Cập nhật: 02:37 GMT - thứ năm, 29 tháng 3, 2012
Nhật Bản xem các tranh
chấp lãnh hải gồm vùng Biển Đông là phép thử cho hướng đi tương lai
của Trung Quốc trong khi hải quân Quân Giải phóng đang thực hiện
chiến lược ba giai đoạn.
Một chuyên gia quốc phòng Nhật Bản cho biết như
vậy trong buổi thuyết trình hôm 27/3 ở Hong Kong bàn về tham vọng trên
biển của Trung Quốc.
Ông Shinji Yamaguchi phát biểu trong
bối cảnh tiếp tục có căng thẳng giữa Tokyo và Bắc Kinh sau khi Nhật Bản
đầu tuần này tuyên bố một đảo thuộc khu vực tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư
là "tài sản quốc gia".
Tại cuộc thảo luận có mặt các nhà ngoại giao và
học giả các nước như Mỹ, Pháp, Anh, Trung Quốc và Ấn Độ, ông Shinji
Yamaguchi tóm tắt những ý chính trong báo cáo gần đây về hải quân Trung
Quốc, đuợc công bố bởi cơ quan của ông, Viện Nghiên cứu Quốc phòng Nhật
Bản (NIDS) - đơn vị có quan hệ mật thiết với Bộ Quốc phòng.
Sứ mạng của ông Shinji Yamaguchi ở Hong Kong
dường như nhằm quảng bá quan điểm của giới chuyên gia quốc phòng Nhật và
cũng để thử phản ứng dư luận trong vùng, đặc biệt là Trung Quốc.
Báo cáo của NIDS nói tranh chấp lãnh hải ở Biển
Đông bắt đầu căng thẳng hơn từ cuối thập niên 1960 và tiếp tục là một
trong những yếu tố gây bất ổn ở Đông Nam Á cho đến nay.
Thái độ của Trung Quốc cũng thay đổi tùy thời
điểm. Thập niên 1970 và 1980 chứng kiến Trung Quốc dùng vũ lực chiếm
Hoàng Sa năm 1974, bãi đá Gạc Ma năm 1988 và đảo đá ngầm Vành Khăn năm
1995.
Sang cuối thập niên 1990, Bắc Kinh thay đổi
giọng điệu và bắt đầu bàn bạc với Asean, dẫn đến Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 hứa hẹn kiềm chế và không dùng vũ
lực.
Tuy vậy, ông Yamaguchi ghi nhận, Trung Quốc lại
trở nên cứng rắn hơn từ vài năm qua, cùng với sự tăng tiến hoạt động của
các cơ quan Hải giám và Ngư chính. Ví dụ, tàu Ngư chính lớn nhất mang
số hiệu 311 được điều ra Biển Đông từ tháng Ba 2009 và ngày càng có
những hành động khiêu khích, mà điển hình là dính líu vụ cắt cáp tàu
Viking 2 của Việt Nam hồi tháng Sáu 2011.
Tài liệu của NIDS cho biết Quân Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc cũng chủ động diễn tập trên Biển Đông cùng các cơ quan
giám sát hàng hải.
Mỗi năm đều có ít nhất một sự kiện như vậy kể từ
2009, trong đó có cuộc tập trận nhằm "giành lại đảo do quân thù chiếm
đóng" hồi mùa hè năm ngoái.
Mục tiêu chiến lược
Dẫn lại báo cáo của NIDS mà ông là một trong bảy
người hiệu đính, ông Yamaguchi cho rằng Trung Quốc có ít nhất ba mục
tiêu chiến lược từ trung đến dài hạn ở Biển Đông.
Mục tiêu thứ nhất - giúp giải thích sự cứng rắn
hơn của Bắc Kinh – là bảo đảm các lợi ích, đặc biệt là kinh tế, trên
Biển Đông. Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc ngày càng lớn, khi mà phụ
thuộc vào dầu thô nhập khẩu đã lên đến 55.2% năm ngoái, cao hơn cả Mỹ
(53.5%). Bắc Kinh ngày càng tin rằng sẽ tuyệt vời nếu khai thác được tài
nguyên dưới lòng Biển Đông.
Điều đáng nói, các dự báo của Trung Quốc về trữ
lượng ở vùng biển này thường cao hơn của nước ngoài. Một nghiên cứu của
Trung Quốc cho rằng có 36.78 tỉ tấn dầu và 7.55 nghìn tỉ mét khối khí
đốt ở nơi được gọi là "Vịnh Ba Tư thứ hai", trong khi phía Nhật Bản lại
dẫn nguồn của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ đoán chỉ có khoảng 3.78 tỉ
tấn dầu, còn Husky Energy của Canada thì nói khí đốt tự nhiên gần quần
đảo Trường Sa ở khoảng 170 tỉ mét khối.
Viện Quốc phòng Nhật giải thích Trung Quốc "ngày
càng bất mãn với các nước có tranh chấp mà lại đang đi đầu trong khai
thác tài nguyên ở Biển Đông". Bằng việc gia tăng tuyên bố chủ quyền và
phô trương sức mạnh quân sự, Trung Quốc "cố gắng ngừng việc khai thác
một chiều của các nước và kiếm tìm lợi thế trong vấn đề này".
Nhiều chuyên gia Trung Quốc, cả dân sự và quân
sự, ủng hộ cách tiếp cận này, cho rằng cần đưa hải quân kiểm soát Biển
Đông để từ đó chiếm phần hơn khi bước vào đối thoại và đàm phán. Học giả
nổi tiếng Diêm Học Thông, Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc tế của Đại học
Thanh Hoa, tuyên bố Trung Quốc lâu nay nhường nhịn láng giềng nhưng lại
bị lợi dụng và vì thế cần có những biện pháp trừng phạt.
Mục tiêu thứ hai là bảo đảm tuyến đường vận tải
trên Biển Đông, trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc ngày càng gắn chặt với
kinh tế toàn cầu. Trung Quốc đặc biệt phụ thuộc vào các tuyến đường vận
chuyển đi qua eo biển Malacca - khoảng 60% tàu bè đi qua nút thắt cổ
chai này treo cờ Trung Quốc hoặc là đang vận chuyển hàng cho Trung Quốc.
Phía Nhật nói Trung Quốc lo ngại việc các láng
giềng tranh chấp như Malaysia và Việt Nam đặt mua tàu ngầm. Theo báo
cáo, tàu ngầm là vũ khí thích hợp để phá vỡ các tuyến đường biển huyết
mạch, và đây cũng là lý do để Trung Quốc đẩy nhanh sự hiện diện của hải
quân trong vùng.
Mục tiêu thứ ba xa hơn là đối chọi với quân lực Mỹ mà một dẫn chứng là căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam.
Nhật Bản cho rằng nếu năng lực phòng thủ và tấn
công ở Hải Nam được hoàn thiện, nó có thể "làm tăng khả năng đối phó với
sự hiện diện của hải quân Mỹ ở vùng biển xung quanh Trung Quốc". Tàu
ngầm từ Hải Nam sẽ không chỉ ra đến Biển Đông mà thậm chí đi xa tới tây
Thái Bình Dương để hạn chế hoạt động của quân Mỹ.
Một tham vọng lớn của Trung Quốc là cố gắng chế
tạo tên lửa đạn đạo đối hải có thể bay xa hơn 1500 cây số để bắn chìm
tàu sân bay Mỹ trước khi quân Mỹ kịp vào Vòng phòng thủ thứ nhất
(first island chain) trong trường hợp xung đột ở Đài Loan hay Biển Đông.
Phía Nhật nhận định mặc dù Trung Quốc "có thể thành công" trong tương
lai gần, nhưng hiện tại dự án này vẫn gặp nhiều trục trặc kỹ thuật.
Nhật tìm đối tác
Ông Yamaguchi cho hay là quốc gia có tranh chấp
với Trung Quốc ở Biển Hoa Đông, Nhật Bản buộc phải quan tâm đến tranh
chấp giữa Trung Quốc và các nước ở Biển Đông. Trước mắt, khác với ở Biển
Đông, Trung Quốc không khiêu khích Nhật Bản bằng những sự kiện như quấy
rối tàu khảo sát nước ngoài hay tập trận đạn thật rầm rộ. Lý do chính
có lẽ đơn giản là vị thế của Nhật cũng như rủi ro làm xấu đi quan hệ với
Mỹ, vốn đang đặt căn cứ quân sự tại Nhật.
Tuy vậy, Nhật Bản cáo buộc ngày càng xuất hiện
nhiều tàu Ngư chính và Hải giám của Trung Quốc ở khu vực quần đảo tranh
chấp Senkaku, mà Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư. Năm ngoái, hai máy bay do
thám của Trung Quốc cũng lần đầu tiên bay đến sát bãi đáp của Nhật trên
đảo. Tokyo lo ngại nếu sức mạnh quân sự của Trung Quốc cải thiện trên cả
Biển Hoa Đông, thì có thể Trung Quốc sẽ có thái độ cứng rắn tương tự
như đã xảy ra ở Biển Đông.
Bản báo cáo của NIDS khuyên Trung Quốc rằng "gây
áp lực với các nước tranh chấp ở Đông Nam Á có thể chỉ khiến các nước
lo bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hung hăng hơn, mà kết quả là làm tăng
căng thẳng khu vực". Theo họ, Trung Quốc cần hòa hoãn hơn và có những
bước cụ thể để hoàn tất một bộ quy tắc ứng xử trên biển với các nước
Asean.
Một chuyên gia về Nhật Bản, GS. Jean-Pierre
Cabestan (Đại học Hong Kong Baptist), nói với BBC tại hội thảo rằng mức
độ cạnh tranh hay hợp tác giữa Nhật và Trung Quốc sẽ phụ thuộc liệu Bắc
Kinh có tôn trọng trật tự hiện nay ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nơi Nhật
đã quản lý hành chính, hay không.
"Nó cũng phụ thuộc hai nước có tìm được cách
cùng khai thác ở khu vực Shirakaba/Chunxiao. Đó sẽ là nguồn cảm hứng cho
Trung Quốc và Đông Nam Á tìm kiếm thỏa thuận tương tự ở Biển Đông," ông
nói.
Đó là hy vọng, còn thực tế gần đây giới học giả
và dư luận Nhật ngày càng lo ngại về sự tăng cường quân sự của Trung
Quốc. Khảo sát của BBC World Service năm 2011 cho hay 88% người Nhật có
phản ứng tiêu cực trước viễn cảnh quân đội Trung Quốc trở nên mạnh hơn.
Chính phủ Nhật cũng đã chuyển trọng tâm từ Lực
lượng Tự vệ trên Bộ sang trên Biển, đồng thời tái khẳng định liên minh
Mỹ - Nhật, củng cố quan hệ với các nước "cùng chia sẻ giá trị" như Úc và
Hàn Quốc. Tại Đông Nam Á, Tokyo cũng nhấn mạnh hợp tác đa phương, trong
đó có với Việt Nam. Năm ngoái, Thứ trưởng quốc phòng Nhật tuyên bố nước
này sẽ đóng vai trò "hợp tác cụ thể hơn" trong cuộc gặp với giới chức
Asean bàn về Biển Đông.
Và nói như một phóng viên thường trú ở Tokyo,
tin tức tại Nhật Bản hiện nay hình như chỉ xoay quanh hai vấn đề: sức
khỏe của nền kinh tế Trung Quốc (mà Nhật và cả châu Á phụ thuộc), cùng
các bài viết về đe dọa an ninh của Trung Quốc.
Mới nhất trong tuần này, Nhật Bản và Trung Quốc
lại cãi vã sau khi Chánh văn phòng nội các Nhật Bản Osamu Fujimura cho
hay một trong bốn đảo ở khu vực Senkaku/Điếu Ngư được xếp vào tài sản
quốc gia.
Bốn hòn đảo được Nhật chính thức đặt tên vào đầu
tháng Ba. Đáng chú ý, theo báo Nhật, năm ngoái Tokyo tuyên bố kiểm soát
23 đảo trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, nhưng đã chừa ra bốn
đảo trên để tránh kích động Bắc Kinh. Như thế, động thái liên quan bốn
đảo này giờ đây phải được xem là sự cố ý đối đầu ngoại giao.
Sự cạnh tranh chiến lược Nhật - Trung có thể
được một số nước tranh chấp Biển Đông ngầm hoan nghênh. Hôm 23/3 lần đầu
tiên diễn ra Đối thoại Chiến lược cấp thứ trưởng giữa Nhật và
Philippines. Theo truyền thông Nhật, Tokyo có gợi ý cho Philippines tàu
tuần tra theo hình thức vốn vay ODA.
Nhưng Trung Quốc sẽ xem những động thái như vậy
là sự bao vây. Không khó để hình dung tranh
No comments:
Post a Comment