Bài 21:BẾN TẠ BÚ
Bến
Tạ Bú một sớm mai mình đến
Nước
sông sâu xanh biếc tự đáy lòng
Hòn
cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng
Theo
ngựa thồ sang tận Ít Ong
Ơi
thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én
Bản
Pha Khinh ai đó hẹn ta về
Đêm
nay “lẩu xiêu” vui cạn chén
Bếp
nhà sàn tiếng “Pí” thổi say mê
Bến Ta
Bú nào có ai ra tắm
Để vừng trăng đắm
đuối giữa dòng
Mình là trai bản
Phiêng Ngùa lạ lẫm
Đến bến thuyền
xuống ngựa ngẩn ngơ trông.
Nguyễn Khôi
“Nước Sơn La ma Tạ Bú”
(cũng có người nói ma Hòa Bình)
Bài
22: CÂY ĐÀO TÔ HIỆU -
AI TRỒNG?
Ở
khu di tích bảo tàng “nhà tù Sơn La” trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ
(thời Pháp thuộc) nay là trụ sở UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở
UBND tỉnh Sơn La.
Ở
cách cổng nhà tù xưa một quãng có một ô nhỏ “Izôlê” (Isolé – nơi cách ly)rộng
khoảng 4m2, hình tam giác vuông - xưa có cửa là một phiến gỗ lim
dày, vừa để 1 người lọt ra vào. “I đôlê” ở ngay bức tường sau khu thường phạm,
bước chân ra là đường hành lang tròn (đường Rông - Ronde).
Năm
1940, nơi đây nhốt 1 người tù Cộng Sản: Anh Tô Hiệu (30 tuổi) nguyên Bí thư
Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương - quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc
Ninh. Sau những trận đòn thù của thực dân Pháp ở các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa
Lò… anh Tô Hiệu đã bị “lao” nặng nên bị nhốt cách ly ở “I zôlê”- lúc này anh Tô
Hiệu là Bí thư chi bộ nhà tù, tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng
anh vẫn làm việc hết mình… đến ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối cùng
trong vòng tay các đồng chí của anh.
Nhà
tù Sơn La do thực dân Pháp xây để nhốt tù chính trị, tường cao, sàn sân láng ci
ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường và sân, kể cả đường “nông” đều dầm đá
dăm + ci ment (bê tông) dày hàng nửa mét (để đề phòng tù nhân đào hầm tẩu
thoát). Luật lệ canh gác nghiêm ngặt, thường có lính gác đi lại liên tục ngày
đêm nên không ai có thể đào bới trồng cây trong sân nhà tù.
Sau
Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do các
đ/c ở đây kể lại) khu di tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang…
Sau
năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ khu tự trị Thái Mèo đặt ở Chiềng Ly (Thị
trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ (Chiềng Lê là một thành phố chết và đổ
nát)… thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng Cơi, huyện Mường La (Châu Mường La)… mãi tới
năm 1962 mới thành lập thị xã Sơn La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ
Thuận Châu về thị xã , nhà cửa mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế
tích, nay là Thành phố.
Năm
1958, nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế ở Sơn La, trong tùy bút “Sông Đà” nổi
tiếng, ở trang 129 - 134, ông có viết thiên “Đào cộng sản” nhân sau khi đến
thăm khu phế tích nhà tù Sơn La xưa “tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường
đá, nhìn xi măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, và mấy gốc
muỗm. Thế thôi. Tôi biết. Ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu”… Rồi nhà
văn xuống khu vườn ổi chân đồi Khau Cả viếng mộ anh Tô Hiệu:
“Đứng
trước mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi “nơi nghĩa trang tiễn biệt này,
cần có đào”…. Đối với bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái
vui hoa quả XHCN của Sơn La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy
trên chữ vàng bia đá”.
Nhà
văn Hoàng Công Khanh (1921 - 2010). Một bạn tù của anh Tô Hiệu, trong cuốn “Hoa
nhạn lại hồng” NXB Văn Học 1992, trang 157 có viết “sau các trận bom Pháp, nhà
tù Sơn La chỉ còn cái cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường “rông” gần “I đôlê”
bỗng xuất hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và
hoa phớt hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm qua thăm vết
tích nhà tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) anh Tô Hiệu đã vui miệng
nói đó là cây đào Tô Hiệu”.
Rồi
truyền miệng, báo chí đăng tải, rồi Bảo
tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu” một huyền thoại thành hiện thực ca ngợi
một chiến sỹ cộng sản.
Năm
1980 - 1981 tỉnh mới tu bổ lại thành khu di tích bảo tàng cách mạng.
Nguyễn
Khôi tôi lên công tác Sơn La 21 năm (1963 - 1984) có cái may mắn: Hồi 1966 -
1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy Sơn La, 1978 - 1984 làm thư ký ở văn
phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi làm việc cách 1 bức tường là sang khu di
tích nhà tù, cách chỗ gọi là “cây đào Tô Hiệu” vài chục mét.
Nguyễn
Khôi tôi cũng có cái may mắn đã từng được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi
thăm lại nhà tù… và được nghe các bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. Năm 1984 tôi
về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều kiện cận kề bác Trường Chinh, Nguyễn Hữu
Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy… lại thường xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên
có điều kiện hỏi về chuyện nhà tù Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù
ở đây 5 năm cùng các bác Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ,
Xuân Thủy… bác Xuân Thủy, hồi sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
Qua
câu chuyện về cây đào “Tô Hiệu” thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời
trước 1945, nhà tù chưa bị phá thì không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau
này, đó là chuyện của Nhà Văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp
lửng “Cây đào ông Tô Hiệu”, rồi sau đó được báo chí “môđiphê”(modifier-làm thay
đổi) như khẳng định… câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ nên nói là “cây
đào bên buồng giam Tô Hiệu”. Cây đào này (bên cạnh còn nhiều cây đào khác) hiện
nay được Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây
đào Tô Hiệu”… vậy thực là do ai trồng? Đó là do chim rừng, gió núi đem những
quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi Khau Cả gieo vào các khe nứt trên sân
nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên thành cây… tất cả đào Sơn La hầu hết
là “trời trồng” (mọc tự nhiên) không phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá
yêu tấm gương hy sinh của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh
thêm cái “tình”: Ho lao rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở
hoa cho các thế hệ mai sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, âu cũng
là một tấm lòng, không nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất cái biển đã ghi tên
kia đi… (Rendez César ce
qui appartient à césar)./.
Bài 23:
NHÀ SÀN THÁI
Nhà sàn của người Thái -
Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa
đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:
- Nhà sàn khung cột: bộ
khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn -
nghèo) “hươn chim mạy”.
- Nhà sàn vì kèo “vì
cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các
vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ
để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).
Nhà sàn Thái bao giờ cũng
làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền
thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo
hình Rùa đứng.
“Khửn song phái/ cái song
đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là “tang
chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan”
là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi
nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9
vía).
Cầu thang đầu bên phải
“tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: “chik pháy”
phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng,
phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc
lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.
Gian “quản” có bàn thờ tổ
tiên “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng
gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là
biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân.
Nhà sàn Thái vừa trang
nhã vừa chắc chăn:
Hươn đi tẳng cang tèn
Hươn én tẳng cang vên
Lốm luông pặt bấu chại
Lốm hại pặt pấu pay.
(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
Nhà đẹp
dựng giữa mường
Gió to
thổi không xiêu
Bão lớn
không lay động).
*
Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)
Theo
Quắm tố mướng (kề chuyện mường)
Thì:
Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím…
Người
Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam)
đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ
đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được
phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt
trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là
“khau cút” = sừng cuộn.
Theo
tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô
típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…
Khau
cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu
chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
Khau
cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để
chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa
còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết
hướng vào nhau so le trên khau cút.
Có
nhiều cách hiểu về khau cút:
Đó
là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau
dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường.
Trên
bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông
suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.
*
Các loại khau cút:
-
Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là
dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải).
-
Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm
(cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường.
-
Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài
trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn
hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà.
-
Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc
“quan võ”.
-
Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.
Bố
trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của
chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn
đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.
Vị
trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là
gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột
xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là
vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa
chồng ngủ.
Con
rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ
chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.
Sợi
dây “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi
dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này.
Tuyệt
đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.
Con gái
chưa chồng
|
Vợ chồng
con rể
|
Vợ chồng
con trai
|
Bố mẹ
(ông bà)
|
Vợ chồng
chủ nhà
|
Khách đàn
ông
|
*
Các vị trí khác:
-
Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
-
Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)
-
Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn
xia phía ngoài nhà.
-
Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại)
châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma
Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái”
là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi
tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo,
thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất
phác, nói năng vừa phải.
Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết,
hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn.
“Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt
mềm
Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và
nhanh tiếp thu cái mới.
Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu
chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy
con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không
nói dối (ba vẹo).
Có tính bình đẳng bình quyền (không
tự ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao
có Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của
chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái
lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã
ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:
“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc
dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”
(Em khâu vó nên hình chim công /vá
chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống
khiêm nhường đáp lại:
“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi,
khống ai khái
Khuống pai chán dú ngăm nga phả
Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”
(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu
vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang
chơi).
Người Thái có câu “au mia bấng me
nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé
gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để
khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu,
cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm,
ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra
ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:
“Sai pánh
khuổn mư sại lẹo chum bok cai
Hai mư khoa
chum bơk Mường Hỏ
Năng dóng dỏ
nhịp lụa pên pik bin lá”
(Em úp tay
trái nở hoa đào
Ngữa tay phải
thành hoa Mường Hỏ
Khép ngồi khâu
lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức
khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời
khung cửi đi nương, ra ruộng.
“Tứn
tắm húk kem bươn hai
Tứn tắm húk
lai kem bươn hai póng hung”
(Dậy dệt thổ
cẩm cùng trăng sáng
Dậy dệt vải
hoa cùng trăng tỏ rạng đông).
Người
phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội… đã tạo ra
các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô
vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng
chàng:
“Lả
tắm phải pên póc nong xe
Pánh tắm pé
pên khoáng lái lủ
Chụ tắm khẳm
pên khoáy lai lương
Cốn táng
phương lướt le chăử hảy”.
(Em dệt sợi
thành vóc hoa dâu
Em dệt tơ
thành gấm hoa vân chéo
Dệt thổ cẩm
rực rỡ hoa văn
Ước được em
thêu dệt khăn đào).
Như
vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên
trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu
thương hết dạ.
8/3/2012.
Bài 25: PÍ
PẶP (1)
Chàng trai Thái tỏ tình với người yêu
bằng tiếng sao trúc (pí pặp) được nhà thơ Lò Vũ Vân đặc tả bằng sáu câu thơ
ngắn với 36 con chữ rơi thánh thót rót vào lòng cô gái:
Tiếng
Pí Pặp lảnh lót
Rơi
xuống nhà sàn em
Nhà
sàn em tỏa sáng vừng trăng
Tiếng
Pí Pặp nỉ non đêm ngày
Trải
thảm lên thang gỗ chín bậc
Rơi
vào đáy tim em.
Lò Vũ Vân
_________
_________
(1)
Pí Pặp: Sáo trúc nhỏ
Pí
= sáo “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu)
Pí
láo = sáo trúc dài
*
Nhà thơ Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô
Hiệu. TP Sơn La.
BÌNH: Một tứ thơ lạ, ý rất xưa mà đủ
cả tình, cảnh, sự - đủ cả nhạc, họa… thật là độc đáo đến lịm người.
Bài 26: TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI
Người
Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết
thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo
Vi Liên:
1.
Căm khảu (Phần về cơm):
Khảu
nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm
thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
Khảu
bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen),
khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các
màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm
(với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)…
2.
Căm chảm (các loại chấm).
*
Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).
*
Các loại “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá
chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi),
chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa
(cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve),
chéo đẻ mọn (nhộng tăm).
*
Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng),
mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng
cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm
manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).
*
Các loại nước chấm:
Nặm
xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm
má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh
van (mì chính).
3.
Căm kin (phần về các món ăn):
*
Phau (đốt) – chí (nướng)
Các
món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh
mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to).
*
Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam
phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).
*
Các loại “mốc” cá:
Gói
lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay
(rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …
*
Các loại Ók gồm:
Hầm
cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo),
ók bon, ók ốt…
*
Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng
(da), nhọk nhứa (thịt).
*
Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):
Mọk
cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn
(don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua
ngọt).
*
Các loại pho (đùm lá vùi nướng):
Pho
hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày
(nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).
*
Các loại nửng (xôi) “đồ”:
Nửng
táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man
ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák
pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)…
*
Các loại quả:…
*
Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải
xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông),
cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút
nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven.
4. Các
loại lá (lá non và ngon):
Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư
ngoa, bâư đứa.
5. Các loại măng ăn ghém sống:
Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk
(đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…
6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún
nặm.
7. Các loại quả thơm:
Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he
(tiêu), măk ớt (ớt).
8. Các loại vỏ:
Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)
Năng chưa bi mi
9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét
xe):
Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa
ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi
(chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…
10. Các loại bánh kẹo:…
11. Các loại chụp (nộm):
Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)…
12. Nó xổm (măng chua)
Nó héo (măng khô chua)
Nó hang (măng khô)
13. Các loại củ quả:
Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).
14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được:
Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ),
tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…
15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa
(cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
16. Năm pịa, nặm bi (mật).
17. Kăm cắp (ghém):
* Các loại ghém rau thơm:
Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn,
hon chỉ, hon kip (tỏi).
18. Căm nặm (phần để các món uống):
: Lảu xá chúp (rượu cần mút)
: Lẩu xiêu (rượu cất).
: Lẩu vạng (rượu cái).
Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu
đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)…
Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường
phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
1. Căm khảu (về cơm)
2. Căm chảm (về chấm)
3. Căm kin (về món ăn)
4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống)
Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là
“đĩa muối ớt” coi như đã có chủ nhà (mi
chản hươn) tiếp theo là các món khác.
Do thích ăn “xôi nếp thơm” nên cả hệ
thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức ấy.
Các món ăn “đồ” (không luộc) nên ăn
ngọt đậm (không nhạt)…
Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp
dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể
con người./.
Rượu
cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu
xiêu).
*
Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn
với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong
đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để
gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
*
Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố
ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ
cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối
hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá
chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày
thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài
sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
*VĂN
HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu
cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co
(rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu
Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi
uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước
(sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như
là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi
chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các điệu “khắp”,
múa xòe dập dìu say sưa tới sáng.
Bên
hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, bình
đẳng, không phân biệt ai với ai.
*
Lẩu Xá chính hiệu:
Tháng
11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội
do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước
CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở
tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn
La.
Ở
bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào Thâng
(rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, H’mông)
ở vùng cao.
“Xá”
là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật
là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày ra, khèn Hmông
(khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan
xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống rót nước lã pha thêm vào chum rượu) - nước
rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người
(đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn
cả “bò húc” của Thái Lan). Thật là vui
như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau tưởng
như không còn phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn, là
đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh bình./.
*Đường
lên Tây Bắc xa xôi
Nếp
nhà sàn thấp thoáng
*
Đường lên Tây Bắc quanh co
Tiếng
chim rừng đây đó…
(Nhạc
sỹ Văn An)
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
-
Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ
Bảy mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc lộ 6…
-
Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua
đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
-
Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào
Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
*
Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn,
tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi (đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc
lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX
Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay.
*Cầu
sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ ở Hòa Bình hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ 6
này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
-
Từ cây số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La 256Km
-
Sơn La - Tuần Giáo 56km
-
Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời
Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa phận
Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào
sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay chợ
Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa,
có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46
(cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh
núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây
cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua
hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên
tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xã tới bản
Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú rồi
tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ
đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới chân đèo
là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng
Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông
trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông
vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xã hội hồi những năm 60 của
thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc
Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu,
thịt bò xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng
hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa phận nông
trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1
bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi,
chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có
cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
Cơm
trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống Cò Nòi, Hát lót vượt dốc Mường
Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ chiều là tới thị xã.
Thị
xã Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả
là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ
công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có
21 người).
Thời
đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất
2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất
có 6 tiếng đồng hồ.
2.
NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
“Cho
tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để
cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngã 3 Vực
Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
“Đèo
Lũng Lô anh hò chị hát”
(Thơ
Tố Hữu)
Từ
đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn La). Từ ấy
mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang Tây Bắc và cũng là con
đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân công lên đánh Pháp giải
phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động địa cầu. “Đường lên
Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này.
“Lũng
Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô ngăn
cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa
ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề. Trước ngày hình thành đường 13A, Lũng Lô
chỉ là một con đường mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng
mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn
muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt.
Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với hình tượng là trên
đỉnh đèo mây mù trắng, nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán
cây cổ thụ thì thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải
thích “lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc
(1953) Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường. Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ
không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
3.
Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường
chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm Cò Nòi (co là
cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng
đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn
đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con đường 13A (nay là đường 37) từ
đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi
khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha
Sông Đà lên đèo chẹn.
4, Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh :
Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” thì một dải sông Đà có 8 châu
(huyện).
8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên,
Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh
Biên, Lai Châu và Tuần Giáo.
3 châu thuộc phủ
An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên thì
Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10
ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Trình ban (Chiềng Ban), Trình
chanh (Mường chanh).
- Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một
xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong
(Hiếu Chai - Mường Chai).
-
Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là
Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường
Lay) đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người
Thái trắng).
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường
Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
Hồ Chí Minh viết:
Đi
đường mới thấy gian lao
Núi
cao rồi lại núi cao trập trùng
“Đường
lên Tây Bắc” quả thật là như vậy.
7/3/2012 - NK
Ở
Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một
biểu tượng của quê hương xứ sở… thì ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây
Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một loại cây
thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai
ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá
cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi
Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đã trông thấy cái tán quả cầu xanh
Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như
đang chờ đón đợi ta về…
Ở
cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng
quả thì lại bé như quả trứng gà (có khác gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại
đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả
(thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là
nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước
khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột
vàng óng) thì ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay
Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng
thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân
bản địa da đen như bồ hóng.
Thời
chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị xã, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp
vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông
rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa
che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền
cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai như Mẹ
hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ bình yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra
trận…
Cây
Mắc Chai như ai đứng đợi
Đón
ta về ngọt lịm giấc trưa.
Bài 30: HOA BAN
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan
Péng xướng pan bók khẳm
(Đời son
trẻ như hoa ban
Đời thương như hoa khẳm).
Hoa Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín
hiệu nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người
Sơn La - Tây Bắc.
Nó là loài hòa kỳ diệu gắn bó mật
thiết giữa thiên nhiên với đời sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là
hình tượng thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính
cách cao đẹp, mối tình thủy chung của con người.
Tết xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận
nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô
đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt
nương, khát khao cháy bỏng trời đất và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất
cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây
đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát
trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt.
“Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Đủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ”
- Y Phương.
Đó là mùa động tình (tìm bạn) của con
Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp”
cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh
chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả
bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại
trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn
xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân
và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm
bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là
vậy.
Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các
phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam
Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn
xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ
khẳng khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân
là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu
mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi
Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung.
“Và em ơi, một đêm xuân
Hoa Ban bừng
nở
tần ngần
chào em ”.
“Nghĩ
đến em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng
đầy dòng trôi…”
Lúc
hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo
hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa
Ban tàn anh hãy tra ngô
Hoa
Ban làm quả anh hãy dọn nương tra lúa.
Cây
Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh
nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm
nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối
là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận
gió hòa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Hạt
Ban già rang lên ăn thơm ngậy.
Rễ
Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu để rửa vết thương, sát trùng.
Song hau
hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc
nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính
mùa Ban nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Mãi mãi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc
theo các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun
chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ,
xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự tình
nơi bến tắm bản quê./.
8/3/2012 - NK
Bài
31: ĐÔI NÉT VỀ
LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA
* Người Thái - mơ hồ trong tên gọi?
Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi
“Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và
Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc
Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích Châu là của người
Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan
Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm
(đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà
Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang
(tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13,
trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan
(Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn
na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống
(rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai
quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ
đạo”.
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay),
chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù
Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu Thuận
- Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt -
Yên Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái
(thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2%
toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên
186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386
người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua,
Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm,
(Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam,
Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng,
Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
- Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của
hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
- Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa
nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ
cẩm, số nơi làm đồ gồm.
- Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng,
có tục ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
- Tục lệ ma chay: Chết là về Mường
trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
- Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao,
khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
- Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc
hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam
giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái
đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ
tròn đứng.
Đầu đội
khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng,
màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi lấy
chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
CÔNG TRÌNH
KIẾN TRÚC
Người
thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về
các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối
Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây
của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị
bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở
Sơn La đất cũ?
Người
Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người
chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ
gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở
người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không
ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở
rừng núi bản địa.
.Người
Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-Thái
trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
-Thái
đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái
đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng
trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ
(Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái
trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa
danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng
là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng
(Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường
Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ
Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi
lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di
cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi
bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do đi
tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là
Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm
là “Động Páng” (động: rừng già, rừng cây
cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối
rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi
cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ
tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi
là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả
lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh
giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi
Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ”
(Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch
cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi
Khăm ” - (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
* Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là
“Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
Bài 32: MƯỜNG TRỜI
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là
Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa
là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong lòng đất). Còn
gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu - ngoài ra còn gọi
là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy
Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường Phạ là nơi cao nhất của
vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp lên mặt đất. Còn đất là
một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng
của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định hình, không
rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người
Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm Tày Dọ
(đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn
phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp
mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc
cuối).
Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông”
(quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân.
Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản
xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao
cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là
“Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then
Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng
(họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản
trông coi các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại
chung 1 Then Ná.
Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu
(đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu
(khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo
xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh và ao cá
vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó
có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một
mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn khỏe mạnh, con người được bình
an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng hết.
Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi
thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại
máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.
Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi
việc thiện, Then Tàng lo làm ra con
người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,…
Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản
lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử
phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết
(chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm -
Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.
Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần
gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ
âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi
thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường
kéo tới đây kiếm ăn - vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại
ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG
NGƯỜI
Mường Lùm: Qua tụt khỏi Mường Phạ,
xuống dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm
phạ”.
Lùm là thấp, thung lũng - Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng
phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế
giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là cõi
hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là các
bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường
(Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang
thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở
mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ
thể).
MƯỜNG
BOỌC ĐAI
Là “Mường trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ
Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ
“phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
“Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) -
Boọc còn có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống
dưới lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).
“Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía
người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.
Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần
linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi
mường, phi pú, phi huổi, phi pá…
Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can
thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn…
*
* *
Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì:
Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc
gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong),
mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…
11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum
Vang (như Ngọc Hoàng).
Hai là “Then chăng tê ba” - chữ “tê ba” gốc chữ Pali - Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” - hư
vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa
phúc, duyên phận, sang giàu…
* Tục lệ cúng Then: Có 3
lễ chính:
1. Căm xeng: Báo ngày
kiêng cấm
2. Xên kẻ: Cúng giải hạn
3. Xên hươn: Cúng nhà tức
tổ tiên
Tháng giêng Tạo kiêng kỹ
Tháng hai Tạo căm xeng
* Đêm của ngày kiêng cấm:
Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh - tượng
trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi
xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào
giỏ để đêm chúng gáy - Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để
tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của
ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm
xeng.
* Xên kẻ: Cúng đầu tháng
2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu
gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống
con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt
nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một
gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin
phúc lộc”.
* Xên hươn còn gọi Ló
Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm
lịch thành một chuỗi lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn là mời tổ tiên
về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại
để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
Bài 32: XỬA
CỎM
ÁO
NGẮN PHỤ NỮ THÁI
Trong trang phục Thái thì
cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo
hình được đẹp như thế.
Áo phụ nữ Thái có nhiều
kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc pém) gọi là
xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
“Xửa cỏm” cổ truyền vừa
là lễ phục vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ
lụa, cát bá, sa tanh) khi đi lễ thì quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn
mươi phân hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ
bán thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
Màu sắc xửa cỏm tùy thị
hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm hay nhuộm hồng nhạt
hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu nõn chuối… đó là những màu sắc được
ưa chuộng (vải tự dệt) mua của người Kinh, người Hán…, còn Váy thì màu đen, đen
nhánh, váy lụa thì nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật
mượt.
Xửa cỏm may thân áo bó
sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần
vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt chặt ôm lấy vòng eo thắt đúng lưng long,
phần trên đủ ôm lấy bộ ngực nở nang khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ
chấm tới mép cạp váy, ngang thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng,
dướn mình hay ngã về phía sau thì hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước
ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc pém” như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp
tà áo.
Về số cúc bướm (mắc pém)
có 2 ý kiến:
1. Hàng mắc pém với số lẻ
11 cặp được bố trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở
đây tượng trưng cho sự vận động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự
yên tĩnh, không động, không phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang
sống thường thiết kế với số lẻ, còn để
cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn).
Bậc cầu thang để lên
xuống nhà này hàng ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
2. Hai là: Màu nền tà áo
không trùng với màu áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng “số chẵn” với ý nghĩa
đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà
ở, “lẻ” là sự sinh sôi phát triển.
Hai ý kiến trên đều có lý
lẻ… Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi chút -
có lẽ là:
* Với con gái chưa chồng
thì Xửa Cỏm có số hàng Mắc phém số lẻ.
* Khi có chồng con rồi
thì xửa cỏm có số hàng cúc bướm số chẵn.
Cũng có thể số hàng chẵn
hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó
cân đối hợp lý là đẹp.
Xửa cỏm của phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai lần vải, khâu
đột, cổ đứng có phần gò bó cứng nhắc thì xửa cỏm của chị em Thái trắng lại bẻ
tai, chiết giấu mép, vòng cổ rộng hình trái tim mở dài hở đến trước ngực rất
mềm mại duyên dáng.
Các cô gái rất ưa kiểu
xửa cỏm này, còn các “bà xã” khi vẻ đẹp lý tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo con
tò vò không còn nữa, thì các chị rất ý tứ khi mặc xửa cỏm đã khéo léo dùng các
móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đã qua nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm
nên vẫn tạo được hình dáng thon thả gọn gang.
VÁY
THÁI:
Có nhà thơ đã cảm:
“Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng tình”
Váy (xỉn) của phụ nữ Thái
màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, vòng ống rộng gấp đôi vòng eo, cạp váy màu
trắng, còn độ dài tùy theo cao thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp
chân. Ở trong gấu váy, chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách
điệu gợi cảm:
Ai đó hát ngất ngư Phố Bản
Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe
Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Váy mặc bó sát vào mông,
tạo 1 đường cong thật đúng như một nhà Văn Trung Hoa đã khắc họa cái đẹp “phong
nhũ phi đồn” (vú nở, mông to) của người phụ nữ đang thì của thời hoạt động tình
dục mạnh mẽ, sinh con đẻ cái để nòi giống phát triển và trường tồn.
Khi mặc váy nếp phần thừa
quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước thành một đường chiết ly
thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp này không làm mất đi nét uốn lượn ở
phần hạ bán thân của người phụ nữ Thái.
Thắt lưng được làm bằng
lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi vòng eo, rộng chừng bốn năm phân, màu hoa lý hoặc
màu xanh nõn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu đỏ chói gây chú ý.
Từ nhỏ các bà, các mẹ đã dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài
yêu) để sao “Eo kíu manh po” (thắt đáy lưng con tò vò).
Khi thắt lưng thì thắt
ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch về phía bên hông một
chút. Ngày nay, nhiều cô gái đã “cải tiến” dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp
nếp - không thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo
Phan Kiến Giang)
Khách quan mà chiêm
ngường: Ngắm phụ nữ Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất
cổ điển mà vẫn hiện đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lý tưởng (như
thi hoa hậu)… chị em Thái đã rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm).
Cái váy dài tha thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm
sao chân dài thêm; còn cái xửa cỏm thì cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể
vùng trên như dồn nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra “bong ra” hiến
dâng cho người tình “của em của anh đây mà” rất gần gũi thân thương đầy chất
nhục cảm.
Khi may mặc bộ “xửa cỏm”,
chị em rất chú ý bố trí phối hợp màu sắc (các tông màu) không diêm dúa, lộng
lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng.
Váy đen nhánh thêm viền
phía trong đỏ ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà
tích bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo hình, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng tương
phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như ẩn sau đó là vùng
“âm” của tình ái…
Sự tương phản lung linh
sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất, sự hài hòa cân bằng
âm dương như “ải cắp êm” (bố với mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi,
quần Jin hiện đại vẫn không lạc mốt.
KHĂN PIÊU
“Piêu” tiếng Thái nghĩa
là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai gang tay và dài một
sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu xanh đen, còn nhấn thêm nước
vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
Khăn tuy dài nhưng khi đội
thì chỉ một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau
lưng dưới gáy, chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, còn
đoạn giữa để nguyên vải chàm thô.
Hai mép đầu Piêu được
viền một diềm vải đỏ (hay vải ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một
đoạn bằng một nửa chiều rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ
màu thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các vòng tròn nhỏ mỗi đoạn
vòng một màu. Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay 7 cút.
“Cút Piêu”; hình tượng
cây guột ở đoạn chồi là non xoắn hình trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên
đỉnh đầu hồi nhà.
Ô vải vuông ở hai đầu
khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị em… Bố cục vuông
gấm, vải đỏ thành những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với ô bao
ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh xe quay. Cũng có khi
bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo các
cạnh hình vuông, mảng vuông bên trong mới bố cục thành các ô vuông đồng tâm. Ở
lối bố cục tất cả đều là những hình vuông được thêu thành các dải hồi văn các
hình móc câu hay tam giác đồi đỉnh, hình răng cưa, hình ô trám, hình đàn khỉ,
đàn ngựa đuổi nhau chạy vòng quanh các hình vuông, còn mặt hình vuông trong
cùng thì thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến thể. Những hoa
văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự nhiên mà đã được cách
điệu thật khái quát và hình học hóa, số kiểu hoa văn tuy không nhiều, song nhờ
kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ
vừa quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
Về màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản.
Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn xanh
chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng chanh,
trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện
Biên ít màu hơn thiên về đằm thắm.
Khăn Piêu do các cô gái
Thái làm ra để dùng, để tặng bạn tình làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh
chị bên nhà chồng. Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần
thì buộc làm “địu” để địu con nhỏ. Nó
đẹp như câu hát:
“Chiếc
khăn Piêu
Thêu chỉ hồng
Theo gió cuốn
Bay về đây
Dâng trên tay…”
Nó chính là nơi lắng đọng tâm hồn (tình yêu) và phẩm chất
cao đẹp của người con gái Thái.
8/3/2012 – NK
No comments:
Post a Comment