)
Các vùng Cao Lãnh, An Lưong, Thạnh Mỹ, Kiến An... sẽ trở thành nơi an lạc:
Cao lãnh chợ Tiếng, Mỹ Trà
An Lương ,Thạnh Mỹ, Định Hòa, Kiến An
Dồi lòng son phấn trung cang,
Phật trời mở hội trường an Định Hòa.(TG 237, 85)
Tứ phương bát loạn, Láng Linh vinh kỳ (TG 247, 105)
Chùa Công Phủ Long châu đại điện,
Tồn Long Ấp lập tiền dĩ hạ.. .
Thời Hưng Thới tận lao chi mỹ.
(TG258, 118)
Chùa Công Phủ ngày sau Phật cất,
Có Trung Lang ( Lương) lập thất lầu chuông.
(KT 271, 5)
Thới sơn, Hưng Thới thành vượng địa
Đầu bài đặt để Thới sơn,
Lập làng Hưng Thới vui hơn xứ nào.
(TG 241, 93)
Thạnh Mỹ, Mỹ Trà là nơi Phật địa (KT 270, 4)
Thiền ( Thành) đô thị lập làng Thạnh Mỹ,
Ngoài ngõ bát (?) Phật Trời lập kỷ,
Thuyết di ngôn lập Mỹ Trà thôn,
Cõi trung trần như ngoại càn khôn,
Long châu tự lập thôn Hưng Thới
Phật để chỗ Nam bang quyền quới (quý) (KT 270, 4)
Đất Cà Mâu phố xá cũng nhiều (KT 275, 13)
Sau này thời thượng nguyên, nhiều nơi phát triển, nhưng rõ rệt là nơi biên giới Việt Miên, vùng Thất Sơn, nơi phát tích Bửu Sơn Kỳ Hương sẽ thành nơi đô thị, có thể trở thành kinh đô mới.
Như đã nói trên, thời hạ nguyên bị đọa, đến đời thượng nguyên, dân Nam Kỳ không còn khốn khổ ( cày cấy chai lưng) mà được phước. Lúc này Phật giáo phát triển, Bửu Sơn Kỳ Hương hồi phục:
Đất Nam kỳ cày cấy chai lưng
Đọa mấy đời mấy kiếp cũng ưng.
Khi phép giáo tấn hưng Hương Bửu.
Tích thiện gia bảo an linh cửu,
Vi nhơn nan tri sửu hưởng vinh.
Vọng Đường trào hai chữ khương ninh.
Nguyện Hán thất trung tinh kế hậu. (KT 282, 28)
(Đường trào, Hán thất: Mong Việt Nam sau này thịnh vượng như nhà Đường, nhà Hán)
Sau Nam kỳ trở nên hưng vượng vì một số ăn ở hiền lành, có căn tu:
Lục tỉnh hiền Phật tổ quy lai.
(TG, 260, 132)
Nam kỳ niệm Phật có căn giữ hình. (KT, 292, 47)
Theo ông Ba, Nam Kỳ có Phật Thầy trấm yếm bằng năm "ông thẻ" cho nên rồi cũng được bình an rồi sau sẽ hưng thịnh:
Ngăn tiền lộ mộc bài ông thẻ,
Trấn tứ phương đủ lễ muôn binh
Trường giúp đường hai chữ khương ninh
Phật độ chí muôn binh trợ lực...
Nam kỳ hưởng thọ quốc gia..
Đồng Nai xứ quản nam phát khách... (KT259, 129)
Ông Ba Thới đã tiên đoán đúng rất nhiều, còn một số việc, tương lai sẽ rõ. Về phương diện văn chương, tác phẩm này là một trường thiên hiếm có so với Kim Vân Kiều và Lục Văn Tiên.
Ông Ba đã chịu ảnh hưởng của Lục Vân Tiên:
Ghét là ghét kẻ hổn hào
Thương là thương kẻ anh hào lập thân
Ghét là ghét kẻ vô ân
Thương là thương đức thánh nhân dạy đời
Ghét là ghét kẻ cải lời
Thương là thương kẻ thất thời lâm nguy
(Ngồi buồn)
Ông Ba có lối thơ rất độc đáo: kết hợp vè, nói lối ,song thất lục bát :
Người lại bày binh bố trận cho người An nam,
ấy là cũng một tánh tham -
người bày ra xanh, vàng đen, đỏ,
người An-nam nhiều kẻ thiệt khôn khôn mà chẳng rỏ,
vùng bỏ đọa Phật mà theo Tàu.
(Vân Tiên)
Bá tánh lập tiền, phiền tiếng nói,
Ngồi trần không nói, ói ra cơm.
Chí dốc gánh thơm đơm cúng Phật,
Nào hay lột trật vật mù u.
Khó cúng trung thu, tu không mắt,
Bánh mì Tây bắt cắt làm hai. TG, 267, 146)
Nhơn chánh thời lập ý chí riêng,
Bất khúc tùng đảo điên tà quỷ.
Tài thắng đức tiền suy hậu bỉ,
Đức thắng tài tiền kỷ hậu cang (KT, 270, 4)
Ngoài ra, cách dùng chữ của ông cũng là vượt thời đại. Thời Ngô Đình Diệm nhiều báo hô hào bài trừ "Tứ đổ tường" nhưng danh từ này đã được ông Ba dùng trong Kim Cổ Kỳ Quan: " Tứ đổ tường trí hỉ anh hùng" ( KT, 283, 30).
Trong khoảng 2000, cộng sản chiếm đất nhân dân, danh từ " dân oan" xuất hiện, nhưng trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông Ba đã viết: "Dân chẳng an nay thiệt nhà oan" (KT, 287, 38)
Nói tóm lại, Kim Cổ Kỳ Quan đã đạt mục đích khuyến tu, tiên đoán thời vận thế giới và Việt Nam, đồng thời ông đã dùng nghệ thuật truyền thống khá trau chuốt và tài nghệ.
Ngày 20 tháng 11 năm 2010
Nguyễn Thiên Thụ
Nguyễn Thiên Thụ
Xin đọc các đề tài liên hệ:
- NGUYỄN THIÊN THỤ * KIM CỔ KỲ QUAN CHÚ GIẢI
- NGUYỄN THIÊN THỤ * VẬN MỆNH VIỆT NAM QUA KIM CỔ KỲ QUAN
- NGUYỄN VĂN THỚI * KIM CỔ KỲ QUAN
- TỨ THÁNH
CÁC WEB SITES LIÊN HỆ ĐẾN BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
& KIM CỔ KỲ QUAN, TỨ THÁNH
http://thanhsi.org/samgiang-giangxua/SamGiang-GiangXua.htm
http://www.hoahao.org/D_1-2_2-193_4-2947_5-20_6-3_17-69_14-2/
http://bskh.net/2007/12/tuthanh.htmhttp://www.hoahao.org/D_1-2_2-113_4-3909_5-50_6-1_17-8_14-2/#nl_detail_bookmark
No comments:
Post a Comment