BÀI 34. QUẮM TỐ MƯƠNG
“Truyện kể bản Mường” là
một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày những sự kiện nửa
hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cõi” cách đây khoảng gần
nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ).
Qua phần huyền thoại …
đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao
Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo
Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng
Mường Lò Luông, cùng theo có các tay chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo… tôn
họ Lò làm chủ. Lúc đó đất Mường Lò đã có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú.
Xây dựng theo Mường Lò thì Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun
Lường làm mo, Tạo Lò làm chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm,
Mường Ai.
Tạo Lò lấy vợ sinh ra 7
con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp Li, Lò Li,
Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Lò chia cho các
con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Lò Luông, Ta Đẩu “ăn” Lò cha, Lặp Li
“ăn” Lò Gia, Lò Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn”
Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường
Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao
nước đỏ.
Riêng con út Lạng Chượng
không có Mường để “ăn” - “con út không có ngựa, con út không có Mường” (giàu
con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là
các ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi tìm
Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan, chúa
bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.
Chọn ngày lành, quân Lạng
Chượng đến Mường Lùng - dốc Khau Phạ nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến
bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp
sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ý nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
Tới Mường Chai, Tạo ở đây
sợ phải dâng nhiều trâu.
Binh Chúa vượt rừng rậm,
qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến đây vấp phải
sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác
Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt
cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về
Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
Rồi sau một thời gian
nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được đất
Mường La từ Nặm Bú qua Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm
(Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của
Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa
lập mưu “Mỵ Châu - Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở
tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân Chúa tiến lên Mường
Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường
Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua,
chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt
“nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường
rộng lớn, tròn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai
hoang làm ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng Chượng làm chúa
Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe
mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng
già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường
Muổi.
Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo
Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay
làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ
sinh ra chúa Lò Lẹt.
Lò Lẹt lấy tên hiệu là
Ngu Háu (rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống Đại
Việt từ đấy.
Cứ thế, cứ thế… ghi chép
kéo dài cho tới năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh nhà Nguyễn năm thứ 2) quân
Pháp lên đánh chiếm Mường La (Thị xã). Thời đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo Điêu
Văn Tri đánh cho phải lui về - Mường Lay - Mường La, mãi sau Quan 6 ở Hà Nội
sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri hàng phục - Thế là 16 châu Thái bị Tây cai trị từ đấy
cho đến 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên…
* Bản Mường Thái dưới
thời thực dân Pháp đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890 - 1954):
- Cầm Văn Oai làm chủ
Mường Mụa (Mai Sơn)
- Ở Mường La: Tây đóng
trụ sở (kiểu tỉnh lỵ ở Tạ Bú gọi là Vạn Bú)
- Cầm Văn Hoan làm Tuần
phủ cai quản 9 châu Thái đen.
Cầm Văn Oai ở Mường Mụa
kiêm chức Quản đạo Thái đen.
Điêu Văn Tri quản đạo
vùng Thái trắng.
Bạc Cầm Hạc làm tri châu
Mường Muổi
Hoàng Văn Cấp làm tri
châu Mường Vạt
Xa Văn Cả làm tri châu
Mường Xang.
1/2/1917 Chánh xứ Lô Mét
mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Tây ở Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm
Văn Quế lên thay cha là Hoan vừa mất, Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết,
làm ma mổ 32 trâu và trồng 36 cây heo ở mộ.
Năm 1919, Quế làm nhà
ngói bắt dân mỗi “xổng” nộp 100 đồng bạc trắng.
Năm 1922 Tây bắt dân đổi
tiền “cống chảy” lấy tiền “hua cỏm” hẹn một năm phải xong, cứ 3 đồng cống chảy
được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền lắm, họ phải bán gạo, trâu với
giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con và mua hàng với giá cắt cổ như sợi vải,
thuốc lào, 1 kg muối giá 5 hào).
Năm 1931 Tây xây nhà tù
Sơn La mở đường cái ô tô đi Tạ Khoa (qua đèo Chẹn), năm 1932 Tây lại mở đường
đi Thượng Lào qua rẻo Pa Háng, rồi mở tiếp đoạn Mộc Châu về Suối Rút (đường 41)
người Thái gọi đó là đường Pha Lỉ, Pha Tổ… dân phải đi phụ đục núi phá đá nhiều
người bị chết - con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường không yên vui.
Bài 35: LỜI ĂN TIẾNG NÓI
Lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày bộc lộ nhân
cách, lối sống (tính cách) của một dân tộc. Nhiều khi chỉ một hiện tượng (một
hành xử) cũng đã để người ta có cảm tình hay khó chịu về dân tộc đó. Ví dụ có
người nhận xét:
Tính cách người Hàn Quốc qua hiện tượng lặng lẽ xếp hàng cả
tiếng đồng hồ trước giờ lên máy bay (còn người Nhật thì qua vụ sóng thần và
thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fucưxima hồi
11/3/2011 từ người dân tới ông Thủ tướng đã hành động, ứng xử như thế
nào (qua màn hình ti vi) đủ cho cả thế giới kính phục người xứ mặt trời mọc.
- Người Tàu (Trung Hoa) có
một nền văn minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch sử, nhưng khi tiếp cận với số
đông cụ thể thì lại thấy như bước vào xã hội thiếu trật tự như “vào đến phòng
đợi ở sân bay, đã thấy rất đông người ngồi la liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói
chuyện ồn ả hoặc ăn uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật của người Trung Quốc là ăn to,
nói lớn… khi lên máy bay thì xô đẩy chen lấn, la hét chửi bới nhau, rồi giành
giật chỗ để hành lý. Khi đã vào ghế ngồi yên vị rồi là họ bắt đầu mở miệng để
chuyện trò, tranh luận to tiếng như một cái chợ”.
Hai tính cách nổi bật là: Chen lấn và sẵn sang xâm phạm vào
sự riêng tư của người khác.
Về đi lại hình như người ta không bao giờ chú ý (nhường
đường) hoặc có nhường họ thì cũng không có lời cảm ơn. Về sinh hoạt thì hở cái
gì ra là mất cắp, tính vùng miền cục bộ (như ở ta là dân Nghệ Tĩnh) rất mạnh
mẽ.
Việc khạc nhổ thì người Tàu đứng số một thế giới đến nỗi
khi tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh (2008…), lãnh đạo phải có chỉ thị cấm khạc nhổ
ngoài đường phố Thủ Đô.
- Người Hà Nội: Xưa nổi tiếng là thanh lịch, hào hoa phong
nhã, thì nay xuống cấp đáng báo động: Ra đường thấy bất cứ cái gì lạ (như tai
nạn xe máy, cãi nhau) là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông. Ăn tục, nói
tục thì chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm cắp…, đái
bậy thì thôi rồi.
Tính khoe mẽ, trưởng giả, học làm sang (kể cả tham nhũng)
đang trỗi dậy, hoành hành đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật pháp diễn ra
khá phức tạp.
Còn về người Thái, qua nhiều năm “cắm bản” Nguyễn Khôi tôi
thấy có hai điều nổi bật: Chất phác thật thà (không nói dối = ba vẹo), không
trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải thì bị cộng đồng dân bản tẩy chay, xua
đuổi.
Đặc biệt trong sinh hoạt thường ngày của người Thái là nhẹ
nhàng, dịu dàng, rất ít khi to tiếng (vợ chồng ít khi cãi nhau), không đánh
mắng trẻ con, phụ nữ (phụ nữ được tôn trọng, yêu quý), trong các bữa liên hoan tiệc
tùng diễn ra khá lớp lang, trật tự - khi vui là “hát” (khắp) là xòe (xe) là hút
hai sừng trâu rượu cần, là cụng ly vài ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng
ý thì nói “đồng ý thôi” một cách nhẹ nhàng
Nói năng vào thưa
ra gửi (xo phép), gặp nhau có lời chào “khẳn qua, xiểng qua” cho tặng nhau có
lời cảm ơn chân thành và còn hẹn gặp lại. Dân bản sống với nhau kiểu công xã
thị tộc nông thôn “tắt lửa, tối đèn”có nhau, chia ngọt sẻ bùi, tình nghĩa thủy
chung.
Lời ăn tiếng nói
của người Thái được bộc bạch trong “Quăm son Côn” (lòi khuyên răn người). Đó là
những câu tục ngữ rất đậm đà bản sắc dân tộc.
- Về mặt
“xưng hô” thì:
Thẩu hịa me/ Ké hịa lua
(Già gọi Mẹ/ vừa
gọi Thím)
- Ăn xem nồi, ngồi trông hướng, có ý tứ:
Năng hảu bấng thí
Ní hảu bấng bón
(Ngồi phải xem chổ/ đi phải xem nơi)
Nung sửa bang nha ngoi táng
Nung xỉn hang nha ngoi tu
(Mặc áo mỏng (nữ) đừng đứng trước cửa sổ
Mặc váy mỏng đừng đứng trước cửa vào
ra)
Au mia bấng me nai
Sự quai bấng me tổn lang
(Lấy vợ xem mẹ vợ/mua trâu xem trâu đầu
đàn)
Thốm nặm sa lai hảu bấng chong
(nhổ nước miếng phải xem khe dát)
Khong xáu ca đi ca panh nha chăm xảu
(thấy người có của quí giá đừng sán đến
gần)
Cốn tai pợ sốp/cốp tai pợ o
(người chết vì cái miệng/ ếch chết do
lắm tiếng kêu)
Phua mia cu mưng nha va
(tình vợ chồng chớ gọi mày tao)
Quăm đi phăng cảu sok
Quăm hại hí cảu na
(chớ lời lành chôn chín tấc
Chở lời xấu dài chín xải)
Xép khẩu é kin nốt háy
Quây
khanh né xỉ nột bản
(Đói bụng tưởng ăn hết cả chõ (xôi)
Buồi cương cứng tưởng địt được (nữ) cả bản.
Nha chằm díp nha khịt ton
(Khi cầm nắm xôi chấm chớ có
Kẹp thêm miếng thức ăn (cá thịt) - tức là đừng ăn tham - xấu.
Nhay pay đón mưa đăm
(Đừng có đi trắng về đen - ăn ở hai lòng).
Nha du chăm nưa xiêu
(Đừng có xán vào vợ người khác)
Chẩu bái ngắm xiêu ngăm
(Mình không nghĩ ngợi, ý tứ gì (vô tư) thì sẽ có người khác nghĩ (nhớ) đến
mình).
Xin trích một số câu đã
trích ra tiếng phố thông:
* Người Thái có luật Mường, lệ bản.
Có thấp có cao/ biết cao biết thấp.
* Nhiều người đắp thành bờ.
Một người phá thành thác.
* Không được ba hoa
Không được nói phét
Không được sợ việc
Không được lười biếng
Không được ngủ sớm
Không được dậy trưa…
* Không được nhai chộp choạp
Không được cái không bảo có
Không được kề cà say rượu
Không được đánh vợ
Không được ăn trộm
Không được nói dối
* Ăn cơm trước khi nuốt phải nhai
Giơ dao ba lần mới chém
Nghĩ ba lần mới nói
* Bố mẹ nuôi không bằng thầy dạy
Thầy dậy không bằng tự mình làm nên
* Đông con cháu, thiếu gạo ăn
Sướng
con cu, mù con mắt.
Những cái buồn của người
Thái:
“Con dại, vợ chết, bố mẹ
mất sớm, anh em ở xa”
Vợ chồng xa nhau, bỏ
nhau, thiếu cơm, thiếu muối
Đi thuyền không có mái
chèo
Lạc rừng trời tối/ cơm
không, chẳng có thức ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc móng tay /
ve cắn lỗ tai.
Mắt mù, tai điếc
Đào con dúi hang sâu /
nói chuyện tình với gái nặng tai.
Đắp bờ phải bùn nhão.
Ăn không có bạn
Ở chẳng có phường
Đau bụng không có thuốc
Đau mắt, đói chữ chẳng có
thầy.
Anh em ghét chẳng ai
thương.
*
* *
Lai côn đi/ lai phi pương
cáy / lai mạy pên hươn chăn
(Nhiều người thì tốt /
nhiều ma thì tốn gà - phải cúng / nhiều cây thành nhà đẹp).
Đông luông báư mi mạy
Chí au săng pên pá
(núi rừng to không có cây
Thì lấy đâu thành rừng)
Lời ăn tiếng nói (tư cách
đạo đức Thái) được đúc kết thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo dục
mọi người sống, lao động trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có tình
nghĩa xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp.
Góc thành Nam
Hà Nội 19/4/2011
NK
Bài 36: TÁY
PÚ XẤC
Cùng với “quắm tố Mướng”
là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi tầm cỡ về “kể ông cha
chinh chiến”…
Táy ở đây dùng đa nghĩa,
như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể
chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.
Pú là ông nội, người tôn
kính như “Bác”, Pú ở đây là ông cha,
lãnh tụ, thủ lĩnh.
Xấc là chiến tranh: Đi
trận là Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc
phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương.
Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương - “xấc”
đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.
Nội dung thư theo lịch sử
của Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời.
Sử thi viết theo lối hát
“khắp” dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ.
Mở đầu là:
Cạy hin pẻn ke ma bốc
Nộc tót háy tai thẩy
Tai thẩy tai ti non
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt
phạk Tao, u, khong…
Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn
Chim gõ kiến chết già
Chết già tại nơi nằm
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
Cụ Tổ đổ xuống vào
mộ đồng Lò
Voi lớn chết rụng vòi ngà bên sông Thao,
nậm u, MêKông…
Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La
Mi khỏi kôn pay cón
Hảư Ải Ón uôn tang
Tốc Xả chi, Xả cha
Tốc Mương Bá, Mương Ai
Tốc Mương Chai, Mương chiến
Tốc Pák chiến ti nặm hăm
Tốc Pák Păm ti nặm hạk
Pọng cánh quen phăn hủa
Phăn hủa hảư kôn xen kôn
păn pú bải
Có chân sai đi trước
Cho Ải Ón dẫn đường
Đến Xá chi, Xá cha
Đến Mường Bá, Mường Ai
Đến Mường Chai, Mường
chiến
Đến ngả suối chiến nơi
sóng cuộn
Đến ngả suối Păm nơi nước
phèn
Pọng và Quen (quan và
dân) đóng thuyền
Đóng thuyền cho quân ức
quân nghìn cụ bơi.
Đoạn kết:
Bản
Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín
Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng
Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
Đin na tạu tin đán
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
Kọ pưa pang xên phon chu tang mãn hụ
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
Ho Luông sinh vun đắp Bản Lụa
Lại đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản
Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm Sen
Bao đất ruộng bản Mòn hãy quản
Ruộng trải tận chân lèn
Mo yên vào bản Pán
Bản thủa ông cha truyền lại không buông
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn”
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy quản
Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.
(Theo Vương Trung).
* Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ
sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều dòng họ. Bản
trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề
(TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn
tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xã hội và chính trị của một
Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi
là Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).
Trong Mường có hai loại Bản:
- Bản của dân tự do (dân páy)
- Bản của dân lệ thuộc (dân Thín).
Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường là người dòng họ
Tạo Mường - (Quý tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền lợi của Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi
“khoảng 1000 bó mạ (10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)”
truyền đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi
thôi chức vụ phải trả lại ruộng.
Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật.
* Xổng (Poọng) gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng, Xã?),
đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2),
dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo
Xổng.
Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay
chết thì dân bầu lại.
* Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường.
Chết dân bản bầu mới. Toàn bộ đất đai
trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đình Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng là
“lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho
Tạo.
Theo Quắm tố mướng thì chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng
mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất thì
mới có bản Mường. Từ khi Mường Lò (Văn Chấn, Nghĩa Lộ - quê tổ Thái đen Việt
Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành hệ thống.
Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là Ngụ (dưới
cấp Lý Trưởng “xã”). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 - 4 Xổng
thành một Mường. Từ 4 - 8 mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu
(Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp
huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Phìa (trực thuộc
Phìa).
Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính chất tự trị, không
tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong kiến sơ kỳ, có tính
cát cứ sứ quân).
BỘ
MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA - TÂY BẮC
Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do Tạo Lò đứng đầu khai phá
dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến tập quyền)
nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại)
ở các Châu Thái Tây Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng thì khi Mường Lò (mường khởi thủy) ra
đời thì có phân chia:
Họ Lướng dệt mo
Họ Lò dệt Tạo
Họ Lường (Lương) làm Thầy mo
Họ Lò làm Tạo.
Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa) Mường Lò.
Luật Mường đã xác định: Tất cả các thứ (kể cả đất đai) là
của Vua, của Tạo - đó là quyền sở hữu Nhà nước.
An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản vật
thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường phìa, Lộng, Tạo, Bản
đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
Ai săn bắn được thú to,
cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa một đôi thăn, nếu
không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải
luôn tự răn mình.
“Phít nọi sia quai
Phít lai bên
khỏi
É pảo hữ dók
mi
É pi hữ dók
tó
É khó hữ dók
tạo quan”
“Sai phạm nhỏ
mất trâu
Sai phạm lớn
thành tôi tớ
Muốn có sẹo
thì đùa với gấu
Muốn béo
(sưng mặt), thì đùa với ong
Muốn nghèo
khó thì đùa với Tạo Quan”
Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở các Châu Thái
Tây Bắc thời phong kiên - thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ
vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông
nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê
giác tới rừng tre măng quý - dân ai vi phạm đều bị phạt tiền, dân được tham gia
cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.
* VỀ
TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà)
cỏ cây, con gì.
Ở Việt Nam
có 37 mường Thái chỉ có Mường Ai là có 1 bản.
“Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị hành chính…
“Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia
như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường
Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cõi
đời.
Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):
Khột ma Phái mi mương
Tánh Mường phái mi Tạo
Khai ruộng phải có Mường
Dựng mường phải có Tạo
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ
“chiềng” bao giờ cũng có một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ
riêng. Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) - lúc
này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung
tâm của Châu mường), đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa.
Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường
Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào
lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở
thành tên của Châu mường - như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào).
Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xã) nên
gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi
là che Ái ở cách xa 10km.
Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp sang là “xã”.
Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài
là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) - Bản trung tâm của Mường Phìa ngoài cũng
gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên
Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có
tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán “chiềng” là “xã”.
Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia thành hai đẳng
cấp rõ rệt:
1. Dòng dõi quý tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Lò Cầm (đó
là họ Lò to, Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân). Họ Lò Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu
(Đeo, Tao), Hoàng.
Dòng dõi quý tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm =
Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).
Người thuộc họ quý tộc được phép tham gia giữ các chức
người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa và An Nha Châu Mường.
2. Người thuộc ngoài họ quý tộc như Lò, Lường, Cà, Tòng…
thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông
Quan hàng “Xổng”.
Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá
vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều phải đổi họ gọi là “nhập
đẳm”(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha thì phải đổi thành họ quý
tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại người họ quý tộc muốn
làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… thì cũng phải đổi họ xuống thành họ
Lường, Cà…
Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường Phìa (chế độ Phìa
Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Phìa Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ
nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội
đồng bô lão toàn mường” (Thẩu ké hang mương) do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng
đầu).
Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường Phìa ngoài thì
không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà theo cơ cấu truyền thống vòng đồng tâm
xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là
Chiềng là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16
châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) - trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu
mường khác tập hợp dưới hình thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường
lớn).
Triều đình Trung Ương từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn gọi đơn vị Mường
Luông là “đại tri châu”, đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ đại Tri
Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt các Châu Mường Thái thuộc
tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến
năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo
Hiệp định Thiên Tân ký giữa thực dân Pháp và triều đình Mãn Thanh.
Tổ chức xã hội theo các đơn vị Mường xưa là một bước đệm
chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xã hội Thái gọi là Đẳm) sang tổ
chức Quốc gia dân tộc. Thuộc ngữ “Mường” không còn là như một quốc gia dân tộc
nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đã mượn danh từ gốc Pali - SanoKis là Pa Thết
để chỉ đất nước (Mường Pa thết Lào)
Đấy cũng là lý do, trong dân gian vẫn quen gọi nước Thái
Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm hơn
mới đi từ Đẳm đến trình đô bản
mường (dưới cấp quốc gia) rồi phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt
Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở
dạng tự trị Bản Mường).
QUAN
HỆ DÒNG HỌ GIA ĐÌNH VÀ HÔN NHÂN
Người Thái có ba quan hệ
về họ hàng:
1. Ải noọng: Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đình sinh
ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay khác)-
nội tộc 4 đời.
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay thuộc khổi Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên ngoại).
Toàn cảnh thị xã Sơn
La
Ngày 29 - 4 - 1945 chủ
tịch Hồ Chí Minh (VNDCCH) ký sắc lệnh thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là
khu tự trị Tây Bắc).
Kỳ họp thứ hai Quốc hội
khóa V phê chuẩn xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội đồng nhân dân khu tự
trị Tây Bắc họp ngày 19 - 20/1/1976 tại thị xã Sơn La (thủ phủ khu tự trị) công
bố quyết định của Quốc hội (thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại
của khu tự trị.
Thành tựu: Theo báo cáo
20 năm hoạt động của khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu thì:
1, Về chiến đấu đánh bại
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Toàn khu có 82 xã trực tiếp chiến
đấu, 16 xã bắn rơi máy bay mỹ và 21 xã bắt sống giặc lái, sản xuất được giữ
vững, huy động 562000 lượt người với 95 nghìn mét khối vật liệu đá đảm bảo giao
thông phục vụ chiến đấu.
2, Kinh tế: Từ 1954 thực
hiện “cải cách dân chủ” (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đã xóa bỏ chế độ bóc lột
cuông nhốc (chế độ Phìa Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân lao
động, đã đưa 79% hộ nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp - 50% số HTX lập được
kế hoạch sản xuất hàng năm, thực hiện 3 khoán - những HTX tiên tiến như Nậm
Mùn, Bản Phủ (Lai Châu), Púng Luông, Cao Đa (Nghĩa Lộ), suối Lìn, Kim Chung
(Sơn La)…
So với năm 1955 thì sau
20 năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 228%, bình quân hàng năm tăng 16%,
diện tích trồng lúa tăng gấp 7 lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đã có 195 HTX
đạt trên 5 tấn thóc/1 ha. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn như
bò, chè Mộc Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện Biên, vùng
ngô Nà Sản…
Hàng năm khai thác 28000
m3 gỗ, 2,5 triệu cây tre nứa, 7000m3 củi, có 13 lâm
trường, 50 HTX nghề rừng.
Cây chè cả khu có 5000ha
thu 7000 - 8000 tấn/ năm.
- Về chăn nuôi: Ngay sau
ngày giải phóng 1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con trâu, 28.000 con bò,
5000 ngựa, 137.000 lợn, sau 20 năm phát triển có 140.000 trâu, 43.000 bò,
52.000 ngựa, 313.000 lợn.
Hằng năm cung cấp cho
miền xuôi: 2000 con trâu, bò cày kéo, trên 2000 tấn trâu bò thịt.
Về công nghiệp - thủ công
nghiệp: Năm 1955 mới xây dựng được xí nghiệp đầu tiên “cơ khí Thuận Châu” với
giá trị sản lượng khoảng 7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3
hào). Sản xuất công cụ: Từ 1962 phát triển công nghiệp địa phương (điện, cơ
khí, vật liệu xây dựng, may mặc, chế biến nông sản…) sản xuất tới trên 40 loại
sản phẩm, trị giá 1974 là 25 triệu đồng.
1955 cả khu
mới có 1 nhà máy thủy điện 24 KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào thì sau 20 năm đã
có hàng nghìn KW nhiệt điện, 30 trạm thủy điện nhỏ từ 5 50 KW, có 250 điểm cơ
khí nhỏ.
Giao thông:
Đã mở mấy đường ô tô liên tỉnh, xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở đường lên
vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên Trạm Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm cầu
cống lớn. Đảm bảo cho 1 đầu dân cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3 kg
dầu hỏa.
Giáo dục:
Trước 1954: 99% dân mù chữ, chỉ có 25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh.
Đến 1974 - 1975 thì đã có 1974 lớp mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp vỡ lòng với
49.982 học sinh, 449 trường phổ thông cấp 1 (tiểu học) với 24.989 học sinh, 107
trường cấp 2 (Trung học cơ sở) với 14.461 học sinh và 13 trường PT cấp 3 với
2193 học sinh, có trường dân tộc nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350
- 400 em theo học từ vỡ lòng đến cấp 2.
Y tế: 90% xã
có trạm y tế, có 40 bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường .
Văn hóa văn
nghệ được phát triển.
Chính trị: Có
17 đại biểu Quốc hội khóa V (trong đó 13 là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các
cấp: Số cán bộ người daan tộc chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ
865 lên 9575 người, số có trình độ trung học, đại học là 934 người trong số
8722 người), số cán bộ lãnh đạo các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người
(1974).
Trích báo cáo do
ông Lò Văn Hặc
Chủ tịch UBHC khu tự trọ Tây Bắc trình
bày./.
Bài 39: LUẬT TỤC THÁI
(hồ Thuận Châu)
Luật tục Thái là một luật
lệ bản Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất lớn của chúa đất mà cao
nhất là An Nha (1 châu)
Luật tục Thái phân biệt
rạch ròi với 47 loại người và 17 loại tội phạm trong xã hội.
Luật tục quan tâm cả các
đấng thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của
con người đối với thiên nhiên, trời đất, núi sông, rừng rú.
Đây là cơ sở để thi hành
công lý, ngăn ngừa tội ác, là đạo lý làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật tục
riêng.
- Phần đạo làm người: là
những quy ước ứng xử cá nhân
- Phần tục lệ cưới xin
- Tang ma………….ví dụ
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở THUẬN CHÂU
Mở đầu: nói chút về lịch
sử người Thái theo Quắm Tố Mướng.
1. Ranh giới đất Mường
Muổi:
Tục ngữ có câu “Mườnng
Muổi rộng phía sông Mã, Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng
(ngũ), lộng, quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Phìa:
- Mường Muổi (Chiềng Pha)
là mường trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các mường phìa phía ngoài có:
* Mường Lầm phía sông Mã,
vua kinh gọi là Nam Trịnh
* Mường Sại phía Sông Đà,
vua kinh gọi là xã Khinh Khoái.
* Mường Piêng (xã Thanh
Bình)
* Chiềng Pấc (Trịnh Bắc)
Mỗi một Mường Phìa chia
nhiều bản, nhiều Giáp. Giáp nào ở xa Mường thì gọi là “lộng”, lộng bé thì gọi
là Quen. Mỗi một Mường Phìa chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người
Thái quen gọi là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngõ Mường phía
ngoài có 3 xổng ngụ.
2, Phong cấp bậc hàng
châu được xếp đặt theo lệ như sau:
- An Nha là gốc của Bản
Mường (Tri Châu) giúp việc có Phìa Thổ (thư lại) phìa thông (thông lại). Mường
phìa có Phìa Lý (vua kinh gọi là Lý trưởng); phìa phó (phó lý) 2 phìa này coi
trông bản Mường mình. Có 8 chức ông ở Xổng (vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen
(pằn) đến tận ông chá hườn.
Có ông mo, ông nghè, ông
chang, giúp quản lý luật lệ, cúng tế.
3, Quyề n lợi bổng lộc
các quan chức.
An Nha ăn 10 mẫu ruộng
trong phạm vi bản chiềng đi (chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng
Châu: mỗi mẫu phải nộp một tạ thóc.
Án Nha có 9 bản nhốc (làm
dịch vụ)
Thư lại ăn 6 mẫu ruộng Chiềng
Đi hưởng 3 bản nhốc.
Thông lại ăn 5 mẫu ruộng
Chiềng Đi, 3 bản nhốc.
Phìa lý (lý trưởng) ăn 5
mẫu ruộng, phó lý ăn 3 mẫu ruộng.
Ông xen đứng đầu Xổng Pằn
ăn 8 mẫu
Ông Pọng đứng đầu Xổng
Pọng ăn 6 mẫu
Ông Ho Luông đứng đầu
Xổng Ho Luông ăn 4 mẫu ruộng
Ông Pọng Cang đứng đầu
Xổng Phọng Cang ăn 3 mẫu ruộng
Ông quan xư (ho cang) ăn
2 mẫu (giúp việc ông Xổng Phọng Caug)
Ông Ho Hé ở bản Lăng ăn 2
mẫu giúp việc ông Xổng Pằn.
Ông Pụa ở bản Púng ăn 2
mẫu giúp việc ông Xổng Pọng.
Ông Chá hươn ở bản Lẹng
ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông.
Khi Phìa xức nộp thuế thì
ông Xổng phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu dân Mường phải nộp đầy
đủ.
Khi Phìa xức phu phen
xuống đến xổng nào, thì ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi phu từng nhà…ông
Xổng dẫn phu nộp cho Phìa
Lúc nào An Nha, phìa cần
gì thì gọi ông Xổng tới hầu
Mỗi xổng có:
Quan pách: về tư pháp (ăn
1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
Dưới quan pách mỗi xổng
có 2 giúp việc là Quan Phòng
Dưới quan phòng mỗi xổng
còn có 2 Quan chiềng quản lý việc xây dựng nhà cửa, đốc thuế, mường phai, cúng
mường, Quan chiêng ở xổng nào thì do người ở đó làm …vv…
Mỗi bản có quan bản (tạo
bản) giúp việc có chá bản, 1 bản có 7-8 mẫu thì quan bản được 3,5-4 sào.
Ở Mường Muối ngoài 4 xổng
ở trong Mường còn có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi, Chiềng Đa)
mỗi Lộng có 1 Tạo Lộng.
Mỗi Lộng có bản Quen
(Ken), do 1 Tạo Quan đứng đầu
4, Lệ xin làm chức dịch:
Ai có tên Quảng, tên xự
(được Bản mường) đặt cho thì mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp lên
cao, có “tiền xin chức” nộp cho An Nha (tri châu).
5, Về kiện cáo, phạt
vạ:
Án Nha có quyền phạt vạ
thu từ 1,2 nến đến 12 nén bạc
Thư lại được phạt vạ từ
1,2 - 6 nén bạc
Quan chiềng, quan chá,
quan bản được phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc).
6, Quy định về phu phen
tay dịch
7, Về bắn súng nhầm, làm
cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
- Dựng 1 cây “heo” có 20
vải cờ
- Mổ 1 con trâu tang lễ
- Tiền xuống nước, xuống
lửa 3 lạng bạc
- Tiền đắp cản nước mắt
1,3 nén bạc
Làm cháy nhà mình để lây
sang nhà khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu
8, Săn được thú to phải
biếu xén:
- Đùi to sau biếu An Nha,
các phìa
- Thịt thăn to biếu ông
Xen
- Đường thịt thăn trong
biếu ông Pọng
- Thăn treo biếu ông Ho
Luông ..vv…
9, v.v làm cuông nhốc:
quy định như sau:
Những bản phải làm cuông
nhốc trong mường làm theo Luật định, bản ở xa ở xổng nào thì làm cho xổng đó.
Các chức dịch phải dẫn dân
cuông nhốc bản mỉnh được đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
Người Xá Khao (Kháng) ở
bản nào đều phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo không phải làm cuông nhốc nhưng
phải nộp thuế, nộp lợn gà cúng tế ở mường.
10, V.v làm cho người
(nữ) bị chửa hoang và chửa trước khi thành vợ:
- Án Nha, thư lại thông
lại bị tội này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng) bị phạt 6
nén.
- Con chức dịch (Tạo và
nàng) đi chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc
Đàn bà góa nhà Án Nha phìa
tạo tội chửa hoang phạt 12 nén bạc.
- Ai đó ngoại tình: phạt
12 nén bạc
- Làm chửa không chịu lấy
(kể cả gái) bị phạt cho cả 2 phía.
- Quan chức bị phạt được
An Nha giảm ½ số bạc.
11. Xử phạt trộm cắp:
- Ăn cắp hoa màu phạt 1,2
nén bạc, nếu là con nhà chức dịch thì bị tăng gấp 2
- Ăn cắp thóc lúa: đền gấp
2, phạt 1,2 nén bạc.
- Ăn cắp trâu bắt làm tôi
đòi (nô lệ) cho Phìa Tạo, nếu không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu)
12. Ngoại tình:
- Vợ ngoại tình: nếu
chồng bắt được có quyền giết chết, đánh đập kể cả tình nhân, không coi bị án
mạng, kiện thì được 12 nén bạc
- Đàn ông ngoại tình: bị
chồng người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc.
13. Bổng lộc cho các
quan trong phòng cúng lễ:
- Ông Mo ở bản Pán hưởng
3 mẫu ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc
- Ông Nghè ở bản Pán
hưởng 1 mẫu ruộng và 1 bản làm nhốc…
14. Đất nước, rừng và
cúng lễ:
Mường bản chỗ nào mà
chẳng có ma (phi) phù hộ: cấm không được vi phạm những nơi sông, núi, ao
thiêng…
15. Cúng Mường: tục lệ
quy định là:
1/- Xên cha (lễ cúng Mường)
là lớn nhất thuộc lệ hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha…
2/ Xên Mường: lễ có 1
trâu, 1 bò, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy” của nhà An
Nha.
3/, Xên kẻ khó Mường
(cúng giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1 chó cúng ở nơi “cửa hồn
chiềng” phía “cửa xen” phía trên Mường mé cuối dòng suối.
4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ
như trên làm ở “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
5/, Cúng tiễn tối tớ ma
nhà:…. Dựng lều ở sân nhà An Nha.
6/, Lễ cúng điều lành.
7/, Tế đen trắng: 2 trâu
1đen/1 trắng cúng hồn Mường và họ ngoại Tạo ĂmPoi.
8/, Tế ở cửa suối Muội:
Cửa sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường Sại. Đó là nơi cụ
chủ “Ngu Háu Cầm Lò Lẹt” đã dựng nhà cúng tế tổ họ Tạo - tổ tông người Thái
đen: 1 trâu đen.
16. Lễ cúng cho mỗi
người, mỗi nhà.
Bài 40: QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC
Người Thái ở Sơn La,
trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp
quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo và con em họ
thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương.
Thời Lê Trịnh, triều đình
đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường.
- Châu Phù Hoa (Phù Yên):
Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.
- Châu Mộc; phụ đạo là Xa
Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu nhà Lê).
- Châu Mai: Phụ đạo là Hà
Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập.
- Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm
Nhâm Tuần
- Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang.
- Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính.
- Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.
- Thời xã hội chủ nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có
1/ - Gia đình nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa,
em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội,
ông có nhiều công trình giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng
Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.
Con trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông
nghiệp Việt Nam.
2/ - Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây
bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác.
3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh
ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.
4/ - Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu,
chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.
5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên)
Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ - Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ
thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).
8/ - Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng tá, chủ
tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.
9/ - Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mã,
đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.
10/ - Nhà thơ Lò Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
11/ - Họa sĩ Lò An Quang (Bản Cọ, TX)
12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích
13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc”
“Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
14/ - Nhà thơ Vương Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội nhà văn VN.
Tác phẩm: Ing Éng (thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú
Xấc, Chương Han.
15/ - Nhà thơ Lò Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông Mã) Hội viên hội nhà
văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Lò Văn Cậy.
16/ - Nhà thơ Lò Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp.
17/ - Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ
môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc học.
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát)
19/ - Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
Đặc điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện,
tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có
năng lực quản lý (cai trị) có tín nhiệm với trung ương.
Từ sau khi tái lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ
tịch UBND tỉnh), Cầm Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội),
Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là
ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND
tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân
Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu
biểu, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây
dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Bài 41 TANG LỄ THÁI
Nghi thức chung: nhà nào
có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi
phát tang.
Chết, rất kiêng kỹ ngày
“mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu
coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”.
Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).
Sau khi tắt thở: con cháu
vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng
vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải
căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây
tre
cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để
treo
áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải
vải màu
trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7
xải, tuổi
trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây
cao buộc
con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để
hồn có
ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ
cho ngựa
(gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông
thầy Mo
cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy Xam háp bung,
Xam háp khẩu nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh
đem theo nồi).
Cây nêu bên mộ sau 1
tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng
cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết
làm, gần gũi với tang chủ.
Khi khâm niệm (cộn pang)
phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc
hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên
quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài,
con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài,
con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi
phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi
quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và
chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có
thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc:
mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1
thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ, xin
nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải trắng
lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công
đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu
làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
Sau khi viếng, cúng…đem
thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất
cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi
châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
Tục ngữ có câu “cốc cồ
lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai
biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
1, Tháp Mường Và: ở Sốp
Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mã, là Tháp của dân tộc Lào).
2, Đền thờ vua Lê Thái
Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.
Là vua trẻ anh minh, vua
đã 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào tháng 3 năm canh thân
1440 và 1441 trên vách đá (núi) nhìn xuống cánh đồng Chiềng An có khắc 1 bài
thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ và mong
thiên hạ thái bình. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá còn rõ nét ở cửa Động La.
Đền thơ vua Lê Thái Tông
mang dáng dấp đền cổ Việt Nam
(khởi công 9/2001, khánh thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và là nguyện vọng
chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề.
Theo Đại Việt sử ký toàn
thư thì 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch Nghiễm ở
Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản.
Vua thân chinh điều khiển
6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương
nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân
trở về, để lại bài thơ khắc trên vách hang Thẳm báo kế:
Nghĩ đến người xa đêm khổ
tâm,
Thổ tù sao lại dám quên
thân
Thế gian đã có anh hùng
chúa,
Thiên hạ ai tha kẻ nghịch
thần…
Đường xá khó khăn đừng
cậy hiểm,
Hang cùng đá ấm áp hơi
xuân
Yên được dân lành nhơ
nhớp hết,
Dân xa được hưởng tấm
lòng nhân.
(Năm đầu niên hiệu Đại
Bảo)
Canh thân 1440.
Nguyên văn chữ Hán là:
Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn
chân,
Man tù hà sự tốc vong
thân.
Thế gian nhược hữu anh
hùng chủ,
Thiên hạ thùy dung phản
nghịch thần.
Ồ đạo duyên vân không thị
hiềm,
Âm nhai rương noãn kỷ
diên xuân.
Cách trừ ô nhiễm an dân
thiện
Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí
nhân.
3, Di tích nhà tù Sơn La
trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm 1908, giai đoạn 1930 -
1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng Việt Nam với các tên
tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh
Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn,
Hoàng Tùng, Tô Hiệu.
4, Nghĩa trang liệt sỹ Tô
Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân đèo Khau Cả phía quốc lộ 6
lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).
5, Sân bay Nà Sản: Tháng
10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào Nà sản…đã làm quân Pháp mở ra
bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ của
máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây dựng cứ điểm
Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ Nà Sản là để ngăn quân ta
tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng
không vận sau 1 thời gian cầm cự.
6, Ngã ba Cò Nòi: nơi đây
được Tây gọi là “ngã ba tử địa” chỉ
trọng năm ngày từ mùng 1 đến 5/4/1954, máy bay quân Pháp đã dội xuống đây 36
tấn bom để hòng ngăn chặn quân ta… Địa
danh Ngã Ba Có Nòi đã đi vào trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài
tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên
Phủ.
7, Di tích cách mạng Lào
ở bản Lao Khô, Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
8, Di tích lịch sử Kỳ Đài
Thuận Châu: ở cách trung tâm huyện lỵ
Thuận Châu (Chiềng Ly) 1 km về phía tây. Ngày 7-5-1959 kỷ niệm 5 năm ngày chiến
thắng Điện Biên Phủ và 4 năm ngày thành lập khu tự trị Thái Mèo, Bác Hồ cùng
đoàn Đại biểu chính phủ (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà thơ Tố Hữu, Bộ trưởng y
tế Phạm Ngọc Thạch) lên thăm đồng bào và chiến sỹ Tây Bắc… đã được tổ chức một
cuộc mét ting lớn ở đây (thủ phủ Khu tự trị lúc bấy giờ)
Bài 43. ĐÈO PHA ĐIN
Nơi trời ghé
xuống hôn mặt đất
Núi vồng lên
ôm ấp mây trời
Cứ như thể ta
bay vào bát ngát
Giữa đất trời
hạnh phúc sóng đôi
(NK)-
Tên đèo Phạ là trời, Địa là đất(còn gọi là
Vách trời), hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận
Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao
nhất 1648 mét, nơi có cột truyền hình nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc
đèo 10% - 19%.
Ở chiến dịch Điện Biên
Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên
của quân ta.
Từ năm 2006 - 2009 sửa
Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái
Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng.
Đèo Pha Đin có thể coi là
thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng gió, sương mù, mây
ngợp luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cõi thần tiên khi ta lên tới đỉch.
10/3/2012.
Bài 44: SUỐI, MÓ NƯỚC NÓNG
1, Suối nước nóng Bản
Mòng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối
nước nóng bản Mòng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng tốt cho điều
trị khớp, thần kinh…
2, Suối nước nóng Ngọc
Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa
nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da.
3, Mỏ nước thần ở bản Miềng,
xã Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.
4, Chỗ bản Ít tong (huyện
lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút, nóng
gần 50o đượm mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
No comments:
Post a Comment